Các chính sách ưu đãi dành cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa từ 1/1/2018
Các chính sách ưu đãi dành cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa từ 1/1/2018

Các chính sách ưu đãi dành cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa từ 1/1/2018


Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017 có hiệu lực từ ngày 1/1/2018 cho phép các doanh nghiệp nhỏ và vừa được áp dụng nhiều ưu đãi như hỗ trợ tiếp cận tín dụng, hỗ trợ công nghệ, mặt bằng sản xuất, có hạn mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn mức thuế suất thông thường áp dụng cho doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp, được áp dụng các thủ tục hành chính thuế và chế độ kế toán đơn giản theo quy định của pháp luật về thuế, kế toán.

Những nội dung ưu đãi này được quy định cụ thể tại Chương II như sau:

Điều 8. Hỗ trợ tiếp cận tín dụng

1. Trong từng thời kỳ, Chính phủ quyết định chính sách hỗ trợ tổ chức tín dụng tăng dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa; khuyến khích tổ chức tín dụng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa dựa trên xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp và biện pháp phù hợp khác; khuyến khích thành lập tổ chức tư vấn độc lập để xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp nhỏ và vừa.

2. Doanh nghiệp nhỏ và vừa được cơ quan, tổ chức, cá nhân hỗ trợ xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh khả thi, tăng cường năng lực quản trị, kỹ năng quản lý, minh bạch hóa tài chính của doanh nghiệp để nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng.

3. Doanh nghiệp nhỏ và vừa được cấp bảo lãnh tín dụng tại Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định tại Điều 9 của Luật này.

Điều 9. Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa

1. Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa là quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập.

2. Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa thực hiện chức năng cấp bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Việc bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa dựa trên tài sản bảo đảm hoặc phương án sản xuất, kinh doanh khả thi hoặc xếp hạng tín nhiệm của doanh nghiệp nhỏ và vừa.

3. Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa phải thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết; không được từ chối bảo lãnh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa đủ điều kiện được bảo lãnh.

4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 10. Hỗ trợ thuế, kế toán

1. Doanh nghiệp nhỏ và vừa được áp dụng có thời hạn mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn mức thuế suất thông thường áp dụng cho doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp.

2. Doanh nghiệp siêu nhỏ được áp dụng các thủ tục hành chính thuế và chế độ kế toán đơn giản theo quy định của pháp luật về thuế, kế toán.

Điều 11. Hỗ trợ mặt bằng sản xuất

1. Căn cứ vào điều kiện quỹ đất thực tế tại địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định bố trí quỹ đất để hình thành, phát triển cụm công nghiệp; khu chế biến nông sản, lâm sản, thủy sản, hải sản tập trung cho doanh nghiệp nhỏ và vừa phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt.

2. Căn cứ vào điều kiện ngân sách địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định hỗ trợ giá thuê mặt bằng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp trên địa bàn. Thời gian hỗ trợ tối đa là 05 năm kể từ ngày ký hợp đồng thuê mặt bằng.

3. Việc hỗ trợ giá thuê mặt bằng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa quy định tại khoản 2 Điều này được thực hiện thông qua việc bù giá cho nhà đầu tư hạ tầng khu công nghiệp, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp để giảm giá cho thuê mặt bằng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Số tiền bù giá được trừ vào số tiền thuê đất hoặc được hỗ trợ từ ngân sách địa phương.

4. Việc hỗ trợ mặt bằng sản xuất quy định tại Điều này không áp dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhỏ và vừa có vốn nhà nước.

Điều 12. Hỗ trợ công nghệ; hỗ trợ cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung

1. Nhà nước có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa nghiên cứu, đổi mới công nghệ, tiếp nhận, cải tiến, hoàn thiện, làm chủ công nghệ thông qua các hoạt động nghiên cứu, đào tạo, tư vấn, tìm kiếm, giải mã, chuyển giao công nghệ; xác lập, khai thác, quản lý, bảo vệ và phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp.

2. Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập hoặc tham gia thành lập theo hình thức đối tác công tư cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung. Doanh nghiệp và tổ chức đầu tư, kinh doanh khác được thành lập cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung.

3. Cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung được hưởng các hỗ trợ sau đây:

a) Miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp theo quy định của pháp luật;

b) Miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp có thời hạn theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp.

Điều 13. Hỗ trợ mở rộng thị trường

1. Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập hoặc tham gia thành lập chuỗi phân phối sản phẩm theo hình thức đối tác công tư. Doanh nghiệp và tổ chức đầu tư, kinh doanh khác được thành lập chuỗi phân phối sản phẩm.

2. Doanh nghiệp, tổ chức đầu tư, kinh doanh chuỗi phân phối sản phẩm có ít nhất 80% số doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cung ứng cho chuỗi sản phẩm sản xuất tại Việt Nam được hưởng các hỗ trợ sau đây:

a) Miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp theo quy định của pháp luật;

b) Miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp có thời hạn theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp.

3. Doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ được hưởng ưu đãi trong lựa chọn nhà thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu.

Điều 14. Hỗ trợ thông tin, tư vấn và pháp lý

1. Các thông tin sau đây được công bố trên Cổng thông tin quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, trang thông tin điện tử của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp:

a) Thông tin về kế hoạch, chương trình, dự án, hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa;

b) Thông tin chỉ dẫn kinh doanh; thông tin về tín dụng, thị trường, sản phẩm, công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp;

c) Các thông tin khác theo nhu cầu của doanh nghiệp phù hợp với quy định của pháp luật.

2. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xây dựng mạng lưới tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ tư vấn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (sau đây gọi là mạng lưới tư vấn viên). Doanh nghiệp nhỏ và vừa được miễn, giảm chi phí tư vấn khi sử dụng dịch vụ tư vấn thuộc mạng lưới tư vấn viên.

3. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan, tổ chức, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện các hoạt động sau đây để hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa:

a) Xây dựng, quản lý, duy trì, cập nhật, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu về pháp luật;

b) Xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình hỗ trợ pháp lý để cung cấp thông tin, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, tư vấn pháp luật.

4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 15. Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực

1. Doanh nghiệp nhỏ và vừa được miễn, giảm chi phí tham gia các khóa đào tạo có sử dụng ngân sách nhà nước về khởi sự kinh doanh và quản trị doanh nghiệp, đào tạo nghề cho lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

2. Nhà nước tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo trực tuyến, chương trình đào tạo trên các phương tiện thông tin đại chúng khác cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; hỗ trợ hoạt động đào tạo trực tiếp tại doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực sản xuất, chế biến.

3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.”

 

Nếu quý khách có nhu cầu thành lập doanh nghiệp ngay lúc này, hãy thử tham khảo Dịch vụ thành lập doanh nghiệp của chúng tôi và liên hệ qua hotline: 1900.0191, chúng tôi luôn có mặt bất kỳ lúc nào để phục vụ quý khách./.

Trân trọng!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Giảm phí công chứng hợp đồng mua bán tài sản đấu giá
Giảm phí công chứng hợp đồng mua bán tài sản đấu giá

Ngày 20/11/2017, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 111/2017/TT-BTC sẽ có hiệu lực từ ngày 11 tháng 12 năm 2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 257/2016/TT-BTC ngày 11 tháng 11 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý, sử dụng phí công chứng; phí chứng thực; phí thẩm định tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề công chứng; phí thẩm định điều kiện hoạt động Văn phòng công chứng; lệ phí cấp thẻ công chứng viên. Theo đó, Thông tư số 111/2017/TT-BTC quy định giảm mức thu phí công chứng đối với việc công chứng hợp đồng mua bán tài sản đấu giá (tính trên giá trị tài sản được bán) so với quy định hiện hành, cụ thể như sau:
1. Tài sản có giá trị dưới 5 tỷ đồng, mức thu 90 nghìn đồng/trường hợp (giảm từ 100 nghìn đồng/trường hợp xuống còn 90 nghìn đồng/trường hợp);
2. Tài sản giá trị từ 5 tỷ đồng đến dưới 20 tỷ đồng, mức thu 270 nghìn đồng/trường hợp (giảm từ 300 nghìn đồng/trường hợp xuống còn 270 nghìn đồng/trường hợp);
3. Tài sản có giá trị trên 20 tỷ đồng, mức thu 450 nghìn đồng/trường (giảm từ 500 nghìn đồng xuống còn 450 nghìn đồng/trường hợp).

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Các điều kiện khởi kiện vụ án hành chính:

– Điều kiện về chủ thể khởi kiện

Người khởi kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền, lợi ích bị xâm hại bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, việc lập danh sách cử tri.

Người khởi kiện có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi tố tụng Hành chính hay không. Trường hợp đương sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng hành chính, trừ người mất năng lực hành vi dân sự hoặc pháp luật có quy định khác. Trường hợp đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng hành chính thông qua người đại diện theo pháp luật. Trường hợp đương sự là cơ quan, tổ chức thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng hành chính thông qua người đại diện theo pháp luật.

– Điều kiện về đối tượng khởi kiện theo Điều 28 Luật tố tụng Hành chính 2010 là quyết định hành chính, hành vi hành chính, trừ các quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức; Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân; Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống; Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh.

– Điều kiện về thời hiệu khởi kiện theo Điều 104 Luật tố tụng Hành chính 2010, xác định sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác làm cho người khởi kiện không khởi kiện được trong thời hạn quy định.

– Điều kiện về thủ tục khởi kiện như Hình thức khởi kiện Điều 105, xác định ngày khởi kiện Điều 106, thời hạn thụ lý vụ án Điều 107,…


 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu mùi hương theo luật quốc tế và khả năng được công nhận và áp dụng tại Việt Nam.

Trong thời đại kinh tế tri thức hiện nay, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là một trong những vấn đề mà các nước ngày càng quan tâm và đã trở thành vấn đề mang tính toàn cầu. Có thể thấy rõ dù ở cấp độ quốc tế hay cấp độ quốc gia, chế độ bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đã có những bước phát triển đáng kể. Nhãn hiệu là một trong những đối tượng quan trọng của quyền sở hữu công nghiệp. Đây là yếu tố gắn liền với hoạt động sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời cũng là dấu hiệu giúp người tiêu dùng lựa chọn được sản phẩm/dịch vụ từ nhà sản xuất, cung cấp có uy tín. Chính vì vậy việc sử dụng và tạo dựng uy tín cho nhãn hiệu luôn được các doanh nghiệp chú trọng.

Nhãn hiệu với vai trò dùng để phân biệt sản phẩm/dịch vụ của các nhà cung cấp khác nhau theo đó cũng vượt ra khỏi khuôn khổ quan niệm truyền thống. Trong xã hội hiện đại, lý do mà các doanh nghiệp lựa chọn sử dụng các loại nhãn hiệu mới – nhãn hiệu phi truyền thống (NHPTT) là vì NHPTT có ưu thế giúp người tiêu dùng có thể cảm nhận được trực tiếp và nhanh hơn, giúp cho doanh nghiệp chiếm được ưu thế trong hoạt động cạnh tranh, phù hợp với các loại hình sản phẩm/dịch vụ gắn với công nghệ tiên tiến, phương thức kinh doanh mới, hiện đại. Một trong những loại NHPTT được quan tâm nhất hiệu nay là nhãn hiệu mùi hương. Trong các loại nhãn hiệu, mùi hương được đánh giá là loại dấu hiệu có khả năng tạo ra sự phân biệt tốt nhất. Bởi nó có thể tác động được tới hầu hết người tiêu dùng, bao gồm cả người khiếm thính (không tác động bằng nhãn hiệu âm thanh) và khiếm thị (không nhận tác động bởi nhãn hiệu hữu hình). Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của việc đăng ký nhãn hiệu mùi hương, việc bảo hộ nhãn hiệu (BHNH) này cũng sẽ mang lại thách thức cho các doanh nghiệp cũng như cơ quan quản lý nhãn hiệu. Bởi vậy, tác giả tiến hành nghiên cứu đề tài “Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu mùi hương theo luật quốc tế và khả năng được công nhận và áp dụng tại Việt Nam” nhằm cung cấp những thông tin cần thiết và hữu ích về vấn đề BHNH mùi hương, từ đó đưa ra một số kiến nghị và giải pháp về vấn đề này.

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn việc bảo hộ nhãn hiệu mùi hương theo luật quốc tế, cụ thể là trong các điều ước quốc tế, trong các hiệp định đa phương mà Việt Nam là thành viên, theo pháp luật Hoa Kỳ và theo pháp luật Liên minh Châu Âu.

Mục đích nghiên cứu là trên cơ sở kế thừa và phát triển các công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước làm rõ nội dung các quy định của luật quốc tế về nhãn hiệu mùi hương, kết hợp với thực tiễn và có liên hệ một số quốc gia, từ đó đánh giá, đưa ra những kiến nghị nhằm công nhận và áp dụng bảo hộ nhãn hiệu mùi hương tại Việt Nam.

Phương pháp nghiên cứu

            Để thực hiện đề tài nghiên cứu, một số phương pháp chủ yếu được tác giả sử dụng như:

            Phương pháp thống kê, tổng hợp: Nhằm tìm kiếm, tập hợp những tài liệu có liên quan đến đối tượng nghiên cứu để phục vụ cho quá trình nghiên cứu thực hiện để tài.

            Phương pháp so sánh, đánh giá: Nhằm giúp bài nghiên cứu có cái nhìn đa chiều về vấn đề cần nghiên cứu từ đó rút ra được những kết luận, kiến nghị có tính chính xác và khoa học.

            Phương pháp phân tích: Nhằm làm rõ các vấn đề lý luận về vấn đề cần nghiên cứu

Kết cấu của đề tài

            Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, nội dung của bài nghiên cứu gồm 4 chương:

            Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu những vấn đề liên quan đến đề tài.

            Chương 2. Những vấn đề lý luận về bảo hộ nhãn hiệu mùi hương.

            Chương 3. Thực trạng pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu mùi hương theo luật quốc tế và theo pháp luật Việt Nam.

            Chương 4. Một số kiến nghị nhằm công nhận và áp dụng bảo hộ nhãn hiệu mùi hương tại Việt Nam.

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

            Trong các đối tượng sở hữu công nghiệp, nhãn hiệu là một trong các đối tượng hiện nay được đăng ký bảo hộ nhiều nhất ở các nước phát triển cũng như đang phát triển. Chính vì vậy, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều cơ quan, ban ngành cũng như các nhà khoa học, các chuyên gia và các cơ sở đào tạo luật. Bên cạnh đó, cũng có nhiều cuộc hội thảo được tổ chức liên quan đến vấn đề này như: Hội thảo về hiệp định TRIPS, Hội thảo về các đối tượng sở hữu công nghiệp mới ở Việt Nam,… Ngày 22 tháng 8 năm 2019, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1068/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược Sở hữu trí tuệ đến năm 2030. Chiến lược do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì xây dựng, với sự phối hợp của các Bộ, ngành liên quan và sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới. Đây là lần đầu tiên Việt Nam ban hành một chiến lược mang tầm quốc gia về sở hữu trí tuệ, đánh dấu một bước phát triển mới trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, khẳng định sở hữu trí tuệ là công cụ quan trọng góp phần thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo cũng như phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Việc giảng dạy về pháp luật Sở hữu trí tuệ cũng ngày càng được chú trọng, “Giáo trình Pháp luật Sở hữu trí tuệ” của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân và “Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ” của Trường Đại học Luật Hà Nội cũng đã đặt ra những khái niệm cũng như phân tích những vấn đề pháp lý liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nói riêng. Tuy nhiên, các công trình này mới chỉ dừng lại ở các vấn đề cơ bản về nhãn hiệu mà chưa đi sâu vào nhãn hiệu phi truyền thống, cụ thể là nhãn hiệu mùi hương.

            Bên cạnh đó, đã có nhiều bài viết về NHPTT như “Tổng quan về nhãn hiệu phi truyền thống” từ Trung tâm nghiên cứu, Đào tạo và Hỗ trợ, Tư Vấn Cục Sở hữu trí tuệ (2020), “Quy định về bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống của một số quốc gia và kinh nghiệm cho Việt Nam” của tác giả Trần Cao thành đăng trên Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam (2020), “Thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống ở Việt Nam trong vòng một thập kỷ qua và những thách thức cần lưu ý” theo Công ty luật Bross & Partners (2019),…

Đối với nhãn hiệu mùi hương nói riêng, trên thế giới đã xuất hiện xu hướng sử dụng nhãn hiệu này, tuy nhiên do đặc tính phân biệt bằng khứu giác nên việc chấp nhận bảo hộ nhãn hiệu này còn chưa phổ biến ở hầu hết các nước, trong đó có cả Việt Nam. Năm 2017, bài viết “Chế định đăng ký nhãn hiệu mùi hương theo pháp luật Hoa Kỳ” của các tác giả Nguyễn Hồ Bích Hằng, Nguyễn Xuân Mỹ Hiền, Huỳnh Thanh Thịnh được đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 05 (108)/2017 là nguồn tư liệu tham khải rất quan trọng. Năm 2020, dựa trên cơ sở kết quả Nhiệm vụ khoa học “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu âm thanh và mùi” do Trung tâm Nghiên cứu, Đào tạo và Hỗ trợ, Tư vấn Cục Sở hữu trí tuệ chủ trì thực hiện, Trung tâm đã tổng hợp các nội dung chính và phân tích những vấn đề mới về nhãn hiệu phi truyền thống nói chung và đi sâu phân tích các khía cạnh liên quan đến nhãn hiệu mùi nói riêng qua bài viết “Bảo hộ nhãn hiệu mùi”. Ngoài ra, còn có một số nguồn tài liệu đề cập nhãn hiệu mùi hương như bài đăng “Bảo hộ nhãn hiệu “mùi” của một số quốc gia trên thế giới” của tác giả Bùi Thị Phương (2017) và bài viết “Thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu âm thanh và mùi ở các nước phát triển và gợi ý cho Việt Nam” của tác giả Nguyễn Khánh Linh đăng trên Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam (2020).

1.2. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ KẾ THỪA

                Nhìn chung, trên thế giới, đặc biệt một số quốc gia phát triển như Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu EU, các nhà nghiên cứu đã và đang chú trọng tới việc bảo hộ nhãn hiệu mùi hương nói riêng và nhãn hiệu phi truyền thống nói chung với rất nhiều những công trình nghiên cứu từ tổng quan đến chuyên sâu trên cả hai khía cạnh nghiên cứu và thực tiễn, đặt ra những nền tảng chung và góp phần thúc đẩy sự phát triển của nhãn hiệu mùi hương nói riêng và nhãn hiệu phi truyền thống nói chung trên phạm vi toàn thế giới. Đề tài đã kế thừa những quan điểm về mặt lý luận và học hỏi từ thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu mùi hương tại những quốc gia này để từ đó đề ra những kiến nghị, giải pháp nhằm công nhận và áp dụng bảo hộ nhãn hiệu mùi hương tại Việt Nam.

            Nếu vấn đề bảo hộ nhãn hiệu mùi hương đang rất được quan tâm trên thế giới thì tại Việt Nam, số lượng các bài viết nghiên cứu về vấn đề này nhìn chung vẫn còn khá ít ỏi. Thực tế này đã thôi thúc tác giả tìm hiểu về bảo hộ nhãn hiệu mùi hương và những cơ hội, thách thức của nó tại Việt Nam. Tuy nhiên, những bài viết của những tác giả đi trước cũng phần nào tạo ra những nền móng vững chắc về vấn đề bảo hộ nhãn hiệu mùi hương và quá trình phát triển của nó cho đến thời điểm hiện tại – một nguồn thông tin dồi dào và đáng tin cậy mà nhờ vào đó, tác giả đã tham khảo, kế thừa và bổ sung cho bài nghiên cứu của mình.

1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

                Như đã đề cập, tác giả đã kế thừa những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn mà những tác giả đi trước đã đặt ra, đồng thời vận dụng vào bối cảnh xã hội và hệ thống pháp luật tại Việt Nam để chỉ ra những vấn đề pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu mùi hương. Qua đó đề xuất những kiến nghị, giải pháp mang tính mới nhằm công nhận và áp dụng bảo hộ nhãn hiệu mùi hương tại nước ta.

CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU MÙI HƯƠNG

2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÃN HIỆU MÙI HƯƠNG

2.1.1. Khái niệm, điều kiện bảo hộ, phân loại nhãn hiệu

2.1.1.1. Khái niệm nhãn hiệu

Thuật ngữ nhãn hiệu “brand” bắt nguồn từ người Aixơlen cổ đại, với nghĩa là đốt cháy “to burn”. Theo một số nghiên cứu cho thấy, từ thời xa xưa con người đã biết sử dụng nhãn hiệu để nhận biết nguồn gốc, xuất xứ của hàng hóa, dịch vụ. Đối với gia súc, người chăn nuôi gia súc khi trao đổi, mua bán gia súc của mình với người khác đã dùng biện pháp đánh dấu thông qua các vết cắt, xiên lỗ trên tại các con gia súc. Đối với các đồ thủ công mĩ nghệ như đồ gốm sứ, tơ lụa, gia thú con người đã biết dùng chữ ký hoặc biểu tượng để phân biệt sản phẩm do họ làm ra với sản phẩm của người khác. Trải qua các cuộc cách mạng công nghiệp, nền sản xuất hàng hóa, dịch vụ có nhiều bước phát triển vượt bậc. Khi hàng hóa được tạo ra ngày càng nhiều, dịch vụ ngày càng phong phú, đa dạng thì nhãn hiệu cũng trở thành một công cụ hữu hiệu để nhận biết cũng như phân biệt hàng hóa và dịch vụ của các chủ thể sản xuất kinh doanh khác nhau. Các sản phẩm cùng loại do các chủ thể khác nhau sản xuất ra đều có nhãn hiệu khác nhau. Chính vì thế, thông qua nhãn hiệu, người tiêu dùng có thể nhận biết và lựa chọn tiêu thụ các sản phẩm có nhãn hiệu mà mình ưa dùng hoặc muốn mua mà không sợ bị nhầm lẫn và mất nhiều thời gian.

Hiện nay, “nhãn hiệu (trademark) là yếu tố đặc trưng gắn liền giữa lĩnh vực sở hữu công nghiệp và thị trường thương mại, được sử dụng trong thời gian dài bởi các nhà sản xuất cũng như các thương nhân nhằm xác định nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa hay dịch vụ của họ, đồng thời phân biệt những hàng hóa, dịch vụ đó với các hàng hóa, dịch vụ được sản xuất hay bán bởi các chủ thể khác.”[1] Yếu tố quan trọng nhất của nhãn hiệu chính là chức năng phân biệt nguồn gốc của hàng hóa và dịch vụ. Chính vì vậy, chức năng này luôn giữ vai trò trung tâm, được đề cập đến rất nhiều trong pháp luật về nhãn hiệu ở hầu hết các nước trên thế giới.

Về khái niệm nhãn hiệu, hiện nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau. Xét dưới góc độ pháp luật quốc tế, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) đưa ra định nghĩa như sau: “Nhãn hiệu là các dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau.[2] Dấu hiệu được đề cập đến “có thể là một hoặc nhiều từ ngữ, chữ, số, hình, hình ảnh, biểu tượng, màu sắc hoặc sự kết hợp các màu sắc, hình thức hoặc sự trình bày đặc biệt trên bao bì, gói sản phẩm. Nhãn hiệu  sẽ chỉ được chấp nhận bảo hộ nếu như nó chưa được cá nhân hoặc doanh nghiệp nào khác ngoài chủ sở hữu nhãn hiệu đó sử dụng, cũng như không được trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu khác đã được đăng ký trước đó cho cùng loại sản phẩm”.

Định nghĩa nhãn hiệu trên của WIPO đã xác định các yếu tố cũng như bản chất của nhãn hiệu. Định nghĩa này chính là sự kế thừa những quy định trong Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS): “Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác, đều có thể làm nhãn hiệu hàng hoá. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình hoạ và tổ hợp các mầu sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó, phải có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu hàng hoá. Trường hợp bản thân các dấu hiệu không có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ tương ứng, các Thành viên có thể quy định rằng khả năng được đăng ký phụ thuộc vào tính phân biệt đạt được thông qua việc sử dụng. Các Thành viên có thể quy định như là điều kiện để được đăng kí rằng các dấu hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được.”[3]

Theo pháp luật Việt Nam, nhãn hiệu được định nghĩa như sau: “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau.”[4] Có thể thấy, trong việc đưa ra khái niệm nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam nhìn chung đã tiếp thu những kinh nghiệm của các nước. Điều này đã cho thấy nước ta đã nhận thức rõ ràng yêu cầu khách quan của việc hài hòa hóa, tương thích hóa pháp luật quốc gia, từ đó đáp ứng với công cuộc hội nhập với thế giới. Bên cạnh đó, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ cũng có quy định “Nhãn hiệu hàng hóa được cấu thành bởi dấu hiệu bất kỳ hoặc sự kết hợp bất kỳ của các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một người với hàng hóa hoặc dịch vụ của người khác, bao gồm từ ngữ, tên người, hình ảnh, chữ cái, chữ số, tổ hợp màu sắc, các yếu tố hình hoặc hình dạng của hàng hóa hoặc hình dạng của bao bì hàng hóa. Nhãn hiệu hàng hóa bao 10 gồm cả nhãn hiệu dịch vụ , nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận.”[5] Các dấu hiệu khác như âm thanh, mùi hương cũng không được quy định trong hiệp định này. Nhưng không thể phủ nhận, những quy định trong Hiệp định này có tính chất khái quát hơn, cũng như phù hợp với chuẩn mực quốc tế hơn theo quy định về nhãn hiệu của WTO.

Tuy nhiên, các quốc gia khác nhau lại đưa ra những định nghĩa có phần khác nhau về nhãn hiệu. Theo pháp luật Hoa Kỳ, quy định “nhãn hiệu bao gồm bất kỳ từ, tên, ký hiệu, hoặc hình ảnh hoặc sự kết hợp nào của chúng được sử dụng bởi một người hoặc một người có ý định cá nhân hoặc chân thành sử dụng nhãn hiệu trong giao dịch và đơn đăng ký-nhận dạng và phân biệt theo quy định của luật này Hàng hóa cá nhân, kể cả hàng hóa đặc biệt và hàng hóa tương tự do người khác sản xuất hoặc sao chép, kể cả khi không có khả năng truy xuất nguồn gốc; không có nhãn hiệu nào có thể phân biệt hàng hóa của người nộp đơn với hàng hóa khác, nguồn gốc của hàng hóa phải được chỉ định và từ chối đăng ký…”[6]. Khái niệm nhãn hiệu theo quy định pháp luật Hoa Kỳ được dựa trên cơ sở khái niệm nhãn hiệu theo Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1883 của WIPO và của Hiệp định TRIPS/WTO.

Đối với pháp luật của Hội đồng Châu Âu, có quy định “được công nhận là nhãn hiệu cộng đồng bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng hiện hữu dưới dạng đồ họa, các chữ cái, tên riêng, các phác họa hình ảnh, từ ngữ, các chữ số, hình dáng của hàng hóa hoặc của bao gói của hàng hóa mà các dấu hiệu đó có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ thể kinh doanh với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể kinh doanh khác[7]. Nhãn hiệu theo pháp luật EU có thể là “bất kì dấu hiệu nào có khả năng hiện hữu dưới dạng đồ họa, các chữ cái, tên riêng, các phác họa hình ảnh, từ ngữ, các chữ số, hình dáng của hàng hóa…”. Đồng thời, các dấu hiệu đó phải có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ thể kinh doanh khác nhau. Nhìn chung khái niệm nhãn hiệu theo pháp luật EU phù hợp với những quy định của WIPO và Hiệp định TRIPS/WTO. Mặc khác, cùng với việc liệt kê những yếu tố truyền thống như là tên gọi, chữ cái, hình vẽ, dấu hiệu địa lý… thì pháp luật EU đã dự liệu trước các nhân tố mới như mùi hương và âm thanh.

Ngoài ra, có thể đưa ra một khái niệm về nhãn hiệu như sau: “Nhãn hiệu là những dấu hiệu có thể nhận biết được dùng để phân biệt hàng hóa (dịch vụ) của nhà sản xuất, kinh doanh này (của nhà cung ứng dịch vụ này) với hàng hóa (dịch vụ) của nhà sản xuất, kinh doanh khác (của nhà cung ứng dịch vụ khác) và chỉ ra nguồn gốc của hàng hóa (dịch vụ)”. Khái niệm này dựa theo quan điểm của Philip Kotler, một chuyên gia hàng đầu của thế giới về nhãn hiệu: “Nhãn hiệu sản phẩm là tên, thuật ngữ, dấu hiệu, biểu tượng, hình vẽ hay sự phối hợp giữa chúng, có công dụng dùng để xác nhận hàng hóa hay dịch vụ của một người bán hay một nhóm người bán và phân biệt chúng với các hàng hóa, dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh.”

2.1.1.2. Điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu

Theo pháp luật Việt Nam, điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu được quy định như sau: “Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:

1. Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc;

2. Có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác.”[8]

Như vậy, nhãn hiệu được cấp văn bằng bảo hộ phải đồng thời đáp ứng hai tiêu chí sau:

Tiêu chí bảo hộ thứ nhất, nhãn hiệu phải hội tụ đủ hai yếu tố. Thứ nhất, là các dấu hiệu có thể nhìn thấy, có thể tri giác được; thứ hai, các dấu hiệu cụ thể được xem xét là nhãn hiệu được tồn tại dưới dạng chữ cái, từ, ngữ, hình ảnh, hình vẽ, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiên bằng một hay nhiều màu sắc. Theo quy định của pháp luật đặc điểm thứ nhất của nhãn hiệu là các dấu hiệu có thể nhìn thấy được, có nghĩa là con người chỉ có thể nhận thức được, nắm bắt được về chúng qua khả năng thị giác của con người. Người tiêu dùng qua quan sát, nhìn ngắm để phát hiện ra loại hàng hoá, dịch vụ có gắn với nhãn hiệu đó để lựa chọn. Theo pháp luật của một số nước trên thế giới, việc bảo hộ đối với nhãn hiệu được áp dụng đối với cả các loại nhãn hiệu là những dấu hiệu âm thanh như âm nhạc, tiết nhạc mà con người có thể nhận biết được qua thính giác hoặc nhãn hiệu là các dấu hiệu mùi hương mà con người có thể nhận biết thông qua khứu giác hay nhãn hiệu hàng hoá chỉ đơn thuần được thể hiện thông qua một màu sắc nhất định. Nhãn hiệu có thể được thể hiện thông qua các dấu hiệu chữ cái, từ, ngữ; hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc kết hợp của các yếu tố chữ cái, từ, ngữ và các dấu hiệu hình, được thể hiện bằng một hay nhiều màu sắc. Yếu tố màu sắc là không thể thiếu được đối với nhãn hiệu hàng hóa bởi ưu điểm gây ấn tượng đối với thị giác con người, qua đó nó giúp cho nhãn hiệu thực hiện được chức năng phân biệt của mình. Luật SHTT quy định các dấu hiệu bị loại trừ khi xem xét để cấp văn bằng bảo hộ tại Điều 73, các dấu hiệu sau đây không được bảo hộ dưới danh nghĩa nhãn hiệu: Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với hình quốc kì, quốc huy của các nước; biểu tượng, cờ, huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế nếu không được cơ quan, tổ chức đó cho phép, ví dụ: Tên viết tắt của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) hay Tổ chức thương mại thế giới (WTO) sẽ không được dùng để làm nhãn hiệu; tên thật, biệt hiệu, bút danh, hình ảnh của lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân của Việt Nam và của nước ngoài; dấu chứng nhận, dấu kiểm tra, dấu bảo hành của tổ chức quốc tế mà tổ chức đó có yêu cầu không được sử dụng, trừ trường hợp chính tổ chúc này đăng kí các dấu đó làm nhãn hiệu chứng nhận, ví dụ như dấu hiệu chứng nhận ISO 9000 cho các sản phẩm hàng hoá đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế hay dấu hiệu CF chúng nhận cho chất lượng của các sản phẩm hàng hoá khi xuất khẩu sang thị trường các nước EU; dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính lừa dối người tiêu dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ.

Tiêu chí bảo hộ thứ hai: “Nhãn hiệu được coi là có khả năng phân biệt nếu được tạo thành từ một hoặc một số yếu tố dễ nhận biết, dễ ghi nhớ hoặc từ nhiều yếu tố kết hợp thành một tổng thể dễ nhận biết, dễ ghi nhớ…”[9]. Yếu tố được hiểu là một bộ phận của dấu hiệu mà không thể hiểu là toàn bộ hay bản thân dấu hiệu đó. Quy định của điều luật chỉ đòi hỏi một hoặc một số các yếu tố thuộc dấu hiệu phải tạo nên được sự dễ nhận biết và dễ ghi nhớ của nhãn hiệu. Nhãn hiệu dễ nhận biết là nhãn hiệu bao gồm các yếu tố đủ để tác động vào nhận thức, tạo nên ấn tượng có khả năng lưu giữ trong trí nhớ hay tiềm thức của con người. Bất kì ai khi tiếp xúc với chúng đều dễ dàng tri giác và dễ ghi nhớ nhận biết về chúng khi đặt bên cạnh các loại nhãn hiệu khác. Có thể có nhiều yếu tố độc đáo không giống với những cái đã có nhưng lại có quá nhiều chi tiết phức tạp hoặc quá nhiều hình vẽ rắc rối khiến cho người tiếp cận khó nắm bắt và không thể ghi nhớ được nội dung hoặc cấu trúc của nó. Nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu nhãn hiệu đó là dấu hiện thuộc một trong các trường hợp sau đây: Các hình và hình hình học đơn giản không có khả năng phân biệt và gây ấn tượng cho thị giác như các hình quá phức tạp gồm nhiều đường nét rắc rối hoặc quá đơn giản như hình chữ nhật. hình tam giác, hình tròn… thường dùng trong toán học không được cách điệu hay được thể hiện thông qua các màu sắc độc đáo. Các chữ số, chữ cái, chữ thuộc các ngôn ngữ thông dụng. Ngôn ngữ thông dụng được hiểu là bất kì ngôn ngữ nào được sử dụng và được nhiều người biết đến tại Việt Nam. Hiện nay, một dấu hiệu sẽ có khả năng được đăng kí tại Cục sở hữu trí tuệ nếu dấu hiệu này thuộc ngôn ngữ tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga và tiếng Trung Quốc.

Ngoại lệ được áp dụng cho các trường hợp trên: Đó là trường hợp các dấu hiệu này đã được sử dụng và đã được thừa nhận một cách rộng rãi với danh nghĩa một nhãn hiệu. Để chứng minh được ngoại lệ này đòi hỏi người nộp đơn đăng kí nhãn hiệu phải đưa ra được các chứng cứ đầy đủ và thuyết phục.

+ Dấu hiệu, biểu tượng quy ước, hình vẽ hoặc tên gọi thông thường của hàng hóa, dịch vụ thuộc bất kì ngôn ngữ nào đã được sử dụng rộng rãi, thường xuyên, nhiều người biết đến. Những dấu hiệu, biểu tượng quy ước như 5 hình tròn lồng vào nhau là biểu tượng của các thế vận hội thể thao, hình chữ thập biểu tượng cho ngành y tế, hình cán cân công lí biểu tượng cho ngành tư pháp… sẽ không được đăng kí bảo hộ là nhãn hiệu. Những hình vẽ hay ảnh chụp của chính sản phẩm hàng hóa hay tên gọi thông thường của sản phẩm cũng không được sử dụng làm nhãn hiệu.

+ Dấu hiệu chỉ thời gian, địa điểm, phương pháp sản xuất, chủng loại, số lượng, tính chất, thành phẩm, công dụng, giá trị hoặc các đặc tính khác mang tính mô tả hàng hóa, dịch vụ. Thực chất đây chỉ là các dấu hiệu có chức năng thông tin về các vấn đề cần thiết liên quan đến quá trình sử dụng sản phẩm mà hoàn toàn không có chức năng phân biệt bởi nhiều khi hàng hóa cùng loại của các cơ sở sản xuất khác nhau cũng có thể có cũng công dụng, tính chất, thành phần. Tuy nhiên, có một ngoài lệ là nếu các dấu hiệu đó đã đạt được khả năng phân biệt thông qua quá trình sử dụng trước thời điểm nộp đơn đăng kí nhãn hiệu thì cũng sẽ được chấp nhận làm nhãn hiệu.

+ Dấu hiệu mô tả hình thức pháp lí, lĩnh vực kinh doanh của chủ thể kinh doanh.

+ Dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lí của sản phẩm, dịch vụ trừ trường hợp dấu hiệu đó đã được sử dụng và được thừa nhận rộng rãi hoặc được bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu tập thể hoặc nhãn hiệu chứng nhận.

+ Dấu hiệu không phải là nhãn hiệu liên kết trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lãn với nhãn hiệu đã được đăng kí cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự trên cơ sở đăng kí có ngày ưu tiên sớm hơn trong trường hợp đơn đăng kí được hưởng quyền ưu tiên, kể cả đơn đăng kí nhãn hiệu được nộp theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

+ Dấu hiệu trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của các loại hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự; hay nhãn hiệu của các loại hàng hóa, dịch vụ không trùng hoặc không tương tự nhưng có khả năng làm tổn hại đến khả năng phân biệt hay uy tín của các loại nhãn hiệu đó.

Việc xác định một nhãn hiệu có trùng với một nhãn hiệu khác hay không chúng ta chỉ cần xem xét là chúng có phải là bản photocopy y nguyên của nhau hay không, điều đó không khó khăn. Nhưng để xác định tính tương tự tới mức gây nhầm lẫn giữa các loại nhãn hiệu với nhau đôi khi là một công việc khá phức tạp. Có thể có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khả năng gây ra nhầm lẫn giữa hai nhãn hiệu nhưng cũng có khi không yếu tố nào được coi là có tính quyết định hơn yếu tố nào. Việc đưa ra tiêu chuẩn hay đáp số chung cho mọi trường hợp để xác định tính tương tự có khả năng gây nhầm lẫn là công việc không thể do đặc điểm riêng biệt của mỗi trường hợp là khác nhau. Tuy nhiên, có thể tham khảo một số tiêu chí sau đây để xác định tính tương tự gây nhầm lẫn giữa hai hay nhiều nhãn hiệu (các tiêu chí này không phải sắp xếp theo thứ tự quan trọng): Sự tương tự về cấu trúc (như thêm các thành phần thứ yếu không có khả năng phân biệt vào một nhãn hiệu đã tồn tại từ trước hoặc ngược lại loại bỏ hay thay đổi thành phần thứ yếu của nhãn hiệu khác để làm thành nhãn hiệu của mình); ý nghĩa và hình thức thể hiện của các nhãn hiệu; sự tương tự về bản chất, phương thức lưu thông (kênh thương mại) trên thị trường của các loại nhãn hiệu; mức độ nổi tiếng của một trong các nhãn hiệu có khả năng gây nhầm lẫn; tổng thể các yếu tố khác có liên quan đến các loại nhãn hiệu này (xem xét về sự thỏa thuận giữa người nộp đơn đăng kí dấu hiệu như một nhãn hiệu với chủ sở hữu của một nhãn hiệu sẵn có).

Như vậy, thứ nhất, nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu nhãn hiệu đó là dấu hiệu trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của các hàng hóa và dịch vụ trùng hoặc tương tự trong các trường hợp sau:

+ Nhãn hiệu của người khác đã được sử dụng và đã được thừa nhận một cách rộng rãi từ trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên trong trường họp đơn được hưởng quyền ưu tiên;

+ Nhãn hiệu mà giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu đó đã hết hiệu lực hoặc bị đình chỉ hiệu lực bảo hộ nhưng thời gian tính từ khi hết hiệu lực hoặc bị đình chỉ hiệu lực chưa quá 5 năm, trừ trường hợp hiệu lực bị đình chỉ vì lí do nhãn hiệu không được sử dụng;

+ Nhãn hiệu được công nhận là nổi tiếng, thậm chí trong cả trường hợp nhãn hiệu nổi tiếng đó được đăng kí cho hàng hóa, dịch vụ không tương tự nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có khả năng làm ảnh hưởng đến khả năng phân biệt của nhãn hiệu nổi tiếng hoặc việc đăng kí nhãn hiệu nhằm lợi dụng uy tín của nhãn hiệu nổi tiếng. Ví dụ, một người xin nộp đơn đăng kí nhãn hiệu Nokia cho các sản phẩm đồ gia dụng cũng không được chấp nhận mặc dù nó không trùng hay tương tự với các sản phẩm điện thoại của nhãn hiệu nổi tiếng Nokia.

Thứ hai, nhãn hiệu bi coi là không có khả năng phân biệt nếu nhãn hiệu đó là dấu hiệu trùng hoặc tương tự với các đối tượng sở hữu công nghiệp sau:

+ Tên thương mại đang được sử dụng của người khác nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ;

+ Chỉ dẫn địa lí đang được bảo hộ nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm người tiêu dùng hiểu sai lệch về nguồn gốc địa lí của hàng hóa. Đặc biệt, đối với các chỉ dẫn địa lí được đăng kí để sử dụng cho rượu vang, rượu mạnh thì các dấu hiệu trùng hoặc có chứa chỉ dẫn địa lí đó hoặc được dịch nghĩa, phiên âm từ chỉ dẫn địa lí đó cũng không được chấp nhận nếu dấu hiệu được đăng kí để sử dụng cho rượu vang, rượu mạnh không có nguồn gốc xuất xử từ khu vực địa lí mang chỉ dẫn địa lí đó;

+ Kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ trên cơ sở đơn đăng kí kiểu dáng công nghiệp có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn.

2.1.1.3. Phân loại nhãn hiệu

Việc phân loại nhãn hiệu thành có nghĩa rất quan trọng cả về lý luận cũng như thực tiễn. Thứ nhất, nó cho phép xác định đặc trưng của một loại nhãn hiệu mà thông qua đó ảnh hưởng tới khả năng cảm nhận và ghi nhớ nhãn hiệu của người tiêu dùng, tới khả năng đăng ký và được chấp nhận BHNH đó. Thứ hai, nó ảnh hưởng tới việc quy định chế độ pháp lý đối với từng loại nhãn hiệu, phân biệt nhãn hiệu với các đối tượng khác của quyền sở hữu công nghiệp như kiểu dáng công nghiệp, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại. Thực tế, nhãn hiệu có thể được phân loại theo một số tiêu chí như sau:

– Theo hình thức, có các loại nhãn hiệu như: nhãn hiệu từ ngữ; nhãn hiệu chữ cái và số; nhãn hiệu là hình vẽ, hình ảnh; nhãn hiệu hình khối; nhãn hiệu kết hợp (chữ, hình, hình khối, số…); và nhãn hiệu đặc biệt (nhãn hiệu mùi, âm thanh, ánh sáng…).

+ Nhãn hiệu từ ngữ là nhãn hiệu mà trong thành phần của nhãn hiệu chứa đựng các dấu hiệu là từ ngữ, là sự kết hợp giữa các chữ cái tạo thành một từ có nghĩa hoặc được trình bày thành một cụm từ, một câu… sự kết hợp này có thể được trình bày dưới dạng thông thường hoặc dạng cách điệu. Có thể thấy, nhãn hiệu từ ngữ có khả năng được bảo hộ mạnh hơn so với các nhãn hiệu khác. Bởi các nhãn hiệu từ ngữ thường dễ cảm nhận, dễ ghi nhớ hơn thông qua thính giác, thị giác của người tiếp xúc. Thứ hai, việc tạo ra các nhãn hiệu từ ngữ là không hạn chế do khả năng sắp xếp kết hợp giữa các chữ cái thành các tổ hợp từ, cụm từ, câu. Thứ ba, việc đăng ký nhãn hiệu là từ ngữ, có thể thể hiện được nhiều hơn ý tưởng của chủ sở hữu nhãn hiệu cho các hàng hóa và dịch vụ mà mình cung ứng ra thị trường. Và cuối cùng, việc đăng ký nhãn hiệu là từ ngữ, còn có lợi thế lớn hơn trong quá trình quảng cáo, đưa hàng hóa, dịch vụ ra thị trường bằng các kênh thông tin khác nhau.

+ Nhãn hiệu chữ cái và số: Loại nhãn hiệu này có thể là sự kết hợp của các chữ cái riêng lẻ, hoặc những con số, hoặc là sự kết hợp của cả phần chữ và phần số. Loại này cũng khá phổ biến trong quá trình đăng ký BHNH. Các thành phần này có thể được trình bày cách điệu thành các dòng khác nhau, hoặc được trình bày trên cùng một dòng, với kích cỡ như nhau, hoặc khác nhau, tùy theo ý tưởng của chủ sở hữu nhãn hiệu. Theo quy định của pháp luật hiện hành, nhãn hiệu chữ cái phải bao gồm tử ba chữ cái trở lên, hoặc từ hai chữ cái, nhưng phải đọc được thành từ hoặc phải được trình bày cách điệu dưới dạng đồ họa hoặc dạng đặc biệt khác. Ngoài ra, nếu nhãn hiệu là sự sắp xếp, kết hợp của một dãy dài các ký tự hoặc các từ ngữ không thể nhận biết, hoặc ghi nhớ được thì cũng không có khả năng phân biệt, do đó cũng không thể đăng ký làm nhãn hiệu.

+ Nhãn hiệu là hình vẽ, hình ảnh: là những nhãn hiệu mà chủ yếu được cảm nhận thông qua thị giác, và được trình bày theo chiều hướng nghệ thuật. Loại nhãn hiệu này có thể là hình vẽ của các con vật, đồ vật được tiếp xúc hàng ngày, hoặc là hình ảnh được trình bày trên mặt phẳng, là sự kết hợp của các đường nét, màu sắc…. Loại này cũng khá phổ biến và có ưu thế lớn trong việc quảng cáo hướng tới người tiêu dùng.

+ Nhãn hiệu hình khối: là nhãn hiệu được hình thành thông qua việc kết hợp các đường nét và màu sắc trên không gian 3 chiều. Loại nhãn hiệu này cũng có tính phân biệt tương đối cao. Điển hình cho loại nhãn hiệu này có thể thấy như hình dáng chai “COCA-COLA” của Công ty Coca-cola hay hình ngôi sao 3 cánh nổi trong vòng tròn của MERCEDES.

+ Nhãn hiệu kết hợp: là một nhãn hiệu được tạo ra trên cơ sở kết hợp các yếu tố về từ ngữ, chữ cái, chữ số và các yếu tố hình ảnh, hình khối. Thông thường, nhãn hiệu kết hợp sẽ được tạo ra từ phần từ ngữ và phần hình ảnh, trong đó phần từ ngữ và phần hình ảnh thường minh họa cho nhau, có tác dụng bổ trợ nhau, tạo nên khả năng phân biệt cho nhãn hiệu. Theo như hướng dẫn tại mục 39.6 Thông tư 01-2007: “Một dấu hiệu kết hợp được coi là có khả năng phân biệt khi dấu hiệu chữ và dấu hiệu hình kết hợp thành một tổng thể có khả năng phân biệt, cụ thể:

a) Dấu hiệu chữ và dấu hiệu hình đều có khả năng phân biệt và tạo thành tổng thể có khả năng phân biệt;

b) Thành phần mạnh của nhãn hiệu (yếu tố tác động mạnh vào cảm giác người tiêu dùng, gây chú ý và ấn tượng về nhãn hiệu khi quan sát) là dấu hiệu chữ hoặc dấu hiệu hình có khả năng phân biệt, mặc dù thành phần còn lại không có hoặc ít có khả năng phân biệt;

c) Trường hợp dấu hiệu kết hợp gồm các dấu hiệu chữ và dấu hiệu hình không có hoặc ít có khả năng phân biệt nhưng cách thức kết hợp độc đáo của các dấu hiệu đó tạo ra một ấn tượng riêng biệt thì tổng thể kết hợp đó vẫn được coi là có khả năng phân biệt;

d) Dấu hiệu kết hợp gồm các thành phần chữ và hình không có hoặc ít có khả năng phân biệt nhưng tổng thể kết hợp đó đã đạt được khả năng phân biệt qua quá trình sử dụng theo quy định tại điểm 39.5 của Thông tư này.”

+ Nhãn hiệu đặc biệt: là các nhãn hiệu như mùi, âm thanh, ánh sáng. Nếu các nhãn hiệu từ ngữ , hình ảnh thông thường thường được cảm nhận thông qua thính giác và thị giác của con người, thì các nhãn hiệu đặc biệt lại được cảm nhận bằng các giác quan khác như thính giác, vị giác, khứu giá. Hiện tại các loại nhãn hiện và vẫn chưa được chấp nhận bảo hộ theo quy định của pháp luật Việt Nam.

– Theo mức độ nổi tiếng, có nhãn hiệu thông thường và nhãn hiệu nổi tiếng:

+ Nhãn hiệu thông thường là loại nhãn hiệu được bảo hộ và sử dụng trên lãnh thổ Việt Nam, và có số lượng người tiêu dùng biết đến hạn chế hơn, có thể chỉ tính trong phạm vi ngành nghề, hoặc trong lĩnh vực nhất định.

+ Nhãn hiệu nổi tiếng “là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam”.[10]

– Theo số lượng chủ thể của nhãn hiệu, có nhãn hiệu cá nhân, nhãn hiệu tập thể:

+ Nhãn hiệu cá nhân: là nhãn hiệu do cá nhân làm chủ sở hữu. Khái niệm cá nhân được hiểu theo nghĩa rộng, có thể bao gồm các công ty, doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể…

+ Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu thuộc sở hữu của tập thể, “là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó”.[11]

– Theo tính chất của nhãn hiệu, có nhãn hiệu thông thường, nhãn hiệu liên kết, nhãn hiệu chứng nhận:

+ Nhãn hiệu thường: là nhãn hiệu do một chủ thể đăng ký, dùng để phân biệt hàng hóa dịch vụ của chủ thể này với chủ thể khác.

+ Nhãn hiệu liên kết: “là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc tương tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau hoặc có liên quan với nhau.”[12]

+ Nhãn hiệu chứng nhận: “là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hóa, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu.”[13]

2.1.2. Khái niệm, đặc điểm của nhãn hiệu mùi hương

Mùi hương cũng là một dấu hiệu vì nó truyền tải thông tin qua đường khứu giác. Mùi hương là loại dấu hiệu được đánh giá có khả năng tạo ra sự phân biệt tốt nhất trong các loại nhãn hiệu vì nó có thể tác động được tới hầu hết người tiêu dùng bao gồm cả người khiếm thị (không nhận tác động bởi nhãn hiệu hữu hình) và người khiếm thính (không tác động bằng nhãn hiệu âm thanh). Các báo cáo khoa học cho thấy khả năng ghi nhớ mùi hương là một trong những loại trí nhớ mạnh nhất và đáng tin cậy nhất của con người. Vì vậy, các mùi hương đặc biệt có thể giúp người tiêu dùng định vị một số sản phẩm thông qua khứu giác, ngay cả khi họ không nhớ tên sản phẩm. Và ngay cả khi người tiêu dùng không có khả năng mô tả bản chất của mùi bằng từ ngữ thì mùi hương có thể giúp xác định sản phẩm đơn giản bằng cách kích thích tiềm thức ghi nhận qua khứu giác của họ. Tuy vậy, do gặp hạn chế về khả năng sử dụng, đặc biệt trong quảng cáo, lan truyền và tiếp cận người tiêu dùng nên nhãn hiệu mùi được bảo hộ hiện nay chỉ có số lượng khiêm tốn.[14]

Nhãn hiệu mùi là một loại NHPTT, là loại nhãn hiệu nhận biết bằng khứu giác. Nhãn hiệu mùi có thể được cấu tạo từ các mùi tự nhiên như mùi hoa hoa hồng, mùi cỏ tươi… Trong cuộc sống thường nhật, người tiêu dùng có thể không nhớ tên gọi của sản phẩm, nhưng lại có thể dựa vào một đặc trưng nào đó của sản phẩm như hình dạng, bao bì, màu sắc, thậm chí là mùi hương để nhận biết sản phẩm. Mặc dù người tiêu dùng không thể dùng từ ngữ chuẩn xác để mô tả mùi hương nhưng trong kí ức có thể nhớ được mùi nào đó có liên quan đến sản phẩm.

Vì giữa mùi hương và kí ức có mối liên hệ đặc biệt nên cùng với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật và phát triển kinh tế, ngày càng có nhiều doanh nghiệp muốn vượt ra khỏi mô hình BHNH truyền thống, muốn sử dụng mùi hương làm một công cụ để quảng bá hoạt động kinh doanh. Là một trong những chiến lược tiếp thị, nhà sản xuất thường thêm mùi hương vào sản phẩm để sản phẩm có sự hấp dẫn hơn, ví dụ như giấy, bút chì, tẩy… Mấy năm trở lại đây ngày càng có nhiều nước chấp nhận bảo hộ loại nhãn hiệu này. Do tính chất đặc biệt của mùi nên so với các loại NHPTT khác, nhãn hiệu mùi tồn tại khá nhiều vấn đề.[15]

2.1.3. Một số ví dụ về nhãn hiệu mùi hương

– Nhãn hiệu là một mùi hương của kẹo cao su bong bóng (Đăng ký nhãn hiệu số 2560618 tại Hoa Kỳ cho dầu tạo bởi chất lỏng cắt kim loại và dầu tạo bởi kim loại loại bỏ chất lỏng cho kim loại công nghiệp làm việc);

– Hương thơm của hoa đại (Nhãn hiệu đã được bảo hộ tại Hoa Kỳ dành cho sản phẩm chỉ khâu và sợi thêu);

– Nhãn hiệu bao gồm mùi hương của quả nho (Đăng ký nhãn hiệu số 2568512 tại Hoa Kỳ cho chất bôi trơn và nhiên liệu động cơ cho xe cộ, máy bay và tàu thủy);

– Nhãn hiệu bao gồm mùi hương của quả dâu tây (Đăng ký nhãn hiệu số 2596156 tại Hoa Kỳ cho chất bôi trơn và nhiên liệu động cơ cho xe cộ, máy bay và tàu thủy);

– Mùi cỏ mới cắt (Đăng ký nhãn hiệu số 428870 tại Châu Âu cho bóng tennis);

– Mùi hương của loài hoa làm liên tưởng đến hoa hồng (Đăng ký nhãn hiệu số 2001416 tại Anh cho lốp xe);

– Mùi hương bia đắng nồng (Đăng ký nhãn hiệu số 200234 tại Anh cho phi tiêu).[16]

2.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU MÙI HƯƠNG

2.2.1. Khái quát về nhãn hiệu phi truyền thống

Hiệp hội nhãn hiệu quốc tế (INTA) đã phân loại nhãn hiệu thành 2 loại chính là nhãn hiệu truyền thống (conventional trademark) và nhãn hiệu phi truyền thống (non-conventional trademark). Hiệp định TRIPS tuy quy định tương đối rộng về nhãn hiệu nhưng không trực tiếp để cập đến khái niệm nhãn hiệu phi truyền thống (NHPTT). Năm 1994, khi xây dựng Hiệp ước luật nhãn hiệu, WIPO đã đề cập đến NHPTT, tuy nhiên quy định còn tương đối đơn giản, chỉ đề cập đến một số vấn đề về thủ tục đăng ký nhãn hiệu màu sắc và nhãn hiệu ba chiều.

Dù không nêu cụ thể thế nào là NHPTT nhưng pháp luật của một số quốc gia phát triển đã đề cập đến âm thanh, mùi hương – những dấu hiệu được xem là phi truyền thông. Ví dụ như trong Bộ Luật SHTT Cộng hòa Pháp quy định tại Điều L.711-1: “những dấu hiệu âm thanh như: âm thanh, câu nhạc, những dấu hiệu hình như: hình vẽ, nhãn hiệu, con dấu, biên vải (lisière), hình nổi (relief), hình ảnh ba chiều (hologramme), logo, hình ảnh tổng hợp, hình dáng, kể cả hình dáng của sản phẩm hoặc hình dáng bao bì đóng gói hoặc dịch vụ, cách sắp xếp màu sắc, phối hợp màu sắc hoặc phối hợp sắc thái màu sắc”[17]. Cũng cần lưu ý rằng, Bộ Luật SHTT Cộng hòa Pháp đã được sửa đổi ngày 13/11/2019, có hiệu lực từ ngày 13/12/2019 (nội dung không thay đổi so với bản tiếng Anh đã trích dẫn trên). Từ những quy định trên, có thể khái quát về NHPTT như sau: NHPTT là bất kỳ loại nhãn hiệu mới nào không thuộc danh mục nhãn hiệu thông thường đã có từ trước (ví dụ: bao gồm các chữ cái, chữ số, từ, logo, hình ảnh, biểu tượng hoặc kết hợp của một hoặc nhiều yếu tố này) nhưng vẫn có thể đáp ứng được điều cần thiết của nhãn hiệu là khả năng phân biệt. Căn cứ vào dấu hiệu nhận biết bằng thị giác, có thể phân loại NHPTT thành 2 loại sau: NHPTT có thể nhận biết bằng thị giác (bao gồm nhãn hiệu ba chiều, nhãn hiệu màu, nhãn hiệu động và NHPTT không nhận biết được bằng thị giác (bao gồm nhãn hiệu âm thanh, nhãn hiệu mùi, nhãn hiệu nhận biết bằng vị giác và nhãn hiệu nhận biết bằng xúc giác).[18]

Mỗi loại NHPTT đều có một đặc thù riêng, có loại còn mang tính kỹ thuật cao và không áp dụng cho những sản phẩm thông thường. Nhu cầu sử dụng cũng như bảo hộ NHPTT ở một mức độ nhất định phụ thuộc vào trình độ sản xuất, phát triển kinh tế xã hội của đất nước và nhận thức của người tiêu dùng ở quốc gia đó. Sự phát triển, lan truyền một cách nhanh chóng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và hoạt động thương mại quốc tế dẫn tới các nước ngày càng quan tâm đến các loại hình NHPTT.

2.2.2. Khái niệm bảo hộ nhãn hiệu mùi hương

Mặc dù chưa có một văn bản pháp lý nào định nghĩa khái niệm “BHNH mùi hương”, tuy nhiên dựa trên khái niệm bảo hộ – là khái niệm dùng để chỉ hoạt động của Nhà nước trong việc xác lập và bảo vệ các quan hệ xã hội phát sinh, chúng ta có thể đưa ra định nghĩa “bảo vệ nhãn hiện mùi hương” như sau:

BHNH mùi hương là hoạt động do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm xác lập quyền sở hữu đối với nhãn hiệu mùi, quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan, đồng thời xác định những hành vi bị coi là xâm phạm và quy định các biện pháp xử lý các hành vi xâm phạm đó.

Theo định nghĩa trên, việc BHNH mùi hương là hoạt động của Nhà nước, cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc bảo hộ này bắt đầu từ hoạt động xây dựng, ban hành pháp luật của Nhà nước. Với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Nhà nước ban hành các quy định về các điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu mùi, cách thức xác lập quyền, xác định hành vi bị coi là xâm phạm, các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm, đồng thời quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan. Thông qua hoạt động BHNH mùi hương, quyền và lợi ích của các chủ thể có liên quan được đảm bảo.

Như vậy, nói đến BHNH mùi hương là nói đến hoạt động do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện ngay cả khi không có hành vi xâm phạm nhãn hiệu mùi xảy ra trên thực tế.

2.2.3. Sự cần thiết phải bảo hộ nhãn hiệu mùi hương

Ngày nay, cùng với xu thế toàn cầu hóa, các nhà sản xuất đã và đang không ngừng sáng tạo, đổi mới những phương thức nhận diện và BHNH của mình. Theo đó, việc phân biệt các sản phẩm, dịch vụ giữa chủ sở hữu này với chủ sở hữu khác đã được thực hiện không chỉ bằng cách tạo dựng các nhãn hiệu truyền thống mà còn được mở rộng hướng đến sử dụng NHPTT), bao gồm: mùi, âm thanh, hình ảnh động… Khác biệt với những NHPTT khác, nhãn hiệu mùi hương thể hiện đặc trưng thông qua việc sử dụng mùi hương để giúp người tiêu dùng nhận biết, phân biệt hàng hóa và dịch vụ giữa các chủ sở hữu hàng hóa, dịch vụ khác nhau ngay cả khi khách hàng không nhớ tên sản phẩm đó. Bên cạnh đó, nhãn hiệu mùi hương góp phần tạo lợi thế độc quyền cho chủ sở hữu thông qua việc ngăn chặn chủ thể khác đăng ký và sử dụng các nhãn hiệu tương tự.

NHPTT nói chung và nhãn hiệu mùi hương nói riêng được đánh giá mang lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp, góp phần hỗ trợ họ khuếch trương uy tín, hình ảnh và gia tăng tài sản sở hữu trí tuệ của mình, từ đó tạo động lực để các doanh nghiệp nâng cao công tác sáng tạo, tìm ra những mùi hương độc đáo kết hợp với phát triển chất lượng sản phẩm, dịch vụ, bởi lẽ mùi hương có chức năng khơi gợi cảm xúc và tác động đến nhận thức của người tiêu dùng giúp họ phân biệt được hàng hóa, dịch vụ của nhà sản xuất này với nhà sản xuất khác. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của việc đăng ký nhãn hiệu mùi hương, việc BHNH này cũng sẽ mang lại thách thức cho các doanh nghiệp cũng như cơ quan quản lý nhãn hiệu.[19]

2.2.4. Tiêu chuẩn bảo hộ nhãn hiệu mùi hương

            – Dấu hiệu mùi có khả năng phân biệt.

Về mặt nguyên tắc, khi một nhãn hiệu muốn được bảo hộ trước hết nó phải đạt được tính phân biệt, đối với nhãn hiệu mùi cũng không nằm ngoài nguyên tắc chung này. Tuy nhiên, nhãn hiệu mùi có những đặc điểm đặc thù, do đó không phải tất cả các tiêu chí của nhãn hiệu thông thường đều có thể được áp dụng được với loại nhãn hiệu này. Quy định pháp lý và thực tiễn thẩm định đơn nhãn hiệu mùi ở các nước có chấp nhận loại bảo hộ cho thấy những tiêu chí BHNH mùi cũng có nhiều vấn đề đặt ra.

Như đã đề cập ở trên, giống như nhãn hiệu thông thường, dấu hiệu mùi phải có khả năng phân biệt, đó là một điều kiện rất quan trọng khi đăng ký BHNH mùi vì nhãn hiệu chính là công cụ để nhận diện và chỉ dẫn nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ. Khả năng phân biệt thì có hai dạng là khả năng phân biệt tự thân và khả năng phân biệt thông qua sử dụng.

Khả năng phân biệt tự thân được hiểu là nhãn hiệu có tính độc đáo, để có thể thực hiện vai trò phân biệt giữa các hàng hóa, dịch vụ. Như vậy dấu hiệu mùi hương phải là một cái gì đó đặc biệt được thêm vào hàng hoá để giúp phân biệt hàng hóa của người này với hàng hóa người khác thông qua khứu giác. Ví dụ như trường hợp của công ty Vennootschap Onder Firma Senta Aromatic Marketing (Hà Lan), đã đăng ký nhãn hiệu mùi “Mùi của cỏ tươi mới cắt” cho hàng hóa, cụ thể là, bóng tennis cho nhóm 28. Dấu hiệu “mùi cỏ tươi mới cắt” được xem là mùi riêng biệt mà tất cả mọi người đều ngay lập tức nhận ra khi gắn nó lên bóng tennis.

Trường hợp thứ hai là nhãn hiệu sẽ được bảo hộ nếu đạt được khả năng phân biệt thông qua sử dụng. Nếu chủ đơn chứng minh được việc người tiêu dùng đã quen thuộc với mùi hương gắn trên sản phẩm và có thể dựa vào đó để phân biệt với sản phẩm của người khác, thì lúc này dấu hiệu mùi hương đó được bảo hộ là nhãn hiệu

            – Đánh giá dấu hiệu mùi không có khả năng phân biệt.

Các quy định về BHNH mùi dần được hoàn thiện qua từng vụ việc trong thực tiễn của các nước. Từ thực tiễn BHNH mùi tại Hoa Kỳ và Châu Âu cho thấy một số dấu hiệu mùi hương sẽ bị loại trừ bảo hộ với các lý do sau đây:

+ Mùi hương tự nhiên của sản phẩm. Có nghĩa là những mùi mang tính công năng của sản phẩm, là một đặc tính cần thiết của hàng hóa ví dụ nước hoa, xà phòng, nước tẩy rửa, nước xịt phòng. Những mùi hương này là một đặc tính cần thiết của hàng hoá, và như vậy rõ ràng là không có tính phân biệt, vì vậy không thể được BHNH.

+ Mùi hương che giấu mang tính chức năng. Trong trường hợp sản phẩm có mùi gây khó chịu cho người tiêu dùng, thì việc thêm mùi hương cho sản phẩm chỉ là nỗ lực của doanh nghiệp làm cho mùi của hàng hóa trở nên dễ chịu hơn. Mùi hương chỉ là một sự cải tiến cho hàng hóa, chứ không phải là dấu hiệu có tính chức năng là một chỉ dẫn nguồn gốc thương mại của hàng hóa và có khả năng phân biệt.

+ Mùi hương phổ biến trong hoạt động thương mại. Với một loại hàng hóa có mùi hương không phải là mùi tự nhiên của sản phẩm, tuy nhiên người tiêu dùng đã nhận thức rằng đây là mùi đương nhiên mà sản phẩm có do hầu hết các nhà sản xuất đều sử dụng mùi hương này. Do đó việc bổ sung mùi hương sẽ không có hoặc có ít tác dụng gây ấn tượng cho người tiêu dùng về mùi tổng thể của các loại hàng hóa.

Ví dụ: Năm 2002, Công ty N.V. Organon (Hà Lan) đã nộp đơn đăng ký “mùi cam” làm nhãn hiệu cho “dược phẩm dùng cho người, cụ thể là, thuốc chống trầm cảm chứa những viên hòa tan nhanh chóng và thuốc” tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên, USPTO đã từ chối đăng ký mùi trên làm nhãn hiệu nêu trên với lý do: hương vị cam là một phụ gia phổ biến và ưa thích dùng cho dược phẩm uống qua đường miệng giúp cho sản phẩm trở nên dễ uống hơn, làm tăng sự hài lòng của người bệnh. Do tần suất sử dụng hương vị này bởi nhiều công ty nên người tiêu dùng sẽ không biết được hương vị này chỉ dẫn nguồn gốc thương mại của sản phẩm.

Ngoài ra, trong thực tế cấp văn bằng bảo hộ cho nhãn hiệu mùi, cả Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu đều chưa xem xét đến vụ việc đăng ký nhãn hiệu mùi gây nhầm lẫn với nhãn hiệu mùi đã được đăng ký trước đó.

Như vậy, vấn đề tiêu chuẩn đánh giá khả năng BHNH mùi của các quốc gia có thể khái quát lại những vấn đề chính đó là: “Dấu hiệu mùi khi được xem xét để bảo hộ phải là (i) mùi riêng biệt mà người tiêu dùng ngay lập tức có thể nhận ra được; (ii) mùi đó đã đạt được khả năng phân biệt thông qua việc sử dụng trên thị trường; (iii) một mùi không mang tính tự nhiên hay tính chức năng, nghĩa là không phải là mùi tự nhiên của sản phẩm hay mùi do chức năng, công dụng hay chất lượng của sản phẩm tạo ra thì có thể chấp nhận đăng ký.”[20]

2.2.5. Hình thức thể hiện của nhãn hiệu mùi hương

Một trong những yêu cầu khi nộp đơn đăng ký nhãn hiệu, đó là dấu hiệu mùi phải được thể hiện dưới dạng nhất định để có thể thực hiện đăng bạ công khai. Việc thể hiện phải ở dưới dạng truyền tải được thông tin đến người bình thường có thể xác định được đúng nhãn hiệu. Tuy nhiên, thể hiện dấu hiệu mùi khi đăng ký nhãn hiệu là việc không hề đơn giản vì mùi hương sẽ không giữ được lâu và mỗi một người sẽ có một cảm nhận khác nhau.

Trước đây, Châu Âu đã yêu cầu dấu hiệu mùi phải có khả năng thể hiện dưới dạng hình họa. Điều này đã làm cho việc đăng ký BHNH mùi ở Châu Âu rất khó khăn. Tuy nhiên, hiện nay quy định này cũng đã được bài bỏ. Thay vào đó, yêu cầu thể hiện dấu hiệu mùi đã được quy định mở: dấu hiệu được thể hiện trong đăng bạ theo cách thức mà cơ quan có thẩm quyền hoặc công chúng có thể xác định đối tượng được bảo hộ một cách rõ ràng và chính xác.

Trong khi đó Hoa Kỳ và Úc chỉ yêu cầu nộp bản mô tả chi tiết về nhãn hiệu. Đây có thể là lý do số lượng nhãn hiệu mùi được đăng ký bảo hộ ở Hoa Kỳ nhiều hơn so với Châu Âu.[21]

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU MÙI HƯƠNG THEO LUẬT QUỐC TẾ VÀ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

3.1. NGUỒN LUẬT QUỐC TẾ VỀ  BẢO HỘ NHÃN HIỆU MÙI HƯƠNG

3.1.1. Khái niệm nguồn luật

Nguồn pháp luật là một vấn đề lý luận được nghiên cứu và cũng là một vấn đề thực tiễn hiện đang rất được quan tâm ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong truyền thống ở Việt Nam, các quan điểm về nguồn pháp luật chưa có sự thống nhất về mặt nhận thức.

Có quan điểm cho rằng: “…hệ thống pháp luật là một khái niệm chung bao gồm hai mặt trong một chỉnh thể thống nhất là hệ thống cấu trúc (bên trong) và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (hệ thống nguồn của pháp luật).”[22] Theo quan điểm này, việc xác định nguồn thậm chí chỉ là văn bản quy phạm pháp luật – một hình thức cụ thể của pháp luật, trong khi đó văn bản quy phạm pháp luật cũng chỉ được xác định là một loại nguồn pháp luật mà thôi.

Một quan điểm khác cho rằng: “nguồn của pháp luật là khái niệm dùng để chỉ tất cả những gì mà các chủ thể có thẩm quyền dựa vào đó để xây dựng, ban hành, giải thích pháp luật cũng như để áp dụng vào việc giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trong thực tế. Hoặc nói cách khác, nguồn pháp luật là tất cả các căn cứ được chủ thể có thẩm quyền sử dụng để xây dựng, ban hành, giải thích pháp luật cũng như để áp dụng vào việc giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trên thực tế. Như vậy, nguồn của pháp luật gồm có nguồn nội dung và nguồn hình thức…”[23] Ngoài việc xác định có nguồn nội dung, tác giả của quan điểm này còn xác định cụ thể hơn: “Nguồn hình thức của pháp luật được hiểu là phương thức tồn tại của các quy phạm pháp luật trong thực tế hay là nơi chứa đựng, nơi có thể cung cấp các quy phạm pháp luật, tức là những căn cứ mà các chủ thể có thẩm quyền dựa vào đó để giải quyết các vụ việc phát lý xảy ra trên thực tế.”

Một quan điểm khác cụ thể và mở rộng hơn nguồn pháp luật: “Hình thức bên ngoài hay nguồn của pháp luật gồm có các văn bản pháp luật (kể cả các văn bản quy phạm pháp luật), các hiệp ước quốc tế, tập quán và tục lệ quốc tế, các hợp đồng (khế ước), luật tục, án lệ, những quy định của luật tôn giáo (chẳng hạn luật Hồi giáo), các học thuyết khoa học pháp lý.”[24]

Bên cạnh đó, cũng có quan điểm xác định: “pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo mục tiêu, định hướng cụ thể. Với cách tiếp cận này, pháp luật chính là thứ chuẩn mực xã hội, là thước đo của hành vi được hình thành bằng con đường nhà nước và mang tính quyền lực nhà nước” và “… bộ phận cốt lõi, không thể thiếu của hệ thống pháp luật cũng là pháp luật (toàn bộ các quy định pháp luật chứa trong các nguồn luật, được sắp xếp thành những cấu trúc khác nhau theo trật tự nhất định)…”[25]

3.1.2. Các nguồn luật quốc tế về bảo hộ nhãn hiệu mùi hương

3.1.2.1. Các điều ước quốc tế

Hiệp định TRIPS 1994 về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền SHTT ra đời đã nêu rõ khái niệm nhãn hiệu theo Khoản 1 Điều 15 như sau: “Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc hợp dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác đều có thể làm nhãn hiệu hàng hóa. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình họa và tổ hợp các sắc màu cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó phải có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa”. Định nghĩa không hạn chế các loại dấu hiệu có thể cấu thành nhãn hiệu, chỉ yêu cầu dấu hiệu cấu thành nhãn hiệu phải có khả năng phân biệt. Hiệp định TRIPS cũng cho phép các thành viên có thể quy định về nhãn hiệu không phải là dấu hiệu nhìn thấy được, có nghĩa là các dấu hiệu cấu thành nên nhãn hiệu có thể là các loại dấu hiệu nhận biết được bằng các giác quan khác ngoài thị giác. Như vậy, với cách ghi nhận khái niệm nhãn hiệu khái quát và mềm dẻo của mình, Hiệp định TRIPS dành quyền quyết định cho các Thành viên. Các quốc gia Thành viên đều có thể lựa chọn BHNH mùi hương hay không tùy thuộc vào điều kiện pháp luật của từng quốc gia. Trên cơ sở này, trong các hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia, đặc biệt là Hoa Kỳ, loại nhãn hiệu mới này đã góp phần trong việc tạo ra một hình thức quảng bá và chiến lược quảng cáo mới làm thay đổi nhận thức của người tiêu dùng về nhãn hiệu của các nhà sản xuất, chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ.

Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) đưa ra khái niệm về nhãn hiệu như sau: “Nhãn hiệu được hiểu là một dấu hiệu đặc trung để chỉ rõ một loại hàng hóa hay một loại dịch vụ nào được một cá nhân hay doanh nghiệp nhất định sản xuất hay cung cấp”. Theo định nghĩa này, WIPO cho rằng nhãn hiệu ngoài chức năng là phân biệt các loại hàng hóa hay dịch vụ thì còn là dấu hiệu xác định nhà sản xuất hay cung cấp loại dịch vụ đó.

Hiệp ước Singapore về Luật Nhãn hiệu (Singapore Treaty on the Law of Trademarks) được thông qua tại Singapore ngày 27/3/2006 của WIPO đã áp dụng cho tất cả các loại dấu hiệu có thể đăng ký làm nhãn hiệu của các bên ký kết Chi tiết hướng dẫn thi hành Hiệp ước này quy định các loại nhãn hiệu có thể được đăng ký bảo hộ bao gồm nhãn hiệu ba chiều, nhãn hiệu màu sắc, nhãn hiệu hologram, nhãn hiệu động, nhãn hiệu vị trí và các loại nhãn hiệu không nhận biết bằng thị giác. Các loại nhãn hiệu không nhận biết bằng thị giác thường là nhãn hiệu âm thanh và nhãn hiệu mùi vị. Hiệp ước quy định cho phép các bên ký kết đăng ký nhãn hiệu là tất cả các loại dấu hiệu không bị cấm trong Công ước Paris, ngoài ra “Các quy định theo Hiệp ước Singapore về Luật Nhãn hiệu” còn liệt kê cụ thể 6 loại NHPTT được áp dụng. Hiệp ước này cũng không bắt buộc các bên ký kết phải thực hiện nghĩa vụ bảo hộ tất cả các loại NHPTT, mà tại Điều 29 của Hiệp ước quy định, bất kỳ quốc gia hay tổ chức phi chính phủ nào cũng có thể áp dụng quy định về bảo lưu phạm vi bảo hộ các loại NHPTT. Như vậy , có thể thấy pháp luật quốc tế đã có những phát triển trong nhận thức đối với vấn đề NHPTT nói chung và nhãn hiệu mùi nói riêng.

3.1.2.2. Các Hiệp định đa phương mà Việt Nam là thành viên

Tại Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) , Chương 18 có quy định về nhãn hiệu thương mại (tương đương với nhãn hiệu, tên thương mại theo pháp luật Việt Nam) dưới góc độ đối tượng được bảo hộ nội dung sau: ngoài các đối tượng truyền thống, CPTPP còn mở rộng ra cả âm thanh, và khuyến khích các nước bảo hộ cả mùi; đối với tất cả các đối tượng được bảo hộ, không bắt buộc phải là dấu hiệu nhìn thấy được. Khác với quy định của Hiệp định TRIPs, Hiệp định CPTPP yêu cầu quốc gia tham gia không thể chỉ giới hạn phạm vi bảo hộ đối với các dấu hiệu có thể nhìn thấy mà đòi hỏi tối thiểu là phải bảo hộ đối với nhãn hiệu âm thanh. Còn nhãn hiệu mùi hương được xem như sự khuyến khích bảo hộ và không bắt buộc đối với các quốc gia thành viên do việc BHNH mùi hương đòi hỏi những yêu cầu cao hơn, khó khăn hơn so với việc BHNH âm thanh. Về việc phải BHNH thương mại dưới hình thức âm thanh, Việt Nam chỉ phải thực hiện nghĩa vụ này sau 3 năm kể từ ngày CPTPP có hiệu lực. Vì vậy, Việt Nam sẽ phải điều chỉnh một số điều trong Luật Sở hữu trí tuệ để phù hợp với Hiệp định CPTPP. Về thời gian bảo hộ, CPTPP yêu cầu các nước thành viên phải BHNH thương mại tối thiểu là 10 năm, và có thể được gia hạn nhiều lần, tương tự như pháp luật Việt Nam hiện hành.[26]

3.2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT QUỐC TẾ VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU MÙI HƯƠNG

Do gặp hạn chế về khả năng sử dụng, đặc biệt trong quảng cáo, lan truyền và tiếp cận người tiêu dùng nên nhãn hiệu mùi được bảo hộ hiện nay chỉ có số lượng khiêm tốn. Mặc dù nhiều quốc gia trên thế giới thừa nhận BHNH mùi trong định nghĩa tổng thể về nhãn hiệu, nhưng không có bất kỳ hướng dẫn chi tiết về việc bảo hộ ngay từ đầu. Một số ít quốc gia có hướng dẫn chi tiết như Hoa Kỳ, Australia, EU… đều xuất phát từ thực tiễn các vụ từ chối bảo hộ của cơ quan nhãn hiệu và các khiếu nại của người nộp đơn. Về điều kiện bảo hộ mùi hương, có rất ít đơn đăng ký BHNH mùi trên thế giới có thể vượt qua giai đoạn thẩm định hình thức (EU, UK) và vượt qua cả thẩm định hình thức và nội dung (US, Australia, New Zealand…) để được cấp bảo hộ. US hiện đang dẫn đầu về số lượng bảo hộ với khoảng hơn 10 nhãn hiệu mùi hương kể từ năm 1990, Cơ quan sở hữu trí tuệ Liên minh Châu Âu (EUIPO) từng chấp thuận bảo hộ 02 nhãn hiệu nhưng hiện tại chỉ còn 1 nhãn hiệu mùi có hiệu lực, cơ quan nhãn hiệu UK (UKIPO) chấp thuận bảo hộ 2 nhãn hiệu mùi hương, cơ quan nhãn hiệu Australia (IP Australia) sau khi từ chối bảo hộ tới 05 nhãn hiệu mùi từ năm 1996 nhưng đến nay vẫn chỉ có duy nhất 1 nhãn hiệu mùi được chấp thuận bảo hộ vào năm 2009… Vì các quốc gia nêu trên đều theo hệ thống Thông luật nên việc xem xét khả năng một yêu cầu BHNH mùi thường bị ảnh hưởng bởi các phán quyết có trước của các cơ quan nhãn hiệu đối với các đơn hoặc đăng ký nhãn hiệu có trước đó.[27]

2.2.1. Quy định về nhãn hiệu mùi hương theo pháp luật Hoa Kỳ

Theo lịch sử, nhãn hiệu mùi hương được đăng ký và bảo hộ đầu tiên tại Hoa Kỳ vào năm 19905 và kể từ thời gian đó trở về sau, Hoa Kỳ tiếp tục có nhiều nhãn hiệu mùi hương đăng ký thành công. Theo quy định pháp luật Hoa Kỳ – đạo luật Lanham, nhãn hiệu được định nghĩa như sau: “thuật ngữ nhãn hiệu bao gồm bất kỳ từ ngữ, tên, ký hiệu hoặc bất kỳ dấu hiệu nào được sử dụng bởi một cá nhân hay một người có ý định sử dụng nhãn hiệu trong thương mại và đăng ký theo nguyên tắc quy định tại chương này để xác định, phân biệt hàng hóa của họ, bao gồm sản phẩm độc quyền của nhà sản xuất này với nhà sản xuất khác và để chỉ ra nguồn gốc của hàng hóa”. Như vậy, pháp luật nhãn hiệu Hoa Kỳ đã dự liệu bảo đảm mọi loại nhãn hiệu đều có thể được đăng ký trong tương lai. Thông qua cách quy định như trên, Hoa Kỳ đã công nhận mùi hương có thể là dấu hiệu, từ đó có khả năng trở thành nhãn hiệu dùng với mục đích nhận diện và phân biệt hàng hóa/ dịch vụ.

2.2.1.1. Điều kiện bảo hộ nhãn hiệu mùi hương theo pháp luật Hoa Kỳ

Để xác định một mùi hương có tiềm năng được bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu, mùi hương này cần phải thỏa mãn ba điều kiện. Thứ nhất, dấu hiệu mùi hương phải được sử dụng như một nhãn hiệu gắn liền với một sản phẩm, dịch vụ. Sản phẩm ở đây được hiểu là hàng hóa, dịch vụ thương mại cụ thể. Ví dụ: nhãn hiệu mùi hoa đại có thể được sử dụng cho sợi dùng để may vá, sợi thêu vì loại sợi này là một loại hàng hóa cụ thể được đưa vào thương mại. Thứ hai, mùi hương muốn được bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu phải có khả năng phân biệt, thông qua chứng minh tính phi chức năng của dấu hiệu và vai trò như một nhãn hiệu của mùi hương. Thứ ba, dấu hiệu mùi hương trên không được gây nhầm lẫn với các nhãn hiệu khác.

2.1.2.2. Đăng ký nhãn hiệu mùi hương theo pháp luật Hoa Kỳ

Khi nộp đơn đăng ký nhãn hiệu mùi hương, đạo luật Lanham yêu cầu người nộp đơn cần nộp bảng mô tả chi tiết nhãn hiệu. Trong trường hợp đơn đăng ký nhãn hiệu mùi hương cùng với những thành phần khác có thể nhìn thấy được, việc nộp bản vẽ là yêu cầu bắt buộc bởi lẽ không thể phủ nhận thực tế rằng hình vẽ đóng vai trò rất quan trọng trong việc đăng ký nhãn hiệu. Hình vẽ sẽ được lưu lại trong hồ sơ tại Cơ quan sáng chế và nhãn hiệu Hoa Kỳ (USPTO), đồng thời được thể hiện trong giấy chứng nhận đăng ký của các đại diện nhãn hiệu đăng ký. Ngoài ra, đối với đơn đăng ký điện tử tại USPTO, mẫu nhãn hiệu phải được nộp trực tiếp hoặc thông qua bưu điện, theo số đơn đã đăng ký, ngay sau khi việc nộp đơn điện tử thành công.

Sau khi đơn đăng ký BHNH mùi hương được nộp, thẩm định viên sẽ phải cân nhắc hai vấn đề riêng biệt liên quan đến tính chức năng và khả năng phân biệt của dấu hiệu.

– Thứ nhất là tính chức năng.

Theo pháp luật của Hoa Kỳ, vấn đề quan trọng cần chứng minh là nhãn hiệu mùi hương được đăng ký chỉ có một chức năng duy nhất là chỉ định nguồn gốc của sản phẩm, chứ không phải chỉ dẫn đến đặc điểm của sản phẩm gắn liền với mùi hương. Một dấu hiệu mùi hương sẽ không được bảo hộ nếu có tính chức năng. Điều này đồng nghĩa với việc một dấu hiệu mùi hương sẽ bị từ chối bảo hộ nếu mùi này trùng với mùi tự nhiên của sản phẩm. Ví dụ: mùi hương chuối sẽ không được đăng ký bảo hộ cho sản phẩm chuối. Ngoài ra, một nhãn hiệu mùi hương sẽ được xem là có tính chức năng nếu mùi hương này do công dụng hay chất lượng của sản phẩm tạo ra, hay nói cách khác, việc áp dụng mùi hương “cần thiết cho việc sử dụng, mục đích sử dụng hay ảnh hưởng đến giá thành hoặc chất lượng của sản phẩm”. Chính vì vậy, Ủy ban xét xử và khiếu nại nhãn hiệu Hoa Kỳ (TTAB) đã đặc biệt chỉ dẫn một mùi hương sẽ không thể được đăng ký là nhãn hiệu nếu sản phẩm chủ yếu được sử dụng nhờ mùi hương đó. Trên thực tế, USPTO đã từ chối BHNH cho sản phẩm dầu thơm được mô tả là: “sản phẩm có mùi hương aldelhudic-floral, với lớp trên cùng là mùi aldehit, hương cam bergamont, chanh và hoa cam; lớp giữa là hương hoa tinh tế từ hoa nhài, hoa huệ thung lũng, cây thủy tiên và cây ngọc lan tây, mà mùi hương nữ tính lớp trong cùng từ gỗ đàn hương, bách hương, vani, hổ phách, xạ hương, mùi xạ”. Lý do USPTO đưa ra là mùi hương đăng ký nhãn hiệu chính là đặc tính “có thể ngửi được” của sản phẩm dầu thơm. Điều này đã chứng minh nhãn hiệu này không đạt được yêu cầu về tính phi chức năng. Trong một vụ việc khác, thẩm định viên cũng đã từ chối đơn đăng ký “mùi hương gợi đến hương bạc hà” được sử dụng cho mặt nạ dùng trong y tế với lập luận là mùi hương trong trường hợp này mang tính chức năng. Bởi lẽ, trong lĩnh vực y tế, mùi hương bạc hà trong mặt nạ có tác dụng rõ rệt trong việc giúp người bệnh sẽ có cảm giác dễ chịu hơn. USPTO cũng chỉ ra các bài báo chứng minh việc bệnh nhân mang mặt nạ trước khi gây mê sẽ có tác dụng hiệu quả hơn đối với việc gây mê phẫu thuật. Bên cạnh đó, một bài báo khác cũng đưa ra thực tế là các đối thủ cạnh tranh khác cũng đã sử dụng mùi hương cho mặt nạ. Chính vì thế, người nộp đơn không được độc quyền sử dụng hương bạc hà cho sản phẩm mặt nạ y tế của mình.

Thông thường, USPTO sẽ quyết định tính chức năng của mùi hương dựa theo các yếu tố sau: Thứ nhất, việc sử dụng mùi hương lên sản phẩm có phải là sáng chế hay giải pháp hữu ích; Thứ hai, việc áp dụng này có nhằm mục đích quảng cáo những lợi ích của sản phẩm; Thứ ba, đây có phải là thiết kế thay thế. Thứ tư, ứng dụng mùi hương cho hàng hóa, dịch vụ làm phương pháp sản xuất đơn giản hay rẻ hơn. Tuy nhiên, trên thực tế, tính chức năng đối với hàng hóa không bắt buộc phải xác định dựa trên tất cả các yếu tố, mà có thể tùy trường hợp sử dụng kết hợp các yếu tố đã phân tích.

Chính vì vậy, việc yêu cầu nhãn hiệu phải mang tính phi chức năng có ý nghĩa đặc biệt trong duy trì sự cân bằng thích hợp giữa luật về sáng chế, giải pháp hữu ích với luật nhãn hiệu. Nếu việc bảo hộ mùi hương có tính năng thiết thực cho sản phẩm dưới dạng sáng chế hay giải pháp hữu ích thì thời hạn bảo hộ cho các đối tượng này ngắn hơn, thay vì cho phép chủ sở hữu sử dụng mùi hương trên dưới dạng nhãn hiệu vô thời hạn. Ngoài ra, tính phi chức năng cũng có tác dụng đảm bảo mục tiêu ban đầu của nhãn hiệu là chỉ định nguồn, chứ không phải là hạn chế quyền cạnh tranh với những đối thủ kinh doanh khác. Ví dụ, trong vụ Clarke, người nộp đơn đã thành công khi chứng minh mùi hương hoa đại không là đặc tính liên quan đến việc sử dụng chỉ thêu và sợi dệt và không gây trở ngại kinh doanh cho đối thủ.

– Thứ hai là khả năng phân biệt.

Bên cạnh chức năng nhận diện và chỉ dẫn nguồn gốc hàng hóa, các NHPTT gắn với từng sản phẩm, dịch vụ còn phải có khả năng phân biệt. Theo đó, để một nhãn hiệu được ghi nhận vào Đăng bạ chính (Principal Register) thì dấu hiệu đó phải có tính phi chức năng và chủ sở hữu nhãn hiệu phải chứng minh được bản chất của dấu hiệu vốn đã có khả năng phân biệt (inherently distinctive) hoặc dấu hiệu này sẽ đạt được khả năng phân biệt thông qua việc sử dụng (acquired distinctive). Tuy nhiên, trong khi một số dấu hiệu phi truyền thống như âm thanh về bản chất có thể có sự phân biệt, thì dấu hiệu mùi hương lại khó có thể tồn tại sẵn khả năng phân biệt. Vì vậy, chủ yếu nhãn hiệu mùi hương được đăng ký bằng cách chứng minh mùi hương của nhãn hiệu đạt được khả năng phân biệt trong quá trình sử dụng. Nếu tại thời điểm nộp đơn người nộp đơn không thể chứng minh được khả năng đạt được sự phân biệt thì mùi hương chỉ có thể đăng ký theo Đăng bạ phụ. Sau khi nhãn hiệu mùi hương này tồn tại được 5 năm trở lên theo Đăng bạ phụ và có đủ chứng cứ kèm theo để thỏa mãn sự đạt được tính phân biệt thì người nộp đơn có thể nộp đơn đăng ký mới cho nhãn hiệu theo Đăng bạ chính. Đối với quá trình này, người nộp đơn đăng ký cần phải chuẩn bị rất nhiều tài liệu, chứng cứ trong một khoảng thời gian để thẩm định viên đánh giá. Ví dụ, trong đơn đăng ký “hương hoa tươi, mạnh, gợi tới hương hoa đại” để sử dụng cho sản phẩm sợi dùng để may vá và sợi thêu. Mặc dù thẩm định viên từ chối việc đăng ký BHNH theo cơ chế Đăng bạ chính trên cơ sở nhãn hiệu không có tiềm năng giúp người tiêu dùng nhận biết, phân biệt sản phẩm, nhưng người nộp đơn đã nộp bổ sung chứng cứ giúp nhãn hiệu đăng ký bảo hộ theo cơ chế Đăng bạ chính thành công. Cụ thể là: (i) người nộp đơn đã tuyên bố rằng tại thời điểm đó, các nhà sản xuất khác chưa có kiến thức trong việc tạo mùi hương cho sản phẩm của họ; (ii) sản phẩm đã có quảng cáo chào hàng “mùi hương ngọt ngào”; (iii) chủ sở hữu nhãn hiệu đã nộp bằng chứng chứng minh sự thành công của sản phẩm liên quan đến vấn đề đây là sản phẩm sợi mang mùi hương độc nhất trên thị trường. Trong khi đó, tại đơn đăng ký mùi hương nho cho sản phẩm dầu nhớt và động cơ đốt trong, người nộp đơn phải nộp bổ sung các chứng cứ là: (i) Mùi hương nho đã được sử dụng được trong trước ít nhất 5 năm kể từ ngày nộp đơn đăng ký; (ii) Hàng năm bán được ít nhất 5000 chai nhớt có hương nho trong 5 năm trên; (iii) Quảng bá sản phẩm trên một số lượng danh mục, tài liệu kinh doanh và trên trang web của người nộp đơn. Tuy nhiên, thẩm định viên đã cho rằng chứng cứ của người nộp đơn không đủ để chứng minh là sản phẩm đã đạt được tính phân biệt. Cụ thể, thẩm định viên đã chứng minh rằng nhãn hiệu mùi hương này đã được sử dụng ít hơn 10 năm, doanh thu của sản phẩm này thấp hơn trong hơn 5 năm mùi hương được sử dụng và người nộp đơn cũng không nộp được số lượng chính xác các tạp chí quảng bá sản phẩm. Kết quả là, đơn đăng ký bị bác bỏ vì không có câu trả lời cho cơ quan chức năng. Đến những năm gần đây 6 nhãn hiệu mùi hương đã được đăng ký vào Đăng bạ phụ và hiện đăng ký này vẫn còn hiệu lực. Đồng thời, đến nay, mới chỉ có thêm một nhãn hiệu với mùi hương tác động cao bao gồm xạ hương, vani, hoa hồng, và oải hương cho dầu dưỡng tóc, kem cho tóc, kem dưỡng ẩm, tạo kiểu tóc được ghi nhận vào Đăng bạ chính.[28]

2.2.2. Quy định pháp luật về nhãn hiệu mùi hương theo pháp luật Liên minh Châu Âu

Theo Điều 4 Quy định số 40/1994 ngày 20/12/1993 của Hội đồng châu Âu: “Một nhãn hiệu công cộng có thể bao gồm bất kỳ dấu hiệu nào được trình bày một cách rõ ràng và chi tiết, đặc biệt các, bao gồm tên riêng, các phác họa hình ảnh, từ ngữ, các chữ số, hình dáng của hàng hóa hoặc của bao bì hàng hóa mà các dấu hiệu đó có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ thể kinh doanh này với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể kinh doanh khác”. Điều kiện “bất kỳ dấu hiệu nào làm cho định nghĩa về nhãn hiệu được mở rộng, có thể bao hàm được cả những dấu hiệu phi truyền thống như âm thanh, mùi vị, hình ba chiều… miễn là những dấu hiệu đó có khả năng phân biệt và được trình bày rõ ràng chi tiết. Việc xây dựng khái niệm mang tính mở đã được các quốc gia thành viên thừa nhận và ứng dụng rộng rãi. Nhưng yêu cầu dấu hiệu phải thể hiện được trình bày chi tiết và rõ ràng tạo nên khó khăn khi bảo hộ dấu hiệu mùi để được bảo hộ là nhãn hiệu cộng đồng. Ngay cả khi chủ nhân hiệu nộp kèm đơn đăng ký cả mẫu chứa mùi, bản mô tả cũng như công thức mùi thì vẫn khó đáp ứng điều kiện nêu trên Theo Điều 2 của Chỉ thị châu Âu và theo Đạo luật Thương hiệu Vương quốc Anh năm 1994 , ba yêu cầu chính để được đăng ký làm nhãn hiệu như sau: (i) Nhãn hiệu phải là một dấu hiệu hoặc bất cứ thứ gì có thể truyền đạt thông tin. (ii) Dấu hiệu phải có khả năng phân biệt các sản phẩm hoặc dịch vụ của một cam kết với một sản phẩm khác. Đây rõ ràng là một yêu cầu về tính khác biệt của nhãn hiệu. (iii) Nhãn hiệu có khả năng đại diện đồ họa. Khả năng đại diện đồ họa của nhãn hiệu là một trong ba yêu cầu nhằm mục đích nhận dạng chính xác hơn nhãn hiệu trong đơn đăng ký nhãn hiệu. Một nhãn hiệu có đồ họa rõ ràng và chính xác sẽ đảm bảo vệ quyền và trách nhiệm pháp lý cho chủ sở hữu theo Đạo luật nêu trên.[29]

Trước ngày 01/10/2017, Luật nhãn hiệu EU yêu cầu hồ sơ đăng ký nhãn hiệu phải có bản mô tả đồ họa. Tuy nhiên, yêu cầu về mô tả đồ họa của nhãn hiệu mùi hương thường khó hơn cách thức mô tả bằng công thức hóa học, bằng chữ viết, hoặc bằng cách gửi mẫu mùi hoặc kết hợp các yếu tố đó vì hầu như không có phương tiện đồ họa nào đại diện cho mùi hương một cách chính xác để thể hiện. Khác với mã màu quốc tế hoặc ký hiệu âm nhạc, một dấu hiệu mùi hương khó được xác định một cách khách quan và chính xác thông qua việc gán tên hoặc mã cụ thể cho từng mùi. Do đó, khó khăn lớn nhất của BHNH mùi tại EU lại chính là cách thức thể hiện đồ họa. Trong vụ án số C-273/00, [2002] ECR I-11737 ngày 12/12/2002 của Ralf Sieckmann v. Deutsches Patent- und Markenamt, ECJ đã ra phán quyết, trừ khi dấu hiệu có thể được biểu thị bằng đồ họa bằng phương tiện hình ảnh, đường nét hoặc ký tự, trong một cách rõ ràng, chính xác, khép kín, dễ tiếp cận, dễ hiểu, bền và khách quan, thì dấu hiệu đó có thể đủ điều kiện đăng ký. ECJ đã phán quyết rằng người nộp đơn đã nộp theo hồ sơ một mẫu mùi, một bản mô tả và công thức hóa học và như vậy không đáp ứng các tiêu chí bảo hộ do không thể hiện dưới dạng đồ họa. ECJ cho rằng một công thức hóa học chỉ đại diện cho chất chứ không phải là mùi hương và không thỏa mãn các tiêu chí theo luật bằng một văn bản mô tả chính xác đến mức nó sẽ không cho phép nhầm lẫn. Vụ việc gây trên cãi nêu trên là một trong số các nguyên nhân dẫn đến việc xóa bỏ yêu cầu về cung cấp bản mô tả bằng đồ họa của Luật nhãn hiệu EU2015 và thể hiện một bước quan trọng đối với việc phát triển quyền SHTT theo các thách thức và yêu cầu của môi trường kinh doanh hiện tại. Nó sẽ trở nên dễ dàng hơn để đăng ký không chỉ nhãn hiệu mùi hương mà cả các nhãn hiệu âm thanh và nhãn hiệu chuyển động. Mặc dù về mặt pháp lý, có thể điều này sẽ đặt ra những thách thức đáng kể cho các nhà khoa học, những người sẽ phát triển các công nghệ đại diện mới mà mùi hương có thể sớm được mã hóa thành thông tin trong các tệp điện tử, có thể tái tạo một cách trung thực thông qua các phương tiện công nghệ. Cụ thể là, EUIPO thay đổi yêu cầu rằng chủ đơn có thể thể hiện nhãn hiệu dưới bất kỳ hình thức phù hợp nào bằng cách sử dụng công nghệ có sẵn, và do đó không nhất thiết phải bằng phương tiện đồ họa, với điều kiện là phần thể hiện phải rõ ràng, chính xác, ổn định (công thức hóa học), dễ tiếp cận (dữ liệu Internet), dễ hiểu, ổn định và khách quan (được gọi là 07 tiêu chí Sieckmann). Có thể thấy, những thay đổi lớn nhất mà EUIPO mang lại trong thủ tục nộp đơn nhãn hiệu EU chính là loại bỏ biểu thị đồ họa và về cơ bản thay thế nó bằng Tiêu chí Sieckmann. Vụ Sieckmann đã làm thay đổi không chỉ Luật nhãn hiệu EU mà là cơ sở xây dừng bản hướng dẫn BHNH mùi ở Australia. Trước đó, IPA đã từ chối tới 05 nhãn hiệu mùi từ 1997 đến 2005 và cấp nhãn hiệu đầu tiên vào 2009 là nhãn hiệu mùi khuynh diệp cho sản phẩm gậy đánh golf của E-Concierge Australia Pty Ltd số 1241420. Dựa trên 07 tiêu chí Sieckmann, Australia đã xây dựng quy định chi tiết hơn về các trường hợp loại trừ BHNH mùi như (1) mùi tự nhiên của hàng hóa (những sản phẩm có sẵn mùi như mỹ phẩm, thực phẩm, mùi gỗ cho sản phẩm gỗ, mùi cao su cho lốp xe), (2) mùi dùng để che giấu mùi tự nhiên của hàng hóa (mùi xả chanh cho nước bồn cầu); (3) mùi phổ biến (ví dụ dâu thông, mùi cây sả, mùi chanh, mùi hoa hồng, oải hương …); (4) mùi phải khác biệt với chính hàng hóa đó, nó không phải đặc tính tự nhiên cũng không phải đặc tính dự kiến của hàng hóa mà là thứ gì đó được thêm vào để xác định hàng hóa của người nộp đơn từ những sản phẩm khác trong cùng thị trường (ví dụ mùi hoa đại cho sợi chỉ thêu, hay các loại nước hoa quả cho dầu động cơ tổng hợp). Mùi hương là thứ gì đó bất thường được thêm vào hàng hóa để hỗ trợ xác định chúng thông qua các phương tiện khứu giác từ các sản phẩm tương tự của các thương nhân khác. Ngày nay, công nghệ phát triển thiết bị điện tử có thể tái tạo lại các mùi hương khác nhau theo hướng dẫn của máy tính. Việc phiên bản đại diện cho mùi hương đăng ký có thể sớm được thể hiện dưới dạng tệp điện tử. Đây là một giải pháp tốt có thể tuân thủ tất cả 07 tiêu chí Sieckmann, bao gồm cả khả năng dễ dàng truy cập bởi tất cả công chúng. Theo đó, các tập tin mùi hương có thể được công bố, tra cứu và sao chép lại theo ý muốn. Sự phát triển và tốc độ áp dụng loại công nghệ này sẽ tạo thuận lợi cho quá trình đăng ký và công bố các đơn nhãn hiệu mùi. Một nhãn hiệu mùi hương sau sự phát triển công nghệ có thể sẽ trở nên tiếp cận dễ dàng như một nhãn hiệu thông thường. Ngoài ra, việc cung cấp bằng chứng sử dụng để chống lại việc hủy hiệu lực cũng sẽ không còn bất khả thi như hiện nay, do không có cách thức ghi nhận lại việc sử dụng. Vì vậy, việc thực thi quyền đối với nhãn hiệu mùi cũng là một vấn đề lớn khi khó có thể lưu giữ bằng chứng sử dụng của đối thủ khi phát hiện ngoài việc bắt quả tang. Ngay cả khi có được bằng chứng về xâm phạm nhãn hiệu mùi, các cơ quan thực thi cũng sẽ gặp lúng túng không kém phần xác lập quyền so với việc thực thi quyền các nhãn hiệu dạng khác. Do đó, nhãn hiệu mùi chỉ có thể thực sự phát huy tác dụng của nó khi công nghệ thực sự phát triển.[30]

3.3. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ BHNH MÙI HƯƠNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Theo Khoản 1 Điều 72 Luật SHTT quy định về điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ: “Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc.” Theo quy định trên thì nhãn hiệu muốn được bảo hộ phải được thể hiện dưới dạng nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều. Như vậy, đối chiếu với quy định trên thì dấu hiệu “mùi” không phải là dấu hiệu được bảo hộ là nhãn hiệu vì nó không phải là một “dấu hiệu nhìn thấy được”.

Quy định tại Khoản 1 Điều 74 Luật SHTT cũng giải thích rõ: “Nhãn hiệu được coi là có khả năng phân biệt nếu được tạo thành từ một hoặc một số yếu tố dễ nhận biết, dễ ghi nhớ hoặc từ nhiều yếu tố kết hợp thành một tổng thể dễ nhận biết, dễ ghi nhớ và không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.” Như vậy, đối với dấu hiệu mùi pháp luật Việt Nam vẫn chưa có quy định cụ thể về dấu hiệu này và khả năng phân biệt của nó. Do đó, theo Luật SHTT tuệ thì mùi hương chưa được bảo hộ tại Việt Nam dưới dạng nhãn hiệu.

CHƯƠNG 4: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM CÔNG NHẬN VÀ ÁP DỤNG BẢO HỘ NHÃN HIỆU MÙI HƯƠNG TẠI VIỆT NAM

4.1. ĐÁNH GIÁ VẤN ĐỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU MÙI HƯƠNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Đối với dấu hiệu mùi hương, cũng như các dấu hiệu phi truyền thống không thể nhận biết bằng thị giác khác như dấu hiệu âm thanh, vị , xúc giác, pháp luật Việt Nam cũng chưa quy định hành lang pháp lý về thủ tục xác lập quyền khi chủ sở hữu muốn lựa chọn những dấu hiệu này làm nhãn hiệu. Nếu chủ thể kinh doanh muốn đăng ký những dấu hiệu này làm nhãn hiệu, việc diễn giải những dấu hiệu này vào đơn cũng gặp nhiều khó khăn vì không có quy định phải diễn giải như thế nào cho từng loại dấu hiệu nêu trên. Trong khi các nước phát triển đã quy định rõ các thủ tục cần thiết cho việc đăng lý các dấu hiệu phi truyền thống này làm nhãn hiệu thì pháp luật Việt Nam vẫn chưa có quy định cụ thể để giải quyết trong trường hợp muốn bảo hộ những loại NHPTT. Trong thời kì hội nhập hiện nay thì đây là điều thiếu sót vô cùng to lớn và cần khắc phục.

Với thực tiễn bảo hộ nhiều thập kỉ qua của một số quốc gia trên thế giới, có thể thấy rằng để đặt ra một quy định chấp thuận BHNH mùi không khó nhưng việc triển khai xác lập quyền bảo hộ các nhãn hiệu này trên thực tế sẽ là một khó khăn vô cùng lớn cho Việt Nam. Nhất là khi cơ sở vật chất hiện tại của cơ quan thẩm định chưa đáp ứng được yêu cầu thẩm định các loại nhãn hiệu có cách thể hiện phức tạp như nhãn hiệu mùi. Thời điểm có hiệu lực của Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã đặt ra nhiệm vụ cho các quốc gia thành viên phải thiết lập cơ chế bảo hộ NHPTT không nhìn thấy được, cụ thể là nhãn hiệu mùi. Trong số 11 quốc gia thành viên thuộc Hiệp định CPTPP, có tới 5 quốc gia chấp thuận BHNH mùi. Như vậy, Việt Nam và Malaysia là hai quốc gia còn lại trong CPTPP chưa từng chấp thuận bảo hộ dấu hiệu không nhìn thấy được như nhãn hiệu, đồng nghĩa với việc, nhãn hiệu mùi đều chưa được chấp thuận bảo hộ tại Việt Nam và Malaysia. Với kinh nghiệm bảo hộ của nhiều quốc gia khác và cả các quốc gia thành viên CPTPP, Việt Nam có thể thừa hưởng kinh nghiệm lập pháp cũng như thực tiễn bảo hộ từ các quốc gia này để xây dựng một cơ chế bảo hộ riêng cho các nhãn hiệu âm thanh và mùi.

Nói chung, Việt Nam là một nước đang phát triển, hệ thống bảo hộ và thực thi nhãn hiệu đang ngày càng được hoàn thiện để đáp ứng với nhu cầu hội nhập quốc tế. Cùng với việc tham gia ngày càng nhiều các Hiệp định thương mại song phương và đa phương, dù sớm hay muộn, pháp luật Việt Nam cũng phải bảo hộ NHPTT nói chung và nhãn hiệu mùi nói riêng theo xu thế phát triển tất yếu của thế giới.

4.2. KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ QUY ĐỊNH BẢO HỘ NHÃN HIỆU MÙI HƯƠNG ĐƯỢC ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM

            Thứ nhất, việc BHNH nói chung nên được điều chỉnh bằng một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật riêng. Nhãn hiệu là một đối tượng sở hữu công nghiệp có đặc điểm riêng biệt và thực tiễn bảo hộ khá phức tạp. Ở các nước phát triển như Hoa Kỳ, Anh, Nhật Bản và Trung Quốc đều có một khung pháp lý riêng, bao gồm các văn bản luật và dưới luật, để điều chỉnh việc BHNH. Tại Việt Nam, về đăng kí và BHNH cũng như các đối tượng sở hữu công nghiệp khác, quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất được quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ. Trong khi đó, các nước trên thế giới nói chung cũng như một số nước phát triển đã kể trên thường có văn bản pháp luật riêng điều chỉnh từng+ đối tượng sở hữu công nghiệp. Có trường hợp các quốc gia gộp một số đối tượng sở hữu công nghiệp vào luật chung, nhưng luôn có một văn bản pháp luật riêng để điều chỉnh đố với nhãn hiệu. Thông thường, dưới luật có các văn bản hướng dẫn cụ thể được ban hành do cơ quan chịu trách nhiệm đăng ký. Từ đó, việc đăng kí và BHNH được điều chỉnh một các thống nhất bởi một khung pháp lý riêng. Vì vậy, để phù hợp với thực tiễn và khắc phục được những bất cập, nước ta nên ban hành một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật riêng để điều chỉnh đối với nhãn hiệu.

            Thứ hai, kiến nghị sửa đổi khái niệm về nhãn hiệu tại Khoản 16 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ như sau: “Nhãn hiệu là dấu hiệu hoặc tổ hợp dấu hiệu có thể được nhìn thấy được hoặc cảm nhận được thông qua các giác quan của con người, chủ yếu được thể hiện dưới các dạng: chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc; âm thanh; mùi; vị hoặc các dạng khác và phải có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ thể kinh doanh này với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể kinh doanh khác”. Bên cạnh đó, điều này cũng góp phần quan trọng trong việc đề ra các quy định cho phép đăng ký BHNH đối với mùi, âm thanh, … giúp các chủ thể quyền có thể khai thác tốt hơn, an toàn hơn tài sản trí tuệ của mình. Ngoài ra, khái niệm này do được quy định có tính mở nên có thể linh hoạt chấp nhận các dạng tồn tại khác của dấu hiệu để có thể trở thành nhãn hiệu ngoài các dấu hiệu đã được liệt kê.

            Thứ ba, sửa đổi điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu. Theo Khoản 1 Điều 72 Luật SHTT, nhãn hiệu để được bảo hộ chỉ có thể là “các dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hay nhiều màu sắc”. Điều này là không phù hợp với các điều ước quốc tế trong đó có Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ và pháp luật các nước. Do đó, có thể cho phép nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng điều kiện “là dấu hiệu nhìn thấy được và dấu hiệu không nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc hoặc các hình thức khác”.

            Thứ tư, về tài liệu nộp đơn. Việc BHNH mùi hương yêu cầu sự linh hoạt để tránh đi vào vết xe đổ từ những vụ kiện tụng kéo dài gây tranh cãi về bảo hộ nhãn hiệu mùi hương giữa người nộp đơn và ECJ. Các vụ tranh chấp trong quá trình xác lập quyền giữa người nộp đơn và các cơ quan khiếu nại là một kinh nghiệm tốt để xây dựng những bản hướng dẫn, chẳng hạn các tài liệu mô tả có thể được áp dụng linh hoạt nhưng đảm bảo được các tiêu chí Sieckmann. Những tài liệu nộp đơn thông thoáng của Hoa Kỳ thúc đẩy số lượng nộp đơn nhãn hiệu mùi và âm thanh tại nước này có số lượng nhiều nhất trên thế giới. Mặc dù vậy, việc mọi người có thể tiếp cận với các nhãn hiệu mùi hương qua Internet hiện nay là điều bất khả thi. Điều này dẫn tới các khó khăn trong việc thúc đẩy các chủ đơn nộp đơn nhãn hiệu mùi hương, khó khăn trong việc duy trì nhãn hiệu, cung cấp bằng chứng sử dụng và thực thi quyền khi bị xâm phạm. Do đó, các cơ quan nhãn hiệu và các chủ đơn nhãn hiệu thấy rằng chỉ có công nghệ hiện đại mới khắc phục được những khó khăn trong quá trình nộp đơn đăng ký nhãn hiệu mùi, gồm việc (i) tạo ra công nghệ ứng dụng rộng rãi trên các máy tính thiết bị phát ra mùi tích hợp và (ii) xây dựng hệ thống phân loại quốc tế cho các loại mùi với các mẫu mùi có đủ tính ổn định và độ bền mà mọi người có thể truy cập trực tuyến. Cuối cùng, để hỗ trợ thủ tục đăng ký bảo hộ các nhãn hiệu chứa các dấu hiệu không nhìn thấy được nói chung, cần có sự đồng bộ về hệ thống dữ liệu. Trong đó, toàn bộ các thông tin dữ liệu đăng ký bảo hộ của các quốc gia chấp thuận bảo hộ nhãn hiệu âm thanh và mùi cần được triển khai trực tuyến. Các tài liệu trực tuyến sẽ được sử dụng để đăng tải lại trên Công báo sở hữu công nghiệp trực tuyến cũng như hệ thống dữ liệu tra cứu mà bất kỳ ai có Internet đều có thể tiếp cận được.

Trong hoạt động thương mại quốc tế, việc BHNH đóng vai trò rất quan trọng, không chỉ bảo đảm quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu mà còn là công cụ hữu hiệu để giúp người tiêu dùng có thể lựa chọn sản phẩm của đúng nhà cung cấp mà mình mong muốn. Hoạt động thương mại quốc tế ngày càng phát triển thì nhu cầu bảo hộ ở các thị trường xuất khẩu đối với nhãn hiệu cũng ngày càng tăng. Trong khi đó, sự khác nhau trong chế độ BHNH giữa các nước dẫn tới ảnh hưởng đáng kể tới hoạt động cạnh tranh lành mạnh và lợi ích chính đáng của các chủ sở hữu nhãn hiệu trong môi trường kinh doanh quốc tế. Một trong những sự khác nhau giữa chế độ BHNH giữa các nước là quy định về các dấu hiệu có thể được sử dụng làm nhãn hiệu. Đối với các loại dấu hiệu phi truyền thống – đặc biệt là những dấu hiệu không nhận biết bằng thị giác, sự chấp nhận và bảo hộ giữa các nước có những khác biệt đáng kể. Khác biệt với những NHPTT khác, nhãn hiệu mùi hương thể hiện đặc trưng thông qua việc sử dụng mùi hương để giúp người tiêu dùng nhận biết, phân biệt hàng hóa và dịch vụ giữa các chủ sở hữu hàng hóa, dịch vụ khác nhau ngay cả khi khách hàng không nhớ tên sản phẩm đó. Bên cạnh đó, nhãn hiệu mùi hương góp phần tạo lợi thế độc quyền cho chủ sở hữu thông qua việc ngăn chặn chủ thể khác đăng ký và sử dụng các nhãn hiệu tương tự. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của việc đăng ký nhãn hiệu mùi hương, việc BHNH này cũng sẽ mang lại thách thức cho các doanh nghiệp cũng như cơ quan quản lý nhãn hiệu.

Bài nghiên cứu đã đưa ra những vấn đề lý luận về khái niệm, đặc điểm, hình thức BHNH mùi hương, nguồn luật áp dụng để bảo hộ nhãn hiệu này,… Từ đó cung cấp cái nhìn tổng quan của tác giả về những đặc trưng cơ bản của vấn đề BHNH mùi hương. Bên cạnh đó, tác giả cũng làm rõ nội dung các quy định của luật quốc tế về nhãn hiệu mùi hương, kết hợp với thực tiễn và có liên hệ một số quốc gia, từ đó đánh giá, đưa ra những kiến nghị nhằm công nhận và áp dụng bảo hộ nhãn hiệu mùi hương tại Việt Nam.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Văn bản quy phạm pháp luật

  1. Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009, 2019
  2. Nghị định số 122/2010/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2010 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 103/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp
  3. Thông tư 01/2007/TT-BKHCN hướng dẫn thi hành nghị định 103/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành luật sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp do bộ khoa học và công nghệ ban hành

B. Tài liệu tham khảo khác

  1. Bross & Partners (2019), Thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống ở Việt Nam trong vòng một thập kỷ qua và những thách thức cần lưu ý,
  2. Bùi Thị Phượng, Bảo hộ nhãn hiệu “mùi” của một số quốc gia trên thế giới,
  3. Cục Sở hữu trí tuệ (2019), Tổng quan về nhãn hiệu phi truyền thống,
  4. Cục Sở hữu trí tuệ (2019), Bảo hộ nhãn hiệu mùi,
  5. Dịch vụ đăng ký thương hiệu, Cách đăng ký nhãn hiệu,
  6. Đại học Kinh tế Quốc dân, Khoa Luật, Giáo trình Pháp luật Sở hữu trí tuệ, (chủ biên: PGS.TS. Trần Văn Nam, TS. Nguyễn Thị Hồng Hạnh), NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, 2019
  7. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, (chủ biên: GS.TS Lê Minh Tâm), NXB Công an nhân dân, 2010
  8. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lý luận về nhà nước và pháp luật, (chủ biên: GS.TS Lê Minh Tâm, PGS. TS Nguyễn Minh Đoan), NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2013
  9. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, (chủ biên TS. Phùng Trung Tập), NXB Công an nhân dân, 2008
  10. Đào Trí Úc, Những vấn đề lí luận cơ bản về nhà nước và pháp luật, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993
  11. Nguyễn Thị Hồi, Về khái niệm nguồn của pháp luật, Tạp chí luật số 2/2008
  12. Nguyễn Thị Tú Anh (2008), Bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật Cộng hòa Pháp, Tạp chí Luật học (số 12)
  13. Nguyễn Hồ Bích Hằng, Nguyễn Xuân Mỹ Hiền, Huỳnh Thanh Thịnh, Chế định đăng ký nhãn hiệu mùi hương theo pháp luật Hoa Kỳ, Tạp chí Khoa học pháp lý số 05 (108)/2017,
  14. Nguyễn Khánh Linh (2020), Thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu âm thanh và mùi ở các nước phát triển và gợi ý cho Việt Nam, tại Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam,
  15. Phan Ngọc Tâm (2008), Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật Châu Âu và Hoa Kỳ,
  16. Trần Cao Thành, Quy định về bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống của một số quốc gia và kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam,

[1] Xem Phan Ngọc Tâm (2008), Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật Châu Âu và Hoa Kỳ,

[2] WIPO (2004), Intellectual Property Handbook: policy, law and use, WIPO Publication, pp.68.

[3] Xem Khoản 1 Điều 15 Hiệp định TRIPS

[4] Xem Khoản 16 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009, 2019

[5] Xem Khoản 1 Điều 6 Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ

[6] Xem Đạo luật Nhãn hiệu (Lanham Act) ban hành năm 1946

[7] Xem Điều 4 bản Quy định số 40/1994 ngày 20/12/1993 của Hội Đồng Châu Âu

[8] Xem Điều 72 Luật SHTT

[9] Xem Khoản 1 Điều 74 Luật SHTT

[10] Xem Khoản 20 Điều 4 Luật SHTT

[11] Xem Khoản 17 Điều 4 Luật SHTT

[12] Xem Khoản 19 Điều 4 Luật SHTT

[13] Xem Khoản 18 Điều 4 Luật SHTT

[14] Xem Nguyễn Khánh Linh (2020), Thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu âm thanh và mùi ở các nước phát triển và gợi ý cho Việt Nam, tại

[15] Xem Cục Sở hữu trí tuệ (2019), Tổng quan về nhãn hiệu phi truyền thống,

[16] Xem Cục Sở hữu trí tuệ (2019), Bảo hộ nhãn hiệu mùi,

[17] Xem Nguyễn Thị Tú Anh (2008), Bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật Cộng hòa Pháp, Tạp chí Luật học (số 12), trang 47 – 48.

[18] Xem Trần Cao Thành (2020), Quy định về bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống của một số quốc gia và kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, trang 44,

[19] Xem Cục Sở hữu trí tuệ (2019), Tổng quan về nhãn hiệu phi truyền thống,

[20] Xem Bùi Thị Phượng (2017), Bảo hộ nhãn hiệu “mùi” của một số quốc gia trên thế giới,

[21] Xem Cục Sở hữu trí tuệ (2019), Bảo hộ nhãn hiệu mùi,

[22] Xem Đại học Luật Hà Nội, 2010, (chủ biên: GS.TS Lê Minh Tâm), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, NXB Công an nhân dân,tr 401.

[23] Xem Nguyễn Thị Hồi, Về khái niệm nguồn của pháp luật, Tạp chí luật số 2/2008, tr 29, 30.

[24] Xem Đào Trí Úc, Những vấn đề lí luận cơ bản về nhà nước và pháp luật, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, tr 54.

[25] Xem Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lý luận về nhà nước và pháp luật, (chủ biên: GS.TS Lê Minh Tâm, PGS. TS Nguyễn Minh Đoan), NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2013, tr 471.

[26] Theo Trần Cao Thành, Quy định về bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống của một số quốc gia và kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, trang 46,

[27] Theo Nguyễn Khánh Linh, Thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu âm thanh và mùi ở các nước phát triển và gợi ý cho Việt Nam,

[28] Xem Nguyễn Hồ Bích Hằng, Nguyễn Xuân Mỹ Hiền, Huỳnh Thanh Thịnh, Chế định đăng ký nhãn hiệu mùi hương theo pháp luật Hoa Kỳ, Tạp chí Khoa học pháp lý số 05 (108)/2017, trang 27-30,

[29] Theo Trần Cao Thành, Quy định về bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống của một số quốc gia và kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, trang 45,

[30] Theo Nguyễn Khánh Linh (2020), Thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu âm thanh và mùi ở các nước phát triển và gợi ý cho Việt Nam,

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Nhãn hiệu, thương hiệu hay còn gọi là logo, hình ảnh đại diện, nhận biết của một thương hiệu, hàng hoá, dịch vụ. Đây là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng, góp phần xây dựng nên nền móng cho sự phát triển của một doanh nghiệp.

Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu một số vấn đề từ khái niệm cho tới các điều kiện và thủ tục để đăng ký độc quyền, bảo hộ cho một thương hiệu, nhãn hiệu bất kỳ dù rằng bạn có thật sự sở hữu nó trên thực tế hay không.

1. KHÁI NIỆM NHÃN HIỆU

Thuật ngữ nhãn hiệu “brand” bắt nguồn từ người Aixơlen cổ đại, với nghĩa là đốt cháy “to burn”. Theo một số nghiên cứu cho thấy, từ thời xa xưa con người đã biết sử dụng nhãn hiệu để nhận biết nguồn gốc, xuất xứ của hàng hóa, dịch vụ. Đối với gia súc, người chăn nuôi gia súc khi trao đổi, mua bán gia súc của mình với người khác đã dùng biện pháp đánh dấu thông qua các vết cắt, xiên lỗ trên tại các con gia súc. Đối với các đồ thủ công mĩ nghệ như đồ gốm sứ, tơ lụa, gia thú con người đã biết dùng chữ ký hoặc biểu tượng để phân biệt sản phẩm do họ làm ra với sản phẩm của người khác . Trải qua các cuộc cách mạng công nghiệp, nền sản xuất hàng hóa, dịch vụ có nhiều bước phát triển vượt bậc. Khi hàng hóa được tạo ra ngày càng nhiều , dịch vụ ngày càng phong phú, đa dạng thì nhãn hiệu cũng trở thành một công cụ hữu hiệu để nhận biết cũng như phân biệt hàng hóa và dịch vụ của các chủ thể sản xuất kinh doanh khác nhau. Các sản phẩm cùng loại do các chủ thể khác nhau sản xuất ra đều có nhãn hiệu khác nhau. Chính vì thế, thông qua nhãn hiệu, người tiêu dùng có thể nhận biết và lựa chọn tiêu thụ các sản phẩm có nhãn hiệu mà mình ưa dùng hoặc muốn mua mà không sợ bị nhầm lẫn và mất nhiều thời gian.

Hiện nay, “nhãn hiệu (trademark) là yếu tố đặc trưng gắn liền giữa lĩnh vực sở hữu công nghiệp và thị trường thương mại, được sử dụng trong thời gian dài bởi các nhà sản xuất, các thương nhân nhằm xác định nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa hay dịch vụ của họ, đồng thời phân biệt những hàng hóa, dịch vụ đó với các hàng hóa, dịch vụ được sản xuất hay bán bới các chủ thể khác.” Yếu tố quan trọng nhất của nhãn hiệu chính là chức năng phân biệt nguồn gốc của hàng hóa và dịch vụ. Chính vì vậy, chức năng này luôn giữ vai trò trung tâm, được đề cập đến rất nhiều trong pháp luật về nhãn hiệu ở hầu hết các nước trên thế giới.

Tại Việt Nam, Khoản 16 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009, 2019 quy định: “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau.”

2. ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU

Điều 72 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005 sửa đổi bổ sung 2009, 2019 quy định: “Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:

1. Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc;

2. Có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác.”

Như vậy, nhãn hiệu được cấp văn bằng bảo hộ phải đồng thời đáp ứng hai tiêu chí sau:

Tiêu chí bảo hộ thứ nhất, nhãn hiệu phải hội tụ đủ hai yếu tố.

Thứ nhất, là các dấu hiệu có thể nhìn thấy, có thể tri giác được; thứ hai, các dấu hiệu cụ thể được xem xét là nhãn hiệu được tồn tại dưới dạng chữ cái, từ, ngữ, hình ảnh, hình vẽ, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiên bằng một hay nhiều màu sắc. Theo quy định của pháp luật đặc điểm thứ nhất của nhãn hiệu là các dấu hiệu có thể nhìn thấy được, có nghĩa là con người chỉ có thể nhận thức được, nắm bắt được về chúng qua khả năng thị giác của con người. Người tiêu dùng qua quan sát, nhìn ngắm để phát hiện ra loại hàng hoá, dịch vụ có gắn với nhãn hiệu đó để lựa chọn. Theo pháp luật của một số nước trên thế giới, việc bảo hộ đối với nhãn hiệu được áp dụng đối với cả các loại nhãn hiệu là những dấu hiệu âm thanh như âm nhạc, tiết nhạc mà con người có thể nhận biết được qua thính giác hoặc nhãn hiệu là các dấu hiệu mùi hương mà con người có thể nhận biết thông qua khứu giác hay nhãn hiệu hàng hoá chỉ đơn thuần được thể hiện thông qua một màu sắc nhất định. Nhãn hiệu có thể được thể hiện thông qua các dấu hiệu chữ cái, từ, ngữ; hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc kết hợp của các yếu tố chữ cái, từ, ngữ và các dấu hiệu hình, được thể hiện bằng một hay nhiều màu sắc. Yếu tố màu sắc là không thể thiếu được đối với nhãn hiệu hàng hóa bởi ưu điểm gây ấn tượng đối với thị giác con người, qua đó nó giúp cho nhãn hiệu thực hiện được chức năng phân biệt của mình. Luật SHTT quy định các dấu hiệu bị loại trừ khi xem xét để cấp văn bằng bảo hộ tại Điều 73, các dấu hiệu sau đây không được bảo hộ dưới danh nghĩa nhãn hiệu: Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với hình quốc kì, quốc huy của các nước; biểu tượng, cờ, huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế nếu không được cơ quan, tổ chức đó cho phép, ví dụ: Tên viết tắt của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) hay Tổ chức thương mại thế giới (WTO) sẽ không được dùng để làm nhãn hiệu; tên thật, biệt hiệu, bút danh, hình ảnh của lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân của Việt Nam và của nước ngoài; dấu chứng nhận, dấu kiểm tra, dấu bảo hành của tổ chức quốc tế mà tổ chức đó có yêu cầu không được sử dụng, trừ trường hợp chính tổ chúc này đăng kí các dấu đó làm nhãn hiệu chứng nhận, ví dụ như dấu hiệu chứng nhận ISO 9000 cho các sản phẩm hàng hoá đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế hay dấu hiệu CF chúng nhận cho chất lượng của các sản phẩm hàng hoá khi xuất khẩu sang thị trường các nước EU; dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính lừa dối người tiêu dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ.

Tiêu chí bảo hộ thứ hai: “Nhãn hiệu được coi là có khả năng phân biệt nếu được tạo thành từ một hoặc một số yếu tố dễ nhận biết, dễ ghi nhớ hoặc từ nhiều yếu tố kết hợp thành một tổng thể dễ nhận biết, dễ ghi nhớ…” (Khoản 1 Điều 74 Luật SHTT).

Yếu tố được hiểu là một bộ phận của dấu hiệu mà không thể hiểu là toàn bộ hay bản thân dấu hiệu đó. Quy định của điều luật chỉ đòi hỏi một hoặc một số các yếu tố thuộc dấu hiệu phải tạo nên được sự dễ nhận biết và dễ ghi nhớ của nhãn hiệu. Nhãn hiệu dễ nhận biết là nhãn hiệu bao gồm các yếu tố đủ để tác động vào nhận thức, tạo nên ấn tượng có khả năng lưu giữ trong trí nhớ hay tiềm thức của con người. Bất kì ai khi tiếp xúc với chúng đều dễ dàng tri giác và dễ ghi nhớ nhận biết về chúng khi đặt bên cạnh các loại nhãn hiệu khác. Có thể có nhiều yếu tố độc đáo không giống với những cái đã có nhưng lại có quá nhiều chi tiết phức tạp hoặc quá nhiều hình vẽ rắc rối khiến cho người tiếp cận khó nắm bắt và không thể ghi nhớ được nội dung hoặc cấu trúc của nó. Nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu nhãn hiệu đó là dấu hiện thuộc một trong các trường hợp sau đây: Các hình và hình hình học đơn giản không có khả năng phân biệt và gây ấn tượng cho thị giác như các hình quá phức tạp gồm nhiều đường nét rắc rối hoặc quá đơn giản như hình chữ nhật. hình tam giác, hình tròn… thường dùng trong toán học không được cách điệu hay được thể hiện thông qua các màu sắc độc đáo. Các chữ số, chữ cái, chữ thuộc các ngôn ngữ thông dụng. Ngôn ngữ thông dụng được hiểu là bất kì ngôn ngữ nào được sử dụng và được nhiều người biết đến tại Việt Nam. Hiện nay, một dấu hiệu sẽ có khả năng được đăng kí tại Cục sở hữu trí tuệ nếu dấu hiệu này thuộc ngôn ngữ tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga và tiếng Trung Quốc.

Ngoại lệ được áp dụng cho các trường hợp trên: Đó là trường hợp các dấu hiệu này đã được sử dụng và đã được thừa nhận một cách rộng rãi với danh nghĩa một nhãn hiệu. Để chứng minh được ngoại lệ này đòi hỏi người nộp đơn đăng kí nhãn hiệu phải đưa ra được các chứng cứ đầy đủ và thuyết phục.

+ Dấu hiệu, biểu tượng quy ước, hình vẽ hoặc tên gọi thông thường của hàng hóa, dịch vụ thuộc bất kì ngôn ngữ nào đã được sử dụng rộng rãi, thường xuyên, nhiều người biết đến. Những dấu hiệu, biểu tượng quy ước như 5 hình tròn lồng vào nhau là biểu tượng của các thế vận hội thể thao, hình chữ thập biểu tượng cho ngành y tế, hình cán cân công lí biểu tượng cho ngành tư pháp… sẽ không được đăng kí bảo hộ là nhãn hiệu. Những hình vẽ hay ảnh chụp của chính sản phẩm hàng hóa hay tên gọi thông thường của sản phẩm cũng không được sử dụng làm nhãn hiệu.

+ Dấu hiệu chỉ thời gian, địa điểm, phương pháp sản xuất, chủng loại, số lượng, tính chất, thành phẩm, công dụng, giá trị hoặc các đặc tính khác mang tính mô tả hàng hóa, dịch vụ. Thực chất đây chỉ là các dấu hiệu có chức năng thông tin về các vấn đề cần thiết liên quan đến quá trình sử dụng sản phẩm mà hoàn toàn không có chức năng phân biệt bởi nhiều khi hàng hóa cùng loại của các cơ sở sản xuất khác nhau cũng có thể có cũng công dụng, tính chất, thành phần. Tuy nhiên, có một ngoài lệ là nếu các dấu hiệu đó đã đạt được khả năng phân biệt thông qua quá trình sử dụng trước thời điểm nộp đơn đăng kí nhãn hiệu thì cũng sẽ được chấp nhận làm nhãn hiệu.

+ Dấu hiệu mô tả hình thức pháp lí, lĩnh vực kinh doanh của chủ thể kinh doanh.

+ Dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lí của sản phẩm, dịch vụ trừ trường hợp dấu hiệu đó đã được sử dụng và được thừa nhận rộng rãi hoặc được bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu tập thể hoặc nhãn hiệu chứng nhận.

+ Dấu hiệu không phải là nhãn hiệu liên kết trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lãn với nhãn hiệu đã được đăng kí cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự trên cơ sở đăng kí có ngày ưu tiên sớm hơn trong trường hợp đơn đăng kí được hưởng quyền ưu tiên, kể cả đơn đăng kí nhãn hiệu được nộp theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

+ Dấu hiệu trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của các loại hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự; hay nhãn hiệu của các loại hàng hóa, dịch vụ không trùng hoặc không tương tự nhưng có khả năng làm tổn hại đến khả năng phân biệt hay uy tín của các loại nhãn hiệu đó.

Việc xác định một nhãn hiệu có trùng với một nhãn hiệu khác hay không chúng ta chỉ cần xem xét là chúng có phải là bản photocopy y nguyên của nhau hay không, điều đó không khó khăn. Nhưng để xác định tính tương tự tới mức gây nhầm lẫn giữa các loại nhãn hiệu với nhau đôi khi là một công việc khá phức tạp. Có thể có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khả năng gây ra nhầm lẫn giữa hai nhãn hiệu nhưng cũng có khi không yếu tố nào được coi là có tính quyết định hơn yếu tố nào. Việc đưa ra tiêu chuẩn hay đáp số chung cho mọi trường hợp để xác định tính tương tự có khả năng gây nhầm lẫn là công việc không thể do đặc điểm riêng biệt của mỗi trường hợp là khác nhau. Tuy nhiên, có thể tham khảo một số tiêu chí sau đây để xác định tính tương tự gây nhầm lẫn giữa hai hay nhiều nhãn hiệu (các tiêu chí này không phải sắp xếp theo thứ tự quan trọng): Sự tương tự về cấu trúc (như thêm các thành phần thứ yếu không có khả năng phân biệt vào một nhãn hiệu đã tồn tại từ trước hoặc ngược lại loại bỏ hay thay đổi thành phần thứ yếu của nhãn hiệu khác để làm thành nhãn hiệu của mình); ý nghĩa và hình thức thể hiện của các nhãn hiệu; sự tương tự về bản chất, phương thức lưu thông (kênh thương mại) trên thị trường của các loại nhãn hiệu; mức độ nổi tiếng của một trong các nhãn hiệu có khả năng gây nhầm lẫn; tổng thể các yếu tố khác có liên quan đến các loại nhãn hiệu này (xem xét về sự thỏa thuận giữa người nộp đơn đăng kí dấu hiệu như một nhãn hiệu với chủ sở hữu của một nhãn hiệu sẵn có).

Như vậy, thứ nhất, nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu nhãn hiệu đó là dấu hiệu trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của các hàng hóa và dịch vụ trùng hoặc tương tự trong các trường hợp sau:

+ Nhãn hiệu của người khác đã được sử dụng và đã được thừa nhận một cách rộng rãi từ trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên trong trường họp đơn được hưởng quyền ưu tiên;

+ Nhãn hiệu mà giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu đó đã hết hiệu lực hoặc bị đình chỉ hiệu lực bảo hộ nhưng thời gian tính từ khi hết hiệu lực hoặc bị đình chỉ hiệu lực chưa quá 5 năm, trừ trường hợp hiệu lực bị đình chỉ vì lí do nhãn hiệu không được sử dụng;

+ Nhãn hiệu được công nhận là nổi tiếng, thậm chí trong cả trường hợp nhãn hiệu nổi tiếng đó được đăng kí cho hàng hóa, dịch vụ không tương tự nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có khả năng làm ảnh hưởng đến khả năng phân biệt của nhãn hiệu nổi tiếng hoặc việc đăng kí nhãn hiệu nhằm lợi dụng uy tín của nhãn hiệu nổi tiếng. Ví dụ, một người xin nộp đơn đăng kí nhãn hiệu Nokia cho các sản phẩm đồ gia dụng cũng không được chấp nhận mặc dù nó không trùng hay tương tự với các sản phẩm điện thoại của nhãn hiệu nổi tiếng Nokia.

Thứ hai, nhãn hiệu bi coi là không có khả năng phân biệt nếu nhãn hiệu đó là dấu hiệu trùng hoặc tương tự với các đối tượng sở hữu công nghiệp sau:

+ Tên thương mại đang được sử dụng của người khác nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ;

+ Chỉ dẫn địa lí đang được bảo hộ nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm người tiêu dùng hiểu sai lệch về nguồn gốc địa lí của hàng hóa. Đặc biệt, đối với các chỉ dẫn địa lí được đăng kí để sử dụng cho rượu vang, rượu mạnh thì các dấu hiệu trùng hoặc có chứa chỉ dẫn địa lí đó hoặc được dịch nghĩa, phiên âm từ chỉ dẫn địa lí đó cũng không được chấp nhận nếu dấu hiệu được đăng kí để sử dụng cho rượu vang, rượu mạnh không có nguồn gốc xuất xử từ khu vực địa lí mang chỉ dẫn địa lí đó;

+ Kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ trên cơ sở đơn đăng kí kiểu dáng công nghiệp có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn.

3. PHÂN LOẠI NHÃN HIỆU

Việc phân loại nhãn hiệu thành có nghĩa rất quan trọng cả về lý luận cũng như thực tiễn. Thứ nhất, nó cho phép xác định đặc trưng của một loại nhãn hiệu mà thông qua đó ảnh hưởng tới khả năng cảm nhận và ghi nhớ nhãn hiệu của người tiêu dùng, tới khả năng đăng ký và được chấp nhận BHNH đó. Thứ hai, nó ảnh hưởng tới việc quy định chế độ pháp lý đối với từng loại nhãn hiệu, phân biệt nhãn hiệu với các đối tượng khác của quyền sở hữu công nghiệp như kiểu dáng công nghiệp, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại. Thực tế, nhãn hiệu có thể được phân loại theo một số tiêu chí như sau:

– Theo hình thức, có các loại nhãn hiệu như: nhãn hiệu từ ngữ; nhãn hiệu chữ cái và số; nhãn hiệu là hình vẽ, hình ảnh; nhãn hiệu hình khối; nhãn hiệu kết hợp (chữ, hình, hình khối, số…); và nhãn hiệu đặc biệt (nhãn hiệu mùi, âm thanh, ánh sáng… ).

+ Nhãn hiệu từ ngữ là nhãn hiệu mà trong thành phần của nhãn hiệu chứa đựng các dấu hiệu là từ ngữ, là sự kết hợp giữa các chữ cái tạo thành một từ có nghĩa hoặc được trình bày thành một cụm từ, một câu… sự kết hợp này có thể được trình bày dưới dạng thông thường hoặc dạng cách điệu. Có thể thấy, nhãn hiệu từ ngữ có khả năng được bảo hộ mạnh hơn so với các nhãn hiệu khác. Bởi các nhãn hiệu từ ngữ thường dễ cảm nhận, dễ ghi nhớ hơn thông qua thính giác, thị giác của người tiếp xúc. Thứ hai, việc tạo ra các nhãn hiệu từ ngữ là không hạn chế do khả năng sắp xếp kết hợp giữa các chữ cái thành các tổ hợp từ, cụm từ, câu. Thứ ba, việc đăng ký nhãn hiệu là từ ngữ, có thể thể hiện được nhiều hơn ý tưởng của chủ sở hữu nhãn hiệu cho các hàng hóa và dịch vụ mà mình cung ứng ra thị trường. Và cuối cùng, việc đăng ký nhãn hiệu là từ ngữ, còn có lợi thế lớn hơn trong quá trình quảng cáo, đưa hàng hóa, dịch vụ ra thị trường bằng các kênh thông tin khác nhau.

+ Nhãn hiệu chữ cái và số: Loại nhãn hiệu này có thể là sự kết hợp của các chữ cái riêng lẻ, hoặc những con số, hoặc là sự kết hợp của cả phần chữ và phần số. Loại này cũng khá phổ biến trong quá trình đăng ký BHNH. Các thành phần này có thể được trình bày cách điệu thành các dòng khác nhau, hoặc được trình bày trên cùng một dòng, với kích cỡ như nhau, hoặc khác nhau, tùy theo ý tưởng của chủ sở hữu nhãn hiệu. Theo quy định của pháp luật hiện hành, nhãn hiệu chữ cái phải bao gồm tử ba chữ cái trở lên, hoặc từ hai chữ cái, nhưng phải đọc được thành từ hoặc phải được trình bày cách điệu dưới dạng đồ họa hoặc dạng đặc biệt khác. Ngoài ra, nếu nhãn hiệu là sự sắp xếp, kết hợp của một dãy dài các ký tự hoặc các từ ngữ không thể nhận biết, hoặc ghi nhớ được thì cũng không có khả năng phân biệt, do đó cũng không thể đăng ký làm nhãn hiệu.

+ Nhãn hiệu là hình vẽ, hình ảnh: là những nhãn hiệu mà chủ yếu được cảm nhận thông qua thị giác, và được trình bày theo chiều hướng nghệ thuật. Loại nhãn hiệu này có thể là hình vẽ của các con vật, đồ vật được tiếp xúc hàng ngày, hoặc là hình ảnh được trình bày trên mặt phẳng, là sự kết hợp của các đường nét, màu sắc…. Loại này cũng khá phổ biến và có ưu thế lớn trong việc quảng cáo hướng tới người tiêu dùng.

+ Nhãn hiệu hình khối: là nhãn hiệu được hình thành thông qua việc kết hợp các đường nét và màu sắc trên không gian 3 chiều. Loại nhãn hiệu này cũng có tính phân biệt tương đối cao. Điển hình cho loại nhãn hiệu này có thể thấy như hình dáng chai “COCA-COLA” của Công ty Coca-cola hay hình ngôi sao 3 cánh nổi trong vòng tròn của MERCEDES.

+ Nhãn hiệu kết hợp: là một nhãn hiệu được tạo ra trên cơ sở kết hợp các yếu tố về từ ngữ, chữ cái, chữ số và các yếu tố hình ảnh, hình khối. Thông thường, nhãn hiệu kết hợp sẽ được tạo ra từ phần từ ngữ và phần hình ảnh, trong đó phần từ ngữ và phần hình ảnh thường minh họa cho nhau, có tác dụng bổ trợ nhau, tạo nên khả năng phân biệt cho nhãn hiệu. Theo như hướng dẫn tại mục 39.6 Thông tư 01-2007: “Một dấu hiệu kết hợp được coi là có khả năng phân biệt khi dấu hiệu chữ và dấu hiệu hình kết hợp thành một tổng thể có khả năng phân biệt, cụ thể:

a) Dấu hiệu chữ và dấu hiệu hình đều có khả năng phân biệt và tạo thành tổng thể có khả năng phân biệt;

b) Thành phần mạnh của nhãn hiệu (yếu tố tác động mạnh vào cảm giác người tiêu dùng, gây chú ý và ấn tượng về nhãn hiệu khi quan sát) là dấu hiệu chữ hoặc dấu hiệu hình có khả năng phân biệt, mặc dù thành phần còn lại không có hoặc ít có khả năng phân biệt;

c) Trường hợp dấu hiệu kết hợp gồm các dấu hiệu chữ và dấu hiệu hình không có hoặc ít có khả năng phân biệt nhưng cách thức kết hợp độc đáo của các dấu hiệu đó tạo ra một ấn tượng riêng biệt thì tổng thể kết hợp đó vẫn được coi là có khả năng phân biệt;

d) Dấu hiệu kết hợp gồm các thành phần chữ và hình không có hoặc ít có khả năng phân biệt nhưng tổng thể kết hợp đó đã đạt được khả năng phân biệt qua quá trình sử dụng theo quy định tại điểm 39.5 của Thông tư này.”

+ Nhãn hiệu đặc biệt: là các nhãn hiệu như mùi, âm thanh, ánh sáng. Nếu các nhãn hiệu từ ngữ , hình ảnh thông thường thường được cảm nhận thông qua thính giác và thị giác của con người, thì các nhãn hiệu đặc biệt lại được cảm nhận bằng các giác quan khác như thính giác, vị giác, khứu giá. Hiện tại các loại nhãn hiện và vẫn chưa được chấp nhận bảo hộ theo quy định của pháp luật Việt Nam.

– Theo mức độ nổi tiếng, có nhãn hiệu thông thường và nhãn hiệu nổi tiếng:

+ Nhãn hiệu thông thường là loại nhãn hiệu được bảo hộ và sử dụng trên lãnh thổ Việt Nam, và có số lượng người tiêu dùng biết đến hạn chế hơn, có thể chỉ tính trong phạm vi ngành nghề, hoặc trong lĩnh vực nhất định.

+ Nhãn hiệu nổi tiếng “là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam”.[1]

– Theo số lượng chủ thể của nhãn hiệu, có nhãn hiệu cá nhân, nhãn hiệu tập thể:

+ Nhãn hiệu cá nhân: là nhãn hiệu do cá nhân làm chủ sở hữu. Khái niệm cá nhân được hiểu theo nghĩa rộng, có thể bao gồm các công ty, doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể…

+ Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu thuộc sở hữu của tập thể, “là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó”.[2]

– Theo tính chất của nhãn hiệu, có nhãn hiệu thông thường, nhãn hiệu liên kết, nhãn hiệu chứng nhận:

+ Nhãn hiệu thường: là nhãn hiệu do một chủ thể đăng ký, dùng để phân biệt hàng hóa dịch vụ của chủ thể này với chủ thể khác.

+ Nhãn hiệu liên kết: “là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc tương tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau hoặc có liên quan với nhau.”[3]

+ Nhãn hiệu chứng nhận: “là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hóa, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu.”[4]

4. THỦ TỤC ĐĂNG KÍ NHÃN HIỆU

4.1. Tài liệu tối thiểu

– 02 Tờ khai đăng ký nhãn hiệu, đánh máy theo mẫu số: 04-NH Phụ lục A của Thông tư 01/2007/TT-BKHCN [Phần mô tả nhãn hiệu: mẫu nhãn hiệu phải được mô tả để làm rõ các yếu tố cấu thành của nhãn hiệu và ý nghĩa tổng thể của nhãn hiệu nếu có; nếu nhãn hiệu có từ, ngữ thuộc ngôn ngữ tượng hình thì từ, ngữ đó phải được phiên âm; nhãn hiệu có từ, ngữ bằng tiếng nước ngoài thì phải được dịch ra tiếng Việt. Nếu nhãn hiệu có chứa chữ số không phải là chữ số ả-rập hoặc la-mã thì phải dịch ra chữ số ả-rập; phần Danh mục các hàng hoá/dịch vụ trong tờ khai phải được phân  nhóm phù hợp với bảng phân loại quốc tế về hàng hoá, dịch vụ (theo Thoả ước Nice lần thứ 11)]

– 05 Mẫu nhãn hiệu kèm theo (mẫu nhãn hiệu kèm theo phải giống hệt mẫu nhãn hiệu dán trên tờ khai đơn đăng ký kể cả về kích thước và màu sắc. Mẫu nhãn hiệu phải được trình bày rõ ràng với kích thước của mỗi thành phần trong nhãn hiệu không lớn hơn 80mm và không nhỏ hơn 8mm, tổng thể nhãn hiệu phải được trình bày trong khuôn mẫu nhãn hiệu có kích thước 80mm x 80mm. Nếu yêu cầu bảo hộ màu sắc thì tất cả các mẫu nhãn hiệu trên tờ khai và kèm theo đều phải được trình bày đúng màu sắc cần bảo hộ);

– Chứng từ nộp phí, lệ phí.

Trường hợp đơn đăng ký nhãn hiệu là nhãn hiệu tập thể hoặc nhãn hiệu chứng nhận, ngoài các tài liệu tối thiểu nêu trên, đơn đăng ký cần phải có thêm các tài liệu sau:

– Quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể hoặc nhãn hiệu chứng nhận;

– Bản thuyết minh về tính chất, chất lượng đặc trưng (hoặc đặc thù) của sản phẩm mang nhãn hiệu (nếu nhãn hiệu được đăng ký là nhãn hiệu tập thể dùng cho sản phẩm có tính chất đặc thù hoặc là nhãn hiệu chứng nhận chất lượng của sản phẩm hoặc là nhãn hiệu chứng nhận nguồn gốc địa lý của đặc sản địa phương);

– Bản đồ khu vực địa lý (nếu nhãn hiệu đăng ký là nhãn hiệu chứng nhận nguồn gốc địa lý của sản phẩm, hoặc nhãn hiệu chứa địa danh hoặc dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của đặc sản địa phương).

– Văn bản của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cho phép sử dụng địa danh hoặc dấu hiệu khác chỉ nguồn gốc địa lý của đặc sản địa phương để đăng ký nhãn hiệu (nếu nhãn hiệu đăng ký là nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận có chứa địa danh hoặc dấu hiệu khác chỉ nguồn gốc địa lý của đặc sản địa phương).

4.2. Các tài liệu khác (nếu có)

– Giấy uỷ quyền (nếu nộp đơn đăng ký nộp thông qua các tổ chức dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp);

– Tài liệu xác nhận được phép sử dụng các dấu hiệu đặc biệt (nếu nhãn hiệu yêu cầu bảo hộ có chứa các biểu tượng, cờ, huy hiệu của cơ quan, tổ chức trong nước và quốc tế…);

– Tài liệu xác nhận quyền đăng ký;

– Tài liệu xác nhận thụ hưởng quyền đăng ký từ người khác;

– Tài liệu chứng minh quyền ưu tiên (nếu đơn có yêu cầu hưởng quyền ưu tiên).

4.3. Yêu cầu chung đối với đơn đăng ký

– Mỗi đơn chỉ được yêu cầu cấp một văn bằng bảo hộ và loại văn bằng bảo hộ được yêu cầu cấp phải phù hợp với nhãn hiệu nêu trong đơn;

– Mọi tài liệu của đơn đều phải được làm bằng tiếng Việt. Đối với các tài liệu được làm bằng ngôn ngữ khác theo quy định tại các điểm 7.3 và 7.4 của Thông tư  01/2007/TT-BKHCN thì phải được dịch ra tiếng Việt;

– Mọi tài liệu đều phải được trình bày theo chiều dọc (riêng hình vẽ, sơ đồ và bảng biểu có thể được trình bày theo chiều ngang) trên một mặt giấy khổ A4 (210mm x 297mm), trong đó có chừa lề theo bốn phía, mỗi lề rộng 20mm, theo phông chữ Times New Roman, chữ không nhỏ hơn cỡ 13, trừ các tài liệu bổ trợ mà nguồn gốc tài liệu đó không nhằm để đưa vào đơn.

– Đối với tài liệu cần lập theo mẫu thì bắt buộc phải sử dụng các mẫu đó và điền đầy đủ các thông tin theo yêu cầu vào những chỗ thích hợp;

– Mỗi loại tài liệu nếu bao gồm nhiều trang thì mỗi trang phải ghi số thứ tự trang đó bằng chữ số Ả-rập;

– Tài liệu phải được đánh máy hoặc in bằng loại mực khó phai mờ, một cách rõ ràng, sạch sẽ, không tẩy xóa, không sữa chữa; trường hợp phát hiện có sai sót không đáng kể thuộc về lỗi chính tả trong tài liệu đã nộp cho Cục Sở hữu trí tuệ thì người nộp đơn có thể sữa chữa các lỗi đó, nhưng tại chỗ bị sửa chữa phải có chữ ký xác nhận (và đóng dấu, nếu có) của người nộp đơn;

– Thuật ngữ dùng trong đơn phải thống nhất và là thuật ngữ phổ thông (không dùng tiếng địa phương, từ hiếm, từ tự tạo). Ký hiệu, đơn vị đo lường, phông chữ điện tử, quy tắc chính tả dùng trong đơn phải theo tiêu chuẩn Việt Nam);

– Đơn có thể kèm theo tài liệu bổ trợ là vật mang dữ liệu điện tử của một phần hoặc toàn bộ nội dung tài liệu đơn.

4.4. Phí, lệ phí đăng ký nhãn hiệu

– Lệ phí nộp đơn: 150.000VNĐ

– Phí công bố đơn: 120.000VNĐ

– Phí tra cứu phục vụ TĐND: 180.000VNĐ/01 nhóm sản phẩm, dịch vụ

– Phí tra cứu cho sản phẩm, dịch vụ thứ 7 trở đi: 30.000VNĐ/01 sản phẩm, dịch vụ

– Phí thẩm định nội dung: 550.000VNĐ/01 nhóm sản phẩm, dịch vụ

– Phí thẩm định nội dung cho sản phẩm/dịch vụ thứ 7 trở đi: 120.000VNĐ/01 sản phầm, dịch vụ.

4.5. Thời hạn xử lý đơn đăng ký nhãn hiệu

Kể từ ngày được Cục Sở hữu trí tuệ tiếp nhận, đơn đăng ký nhãn hiệu được xem xét theo trình tự sau:

– Thẩm định hình thức: 01 tháng

– Công bố đơn: trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày đơn đăng ký nhãn hiệu có Quyết định chấp nhận đơn hợp lệ

– Thẩm định nội dung: không quá 09 tháng, kể từ ngày công bố đơn.

4.6. Hình thức nộp đơn

Người nộp đơn có thể lựa chọn hình thức nộp đơn giấy hoặc hình thức nộp đơn trực tuyến qua Cổng dịch vụ công trực tuyến của Cục Sở hữu trí tuệ, cụ thể:

a) Hình thức nộp đơn giấy

Người nộp đơn có thể nộp đơn đăng ký nhãn hiệu trực tiếp hoặc qua dịch vụ của bưu điện đến một trong các điểm tiếp nhận đơn của Cục Sở hữu trí tuệ, cụ thể:

– Trụ sở Cục Sở hữu trí tuệ, địa chỉ: 386 Nguyễn Trãi, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.

– Văn phòng đại diện Cục Sở hữu trí tuệ tại thành phố Hồ Chí Minh, địa chỉ: Lầu 7, tòa nhà Hà Phan, 17/19 Tôn Thất Tùng, phường Phạm Ngũ Lão, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.

– Văn phòng đại diện Cục Sở hữu trí tuệ tại thành phố Đà Nẵng, địa chỉ: Tầng 3, số 135 Minh Mạng, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.

Trường hợp nộp hồ sơ đơn đăng ký nhãn hiệu qua bưu điện, người nộp đơn cần chuyển tiền qua dịch vụ của bưu điện, sau đó phô tô Giấy biên nhận chuyển tiền gửi kèm theo hồ sơ đơn đến một trong các điểm tiếp nhận đơn nêu trên của Cục Sở hữu trí tuệ để chứng minh khoản tiền đã nộp.

(Lưu ý: Khi chuyển tiền phí, lệ phí đến một trong các điểm tiếp nhận đơn nêu trên của Cục Sở hữu trí tuệ, người nộp đơn cần gửi hồ sơ qua bưu điện tương ứng đến điểm tiếp nhận đơn đó).

b) Hình thức nộp đơn trực tuyến

– Điều kiện để nộp đơn trực tuyến: Người nộp đơn cần có chứng thư số và chữ ký số, đăng ký tài khoản trên Hệ thống tiếp nhận đơn trực tuyến và được Cục Sở hữu trí tuệ phê duyệt tài khoản để thực hiện các giao dịch đăng ký quyền SHCN.

– Trình tự nộp đơn trực tuyến: Người nộp đơn cần thực hiện việc khai báo và gửi đơn đăng ký nhãn hiệu trên Hệ thống tiếp nhận đơn trực tuyến của Cục Sở hữu trí tuệ, sau khi hoàn thành việc khai báo và gửi đơn trên Hệ thống tiếp nhận đơn trực tuyến, Hệ thống sẽ gửi lại cho người nộp đơn Phiếu xác nhận nộp tài liệu trực tuyến. Trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày gửi đơn trực tuyến, người nộp đơn phải đến một trong các điểm tiếp nhận đơn của Cục Sở hữu trí tuệ vào các ngày làm việc trong giờ giao dịch để  xuất trình Phiếu xác nhận tài liệu nộp trực tuyến và tài liệu kèm theo (nếu có) và nộp phí/lệ phí theo quy định. Nếu tài liệu và phí/lệ phí đầy đủ theo quy định, cán bộ nhận đơn sẽ thực hiện việc cấp số đơn vào Tờ khai trên Hệ thống tiếp nhận đơn trực tuyến, nếu không đủ tài liệu và phí/lệ phí theo quy định thì đơn sẽ bị từ chối tiếp nhận. Trong trường hợp Người nộp đơn không hoàn tất thủ tục nộp đơn theo quy định, tài liệu trực tuyến sẽ bị hủy và Thông báo hủy tài liệu trực tuyến được gửi cho Người nộp đơn trên Hệ thống tiếp nhận đơn trực tuyến.[5]

5. TRA CỨU THÔNG TIN

5.1. Mục đích tra cứu thông tin sở hữu công nghiệp

– Tránh xâm phạm quyền SHCN đối với các đối tượng SHCN đã được bảo hộ của chủ thể khác;

– Đánh giá khả năng bảo hộ của các đối tượng SHCN (sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu hàng hóa dịch vụ);

– Phản đối việc cấp văn bằng cho các đối tượng không đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ, kể cả sau khi đã được cấp bằng;

– Tránh được các chi phí không cần thiết cho việc nghiên cứu những giải pháp kỹ thuật đã biết;

– Xác định và đánh giá công nghệ để mua, bán li-xăng và chuyển giao công nghê;

– Xác định các công nghệ thay thế;

– Nắm bắt các giải pháp có sẵn cho các vấn đề kỹ thuật;

– Tìm kiếm ý tưởng cho việc tiếp tục đổi mới công nghệ;

– Tìm kiếm các đối tác kinh doanh;

– Theo dõi hoạt động của các đối thủ cạnh tranh hiện thời và tiềm năng trong tương lai;

– Tìm kiếm thị trường thích hợp;

– Lựa chọn các đối tượng SHCN đang có hiệu lực để ký kết hợp đồng mua bán quyền sử dụng, chuyển giao công nghệ, bí quyết sản xuất;

5.2. Công cụ tra cứu thông tin sở hữu công nghiệp

– Các cơ sở dữ liệu tra cứu trên internet;

– Các Bảng phân loại (IPC, Locarno, Ni-xơ, Viên)

– Bảng tra theo từ khóa;

– Các đĩa quang dùng để tra cứu;

– Công báo SHCN;

– Sổ Đăng bạ quốc gia;

5.3. Một số trang web tra cứu thông tin sở hữu công nghiệp hữu ích

2.5.3.1. http://iplib.noip.gov.vn/WebUI/WSearch.php

Đây là trang web thuộc thư viện số về sở hữu công nghiệp của Việt Nam; tại trang web này người dùng tin có thể tìm kiếm thông tin về các đơn đăng ký nhãn hiệu đã công bố/được cấp văn bằng bảo hộ tại Việt Nam.

2.5.3.2. http://www.wipo.int/madrid/monitor/en/index.jsp Đây là trang web tra cứu thông tin nhãn hiệu của WIPO, tại trang web này, người dùng tin có thể tra cứu thông tin các nhãn hiệu của các quốc gia thành viên nộp theo hệ thống Madrid, trong đó bao gồm các nhãn hiệu quốc tế có chỉ định Việt Nam.


[1] Xem Khoản 20 Điều 4 Luật SHTT

[2] Xem Khoản 17 Điều 4 Luật SHTT

[3] Xem Khoản 19 Điều 4 Luật SHTT

[4] Xem Khoản 18 Điều 4 Luật SHTT

[5] Xem Cục Sở hữu trí tuệ (2021), Thủ tục đăng kí nhãn hiệu, tại http://www.noip.gov.vn/vi_VN/web/guest/nhan-hieu

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Truyền thông quốc tế, một vài nét lý luận về Đặc điểm, chính sách, xu thế nghiên cứu. Bài tiểu luận nhằm mục đích nghiên cứu về 3 vấn đề chính: 

  • Truyền thông quốc tế giai đoạn Chiến tranh Lạnh đến nay; 
  • Chính sách truyền thông đối ngoại của Việt Nam: 
  • Xu thế nghiên cứu Truyền thông quốc tế như một ngành khoa học. 

Trong thế kỷ XXI, hoạt động thông tin không giới hạn trong khuôn khổ quốc gia dân tộc mà được trao đổi một cách có tổ chức giữa các quốc gia. 

Truyền thông quốc tế như một dòng chảy độc lập và diễn ra trong bối cảnh kiểm soát nghiêm ngặt hơn truyền thông nội bộ. Thời kỳ đối đầu gay cấn nhất, truyền thông quốc tế không biến mất mà ngược lại còn phát triển mạnh mẽ hơn, đồng thời là một lực lượng trung tâm, ngay cả khi nó không xuất hiện trong một hình thức trực tiếp. Ví dụ, tác động của phim ảnh hay văn hóa đại chúng. 

Nhận thức đúng về TTQT, có một chiến lược phát triển bài bản về TTQT sẽ đưa TTQT trở thành lĩnh vực hữu hiệu để trao đổi thông tin giữa các quốc gia, dân tộc, văn hóa hoặc các nhóm người, các cộng đồng, kể cả ở cấp quốc tế và ở cấp độ trong nước. Mối quan hệ này có ý nghĩa quan trọng và to lớn trong quá trình xây dựng đất nước và tạo ra bản sắc văn hóa riêng biệt. Với phần lớn các vấn đề trong lĩnh vực quan hệ quốc tế, kiểm soát vũ khí và chi tiêu quân sự, các vấn đề địa chính trị, chính sách đối ngoại,.. thì thông tin đóng một vai trò rất quan trọng, vì vậy TTQT càng đáng được lưu tâm và coi trọng. 

Để có những bước tiến mới trong việc lý giải các vấn đề đặt ra, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu và tổng kết để có những cơ sở khoa học hơn nữa trong ngành truyền thông quốc tế. 

CHƯƠNG I : ĐẶC ĐIỂM CỦA TRUYỀN THÔNG QUỐC TẾ TỪ GIAI ĐOẠN CHIẾN TRANH LẠNH CHO ĐẾN NAY 

1. Giai đoạn Chiến tranh Lạnh : 

Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, giữa bối cảnh một Châu Âu bị tàn phá và suy yếu trong hệ thống quốc tế với vai trò lu mờ của Anh, Pháp và một nước Đức đổ nát trên bờ vực bị chia cắt; Nhật Bản đầu hàng và chịu kiểm soát quốc tế về quân sự; Ý được kiến tạo lại nhà nước và thể chế dân chủ. 

Trong khi đó, Mỹ và Liên Xô nổi lên với vai trò là siêu cường thế giới, giàu có và hùng mạnh. Cả hai quốc gia này nhanh chóng nắm quyền chi phối toàn bộ hệ thống chính trị quốc tế1. Tuyên truyền thông qua truyền thông trong Chiến tranh lạnh đã được ưu tiên đến mức tối đa với ba lý do chính2

Thứ nhất, truyền thông là các kênh không chỉ truyền tải thông tin, mà còn nhân rộng các ý tưởng, hình mẫu thông qua nhiều mô hình và hình thức khác nhau. Nói cách khác, tuyên truyền là một vectơ mang ý thức hệ, thuyết phục bằng ý tưởng, phi bạo lực, song cũng hiệu quả như thuyết phục bằng vũ lực; – Thứ hai, thông tin mang tính phi vật chất và dễ thẩm thấu, hòa lẫn, không biết đến biên giới và giới hạn, có thể len lỏi khắp nơi cả về phạm vi địa lý lẫn xã hội, giữa các tầng lớp công chúng, từ nước này qua nước kia mà khó có khả năng ngăn chặn; 

Thứ ba, thông qua các chương trình truyền thông, nhất là các chương trình trên đài phát thanh có tính chất giải trí, các quốc gia dễ che đậy mục đích tuyên truyền, gây ảnh hưởng đến công chúng nước ngoài. 

Bước vào Chiến tranh lạnh, cả hai siêu cường đều tin vào mô hình xã hội và hệ tư tưởng mà mình theo đuổi và quyết tâm giành thắng lợi. Nhưng, triết lý tuyên truyền được lựa chọn không giống nhau. Mỹ xây dựng tuyên truyền thành khoa học, Liên Xô sử dụng tuyên truyền như một nghệ thuật. Nhìn chung, một trật tự thế giới đã được hình thành sau thế chiến II, đó là trật tự thế giới của Chiến tranh Lạnh với hai hệ quan điểm: – Chủ nghĩa cộng sản; 

– Chủ nghĩa tư bản 

Tuyên truyền của Liên Xô : 

Trong những năm tháng của Chiến tranh Lạnh, Liên Xô đã thành lập Ủy ban Thông tin Cộng sản nhằm tổ chức tuyên truyền trên toàn thế giới. 

TASS (Telegraphone Agenstvo Sovietskovo Saiutza) là nguồn tin chính của cả khối Đông Âu và cả những nước thuộc thế giới thứ ba lúc bấy giờ. 

Trọng tâm của chính sách tuyên truyền Xô Viết đưa ra là cuộc đối đầu ý thức hệ giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa đế quốc. Đối tượng tuyên truyền là quần chúng nhân dân thuộc các nước thuộc địa cũ thuộc thế giới thứ ba và tầng lớp nhân dân lao động tại các nước tư bản phát triển. 

Đến cuối những năm 1960, Đài phát thanh Moscow vẫn là đài phát quốc tế lớn nhất thế giới với lượng phát sóng và phổ bao phủ lớn gấp nhiều lần so với Hoa Kỳ. Nếu so sánh thời lượng phát sóng ra bên ngoài của nước Mỹ thì cũng gần như tương đương ( 3 đài chính VOA, Radio Liberty, Radio Free Europe ) tăng từ 497 giờ/ tuần lên đến 2060 giờ/ tuần kể từ 1950 – 1973. 

Phê phán “ chủ nghĩa xét lại” của Liên Xô, Trung Quốc đã vươn lên trở thành cường quốc đứng thứ 3 thế giới về phát thanh hải ngoại, tuyên truyền chế độ cộng sản của Mao Trạch Đông. 

Tuy nhiên, bất chấp mạng lưới truyền thông của Liên Xô có hùng mạnh đến đâu thì các đài phát và trụ sở báo chí ( lấy tin ) lại rất hiếm khi đặt ở nước ngoài – trừ Habana Radio ( Cuba ). Bởi vậy, Liên Xô thường gặp vấn đề bị nhiễu sóng và phá sóng; trong khi đó lại không thường xuyên xảy ra đối với hệ thống radio của phương Tây. 

Tuyên truyền của Hoa Kỳ: 

VOA là một bộ phận không thể tách rời của nền ngoại giao Hoa Kỳ thời kì Chiến tranh thế giới lần thứ II và suốt cả thời gian chiến tranh lạnh. VOA, RL, RFE và American Forces Network (AFN) đều do nhà nước tài trợ nhưng VOA là cơ quan ngôn luận chính thức của Hoa Kỳ và có trách nhiệm về phát ngôn, sử dụng quan điểm của ban biên tập của đài ,trong khi BBC World Service sử dụng các nguồn và các quan điểm bình luận khác nhau. Do đó, giới phân tích cho rằng, quan điểm hạn hẹp và không thật đáng tin cậy với tư cách là một thực thể truyền thông quốc tế. 

Cuộc vận động của VOA ủng hộ Tổng thống Truman sau sự kiện chiến tranh Triều Tiên năm 1950 đã làm tăng nhu cầu sử dụng radio với tư cách công cụ tuyên truyền ( ở Mỹ ). Đây là cuộc tập dượt về phương tiện truyền thông radio lớn nhất với hàng triệu cuộc phỏng vấn trực tiếp lên sóng để nước Mỹ thử nghiệm nhân rộng các cuộc xung đột kế tiếp diễn ra ở châu Phi, châu Á và Mỹ La tinh. 

Năm 1951, Tổng thống Truman xây dựng hẳn một Ban Tâm lý chiến trực thuộc Uỷ ban An ninh Quốc gia Hoa Kỳ nhằm thiết kế các chương trình và tư vấn cho các hoạt động tuyên truyền quốc tế chống cộng sản. 

VOA điều phối mạng truyền thông toàn cầu của Hoa Kỳ, nó có các trạm phát thanh ở khắp nơi để tuyên truyền ý tưởng về cái gọi là “ lối sống Mỹ” cho thính giả quốc tế. Những trạm chính yếu của mạng lưới này chịu sự kiểm soát của Washington ( trạm ở Bangkok là cho khu vực Đông Nam Á; trạm Poro và Tinnang ở Philippines là cho khu vực Trung Quốc, Đông Nam Á; trạm Colombo cho khu vực Nam Á; Tangier ở Morocco cho khu vực Bắc Phi; trạm Rhodes ở Hy Lạp là cho khu vực Trung Đông ..), các trạm tương tự như vậy mọc lên như nấm và chúng thực thi một chiến lược tuyên truyền toàn cầu của Mỹ. Việc đặt các trạm phát thanh sao cho sóng mạnh và không bị nhiễu, do đó thường nằm sát khu vực đối tượng tuyên truyền. Trong nhiều trường hợp, chúng có thể là những đài phát chuyển tiếp hoặc bí mật. 

Tranh giành ảnh hưởng đối với thế giới thứ ba: 

Một cuộc chiến chính yêu khác nhằm chinh phục “trái tim và khối óc” của nhân dân trong thời kỳ chiến tranh lạnh diễn ra ở địa bàn thuộc thế giới thứ ba, nơi xuất hiện hàng loạt quốc gia thoát khỏi chế độ thuộc địa. Khi đó, Liên Xô đã nhận thức được rằng, bản chất của phong trào thuộc địa là phản kháng và chống lại phương Tây, đó cũng chính là cơ hội tốt để tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản. 

Nhằm tranh giành ảnh hưởng với làn sóng chủ nghĩa cộng sản của Liên Xô, các đài Mỹ, Pháp.. cũng phủ sóng mạnh mẽ ở khu vực châu Phi và Trung Đông. Đáng chú ý là cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã làm cho Mỹ đầu tư đáng kể vào mạng lưới phát thanh ở Đông Nam Á với các trụ sở đặt tại Thái Lan, Philippines 

Với nguồn cung cấp năng lượng – dầu mỏ cho nền kinh tế thế giới; thêm vào đó, các chế độ chính trị ở khu vực này có xu hướng tôn giáo và bảo thủ nên khu vực Trung Đông cũng rất được phương Tây quan tâm trong thời kì chiến tranh lạnh. Ở khu vực Mỹ Latinh, Mỹ cũng tăng cường mạng lưới tuyên truyền qua sóng phát thanh sau cuộc cách mạng vô sản Cuba năm 1959, nhằm ngăn chặn làn sóng ý thức hệ cộng sản lan tỏa ở khu vực này. 

Tuy nhiên, các nước phương Tây không chỉ hướng tuyên truyền vào mục tiêu ý thức hệ mà còn quan tâm đến các mục tiêu khác như kinh tế và văn hóa. Các đài phát thanh phương Tây cũng đưa được một lượng thông tin lớn và phong phú trên nhiều lĩnh vực cho dân chúng thuộc thế giới thứ ba. 

Nhu cầu về một trật tự truyền thông quốc tế mới : 

Trước sự tranh giành ảnh hưởng của hai luồng ý thức hệ, các nước thuộc thế giới thứ ba đã lựa chọn thái độ trung lập để tranh thủ phát triển và phong trào Không liên kết (NAM) đã ra đời. Việc hình thành khối các nước không liên kết này đã làm chuyển dịch đáng kể chiến lược truyền thông quốc tế. Bản đồ truyền 7

thông quốc tế đang từ lưỡng cực “Đông – Tây” bắt đầu có xu hướng chuyển thành phân hoá theo tuyến “Bắc – Nam” 

Giai đoạn này đã xuất hiện thuật ngữ mới được thảo luận rộng rãi trong giới truyền thông quốc tế: “Trật tự thế giới mới về thông tin và truyền thông” – NWICO/ New World Information and Communication Order). 

Mốc đánh dấu về trật tự mới này là hội nghị 1975 ở Helsinki về an ninh và hợp tác châu Âu với khẩu hiệu “tự do hơn nữa thông tin và phát tán rộng rãi tất cả các loại tin tức”. 

Theo quan điểm của “trật tự mới” này thì “trật tự cũ” đang tạo ra sự bất bình đẳng trong phát triển. Trật tự thông tin cũ hàm chứa mô hình phụ thuộc rất rõ rệt đối với đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá của các nước đang phát triển. Nhìn chung, nhu cầu về một trật tự thông tin mới là hết sức cấp thiết và rõ ràng. Nó được thể hiện ở những điểm chính yếu sau: 

i. Sự mất cân bằng về việc sở hữu công nghệ thông tin cũng như sức mạnh tổng hợp về kinh tế, chính trị, quân sự 

ii. Cấu trúc phụ thuộc của cái sau này vào cái đầu tiên được tạo nên bởi xã hội giàu thông tin có được vị thế và quy định các xã hội nghèo thông tin. 

iii. Quá trình lan tỏa thông tin trên toàn cầu không đi theo cấu trúc chiều ngang và các công ty xuyên quốc gia của phương Tây nắm giữ luật lệ các cuộc chơi. 

iv. Thông tin được các phương tiện truyền thông xuyên quốc gia xem như một loại “hàng hóa” và sức mạnh cho phép chúng thiết lập các luật lệ thị trường trên toàn cầu. 

v. Trật tự thông tin hiện hành là một bộ phận không tách rời của hệ thống ứng xử bất bình đẳng quốc tế – một thứ biến thái của chủ nghĩa thực dân mới. 

Như vậy, các tổ hợp truyền thông quốc tế lớn được trang bị thông tin một cách tự động. Ngoài ra, khi thông tin được phương Tây đưa ra thế giới thì nó đã bị thiết định, cắt gọt và chỉnh sửa theo cách nhìn nhận của các tổ hợp truyền thông quốc tế mà không phải quan điểm của chính nước cung cấp thông tin. 

Nhu cầu về một trật tự thông tin quốc tế mới (NWICO) được đặt ra và trở nên mãnh liệt vào những năm 1973-1976. UNESCO đã phải ra tuyên bố năm 1978 về truyền thông đại chúng. Cuối năm đó, Liên Hợp Quốc cũng đã thông qua nghị quyết về NWICO. 

Hệ quả là năm 1977, một Ủy ban nghiên cứu về các vấn đề truyền thông của LHQ đã được thành lập – The MacBride Commission. Năm 1980, Ủy ban này đưa ra 82 khuyến nghị, đáng chú ý là “dân chủ hóa truyền thông” và cũng đưa ra đề nghị: Phải có sự hiện diện của các đại biểu đến từ những giai tầng khác nhau trong xã hội và cơ cấu quản lí truyền thông. 

MacBride Commission cho rằng, tự do thông tin chỉ có đối với những “kẻ mạnh” trong hệ thống truyền thông thế giới, bên cạnh đó cũng chỉ ra rằng, lợi dụng chính sách mở cửa và tự do thông tin, một số tập đoàn và quốc gia đã làm xói mòn sự ổn định xã hội, vi phạm đến chủ quyền và an ninh của các quốc gia khác, quấy rối sự phát triển của quốc gia đó.. 

Với tư cách là những văn bản quốc tế đầu tiên đưa ra cái nhìn toàn diện về những vấn đề của truyền thông quốc tế tuy nhiên các hãng truyền thông lớn như The World Press Freedom Committee, AP, UPI, American Newspaper Publishers Association… đã bày tỏ thái độ không đồng tình trước thái độ chống tư nhân hóa các phương tiện truyền thông và những cáo buộc liên quan đến hiệu ứng tiêu cực của quảng cáo đối với xã hội được nêu ra trong các tài liệu của MacBride Commission. 

Dựa trên các tài liệu này, UNESCO đã tổ chức một hội nghị toàn thể ở Belgrade năm 1980 và thông qua một nghị quyết về “một trật tự truyền thông quốc tế mới” với những nội dung cơ bản sau: 

– Xóa bỏ tình trạng mất cân đối và bất công về thông tin hiện nay; – Xóa bỏ những hiệu ứng tiêu cực do một số dạng độc quyền thông tin gây ra; 

– Dỡ bỏ những rào cản bên trong và bên ngoài đối với quá trình tự do hóa và phát tán ác dòng chảy thông tin và tư tưởng mang tính đối xứng; – Đa nguyên hóa các nguồn và các kênh thông tin; 

– Tự do in ấn và thông tin; 

– Quyền tự do cho các phóng viên và các nhà chuyên môn trong lĩnh vực truyền thông; 

– Thúc đẩy năng lượng truyền thông của các nước phát triển bằng cách tạo thực trạng của họ thông qua việc cung ứng thiết bị, đào tạo nhân sự, nâng cấp hạ tầng, thiết kế thông tin phù hợp với nhu cầu tâm lý; 

– Các nước phát triển cần phải tỏ rõ thiện chí trong việc giúp đỡ thực hiện các mục tiêu trên; 

– Tôn trọng tất cả các đặc thù văn hóa và quyền của các dân tộc trong việc thông tin cho thế giới biết về lợi ích, nguyện vọng và các giá trị văn hóa cũng như xã hội của họ; 

– Tôn trọng quyền của tất cả mọi người tham dự vào quá trình trao đổi thông tin quốc tế trên cơ sở bình đẳng, công bằng và cùng có lợi; – Tôn trọng các quyền của công chúng, các nhóm sắc tộc, xã hội cũng như các cá nhân trong việc tiếp cận các nguồn tin và tham dự tích cực vào quá trình truyền thông. 

Bất đồng quan điểm : 

Các nước phương Tây đứng đầu là Hoa Kỳ coi trật tự thông tin và truyền thông mới là mang “hơi hướng Xô Viết” vì nó thúc đẩy các nước thuộc thế giới thứ ba, kiểm soát truyền thông đại chúng thông qua hệ thống giám sát của nhà nước. Những nước này cho rằng, về lý thuyết, quan điểm của NIWCO là hoàn toàn đi ngược các giá trị tự do của phương Tây và nguyên tắc “dòng chảy tự do thông tin” đã được đề ra trước đó ; NIWCO cũng đã tạo điều kiện cho những kẻ độc tài ở các nước thuộc thế giới thứ ba cái cớ bóp nghẹt tự do truyền thông, đưa ra các hệ thống kiểm duyệt và ngăn chặn các phóng viên nước ngoài bằng các khẩu hiệu như “quyền tự quyết văn hóa”, “chống chủ nghĩa đế quốc truyền thông”.. 

Các thể chế thông tin của phương Tây đã mạnh mẽ đấu tranh chống lại bất cứ sự đổi thay nào trong trật tự thông tin toàn cầu. Điều mà các quốc gia độc tài ở thế giới thứ ba đã không cho phép giới truyền thông thực hiện vì lý do chính trị. 

Sự đổ vỡ của NWICO : 

Những năm 1979 đến cuối những năm 1980 có nhiều biến động lớn trên trường quốc tế: cách mạng Hồi giáo (1979) ở Trung Đông; Nga can thiệp vào Afghanistan.. Tổng thống Hoa Kỳ ở giai đoạn này – Ronald Reagan đưa ra quan điểm về giai đoạn mới của Chiến tranh Lạnh. Đây cũng là thời kì các chính sách của các cường quốc tư bản chủ nghĩa đối với các nước đang phát triển thuộc thế giới thứ ba bây giờ đã chuyển hướng sang trao đổi và khuyến khích thương mại thuộc khu vực tư nhân thay vì viện trợ hay can thiệp quân sự để thúc đẩy phát triển. 

Trong lĩnh vực truyền thông quốc tế, Mỹ tỏ thái độ dứt khoát phản đối NWICO, MacBride Commission và UNESCO nói chung về những chính sách và đường lối mà các thể chế quốc tế này theo đuổi. Luận điểm mà Mỹ đưa ra là MacBride Commission đã trao quyền và tạo điều kiện để các chính phủ của các nước đang phát triển có cớ kiểm soát chặt chẽ hơn các phương tiện truyền thông đại chúng. 

Xu hướng giải điều tiết kinh tế và tư nhân hóa đối với truyền thông nói riêng và với kinh tế nói chung đã thể hiện rất rõ trong chính sách của các phe bảo thủ cầm quyền tại hai cường quốc là Mỹ và Anh. Đến lượt mình, những xu hướng này đã tác động mạnh đến chiều hướng phát triển của truyền thông quốc tế trong giai đoạn những năm 1980. Luận thuyết “các dòng chảy thông tin tự do” lúc này đã được gắn kết chặt chẽ với luận thuyết “thị trường tự do”. 

Đặc biệt, Tổng thống Reagan đã rất chú trọng đến sức mạnh chính trị của truyền thông, khi nêu ra những bài học kinh nghiệm của nước Mỹ về tuyên truyền trong những năm 1950; từ đó nhấn mạnh tính chất công cụ của truyền thông và thể hiện rõ ý định sử dụng truyền thông để truyền bá tư tưởng Mỹ trên khắp thế giới, đồng thời chống lại ý thức hệ của Liên Xô. 

Theo cách đó, ngoại giao công chúng đã được Mỹ thúc đẩy mạnh mẽ và rõ rệt chính là ở giai đoạn này. Ủy ban Thông tin quốc tế (IIC) của Hoa Kỳ đã lên kế hoạch để hỗ trợ các hành động quốc tế của Mỹ gắn với mục tiêu an ninh. Hàng loạt các dự án và chương trình truyền thông của IIC đã ra đời vào giai đoạn này. 

2. Giai đoạn kết thúc Chiến tranh Lạnh đến nay: 

Bức tường Berlin sụp đổ năm 1989, hai năm sau đó là sự tan rã của Đế chế Xô viết, kéo theo sự sụp đổ hàng loạt của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Chiến trah Lạnh đã đi đến hồi kết thúc. Bức tranh chính trị thế giới đã đổi thay đáng kể. 

Năm 1989, Truyền hình đã có một ảnh hưởng rất đáng kể đối với sự sụp đổ chính trị ở các nước Đông Âu. Với chủ nghĩa tư bản, văn hóa cùng ý thức hệ của nó đã lan tỏa một cách khá hòa bình ở các nước này. 

Tháng 8 năm 1991, một sự kiện ở Moscow đã làm chấn động dư luận quốc tế vì nó đã đem lại cho các khán thính giả trên thế giới chứng kiến những thời khắc quan trọng nhất trong sự biến động chính trị, không chỉ có ý nghĩa với Liên Xô mà còn với cả sự tiến triển của nền chính trị thế giới – kết thúc chiến tranh Lạnh với sự sụp đổ của Đế chế Xô viết. Từ sau thời điểm này, giới truyền thông của khối Đông Âu đã bước vào kỷ nguyên của tự do thông tin và thị trường truyền thông. 

Trật tự lưỡng cực trên thế giới biến mất – chỉ còn lại một cực chiến thắng (Hoa Kỳ và các đồng minh), do đó cuộc chiến tuyên truyền trên mạng truyền thông quốc tế giữa hai cực cũng đã đi đến hồi kết – tuy nhiên những gì còn lại của hiện thực ấy là sự lãnh đạo của Hoa Kỳ trong truyền thông quốc tế. 

Trong giai đoạn kết thúc cuộc chiến, các đài phát thanh của phương Tây ở châu Âu đã làm việc với công suất như chưa từng bao giờ có trước đó. Hòa đồng với sự tích cực của mạng truyền thông phương Tây là sự mở cửa hệ thống truyền thông nội địa các nước Đông Âu với sự nới lỏng kiểm duyệt của nhà nước đối với tự do ngôn luận. 

Bên cạnh những biến cố và chính sách chính trị, một nguyên nhân khác nữa thúc đẩy sự phát triển của truyền thông quốc tế ở giai đoạn này là sự phát minh và ứng dụng hệ thống truyền tín hiệu trực tiếp từ vệ tinh (DBS); cáp quang; kỹ thuật thông tin số và máy tính. 

Hai đặc điểm cơ bản của truyền thông quốc tế ở giai đoạn này là: Tư nhân hóa – định hướng theo thị trường; và hình thành nên một hạ tầng kỹ thuật cho truyền thông toàn cầu. 

Truyền thông quốc tế phát triển theo hướng tư nhân hóa và được dẫn dắt bởi thị trường hơn là bởi ý chí của các nhà nước . 

Những năm 1990 đã xuất hiện những thay đổi nền tảng trên trường chính trị quốc tế, những thay đổi ấy dẫn đến việc hình thành nên một hệ thống thể chế thương mại quốc tế định hướng cơ sở thị trường. Tình thế đó đã có ảnh hưởng mạnh đến truyền thông quốc tế. 

Truyền thông đang bước từ nhãn quan chính sách “lấy nhà nước làm trung tâm” sang nhãn quan “lấy thị trường làm định hướng”. Theo đó, không phải nhà nước kiểm soát và định hướng truyền thông theo các mục tiêu của nhà nước, trái lại, chính thị trường dẫn dắt định hướng phát triển của cái sau này theo các quy luật khách quan của nó ( chẳng hạn về lợi nhuận, chênh lệch giá cả, cung cầu..) 

Quan điểm này được chấp nhận và thực hiện trước hết là ở các cường quốc, thứ nữa là các thể chế quốc tế đa phương (UNESCO, ITU..). Tuy nhiên, đối với các nước độc tài, các nước kém phát triển, quá trình đó diễn ra khá chậm trễ và đôi khi còn bị cố tình ngưng trệ bởi những lý do chính trị. 

Việc nghiên cứu truyền thông từ giác độ nhà nước dưới hình thái “thông tin đối ngoại” của nước này đối với nước khác (quan hệ chính phủ – chính phủ) vốn rất phổ biến và mang tính truyền thống trước đó, mà ở đó các siêu cường thông tin dần bị thay thế bởi các nghiên cứu về những mạng truyền thông quốc tế ở cấp độ khu vực và toàn cầu, trong đó vai trò của nhà nước chỉ là một trong những tác nhân bên cạnh các tác nhân phi nhà nước như công ty, tổ chức phi chính phủ, các mạng xã hội, thậm chí là Netizen. 

Xu hướng hình thành nên một hạ tầng kỹ thuật cho truyền thông toàn cầu 

Bên cạnh quá trình giải điều tiết và tư nhân hóa, truyền thông cũng bị ảnh hưởng lớn lao đến từ các phát minh khoa học và công nghệ, đặc biệt là quá trình vi tính hóa và công nghệ số. Các tác nhân này đã hình thành nên hệ thống truyền thông vệ tinh. 

Có thể nói, chính nhờ sự tồn tại của một hạ tầng kỹ thuật là hệ thống vệ tinh, truyền thông đang được toàn cầu hóa, vì vậy, ý niệm về truyền thông quốc tế với tư cách là một hiện thực độc lập mới trở nên rõ ràng. 

Thông tin dưới hình thái số hóa thông tin qua các phương tiện truyền thông đến với hệ thống vệ tinh và từ đó phát tán khắp bề mặt trái đất. Đây thật là một cuộc cách mạng về truyền thông mà lịch sử trước đó chưa từng chứng kiến. 

Các nhà nghiên cứu nhìn nhận hạ tầng của truyền thông quốc tế hiện nay từ hai giác độ: “phần cứng” và “phần mềm”. Liên quan đến “phần cứng”, hệ thống này được cấu từ : 

– Mạng vệ tinh toàn cầu; 

– Mạng Internet với nền tảng do Mỹ phát triển và xây dựng;

– Hệ thống các đường truyền, thiết bị công nghệ đi kèm;

– Các chủ thể truyền thông; 

Trong khi đó, “phần mềm” bao gồm: 

– Các luật lệ truyền thông quốc tế ( công ước, hiệp định,..) – Các trình điều khiển chạy trên thiết bị truyền thông; 

– Các dòng thông tin; 

– Văn hóa của các chủ thể tham dự quá trình truyền thông; – Ngôn ngữ giao tiếp; 

– Năng lực kết nối, chia sẻ, phân tích ,.. của cả hai bên 

Truyền thông quốc tế được hình dung như một hiện thực độc lập tương đối trong quan hệ với các chủ thể là nhà nước thì : Quá trình xây dựng phần cứng và phần mềm của truyền thông quốc tế hiện nay diễn ra như thế nào? Ai là người đóng góp và ai có lợi nhất? là những câu hỏi mà các nhà nghiên cứu về truyền thông quốc tế hiện nay đang hướng đến giải đáp. 

CHƯƠNG II : CHÍNH SÁCH THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM 

1. Quá trình ra đời và phát triển của chính sách thông tin đối ngoại Việt Nam: 

Chiến lược thông tin đối ngoại Việt Nam là một phần quan trọng trong đường lối đối ngoại của nước ta những năm đổi mới. Sự nhận thức đúng đắn và kịp thời của Đảng về việc cung cấp thông tin đối ngoại đã thực sự là nền tảng để định hướng các hoạt động trong lĩnh vực này. 

Đảng và Chính phủ ta có ban hành nhiều văn bản quan trọng về công tác thông tin đối ngoại như: chỉ thị số 11/CT-TW về “đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại”, Thông báo số 188/TB-TW về công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới , Nghị quyết ĐH IX của Đảng (2001) tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ tăng cường công tác TTĐN,… Văn bản đầu tiên của Đảng và Nhà nước ta là Chỉ thị số 11/CT-TW của Ban bí thư Trung ương Đảng (1992) về “đổi mới và tăng cường” công tác thông tin đối ngoại. Xét về nguyên nhân khách quan, thời điểm đầu những năm 1990 là thời điểm bất lợi cho chế độ xã hội chủ nghĩa vì một loạt mô hình XHCN ở các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ dẫn đến phong trào cộng sản, thoái trào, tạo điều kiện cho các lực lượng thù địch chế độ XHCN đẩy mạnh các hoạt động thông tin liên lạc, lừa bịp nhằm chống phá3. Đây là thời điểm vô cùng cần thiết để ta tiến hành thông tin đối ngoại về bản chất tốt đẹp của Nhà nước XHCN. Dù con đường tiến tới CNXH có nhiều khó khăn, thử thách nhưng chúng ta sẽ chứng minh với thế giới rằng Việt Nam đang bắt đầu công cuộc đổi mới và không lùi bước trước bất cứ thử thách nào. 

Ngoài ra đây cũng là lúc chúng ta cần củng cố và xây dựng niềm tin, sự đoàn kết, đồng lòng và ủng hộ trong nhân dân ta đối với sự nghiệp Đổi mới và con đường mà Đảng và Nhà nước đã chọn để không một lực lượng thù địch nào có thể làm chia rẽ sự đoàn kết nội bộ ấy. 

Sau hai cuộc chiến tranh dài chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Việt Nam đã và đang bắt đầu công cuộc đổi mới trong thập kỉ đầu những năm 1990, Việt Nam không chỉ muốn các nước biết đến hình ảnh Việt Nam với tình thần dung cảm , ý chí kiên cường mà còn ở những khía cạnh khác như sự say mê, cần cù, sáng tạo… trong lao động, sự yêu thương và tinh thần đoàn kết của đồng bào, một Việt Nam thời kỳ đổi mới của sự năng động, của ý chí vươn lên, sẵn sàng cho hội nhập… 

Về những nguyên nhân chủ quan thì chúng ta chưa có sự chỉ đạo thống nhất, sắc bén, kịp thời về công tác TTĐN cũng như không có chính sách, chế độ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác TTĐN trong khi phương tiện, cơ sở vật chất kĩ thuật thiếu thốn. Rõ ràng là, công tác TTĐN của Việt Nam vẫn ở tình trạng yếu kém kéo dài cả về lực lượng, nội dung, hình thức thông tin. 

Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 26/04/2000 của Thủ tướng Chính phủ về “tang cường quản lý và đẩy mạnh công tác TTĐN” ra đời sau khi công tác TTĐN đã đạt được một số kết quả khả quan , Nhà nước đã dành ngân sách thích đáng cho TTĐN, đổi mới và hiện đại hóa hệ thống thông tin viễn thông và kết nối mạng Internet, đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất tăng cường, nhận thức của các cấp, các ngành có bước chuyển mới4. Điều này thể hiện sự phù hợp với xu thế vận dụng nguồn sức mạnh mềm trong kỷ nguyên thông tin và toàn cầu hóa của thế giới nhằm góp phần phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, công tác TTĐN của ta vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu đặt ra của thời đại hội nhập hiện nay nên cần phải “đẩy mạnh” hơn nữa quá trình này. 

Đến Quyết định số 79/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành kèm theo Quy chế quản lý gồm 3 chương, 13 điều đã quy định và phân công trách nhiệm rõ ràng, cụ thể hơn cho các bộ ngành liên quan. Một điểm mới cho Quyết định này là trong phần “Quy định chung” đã chính thức đưa ra khái niệm về thông tin đối ngoại. Thông tin đối ngoại gồm hai chiều: chiều thứ nhất là thông tin về Việt Nam ra thế giới và chiều thứ hai chứa đựng thông tin về thế giới vào Việt Nam. Ngày nay, dường như không có sự phân biệt rạch ròi giữa nội dung thông tin trong nước và quốc tế. Trong nội dung thông tin về tình hình quốc tế có thể hiện thái độ, lập trường, quan điểm của Việt Nam về các vấn đề quan hệ quốc tế hay thể hiện cách ứng xử và giải quyết các vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm. Đồng thời, trong nội dung thông tin về tình hình tring nước cũng sẽ có những yếu tố khu vực và quốc tế có liên quan, tác động đến Việt Nam. Quyết định số 16 QĐ/TW ngày 27/12/2001 về thành lập Ban chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại, tạo điều kiện cho việc triển khai thực hiện công tác này thống nhất và tập trung hơn. Trong kết luận số 16 – KL/TW ngày 14/02/2012 của Bộ Chính trị về “Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011- 2020” cũng chỉ rõ. 

2. Việc nắm vững vai trò và nội dung căn bản của chính sách thông tin đối thoại có ý nghĩa như thế nào? 

Công tác thông tin đối ngoại là một bộ phận quan trọng trong công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước, đồng thời cũng là một phần không thể thiếu trong chiến lược thông tin để phục vụ lợi ích quốc gia, góp phần quan trọng đối với sự nghiệp phát triển của đất nước. Công tác thông tin đối ngoại không chỉ dừng lại trong việc truyền và nhận tin tức một cách thụ động, mà còn bao hàm cả việc phân tích, đánh giá, phát biểu quan điểm và định hướng xử lý về các thông tin liên quan đến những sự kiện trong nước và quốc tế nhằm đạt tới những mục đích cụ thể về đường lối đối nội và đối ngoại của mỗi quốc gia. 

Dưới góc độ pháp lý, Điều 6 Nghị định 72/2015/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý hoạt động thông tin đối ngoại quy định: “Thông tin đối ngoại bao gồm thông tin chính thức về Việt Nam, thông tin quảng bá hình ảnh Việt Nam và thông tin tình hình thế giới vào Việt Nam.” Trong đó, thông tin chính thức về Việt Nam là thông tin về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thông tin về tình hình Việt Nam trên các lĩnh vực; thông tin về lịch sử Việt Nam và các thông tin khác5. Thông tin quảng bá hình ảnh Việt Nam là thông tin về đất nước, con người, lịch sử văn hóa của dân tộc Việt Nam6. Thông tin tình hình thế giới vào Việt Nam là thông tin về tình hình quốc tế trên các lĩnh vực, về quan hệ giữa Việt nam với các nước và các thông tin khác nhằm thúc đẩy quan hệ chính trị, xã hội, văn hóa, quốc phòng – an ninh giữa Việt Nam với các nước, phục vụ phát triển kinh tế đất nước, thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam7. Ngoài ra, thông tin đối ngoại còn bao gồm cả việc cung cấp thông tin giải thích, làm rõ, tức là những tư liệu, tài liệu, hồ sơ, lập luận nhằm giải thích, làm rõ các thông tin sai lệch về việt Nam trên tất cả các lĩnh vực8

Trong quá trình học tập tại Học viện Ngoại giao và nghề nghiệp tương lai, việc nắm vững vai trò và nội dung căn bản của chính sách thông tin đối ngoại sẽ hạn chế những thông tin sai lệch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Bên cạnh đó , còn dễ dàng trong việc phân tích, đánh giá, đưa ra quan điểm và định hướng xử lý về các thông tin liên quan đến những sự kiện trong nước và quốc tế nhằm đạt tới những mục đích cụ thể . 

CHƯƠNG III: SỰ CẦN THIẾT CỦA XU THẾ NGHIÊN CỨU TRUYỀN THÔNG QUỐC TẾ 

Thực tiễn và lý luận luôn song hành và hỗ trợ cho nhau để khám phá một ngành khoa học mới. TTQT cũng như vậy, trong những năm tới, các nhà khoa học và nghiên cứu TTQT tại việt Nam sẽ tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống các nguồn thông tin như: 

– Các tin tức và bình luận quốc tế trên các phương tiện truyền thông khác nhau (như các ấn phẩm in ấn, phát thanh, truyền hình và Internet); – Một số nguồn tin (như thông cáo báo chí và báo cáo báo chí, trong đó có nhiều nguồn thông qua truy cập trực tiếp từ Internet); 

– Các hình thức truyền thông trực tiếp của hợp tác quốc tế trong phạm vi mà họ đang mở để quan sát (ví dụ các cuộc tranh luận, các cuộc họp báo: mở cửa cho báo chí và công chúng); 

– Các văn bản hợp tác quốc tế. 

Các nghiên cứu về TTQT tại Việt Nam, gồm: 

i. Nghiên cứu về các bước cơ bản của việc tạo ra một không gian thông tin liên lạc toàn cầu duy nhất; 

ii. Phân tích các chiến lược cho chính sách thông tin đối ngoại của các cường quốc hàng đầu thế giới (Nga, Mỹ, Nhật Bản,..) và các nước khu vực (Trung Quốc, Hàn Quốc,..) 

iii. Phân tích các hoạt động của chính phủ và các phương tiện truyền thông trong lĩnh vực truyền thông quốc tế; 

iv. Xem xét những triển vọng cho sự phát triển của TTQT Việt Nam trong quá trình hình thành một không gian thông tin thống nhất của khu vực và quốc tế; 

v. Nghiên cứu về vấn đề xác định chủ đề của truyền thông toàn cầu và phân tích so sánh của các hoạt động thông tin của các tổ chức này. Mục đích là nghiên cứu về mô hình và đặc điểm của sự hình thành và phát triển của cộng đồng thế giới, từ đó đưa ra chiến lược thông tin phù hợp, phục vụ mục tiêu quốc gia. Đặc biệt chú ý đến chi tiết và phân tích toàn diện các cơ sở của chính sách đối ngoại của nước CHXHCN Việt Nam , vị trí và vai trò của nước ta trong TTQT hiện đại, cũng như xem xét các tính năng chính của các phương tiện truyền thông đại chúng, chính phủ và các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực này. 

Truyền thông có ảnh hưởng rất lớn đến mọi vấn đề của xã hội. Truyền thông tác động đến nhận thức của công chúng, từ nhận thức sẽ tác động đến hành động và ứng xử của công chúng. Khi mà một ứng xử của công chúng được lặp đi lặp lại sẽ thành nề nếp, tập quán cuối cùng trở thành những chuẩn mực của xã hội. Nhờ đến truyền thông mà những vấn đề này được xã hội chấp nhận và lan truyền nhanh trong công chúng9

Truyền thông có tác động lớn đến các nhóm đối tượng lớn như sau:

Đối với chính quyền nhà nước: 

– Giúp các cơ quan nhà nước đưa thông tin đến người dân về các chính sách kinh tế, văn hóa xã hội, luật pháp đến với dân chúng, thuyết phục công chúng thay đổi về nhận thức và hành xử đúng pháp luật. Ngoài ra chính phủ cũng nhờ truyền thông để thăm dò lấy ý kiến của dư luận trước khi ban hành các văn bản pháp lý. Nhờ truyền thông mà nhà nước điều chỉnh các chính sách quản lý của mình và tạo ra sự đồng thuận cao trong dân chúng. 

– Truyền thông làm cho chính phủ, những người thừa hành pháp luật được trong sạch và minh bạch hơn, thông qua thông tin phản biện của các đối tượng dân chúng trong xã hội.

Đối với công chúng: 

– Giúp cho người dân cập nhật thông tin kinh tế văn hóa xã hội, pháp luật trong và ngoài nước. Giúp người dân giải trí và học tập về phong cách sống những người xung quanh. Truyền thông ủng hộ cái đẹp và bài trừ cái xấu. Truyền thông đóng vai trò trong việc tạo ra các xu hướng về lối sống, văn hóa, thời trang… 

– Ngoài ra truyền thông còn giúp cho người dân phản hồi, nói lên tiếng nói của mình, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình. 

Đối với nền kinh tế: 

– Nhờ có truyền thông mà doanh nghiệp có thể quảng bá sản phẩm và dịch vụ, giúp cho người mua nhận biết và sử dụng sản phẩm và dịch vụ. Truyền thông cũng tạo ra nhu cầu tiêu dùng sản phẩm và dịch vụ, giúp các công ty tạo ra công ăn việc làm cho nhiều người, giúp kinh tế phát triển. Hơn 90% ngân sách marketing của doanh nghiệp là sử dụng các phương tiện truyền thông để quảng cáo sản phẩm và dịch vụ để thu hút người tiêu dùng nhận biết và sử dụng sản phẩm và dịch vụ của họ; 

– Bản thân truyền thông cũng là một ngành kinh tế quan trọng của một quốc gia, giải quyết công ăn việc làm và tạo ra giá trị cho nền kinh tế; – Truyền thông cũng là công cụ giúp cho người tiêu dùng phản ánh về chất lượng sản phẩm và dịch vụ của các nhà sản xuất. 

Với vai trò quan trọng truyền thông rất lớn đối với xã hội loài người, nghiên cứu truyền thông ra đời để giúp cho truyền thông đóng góp nhiều vai trò tích cực hơn là tiêu cực. Nghiên cứu truyền là các hoạt động nghiên cứu về sự tác động của truyền thông đối với công chúng qua đó các nhà làm truyền thông có sự điều chỉnh về nội dung, hình thức và phương tiện truyền thông để tăng tính hiệu quả của việc sử dụng truyền thông đối với các vấn đề của xã hội.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Sự khác biệt và tương đồng điển hình trong đào tạo pháp Luật ở Anh và Mỹ.

Common law – một trong hai dòng họ pháp luật lớn nhất trên thế giới được bắt nguồn và áp dụng trên lãnh thổ Anh, sau đó xuất hiện tại Mỹ qua con đường bành trướng thuộc địa. Tuy nhiên, do đặc trưng là quốc gia đa tôn giáo, sắc tộc, văn hóa; cơ cấu lãnh thổ được chia thành nhiều tiểu bang khiến Mỹ đã và đang có sự phát triển hệ thống pháp luật mang bản sắc của riêng mình. 

Đào tạo luật là một thành tố quan trọng trong sự phát triển hệ thống pháp luật cũng như phổ biến, giáo dục pháp luật tại mỗi quốc gia. Điều đó đồng nghĩa với nhu cầu tìm hiểu và so sánh đào tạo luật giữa các hệ thống pháp luật rất lớn và cần thiết không chỉ với nhà lập pháp, nghiên cứu pháp luật mà còn với luật sư, học sinh, sinh viên… 

Về mục tiêu, nhằm tìm hiểu các nét tương đồng và khác biệt có tính đặc trưng về đào tạo luật ở Anh và Mỹ, bài tiểu luận sẽ khái quát chung về đào tạo luật ở Anh và Mỹ, từ đó có cơ sở nhằm nêu bật những điểm tương đồng và khác biệt đặc trưng trong đào tạo luật tại hai quốc gia này trước khi trình bày các kết luận của nhóm tác giả. 

Về phương pháp nghiên cứu, để đạt được mục tiêu đề ra, nhóm tác giả sử dụng phương pháp so sánh, phân tích, đánh giá, đi từ tổng quan tới chi tiết nhằm nêu bật những đặc điểm mang tính đặc trưng cần tìm.

1. Khái quát về đào tạo luật ở Anh và Mỹ 

1.1.Đào tạo luật tại Anh

Ở Anh, đào tạo luật phân tách rõ giữa các giai đoạn học thuật, dạy nghề và đào tạo chuyển tiếp. Nghề luật sư được phân biệt cụ thể theo hướng tư vấn và tranh tụng tụng đã ảnh hưởng trực tiếp mục tiêu, phương pháp, chương trình đào tạo luật. Trong khi đó, việc đào tạo thẩm phán tiến hành thông qua khóa học chính quy để đào tạo ra các thẩm phán mới và thông qua các khóa học bổ túc để phát triển kĩ năng nghề nghiệp và kiến thức cho các thẩm phán đang hành nghề. Thông thường, con đường trở thành thẩm phán phải xuất phát từ luật sư tranh tụng. 

Đào tạo cử nhân luật ở Anh được nhìn nhận có phần nhẹ hơn so với nhiều nước khác ở Châu Âu. Đào tạo cử nhân luật là quá trình đào tạo ở bậc đại học do các khoa luật của các trường đại học thực nhiệm; còn đào tạo nghề diễn ra ở bậc sau đại học và thuộc chức năng của cơ sở đào tạo được cấp phép bởi Đoàn luật sư và bởi Hội luật gia.

1.2.Đào tạo luật tại Mỹ 

Ở Mỹ, điều kiện tiên quyết là người học luật đã hoàn thành một chương trình cử nhân do đào tạo luật là đào tạo sau đại học. Yêu cầu trên nhằm tạo nền tảng để tiếp thu các kiến thức pháp lý trong từng chuyên ngành hẹp. Ví dụ, người muốn hành nghề luật sư trong lĩnh vực kinh doanh thường có bằng cử nhân về thương mại hoặc quản trị kinh doanh. 

Sau khi hoàn thành chương trình J.D, người học phải vượt qua kỳ thi do đoàn luật sư của mỗi bang tổ chức để có thể hành nghề luật. Nhìn chung, đào tạo luật ở Mỹ đòi hỏi người học phải có vốn kiến thức tương đối trên nhiều lĩnh vực trước khi nghiên cứu chuyên sâu pháp luật. Những quy định khắt khe về đào tạo luật đã tạo ra những thế hệ thẩm phán, luật sư có trình độ năng lực cao, tham gia và đóng góp quan trọng trong đời sống xã hội Hoa Kỳ nói riêng và thế giới nói chung. 

2. Điểm tương đồng đặc trưng trong đào tạo luật ở Anh và Mỹ

2.1.Vai trò quan trọng của án lệ trong đào tạo luật

Là một trong những thành tố tiêu biểu của Common law, án lệ là nguồn luật được ưu tiên áp dụng và bị chi phối ít nhiều bởi học thuyết tiền lệ pháp. Từ đó, giảng dạy luật thông qua các nghiên cứu án lệ là một đặc trưng trong đào tạo luật tại hai quốc gia này. Tại Anh, đặc biệt trong giai đoạn đào tạo cử nhân, nghiên cứu án lệ được xem như một phần không thể thiếu ở các trường luật. Giai đoạn sau đại học, việc giảng dạy theo vụ việc diễn ra theo một hình thức khác, thiết thực hơn qua vụ việc giả định, phiên tòa giả định, buổi tham vấn hoặc đàm phán. Cuối cùng, trong thời gian đào tạo thực hành, học viên sẽ bắt đầu làm việc trên các vụ việc thực tế và được giám sát của các luật sư giàu kinh nghiệm. Sự tồn tại của giai đoạn đào tạo khác biệt này chứng minh một cá nhân ngay cả khi đã hoàn thành cử nhân cần phải tiếp tục tiếp cận, nghiên cứu và thật sự hiểu các vụ việc thực tế.2 Còn ở Mỹ, giảng dạy theo án lệ đã trở thành nền tảng trong đào tạo luật. “Phương pháp vụ việc” do Christopher Columbus Langdell sáng tạo và tiên phong áp dụng khi làm Hiệu trưởng Trường Luật Harvard vào cuối thế kỉ 19 được mô tả là “phương pháp sư phạm đặc trưng” trong các trường luật Hoa Kỳ3, tiếp tục được duy trì và hoàn thiện đến ngày nay. 

2.2.Tuyển sinh đầu vào 

Đào tạo luật có uy tín và vị trí quan trọng trong giáo dục ở Anh và Mỹ khi góp tạo ra nhiều thế hệ chính trị gia, lãnh đạo của công ty, tập đoàn hàng đầu, các luật sư nổi tiếng toàn cầu nhờ quy trình tuyển chọn học viên vô cùng khắt khe, gồm những cá nhân ưu tú và xuất sắc. Ở Mỹ, các khoa luật đều đặt ra tiêu chuẩn khá cao, nhiều trường hợp chỉ chọn được một sinh viên trong số năm hoặc mười người dự tuyển.4 Thông thường, điểm GPA đầu vào trung bình các trường luật nổi tiếng như Yale, Harvard, UC Berkeley phải đạt mức xuất sắc (từ 3.6 trở lên). Bên cạnh đó, kỳ thi chuẩn hóa LSAT về các kỹ năng về lập luận, phân tích logic, viết luận được sử dụng nhằm tìm kiếm những học viên có năng lực, tiềm năng nhất. 

Ở Anh, dù đào tạo luật được thực hiện ngay sau khi tốt nghiệp phổ thông nhưng yêu cầu đầu vào vẫn rất cao và khắt khe. “Kỳ thi Năng khiếu Quốc gia về Luật” (LNAT) được tổ chức nhằm đánh giá kiến thức cũng như khả năng lập luận, đánh giá, kết luận của ứng viên. Nhờ đó, các trường luật sẽ tìm kiếm được những người có năng lực và phù hợp nhất để tham gia học luật. 

2.3.Chi phí và thời gian đào tạo 

Điểm tương đồng đào tạo luật tại Anh và Mỹ không chỉ đặc trưng bởi những yếu tố học thuật mà còn bởi chi phí tốn kém. Dù có học bổng hoặc các khoản vay từ Hội đồng Hỗ trợ của các cơ sở đào tạo nhưng gánh nặng về chi phí vẫn còn rất lớn. Tại Anh, mức học phí tuy có sự khác nhau giữa sinh viên bản địa và sinh viên quốc tế, nhưng trung bình từ 12000-18000 bảng/năm. Con số này ở Hoa Kỳ thậm chí còn lớn hơn, đặc biệt tại các trường luật hàng đầu, con số hàng năm không thấp hơn 50000 USD. Tổng thể, thời gian để một người có đủ khả năng hành nghề luật trung bình từ 06-07 năm, đòi hỏi sự kiên trì, chăm chỉ và năng lực học thuật để đáp ứng lượng kiến thức khổng lồ luật trong thời gian tương đối dài. 

3. Điểm khác biệt đặc trưng trong đào tạo luật ở Anh và Mỹ 

3.1.Lịch sử phát triển và ý tưởng về việc đào tạo luật 

Ở Anh hình thức đào tạo luật trong các trường dòng do các đoàn luật sư tổ chức (Inns of Court) xuất hiện từ thế kỷ 13 thông qua việc học viên quan sát các quy trình tố tụng tại Tòa và các cuộc tranh luận cũng như phiên tòa giả định. Những cơ sở dạy nghề này giúp học viên được học trực tiếp qua thực hành với những luật sư có kinh nghiệm. Đến khi các trường dòng dần mất vị trí (trường dòng xuất hiện và thoái trào từ thế kỉ 13-17), chế độ học nghề (Chế độ học nghề (apprenticeship): Bộ luật Anh 1729 (Act for the Better Regulation of Attorneys and Solicitors) yêu cầu một người phải dành 05 năm tại các văn phòng luật trước khi chính thức hành nghề đã khiến cho chế độ học nghề dần đánh mất vị trí do tính chất nhàm chán, thụ động. Cho đến cuối thế kỉ 18, mô hình đào tạo này cũng đã tồn tại ở Mỹ khi cá nhân có nguyện vọng học luật sẽ liên hệ với một luật sư và làm việc họ. Học viên được hướng dẫn lý thuyết pháp lý và kỹ năng hành nghề để trở thành luật sư) nổi lên thế chỗ. Do vậy, phải mất gần hai thế kỷ (từ giữa thế kỉ 17-19), đào tạo luật tại các trường đại học mới có chỗ đứng (trước đó tại đại học đã giảng dạy về luật La Mã, nhưng Common law không thuộc phạm vi giảng dạy vì sự tồn tại của trường dòng). Chế độ học nghề và trường dòng tuy giờ đây mất vị thế độc tôn nhưng vẫn tồn tại trong tư tưởng người Anh, tác động tới việc ngày nay đào tạo luật tại đại học chủ yếu cung cấp khoa học, tri thức mang tính hàn lâm, còn kỹ năng thực hành được “dành lại” vào giai đoạn sau đại học. 

Còn tại Mỹ, chế độ học nghề đã từng phổ biến khi chế độ thuộc địa tồn tại. Nhưng vào cuối thế kỉ 18, các luật sư độc lập hoặc các nhóm luật sư nhỏ bắt đầu mở các trường luật của họ. Tiếp đó, đầu thế kỉ 19, các trường đại học bắt đầu thuê giáo sư luật và mở các khoa luật. Luật được giảng dạy giống như lịch sử và kinh tế, và nghiên cứu về pháp luật tập trung vào học thuyết và lý thuyết pháp lý. Bắt đầu từ cuối thế kỉ 19 đến đầu thế kỉ 20, ngày càng nhiều người chọn đào tạo luật tại cơ sở đại học. Hiệp hội luật sư Mỹ (ABA) ra đời đã tiếp tục thúc đẩy vị trí đào tạo luật tại đại học và những nghiên cứu của tổ chức này sau này đã góp phần xây dựng mô hình đào tạo luật ba năm phổ biến tại Hoa Kỳ. Thay vì chỉ nghiên cứu, giảng dạy học thuyết và lý thuyết pháp lý, đến cuối những năm 1950, nội dung thực tiễn bắt đầu được tích hợp vào chương trình giảng dạy tại hầu hết các trường luật. Yêu cầu về kỳ thi chuẩn hóa được áp dụng bắt buộc và vẫn duy trì tới nay. 

Có thể thấy, không giống như đào tạo luật tại Anh vốn dựa vào trường dòng qua hàng thế kỷ, lịch sử đào tạo luật tại Hoa Kỳ tuy ‘trẻ hơn’ nhưng phát triển rất nhanh chóng. Điều này dẫn tới tại Anh khi mô hình đào tạo luật bậc đại học xuất hiện không hoàn toàn triệt tiêu mô hình đào tạo cũ qua việc trường dòng vẫn tồn tại tới tận ngày nay. Trong khi ở Mỹ đã hình thành mô hình đào tạo luật riêng, khác biệt cơ bản với ở Anh. 

3.2.Mục tiêu đào tạo 

Tại Anh, đào tạo luật hướng tới hai cấp độ mục tiêu: (1) trang bị kiến thức khoa học pháp lý (academic) cho người học, họ sẽ được cấp bằng cử nhân luật sau khi kết thúc khóa học; (2) dạy nghề, với mục tiêu này người học sẽ được cấp chứng chỉ hành nghề luật.6 Như vậy xuất hiện sự phân tách rõ ràng về mục tiêu riêng khi bậc đại học tập trung đào tạo học thuyết và lý thuyết pháp lý, còn kiến thức phục vụ hành nghề luật sẽ được giảng dạy sau khi người học kết thúc bậc cử nhân. Không chỉ vậy, đào tạo luật còn phân biệt giữa đào tạo luật sư tranh tụng và luật sư tư vấn – một đặc trưng cơ bản trong đào tạo luật tại Anh. Đây là hệ quả của việc tồn tại đồng thời luật sư tranh tụng và luật sư tư vấn trong hệ thống pháp luật. 

Trong đào tạo luật ở Mỹ, mô hình đào tạo luật sư tư vấn và tranh tụng không tồn tại như ở Anh mà kết hợp hai mô hình trên vào một. Xu hướng kết hợp giữa đào tạo lý thuyết và đào tạo nghề để trang bị tới học viện đầy đủ kiến thức lẫn kỹ năng, qua đó nhanh chóng tham gia hành nghề luật sau khi tốt nghiệp. Ngoài ra do mỗi bang tại Mỹ có hệ thống pháp luật riêng nên mục tiêu đào tạo luật từng bang có những khác biệt, trong khi tại Anh không có yêu cầu về phạm vi, lãnh thổ như vậy. 

3.3.Tuyển sinh đầu vào 

Tuy cùng có quy trình tuyển chọn khắt khe, nhưng mỗi quốc gia vẫn có đặc trưng riêng. Tại Anh, do đào tạo luật xuất hiện từ bậc cử nhân nên ứng viên phải trải qua “Kỳ thi Năng khiếu Quốc gia về Luật” (LNAT). Bài thi này gồm 2 phần, phần A trả lời các câu hỏi trắc nghiệm; phần B tự luận, ứng viên phải thể hiện khả năng lập luận và kết luận về một loạt các vấn đề có chủ đề khác nhau.7 Nhiều trường luật còn yêu cầu phỏng vấn nhằm tạo điều kiện với ứng viên dù không có điểm số ấn tượng vẫn có cơ hội học luật ở Anh.8 

Tại Mỹ, ứng viên cần hoàn thành chương trình cử nhân trước đó và trải qua “Kỳ thi tuyển sinh trường luật” (LSAT). Bài kiểm tra gồm 5 phần bao gồm trắc nghiệm và tự luận. Đó là Lập luận logic 1&2, Lập luận phân tích, Đọc hiểu theo hình thức trắc nghiệm; và phần Viết luận.9 So số lượng ứng viên hàng năm rất đông, bộ phận tuyển sinh của các trường không phỏng vấn như ở Anh mà họ xem xét các yếu tố khác như điểm GPA đại học, lĩnh vực học đại học hay bài luận, cũng như “động lực, khả năng lãnh đạo, kinh nghiệm làm việc hoặc hoạt động ngoại khóa, nền tảng gia đình, văn hóa và cộng đồng…” của ứng viên để đưa ra quyết định10 nhưng điểm GPA đại học và điểm LSAT vẫn thường được quan tâm chủ yếu. Do đó, ứng viên thường học cử nhân về tiếng Anh, lịch sử hoặc khoa học chính trị để đạt điểm cao nhất có thế. Từ các số liệu thực tế11 chứng minh đầu vào trường luật tại Mỹ mang tính cạnh tranh cực cao, bao gồm việc đặt nặng vấn đề điểm LSAT và GPA có phần cứng nhắc hơn so với yêu cầu ở Anh. 

3.4.Bậc học và thời gian đào tạo 

Tại Anh, quy trình từ bậc học đại học (undergrad) – đào tạo cử nhân luật (có thời gian đào tạo là 03 năm tại trường đại học) đến đào tạo nghề luật – bậc sau đại học (postgrad), trong thời gian đó ứng viên có thể lựa chọn đào tạo luật sư tư vấn (thời gian đào tạo 01 năm và 02 năm thực tập) hoặc luật sư tranh tụng (thời gian đào tạo 01 năm và 01 năm thực tập). Sau thời gian đó mới được xem xét cấp giấy phép hành nghề. Trung bình, thời gian hoàn tất quy trình đào tạo luật này kéo dài từ 05 đến 06 năm. Tại Mỹ, sinh viên luật phải hoàn thành ít nhất một chương trình đại học Những người này khi trúng tuyển sẽ theo học 03 năm tại khoa luật để lấy bằng J.D.12 Do đào tạo nghề lồng ghép trong thời gian bằng đó ứng viên sau khi tốt nghiệp có thể tham gia kỳ thi cấp giấy phép hành nghề luật sư. Như vậy, tổng thế ứng viên phải dành 6-7 năm, gồm trung bình 3-4 năm cử nhân và 3 năm học luật. Điều này dẫn đến độ tuổi trung bình cho tốt nghiệp sinh khoa luật ở Mỹ là 29.13 

3.5.Vấn đề thi cử và bằng cấp 

Ở Anh, sau khi tốt nghiệp đại học, cá nhân có bằng cử nhân luật L.L.B, từ đây họ có thể lựa chọn để trở thành luật sư tư vấn hay luật sư tranh tụng. Tùy thuộc vào quyết định của mình, ứng viên tham gia những khóa học riêng biệt để hành nghề. Để trở thành luật sư tranh tụng, họ phải vượt qua Bar Professional Training Course và tương tự Solicitors Qualifying Examination (SQE)14 nếu muốn trở thành luật sư tư vấn. Sau khi có được chứng chỉ BPTC hoặc SQE và tham dự đủ 12 buổi bắt buộc tại trường dòng (Inns of Court), ứng viên mới được công nhận năng lực tranh tụng (tương tự với luật sư tư vấn). Sau thời gian thực tập mới được Đoàn luật sư/Hội luật gia) cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư tranh tụng/tư vấn. 

Để trở thành luật sư ở Anh, không nhất thiết phải có bằng cử nhân luật. Những trường hợp này có thể là: có bằng đại học ở ngành khác, không có bằng đại học hoặc là sinh viên, luật sư nước ngoài. Họ có thể tham gia các khóa học và bài thi theo từng trường hợp để có đủ tư cách tham gia chế độ học nghề và thực tập sau đại học như một cử nhân luật bình thường tại Anh, ví dụ như những người đã có bằng đại học trái ngành sẽ tham gia khóa học 1 năm để vượt qua kỳ thi sát hạch nghề phổ thông (CPE) hoặc lấy bằng Diploma về luật (GDL), hoặc các luật sư nước ngoài có thể tham gia Chương trình Chuyển giao Luật sư Đủ điều kiện (QLTS)… Khác với ở Mỹ, nơi một tấm bằng về luật là điều kiện bắt buộc nếu muốn hành nghề luật sư.

Ở Mỹ, sinh viên sau khi tốt nghiệp được gọi là – Juris Doctor/Doctor of Jurisprudence (J.D) – bằng học thuật cấp độ đầu tiên của ngành luật. Bằng J.D. là một đặc trưng của đào tạo luật tại Mỹ, do số giờ học để đạt được bằng này nhiều hơn đáng kể với thời gian một người phải học để đạt được bằng cử nhân ở các ngành khác, do vậy nó không còn được gọi là LL.B(Trước những năm 60, các trường luật ở Mỹ vẫn cấp bằng cử nhân LL.B cho các sinh viên tốt nghiệp.16 MBE, MEE hay MPT được đưa ra và gợi ý bởi Hội đồng Quốc gia về Giám định luật sư (NCBE). Hầu hết các bang đều sử dụng các thành phần bài thi này để tạo thành bài kiểm tra bar của mình, nhưng vẫn có các bang tự tạo ra và tổ chức bài thi của riêng mình ví dụ như California và Pennsylvania) và nó và cũng không tương đương bằng cử nhân luật ở các nước khác. Đối với cá nhân được đào tạo luật bên ngoài nước Mỹ phải hoàn thành chương trình thạc sĩ Master of Laws (LL.M) trong 1 năm hoặc theo học 3 năm cho bằng J.D để được tham dự kỳ hành nghề luật sư. Bằng luật cao nhất ở Mỹ là bằng tiến sĩ – Doctor of Juridical Science (J.S.D)/Doctor of Laws (LL.D), với điều kiện đã hoàn thành LL.M. Bằng S.J.D tương đương Ph.D ở châu Âu và các nước khác xong thưởng chỉ là bằng danh dự, không cấp cho nghiên cứu sinh mà chỉ dành cho người có đóng góp lớn cho nền khoa học pháp lý. 

Để trở thành luật sư sau khi tốt nghiệp J.D., ứng viên phải vượt qua kỳ thi kiểm tra năng lực tại tiểu bang nơi đăng ký dự thi. Đây là kỳ thi thách thức để chọn ra những người có năng lực hành nghề thực sự. Kỳ thi gồm ít nhất 2 phần: phần thi khách quan để kiểm tra kiến thức cơ bản trong các vấn đề nền tảng như hợp đồng, tài sản, vi phạm dân sự, luật tố tụng và luật hiến pháp; phần thi viết bài luận về các chủ đề. Trong kỳ thi, các loại bài thi thường được kết hợp sử dụng tùy theo từng bang, bao gồm Bài kiểm tra trắc nghiệm 200 câu (Multistate Bar Examination (MBE)); Bài luận (Multistate Essay Examination (MEE)) và Bài kiểm tra khả năng thực tiễn (Multistate Performance Test (MPT) thực hiện các công việc tiêu chuẩn của một người luật sư như viết memo hoặc tóm tắt.16 

3.6.Chương trình và phương pháp đào tạo 

Ở Mỹ, chương trình đào tạo luật chính quy để trở thành luật sư đơn giản chỉ có chương trình đào tạo cho bằng J.D, còn lại, việc đi thực tập không là một yêu cầu bắt buộc hoặc chương trình ôn tập cho bar exam (được gọi là bar review) cũng chỉ là tùy chọn, miễn là họ thi qua được bar exam. Năm đầu tiên của trường luật là năm học được đánh giá quan trọng nhất cho sự nghiệp một người muốn hành nghề luật sau này, bởi nó có thể quyết định nơi họ sẽ làm việc khi tốt nghiệp. Nguyên nhân cho điều này là vì chương trình phỏng vấn trong khuôn viên trường (OCI) thường diễn ra vào đầu năm thứ hai và tại thời điểm này, nhà tuyển dụng chỉ có thể có được GPA của năm đầu tiên. Đây là một bước được thực hiện khá sớm, cho thấy được môi trường năng động, cạnh tranh cao ở các trường luật Mỹ ngay từ năm học đầu tiên và cũng cho thấy rằng các cá nhân học luật được “săn đón” từ rất sớm kể cả khi họ chưa tốt nghiệp và có bằng J.D. 

Bên cạnh để áp dụng các vụ việc, án lệ vào giảng dạy, phương pháp tình huống “Socratic” do Trường luật Harvard khởi xướng được áp dụng tại hầu hết tất cả các trường luật.17 Đó là quá trình hỏi đáp, tranh luận liên tục giữa giảng viên và sinh viên xung quanh các vụ việc điển hình. Các câu hỏi xoay quanh tình tiết cơ bản, câu hỏi pháp lý, quy định pháp luật, lập luận của nguyên đơn, bị đơn, tòa cũng như bình luận về cách giải quyết của tòa. Các nguyên tắc pháp lý không được trình bày trực tiếp mà được tổng kết từ thảo luận tình huống. Điều này giúp sinh viên không chỉ tiếp xúc với các quy định mà còn làm quen thực tiễn, học hỏi được kỹ năng phân tích, lập luận của các bên và tòa án, nắm được trình tự tố tụng của vụ án, rèn luyện phản xạ nhanh nhạy, tư duy phản biện, phê phán, nhìn nhận vấn đề một cách đa chiều. Điều này rất phù hợp với môi trường pháp luật có sự thay đổi nhanh chóng như tại Mỹ 

Trong khi đó, tại Anh, đào tạo luật chủ yếu dưới dạng bài giảng và hướng dẫn. Giảng viên thường phác thảo vấn đề theo trật tự, giải thích sự phức tạp và cố gắng liên hệ với tình huống thực tế. Sinh viên được khuyến khích tham gia vào buổi thảo luận và diễn án để rèn luyện kĩ năng lập luận rõ ràng và thuyết phục. Trong giai đoạn đào tạo luật bậc cử nhân, sinh viên phải hoàn thành 6 môn học “cốt lõi” bao gồm: Luật Hiến pháp và Hành chính, Luật Hình sự, Hợp đồng, Luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Luật Đất đai và Công bằng, và Luật Tín thác. Tuy án lệ vẫn đóng vai trò trung tâm, nhưng với xu hướng pháp điển hóa mạnh mẽ hiện nay, luật thành văn cũng là một phần quan trọng được đưa vào chương trình đào tạo để nghiên cứu, thảo luận. Đào tạo luật tại bậc đại học tuy không dạy sinh viên tất cả các kỹ năng cần thiết để hành nghề luật nhưng họ vẫn được dạy về kỹ năng và đạo đức hành nghề luật sư.

Đối với đào tạo luật sư tranh tụng, khóa học tại trường dòng (Inns of Court) chủ yếu tập trung việc học quy tắc về bằng chứng, soạn thảo lời biện hộ và hoàn thiện kỹ năng biện hộ. 

Như vậy ở Anh, sinh viên cần nắm vững các quy định pháp luật, các học thuyết pháp lý rồi mới được đào tạo về kỹ năng hành nghề. Điều này dẫn tới khác biệt cơ bản khi tại Mỹ sinh viên được dạy để đủ khả năng tự liên kết, tìm ra quy luật, quy tắc từ những tình huống thực tiễn (và cả giả định), từ đó 02 phần kiến thức lý thuyết và thực hành đều được đào tạo đồng thời mà vẫn đảm bảo chất lượng. 

Trên cơ sở nghiên cứu, so sánh, đánh giá, tiểu luận thu được một số kết quả như sau: 

Thứ nhất, đào tạo luật tại Anh và Mỹ vừa có những tương đồng và khác biệt điển hình do tuy cùng chung hệ thống luật Common Law nhưng mỗi bên có mô hình đào tạo luật của riêng mình 

Thứ hai, những điểm tương đồng nổi bật bao gồm vai trò quan trọng của án lệ trong đào tạo luật, tuyển sinh đầu vào khắt khe, kĩ càng và chi phí đào tạo luật tốn kém Thứ ba, những điểm khác biệt nổi bật để phân biệt đào tạo nghề giữa Anh và Mỹ có thể kể đến lịch sử đào tạo luật, mục đích của đào tạo luật, phương pháp và chương trình đào tạo, vấn đề về bằng cấp.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 

1) Đại học luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật so sánh, NXB Công an nhân dân. 

2) Nguyễn Bích Thảo (2016), Một số kinh nghiệm đào tạo Luật ở Mỹ và gợi mở cho Việt Nam, tham luận tại Hội thảo về đổi mới đào tạo và nghiên cứu Luật, Khoa Luật, ĐHQGHN. 

3) Mac Sithigh, D., & Siems, M. (2017). Why Do We Do What We Do? Comparing Legal Methods in Five Law Schools Through Survey Evidence trong Rethinking Legal Scholarship: A Transatlantic Dialogue (pp. 31-83). Cambridge University Press. 

4) Byse (1986), Fifty Years of Legal Education, 71 IowA L. REV. 

5) Diamond (1985), Lawyer Competency and Bar Admissions, The Role of the Law School and the Role of the Profession, trong Legal education in the United Kingdom and the United States: An overview 2. 

6) Rodrigo Sadi (2017-2018), Legal Education and the Civil Law System, 62 N.Y.L. SCH. L. REV. 165. 

7) Fletcher, Roland (2016). Legal education and proposed regulation of the legal profession in England and Wales: a transformation or a tragedy?, Law Teacher, 50(3) pp. 371–385. 

8) Tạp chí Loyola of Los Angeles International and Comparative Law Review số 13 (2/1/1991), Legal Education in the United States and England: A Comparative Analysis

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bình luận, đánh giá các quy định về lao động giúp việc gia đình trong Bộ luật Lao động sửa đổ bổ sung năm 2019.

Báo cáo mới của Tổ chức lao động thế giới (ILO) ngày 15/6/2021 về người  lao động giúp việc gia đình đã đưa ra dữ liệu cho thấy hiện nay trên thế giới có 75,6  triệu lao động giúp việc gia đình (4.5% người lao động)1. Một con số tỷ lệ đáng kể trong lực lượng lao động xã hội, lao động giúp việc gia đình đã, đang và sẽ có những đóng góp quan  trọng đối với sự phát triển kinh tế- xã hội toàn cầu. Tuy nhiên trên thực tế lao động giúp việc gia đình vẫn bị đánh giá thấp, bị coi là lao động có trình độ kém, hầu như không  được quan tâm dẫn đến bị phân biệt đối xử về điều kiện làm việc và dễ bị lạm dụng  nhân quyền.

1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LAO ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH

1.1. Khái niệm lao động giúp việc gia đình

Định nghĩa đầu tiên về lao động giúp việc gia đình được Tổ chức lao động  quốc tế đưa ra năm 1951. Theo đó, nhiều quốc gia trên thế giới cũng đưa ra định nghĩa về loại hình lao động này. Để thống nhất cách hiểu chung và ghi nhận những  đóng góp quan trọng của lao động giúp việc gia đình thì ngày 16/6/2011, ILO đã  thông qua Công ước số 189 về việc làm bền vững cho lao động giúp việc gia đình. Theo đó, “ người lao động giúp việc gia đình (domestic worker) là bất kỳ người  nào thực hiện công việc trông gia đình có quan hệ việc làm; một người chỉ thực hiện công việc trong gia đình theo dịp hoặc không thường xuyên và không có tính chất nghề nghiệp thì không phải là người lao động giúp việc gia đình”.  

Ở Việt Nam, BLLĐ 2012 đã quy định cụ thể đầu tiên về lao động giúp việc gia đình, song  BLLĐ 2019 vẫn giữ nguyên khái niệm tại điều 161 như sau: “Lao động là người giúp việc gia đình là người lao động làm thường xuyên các công việc trong gia  đình của một hoặc nhiều hộ gia đình. 

Các công việc trong gia đình bao gồm công việc nội trợ, quản gia, chăm sóc trẻ em, chăm sóc người bệnh, chăm sóc người già, lái xe, làm vườn và các công việc khác cho hộ gia đình nhưng không liên quan đến hoạt động thương mại”. 

1.2 Đặc điểm của lao động giúp việc gia đình

– Lao động giúp việc gia đình thực hiện thường xuyên các công việc trong gia đình: đây có thể  coi là nét đặc trưng của loại hình lao động này vì công việc của họ được lặp đi lặp  lại mỗi ngày (nấu ăn, trông trẻ, lau dọn nhà cửa,…). 

– lao động giúp việc gia đình làm việc trong môi trường khép kín, đơn lẻ: bởi những nét đặc  thù của công việc, các lao động giúp việc gia đình rất ít có sự giao lưu với bên ngoài, không tham  gia các tổ chức đoàn thể nên dễ phải đối mặt với các nguy cơ: mắng chửi, đánh đập,  đe dọa, lạm dụng tình dục,… 

– lao động giúp việc gia đình chủ yếu là lao động nữ và có trình độ học vấn thấp: theo dữ liệu  của ILO mới ngày 15/6/2021 vừa qua thì trên thế giới, có khoảng 57,7 triệu phụ nữ  làm giúp việc, chiếm 76,2% tổng số lao động giúp việc gia đình, chiếm phần lớn  lực lượng lao động ở châu Âu, Trung Á và châu Mỹ. Ở Việt Nam, phụ nữ làm giúp  việc chiếm 90%, tiếp đó là những công việc chăm sóc, bảo mẫu chiếm 6,6%2.  lao động giúp việc gia đình phần lớn là nhữn người có trình độ học vấn thấp, chưa được đào tạo chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp.

1.3 Vai trò của lao động giúp việc gia đình 

Thứ nhất, vai trò đối với chính lao động giúp việc gia đình: có việc làm, tạo thu nhập ổn định,  đảm bảo chi tiêu và góp phần cải thiện cuộc sống cho gia đình và địa phương.  Ngoài ra, thu nhập của người lao động từ giúp việc gia đình còn là nguồn tiết kiệm,  tích lũy, phòng tránh rủi ro xảy ra. 

Thứ hai, vai trò đối với NSDLĐ sử dụng lao động giúp việc gia đình: được san sẻ những gánh  nặng về công việc gia đình, từ đó chuyên tâm thực hiện công việc, tạo ra thu nhập  cao hơn. Mặt khác, lao động giúp việc gia đình còn là giải pháp hiệu quả trong việc chăm sóc tốt  cho các thành viên trong gia đình, ưu việt hơn so với dịch vụ như nhà trẻ, viện  dưỡng lão,.. 

Thứ ba, vai trò đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước: khi thu nhập  của NLĐ và NSDLĐ tăng cao sẽ góp phần ổn định đời sống xã hội, đây cũng là  một trong những điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển, bảo đảm an sinh xã hội của  đất nước. 

2. ĐÁNH GIÁ PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ LAO  ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH 

2.1 Pháp luật về hợp đồng lao động đối với lao động giúp việc gia đình 

ILO và đa số các quốc gia trên thế giới đã thừa nhận GVGĐ là một nghề,  người làm nghề GVGĐ là một người lao động được bình đẳng như những người  lao động khác. Như vậy, cần có một hình thức pháp lý để xác lập quan hệ lao động  giữa lao động giúp việc gia đình và NSDLĐ. HĐLĐ là hình thức pháp lý BLLĐ 2019 quy định bắt  buộc đối với lao động giúp việc gia đình.  

2.1.1 Chủ thể giao kết hợp đồng lao động 

Chủ thể giao kết HĐLĐ GVGĐ là người lao động giúp việc gia đình và người sử dụng lao  động. Trong đó, người từ đủ 18 tuổi trở lên được quyền trực tiếp ký HĐLĐ, người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi được quyền ký kết HĐLĐ nhưng phải có sự đồng ý  bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật.  

Có thể thấy, pháp luật lao động đã rộng mở cơ hội cho phép trẻ em từ đủ 15  tuổi trở lên có thể làm công việc GVGĐ nếu công việc đó nhẹ nhàng, phù hợp với  lứa tuổi, thời gian làm việc không vượt quá thời gian pháp luật quy định. Tuy  nhiên, điểm hạn chế là độ tuổi dưới 18 là người chưa có kinh nghiệm và kỹ năng  sống, ứng phó với các tình huống dẫn đến dễ bị xâm hại, đặc biệt phần lớn lao động giúp việc gia đình lại là nữ. Một số liệu khảo sát tại TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh cho  biết có tới 17,3% lao động giúp việc gia đình bắt đầu từ độ tuổi dưới 18.  

2.1.2 Hình thức và nội dung của HĐLĐ 

BLLĐ 2019 quy định “Người sử dụng lao động phải giao kết hợp đồng lao động bằng văn bản với lao động là người giúp việc gia đình.”3 Nội dung HĐLĐ  phải tuân thủ khoản 1 Điều 21 BLLĐ. Quy định này chủ yếu đảm bảo quyền và lợi  ích hợp pháp của các bên nhưng dường như thực tế cả người GVGĐ và người sử dụng lao động đều không muốn bị ràng buộc về mặt pháp lý với nhau nên việc thực  hiện quy định này không dễ. Các kết quả nghiên cứu cho thấy, trên 90% HĐLĐ  GVGĐ được thỏa thuận bằng lời nói. Pháp luật cần có biện pháp linh hoạt và răn đe để thay đổi nhận thức của NSDLĐ và lao động giúp việc gia đình, đồng thời tăng cường công tác  quản lý nhà nước để kịp thời phát hiện và xử lý đối với những trường hợp vi phạm. 

2.1.3 Thủ tục giao kết HĐLĐ 

HĐLĐ GVGĐ phải tuân theo thủ tục: (i) Cung cấp thông tin trước khi giao  kết HĐLĐ; (ii) Thử việc; (iii) Ký kết HĐLĐ; (iv) Thông báo với UBND cấp xã. 

Lao động giúp việc gia đình là đối tượng có nhiều nét đặc trưng nên pháp luật quy định các  thủ tục nh m các bên đạt được mong muốn, lợi ích tối đa. Đặc biệt cần phải thông báo đến cơ quan có thẩm quyền vì có liên quan đến con người, tạm trú,..Tuy nhiên  thì quy định này ít được thực hiện bởi NSDLĐ có thể thay đổi người giúp việc liên  tục nên họ rất ngại khai báo hoặc khai báo một lần nhưng lại thay đổi rất nhiều  NLĐ khác. Như vậy, pháp luật cần cân nhắc các giải pháp trong vấn đề quản lý lao động giúp việc gia đình. 

2.1.4 Thực hiện, tạm hoãn, chấm dứt HĐLĐ đối với lao động giúp việc gia đình

Khi HĐLĐ được kí kết, các bên có nghĩa vụ thực hiện đúng cam kết đã thỏa  thuận trong hợp đồng. Tạm hoãn HĐLĐ đối với lao động giúp việc gia đình trong trường hợp NLĐ  mang thai và do hai bên thỏa thuận. Để đảm bảo quyền lợi cho các bên, pháp luật  quy định về các trường hợp chấm dứt HĐLĐ GVGĐ. Theo quy định tại Khoản 2  Điều 162 mỗi bên có quyền chấm dứt HĐLĐ bất kì lúc nào nhưng phải báo trước  15 ngày để bên kia còn chuẩn bị và không bị động. 

2.1.5 Quyền, nghĩa vụ của các bên khi chấm dứt HĐLĐ 

Khi chấm dứt HĐLĐ các bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ cho nhau các  khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên trong HĐLĐ. Đối với NLĐ, khi  chấm dứt HĐLĐ sẽ được NSDLĐ trả trợ cấp thôi việc trừ một số trường hợp.  Ngoài ra còn được thanh toán tiền nghỉ phép năm, tiền tàu xe, các giấy tờ và các  khoản nợ (nếu có) trong 7 ngày, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. NSDLĐ có  trách nhiệm thanh toán các quyền lợi nói trên và thông báo đến cơ quan có thẩm  quyền trong vòng 7 ngày. 

2.2 Pháp luật về điều kiện lao động đối với lao động giúp việc gia đình

2.2.1 Quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đối với lao động giúp việc gia đình

Về thời giờ làm việc: được xác định trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên, đồng  thời quỹ thời gian làm việc cũng có sự khác nhau giữa 2 độ tuổi của NLĐ là người  từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi và người đủ 18 tuổi trở lên. 

Để đảm bảo sức khỏe cho lao động giúp việc gia đình chưa thành niên, pháp luật có quy định riêng  tại Điều 146 BLLĐ 2019. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay chưa có văn bản hướng  dẫn cụ thể về việc lao động giúp việc gia đình làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm nên dễ gây nên  sự lạm dụng trong sử dụng lao động từ phía NSDLĐ. 

Về thời giờ nghỉ ngơi: được quy định cụ thể tại chương VII BLLĐ 2019. Cụ  thể lao động giúp việc gia đình phải được nghỉ ít nhất 8 giờ trong đó có 6 giờ liên tục trong 24 giờ  liên tục. Quy định này đảm bảo cho NLĐ có được sự nghỉ ngơi sau nhiều giờ liên  tục làm việc, tránh sự lạm dụng của NSDLĐ do sống cùng gia đình với họ. 

2.2.2 Quy định pháp luật về an toàn lao động và vệ sinh lao động đối với lao động giúp việc gia đình

Điều 13 Công ước 189 của ILO quy định mọi người lao động giúp việc gia đình có quyền  được làm việc trong một môi trường an toàn và vệ sinh. Khoản 5 Điều 89 Nghị  định 145/2020/NĐ-CP đã quy định vấn đề an toàn, vệ sinh lao động đối với lao  động là người giúp việc gia đình. Tuy nhiên trên thực tế không phải tất cả NSDLĐ  đều thực hiện hết trách nhiệm của mình và lao động giúp việc gia đình có thể không biết đến tất cả  các quyền lợi của mình được hưởng. Hơn nữa, pháp luật cần nhận thức về những  nguy cơ an toàn vệ sinh lao động đột xuất trong quá trình lao động và có cơ chế  điều tiết cũng như các biện pháp đảm bảo cho lao động giúp việc gia đình. 

2.3 Pháp luật về điều kiện sử dụng lao động đối với lao động giúp việc gia đình

2.3.1 Pháp luật về tiền lương 

Tiền lương là vấn đề mà bất kì NLĐ nào cũng đều quan tâm bởi đó ảnh  hưởng tới cuộc sống của chính NLĐ và gia đình họ. Khoản 3 Điều 162 BLLĐ 2019  quy định: “3. Hai bên thỏa thuận trong hợp đồng lao động về hình thức trả lương,  kỳ hạn trả lương, thời giờ làm việc hằng ngày, chỗ ở”. Quy định này phù hợp với  nguyên tắc chung về chế độ tiền lương, bản chất của quan hệ lao động. Tại NĐ  145/2020/NĐ-CP quy định: “tiền lương của người lao động thỏa thuận trong hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 90 của Bộ luật Lao  động bao gồm mức lương theo công việc, phụ cấp lương và các khoản bổ sung  khác nếu có. Mức lương theo công việc bao gồm cả chi phí tiền ăn, ở của người lao  động tại gia đình người sử dụng lao động (nếu có) không được thấp hơn mức lương  tối thiểu vùng do Chính phủ công bố. Người sử dụng lao động và người lao động  thỏa thuận mức chi phí ăn, ở hằng tháng của người lao động (nếu có), tối đa không  quá 50% mức lương theo công việc ghi trong hợp đồng lao động”.  

Tuy nhiên, vấn đề vướng mắc khi thực hiện quy định trên là với quy định  mức lương (bao gồm cả chi phí ăn, ở của người lao động sống cùng gia đình người  sử dụng lao động nếu có) sẽ gây khó khăn trong việc xác định và gây nhầm lẫn trên  thực tế. Quy định này có thể sẽ tạo ra kẽ hở cho người sử dụng lao động lợi dụng  để đưa ra mức tiền lương không tương xứng với sức lao động của người lao động.  Bởi trên thực tế phần lớn 105 mức lương hiện nay là do gia đình chủ đề xuất và  quyết định (có 80,6% trường hợp mức lương hiện nay là do gia đình chủ đề xuất và  92,8% trường hợp do gia đình chủ quyết định mức lương này).  

2.3.2 Pháp luật về BHXH, BHYT đối với lao động giúp việc gia đình

Theo quy định NSDLĐ có trách nhiệm chi trả thêm cùng lúc với kỳ trả lương  của lao động giúp việc gia đình một khoản tiền tương đương mức đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y  tế theo quy định của pháp luật để người lao động chủ động tham gia bảo hiểm xã  hội, bảo hiểm y tế. So với BLLĐ năm 2012 với BLLĐ năm 2019 dường như không  có sự thay đổi nhiều, chỉ thay cụm từ để người lao động tự lo bảo hiểm thành để  người lao động chủ động tham gia BH H, BH T . Dù là tự lo hay chủ động  tham gia BH H thì theo quy định của pháp luật hiện hành người lao động giúp việc gia đình vẫn  chỉ thuộc đối tượng tham gia BHXH tự nguyện, như vậy sẽ không thể đảm bảo  được hết các quyền lợi cho người lao động.  

2.3.3 Pháp luật trong lĩnh vực kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất

Người sử dụng lao động và người lao động xác định cụ thể các hành vi, hình  thức xử lý kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất theo quy định tại khoản 2 Điều  118 và Điều 129 của Bộ luật Lao động và ghi trong hợp đồng lao động hoặc thể  hiện bằng hình thức thỏa thuận khác 4. Có hai hình thức xử lý kỷ luật lao động áp  dụng đối với người lao động bao gồm khiển trách, sa thải theo khoản 1, khoản 4  Điều 124 của Bộ luật Lao động.  

2.4 Pháp luật về xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực lao động giúp việc gia đình

Theo các tài liệu của ILO ghi nhận lao động giúp việc gia đình, đặc biệt là  lao động giúp việc gia đình làm việc tại nước ngoài là đối tượng lao động dễ bị bóc lột và lạm dụng. Tại Việt Nam, các hành vi bị nghiêm cấm đối với NSDLĐ khi có lao động giúp việc gia đình được quy định rõ tại Điều 165 BLLĐ 2019. Các quy định này cũng  thống nhất với các quy định về hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực lao động  (Điều 8 BLLĐ), góp phần cảnh báo và là cơ sở để xử lý vi phạm đối với người sử  dụng lao động có hành vi. Hiện nay vấn đề xử lý vi phạm hành chính liên quan đến lao động giúp việc gia đình được quy định tại Nghị Định 28/2020/NĐ-CP. 

Khác với BLLĐ 2012 thì BLLĐ 2019 quy định cơ quan có thẩm quyền giải  quyết tranh chấp lao động tại Điều 187 bao gồm: Hòa giải viên lao động, tòa án  nhân dân và bổ sung thêm cơ hội đồng trọng tài lao động. Tranh chấp lao động giữa  người GVGĐ với người sử dụng lao động không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải  trước khi yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động hoặc Tòa án giải quyết. 

Quy định này là hợp lý bởi người lao động giúp việc gia đình ở vị thế yếu thế hơn trong quan hệ lao  động với người sử dụng lao động. Mặt khác, do đặc thù của công việc GVGĐ rất  dễ bị người sử dụng lao động xâm phạm quyền lợi, lạm dụng sức lao động, ngược  đãi và các hành vi phạm pháp luật khác. Hơn nữa, lao động giúp việc gia đình chủ yếu là những người lao động xuất thân từ nông thôn, trình độ học vấn thấp, thiếu hiểu biết pháp  luật lao động, lại không có tổ chức đại diện để đứng ra bảo vệ họ nên khi tham gia  hòa giải họ có khả năng rơi vào vị thế bất lợi hơn khi thỏa thuận với phía người sử  dụng lao động. 

Về thời hiệu giải quyết tranh chấp lao động giữa lao động giúp việc gia đình và NSDLĐ cũng  tuân theo quy định về thời hiệu giải quyết tranh chấp lao động cá nhân nói chung  được quy định tại Điều 189 BLLĐ năm 2019. Quy định như vậy là phù hợp với yêu  cầu của việc giải quyết tranh chấp lao động, cần giải quyết nhanh chóng nh m khôi  phục quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đã bị xâm phạm, giúp người lao động có  thể tiếp tục công việc bình thường, giải tỏa mâu thuẫn, bất động giữa các bên, duy  trì và củng cố quan hệ lao động. 

3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG  GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM 

BLLĐ 2019 đã kế thừa và phát triển những quy định về lao động giúp việc gia đình của  BLLĐ 2012 nhưng xét thấy vẫn tồn đọng một số bất cập trên thực tế, lao động giúp việc gia đình là  bên yếu thế, cần phải được bảo vệ. Chính vì lý do đó, em xin đề xuất một số kiến  nghị đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể trong quan hệ lao động giúp việc gia đình đồng thời hướng  đến mục tiêu đưa GVGĐ trở thành việc làm bền vững cho người lao động. 

Thứ nhất, đối với pháp luật về hợp đồng lao động giúp việc gia đình cần bổ sung thêm quy  định về hậu quả của tạm hoãn HĐLĐ GVGĐ. Hiện pháp luật cho phép người sử  dụng lao động được quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ với lao động giúp việc gia đình nếu hết  thời hạn tạm hoãn HĐLĐ mà người lao động không có mặt. Tuy nhiên, trường hợp  nếu người lao động có lý do chính đáng thì người sử dụng lao động có quyền đơn  phương chấm dứt HĐLĐ không Việc bổ sung quy định này sẽ là cơ sở để bảo vệ  quyền lợi cho người lao động giúp việc gia đình, đồng thời cũng là căn cứ cho việc giải quyết tranh chấp giữa người sử dụng lao động và người lao động.

Thứ hai, điều chỉnh quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ  ngơi theo hướng quy định tổng số giờ làm việc trong ngày, trong tuần, tổng số giờ  nghỉ ngơi tối thiểu, quy định cụ thể về thời gian làm thêm giờ đối với lao động giúp việc gia đình.  Bổ sung quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đối với lao động giúp  việc gia đình sống cùng gia đình người sử dụng lao động.  

Thứ ba, cần bổ sung các quy định về đảm bảo điều kiện sống cho lao động giúp việc gia đình. 

Thứ tư, bổ sung quy định về đào tạo nghề, bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng nghề  đối với lao động giúp việc gia đình và cấp chứng chỉ nghề cho lao động giúp việc gia đình. Đồng thời cũng cần quy  định tăng mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật về lao động giúp việc  gia đình để đủ sức răn đe, phòng ngừa vi phạm. Hơn nữa, cũng cần có quy định về  nhiệm vụ của thanh tra lao động trong việc thanh tra, kiểm tra hộ gia đình sử dụng  lao động giúp việc gia đình. 

GVGĐ là một công việc đã xuất hiện, tồn tại từ lâu ở các quốc gia trên thế  giới và cả ở Việt Nam. Cùng với sự phát triển kinh tế, lao động giúp việc gia đình ngày càng có vai  trò quan trọng với sự phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia. Tuy nhiên, pháp  luật về lao động giúp việc gia đình bên cạnh những ưu điểm vẫn không tránh khỏi tồn tại, hạn chế,  thiếu sự linh hoạt và hiệu quả thực thi không cao. Bên cạnh việc hoàn thiện pháp  luật cũng cần chú trọng tới những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện  pháp luật về lao động giúp việc gia đình trong đó việc tăng cường công tác thông tin, tuyền thông về lao động giúp việc gia đình thay đổi thái độ, nhận thức, quan điểm của xã hội về nghề GVGĐ,  nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động giúp việc gia đình là một trong những giải pháp quan trọng  cần hướng tới.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 

1. Bộ luật lao động 2012; 

2. Bộ luật lao động 2019; 

3. Nghị định 145/2020/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số  điều của Bộ luật lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động; 

4. Nghị định 28/2020/NĐ-CP định xử phạt hành chính lĩnh vực lao động, bảo  hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp  đồng; 

5. Đỗ Thị Dung (chủ nhiệm đề tài) (2017), Pháp luật lao động Việt Nam về lao  động giúp việc gia đình – Thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Đề tài  nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường ĐH Luật Hà Nội. 

6. Đỗ Thị Dung (chủ biên) (2018), Pháp luật về lao động giúp việc gia đình ở Việt  Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội; 

7. Lã Trọng Đại (2014), Những vấn đề nảy sinh trong quan hệ lao động giúp việc  gia đình và giải pháp khắc phục , Tạp chí Lao động và xã hội; 

8. Quỳnh Anh, Theo Doanh nghiệp và Tiếp thị, , “ILO: Cần công nhận giúp việc  gia đình là một nghề chính thức”,16/6/2021; 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Tài sản trí tuệ là gì, khái niệm về quyền sở hữu trí tuệ, đối tượng, căn cứ phát sinh và xác lập các quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật Việt Nam và thế giới.

1. TỔNG QUAN VỀ TÀI SẢN

Trên thế giới, tài sản được định nghĩa theo một số cách như sau:

– Thứ nhất, tài sản là tổng sản nghiệp.

– Thứ hai, tài sản là đối tượng giao dịch.

– Thứ ba, tài sản là đối tượng của quyền sở hữu.

– Thứ tư, tài sản là những gì mang lại lợi ích nhất định cho con người.

Tại Việt Nam, khái niệm tài sản được quy định tại Điều 105 Bộ Luật dân sự 2015. Theo đó:

“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.

2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”

Tuy nhiên, cách định nghĩa này lại có nhược, đó là sẽ khó xác định khi xuất hiện một loại tài sản mới.

2. TỔNG QUAN VỀ TÀI SẢN TRÍ TUỆ.

Tài sản trí tuệ là những sản phẩm do trí tuệ con người sáng tạo ra thông qua các hoạt động tư duy, sáng tạo trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Là một tài sản vô hình, tài sản trí tuệ có các đặc điểm sau:

– Là kết quả của hoạt động khoa học và công nghệ. Khoa học trong trường hợp này được hiểu theo nghĩa cả khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn. Công nghệ trong trường hợp này được hiểu là công nghệ có thể chuyển giao độc quyền (ví dụ công nghệ lên men bia) hoặc công nghệ không thể chuyển giao độc quyền (ví dụ công nghệ đào tạo).

– Tài sản trí tuệ có khả năng tái tạo và phát triển.

– Tài sản trí tuệ có khả năng bị hao mòn vô hình. Một tài sản trí tuệ có thể được coi là có giá trị lớn ở thời điểm này, nhưng sẽ có những tài sản trí tuệ khác có giá trị cao hơn ở những thời điểm sau đó.

– Tài sản trí tuệ tồn tại ở dạng thông tin và có khả năng lan truyền vô tận, ví dụ một chương trình phát thanh, truyền hình được phát đi ở một quốc gia thì ngay lập tức nó có thể lan truyền đến tất cả mọi quốc gia trên thế giới.

– Tài sản trí tuệ dễ bị sao chép, ví dụ một tác phẩm văn học có thể bị sao chép thành nhiều bản, chất lượng thông tin của bản sao tương đương với chất lượng thông tin của bản gốc. Đây là đặc điểm đáng lưu ý, nhất là trong thời đại kĩ thuật số, qua đó cho thấy nếu không có cơ chế pháp luật hữu hiệu để bảo hộ tài sản trí tuệ thì không thể kiểm soát được tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

– Trong cùng một thời điểm, tài sản trí tuệ có thể nhiều người cùng sử dụng, mà việc sử dụng của người này có thể không hoặc có thể ảnh hưởng tới việc sử dụng của người khác.

– Tài sản trí tuệ có thể được định giá bằng tiền và có thể được trao đổi trên thị trường, ví dụ có thể mua quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng sáng chế thông qua hợp đồng chuyển giao sáng chế, nhà xuất bản có thể mua quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một tác phẩm văn học.

– Việc chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với tài sản trí tuệ có thể ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác.

3. TỔNG QUAN VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ

3.1. Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ

Quyền sở hữu trí tuệ là tài sản thuộc quyền tài sản.

Theo Khoản 1 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi bổ sung 2009, 2019: “Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.”

Có thể thấy việc một tổ chức hay cá nhân có công sức nghiên cứu, sáng tạo để hoàn thành một công trình, một sản phẩm mới sẽ được công nhận quyền sở hữu trí tuệ. Các tác phẩm sẽ được pháp luật bảo hộ trên các phương diện như quyền sở hữu trí tuệ của tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền sở hữu trí tuệ đối với giống cây trồng.

3.2. Đối tượng quyền sở hữu trí tuệ

Theo Điều 3 Luật sở hữu trí tuệ, đối tượng quyền sở hữu trí tuệ bao gồm các đối tượng sau:

– Đối tượng quyền tác giả:

+ Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.

+ Quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi là quyền liên quan) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.

Đối tượng quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.

Quyền tác giả phát sinh kể từ thời điểm tác phẩm được sáng tạo dưới hình thức nhất định. Tác giả, chủ sở hữu tác phẩm không bắt buộc phải đăng ký quyền tác giả tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Tác phẩm dù có đăng ký hay không đăng ký quyền tác giả đều được hưởng sự bảo hộ như nhau từ phía Nhà nước. Tuy nhiên, việc đăng ký quyền tác giả lại cần thiết và rất có ý nghĩa trong việc chứng minh quyền tác giả khi có tranh chấp xảy ra.

– Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp:

Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.

Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý.

+ Sáng chế là giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ kỹ thuật trên thế giới, có trình độ sáng tạo, có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội.

Giải pháp hữu ích là giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ kỹ thuật trên thế giới, có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội.

Người muốn được hưởng quyền đối với sáng chế/giải pháp hữu ích phải làm đơn xin cấp Bằng độc quyền sáng chế/giải pháp hữu ích và nộp cho Cục Sở hữu trí tuệ. Đơn phải thể hiện đầy đủ bản chất của giải pháp kỹ thuật xin bảo hộ theo những hình thức được quy định chặt chẽ bởi pháp luật về sáng chế/giải pháp hữu ích. Đơn sẽ được xét nghiệm theo trình tự và thủ tục luật định. Bằng độc quyền sáng chế/giải pháp hữu ích được cấp nếu đơn được trình bày theo đúng quy định, sáng chế/giải pháp hữu ích trong đơn thỏa mãn các tiêu chuẩn bảo hộ, và người nộp đơn đã nộp đủ các khoản lệ phí quy định. Phạm vi, nội dung, thời hạn bảo hộ quyền đối với sáng chế/giải pháp hữu ích được xác định theo Bằng độc quyền được cấp.

Quyền đối với sáng chế/giải pháp hữu ích được bảo hộ trong thời hạn Bằng độc quyền có hiệu lực. Bằng độc quyền sáng chế, có hiệu lực từ ngày cấp đến hết 20 năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ; Bằng độc quyền giải pháp hữu ích, có hiệu lực từ ngày cấp đến hết 10 năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ.

+ Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm, được thể hiện bằng đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố đó, có tính mới đối với thế giới và dùng làm mẫu để chế tạo sản phẩm công nghiệp hoặc thủ công nghiệp.

Người muốn được hưởng quyền đối với Kiểu dáng công nghiệp phải làm đơn xin cấp Bằng độc quyền Kiểu dáng công nghiệp và nộp cho Cục Sở hữu trí tuệ . Đơn phải thể hiện đầy đủ bản chất của Kiểu dáng công nghiệp xin bảo hộ theo những hình thức được quy định chặt chẽ bởi pháp luật về Kiểu dáng công nghiệp. Đơn sẽ được xét nghiệm theo trình tự và thủ tục luật định. Bằng độc quyền Kiểu dáng công nghiệp được cấp nếu đơn được trình bày theo đúng quy định, Kiểu dáng công nghiệp trong đơn thỏa mãn các tiêu chuẩn bảo hộ, và người nộp đơn đã nộp đủ các khoản lệ phí quy định. Phạm vi, nội dung, thời hạn bảo hộ quyền đối với Kiểu dáng công nghiệp được xác định theo Bằng độc quyền được cấp.

Thời hạn bảo hộ quyền đối với Kiểu dáng công nghiệp là thời hạn Bằng độc quyền Kiểu dáng công nghiệp có hiệu lực. Bằng độc quyền Kiểu dáng công nghiệp có hiệu lực từ ngày cấp đến hết 5 năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ và có thể được gia hạn liên tiếp 2 lần, mỗi lần 5 năm.

+ Nhãn hiệu là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau.

Dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu phải là những dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình ảnh, hình vẽ hoặc sự kết hợp của các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc.

Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá có hiệu lực từ ngày cấp đến hết 10 năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ và có thể được gia hạn liên tiếp nhiều lần, mỗi lần 10 năm. Thời hạn bảo hộ quyền đối với nhãn hiệu hàng hoá phát sinh trên cơ sở đăng ký quốc tế theo Thoả ước Madrid được Nhà nước bảo hộ từ ngày đăng ký quốc tế được công bố trên Công báo nhãn hiệu hàng hoá quốc tế của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới đến hết thời hạn hiệu lực đăng ký quốc tế theo Thoả ước Madrid. Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ vô thời hạn tính từ ngày nhãn hiệu được công nhận là nổi tiếng ghi trong Quyết định công nhận nhãn hiệu nổi tiếng.

+ Chỉ dẫn địa lý là những từ, tên gọi, dấu hiệu, biểu tượng, hình ảnh được sử dụng để chỉ ra rằng sản phẩm có nguồn gốc tại quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc địa phương mà đặc trưng về chất lượng, uy tín, danh tiếng hoặc các đặc tính khác của loại hàng hoá này có được chủ yếu là do nguồn gốc địa lý tạo nên.

Tên gọi xuất xứ hàng hoá là tên địa lý của nước, địa phương dùng để chỉ xuất xứ của mặt hàng từ nước, địa phương đó với điều kiện những mặt hàng này có các tính chất, chất lượng đặc thù dựa trên các điều kiện địa lý độc đáo và ưu việt, bao gồm yếu tố tự nhiên, con người hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó.

Tóm lại, chỉ dẫn địa lý không chỉ là tên gọi mà còn là những từ, dấu hiệu, biểu tượng, hình ảnh trong khi đó tên gọi xuất xứ chỉ là tên địa lý.

Chỉ dẫn địa lý (không bao gồm tên gọi xuất xứ hàng hoá) được bảo hộ mà không cần phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tên gọi xuất xứ hàng hoá chỉ được bảo hộ thông qua việc đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ. Giấy chứng nhận đăng ký tên gọi xuất xứ hàng hoá có hiệu lực vô thời hạn.

Tên địa lý nước ngoài chỉ được chấp nhận bảo hộ tại Việt Nam nếu đang được bảo hộ tại nước mang tên hoặc có địa phương mang tên đó.

+ Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Để được bảo hộ với danh nghĩa tên thương mại thì tên gọi đó phải là tập hợp các chữ cái (có thể kèm theo chữ số) phát âm được; và có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với các chủ thể khác trong cùng lĩnh vực kinh doanh.

Tên thương mại sẽ không được bảo hộ nếu gây nhầm lẫn với tên thương mại của người khác đã được sử dụng từ trước trên cùng một địa bàn và trong cùng một lĩnh vực kinh doanh, hoặc gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá của người khác đã được bảo hộ từ trước khi bắt đầu sử dụng tên thương mại đó, hoặc thuộc các đối tượng không  hộ, như tên gọi của các cơ quan hành chính, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội.

Tên thương mại được tự động bảo hộ (không cần phải đăng ký) khi đáp ứng các yêu cầu nêu trên. Tên thương mại được bảo hộ chừng nào chủ sở hữu vẫn còn duy trì hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó.

Mọi hành vi sử dụng bất kỳ chỉ dẫn thương mại nào trùng hoặc tương tự với tên thương mại của người khác cho cùng loại sản phẩm, dịch vụ hoặc cho sản phẩm, dịch vụ tương tự, gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó đều bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại.

+ Bí mật kinh doanh: Để được bảo hộ với danh nghĩa bí mật kinh doanh, thông tin phải có đủ các điều kiện sau đây: (i) Không phải là hiểu biết thông thường; (ii) Có giá trị thương mại đối với người nắm giữ thông tin đó và đem lại cho chủ sở hữu lợi thế hơn so với các đối thủ cạnh tranh những người không nắm giữ thông tin đó; (iii) Được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để thông tin đó không bị tiết lộ và không dễ dàng tiếp cận được.

Bí mật kinh doanh được bảo hộ mà không cần phải nộp đơn đăng ký, và được bảo hộ khi bí mật kinh doanh còn đáp ứng đủ các điều kiện bảo hộ như đã nêu trên.

+ Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn là cấu trúc không gian của các phần tử mạch và các mối liên kết các phần tử đó trong mạch tích hợp bán dẫn.

Để được bảo hộ thì Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn phải có tính nguyên gốc -Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn  là kết quả lao động sáng tạo của chính tác giả Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn  và chưa được biết đến rộng rãi trong giới những người sáng tạo Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn và những nhà sản xuất mạch tích hợp bán dẫn tại thời điểm được tạo ra.

Để được hưởng quyền đối với Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn thì phải làm đơn xin cấp Bằng độc quyền Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn  và nộp cho Cục Sở hữu trí tuệ. Bằng độc quyền Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn được cấp nếu đơn được trình bày theo đúng quy định, Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ, và người nộp đơn đã nộp đủ các khoản lệ phí quy định.

Chủ sở hữu công nghiệp đối với Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn có quyền thực hiện hoặc ngăn cấm người khác thực hiện bất kỳ hành vi nào sau đây đối với Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn được bảo hộ nhằm mục đích kinh doanh: (i) Sao chép Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn được bảo hộ, sản xuất mạch tích hợp bán dẫn theo Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn  được bảo hộ; (ii) Phân phối, nhập khẩu bản sao Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn được bảo hộ, mạch tích hợp bán dẫn sản xuất theo Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn được bảo hộ hoặc hàng hoá chứa mạch tích hợp bán dẫn sản xuất theo Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn được bảo hộ.

Bằng độc quyền Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn có hiệu lực trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Thời hạn bảo hộ Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn bắt đầu từ ngày cấp Văn bằng bảo hộ và chấm dứt vào ngày sớm nhất trong số những ngày sau: (i) Ngày kết thúc 10 năm, kể từ ngày cấp Văn bằng; (ii) Ngày kết thúc 10 năm, kể từ ngày Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn được người có quyền nộp đơn hoặc người được người đó cho phép khai thác thương mại lần đầu tiên tại bất kỳ nơi nào trên thế giới; (iii) Ngày kết thúc 15 năm, kể từ ngày tạo ra Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn.

– Đối tượng quyền đối với giống cây trồng:

Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu.

Đối tượng quyền đối với giống cây trồng là vật liệu nhân giống và vật liệu thu hoạch.

3.3. Căn cứ phát sinh, xác lập quyền sở hữu trí tuệ

3.3.1. Quyền tác giả và quyền liên quan

– Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện d­ưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay ch­ưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.

– Quyền liên quan phát sinh kể từ khi cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chư­ơng trình được mã hóa được định hình hoặc thực hiện mà không gây ph­ương hại đến quyền tác giả.

3.3.2. Quyền sở hữu công nghiệp

– Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật sở hữu trí tuệ hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký.

Quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật sở hữu trí tuệ hoặc theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;

– Quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó;

– Quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở có được một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó;

– Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh được xác lập trên cơ sở hoạt động cạnh tranh trong kinh doanh.

3.3.4. Quyền đối với giống cây trồng

Quyền đối với giống cây trồng được xác lập trên cơ sở quyết định cấp Bằng bảo hộ giống cây trồng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật sở hữu trí tuệ.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Nguyên tắc chiếm hữu thực sự trong Luật quốc tế và việc áp dụng nguyên tắc này vào việc xác lập chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam.

Đối với mỗi quốc gia chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là điều rất thiêng liêng. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu đã thuộc chủ quyền và là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam. Điều này đã được khẳng định qua các chứng cứ lịch sử cũng như việc thực hiện chủ quyền một cách thực sự, liên tục trong suốt nhiều thế kỷ của nhà nước ta. Thế nhưng , hai quần đảo này lại là tâm điểm của các cuộc tranh chấp giữa Việt Nam với Trung Quốc và một số nước khác. Như chúng ta đã biết tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là tranh chấp dài nhất, phức tạp nhất, trên vùng biển rộng với nhiều đảo nhất và liên quan đến nhiều bên nhất trong lịch sử tranh chấp thế giới. Đây là đề tài thu hút được rất nhiều sự quan tâm của giới khoa học nhằm tìm ra giải pháp công bằng theo Luật quốc tế phù hợp mà các bên có thể chấp thuận. Bài nghiên cứu khoa học này được viết dựa trên những tư liệu liên quan mà tôi đã thu thập, phân tích cùng với những lập luận khách quan của mình. Ngoài Lời mở đầu, nội dung chính của bài nghiên cứu khoa học được chia làm 3 chương , tập trung vào 2 vấn đề cơ bản là: 

  • Chủ quyền của Việt Nam trên 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa được khẳng định qua những chứng cứ lịch sử và pháp lý. 
  • Nguyên tắc chiếm hữu thực sự trong Luật quốc tế và việc áp dụng nguyên tắc này vào việc xác lập chủ quyền đối với hai quần đảo của Việt Nam.

Trong bài này, tôi muốn nhấn mạnh đến các bằng chứng lịch sử quan trọng, phù hợp vs pháp lý quốc tế về sự chiếm hữu mang tính nhà nước, hòa bình và liên tục của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường sa-2 quần đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Bên cạnh đó, cũng thể hiện rõ nguyên tắc chiếm hữu thực sự – một trong những nguyên tắc nền tảng của pháp luật quốc tế ,có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc xác lập chủ quyền của các quốc gia sau khi ra đời từ định ước Berlin, đồng thời có ý nghĩa to lớn trong việc giải quyết các tranh chấp lãnh thổ giữa các quốc gia với nhau.

Áp dụng nguyên tắc này của pháp luật quốc tế vào trường hợp hai quần đảo Hoàng Sa ,Trường Sa của Việt Nam , các tư liệu, bằng chứng lịch sử và căn cứ pháp lý đều cho thấy rằng Nhà nước Việt Nam là Nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa khi hai quần đảo này còn là đất vô chủ và đã tiến hành thực thi chủ quyền của mình tại hai quần đảo này một cách liên tục, hòa bình. Việc căn cứ vào các quy định trong các văn bản Pháp lý quốc tế cũng như những nguyên tắc cơ bản về chủ quyền lãnh thổ, đặc biệt là nguyên tắc chiếm hữu thực sự là hết sức cần thiết để xác định chủ quyền một cách hợp pháp, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các quốc gia liên quan, góp phần gìn giữ hòa bình, an ninh khu vực và thế giới.

CHƯƠNG I : Chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa 

1. Tổng quan về Biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa:

1.1 Vị thế của Biển Đông: 

Biển Đông là một biển nửa kín được bao bọc bởi nhiều quốc gia nhất sau Địa Trung Hải ( gồm 9 quốc gia và 1 vùng lãnh thổ: Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, Thái Lan, Campuchia , Singapore và Đài Loan). Với diện tích khoảng 3,5 triệu km2, Biển Đông là biển lớn nhất trong sáu biển lớn của thế giới, trải rộng từ vĩ độ 30lên đến 260 Bắc và trải rộng từ kinh độ 100 đến 121 độ Đông, có chiều rộng gấp 8 lần Biển Đen và gấp 1.2 lần Địa Trung Hải. Đây là biển duy nhất nối liền hai đại dương là Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương , là khu vực có các đường biển nhộn nhịp. về phía Tây, Biển đông thông với Ấn Độ Dương qua eo biển Malacca. Nơi hẹp nhất của em biển này rộng khoảng 17 hải lý, sâu khoảng 30m. Về phía Đông có thể đi qua eo biển sâu Mondoro để đến biển Sulu. Năm trong số mười tuyến đường biển thông thương lớn nhất thế giới đều liên quan tới Biển Đông. Nhiều nước khu vực Đông Á có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào con đường biển này như Nhật Bản, Hàn Quốc , Đài Loan, Singapore,.. Trung bình mỗi ngày , khoảng từ 150 đến 200 tàu các loại qua lại trên Biển Đông. Tàu thuyền đi qua eo biển Malacca hàng năm lên đến 18.000 chiếc, Nhật Bản coi đường vận tải qua Eo biển Malacca là “ tuyến đường sinh mệnh trên biển “ với 90% lượng dầu thô và một khối lượng lớn nguyên vật liệu khác mà nước này nhập khẩu từ châu Phi và Trung Đông đều đi qua đây. Quan hệ hàng hóa và thị trường giữa các nước tăng đáng kể với hơn một triệu tấn hàng hóa trao đổi qua Biển Đông. 

Đây cũng là biển duy nhất trên thế giới có hai quốc gia quần đảo lớn nhất thế giới Indonesia và Philippines, là nơi liên kết khối thị trường phía nam Trung quốc với khối ASEAN , có vai trò chiến lược ngày càng quan trọng trong hợp tác kinh tế thế kỉ 21. Biển Đông tuy là biển rìa lục địa nưng lại mang những nét đặc trưng của đại dương. 

Từ góc nhìn của Công Ước 1982 thì Biển Đông là khu vực đặc thù, bao gồm tất cả những nội dung liên quan của Công Ước như: quốc gia ven biển, quốc gia quần đảo, phân định biển, eo biển quốc tế, hợp tác quản lý tài nguyên sinh vật,..

1.2 Khái quát về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa: 

Hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là hai quần đảo bao gồm nhiều đảo có diện tích rất nhỏ, nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới .Ở đây thường là nơi đổ bộ của các trận bão lớn, hơn thế nữa, trên các đảo này hầu như không có đất canh tác, thảm thực vật nghèo nàn vì khí hậu khắc nghiệt, chủ yếu có cấu tạo san hô, không phù hợp với cuộc sống bình thường của con người. Đất đai trên các đảo màu mỡ vì được bổ sung nguồn phân chim song cây cối lại không thể tồn tại do khan hiếm nguồn nước ngọt, bão biển mang theo muối…Tuy nhiên, hai quần đảo này lại có giá trị địa chiến lược, chính trị, an ninh quốc phòng vô cùng quan trọng.

Thứ nhất, theo điều 121 khoản 3 Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982, nếu một bãi san hô, đảo đá ngoài khơi xa lục địa này không thích hợp cho con người đến ở hoặc không có đời sống kinh tế riêng thì ít nhất cũng mang lại cho quốc gia 1.543 km2lãnh hải và nếu chứng minh được chúng có quy chế đảo chứ không phải đá thì chúng mang lại thêm 340.000 km2 vùng đặc quyền kinh tế và một thềm lục địa mở rộng, chính vì vậy bất kỳ một đảo nào hoặc đá nào cũng mang lại vùng biển xung quanh có giá trị gấp nhiều lần so với giá trị của bản thân đảo hay đá đó. Các đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa có giá trị như một tàu sân bay không chìm, thích hợp là căn cứ đóng quân, tiếp dầu, sửa chữa, huấn luyện quân, thử nghiệm vũ khí và tác chiến. 

Ngoài vị thế, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm gần như giữa Biển Đông, khống chế tới 39 tuyến hàng hải quan trọng của thế giới, khu vực hai quần đảo còn chứa đựng một tiềm năng kinh tế dồi dào được thể hiện rõ qua các nguồn lợi thủy sản và dầu khí. 

Nhìn chung tài nguyên lớn nhất của hai quần đảo chính là tài nguyên vị thế – là quyền kiểm soát vùng biển xung quanh, nó cũng lớn dần cùng sự phát triển của Luật biển, thu hút sự quan tâm của các nước và làm nảy sinh tranh chấp vùng biển xung quanh. 

1.2.1 Quần đảo Hoàng Sa: 

Quần đảo Hoàng Sa nằm chủ yếu giữa hai bắc vĩ tuyến 16⁰ vs 170 và giữa hai đông kinh tuyến 1110 và 1130,nơi gần nhất cách đảo Lý Sơn khoảng 120 hải lý, cách cảng Đà Nẵng khoảng 170 hải lý và cách đảo Hải Nam ( Trung Quốc ) khoảng 156 hải lý.Quần đảo Hoàng Sa gồm hai nhóm đảo chính: nhóm Amphitrite ở phía đông và nhóm Crescent ở phía tây, cách nhau 70km.

Ngoài 2 nhóm đảo kể trên, quần đảo HS còn gồm hơn 30 đảo nhỏ, đá cồn, san hô, bãi cát , trải rộng trên một vùng biển rộng từ tây sang đông khoảng 100 hải lý, bắc xuống nam khoảng 85 hải lý và chiếm diện tích khoảng 15.000 km2. Các đảo này có bố cục rắc rối vô cùng nguy hiểm cho việc hàng hải , đã có nhiều di vật tàu đắm nơi đây.1 

Nơi đây không có mùa đông lạnh giá bù lại là mùa hè nóng nực. Thời tiết có thể chia ra hai mùa, mùa khô từ tháng 1 đến tháng 6 và mùa mưa từ tháng 7 cho tới tháng 12. Quần đảo này thường xuyên có bão đi qua trong khoảng tháng 6 đến tháng 8. 

Các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa được ước tính là có trữ lượng gần 10 triệu tấn phân chim tích tụ từ lâu bị phong hóa qua khảo sát của các nhà địa chất Pháp. Đây là nguồn phân bón có giá trị rất lớn. 

Hải sản ở Hoàng Sa cũng rất đa dạng , nhiều loài quý như tôm hùm, hải sâm, đồi mồi,… thêm vào đó là loại rau câu quý hiếm, rất có giá trị trên thị trường quốc tế. 

1.2.2 Quần đảo Trường Sa 

Quần đảo này không dễ nhận diện như quần đảo Hoàng Sa vì đây là vùng gồm những đảo, đảo nhỏ, bãi cát và cồn đá vô cùng phân tán. Tất cả có trên 100 hòn đảo, đá cồn, san hô và bãi san hô, trải dài trên vùng biển rộng từ tây sang đông khoảng 350 hải lý , bắc xuống nam khoảng 360 hải lý và tổng diện tích quần đảo vào khoảng 160.000 đến 180.00 km2 – gấp 10 lần quần đảo Hoàng Sa. Giới hạn phía Bắc là 12 độ vĩ tuyến, giới hạn phía đông 111 độ kinh tuyến. 

Các đảo, cồn ở đây rất nhỏ, phần nhiều không có cây cối , chỉ bao phủ bằng một lớp cát hay phân chim, một số khác có vài bụi cây hay cụm dừa.Những đảo chính nổi trên mặt nước gồm có 4 đảo nhỏ là North Beef ( đảo Bắc ), Northeast Cay ( Song Tử Đông ), Southeast Cay ( Song Tử Tây) và South Reef ( đá Nam) ; Trident Shoal ( bãi Đinh Ba) , Lys Shoal (bãi An Lão ),Thi Tu Island là nơi có cây cối và nước ngọt. Tizard Bank ( bãi ngầm ) và Itu Aba ( Ba Bình) là đảo quan trọng nhất của quần đảo Trường Sa.2

Nguồn lợi hải sản ở đây rất phong phú, tập trung nhiều loại cá với mật độ cao, có loại vích là động vật quý hiếm và cá ngừ có giá trị kinh tế cao. Quần đảo Trường Sa được tính có khoảng 370.000 tấn phân chim, trữ lượng khí đốt khoảng 25 tỷ mét khối và xăng dầu khoảng 105 tỷ thùng. 

Về khí hậu, thời tiết ở vùng biển quần đảo Trường Sa khác biệt lớn hơn so với vùng ven bờ. Mùa hè mát hơn và ấm hơn vào mùa đông. Hàng năm quần đảo này có tới 131 ngày có gió mạnh từ cấp 6 trở lên, phân phối không đồng đều trong các tháng. Giống quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa cũng có hai mùa: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 tới tháng 1 năm sau với lượng mưa trung bình rất lớn, hiện tượng giông bão cũng rất phổ biến , quanh năm tháng nào cũng có giông và có bão lớn đi qua vào các tháng mùa mưa. 

2. Những cứ liệu lịch sử khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam: 

2.1. Thời các Chúa Nguyễn ( 1600-1777) 

Những bản đồ nước ta ở thời điểm này chưa mô tả đầy đủ bờ biển , Biển Đông và các cửa biển trên toàn quốc vì chúng được thực hiện trong giai đoạn lãnh thổ đang thời kỳ Nam tiến. Mặc dù vậy đã có những chi tiết xác định chính quyền và nhân dân ta đã khai thác, làm chủ các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn có viết: “ Xã An Vĩnh thuộc huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi ở gần bãi biển. Về hướng Đông Bắc ngoài biển có nhiều đảo và nhiều núi linh tinh hơn 130 đỉnh… ở trong các hòn đảo có bến Cát Vàng…Ngày trước, họ Nguyễn có thiết lập đội Hoàng Sa gồm 70 suất, lấy người ở xã An Vĩnh…Họ Nguyễn còn thiết lập thêm đội Bắc Hải…”3 

2.2. Dưới triều Nguyễn ( 1802-1884): 

Hầu như năm nào các chúa Nguyễn , các vua triều Nguyễn cũng ra lệnh cho thủy quân đi công tác ở Hoàng Sa và tất cả các đảo ở Trường Sa để khai thác các mối lợi và thực thi chủ quyền vững chắc tên các hải đảo xa xôi trong Biển Đông. Thêm nữa, là BA BẢN ĐỒ CÙNG KHẲNG ĐỊNH Hoàng Sa – Trường Sa là CỦA VIỆT NAM 

– Đại Nam nhất thống toàn đồ. Quốc sử quán 1838 

– An Nam đại quốc họa đồ. Taberd 1838 

– Đông Nam dương các quốc diên cách đồ. Ngụy Nguyên 1842 1. Bản đồ Đại Nam nhất thống toàn đồ vẽ rõ tình hình địa lý với tất cả địa danh đương thời. Bờ biển VN khi ấy đã rõ nét như chữ S và gần giống vs các bản đồ theo kinh tuyến, vĩ tuyến. Trên Biển Đông có vẽ khối lớn gồm nhiều đảo nhỏ, phía Bắc có ghi 2 chữ Hán Hoàng Sa và phía Nam ghi 4 chữ Vạn lý Trường Sa.4 

2. Bản đồ An Nam đại quốc họa đồ được Giám mục Taberd công bố năm 1838 có nhiều chi tiết hơn bản đồ Đại Nam, ngoài ra các địa danh cũng đc ghi danh bằng chữ quốc ngữ. Ngoài Biển Đông có vẽ mấy hòn đảo nhỏ , được ghi là 

Paracel seu hay Bãi Cát Vàng. Điều này chứng tỏ HS hay Bãi Cát Vàng chỉ có thể là của VN. 

3. Bản đồ Đông Nam dương các quốc diên cách đồ của Ngụy Nguyên năm 1842 ghi nhiều đảo như dấu chấm với địa danh Vạn lý trường sa, đó là quần đảo Hoàng sa và dưới phía Nam, Ngụy nguyên cũng ghi nhiều dấu chấm với địa danh Thiên lý thạch đường , đó chính là quần đảo TS. Hai quần đảo vừa kể thuộc chủ quyền của VN. Trên Biển Đông , Ngụy Nguyên ghi rõ Đông dương đại hải tức Biển Đông rất lớn. 

Đa số bản đồ phương Tây với ba bản đồ trên đều không ghi nhầm Biển Đông là biển Trung Hoa ( Mer de Chine) hay Biển nam Trung Hoa ( Merméridionale de Chine ) . Các sách địa lý thế giới xưa của phương Tây cũng ghi nhận Hoàng Sa -Trường Sa là của VN. 

Năm 1833, trong sách “ Vũ trụ , lịch sử và mô tả hết mọi dân tộc, cùng tôn giáo, phong tục tập quán.” của Giám mục Taberd có đoạn mô tả rõ địa lý quần đảo HS: “Chúng tôi không thể đi sâu kể hết các hải đảo chính thuộc chủ quyền nước Giao Chỉ gần Trung Hoa ( Cochinchine, quốc hiệu chính thức khi ấy đã là Việt Nam). Chúng tôi chỉ xin lưu ý rằng từ 34 năm trước đây, quần đảo Paracels gọi là Cát Vàng hay Hoàng Sa. Một khu vực rắc rối như mê hồn trận gồm nhiều đảo nhỏ và các bãi cát làm cho các nhà hàng hải sợ hãi, đã do người Việt Nam chiếm giữ. Chúng tôi không biết họ thiết lập một cơ sở nào chưa, song chắc chắn rằng hoàng đế Gia Long đã quan tâm kết hợp thêm một cánh hoa nhỏ ấy vào vương miện của mình, vì ông xét là thích hợp nên đích thân ra đảo thực hiện chủ quyền năm 1816 và trân trọng trưng quốc kỳ Việt Nam”.

Tài liệu lịch sử thu thập được tại huyện đảo Lý Sơn cũng là thêm bằng chứng khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Đó là một sắc chỉ quý của triều đình nhà Nguyễn liên quan đến đội Hoàng Sa mà tộc họ Đặng ở thôn Đồng Hộ, xã An Hải, huyện đảo Lý Sơn đã gìn giữ hai thế kỷ qua. Ông Đặng Lên là hậu duệ của ông Đặng Văn Siểm – một đà công , tức người dẫn đường trong đội thuyền gồm 3 chiếc với 24 lính thủy ra canh giữ đảo Hoàng Sa vào ngày 15 tháng 4 năm Minh Mạng thứ 15 tức năm Ất Mùi – 1835 đã ghi trong sắc chỉ của vua Minh Mạng mà ông Đặng Lên đang lưu giữ. 

Tờ lệnh ghi rõ :” Các phái viên và lính thủy đi trước để cùng thám sát các vùng của xứ Hoàng Sa. Xem xét và tuyển chọn trong tỉnh ba thuyền tốt cùng với các vật dụng được tu bổ vững chắc… Cứ hạ tuần tháng ba thuận thời tiết mà đi.“ Tuy chỉ vỏn vẹn vài trang nhưng nó chứa đựng nhiều thông tin quý, nêu rõ danh tính, quê quán của từng binh thuyền vâng mệnh triều đình đi lính Hoàng Sa, không chỉ riêng ở huyện đảo Lý Sơn mà còn ở các vùng quê ven biển khác tại Quảng Ngãi.6 

2.3. Dưới thời Pháp thuộc ( 1884-1945) 

Pháp bắt đầu vẽ bản đồ Việt Nam theo kỹ thuật khoa học hơn cho đúng kinh tuyến và vĩ tuyến. Năm 1885, Sở Thủy văn của bộ Hải quân Pháp đã thực hiện bản đồ Archipel des Paracels ( quần đảo Hoàng Sa) theo tư liệu của người Đức. Bản vẽ gồm hai phần quần đảo : 

(1) Groupe du Croissant ( nhóm Nguyệt Thiềm) và các đảo, bãi thành viên; (2) Groupe de l’Amphitrite ( nhóm An Vĩnh) và các đảo , bãi thành viên.7 Bản đồ đã thực hiện hơn 100 năm qua vẫn được coi là chính xác, chỉ cần dịch tiếng Pháp sang Tiếng Việt và ghi tên các đảo bằng địa danh đã Việt hóa hoặc tên mới do ta đặt là đủ. 

Trong thời kỳ Pháp xâm lược Việt Nam, trên cơ sở đại diện cho triều đình phong kiến An Nam, Pháp đã có nhiều hành động củng cố chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa bằng việc tiến hành tuần tra, kiểm soát và đưa quân ra đóng trên các đảo. Để quản lý hành chính, chính quyền lúc đó đã sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa và thành lập đơn vị hành chính ở quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế và cho xây dựng nhiều công trình trên cả hai quần đảo. 

Sau chiến tranh thế giới lần II, Pháp quay lại Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 08/03/1949, Pháp công nhận độc lập thống nhất của Việt Nam và ngày 14/10/1950, Pháp chính thức trao trả việc phòng thủ quần đảo Hoàng Sa cho Việt Nam. 

2.4. CÁC NHÀ HÀNG HẢI, TU SĨ PHẬT GIÁO , CÔNG GIÁO, CÁC SÁCH ĐỊA DƯ THẾ GIỚI XƯA, các tài liệu phương Tây cũng ĐỀU KHẲNG ĐỊNH HOÀNG SA- Trường Sa LÀ CỦA Việt Nam. 

Người Bồ Đào Nha bắt đầu thám hiểm đường bờ biển Việt Nam năm 1523. Diogo Ribeiro đã thăm dò một khoảng dài rất nhiều đảo san hô,bãi đá ngầm cực kì nguy hiểm cho thuyền bè đi lại và vẽ lại quần đảo này vs ba sơ đồ của ba năm: 1525,1527,1529. ông đặt tên quần đảo này là Pracel ( nghĩa là đá ngầm ) , là quần đảo của Giao Chỉ- tức VN ta. ông cũng đặt tên bờ biển quần đảo đá ngầm ( Costa da Pracel) ở khoảng đất liền Quảng Ngãi8 

Rất nhiều bản đồ khác ở Tây phương đều vẽ theo Diogo Ribeiro, chỉ khác tên gọi Pracel thành Parcel hay Paracel. Người Đức và người Anh phát hiện hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cách nhau khá xa và cuối thế kỉ 19. 

Quần đảo phía Bắc ( Hoàng Sa) vẫn giữ nguyên tên là Paracel, quần đảo phía nam (Trường Sa) gọi là Spratly để ghi ơn thuyền trưởng Richard Spratly người Anh đã có nhiều công phát hiện các quần đảo trong Biển Đông. 

Cuốn La cosmografia istorica, astronomica e fisica, tập 6 của Biagio Soria in tại Napoli năm 1828, phần 4 nói về đế chế An Nam có câu cuối cùng ghi rằng: “ Thuộc về đế chế này là quần đảo Hoàng Sa (Paracels) bao gồm các đảo và đá ngầm ở phía đông bờ biển nước này” .9 

Nhật ký trên tàu Amphitrite ( năm 1701) cũng xác nhận Paracels là một quần đảo thuộc về nước An Nam. 

Năm 1898 Trung Quốc đã nêu lý do Paracels ( quần đảo Hoàng Sa) không thuộc chủ quyền của Trung Quốc, dứt khoát từ chối yêu cầu của công ty Bảo hiểm Anh đòi Trung Quốc bồi thường việc dân Hải Nam ‘hôi của” của tàu Bellona của Đức đắm vào năm 1894 ở ngoài khơi bãi đá Bắc và tàu Unofi Maru của Nhật Bản đắm năm 1896 cũng ở quần đảo Hoàng Sa.10 

Mãi cho tới năm 1909, chính quyền Quảng Đông mới tuyên bố Paracels là đất vô chủ (res-nullius) và đem tàu chiến đến thảm sát, thực hiện bước đầu chiếm hữu theo cách thức phương Tây như bắn 21 phát súng đại bác, cắm cột mốc chủ quyền. Việt Nam khi ấy bị Pháp đô hộ , mất quyền tự chủ ngoại giao. 

Thêm vào đó, Trung Quốc còn cho rằng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam là đảo ven bờ trong khi các tư liệu khách quan phương Tây, kẻ cả bản đồ như An Nam Đại quốc họa đồ năm 1838 được Giám mục Taberd đưa vào cuốn từ điển Latino-Anamitici ghi rất rõ Paracel seu hay Cát Vàng ( tức quần đảo Hoàng Sa) ở vị trí tọa độ hiện nay. 

Các tư liệu của Việt Nam cũng như của phương Tây và ngay cả một số tư liệu của Trung Quốc cũng hết sức rõ ràng về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một thực tế khách quan, khác hẳn với những tư liệu mà Trung Quốc đã viện dẫn để cố suy diễn và chứng minh chủ quyền của họ một cách phi pháp. Về pháp lý quốc tế, Hiệp định Genève năm 1954 về Đông Dương đã phản bác luận điểm của Trung Quốc khi cho rằng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã từng thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa ở Biển Đông nằm dưới vĩ tuyến 17 sẽ được đặt dưới sự quản lý hành chính của chính quyền quản lý phía Nam vĩ tuyến 17. Hòa ước Hòa bình Francisco cũng đã khẳng định không giao cho Trung Quốc thay thế Nhật Bản quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hiến chương Liên Hợp Quốc đề cập cấm sử dụng vũ lực trong việc giải quyết tranh chấp quốc tế, nhưng Trung Quốc nhiều lần vi phạm. Sự kiện năm 1974, Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng trái phép toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Công Ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 cũng quy định rõ lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, cho phép các nước, bị vi phạm có thể đơn phương đưa nước vi phạm ra Tòa Luật biển của Liên Hợp Quốc. Việt Nam có đầy đủ cơ sở lịch sử và pháp lý quốc tế để khẳng định chủ quyền của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Các văn bản nhà nước, sách điển chế, chính sử, sách địa lí , các tư liệu phương Tây và ngay cả của Trung Quốc trước năm 1909 đều thể hiện rõ quá trình xác lập , thực thi liên tục, hòa bình chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo này. Tuy nhiên, chính quyền nước ta luôn tôn trọng nguyên tắc “ công lý hòa bình” để giải quyết các vụ xâm chiếm bất công những phần lãnh thổ, lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam. Ngoài công hàm gửi Liên Hiệp Quốc và các quốc gia vi phạm chủ quyền nước ta, hoặc các Sách Trắng cũng như tuyên bố minh bạch về chủ quyền, các cơ quan chức năng đã thiết lập những bản đồ có tọa độ chính xác về tất cả các đảo, bãi cát, đá ngầm.. của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nhằm minh thị chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc trên Biển Đông và trên toàn thể các quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa.

CHƯƠNG II: Nguyên tắc chiếm hữu thực sự trong LQT 

1. Luật pháp quốc tế về thụ đắc lãnh thổ : 

Trong quá trình phát triển lâu dài của nhân loại, cùng với sự xuất hiện của các quốc gia, Luật pháp quốc tế đã dần dần hình thành và phát triển. 

Trước đây khi chiến tranh được coi là phương tiện hợp pháp để giải quyết các tranh chấp quốc tế thì cơ sở xác lập chủ quyền lãnh thổ và thay đổi lãnh thổ quốc gia chủ yếu thông qua chiến tranh xâm chiếm lãnh thổ. Ngày nay, luật quốc tế hiện đại thừa nhận và khẳng định nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực đã làm thay đổi hẳn cơ sở của việc xác lập chủ quyền lãnh thổ. Pháp luật quốc tế cũng ghi nhận một trong những nguyên tắc cơ bản để xác lập hợp pháp danh nghĩa chủ quyền lãnh thổ của một quốc gia là: việc xác lập chủ quyền phải dựa vào các phương thức thụ đắc lãnh thổ hợp pháp. Luật pháp quốc tế về thụ đắc lãnh thổ là một ngành luật sớm xuất hiện và có vai trò quan trọng. Các quy định về thủ đắc lãnh thổ giúp giải quyết câu hỏi làm thế nào một quốc gia có thể xác lập chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ mới một cách hợp pháp chống lại các yêu sách của các quốc gia khác. Qua lịch sử phát triển, có vẻ không có bất kỳ quốc gia nào không có biến động về lãnh thổ, và ngành luật quốc tế này sẽ hợp pháp hóa hoặc bất hợp pháp hóa các biến động này. Đối với Việt Nam, lịch sử đất nước đi cùng với lịch sử mở mang bờ cõi từ đồng bằng sông Hồng đến miền trung và rồi đến miền nam hình thành lãnh thổ đất nước hình chữ S như ngày nay. Trong quá trình lịch sử đôi lúc lãnh thổ Việt Nam mở rộng, đôi lúc lại thu hẹp. Hiện nay vẫn còn những vùng lãnh thổ của Việt Nam vẫn bị nước khác tranh chấp, đặc biệt là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đối với khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đôi khi có một số tiếng nói cho rằng đây là lãnh thổ của Campuchia. Để xác định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo trên và để phản bác mọi nghi ngờ về chủ quyền của Việt Nam ở đồng bằng sông Cửu Long và ở mọi vùng lãnh thổ khác trên đất nước, các quy định của luật quốc tế về thụ đắc lãnh thổ cần được tìm hiểu kỹ càng. 

Để xác định chủ quyền đối với vùng lãnh thổ tranh chấp, người ta thường phải trả lời câu hỏi: Lãnh thổ đó có phải là vô chủ không và ai là người đầu tiên xác lập chủ quyền trên lãnh thổ đó?. Một câu hỏi nữa cũng cần được trả lời đó là: phương thức thụ đắc lãnh thổ nào đã được sử dụng để thiết lập chủ quyền lãnh thổ? 

Vì vậy, nghiên cứu các phương thức thụ đắc lãnh thổ trong luật quốc tế là rất cần thiết. 

1.1 Các phương thức thụ đắc lãnh thổ 

Trong lịch sử phát triển lâu dài của Luật pháp quốc tế, những nguyên tắc và quy phạm pháp luật xác lập chủ quyền lãnh thổ đã được hình thành trên cơ sở thực tiễn quốc tế, trong đó có các phương thức thụ đắc lãnh thổ. 

Thụ đắc lãnh thổ là việc một quốc gia xác lập chủ quyền của mình đối với một vùng lãnh thổ mới, hay nói cách khác, mở rộng lãnh thổ hiện của của mình, thêm một vùng lãnh thổ mới vào bản đồ lãnh thổ quốc gia của mình. Luật pháp quốc tế về thụ đắc lãnh thổ là một ngành luật sớm xuất hiện và có vai trò quan trọng. Các quy định về thủ đắc lãnh thổ giúp giải quyết câu hỏi làm thế nào một quốc gia có thể xác lập chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ mới một cách hợp pháp chống lại các yêu sách của các quốc gia khác. Qua lịch sử phát triển, có vẻ không có bất kỳ quốc gia nào không có biến động về lãnh thổ, và ngành luật quốc tế này sẽ hợp pháp hóa hoặc bất hợp pháp hóa các biến động này. 

Một điểm sơ bộ khác cần chú ý về các phương thức thụ đắc là chúng chỉ hoàn toàn phù hợp khi quyền sở hữu lãnh thổ không chắc chắn. Chẳng hạn, Quần đảo Shetland đã là một phần của Vương quốc Anh từ rất lâu đến nỗi tất cả các quốc gia đều công nhận chúng là một phần của Vương quốc Anh và không ai bận tâm hỏi Vương quốc Anh lần đầu tiên có được nó như thế nào.11 

Theo quan điểm truyền thống là có một số chế độ riêng biệt mà chủ quyền có thể có được trên lãnh thổ. Việc phân loại các chế độ này ban đầu được vay mượn từ các quy tắc của pháp luật La Mã về việc mua lại tài sản, điều này không đáng ngạc nhiên vì chủ quyền đối với lãnh thổ mang một số điểm tương đồng với quyền sở hữu tài sản; và trong thế kỷ mười sáu và mười bảy, khi luật pháp quốc tế hiện đại bắt đầu phát triển, các lý thuyết hiện hành về chế độ quân chủ tuyệt đối có xu hướng coi một lãnh thổ nhà nước là tài sản riêng của quốc vương . Nhưng có một số cách mà việc sử dụng các khái niệm luật tư nhân này tạo ra một cái nhìn lệch lạc về luật pháp quốc tế hiện đại. Cụ thể, nó giả định rằng việc chuyển nhượng lãnh thổ diễn ra giữa các quốc gia đã tồn tại, giống như việc chuyển nhượng tài sản diễn ra giữa các cá nhân đã tồn tại. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, hình thức chuyển nhượng lãnh thổ thường xuyên nhất (chính xác hơn là: chuyển giao chủ quyền đối với lãnh thổ) đã xảy ra khi một thuộc địa trở nên độc lập, vì lãnh thổ là một thành phần thiết yếu của chế độ nhà nước, sự ra đời của nhà nước và chuyển giao lãnh thổ không thể tách rời thành một bang là lãnh thổ của nó. 

Hiện nay, trên thế giới không còn lãnh thổ vô chủ nữa, vì vậy, các nguyên tắc, quy phạm pháp luật xác lập chủ quyền lãnh thổ chủ yếu được sử dụng để phân xử các trường hợp tranh chấp lãnh thổ, để chứng minh hay làm cơ sở chứng minh các quyền của quốc gia đối với lãnh thổ tranh chấp. Vì vậy nghiên cứu về các nguyên tắc thiết lập chủ quyền lãnh thổ, các phương thức thụ đắc lãnh thổ vẫn mang tính cấp thiết. Luật pháp quốc tế cho phép bốn cách thức thụ đắc lãnh thổ chính: (1) chuyển nhượng, (2) sự hình thành lãnh thổ mới, (3) chiếm hữu, và (4) chiếm hữu theo thời hiệu. Trước đây, luật pháp quốc tế còn cho phép cách thức thứ năm là (5) sử dụng vũ lực/xâm lược. 

1.2 PHƯƠNG THỨC THỤ ĐẮC LÃNH THỔ BẰNG CHIẾM HỮU (OCCUPATION) 

1.2.1 Định nghĩa: 

Phương thức thụ đắc bằng chiếm hữu là hành động của một quốc gia thiết lập và thực hiện quyền lực của mình trên một lãnh thổ vốn chưa thuộc chủ quyền của bất kỳ một quốc gia nào khác hoặc một vùng lãnh thổ vốn đã có chủ sau đó bị bỏ rơi và trở lại trạng thái vô chủ ban đầu. 

Chiếm hữu được đề cập đến trong định nghĩa này không phải là sự chiếm đóng trong chiến tranh hay chiếm đóng quân sự trong thời bình vì cả 2 hành động chiếm đóng đó đều không đem lại sự thụ đắc lãnh thổ do đối tượng chiếm đóng là lãnh thổ của quốc gia khác. Còn “chiếm hữu” trong định nghĩa trên có đối tượng là một lãnh thổ vô chủ hoặc có địa vị pháp lý như lãnh thổ vô chủ như vùng đất đã bị người chủ bỏ rơi không thuộc chủ quyền của bất cứ quốc gia nào. 

1.2.2 Chủ thể thụ đắc lãnh thổ bằng chiếm hữu: 

Việc chiếm hữu lãnh thổ phải là hành động nhân danh quốc gia, được quốc gia uỷ quyền, không phải là hành động của tư nhân. Quyền phát hiện cũng như chiếm hữu là một sự đòi hỏi đồng thời hai điều kiện: Corpus (yếu tố vật chất) và animus (yếu tố tinh thần) và chúng phải được thực hiện bởi nhà nước. rong vài trường hợp, khi cả hai bên tranh chấp lãnh thổ đều không có bằng chứng về việc thực hiện chủ quyền thì vai trò hoạt động của các cá nhân cũng có giá trị nhất định mặc dù cá nhân không có quyền hạn đích thực trong việc xác lập chủ quyền lãnh thổ. 

1.2.3. Đối tượng của phương thức thụ đắc lãnh thổ bằng chiếm hữu:

Như đã được nêu trong định nghĩa, đối tượng của phương thức thụ đắc lãnh thổ bằng chiếm hữu là lãnh thổ vô chủ (Terra Nullius) hoặc lãnh thổ bị bỏ rơi (Terra derelict ta) không thuộc chủ quyền của bất cứ quốc gia nào.

Một trong những nội dung của phương thức thụ đắc lãnh thổ bằng chiếm hữu phải là những lãnh thổ vô chủ, không nằm trong hệ thống địa lý, chính trị – hành chính của bất kỳ quốc gia nào. Nội dung này cũng là yêu cầu của các hình thức chiếm hữu bằng sắc lệnh của đức Giáo hoàng, chiếm hữu bằng cách phát hiện, chiếm hữu tượng trưng đã từng có trong lịch sử. 

Lãnh thổ vô chủ (terra nullius) là lãnh thổ chưa từng đặt dưới sự quản trị của quốc gia nhất định nào. Nói một cách khác, lãnh thổ đó chưa có một tổ chức quốc gia, có thể có cư dân sống trong vùng lãnh thổ đó nhưng chưa có một tổ chức nhà nước nào trên đó. Sự chiếm hữu lãnh thổ vô chủ là một hình thức thụ đắc hợp pháp. Trong luật pháp và thực tiễn quốc tế, khái niệm “lãnh thổ bị bỏ rơi” là vùng lãnh thổ trước kia đã từng được chiếm hữu và trở thành lãnh thổ của một quốc gia, nhưng sau đó quốc gia chiếm hữu tự từ bỏ chủ quyền của mình đối với vùng lãnh thổ này. Đa số các luật gia quốc tế cũng cho rằng muốn kết luận một vùng lãnh thổ bị bỏ rơi cần hội tụ đủ hai yếu tố: 

– Quốc gia chiếm hữu đã chấm dứt trên thực tế mọi hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước đối với lãnh thổ; 

– Quốc gia chiếm hữu không có biểu hiện muốn khôi phục lại chủ quyền đối với lãnh thổ đó. 

Ngày nay, các luật gia tiến bộ đều cho rằng việc giành chủ quyền trên một lãnh thổ có cư dân phải dựa trên nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết, một nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế hiện đại. Theo nguyên tắc này, mọi sự thay đổi lãnh thổ và tất cả hình thức giành chủ quyền đều phải dựa trên ý chí của cư dân sinh sống trên lãnh thổ đó, bởi lẽ: Sự phù hợp giữa quyền tối cao về lãnh thổ với ý chí chủ quyền của nhân dân là cơ sở pháp lý cao nhất để giải quyết tranh chấp những lãnh thổ đã được chiếm hữu từ lâu. 

1.2.4. Quá trình hình thành và phát triển của phương thức thụ đắc lãnh thổ bằng chiếm hữu. 

a. Trước thế kỷ XV: 

Vấn đề tranh chấp lãnh thổ thường chỉ diễn ra theo quy luật mạnh được yếu thua. Đó là thời kỳ mà trên những vùng đất vô chủ (Terra nullius) sự phát kiến dẫn tới sự thụ đắc lãnh thổ. Thời gian này, vấn đề tranh chấp lãnh thổ thường chỉ diễn ra trong từng khu vực, và chưa xuất hiện những nguyên tắc pháp luật về xác lập chủ quyền lãnh thổ được thừa nhận rộng rãi. 

b. Thời kỳ thế kỷ XV và đầu thế kỷ XVI : 

Thế kỷ XV được mệnh danh là thời kỳ của những phát kiến địa lý vĩ đại (mở đầu là sự kiện Crixtop Colomb – 1492 tìm ra Châu Mỹ). Các phát kiến đó đã tạo nên điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các quốc gia phát kiến dẫn tới việc thiết lập chủ quyền trên những vùng lãnh thổ mới được phát hiện. Hình thức thiết lập chủ quyền lãnh thổ bằng chiếm hữu đã hình thành và phát triển cùng với sự bắt đầu bành trướng của Châu Âu ra các châu lục khác. Do sự phát triển giao lưu thương mại và những tiến bộ về hàng hải đã dẫn tới sự hình thành các cường quốc hàng hải. Các cường quốc này bành trướng như vũ bão trên biển. Trước hết phải kể đến Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã đi tiên phong trong việc phát hiện ra những vùng đất mới. 

Trong thế kỷ XV và đầu thế kỷ XVI, chủ quyền đối với lãnh thổ mới “phát hiện” được xác định theo các sắc lệnh của Giáo hoàng Alexander VI về phân chia các vùng lãnh thổ mới “phát hiện” ngoài Châu Âu giữa hai quốc gia đứng đầu hai dòng đạo Thiên chúa là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Theo sắc lệnh này, tất cả các vùng lãnh thổ bao gồm “tất cả các đảo và đất liền đã tìm thấy và sẽ tìm thấy, đã phát hiện và sẽ phát hiện” ở phía Đông một đường tưởng tượng chạy từ địa cực này sang địa cực khác qua phía Tây đảo Cap Vert 100 liên là thuộc Bồ Đào Nha, còn các vùng lãnh thổ ở phía Tây là thuộc Tây Ban Nha. Theo Hiệp ước Tordesillas do Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trực tiếp thương lượng và ký kết với nhau ngày 7/6/1494 và được Giáo Hoàng Jules II xác nhận năm 1506 thì con đường tưởng tượng đó được dịch về phía Tây thêm 370 liên13 

c. Thời kỳ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX: Thời kỳ phát hiện và chiếm hữu tượng trưng. 

Từ thế kỷ XVI, các nước đã phải tìm ra những nguyên tắc về thiết lập chủ quyền trên những vùng lãnh thổ mà họ “phát hiện”. Thuyết “quyền ưu tiên chiếm hữu” dành cho quốc gia đã phát hiện ra vùng lãnh thổ đó đầu tiên, gọi tắt là thuyết quyền phát hiện. 

Thời kỳ “Chiếm hữu tượng trưng”: 

Trên thực tế, việc phát hiện chưa bao giờ tự nó đem lại cho quốc gia phát hiện chủ quyền lãnh thổ vì rất khó xác định thế nào là phát hiện, xác nhận việc phát hiện và xác định giá trị pháp lý của việc phát hiện ra một vùng lãnh thổ mới. Sau đó các luật gia đã vận dụng quyền sở hữu tài sản trong luật cổ La Mã vào lĩnh vực chủ quyền, vì vậy, việc phát hiện đã mau chóng được bổ sung bằng việc chiếm hữu trên danh nghĩa, nghĩa là quốc gia phát hiện ra một vùng lãnh thổ phải để lại dấu vết của mình trên vùng lãnh thổ mà họ phát hiện, ví dụ như phải đặt một bia chủ quyền, một mốc chủ quyền hoặc một dấu hiệu quốc gia có giá trị tượng trưng hoặc có thể thực hiện nghi lễ tượng trưng, thông báo cho các quốc gia khác biết thì mới có chủ quyền lãnh thổ. Thời kỳ này luật quốc tế công nhận các hành vi tượng trưng của việc sáp nhập lãnh thổ do quốc gia phát hiện ra thực hiện như là danh nghĩa nguyên thuỷ của việc chiếm hữu. Thuyết này là thuyết quyền chiếm hữu tượng trưng được áp dụng từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX. 

d. Thời kỳ sau Hội nghị Berlin (1885) – Thời kỳ “chiếm hữu thật sự 

Các luật gia ngày càng nhận thức rõ ràng việc phát hiện, kể cả việc phát hiện có để lại dấu vết trên một vùng lãnh thổ chỉ đem lại cho quốc gia phát hiện một danh nghĩa phôi thai, tạm thời, chưa hoàn chỉnh. Danh nghĩa “phôi thai” này, về bản chất chưa được hoàn thiện, cuối cùng sẽ biến mất trừ trường hợp nó được hoàn thiện sau đó bởi sự chiếm hữu và quản lý hành chính thật sự lãnh thổ được phát hiện trong một khoảng thời gian hợp lý. Chủ quyền muốn được xác lập và được công nhận thì phải là thật sự có hiệu quả tức là đòi hỏi sự có mặt thực tế của quốc gia chiếm hữu trên vùng lãnh thổ đó. 

Quan điểm này ngày càng chiếm ưu thế và sau Hội nghị Berlin về Châu Phi năm 1885 của 13 nước Châu Âu và Hoa Kỳ, sau khoá họp của Viện Pháp luật quốc tế ở Lausanne năm 1888 thì trở thành một trong những nguyên tắc của luật pháp quốc tế gọi là nguyên tắc chiếm hữu thật sự. 

Định ước Berlin ký ngày 26/2/1885 xác định nội dung của nguyên tắc chiếm hữu thật sự và quy định “các điều kiện chủ yếu phải đáp ứng khiến cho những hành động chiếm hữu mới ở vùng duyên hải lục địa châu Phi được coi là thật sự”. Theo đó, việc chiếm hữu là thực sự nếu thỏa mãn hai điều kiện: 

– Việc chiếm hữu chủ quyền lãnh thổ mới của bất kỳ quốc gia nào ở Châu Phi cũng phải được thông báo cho các nước tham gia hội nghị. 

– Các nước chiếm hữu phải đảm bảo có sự hiện diện của tổ chức chính quyền tại chỗ để thi hành pháp luật và có thể khi cần thiết bảo đảm các quyền lợi về tự do buôn bán, tự do quá cảnh trong các điều kiện được quy định. 

(Điều 34 và 35 của Định ước Berlin ký ngày 26/2/1885) 

Định ước Berlin, tuy chỉ giải quyết vấn đề Châu Phi, và chỉ ràng buộc 14 quốc gia tham gia ký kết. Nhưng hai điều trên đã được luật pháp quốc tế chấp nhận làm cơ sở cho việc công nhận chủ quyền quốc gia trên một lãnh thổ nhất định. Nghĩa là: 

– Có sự thông báo về việc chiếm hữu cho các nước ký Định ước. 

– Phải “duy trì trên những vùng lãnh thổ mà họ chiếm hữu sự tồn tại của một quyền lực đủ để khiến cho các quyền mà mình đã giành được được tôn trọng…”. 

Sau đó, với sự phát triển của Luật pháp quốc tế, nguyên tắc thật sự nói trong Định ước Berlin, vốn chỉ có giá trị đối với các vùng duyên hải lục địa Châu Phi và chỉ có giá trị đối với các quốc gia ký Định ước hoặc sau đó tham gia Định ước, trở thành một nguyên tắc có giá trị phổ biến của luật pháp quốc tế, có thể áp dụng cho mọi vùng lãnh thổ. 

Trong điều kiện toàn bộ lãnh thổ thế giới được phân chia xong giữa các nước đế quốc chủ nghĩa, Công ước Saint Germain ngày 10/9/1919 tuyên bố huỷ bỏ Định ước Berlin năm 1885 với lý do là trên thế giới không còn có vùng lãnh thổ vô chủ nữa, từ nay Định ước không còn ràng buộc các quốc gia thành viên của Công ước Saint Germain nữa. Tuy vậy, ngay trong Công ước Saint Germain vẫn có Điều 10 còn mang dấu ấn rõ rệt của Định ước Berlin năm 1885: “các cường quốc ký kết công ước thừa nhận nghĩa vụ phải duy trì trong những vùng thuộc quyền mình sự tồn tại của một quyền lực và các phương tiện cảnh sát để đảm bảo việc bảo vệ người và tài sản trong trường hợp cần thiết, việc tự do buôn bán và quá cảnh”

Như vậy là trên văn kiện chính thức thì nguyên tắc thật sự không còn giá trị nữa. Việc đặt ra và huỷ bỏ các nguyên tắc thật sự đều do các cường quốc đế quốc thông qua xuất phát từ những quyền lợi riêng của các nước đế quốc trong việc tranh giành các lãnh thổ vô chủ hoặc lạc hậu. Nhưng so tính hợp lý của nguyên tắc đó mà sau khi có Công ước Saint Germain, các luật gia trên thế giới vẫn vận dụng nó trong lĩnh vực học thuật cũng như khi giải quyết các vụ tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trong đó có rất nhiều vụ tranh chấp chủ quyền trên các hải đảo. 

Mặc dù Định ước Berlin chỉ có một giá trị tương đối về thời gian và không gian: nó chỉ liên quan đến bờ biển Châu Phi vì đó là mục đích Hội nghị, và mặt khác, nó lại bị điều I của Công ước Saint Germain (10/9/1919) huỷ bỏ. Nhưng trên những nét lớn, nguyên tắc thật sự được thể hiện trong Định ước vẫn có thể áp dụng vào tất cả các vùng lãnh thổ vô chủ và cho phép rút ra một số yếu tố về giải pháp cho vụ quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 

Có thể nhận xét khái quát quá trình phát triển của luật pháp quốc tế về xác lập chủ quyền lãnh thổ bằng phương thức chiếm hữu như sau: 

Sự khám phá ở thế kỷ XV được tiếp theo bằng sự khẳng định công khai về chủ quyền vào thế kỷ XVIII, đã cung cấp một danh nghĩa sơ khai và đến thế kỷ XIX, đã được hoàn chỉnh bằng việc chiếm hữu thật sự. 

2. Nguyên tắc chiếm hữu thực sự trong luật quốc tế: 

Nguyên tắc thật sự ra đời với Định ước Berlin năm 1885. Từ đó đã được áp dụng để giải quyết nhiều vụ tranh chấp quốc tế về chủ quyền lãnh thổ, như các vụ: đảo Palmas năm 1928 giữa Hoa Kỳ và Hà Lan (1928); Vụ đảo Clipperton giữa Mexico và Pháp (1931), vụ Đông Greenland (1933) giữa Na Uy và Đan Mạch, vụ Minquiers và Ecréhous (1953) giữa Anh và Pháp. 

Charles Rousseau, giáo viên trường Đại học Luật Paris, uỷ viên Viện pháp luật quốc tế viết: “nguyên tắc thật sự chủ yếu được dùng để chứng minh một trật tự đã được thiết lập. Được tập quán trọng tài thừa nhận trước năm 1885” “được khẳng định lại trong luật pháp quốc tế cả trong lĩnh vực trọng tài cũng như lĩnh vực xét xử”, “nguyên tắc thật sự cũng được luật pháp quốc tế chấp nhận như một yếu tố chủ yếu của chủ quyền mà người ta yêu sách đối với các lãnh thổ vô chủ”14 

Qua thực tiễn quốc tế giải quyết tranh chấp lãnh thổ, và các công trình nghiên cứu bổ sung của nhiều luật gia có thể rút ra nội dung chính của nguyên tắc thật sự là: 

– Chủ thể của việc thiết lập chủ quyền trên một vùng lãnh thổ phải là một quốc gia. Một cá nhân không có quyền thiết lập chủ quyền trên một vùng lãnh thổ, dù cho vùng lãnh thổ đó vô chủ vì cá nhân không phải là chủ thể của luật quốc tế, không thể có chủ quyền, không có thẩm quyền về mặt quan hệ quốc tế là quan hệ giữa các quốc gia. 

– Sự chiếm hữu phải được tiến hành một cách hoà bình trên một vùng lãnh thổ thật sự là vô chủ hoặc đã được người chủ chủ động bỏ rơi hoặc mặc nhiên từ bỏ. 

– Quốc gia chiếm hữu phải thực hiện trên thực tế các hành động chủ quyền ở mức độ tối thiểu phù hợp với các điều kiện tự nhiên và dân cư trên vùng lãnh thổ đó. 

– Tính liên tục của sự thực hiện các hành động chủ quyền trên vùng lãnh thổ đó. – Không có sự phản đối của nước khác. 

Bên cạnh đó, sự Xác lập chủ quyền lãnh thổ bằng chiếm hữu chỉ có giá trị pháp lý khi nó đáp ứng những điều kiện cơ bản sau đây: 

Vùng đất, đảo bị chiếm hữu phải là một lãnh thổ vô chủ, không nằm hoặc không còn nằm trong hệ thống địa lý hành chính của một quốc gia nào. 

Vùng đất, đảo đó có thể có hoặc không có người ở. Nhưng khái niệm vô chủ có nghĩa là vùng đất, đảo có không nằm trong hệ thống địa lý hành chính của bất cứ nước nào, hoặc tuy đã từng thuộc về một quốc gia nhưng quốc gia này đã từ bỏ vả không có ý định tiếp tục thực hiện chủ quyền của mình ở đó. Vùng đất, đảo như thế được coi là vô chủ và có thể trở thành đối tượng chiếm hữu của bất kỳ quốc gia nào.

Ví dụ như, đảo Saint Martin ở gần Guadeloupe thuộc Trung Mỹ do Tây Ban Nha chiếm hữu từ giữa thế kỷ XVII . Nhưng vì không có khả năng tổ chức quản lý, họ đã quyết định từ bỏ quyền chiếm hữu đảo, rút khỏi đảo sau khi đã phá hủy mọi thiết bị và công trình xây dựng. Đảo lại trở thành vô chủ. Người Pháp, người Hà Lan cùng một lúc đến chiếm đảo và tuyên bố thiết lập chủ quyền của nước họ. Cuộc tranh chấp đã được giải quyết như sau: nửa đảo nơi người Pháp đã đổ bộ lên thuộc chủ quyền của Pháp, còn nửa kia thuộc về Hà Lan. 

Qua thực tiễn trên ta thấy, việc phát hiện ra một vùng đất, đảo có thể giữ vai trò quan trọng đối với việc chiếm hữu vùng đất đảo đó nếu nó là vô chủ, nhưng sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu nó đã được một quốc gia khác chiếm hữu. Mặt khác, nguyên tắc chiếm hữu thực sự đòi hỏi phải có sự kiểm soát và quản lý trên thực tế vùng lãnh thổ đã chiếm hữu. Vì vậy, phát hiện ra một vùng đất mới mới chỉ là mầm mống của quyền đối với vùng đất đó, và quyền có tính chất mầm mống ấy có thể mất đi nếu nó không được củng cố bằng những hành động tích cực khác để thiết lập sự chiếm hữu thực sự. Tuy nhiên, yếu tố phát hiện trong quá khứ vẫn có thể được sử dụng khi cần thiết phải chứng minh nguồn gốc của việc thiết lập chủ quyền. 

Việc chiếm hữu phải là hành động của nhà nước 

Việc chiếm hữu một vùng lãnh thổ phải là một hành động có tính chất nhà nước, nghĩa là được thực hiện bởi những viên chức đại diện cho nhà nước hoặc những người được nhà nước ủy quyền, thì mới có giá trị pháp lý. Hành động của những người mang tư cách cá nhân, hoặc của những tập thể, tổ chức tư nhân đều không có giá trị pháp lý để xác định chủ quyền lãnh thổ. Tuy nhiên trong một số trường hợp, các hành động của tư nhân với danh nghĩa công dân của một quốc gia, dù chưa được nhà nước đó chứng nhận, cũng có thể có một ý nghĩa nhất định. Như khi giải quyết tranh chấp lãnh thổ, những hành động này sẽ là chứng cứ có lợi cho một quốc gia nếu phía bên kia không có một hành động có ý nghĩa pháp lý nào được thực hiện. 

Việc chiếm hữu phải là thực sự, rõ ràng. 

Trước đây, một số luật gia cho rằng, để thiết lập sự quản lý và kiểm soát một vùng lãnh thổ thì không thể thiếu việc tổ chức dân cư. Ngày nay, với những vùng lãnh thổ không có dân cư việc kiểm soát có thể được tiến hành bằng các phương tiện kỹ thuật, do đó việc tổ chức dân cư không còn là biện pháp duy nhất. Luật pháp quốc tế đòi hỏi việc thực hiện các chức năng nhà nước trên vùng lãnh thổ chiếm hữu phải mang tính liên tục, bởi vì việc đình chỉ một hoạt động như vậy trong một khoảng thời gian tương đối dài mà không khôi phục lại nó có thể được hiểu là sự từ bỏ vùng lãnh thổ này và không có ý định tiếp tục thực hiện chủ quyền ở đó. Tuy nhiên, yêu cầu thực hiện các chức năng nhà nước một cách thường xuyên, liên tục không có nghĩa là phải có tính định kỳ thật đều đặn. Như vậy đối với những vùng lãnh thổ khó đi đến, tính liên tục của việc thực hiện chủ quyền không có ý nghĩa tuyệt đối mà phụ thuộc vào mức độ cần thiết và khả năng đi đến vùng lãnh thổ đã chiếm hữu đó. 

Tính hòa bình của sự chiếm hữu, việc chiếm hữu phải được dư luận đương thời chấp nhận: 

Yêu cầu về tính hòa bình của sự chiếm hữu có nghĩa là sự chiếm hữu không được là sự tước đoạt quyền của một quốc gia khác bằng vũ lực hay bằng hoạt động lén lút, việc chiếm hữu phải công khai và được dư luận đương thời chấp nhận. 

Ngày nay, người ta thường dùng hình thức tuyên bố hoặc thông báo bằng các phương tiện thông tin đại chúng để công khai hóa các sự kiện. Nhưng đối với các sự kiện xảy ra trong quá khứ khi quan hệ quốc tế chưa phát triển rộng rãi, việc công khai hóa các sự kiện chỉ bằng hình thức gián tiếp hoặc tay đôi, thì khi xem xét việc một nước đã chiếm hữu và thực hiện chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ, người ta chỉ chú ý đến việc lãnh thổ này trước đó đã thuộc chủ quyền của một nước nào chưa? Sự chiếm hữu ấy có bị nước nào chống lại không và dư luận đương thời đã chấp nhận hay phủ nhận chủ quyền đối với vùng đất ấy?. Trên cơ sở đó, đánh giá cơ sở pháp lý của chủ quyền nước đó đối với vùng lãnh thổ. 

Một số luận cứ khác cũng được đưa ra để biện minh quyền chiếm hữu đối với một vùng đất, nhưng đã bị luật pháp và tập quán quốc tế cũng như thực tế lịch sử bác bỏ. 

Trước khi nguyên tắc chiếm hữu thực sự có vị trí vững chắc trong luật pháp quốc tế, có lúc các nguyên tắc kế cận địa lý và liên tục lãnh thổ đã được đưa ra để vận dụng. 

Việc xác định chủ quyền lãnh thổ theo nguyên tắc kế cận địa lý hoặc liên tục lãnh thổ vì không có ranh giới rõ ràng nên đã làm nảy sinh nhiều tranh chấp. Đến khi sự kiểm soát của các quốc gia đối với lãnh thổ của mình được tăng cường, chủ quyền lãnh thổ được xác định trên những vùng lãnh thổ có đường biên giới quốc gia được định hình rõ ràng thì nguyên tắc kế cận địa lý và liên tục lãnh thổ đã bị bác bỏ và nhường chỗ cho nguyên tắc chiếm hữu thực sự. 

Công ước về Luật Biển của Liên hợp quốc năm 1982 đã thừa nhận các quyền thuộc chủ quyền của nước ven biển đối với thềm lục địa là phần kéo dài tự nhiên của đất liền của nước đó ra biển, như thế có nghĩa là Công ước đã chấp nhận nguyên tắc liên tục của lãnh thổ. Tất nhiên, sự liên tục lãnh thổ là nguồn gốc của những lợi ích kinh tế, chính trị, chiến lược và các lợi ích khác của quốc gia có thể dẫn tới việc quốc gia thiết lập chủ quyền đối với vùng lãnh thổ đó phù hợp với luật pháp quốc tế. Tuy nhiên điều này cũng chỉ có giá trị đối với một vùng lãnh thổ ngập nước chưa được luật pháp quốc tế xác định tính chất chủ quyền lãnh thổ tức là còn vô chủ, chứ không thể áp dụng đối với các đảo và vùng lãnh thổ ngập nước đã được luật pháp quốc tế xác định tính chất chủ quyền lãnh thổ từ lâu. 

Chủ quyền lãnh thổ được thu hẹp hay mở rộng chỉ phụ thuộc vào sức mạnh. Thực chất đây cũng chỉ là một biến tướng của thuyết “không gian sinh tồn” đã nói ở trên với một cái vỏ khác mà thôi. Đây là một luận điệu vô cùng nguy hiểm, biện hộ cho chiến tranh xâm lược, lắp ngòi nổ cho các cuộc chiến tranh liên miên, đe dọa sự ổn định và hòa bình của khu vực và của thế giới. 

CHƯƠNG III: Áp dụng nguyên tắc chiếm hữu thực sự trong việc xác lập chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam:

Chiếm hữu là cách thức thụ đắc lãnh thổ mà Việt Nam đã hợp pháp thụ đắc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong khi Trung Quốc hoàn toàn dửng dưng với quần đảo Hoàng Sa thậm chí đến cuối thế kỷ XIX, và cả Trường Sa, thì Việt Nam có bằng chứng lịch sử cho thấy là quốc gia đầu tiên chiếm hữu hiệu đối với hai quần đảo này từ thế kỷ XVII thông qua hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải và các hoạt động thực thi chủ quyền sau này của nhà Nguyễn. 

Căn cứ vào các nội dung của nguyên tắc chiếm hữu thực sự theo Định ước Berlin 1885 và Tuyên bố của Viện Pháp Luật Quốc tế Lausanne năm 1888 cùng với các nguyên tắc trong Nghị quyết 2625 của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, các quy định của Công ước Luật biển năm 1982, áp dụng đối với trường hợp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, từ đầu thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XIX, theo tập quán pháp lý phương Tây lúc bấy giờ, sự xác lập chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo này là một sự thật thể hiện bằng các hành động cụ thể về sự quản lý, chỉ đạo của các Nhà nước Việt Nam đương thời một cách nhất quán, liên tục, hoà bình phù hợp với pháp lý quốc tế bấy giờ. Sau đó, chủ quyền của Việt Nam tiếp tục được khẳng định dựa trên các cơ sở pháp lý quốc tế có giá trị phổ biến, Hiến chương Liên hiệp quốc và Công ước về Luật Biển 1982 mà các thành viên ký kết đều phải tôn trọng. Các bằng chứng lịch sử mà Việt Nam đã thu thập được rất phong phú, mặc dù do hoàn cảnh chiến tranh liên tục nên nhiều thư tịch cổ của Việt Nam đã bị mất mát, thất lạc. Tuy nhiên, những tư liệu còn lại đến nay và chính sử vẫn đủ để khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 

Đỉnh cao nhất của việc tuyên bố và xác lập chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là vào năm 1816 khi vua Gia Long sai quân lính ra quần đảo Hoàng Sa cắm cờ Việt Nam và tuyên bố chủ quyền. Không chỉ vậy, các chúa Nguyễn cũng như nhà Nguyễn sau này đều có nhiều hành động liên tục cử người ra cai quản, khai thác các đảo trên cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhà nước phong kiến

Việt Nam đã tổ chức các đội Hoàng Sa, Bắc Hải để thực thi quyền chủ quyền và khai thác hai quần đảo. 

Năm 1951, tại Hội nghị San Francisco (Hoa Kỳ), khi có một đề nghị bổ sung bản dự thảo Hòa ước yêu cầu trao trả cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng Hội nghị đã bác bỏ đề nghị này với số phiếu áp đảo là 46 phiếu thuận, 3 phiếu chống và 1 phiếu trắng. Tại Hội nghị, Ngoại trưởng Trần Văn Hữu dẫn đầu phái đoàn 

Chính phủ Quốc gia Việt Nam đã tuyên bố khẳng định chủ quyền lâu đời của người Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp sự phản đối hay bảo lưu của nước nào.15 

Dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế, đặc biệt là nguyên tắc chiếm hữu thực sự Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền lâu đời và liên tục của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa – hai quần đảo thiêng liêng của Tổ quốc. 

Sau khi nước Việt Nam được thống nhất, nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã nhiều lần khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 1982, Việt Nam đã lập huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng nay trực thuộc thành phố Đà Nẵng (từ năm 1996) và huyện Trường Sa thuộc tỉnh Phú Khánh nay thuộc Khánh Hòa (từ năm 1989). Thực tiễn pháp lý đã khẳng định nguyên tắc chiếm hữu thực sự là một trong những nguyên tắc rất nền tảng trong vấn đề xác lập chủ quyền lãnh thổ. Đối với Việt Nam cũng như các nước khác trong khu vực Biển Đông, đối diện với một thực tế tranh chấp lãnh thổ trong vùng biển này, việc căn cứ vào các quy định trong các văn bản pháp lý quốc tế cũng như những nguyên tắc cơ bản về chủ quyền lãnh thổ, như nguyên tắc chiếm hữu thực sự là hết sức cần thiết nhằm bảo đảm xác định chủ quyền một cách hợp pháp, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các quốc gia liên quan, góp phần giữ gìn hòa bình, an ninh khu vực và trên thế giới.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Phương pháp thương lượng trong thực tiễn giải quyết tranh chấp lĩnh vực thương mại.

I. VỤ VIỆC THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI  BẰNG PHƯƠNG THỨC THƯƠNG LƯỢNG 

1 Tóm tắt vụ việc 

Vụ việc tranh chấp thương mại giữa Công ty TNHH Hà Bình với Công ty TNHH kinh doanh và chế biến lương thực Việt Tiến (tài liệu hồ sơ tình huống  được đính kèm tại phần Phụ lục) là vụ việc tranh chấp hợp đồng mua bán về nghĩa vụ thanh toán. Cụ thể được tóm tắt như sau: 

– Công ty TNHH Hà Bình (bên bán) với Công ty TNHH kinh doanh và  chế biến lương thực Việt Tiến (bên mua) đã hợp tác, ký hợp đồng mua bán bột  mì từ tháng 01/2017 đến 31/12/2017. Hợp đồng có giá trị hiệu lực 1 năm, ghi  nhận sự thỏa thuận các bên, tuân thủ đúng quy định của pháp luật và đúng thẩm  quyền ký kết.  

– 01/2018, hai bên tiếp tục ký hợp đồng có thời hạn 1 năm. Tuy nhiên đại  diện ký hợp đồng của bên bán không đúng thẩm quyền. 

– 03/2018, có văn bản xác nhận công nợ Công ty TNHH kinh doanh và  chế biến lương thực Việt Tiến xác nhận còn nợ công ty Hà Bình 613.000.000  đồng (Bằng chữ: sáu trăm mười ba triệu đồng). 

– 04/2018, Công ty TNHH Hà Bình yêu cầu Công ty Việt Tiến thanh toán  công nợ. Tuy nhiên, công ty Việt Tiến chỉ nêu những khó khăn của mình mà không đưa ra thời hạn thanh toán công nợ. Công ty TNHH Hà Bình dừng việc  gửi bột mỳ bắt đầu từ tháng 4/2018. 

– 06/2018, Công ty Việt Tiến yêu cầu công ty Hà Bình bồi thường thiệt hại  do đơn phương chấm dứt hợp đồng kinh tế ký ngày 5/1/2018.

Hai bên thống nhất thương lượng giải quyết tranh chấp tại văn phòng  Công ty Hà Bình ngày 30/06/2018. 

2 Quyền và nghĩa vụ các bên trên cơ sở hợp đồng ký kết 

❖ Công ty TNHH Hà Bình: 

– Công ty có quyền nhận các khoản thanh toán từ phía công ty Việt Tiến  sau khi đã giao hàng theo đúng thỏa thuận hợp đồng số 03/01/HĐ.2018/HB. – Công ty có nghĩa vụ giao hàng đúng chất lượng, số lượng, quy cách của  hàng hóa theo thỏa thuận hợp đồng, không được tự ý hủy bỏ hợp đồng khi chưa  có sự đồng ý của công ty Việt Tiến. 

– Công ty có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho Công ty Việt Tiến nếu xảy  ra các thiệt hại khi hợp đồng vô hiệu vì hợp đồng được ký không đúng thẩm  quyền của người đại diện pháp luật. 

❖ Công ty kinh doanh và chế biến lương thực Việt Tiến: 

– Công ty có nghĩa vụ thanh toán cho công ty Hà Bình bằng tiền mặt hoặc  chuyển khoản trong vòng 20 ngày kể từ ngày nhận theo từng đợt nhận hàng như  đúng hợp đồng đã ký kết. 

– Có nghĩa vụ thanh toán tiền lãi theo mức lãi suất ngân hàng trên giá trị  công nợ chậm trả. 

– Công ty có quyền yêu cầu Công ty Hà Bình thanh toán các chi phí tổn  thất khi đơn phương chấm dứt hợp đồng. 

II. BIÊN BẢN THƯƠNG LƯỢNG GHI NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA  CÁC BÊN 

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc 

BIÊN BẢN THƯƠNG LƯỢNG 

Tranh chấp hợp đồng mua bán về nghĩa vụ thanh toán 

Hôm nay, tại Văn phòng Công ty TNHH Hà Bình địa chỉ Nhà máy xay Yên Mỹ,  thị trấn Yên Mỹ, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Vào hồi 9 giờ ngày 30 tháng 6  năm 2018. Chúng tôi gồm có: 

– Đại diện Công ty TNHH Hà Bình: PHẠM HOÀNG KHÁNH   Chức vụ: Giám đốc Công ty TNHH Hà Bình 

– Đại diện Công ty kinh doanh và chế biến lương thực Việt Tiến: NGUYỄN  NGỌC TIẾN 

 Chức vụ: Giám đốc Công ty kinh doanh và chế biến lương thực Việt Tiến Đã tiến hành buổi họp thương lượng về tranh chấp hợp đồng mua bán về nghĩa  vụ thanh toán: 

1. Nội dung buổi họp thương lượng: 

1.1 Các sự kiện pháp lý liên quan đến tranh chấp thương mại 

– Ngày 05/01/2018, Công ty TNHH Hà Bình (bên bán) và Công ty kinh  doanh và chế biến lương thực Việt Tiến (bên mua) ký hợp đồng mua bán bột mì.  Tuy nhiên, đại diện theo pháp luật của bên bán ký kết hợp đồng không đúng thẩm  quyền. Ông Trần Ngọc Văn giữ chức vụ Phó Giám đốc Công ty TNHH Hà Bình,  không có sự ủy quyền của giám đốc là ông Phạm Hoàng Khánh nện không có  thẩm quyền ký kết hợp đồng trên theo Điều 63 và Điều 67 Luật Doanh nghiệp  2020. Trước đó, giấy ủy quyền của ông Phạm Hoàng Khánh cho ông Trần Ngọc  Văn đã hết thời hạn vào ngày 30/12/2017 và không có sự gia hạn thêm. 

– 03/2018, có văn bản xác nhận công nợ của công ty kinh doanh và chế biến lương thực Việt Tiến còn nợ công ty Hà Bình 613.000.000 đồng (Bằng chữ: sáu trăm mười ba triệu đồng). 04/2018, Công ty TNHH Hà Bình yêu cầu Công ty  Việt Tiến thanh toán công nợ và dừng việc gửi bột mì. Tuy nhiên, phía Công ty  Việt Tiến không đưa ra thời hạn thanh toán mà chỉ nêu ra lý do chậm thực hiện  nghĩa vụ thanh toán, không phù hợp với quy định pháp luật tại Điều 50 và 51  Luật Thương mại 2005. 

1.2 Quan điểm, ý kiến của các bên về sự kiện pháp lý dẫn đến tranh chấp – Công ty TNHH Hà Bình: 

Về việc ký hợp đồng không đúng thẩm quyền: Trong quy chế nội bộ công  ty TNHH Hà Bình việc ông Trần Ngọc Văn ký hợp đồng vẫn nằm trong phạm vi  ủy quyền trước đó và cũng đã được thông báo đến ban giám đốc và nhận được sự chấp thuận. Vì vậy, ông Trần Ngọc Văn ký hợp đồng với Quý công ty Việt Tiến  vẫn phù hợp với quy định của công ty TNHH Hà Bình. Hơn nữa, lỗi dẫn đến sơ  xuất này chúng tôi cho rằng không chỉ ở một phía mà do cả hai bên đã không rà  soát lại các văn bản pháp lý liên quan đã hết hiệu lực nên nếu có thiệt hại xảy ra,  cả hai công ty đều phải đồng chịu trách nhiệm. 

Về nghĩa vụ chậm thanh toán: chúng tôi đã nhiều lần gửi công văn nhắc nhở quý công ty nhanh chóng thanh toán công nợ và tiền lãi chậm trả, có cả bản  xác nhận công nợ hai bên đã ký. Tuy nhiên, phía công ty Việt Tiến nêu lí do  chung chung để kéo dài thời gian thanh toán công nợ, không đưa ra thời hạn cụ thể thanh toán, chúng tôi bắt buộc phải dừng việc gửi hàng hóa để đảm bảo duy  trì ngân sách của công ty. 

– Công ty kinh doanh và chế biến lương thực Việt Tiến: 

Công ty TNHH Hà Bình đã đưa người không có thẩm quyền để ký hợp  đồng với chúng tôi, lỗi này là hoàn toàn do công ty gây ra, ký hợp đồng với  chúng tôi mà không có sự ủy quyền của người có thẩm quyền . Nếu vụ tranh  chấp này không thương lượng thỏa đáng, hợp đồng sẽ bị vô hiệu và phía công ty Hà Bình sẽ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại gây ra cho  chúng tôi. 

Chúng tôi đã đưa ra kế hoạch thanh toán công nợ cho quý công ty Hà  Bình, cụ thể là trong mùa vụ tiếp theo thuận lợi và kết thúc đầu tư ưa ưởng  mới vào hoạt động, chúng tôi sẽ có điều kiện để rút ngắn thời gian thanh toán. Lý  do chậm thanh toán công nợ chúng tôi đưa ra hoàn toàn chính đáng: vì vừa phải  đối phó với biến động giá vật tư, nguyên liệu, vừa triển khai đầu tư mở rộng sản  xuất và thị trường mì ăn liền tiêu thụ đang rất chậm nên mới ảnh hưởng đến tiến  độ thanh toán công nợ với quý công ty.  

Hơn nữa, việc không tiếp tục giao hàng của Quý công ty từ tháng 04/2018  dẫn đến rất nhiều thiệt hại cho chúng tôi. Chúng tôi vẫn phải trả lương cho công  nhân, phải trả nợ ngân hàng và phải chịu tiền mua chênh lệch giá bột mì của  công ty khác nên chúng tôi không đồng ý. Yêu cầu phía công ty Hà Bình tiếp tục  thực hiện hợp đồng.  

1.3 Các giải pháp, phương án được các bên đề xuất 

– Công ty TNHH Hà Bình: Trên tinh thần hợp tác lâu dài của hai công ty  chúng tôi đề xuất việc chấp nhận hiệu lực của hợp đồng số 03/01/HĐ.2018/HB; đồng thời ký hợp đồng mới thể hiện những thỏa thuận của các bên, đúng thẩm  quyền và đúng trình tự của pháp luật. Tuy nhiên, Công ty Việt Tiến bắt buộc  phải thanh toán công nợ và tiền lãi trên giá trị chậm trả trong vòng 3 tháng tới để phía công ty chúng tôi có đủ kinh phí cung cấp bột mì cho quý công ty. 

– Công ty kinh doanh và chế biến lương thực Việt Tiến: chúng tôi đồng ý  với phương án ký hợp đồng mới và chấp nhận hiệu lực hợp đồng cũ như phía  Công ty TNHH Hà Bình đề xuất. Về phần nghĩa vụ thanh toán, hiện nay chúng  tôi đang gặp phải rất nhiều khó khăn vì trong 3 tháng vừa qua, công ty không gửi bột mì dẫn đến thiệt hại ước tính 400.000.000 như trong Công Văn số 06-11/04/VT đã nêu rõ. Vì vậy chúng tôi đề nghị quý công ty gia hạn thời hạn thanh  toán công nợ và tiền lãi chậm trả là 06 tháng. 

2. Kết quả buổi họp thương lượng 

Sau khi có sự trao đổi thỏa thuận, hai bên đã thống nhất về những nội  dung như sau: 

– Chấp nhận hiệu lực hợp đồng số 03/01/HĐ.2018/HB 

– Hai bên ký hợp đồng mới thể hiện những thỏa thuận của các bên, đúng thẩm quyền và đúng trình tự của pháp luật vào ngày 01/07/2018. – Công ty kinh doanh và chế biến lương thực Việt Tiến sẽ phải thanh  toán công nợ cho Công ty TNHH Hà Bình tính đến tháng 03/2018 là  617.000.000 đồng. Thời hạn thanh toán là 04 tháng. Tiền lãi trên giá trị chậm trả, công ty Việt Tiến không phải thanh toán để bù đắp một phần  thiệt hại xảy ra. 

3. Điều khoản thực hiện 

Các bên thực hiện cam kết theo như đúng thỏa thuận và thời gian nêu  trong kết quả buổi họp thương lượng. Nếu một trong các bên không thực hiện  đúng thỏa thuận thương lượng thì tranh chấp sẽ đưa ra Tòa án nhân dân để giải  quyết. 

Biên bản được hoàn thành vào hồi 12 giờ, ngày 30 tháng 06 năm 2018. Biên bản này được lập thành 02 bản, mỗi bên giữ một bản. 

Hưng Yên, ngày 30 tháng 06 năm 2018 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 

1. Luật Doanh nghiệp 2020; 

2. Luật Thương mại 2005.

III. Hợp đồng mua bán bột mì 1

CÔNG TY TNHH HÀ BÌNH
T.T YÊN MỸ – H. YÊN MỸTỈNH HƯNG YÊN
Số: 03/01/HĐ.2018/HB
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

HỢP ĐỒNG MUA BÁN BỘT MÌ 

– Căn cứ Bộ luật dân sự năm 2015; 

– Căn cứ Luật thương mại 2005; 

– Căn cứ Luật trọng tài thương mại 2010; 

– Căn cứ vào sự thỏa thuận của hai bên  

Hôm nay ngày 05/01/2018 

Các bên gồm có: 

I. Bên bán: Công ty TNHH Hà Bình (Bên A) 

Đại diện: ông Trần Ngọc Văn Chức vụ: Phó Giám Địa chỉ: thị trấn Yên Mỹ, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên Điện thoại: 0321.963177 – 0321.964425 Fax: 0321.964834 

đốc 

Tài khoản: Số 111.10132836.01.0 tại Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ  thương Việt Nam, thành phố Hà Nội 

Mã số thuế: 0900181214 – 1 

II. Bên mua: Công ty kinh doanh và chế biến lương thực Việt Tiến (Bên B) 

Đại diện: ông Nguyễn Ngọc Tiến Chức vụ: Giám đốc 

Địa chỉ: Trâu Quỳ, Gia Lâm, Hà Nội 

Điện thoại: 04.8766750 Fax: 04.8767431 

Tài khoản: 4311.01.000046 tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông  thôn Việt nam, Hà Nội 

Mã số thuế: 0100508975 – 1 

Sau khi bàn bạc, hai bên đã thống nhất ký hợp đồng mua bán hàng hóa với  các điều khoản sau: 

Điều 1. Hàng hóa, số lượng, giá cả 

– Hàng hóa – Bột mì. 

– Số lượng: 300 tấn/tháng

– Giá cả: theo giá thị trường từng thời điểm do hai bên thỏa thuận và được  thể hiện trên Hóa đơn GTGT bên A xuất cho bên B. 

Điêu 2. Giao hàng, quy cách, phẩm chất hàng hóa 

– Giao hàng: hàng được giao tại kho bên A. Bốc xếp mỗi bên chịu một đầu.

– Quy cách: bột mì được đóng trong bao PP trọng lượng tịnh 40kg/bao

– Phẩm chất: theo thỏa thuận của hai bên 

Điều 3. Hình thức hợp đồng 

Bên B thanh toán cho bên A bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản trong vòng 20  ngày kể từ ngày nhận theo từng đợt nhận hàng. Nếu chậm trả phải chịu mức lãi suất theo ngân hàng trên giá trị chậm trả. 

Điều 4. Thời hạn thanh toán 

Hợp đồng có giá trị thực hiện từ tháng 01/2018 đến 31/12/2018 

Điều 5. Cam kết chung 

Hai bên cam kết thực hiện đúng theo những điều khoản đã ký trong hợp  đồng. Trong quá trình thực hiện nếu có phát sinh cần sửa đổi, bổ sung hay trở ngại  gì thì hai bên cùng nhau bàn bạc cụ thể để làm phụ lục hợp đồng, không bên nào  được quyền tự hủy bỏ hợp đồng. Nếu có xảy ra tranh chấp mà hai bên không giải quyết được bằng thương lượng thì sẽ đưa ra Tòa án kinh tế tỉnh Hưng Yên để giải  quyết. 

Hợp đồng được thành lập 4 bản, mỗi bên giữ 2 bạn có giá trị pháp lý như nhau. 

ĐẠI DIỆN BÊN B ĐẠI DIỆN BÊN A 

(đã ký, đóng dấu) (đã ký, đóng dấu) 


IV. Hợp đồng mua bán bột mì 2

CÔNG TY TNHH HÀ BÌNH
T.T YÊN MỸ – H. YÊN MỸTỈNH HƯNG YÊN
Số: 03/01/HĐ.2017/HB
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

HỢP ĐỒNG MUA BÁN BỘT MÌ 

– Căn cứ Bộ luật dân sự năm 2015; 

– Căn cứ Luật thương mại 2005; 

– Căn cứ Luật trọng tài thương mại 2010; 

– Căn cứ vào sự thỏa thuận của hai bên  

Hôm nay, ngày 5/1/2017, Các bên gồm có: 

III. Bên bán: Công ty TNHH Hà Bình (Bên A) 

Đại diện: ông Trần Ngọc Văn Chức vụ: Phó Giám đốc Địa chỉ: thị trấn Yên Mỹ, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên 

Điện thoại: 0321.963177 – 0321.964425 Fax: 0321.964834 Tài khoản: Số 111.10132836.01.0 tại Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ  thương Việt Nam, thành phố Hà Nội 

Mã số thuế: 0900181214 – 1 

IV. Bên mua: Công ty kinh doanh và chế biến lương thực Việt Tiến (Bên B) 

Đại diện: ông Nguyễn Ngọc Tiến Chức vụ: Giám đốc 

Địa chỉ: Trâu Quỳ, Gia Lâm, Hà Nội 

Điện thoại: 04.8766750 Fax: 04.8767431 

Tài khoản: 4311.01.000046 tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông  thôn Việt nam, Hà Nội 

Mã số thuế: 0100508975 – 1 

Sau khi bàn bạc, hai bên đã thống nhất ký hợp đồng mua bán hàng hóa với  các điều khoản sau: 

Điều 1. Hàng hóa, số lượng, giá cả 

– Hàng hóa – Bột mì. 

– Số lượng: 300 tấn/tháng 

– Giá cả: theo giá thị trường từng thời điểm do hai bên thỏa thuận và được  thể hiện trên Hóa đơn GTGT bên A xuất cho bên B. 

Điêu 2. Giao hàng, quy cách, phẩm chất hàng hóa

– Giao hàng: hàng được giao tại kho bên A. Bốc xếp mỗi bên chịu một đầu. – Quy cách: bột mì được đóng trong bao PP trọng lượng tịnh 40kg/bao – Phẩm chất: theo thỏa thuận của hai bên 

Điều 3. Hình thức thanh toán 

Bên B thanh toán cho bên A bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản trong vòng 20  ngày kể từ ngày nhận theo từng đợt nhận hàng. Nếu chậm trả phải chịu mức lãi suất  theo ngân hàng trên giá trị chậm trả. 

Điều 4. Thời hạn hợp đồng 

Hợp đồng có giá trị thực hiện từ tháng 01/2017 đến 31/12/2017 

Điều 5. Cam kết chung 

Hai bên cam kết thực hiện đúng theo những điều khoản đã ký trong hợp  đồng. Trong quá trình thực hiện nếu có phát sinh cần sửa đổi, bổ sung hay trở ngại  gì thì hai bên cùng nhau bàn bạc cụ thể để làm phụ lục hợp đồng, không bên nào  được quyền tự hủy bỏ hợp đồng. Nếu có xảy ra tranh chấp mà hai bên không giải  quyết được bằng thương lượng thì sẽ đưa ra Tòa án kinh tế tỉnh Hưng Yên để giải  quyết. 

Hợp đồng được thành lập 4 bản, mỗi bên giữ 2 bạn có giá trị pháp lý như nhau. 

ĐẠI DIỆN BÊN B ĐẠI DIỆN BÊN A 

Giám đốc Phó Giám đốc 

(đã ký, đóng dấu) (đã ký, đóng dấu) 


V. Giấy uỷ quyền

CTY TNHH HÀ BÌNH
NM BỘT MỲ YÊN MỸ- HƯNG YÊN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hưng Yên, ngày 15 tháng 03 năm 2016 

GIẤY ỦY QUYỀN 

  • Căn cứ quyết định số: 42/QĐ-UB ngày 13/01/2000 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên cấp về việc thành lập Công ty TNHH Hà Bình 
  • Căn cứ vào tình hình hiện tại của Công ty. 

Tôi tên là: PHẠM HOÀNG KHÁNH 

Chức vụ: Giám đốc Công ty TNHH Hà Bình 

Trụ sở: Nhà máy xay Yên Mỹ, thị trấn Yên Mỹ, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên 

Nay ủy quyền cho: 

Ông: TRẦN NGỌC VĂN 03 

Nơi công tác: Công ty TNHH Hà Bình 

Chức vụ: Phó Giám đốc 

Trụ sở: Nhà máy xay Yên Mỹ, thị trấn Yên Mỹ, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên 

Nội dung ủy quyền: 

Thay mặt tôi ký kết các hợp đồng kinh tế, Hợp đồng tín dụng, các văn bản  pháp lý liên quan đến việc tổ chức điều hành và kinh doanh của Công ty TNHH Hà  Bình 

Địa chỉ: Nhà máy xay Yên Mỹ, thị trấn Yên Mỹ, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên 

Thời hạn ủy quyền: từ ngày 15/03/2016 đến ngày 30/12/2017  

Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung ủy quyền trên. 

CHỮ KÝ CỦA NGƯỜI ĐƯỢC ỦY QUYỀN CHỮ KÝ CỦA NGƯỜI ỦY QUYỀN


VI. Bản xác nhận công nợ

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc 

BẢN XÁC NHẬN CÔNG NỢ 

(Giữa Công ty TNHH Hà Bình và Công ty Kinh doanh và chế biến lương thực Việt Tiến) 

Tính đến tháng 3/2018, Công ty kinh doanh và chế biến lương thực Việt  Tiến xác nhận còn nợ công ty Hà Bình 613.000.000 đồng (Bằng chữ: sáu trăm  mười ba triệu đồng). 

Biên bản được lập thành 02 bản, mỗi bên giữ 01 bản. 

Hưng Yên, ngày 31/3/2018 

Công ty TNHH Hà Bình Công ty Việt Tiến


VII. Công văn đề nghị thanh toán công nợ

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc 

Kính gửi: Công ty TNHH KD và CB lương thực Việt  

Tiến V/v thanh toán công nợ 

Căn cứ vào tình hình công nợ của Công ty kinh doanh và chế biến lương  thực Việt Tiến còn nợ công ty TNHH Hà Bình theo bản hợp đồng kinh tế của từng  năm giữa hai công ty tính đến nay số tiền còn nợ đọng là 617.000.000 đồng quá hạn  đã lâu, mức độ thanh toán quá chậm. Bắt đầu từ tháng 4/2018, công ty chúng tôi sẽ  không giao hàng cho công ty Việt Tiến do công ty Việt Tiến còn nợ nhiều tiền hàng  chưa thanh toán. Chúng tôi yêu cầu công ty Viết Tiến phải trả nợ gốc và tiền lãi  phát sinh trên số tiền chậm thanh toán từ tháng 4/2018. 

Hai bên đã thống nhất nội dung với nhau về việc thanh toán trả nợ của  Công ty kinh doanh và chế biến lương thực Việt Tiến trả tiền cho công ty TNHH  Hà Bình và có cụ thể trả lời bằng văn bản với Công ty TNHH Hà Bình. Nhưng đến  nay công ty TNHH Hà Bình chúng tôi vẫn chưa nhận được văn bản trả lời của Quý  Công ty. 

Trên tinh thần hợp tác chúng tôi mong nhận được sự trả lời của Quý Công ty. 

Ngày 04 tháng 4 năm 2018 

CÔNG TY TNHH HÀ BÌNH 

GIÁM ĐỐC


VIII. Công văn trả lời thanh toán công nợ

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Hà Nội, ngày 20 tháng 4 năm 2018 

Kính gửi: Ông Giám đốc Công ty TNHH bột mì Hà Bình 

Đầu tiên tôi xin gửi tới Ông và toàn thể Quý Công ty lời chúc sức khỏe và  lời chào trân trọng nhất, thay mặt Công ty Việt Tiến tôi xin chân thành cảm ơn Quý  Công ty về sự hợp tác và giúp[ đỡ của Quý Công ty đối với Công ty chúng tôi trong  thời gian qua. 

Sau khi bàn bạc Công ty chúng tôi xin đề nghị với Quý Công ty về kế  hoạch thanh toán. Tại thời điểm này thị trường mì ăn liền tiêu thụ đang rất chậm,  Quý Công ty hầu như đều bị giảm sản lượng trong đó có Công ty Việt Tiến vì vậy  ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất kinh doanh của Công ty Việt Tiến chúng tôi. Như  đã trao đổi với Quý Công ty về tình hình hoạt động của Công ty Việt Tiến trong  thời gian qua: vừa phải đối phó với biến động giá vật tư, nguyên liệu, vừa triển khai  đầu tư mở rộng sản xuất làm ảnh hưởng đến tiến độ thanh toán công nợ với Quý  Công ty. Với số công nợ còn lại của Quý Công ty, chúng tôi sẽ thanh toán dần hàng  tháng tùy theo điều kiện sản xuất kinh doanh và khả năng cho phép. 

Thưa Quý công ty trong thời gian tới khi mùa vụ thuận lợi và kết thúc đầu tư đưa xưởng mới vào hoạt động, chúng tôi sẽ có điều kiện để rút ngắn thời gian  thanh toán cho Quý Công ty và cụ thể nếu trong kỳ có điều kiện thuận lợi. 

Việc không giao hàng tiếp tục của Qúy công ty từ tháng 4/2018 dẫn đến các  thiệt hại cho chúng tôi. Chúng tôi vẫn phải trả lương cho công nhân, phải trả nợ ngân hàng và phải chịu tiền mua chênh lệch giá bột mì của công ty khác nên chúng  tôi không đồng ý. 

Trên tinh thần hợp tác chúng tôi mong nhận được sự trả lời của Quý Công  ty và yêu cầu công ty tiếp tục giao hàng cho chúng tôi 

CÔNG TY KD CBLT VIỆT TIẾN 

GIÁM ĐỐC 


IX. Công văn đề xuất thanh toán công nợ

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc 

Kính gửi: Công ty TNHH KD và CB lương thực Việt Tiến

V/v thanh toán công nợ 

Căn cứ vào tình hình công nợ của Công ty kinh doanh và chế biến lương  thực Việt Tiến còn nợ công ty TNHH Hà Bình theo Bản hợp đồng kinh tế của từng  năm giữa hai công ty tính đến nay số tiền còn nợ đọng quá hạn đã lâu, mức độ  thanh toán quá chậm. 

Theo nội dung công văn số 04 thì Công ty TNHH Hà Bình chúng tôi không  thể chấp nhận được với nội dung chung chung không cụ thể về vấn đề trả nợ, làm  cho Công ty Hà Bình không thể xác định việc thu tiền và trả các khoản nợ đến hạn  của Công ty chúng tôi. Chúng tôi không chịu trách nhiệm gì đối với các thiệt hại  của công ty Việt Tiến bởi vì hợp đồng kinh tế ngày 5/1/2018 không phải do giám đốc của công ty Việt Tiến ký kết. 

Vì vậy, chúng tôi xin thông báo với Quý Công ty đến thương lượng, làm  việc tại Văn phòng công ty chúng tôi vào ngày 30/6/2018. 

Trân trọng kính chào. 

Ngày 10 tháng 06 năm 2018 

CÔNG TY TNHH HÀ BÌNH


X. Công văn từ chối thanh toán công nợ

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Kính gửi: Công ty TNHH Hà Bình 

Theo công văn gần đây nhất chúng tôi đã nói rõ những khó khăn trong  sản xuất kinh doanh và có thiện chí sẽ tiếp tục thanh toán dần khoản nợ cũ. Nay Công ty chúng tôi nhận được Công văn số 08/11-HB của Quý  Công ty. Chúng tôi xin được thông báo: 

– Tiền lãi do chậm thanh toán tiền hàng chúng tôi không có trách nhiệm phải trả. 

– Yêu cầu công ty Hà Bình bồi thường thiệt hại cho chúng tôi do đơn  phương chấm dứt hợp đồng kinh tế ký ngày 5/1/2018. Các thiệt hại cụ thể gồm  có: 

– Trả lương cho cán bộ nhân viên 

– Đóng BHXH, BHYT 

– Khấu hao tài sản cố định 

– Trả lãi vay ngân hàng 

– Tiền chênh lệch giá mua bột mì 

Tổng cộng các thiệt hại ước tính 400.000.000 đồng. 

Công ty chúng tôi sẽ đến thương lượng giải quyết tranh chấp với công  ty Hà Bình theo Công văn số 08/11-HB. 

CÔNG TY KD CBLT VIỆT TIẾN

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Đánh giá các quy định của pháp luật BHXH về chế độ thai sản theo Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi bổ sung năm 2014.

Chế độ thai sản là một chế độ thuộc bảo hiểm xã hội bắt buộc, có vai trò hết sức quan trọng đối với NLĐ, đặc biệt là lao động nữ, NSDLĐ và xã hội nói chung.

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT CHẾ ĐỘ THAI SẢN 

1. Khái niệm chế độ thai sản 

Chế độ thai sản là một trong các chế độ bảo hiểm xã hội, nhằm đảm bảo  một phần thu nhập bị giảm và chi phí tăng lên cũng như đảm bảo sức khỏe cho  lao động nữ nói riêng trong quá trình mang thai, sinh con và cho người lao động  nói chung khi nuôi con sơ sinh. 

Chế độ thai sản có đặc trưng là có đối tượng áp dụng chủ yếu là lao động  nữ, mang tính chất ngắn hạn.Chế độ thai sản có mục đích bảo vệ sức khỏe người  lao động và thế hệ tương lai. Trợ cấp trong chế độ này nhằm để bảo vệ và bù đắp  cho người lao động nữ trong thời kỳ mang thai, sinh con, nuôi con, giúp họ thực  hiện tốt thiên chức của mình, đồng thời có điều kiện chăm sóc con sơ sinh – thế hệ tương lai của đất nước.  

2. Vai trò của chế độ thai sản. 

Thứ nhất, đối với NLĐ: chế độ thai sản bù đắp cho NLĐ một phần thu  nhập bị thiếu hụt trong quá trình thai sản NLĐ phải nghỉ việc, thu nhập mất ổn  định phần nào. Hơn nữa, chế độ thai sản góp phần bảo vệ thiên chức làm mẹ,  làm vợ của người phụ nữ – đối tượng chủ yếu của chế độ, giúp họ yên tâm hơn  về mối lo ngại kinh tế.

Thứ hai, đối với NSDLĐ: chế độ thai sản tạo điều kiện cho NSDLĐ thu  hút NLĐ là nữ, góp phần nâng cao lực lượng lao động, giúp cho hoạt động sản  xuất, kinh doanh hiệu quả hơn. Mặt khác, chế độ thai sản thể hiện trách nhiệm và  nghĩa vụ của NSDLĐ đối với lao động nữ nói riêng và với toàn xã hội nói chung 

Thứ ba, đối với xã hội: Chế độ thai sản được tổ chức và sử dụng quỹ tài  chính tập chung hình thành do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH thể hiện  sự chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm đối với NLĐ khi nghỉ thai sản,  mang tính nhân văn và góp phần phản ánh, nâng cao trình độ văn hóa cộng đồng. 

II. ĐÁNH GIÁ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ THAI SẢN

Pháp luật về chế độ thai sản được quy định từ khá lâu thể hiện tại điều  

luật quốc tế (như Công ước số 3, Công ước đầu tiên quy định về bảo hiểm thai  sản của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), Công ước 102 về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội,…và nhiều Khuyến nghị khác) đến quy định của các quốc gia  khác nhau. Tại Việt Nam, pháp luật về chế độ thai sản được quy định tại Luật  Bảo hiểm xã hội 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trong phạm vi tiểu  luận, em xin đánh giá các quy định pháp luật về chế độ thai sản theo quy định  pháp luật Việt Nam hiện hành với các nội dung sau đây.  

1. Đối tượng áp dụng chế độ thai sản 

Điều 2 và Điều 30 Luật BHXH 2014 quy định cụ thể chế độ thai sản được  áp dụng cho 6 đối tượng. Các đối tượng pháp luật đã quy định đa phần là những  NLĐ có thu nhập ổn định, nằm trong các đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.  Khi có thu nhập ổn định thì nhu cầu quyền lợi về chế độ thai sản cũng được nâng  cao, đây sẽ là sự đóng góp tương đối ổn định vào quỹ bảo hiểm cũng như thể hiện sự chung tay chia sẻ với những NLĐ khác. 

Quy định Luật BHXH 2014 đã có những thay đổi nhất định để thích ứng  với nhu cầu của NLĐ, đảm bảo quyền lợi cho đối tượng tham gia. Tuy nhiên,  chế độ ngắn hạn này hiện nay vẫn bó hẹp trong đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, trong khi đối tượng tham gia BHXH tự nguyện chưa được áp dụng nên số lượng tham gia chế độ thai sản mới chỉ ở mức độ nhất định. 

2. Điều kiện hưởng chế độ thai sản 

Căn cứ vào Điều 31 Luật BHXH 2014, quy định về điều kiện hưởng chế độ thai sản có thể thấy pháp luật đã mở rộng điều kiện để lao động nữ được  hưởng chế độ thai sản, không chỉ bó hẹp trong các trường hợp thai nghén, sinh  và nuôi con thông thường mà còn có NLĐ nữ mang thai hộ, nhờ mang thai hộ hoặc nhận nuôi con sơ sinh dưới 06 tháng tuổi. Sự mở rộng này đã kịp thời đáp  ứng yêu cầu thực tiễn đời sống xã hội, góp phần đảm bảo chăm sóc toàn diện  hơn cho NLĐ nữ và trẻ em. 

Lao động nữ sinh con, mang thai hộ, nhận mang thai hộ hoặc nuôi con sơ  sinh dưới 06 tháng hưởng chế độ thai sản phải có điều kiện.NLĐ đã đóng BHXH  từ đủ 12 tháng trở lên mà khi mang thai cơ sở y tế yêu cầu phải nghỉ việc thì điều  kiện hưởng chế độ thai sản chỉ cần đóng BHXH từ đủ 3 tháng trở lên trong thời  gian 12 tháng trước khi sinh con. Quy định này thể hiện tính chất công bằng, hạn  chế bất cập rằng NLĐ đã có quá trình đóng BHXH dài nhưng lại không được  hưởng chế độ thai sản. 

Đối với nhóm đối tượng có thời gian thụ hưởng ngắn, không thường  xuyên như lao động nữ đặt vòng tránh thai, lao động nam đóng BHXH có vợ sinh con,.. pháp luật không quy định điều kiện thời gian đóng BHXH. 

Pháp luật Việt Nam quy định về điều kiện hưởng chế độ thai sản hoàn  toàn phù hợp với các quy định của ILO, thể hiện sự tiến bộ cũng như quan tâm  của nhà nước, chính phủ đối với lực lượng lao động nữ. 

3. Quy định về các chế độ thai sản 

Các chế độ của bảo hiểm thai sản bao gồm thời gian nghỉ hưởng chế độ và  mức hưởng trợ cấp. Tùy vào môi chế độ mà pháp luật quy định riêng về khoảng  thời gian và mức trợ cấp khác nhau:

3.1 Chế độ khám thai 

Điều 32 Luật BHXH quy định Trong thời gian mang thai, lao động nữ được nghỉ việc để đi khám thai 05 lần, mỗi lần 01 ngày; trường hợp ở xa cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc người mang thai có bệnh lý hoặc thai không bình  thường thì được nghỉ 02 ngày cho mỗi lần khám thai”. Quy định này đã xảy ra  một số bất cập trong thực tế. Đó là đối với những cơ sở y tế nơi đăng ký bảo hiểm  thường xảy ra tình trạng quá tải, dẫn đến NLĐ phải khám ở những nơi khác có  thể mất nhiều thời gian hơn luật quy định, chấp nhận mức dịch vụ cao hơn trong  khi số tiền trợ cấp lại có giới hạn, hạn chế này đối lập với chủ trương và mục  đích mà bảo hiểm y tế nhắm đến cho NLĐ. 

Mức hưởng một ngày trong chế độ này được tính bằng 100% mức bình  quân tiền lương đóng BHXH 06 tháng liền kề trước khi nghỉ việc được chia cho  24 ngày là hợp lý khi thời gian nghỉ lễ, nghỉ tết, nghỉ hàng tuần (Luật BHXH  2006 chia cho 26 ngày). 

3.2 Chế độ sẩy thai, nạo. hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý

Chế độ thai sản này đã tạo điều kiện cho những người mẹ vượt qua sự khó  

khăn về thể chất và tinh thần, ảnh hưởng tới sức khỏe, cần có thời gian phục hồi  lại. Pháp luật đã dựa trên yếu tố mặt sinh học để quy định thời gian nghỉ tương  ứng: tuổi thai càng lớn thì ảnh hưởng đến sức khỏe NLĐ càng lớn, cần thời gian  phục hồi lâu hơn. Có thể thấy các nhà làm luật rất sáng suốt và có sự tính toán kỹ lưỡng, đảm bảo quyền lợi cho NLĐ. Mức hưởng của chế độ 01 ngày được tính  bằng 100% mức bình quân tiền lương đóng BHXH 06 tháng liền kề trước khi  nghỉ việc chia cho 30 ngày với thời gian nghỉ tính cả ngày nghỉ lễ, Tết, ngày  nghỉ hàng tuần. 

So sánh với Luật BHXH 2006, thì Luật BHXH 2014 đã bổ sung thêm  trường hợp hưởng chế độ thai sản đối với lao động nữ phải phá thai bệnh lý và quy định mức thời gian tối đa mà NLĐ được nghỉ. Sự thay đổi này đã thể hiện  tầm nhìn bao quát và phù hợp hơn với thực tế của nhà làm luật. 

3.3 Chế độ sinh con 

Theo quy định tại Điều 34 Luật BHXH 2014, nhìn chung pháp luật đã có  sự thống nhất thời gian nghỉ sinh con đối với tất cả các trường hợp, phù hợp với  thông lệ quốc tế đồng thời đạt được mục đích bảo vệ sức khỏe cho mẹ và bé sơ  sinh. Mặc dù quy định thời gian nghỉ việc hưởng trợ cấp thai sản khi lao động nữ 

sinh con là 06 tháng nhưng pháp luật hiện hành cho phép NLĐ có thể đi làm  trước khi hết thời hạn nghỉ sinh và đảm bảo các quyền lợi chính đáng cho họ.  Mức hưởng một tháng đối với lao động nữ nghỉ sinh con được tính bằng  100% mức bình quân tiền lương đóng BHXH 06 tháng liền kề trước khi nghỉ việc. Hơn nữa, họ còn được hưởng trợ cấp 1 lần cho mỗi con bằng 02 lần mức  lương cơ sở và dựa trên số con sinh ra. 

Bên cạnh thời gian nghỉ sinh con, Luật BHXH 2014 cũng quy định trường  hợp người mẹ được nghỉ làm sau khi sinh con mà đứa trẻ bị chết tại Khoản 3  Luật này. Khoản 4,5,6 Điều 34 luật BHXH 2014 và Khoản 2 Thông tư  59/2015/TT-BLĐTBXH đã có những quy định chi tiết cho từng tình huống cụ 

thể dự liệu trường hợp mẹ chết sau khi sinh con. Các quy định này đã thể hiện  góc nhìn tiến bộ của nhà làm luật và nhất là thể hiện sự chia sẻ của xã hội với  NLĐ 

Pháp luật hiện hành đã bổ sung thêm quy định trong thời gian vợ sinh con  thì người cha cũng được nghỉ với một thời gian nhất định để có phần trách nhiệm  là một điểm rất tiến bộ. Đó là sự sẻ chia và cũng thể hiện vấn đề bình đẳng giới  trong lĩnh vực này. Luật BHXH 2014 lần đầu tiên đã quy định cho phép lao động  nam nghỉ hưởng chế độ thai sản. Quy định này sẽ giúp những người chồng thấu  hiểu sự vất vả của người vợ khi sinh con, qua đó gắn kết tình cảm gia đình.

3.4 Chế độ đối với NLĐ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ

Đây là một chế độ hoàn toàn mới so với Luật trước đó bởi Luật Hôn nhân  

và gia đình 2014 đã ghi nhận và cho phép hình thức mang thai hộ vì mục đích  nhân đạo. Đối với lao động nữ mang thai hộ, chế độ thai sản được áp dụng như  lao động nữ đang đóng BHXH bắt buộc, nếu đáp ứng các điều kiện về thời gian  tham gia BHXH thì được hưởng trợ cấp. Đối với lao động nữ nhờ mang thai hộ 

hưởng chế độ thai sản từ thời điểm nhận con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi. Như vậy, pháp luật quy định về chế định mới này đã tôn trọng và đảm bảo  quyền lợi của NLĐ tham gia vào mối quan hệ này. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa  có quy định giới hạn số lần mang thai hộ cũng như việc người cha nhờ mang thai  hộ thì được giải quyết chế độ ra sao. 

3.5 Chế độ nuôi con nuôi sơ sinh 

Điều 36 Luật BHXH quy định Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới  06 tháng tuổi thì được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 06  tháng tuổi”. Như vậy, pháp luật đã thay đổi giới hạn tháng tuổi của con nuôi sơ  sinh khi được nhận nuôi lên đủ 06 tháng thay vì đủ 04 tháng như trước đây. Việc  điều chỉnh lại quy định như vậy thể hiện sự bình đẳng đối với NLĐ đặc biệt là  nhóm người không thể sinh con. Trường hợp này NLĐ được hưởng trợ cấp thai  sản như đối với trường hợp sinh con, nếu cả cha và mẹ đều tham gia BHXH thì  chỉ một trong hai người được hưởng chế độ. 

3.6 Chế độ khi thực hiện các biện pháp tránh thai 

Quy định pháp luật tại Điều 37 Luật BHXH 2014 vẫn giữ nguyên chế độ khi NLĐ thực hiện các biện pháp tránh thai. Trước đây, khi NLĐ thực hiện các  biện pháp tránh thai thì chỉ được hưởng mức trợ cấp theo chế độ ốm đau (thấp  hơn chế độ thai sản) trong khi sử dụng các biện pháp này ảnh hưởng rất lớn đến  tâm lý và sức khỏe của NLĐ. Chính vì vậy, sự thay đổi quan điểm của các nhà  làm luật minh chứng thấy sự thấu hiểu, hỗ trợ và sự công bằng cho NLĐ.

3.7 Chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe 

Nhận thấy việc NLĐ sau thời gian hưởng chế độ thai sản còn nhiều trường  hợp chưa phục hồi sức khỏe như sinh đôi, sinh ba, phải phẫu thuật hoặc mắc các  bệnh lý nền cần phải có thêm thời gian. Điều 41 Luật BHXH 2014 quy định thời  gian nghỉ do người sử dụng lao động và Ban Chấp hành công đoàn cơ sở quyết  định, trường hợp đơn vị sử dụng lao động chưa thành lập công đoàn cơ sở thì do  người sử dụng lao động quyết định. Mức hưởng chế độ dưỡng sức, phục hồi sức  khỏe sau thai sản một ngày bằng 30% mức lương cơ sở. Tuy nhiên hiện nay vẫn  chưa có quy định trường hợp nghỉ dưỡng sức tại nhà hay tại cơ sở tập trung.  Việc định hướng quy định này nhằm hệ thống hóa các hình thức nghỉ dưỡng sức  cũng như tránh việc NLĐ gian dối trong quá trình chữa trị. 

4. Thủ tục thực hiện chế độ thai sản 

NLĐ phải thực hiện đầy đủ hồ sơ theo quy định tại Điều 101 Luật BHXH  2014, được hướng dẫn cụ thể trong quyết định số 636/2016/QĐ-BHXH về việc  ban hành quy định về hồ sơ và quy trình giải quyết hưởng các chế độ BHXH. 

Nhìn chung, thủ tục để hưởng chế độ thai sản khá đầy đủ và chi tiết, cụ thể đối với từng trường hợp. Việc quy định như vậy nhằm tạo hành lang pháp lý  chặt chẽ cho NLĐ, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan bảo hiểm, các cơ quan  khác có thẩm quyền đều phải thực hiện đúng chức trách trong việc cung cấp hồ sơ và chi trả chế độ. 

III. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ THAI SẢN 

1. Thực trạng thực hiện pháp luật về chế độ ốm đau 

Chế độ thai sản thuộc hệ thống các chế độ BHXH và là một trong những  chế độ được hình thành và phát triển sớm nhất ở nước ta. Từ khi được triển khai  thực hiện chế độ thai sản trên thực tế đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng góp  phần hỗ trợ cho rất nhiều phụ nữ tham gia lao động, hưởng trợ cấp thai sản. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc đặc biệt trong tình hình dịch bệnh  Covid-19 như hiện nay: 

Ưu điểm: 

Theo số liệu thống kê hoạt động của Bảo hiểm xã hội Việt Nam: Trong 4  tháng đầu năm 2021, BHXH Việt Nam đã giải quyết hưởng mới chế độ ốm đau,  thai sản cho gần 3 triệu người. Công tác quản lý chi trả BHXH (ốm đau, thai  sản…) và quản lý người hưởng các chế độ BHXH trong thời gian qua luôn được  ngành BHXH Việt Nam đặc biệt quan tâm. Nhiều biện pháp quản lý được tăng  cường như ứng dụng công nghệ thông tin; phối hợp đồng bộ, hiệu quả của cấp  ủy, chính quyền các cấp, các ngành đã tổ chức thực hiện tốt công tác chi trả các  chế độ BHXH kịp thời, đến đúng người thụ hưởng chế độ; góp phần củng cố niềm tin của người thụ hưởng đối với các chính sách an sinh xã hội của Đảng,  Nhà nước. 

Thủ tục chế độ thai sản được đơn giản hóa, thực hiện đúng quy định của  pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người tham gia và thụ hưởng. Nghị  quyết số 125/NQ-CP ngày 29/11/2017 quy định đơn giản hóa thủ tục “Giải quyết  hưởng chế độ thai sản”: Cụ thể, bỏ thành phần hồ sơ theo quy định tại điểm a,  điểm b khoản 1 Điều 101 Luật BHXH năm 2014. 

Về chi trả trợ cấp thai sản: nhìn chung số lượt trợ cấp thai sản có chiều  hướng tăng qua các năm. Nghị định 38/2019/NĐ-CP với mức lương cơ sở được  điều chỉnh lên 1.490.000 đồng/ tháng nên tiền trợ cấp thai sản cũng tăng theo.  Điều này phù hợp với thực tiễn, giúp ổn định cuộc sống của đối tượng tham gia  trong lúc thu nhập bất ổn. 

Hạn chế: 

Bên cạnh những thành tựu đạt được, trong thời gian gần đây, qua công tác  quản lý, giám sát, kiểm tra, thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo đã phát hiện có tình trạng các cơ sở khám chữa bệnh thực hiện cấp chứng từ hưởng BHXH  không đúng quy định cho NLĐ để thanh toán chế độ BHXH, có trường hợp trục  lợi chính sách, vi phạm các quy định của pháp luật về chính sách an sinh xã hội. Biểu hiện: Cấp giấy chứng sinh, giấy khai sinh không đúng thời gian thực tế sự việc phát sinh; số lượng GCN được cấp lớn trong thời gian ngắn; số ngày được  nghỉ trên 1 GCN nhiều bất thường; cấp GCN không đúng tình trạng mang  thai…; số GCN do một bác sĩ cấp/một ngày rất lớn, vượt xa số lượt khám tối đa  cho phép đối với một bàn khám (một bác sĩ) và một số biểu hiện bất thường  khác. Sau đó, NLĐ nộp hồ sơ cho người sử dụng lao động đề nghị cơ quan  BHXH thanh toán chế độ thai sản. Ngày 1/6, BHXH Việt Nam đã ban hành  Công văn số 1511/BHXH-CSXH gửi BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc  Trung ương về việc chấn chỉnh công tác quản lý, xét duyệt hưởng chế độ ốm  đau, thai sản 1 

Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 gây ra cho cả thế giới chao đảo, ngày  17/3/2020, BHXH Việt Nam bàn hành Công văn 860/BHXH-BT hướng dẫn tạm  dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất đối với đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch.  Những đối tượng này vẫn sẽ phải đóng đầy đủ, kịp thời vào quỹ ốm đau, thai  sản, quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, Quỹ BHYT và BHTN. Vì vậy,  quyền lợi của NLĐ về chế độ thai sản vẫn được đảm bảo. Tuy nhiên một số  trường hợp NLĐ nghỉ việc trong khoảng thời gian bùng phát covid-19 nếu thỏa  thuận nghỉ không lương, NLĐ không đóng BHXH có thể ảnh hưởng đến điều  kiện hưởng chế độ thai sản. Như vậy, BHXH Việt Nam càng cần phải quyết liệt  trong công tác hoạt động, bổ sung các quy định ngắn hạn để đảm bảo quyền lợi  chính đáng cho NLĐ. 

2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chế độ thai sản 

Thứ nhất, cần mở rộng phạm vi các đối tượng áp dụng chế độ bảo hiểm  thai sản nhằm hướng tới việc bảo vệ tối đa quyền và lợi ích của người lao động  trong xã hội. Nhà nước cần mở rộng chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện. Theo  đó, trước hết cần mở rộng thêm chế độ thai sản trong hình thức bảo hiểm xã hội  tự nguyện và nhiều mức phí đóng bảo hiểm khác nhau để đảm bảo cho những lao  động nữ làm việc ở khu vực phi chính thức, với mức thu nhập khác nhau có thể tham gia và hưởng các quyền lợi theo quy định của pháp luật. 

Thứ hai, cần xem xét việc tăng thời gian hưởng chế độ khi khám thai hoặc  tăng mức hưởng trợ cấp cho NLĐ khi khám thai. Theo quy định hiện hành, thời  gian khám thai là không đủ so với thực tế thời gian mà người lao động phải bỏ ra. Việc kéo dài thời gian nghỉ khám thai sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho  NLĐ. 

Thứ ba, nghiên cứu và bổ sung thêm các quy định đối với trường hợp  mang thai hộ. Đây là chế độ còn rất mới và khá sơ sài, đang trong quá trình hoàn  thiện quy định pháp luật. Cần quy định thêm về việc giới hạn số lần mang thai  hộ đối với người mẹ mang thai hộ; giới hạn số con sinh ra từ người mẹ mang thai  hộ; trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo nhưng vi phạm chính sách  dân số (như lựa chọn giới tính cho thai nhi). 

Trên đây là những phân tích và đánh giá quy định pháp luật về chế độ thai  sản, có thể thấy một cái nhìn toàn diện về chế độ này đã mang nhiều điểm tiến  bộ, song vẫn cần phải bổ sung, hoàn thiện pháp luật để bảo đảm quyền lợi cho  đối tượng tham gia. Đây là yêu cầu đặt ra đối với các nhà lập pháp để đảm bảo tính khả thi, minh bạch của pháp luật!

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 

1. Văn bản hợp nhất Luật Bảo hiểm xã hội 2014; 

2. Luật Bảo hiểm xã hội 2006; 

3. Nghị định 115/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo  hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc; 

4. Nghị định 38/2019/NĐ-CP quy định mức lương cơ sở đối với cán bộ,  công chức, viên chức và lực lượng vũ trang; 

5. Thông tư 59/2015/TT-BLĐTBXH quy định chi tiết và hướng dẫn thi  hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt  buộc; 

6. Nghị quyết số 125/NQ-CP ngày 29/11/2017 về việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư thuộc  phạm vi chức năng quản lý của BHXH Việt Nam; 

7. Quyết định 636/QĐ-BHXH về việc ban hành quy định về hồ sơ và quy  trình giải quyết hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội; 

8. Công văn 1511/BHXH-CSXH về việc chấn chỉnh công tác quản lý, xét  duyệt hưởng chế độ ốm đau, thai sản của BHXH Việt Nam ngày  01/6/2021; 

9. Hoàng Thúy Hà (2017). “Pháp luật về bảo hiểm thai sản và thực tiễn  thực hiện tại quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ  Luật học – Trường Đại học Luật Hà Nội; 

10. Mai Nguyễn Ngọc Huyền (2020), “Pháp luật về bảo hiểm thai sản và  thực tiễn áp dụng tại tỉnh Sơn La”, Luận văn thạc sĩ Luật học – Trường  Đại học Luật Hà Nội;

11. Nguyễn Hồng Sóng (2020), “Pháp luật về bảo hiểm thai sản và thực  tiễn áp dụng tại huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên”, Luận văn thạc  sĩ Luật học – Trường Đại học Luật Hà Nội;

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Phân tích các điều kiện để các loại bất động sản được phép đưa vào kinh doanh trong thị trường bất động sản.

Các loại bất động sản được đưa vào kinh doanh được quy định cụ thể tại Điều 5 Luật Kinh doanh bất động sản 2014, cụ thể bao gồm: 

– Nhà, công trình xây dựng có sẵn của các tổ chức, cá nhân; 

– Nhà, công trình xây dựng hình thành trong tương lai của các tổ chức, cá nhân; – Nhà, công trình xây dựng là tài sản công được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép đưa vào kinh doanh; 

– Các loại đất được phép chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai thì được phép kinh doanh quyền sử dụng đất. 

Từ các căn cứ trên ta có thể tóm gọn lại thành 2 nhóm bất động sản được đưa vào kinh doanh gồm: 

(i) Bất động sản có sẵn: bao gồm Nhà công trình xây dựng, các loại đất được phép kinh doanh quyền sử dụng đất theo quy định của luật đất đai; 

(ii) Bất động sản hình thành trong tương lai: Nhà công trình xây dựng trong quá trình xây dựng và chưa được nghiệm thu đưa vào sử dụng. 

Công trình xây dựng hình thành trong tương lai cũng có nhiều loại: công trình xây dựng trong các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế và các công trình kinh doanh thương mại, dịch vụ, du lịch; nhà đất xây dựng các cơ sở sản xuất phi nông nghiệp nằm ngoài khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, các doanh nghiệp; đất nghĩa trang, nghĩa địa… Các chủ đầu tư thực hiện đầu tư xây mới hoặc cải tạo sửa chữa nhà,công trình xây dựng trên đất và thực hiện các giao dịch kinh doanh bất động sản hình thành trong tương lai theo quy định của pháp luật để thu lợi nhuận. 

1. Đối với kinh doanh bất động sản có sẵn:

Quy định về điều kiện bất động sản được đưa vào kinh doanh đã cung cấp cho các bên giao dịch trong hợp đồng mua bán, cho thuê, cho thuê mua nhà, công trình xây dựng có sẵn; hợp đồng mua bán, thuê mua bất động sản hình thành trong tương lai; hợp đồng chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất những thông tin liên quan đến bất động sản, giúp các bên xác định được quyền và nghĩa vụ của mình. 

Căn cứ theo quy định tại Điều 9 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014, bất động sản có sẵn được đưa vào kinh doanh phải đáp ứng điều kiện sau: (1) Đối với bất động sản là nhà, công trình xây dựng, các loại đất được phép kinh doanh quyền sử dụng đất thì phải đáp ứng điều kiện: 

(i) Có đăng ký quyền sở hữu nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất trong giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất. Đối với nhà, công trình xây dựng có sẵn trong dự án đầu tư kinh doanh bất động sản thì chỉ cần có giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai; 

(ii) Không có tranh chấp về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà, công trình gắn liền với đất; 

(iii) Không bị kê biên để bảo đảm thi hành; 

Quyền sử dụng đất, nhà, công trình xây dựng là những tài sản có giá trị lớn. Việc Quy Định các điều kiện để bất động sản được đưa vào kinh doanh đã công khai hóa các quyền liên quan đến bất động sản, trên cơ sở đó phục vụ cho việc phát triển thị trường bất động sản một cách minh bạch. 

Bên cạnh đó, quy định việc mua bán nhà, công trình xây dựng phải gắn với quyền sử dụng đất như hiện nay làm cho việc quản lý bất động sản không tách rời giữa nhà và đất bởi lẽ việc tách rời giữa nhà và đất và giao cho hai cơ quan khác nhau quản lý: BộTaifnguyên môi trường quản lý đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) và Bộ Xây dựng quản lý nhà, công trình xây dựng, cấp giấy chứng nhận quyền quảnlisnhà,công trình xây dựng (sổ hồng) như trước đây dẫn đến một tình trạng là khi thực hiện các giao dịch dân sự về nhà đất, đặc biệt là thế chấp nhà mà không thế chấp đất hoặc thế chấp đất mà không thế chấp nhà trong hợp đồng vay do đó khi bên vay không trả được tiền khi đến hạn thì bên cho vay không thể xử lý tài sản thế chấp. 

Các quy định về điều kiện bất động sản đưa vào kinh doanh sẽ buộc cá nhân, tổ chức tham gia thị trường bất động sản phải tuân theo do đó làm cho thị trường bất động sản trở nên lành mạnh, các giao dịch về bất động sản được kiểm soát và chấm dứt các giao dịch bất động sản trái phép, không có giấy tờ hợp pháp. 

(2) Đối với các loại đất được phép kinh doanh quyền sử dụng đất thì điều kiện gồm:(ai) Có giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai; 

(ii) Không có tranh chấp về quyền sử dụng đất;

(iii) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án; (iv) Trong thời hạn sử dụng đất. 

Không giống như các tài sản khác, đất đai là một loại tài sản đặc biệt thuộc sở hữu của toàn dân do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu. Theo đó, Nhà nước phải đề ra các biện pháp để quản lý, khai thác nguồn tài nguyên này một cách có hiệu quả thông quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (quy hoạch tổng thể sử dụng đất 10 năm, kế hoạch sử dụng đất 5 năm và kế hoạch sử dụng đất hàng năm). 

Các quy định về điều kiện bất động sản được đưa vào kinh doanh sẽ tạo điều kiện cơ quan nhà nước có thẩm quyền nắm được tình hình sử dụng đất từ đó đề ra các chính sách, các biện pháp để sử dụng đất một cách có hiệu quả. Bên cạnh đó, thông các quy định này, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tiến hành thống kê, quy hoạch đô thị…nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, xây dựng mới các công trình phục vụ quốc kế, dân sinh. 

2. Đối với kinh doanh bất động sản hình thành trong tương lai: 

Căn cứ theo quy định tại Điều 55 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014, điều kiện của bất động sản hình thành trong tương lai được đưa vào kinh doanh gồm: (i) Có giấy tờ về quyền sử dụng đất, hồ sơ dự án, thiết kế bản vẽ thi công đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, Giấy phép xây dựng đối với trường hợp phải có Giấy phép xây dựng, giấy tờ về nghiệm thu việc hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật tương ứng theo tiến độ dự án; trường hợp là nhà chung cư, tòa nhà hỗn hợp có mục đích hình thành trong tương lai thì phải có biên bản nghiệm thu đã hoàn thành xong phần móng của tòa nhà đó; 

(ii) Trước khi bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai, chủ đầu tư phải có văn bản thông báo cho cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh về việc nhà ở đủ điều kiện được bán, cho thuê mua. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo, cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh có trách nhiệm trả lời bằng văn bản cho chủ đầu tư về nhà đủ điều kiện được bán, cho thuê mua; trường hợp không đủ điều kiện phải nêu rõ lý do. 

Theo quy định trên, một trong những bất động sản hình thành trong tương lai được đưa vào kinh doanh là phải có giấy tờ về đất. Các giấy tờ về quyền sử dụng đất đó được quy định cụ thể tại Luật Đất đai năm 2013. Khắc phục tình trạng thời gian nhiều chủ đầu tư huy động vốn trái phép, chiếm dụng vốn của khách hàng, Luật Kinh Doanh bất động sản năm 2014 và Luật Nhà ở năm 2014 đã có những quy định chặt chẽ về vấn đề huy động vốn và bán sản phẩm của chủ đầu tư trong dự án.

Theo đó, đối với nhà thương mại, chủ đầu tư huy động vốn từ tiền mua, tiền thuê mua, tiền thuê nhà ở trả trước theo “hợp đồng mua bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai”. Việc Ký hợp đồng huy động vốn cho phát triển nhà ở thương mại phải tuân thủ quy định là bên tham gia góp vốn, hợp tác đầu tư, hợp tác kinh doanh, liên doanh, liên kết quy định chỉ được phân chia lợi nhuận trên cơ sở tỷ lệ vốn góp theo thỏa thuận trong hợp đồng;chủ đầu tư không được áp dụng hình thức huy động vốn theo quy định này hoặc các hình thức huy động vốn khác để phân chia sản phẩm nhà ở hoặc để ưu tiên đăng ký, đặt cọc,hưởng quyền mua nhà ở hoặc để phân chia quyền sử dụng đất trong dự án cho bên được huy động vốn, trừ trường hợp góp vốn thành lập pháp nhân mới để được Nhà nước giao làm chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở.

Điều 68 Luật Nhà ở năm 2014 cũng đã quy định,các trường hợp huy động vốn không đúng hình thức và không đáp ứng các điều kiện đối với từng loại nhà ở theo quy định của pháp luật về nhà ở, thì không có giá trị pháp lý.

Do Vậy, khi ký hợp đồng giao dịch kinh doanh bất động sản, các chủ đầu tư và khách hàng vừa phải tuân thủ pháp luật dân sự, vừa phải tuân thủ pháp luật về nhà ở. Hợp Đồng Phải Đúng về hình thức thi mới không bị tuyên bố là giao dịch vô hiệu. Về điều kiện để bất động sản hình thành trong tương lai được bán cũng đang là một vấn đề đáng quan tâm, pháp luật quy định phải có bảo lãnh của ngân hàng, có rất nhiều dự án triển khai mua bán bất động sản hình thành trong tương lai nhưng không có sự bảo lãnh chính thức từ phía ngân hàng. Nguyên nhân, một số chủ đầu tư cho rằng là vướng mắc trong khâu thẩm định năng lực tài chính và tài sản thế chấp của doanh nghiệp.

Về tài sản thế chấp, doanh nghiệp đã thế chấp chính dự án đang triển khai để vay vốn trước đó rồi, vì vậy phải huy động các tài sản khác để thế chấp nên rất khó khăn. Một lý do khác nữa là bởi việc bảo lãnh cho dự án nhà ở, công trình xây dựng hình thành trong tương lai tồn đọng rất nhiều rủi ro, ngân hàng phải chịu trách nhiệm lớn đối với khách hàng trong khi chỉ nhận lại mức phí dịch vụ bảo lãnh khiêm tốn dẫn đến các ngân hàng ngoại, né tránh việc chấp nhận bảo lãnh cho các dự án nhà ở, công trình xây dựng hình thành trong tương lai.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Tư vấn về các loại thuế liên quan đến hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh và chế độ miễn giảm thuế theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Vụ việc: 

Công ty Chihan là công ty được thành lập tại Singapore với các ngành nghề chính là sản xuất và kinh doanh các loại máy móc, thiết bị dùng trong văn phòng như: Máy in văn phòng, mực in, máy fax, máy scan, máy điện thoại và các loại máy móc tương tự khác. Hiện công ty Chihan muốn tiến hành đầu tư sản xuất, ,kinh doanh tại Việt Nam. Yêu cầu tư vấn của công ty Chi là tư vấn về các loại thuế liên quan đến hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh và chế độ miễn giảm thuế mà công ty có thể được hưởng theo quy định của pháp luật Việt Nam. 

THƯ TƯ VẤN 

(V/v: Tư vấn về các loại thuế liên quan đến hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh và chế độ miễn giảm thuế theo quy định của pháp luật Việt Nam.)

Kính gửi: Công ty Chihan, 

Chúng tôi nhận được email đề nghị tư vấn của quý công ty vào ngày 30/10/2021, xin cảm ơn quý công ty đã tin tưởng và lựa chọn dịch vụ của công ty Nail chúng tôi. Công ty Luật Mail xin gửi tới quý công ty lời chúc sức khỏe và lời chào trân trọng! 

Căn cứ những thông tin mà quý công ty đã gửi ở email, chúng tôi xin gửi đến quý công ty thư tư vấn pháp lý với nội dung như sau:

1. Tóm tắt yêu cầu tư vấn: 

Trước khi đưa ra ý kiến tư vấn, chúng tôi cần chắc chắn những thông tin về công ty cung cấp là chính xác. Nếu có bất kỳ sự nhầm lẫn này hoặc muốn sửa chữa các thông tin, hãy vui lòng cho chúng tôi biết. 

Công ty Chihan là công ty được thành lập tại Singapore với các ngành nghề chính là sản xuất và kinh doanh các loại máy móc, thiết bị dùng trong văn phòng như: Máy in văn phòng, mực in, máy fax, máy scan, máy điện thoại và các loại máy móc tương tự khác. Hiện công ty Chihan muốn tiến hành đầu tư sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam. 

Ngày 30/10/2021, công ty Chihan gửi email đề nghị tư vấn tới công ty Luật Mail với Yêu cầu tư vấn là: Tư vấn về các loại thuế liên quan đến hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh và chế độ miễn giảm thuế mà công ty có thể được hưởng theo quy định của pháp luật Việt Nam. 

2. Cơ sở pháp lý: 

Để có thể cung cấp ý kiến pháp lý này cho công ty Chihan, chúng tôi đã kiểm tra các luật, nghị định và các quy định hiện hành liên quan đến vấn đề công ty Shinhan cần tư vấn, cụ thể là: 

– Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu số 107/2016/QH13 ngày 06 tháng 4 năm 2016, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 9 năm 2016 (“Luật thuế xuất khẩu,nhập khẩu 2016”) 

– Luật thuế giá trị gia tăng số 13/2008/QH12 ngày 03 tháng 6 năm 2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 1 năm 2009, được sửa đổi bổ sung bởi Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng số 31/2013/QH13 và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế số 106/2016/QH13. 

– Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 ngày 03 tháng 6 năm 2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 1 năm 2009, được sửa đổi, bổ sung mới Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp số 32/2013/QH13.(“Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2008”) – Nghị định 134/2016/NĐ-CP về Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu – Nghị định số 209/2013/NĐ-CP về Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật thuế giá trị gia tăng.

– Nghị định số 218/2013/NĐ-CP về Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 

3. Ý kiến tư vấn: 

Dựa trên yêu cầu của Quý khách hàng cùng với các văn bản pháp luật liên quan được tra cứu, chúng tôi xin đưa ra ý kiến tư vấn như sau: Khi tiến hành sản xuất kinh doanh tại Việt Nam, công ty Chian sẽ phát sinh nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước Việt Nam. Cụ thể là: Thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế Xuất khẩu, nhập khẩu, thuế Giá trị gia tăng (GTGT), đây đều là những loại thuế có thể liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty Chihan. Trong thư tư vấn này chúng tôi tập trung đưa ra kiến pháp lý của mình về ba loại thuế chính vừa nêu trên.

3.1. Thuế thu nhập doanh nghiệp: (CIT)

– Đối tượng nộp thuế: Được quy định trong Điều 2 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2008, theo đó, công ty Chian là doanh nghiệp thuộc đối tượng nộp thuế TNDN. 

– Căn cứ tính thuế: Thuế TNDN = Thu nhập tính thuế x Thuế suất Trong đó: 

+ Thu nhập tính thuế: Được quy định tại Điều 3 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2008, bao gồm: thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa,dịch vụ và thu nhập khác. 

+ Thuế suất: Được quy định tại Điều 10 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2008. 

Mức thuế suất thông thường áp dụng từ ngày 1/1/2016 là 20%2 Doanh nghiệp có tổng doanh thu năm không quá 20 tỷ đồng áp dụng thuế suất 20%.

Ngoài ra, công ty Chihan còn có thể được miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong một số trường hợp khác theo quy định của Luật như: Sử Dụng Nhiều lao động nữ, … 

3.2. Thuế xuất khẩu – nhập khẩu: 

– Đối tượng chịu thuế: Công ty Chihan sẽ phải nộp thuế khi hàng hóa của công ty thuộc các trường hợp quy định tại Khoản 1,2,3 Điều 2 Luật Thuế Xuất khẩu, Thuế nhập khẩu 2016. 

– Đối tượng không chịu thuế 

– Thuế suất: 

+ Thuế suất đối với hàng hóa xuất khẩu được quy định cụ thể cho từng mặt hàng tại Biểu thuế xuất khẩu.

+ Thuế suất đối với hàng hóa nhập khẩu được quy định cụ thể cho từng mặt hàng, gồm thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt và thuế suất thông thường.

Lưu ý: Hiện nay, cả Singapore và Việt Nam đều là thành viên của Hiệp Định Thương mại hàng hóa ASEAN ( ATIGA) nên hầu hết dòng thuế có mức thuế suất 0% chúng tôi xin đưa ra một bảng phân loại thuế quan và mức thuế suất nhập khẩu dựa trên mô tả các loại hàng hóa của Công ty Chihan sản xuất kinh doanh. 

Loại hànghóa Mô tả hànghóa Mãsố Thuế Suất(%)
Máyin Máy in các bộ như khuôn chữ), trụcsử dụng phận in in(bát  lăn và
các bộ khác của 84.42; máy khác; máy và máy hoặc không hợp với nhau; bộ phậnkiện của chúngphận in nhómTùy loại từ in8443 đến copy fax, có kết  và các phụ 0 mục   8469     
Mựcin Hộp mực mực84439920 in đã có in 0
Máyfax Máyfax 844332400
Máyscan Máyquangquét ảnh liệuđọc ký tự học, máy84719020 hoặc tài    0

Biểu thuế nhập khẩu tổng hợp các sản phẩm của Chitin từ Singapore về Việt Nam. Nguồn: Hải quan Việt Nam, 

https://tongcuc.customs.gov.vn/index.jsp?pageId=24&id=NHAP_KHAU&name=Nh%E1%BA%ADp%20kh%E1%BA%A9u&cid=1201 – Miễn thuế: Các trường hợp được miễn thuế được quy định tại Điều16LuậtXuất khẩu, Luật nhập khẩu 2016 

3.3. Thuế Giá trị gia tăng (VAT): 

Trong quá trình công ty Chihan tiến hành sản xuất, kinh doanh hàng hóa thì thuế VAT sẽ đánh vào phần giá trị tăng thêm của hàng hóa trong quá trình sản xuất và lưu thông đến tiêu dùng. Đây là loại thuế có điểm ưu việt hơn với thuế doanh thu.

-Đối tượng chịu thuế VAT là hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam(bao gồm hàng hóa, dịch vụ mua của tổ chức,cá nhân ở nước ngoài) 

Khi cung cấp các hàng hóa và dịch vụ chịu thuế VAT thì doanh nghiệp phải trả VAT dựa trên giá trị hàng hóa và dịch vụ cung cấp. Ngoài ra, VATap dụng cho giá trị thuế được trả của hàng nhập khẩu. Nhà nhập khẩu phải trả VAT cho Hải quan đồng thời phải trả thuế nhập khẩu. -Thuế suất: Gồm 3 mức hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu. VAT được tính bằng cách cộng giá tính thuế(giá thực)với thuế suất VAT được áp dụng. Với mặt hàng nhập khẩu, VAY được tính bằng cách cộng giá nhập khẩu với thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu áp dụng). 

Như vậy, công ty Chihan sẽ được áp dụng mức thuế suất 0%khi xuất khẩu của Việt Nam ra nước ngoài. Các sản phẩm của Chichan kinh doanh tại Việt Nam Sẽ chịu mức thuế suất 10%. Khi xuất khẩu hàng hóa, công ty Shinhan Có Thể Được hoàn thuế bằng phương pháp khấu trừ theo quy định của Luật Thuế Giá Trị gia tăng 2008, đây là một ưu đãi cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa. Lưu ý: Hệ thống thuế giá trị gia tăng của Việt Nam Được chia làm 2 loại đối tượng nộp thuế: đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ và đối tượng nộp thuế theo phương pháp trực tiếp. Hầu hết các công ty và tổ chức kinh doanh là đối tượng nộp thuế theo phương thức khấu trừ. Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp phải trả thuế đầu ra sau khi khấu trừ thuế đầu vào. Doanh Nghiệp phải chuyển thu nhập VAY hàng tháng đến cơ quan thu thuế, sau đó cơ quan thu thuế sẽ kiểm tra khoản thu VAT và cấp bảng định giá thuế cho đối tượng nộp thuế. Tiền VAT thu được sẽ nộp vào ngân sách nhà nước vào tháng sau.

Trên đây là nội dung tư vấn sơ bộ của Công ty EMail liên quan đến yêu cầu tư vấn của Quý công ty để công ty xem xét và quyết định. Nếu quý công ty có bất kỳ thắc mắc hoặc cần thêm thông tin gì, xin vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi. 

Hân hạnh được hợp tác với Quý khách hàng! 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật Thuế giá trị gia tăng 2008 

2. Luật Thuế Xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2016. 

3. Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 4. Nghị định 134/2016/NĐ-CP 

5. Nghị định số 209/2013/NĐ-CP 

6. Nghị định số 218/2013/NĐ-CP

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bình luận về lợi nhuận và việc phân phối lợi nhuận trong hoạt động tài chính doanh nghiệp.

Với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế ngày nay, không thể phủ nhận được tầm quan trọng của lợi nhuận đối với 1 doanh nghiệp daquy nhỏ hay lớn. Lợi nhuận vừa là mục tiêu, vừa là động lực và là điều kiện tồn tại của doanh nghiệp.

A. Lý luận chung về lợi nhuận và việc phân phối lợi nhuận trong hoạt động tài chính doanh nghiệp: 

I. Lợi nhuận: 

1. Khái niệm: 

Lợi nhuận được hiểu đơn giản là phần thu nhập còn lại của doanh nghiệp sau khi bù đắp các khoản chi phí phát sinh trong kỳ của doanh nghiệp. Đây Là Phần chênh lệch giữa tổng thu nhập và chi phí

Công thức xác định lợi nhuận: Lợi nhuận = Tổng thu nhập – Tổng Chi phí Trong đó, tổng thu nhập là đối với các doanh nghiệp chủ yếu là doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ. Doanh thu bán hàng hóa và cung cấp dịch vụ là biểu hiện bằng tiền giá trị sản phẩm hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đã cung cấp cho thị trường trong một thời kỳ nhất định sau khi trừ đi các khoản giảm trừ khác như: giảm giá, chiết khấu thương mại,…thời điểm xác định doanh thu là khi người mua chấp nhận thanh toán. Chi phí là số tiền mà một doanh nghiệp bỏ ra để có được nguồn thu nhập kể trên.

Như vậy, có thể hiểu để tạo ra được lợi nhuận thì tổng doanh thu của doanh nghiệp thực hiện được trong 1 thời kỳ nhất định phải đủ bù đắp được các chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra và phát sinh lãi.

2. Phân loại: 

Hiện nay, các doanh nghiệp ngày càng được phát triển và đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh, do đó lợi nhuận thu về đến từ nhiều nguồn gốc khác nhau, bao gồm: 

2.1. Căn cứ vào hoạt động của doanh nghiệp: 
2.1.1. Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh:

Lợi nhuận đến từ hoạt động này là khoản chênh lệch giữa doanh thu của hoạt động sản xuất kinh doanh và chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh. Hoạt Động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là hoạt động đầu tư vốn nhằm tìm kiếm lợi nhuận theo những mục tiêu đã được xác định sẵn từ đầu. Lợi Nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh có thể kể đến như: Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh hàng hóa dịch vụ; lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp,…

2.1.2. Lợi nhuận từ hoạt động tài chính: 

Lợi nhuận thu được từ hoạt động này bao gồm: 

– Lợi nhuận từ góp vốn tham gia liên doanh: 

– Lợi nhuận cho vay vốn 

– Lợi nhuận do bán ngoại tệ 

– Lợi nhuận về cho thuê tài sản 

– Lợi nhuận từ các hoạt động đầu tư mua bán chứng khoán ngắn hạn và dài hạn 

– Lợi nhuận từ các hoạt động đầu tư khác 

2.1.3. Lợi nhuận là hoạt động khác:

Lợi nhuận từ hoạt động khác là khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí của các hoạt động khác và thuế phải nộp theo quy định (trừ thuế thu nhập doanh nghiệp). Đây là các lợi nhuận thu được từ các hoạt động riêng biệt khác với những hoạt động nêu trên. Những khoản lãi này hiếm khi xảy ra, doanh nghiệp không có dự kiến trước hoặc có kế hoạch nhưng ít có khả năng thực hiện được. 

Lợi nhuận khác thường là các khoản được nhận được từ: – Thu hồi nợ khó đòi đã xử lý, xóa sổ 

– Thu hồi nợ không xác định được chủ 

– Thu tiền phạt vi phạm hợp đồng 

– Doanh thu từ hoạt động kinh doanh của những năm trước bị bỏ sót hoặc quên ghi vào sổ kế toán năm nay mới phát hiện ra. 

2.2. Căn cứ vào quyền chiếm hữu:
2.2.1. Lợi nhuận trước thuế: 

Lợi nhuận trước thuế là số lợi nhuận mà doanh nghiệp thu về sau khi đã trừ đi phần tiền bỏ ra để kinh doanh. Nhưng chưa kể đến thuế phải nộp nhà nước và tiền lãi. 

Công thức tính lợi nhuận trước thuế: EBT= Tổng doanh thu–(Tổng Chi Phí cố định + Tổng chi phí phát sinh). 

Trong đó: 

– Tổng doanh thu: Toàn bộ doanh thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. 

– Chi phí cố định: Giá vốn bỏ ra, chi phí vận chuyển, chi phí sản xuất,chi phí thuê nhân viên, chi phí thuê địa điểm…

– Chi phí phát sinh: Các chi phí phát sinh theo quá trình hoạt động không theo kế hoạch trước đó. 

Công thức này được áp dụng cho hầu hết các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.

2.2.2. Lợi nhuận sau thuế: 

Lợi nhuận sau thuế chưa phân phối là lợi nhuận sau thuế khi chưa được sử dụng để tái đầu tư hay các hoạt động khác. Tức là khoản lợi nhuận vẫn được giữ nguyên, chưa được sử dụng vào bất cứ hoạt động thương mại nào của doanh nghiệp. 

Cuối 1 kỳ kế toán sẽ có các tài liệu thống kê như báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, quyết toán thuế, báo cáo tài chính…Trên cơ sở này, các doanh nghiệp có thể phân chia và sử dụng số tiền lợi nhuận một cách hợp lý.

Lợi nhuận sau thuế không chỉ dùng để tái đầu tư mà các doanh nghiệp thường trích lập các quỹ dự phòng hoặc trích khen thưởng, chia cổ tức, trích lập quỹ phúc lợi… Và nếu công ty nào không chia cổ tức, không trích để tiến hành hoạt động gì mà vẫn giữ nguyên số tiền lợi nhuận. Thì đây được là lợi nhuận sau thuế chưa phân phối. Và số tiền này sẽ được cộng dồn kỳ tiếp theo. 

Đa số doanh nghiệp sẽ tính LNST bằng công thức sau: LNST= Tổng doanh thu – ( 30% số tiền đầu tư cho sản xuất kinh doanh 10% thuế giá trị gia tăng + 20% thuế thu nhập doanh nghiệp) 

2.3. Căn cứ vào yêu cầu quản trị: 

Căn cứ vào yêu cầu quản trị thì lợi nhuận có thể chia là Lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT) và Lợi nhuận trước thuế (EBIT) Mối liên hệ của 2 loại lợi nhuận này thể hiện qua công thức: EBIT = EBT + I 

Trong đó: I là chi phí lãi vay trong kỳ. 

3. Các chỉ tiêu đánh giá tình hình lợi nhuận của doanh nghiệp:

Có 5 chỉ tiêu cơ bản để 1 doanh nghiệp có thể dựa vào để đánh giá tình hình lợi nhuận của chính công ty mình, đó là:

– Tổng mức lợi nhuận 

– Tỷ suất lợi nhuận trên tổng vốn kinh doanh – Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu 

– Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí 

– Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu 

II. Phân phối lợi nhuận trong hoạt động tài chính doanh nghiệp:

1. Nguyên tắc trong phân phối lợi nhuận: 

Phân phối lợi nhuận nhằm mục đích chủ yếu tái đầu tư mở rộng năng lực hoạt động sản xuất kinh doanh và phát triển vốn của doanh nghiệp, khuyến khích người lao động nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 

Về nguyên tắc, lợi nhuận được chia làm 2 phần: Phần đem chia là phần không chia. 

Sau khi thực hiện các hoạt động kinh doanh, công ty sẽ tạo ra lợi nhuận, ở giai đoạn này, nhà quản trị cần đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng việc phân phối các khoản lợi nhuận này. Để đảm bảo việc phân chia lợi nhuận một cách công bằng và hợp lý, các công ty cần tuân thủ các nguyên tắc sau:- Điều chỉnh hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa các chủ thể, bao gồm Nhà nước,công ty và cá nhân, trước hết cần thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước ( nộp thuế thu nhập) đầy đủ, kịp thời, nhằm tránh trốn thuế, trốn thuế. – Doanh nghiệp nên dành một phần lợi nhuận thỏa đáng để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh, đồng thời chú trọng bảo vệ lợi ích của các thành viên trong doanh nghiệp; cân bằng giữa lợi ích ngắn hạn và lợi ích dài hạn. 

2. Nội dung phân phối lợi nhuận: 

Doanh nghiệp thực hiện phân phối lợi nhuận theo quy định tại Điều 31 Nghị định 91/2015/NĐ-CP; Điều 2 Nghị định 32/2018/NĐ-CP; Khoản 4 Điều 4 Thông tư 36/2021/TT-BTC và quy định sau:

(1) Lợi nhuận của doanh nghiệp được xác định theo quy định của pháp luật về kế toán sau khi bù đắp lỗ năm trước theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp, trích Quỹ phát triển khoa học và công nghệ, nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật, phần lợi nhuận còn lại được 

phân phối theo quy định tại các khoản 1, 2, 3 Điều 31 Nghị định 91/2015/NĐ-CP Điều 2 Nghị định 32/2018/NĐ-CP. 

(2) Căn cứ để trích lập quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ thưởng người quản lý doanh nghiệp, kiểm soát viên xác định như sau: 

– Về xếp loại doanh nghiệp A, B, C làm căn cứ trích lập các quỹ thực hiện theo quy định của Chính phủ về giám sát đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp; giám sát tài chính đánh giá hiệu quả hoạt động và công khai thông tin tài chính của doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100%vốn điều lệ và doanh nghiệp có vốn nhà nước và Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính. 

– Về tiền lương tháng thực hiện làm căn cứ trích lập các quỹ: 

Đối với trích quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi: căn cứ quỹ tiền lương thực hiện trong năm tài chính của người lao động của doanh nghiệp đã được phê duyệt và được xác định theo quy định tại Nghị định 51/2016/NĐ-CP quy định quản lý lao động, tiền lương và tiền thưởng đối với người lao động làm việc trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và các văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế (nếu có) chia(:)cho 12 tháng. 

Trường hợp, doanh nghiệp thực hiện cơ chế tiền lương, tiền thưởng theo quy định đặc thù thì thực hiện theo quy định riêng của Chính phủ về đặc thù đó. 

Đối với trích quỹ thưởng người quản lý doanh nghiệp, kiểm soát viên: căn cứ quỹ tiền lương, thù lao thực hiện trong năm tài chính của người quản lý doanh nghiệp (chuyên trách và không chuyên trách) đã được chủ sở hữu phê duyệt và được xác định theo quy định của Nghị định 52/2016/NĐ-CP quy định tiền lương, thù lao, tiền thưởng đối với Người quản lý congtytrachnhiem hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100%vốn điều lệ và các văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế (nếu có), chia (:) cho 12 tháng. 

Trường hợp, doanh nghiệp thực hiện cơ chế tiền lương, tiền thưởng theo quy định đặc thù thì thực hiện theo quy định riêng của Chính phủ về đặc thù đó. 

3. Phân phối lợi nhuận ở từng hình thức doanh nghiệp:

3.1. Doanh nghiệp nhà nước: 

– Lợi nhuận thực hiện sau khi bù đắp lỗ năm trước và nộp thuế TNDN được phân phối như sau: 

+ Chia lãi cho các thành viên góp vốn liên doanh liên kết theo(nếu có)

+ Bù đắp khoản lỗ của các năm trước đã hết thời hạn được trừ vào lợi nhuận trước thuế; 

+ Trích 10% vào quỹ dự phòng tài chính; khi số dư bằng 25%vốn điều lệ thì không chích nữa; 

+ Trích lập các quỹ đặc biệt từ lợi nhuận sau thuế theo tỷ lệ đã được nhà nước quy định đối với công ty đặc thù mà pháp luật quy định phải trích lập;

+ Số còn lại sau khi lập các quỹ quy định tại các điểm nếu trên khoản này được phân phối theo tỷ lệ giữa vốn nhà nước đầu tư tại công ty và vốn công ty tự huy động bình quân trong năm. 

Vốn do công ty tự huy động do phát hành trái phiếu, tín phiếu, vay của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, công ty tự chịu trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi cho người cho vay theo cam kết, trừ các khoản vay có bảo lãnh của Chính phủ, Bộ Tài chính, các khoản vay được hỗ trợ lãi suất. 

– Phần lợi nhuận được chia theo vốn nhà nước đầu tư được dùng để tái đầu tư bổ sung vốn nhà nước tại công ty nhà nước. Trường hợp không cần thiết bổ sung vốn nhà nước tại công ty nhà nước, đại diện chủ sở hữu quyết định điều động về quỹ tập trung để đầu tư vào các công ty khác. Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập quỹ này. 

– Lợi nhuận được chia theo vốn tự huy động được phân phối như sau: + Trích tối thiểu 30% vào quỹ đầu tư phát triển của công ty; 

+ Trích tối đa 5% lập quỹ thưởng Ban quản lý điều hành công ty. Mức Trích một năm không vượt quá 500 triệu đồng (đối với công ty có Hội đồng quản trị), 200 triệu đồng (đối với công ty không có Hội đồng quản trị)với điều kiện tỷ suất lợi nhuận thực hiện trước thuế trên vốn nhà nước tại công ty phải bằng hoặc lớn hơn tỷ suất lợi nhuận kế hoạch

+ Số lợi nhuận còn lại được phân phối vào quỹ khen thưởng, phúc lợi của công ty. Mức trích vào mỗi quỹ do Hội đồng quản trị hoặc Giám Đốc Công ty quyết định sau khi tham khảo ý kiến của Ban Chấp hành Công đoàn công ty. 

3.2. Công ty TNHH một thành viên nhà nước sở hữu 100%vốn điều lệ:

Lợi nhuận thực hiện sau khi bù đắp lỗ năm trước và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp được phân phối như sau: 

+ Quỹ khen thưởng, phúc lợi trích tối đa mỗi quỹ bằng 10%lợi nhuận sau thuế sau khi trích lập quỹ dự phòng tài chính và quỹ đặc biệt nếu có; 

+ Quỹ thưởng ban quản lý điều hành trích tối đa 5%, mức cụ thể do chủ sở hữu quyết định; 

+ Quỹ đầu tư phát triển tối thiểu 65% lợi nhuận sau thuế sau khi trích lập quỹ dự phòng tài chính và quỹ đặc biệt nếu có. 

3.3. Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh:

Sau khi thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước và bù đắp các khoản chi phí đã chi ra trong kỳ, phan lợi nhuận sau thuế sẽ tiến hành phân phối theo điều lệ của công ty và đại hội cổ đông hàng năm, gồm:

+ Trích lập quỹ dự trữ bắt buộc là 5%, số dư quỹ này bằng 10%vốn điều lệ của công ty thì công ty không trích nữa. 

+ Trích lập các quỹ tích luỹ tái đầu tư. 

+ Chia cổ tức cho cổ đông, các thành viên góp vốn.

3.4. Công ty tư nhân: 

Sau khi thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước, doanh nghiệp sẽ tiến hành trừ các chi phí bất hợp lệ đã chi ra trong kỳ, số còn lại toàn quyền quyết định của chủ doanh nghiệp. 

B. Bình luận về lợi nhuận và việc phân phối lợi nhuận trong hoạt động tài chính doanh nghiệp: 

Thứ nhất, một doanh nghiệp có mức lợi nhuận trong kỳ cao thì chưa chắc doanh nghiệp đó sẽ luôn có khả năng thanh toán tốt trong kỳ đó vì khả năng thanh toán của một doanh nghiệp phụ thuộc vào dòng tiền mặt của doanh nghiệp. Nếu lợi nhuận nhiều dưới dạng tài sản cố định hoặc các dạng tài sản không thể chuyển hóa thành tiền mặt thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp đó sẽ không tốt. 

Thứ hai, một doanh nghiệp có lợi nhuận cao vẫn có thể bị phá sản. Khi Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là khi đó họ không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu. Một doanh nghiệp có mức lợi nhuận trong kỳ cao thì chưa chắc khả năng thanh toán trong kì đó sẽ tốt cho nên dù doanh nghiệp có lợi nhuận cao thì vẫn có thể bị phá sản do tình hình tài chính không tốt. 

Thứ ba, lợi nhuận là nguồn khuyến khích vật chất đối với người lao động.Khi lợi nhuận của doanh nghiệp được nâng cao, người lao động sẽ nhận được thu nhập thỏa đáng hơn. Rõ ràng điều này làm kích thích khả năng sáng tạo cũng như hứng thú làm việc cho người lao động, từ đó tăng năng suất, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.

Thứ tư, nếu như coi lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thì vấn đề không dừng lại ở quy mô lợi nhuận nhiều hay ít, tỷ suất lợi nhuận cao hay thấp mà vấn đề ở chỗ phân phối lợi nhuận như thế nào. Chính phân phối lợi nhuận mới tác động tới các mặt lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Nếu như lợi nhuận của doanh nghiệp làm ra, nhà nước huy động tất cả hay phần lớn thì không kích thích chính doanh nghiệp đó tạo ra lợi nhuận và người lao động cũng không có hứng thú, động lực trong sản xuất, hoàn thành công việc. Chỉ khi nào doanh nghiệp làm ra lợi nhuận, được quyền chi phối phần lớn lợi nhuận để tích lũy cho doanh nghiệp và giải quyết lợi ích cho người lao động thì đòn bẩy lợi nhuận mới phát huy tốt hơn vai trò của nó. 

Lợi nhuận là mục tiêu kinh tế cao nhất mà một doanh nghiệp hướng đến,bất kỳ doanh nghiệp nào cũng sẽ có chính sách phân phối lợi nhuận hợp lý cho việc vận hành công ty vẫn đạt hiệu quả cũng như chế độ đối với nhân viên vẫn đảm bảo, để từ đó năng suất và hiệu quả công việc được nâng cao. Qua việc tìm hiểu về lợi nhuận và phân phối lợi nhuận trong tài chính doanh nghiệp em đã hiểu rõ hơn tầm quan trọng của vấn đề này trong sự lớn mạnh của doanh nghiệp.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nghị định 91/2015/NĐ-CP. 

2. Nghị định 32/2018/NĐ-CP. 

3. Nghị định 52/2016/NĐ-CP 

4. Thông tư 36/2021/TT-BTC 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Trình tự thủ tục khiếu nại quyết định xử phạt của Chi Cục Thuế cấp tỉnh/thành phố.

Tình huống:

Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) XD&TM Thuý Hiền thành lập năm 2002, kinh doanh ngành: mua bán vật liệu xây dựng hoạt động theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 40.02.000.220 do Phòng đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh A cấp, địa chỉ: 198 Nguyễn Văn Trỗi, Thành phố B, mã số thuế: 6000314xxx, đăng ký kê khai nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ và quyết toán thuế TNDN tại Chi Cục Thuế Thành phố B. Theo quyết định của chủ doanh nghiệp là bà Lê Thuý Hiền, DNTN XD&TM Thuý Hiền đã giải thể từ năm 2019. Chi cục Thuế thành phố B đã cử cán bộ tới doanh nghiệp kiểm tra và hoàn tất thủ tục thanh toán nghĩa vụ tài chính với nhà nước, tiến hành giải thể doanh nghiệp.

Ngày 13/1/2021, bà Lê Thuý Hiền là chủ doanh nghiệp tư nhân XD&TM Thuý Hiền nhận được Quyết định số 2304/QĐ-XPHC của Chi Cục Thuế thành phố B về việc xử phạt vi phạm pháp luật về thuế đối với doanh nghiệp này. Cụ thể là xử phạt đối với 20 hoá đơn khống mua hàng của Công ty TNHH Tân Thiên. DNTT XD&TM Thuý Hiền có mua bán một số hàng hoá, vật liệu xây dựng với Công ty Tân Thiên với tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ (bao gồm cả VAT) là 4.497.017.280 đồng. Hình thức mua bán là: mua bán qua điện thoại. Khi công ty đến giao hàng thì sẽ kèm theo hợp đồng, hàng hoá hoặc dịch vụ, hoá đơn chứng từ có liên quan và biên bản giao nhận hàng hoá. Doanh nghiệp tư nhân Thuý Hiền cũng thanh toán đầy đủ, đúng số tiền theo hoá đơn cho công ty Tân Thiên. Hoá đơn mua hàng của công ty TNHH Tân Thiên là hoá đơn do Bộ Tài Chính phát hành. Bên cạnh đó, tại Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 4702002196 do Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Đ.N cấp ngày 18/5/2015 thì Công Ty TNHH Tân Thiên có đăng ký kinh doanh với ngành nghề kinh doanh là mua bán vật liêụ xây dựng. Tuy nhiên, theo kết quả của cơ quan cảnh sát điều tra thuộc Bộ Công an thông báo đã xác định ông Trần Văn Thảo là giám đốc Công ty TNHH Tân Thiên địa chỉ Q276A, tổ 1, khu phố 7, QL 15 nối dài, phường Long Bình, TP BH, tỉnh ĐN không hoạt động kinh doanh theo như giấy phép đã đăng ký mà chỉ mua bán hoá đơn GTGT để thu lợi bất chính. Trong đó, có bán cho DNTN Thuý Hiền, địa chỉ 198 Nguyễn Văn Trỗi, Tp. B 20 số hoá đơn GTGT .

DNTN XD&TM Thuý Hiền nhận định: hợp đồng mua bán hàng hoá là đúng pháp luật, hàng hoá giao đã nhập vào kho hàng và xuất đi các đại lý trên địa bàn tỉnh A. Đối với 20 tờ hoá đơn GTGT của Công ty TNHH Tân Thiên, bà Hiền đã kê khai nộp thuế tại Chi cục thuế Thành phố B và được khấu trừ 470.491.719 đồng tiền thuế GTGT.

Yêu cầu tư vấn của DNTN XD&TM Thuý Hiền :

  1. Trình tự thủ tục để chị Hiền khiếu nại quyết định của Chi Cục Thuế thành phố B về việc xử phạt vi phạm pháp luật về thuế đối với doanh nghiệp tư nhân XD&TM Thuý Hiền.
  2. Trong trường hợp Chi Cục Thuế bác bỏ đơn khiếu nại, phải làm cách gì để có thể huỷ bỏ quyết định đó của Chi Cục Thuế? Những quy định pháp luật có lợi cho phía DNTN XD&TM Thuý Hiền?

Thời điểm tư vấn: ngày 10 tháng 2 năm 2021

THƯ TƯ VẤN

(Về việc: Thủ tục và quy định pháp lý để khiếu nại huỷ bỏ quyết định xử phạt của cơ quan thuế có thẩm quyền)

nh gửi: Doanh nghiệp tư nhân XD&TM Thuý Hiền

Địa chỉ: 198 Nguyễn Văn Trỗi, Thành phố B, tỉnh A

I. Bối cảnh tư vấn:

1. Tài liệu khách hàng cung cấp

– Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Doanh nghiệp tư nhân XD&TM Thuý Hiền số 40.02.000.220 do Phòng đăng ký kinh doanh – Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh A cấp.

– Hợp đồng mua bán hàng hoá số 220518 ký ngày 10 tháng 10 năm 2018 giữa DNTN XD&TM Thuý Hiền và Công ty TNHH Tân Thiên.

– 20 Hoá đơn giá trị gia tăng của công ty TNHH Tân Thiên.

– Biên bản giao nhận hàng hoá vật liệu xây dựng.

– Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Công ty TNHH Tân Lập số 47.02.002.xxx do Phòng đăng ký kinh doanh – Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Đ.N cấp.

2. Bối cảnh tư vấn

– Năm 2002, Doanh nghiệp tư nhân XD&TM Thuý Hiền thành lập. Hoạt động được 18 năm kinh doanh ngành mua bán vật liệu xây dựng. Cuối năm 2019, doanh nghiệp này giải thể và hoàn tất các thủ tục pháp lý.

– 13/01/2021 Chi Cục Thuế thành phố B ra quyết định xử phạt vi phạm pháp luật về thuế đối với doanh nghiệp tư nhân XD&TM Thuý Hiền về hành vi kê khai hoá đơn bất hợp pháp làm tăng số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, làm giảm số thuế GTGT phải nộp trong năm 2018- 2019.

–  Công ty TNHH Tân Thiên địa chỉ Q276A, tổ 1, khu phố 7, QL 15 nối dài, phường Long Bình, TP BH, tỉnh ĐN là công ty đã bán hoá đơn GTGT đó cho DNTN Thuý Hiền với tổng là 20 số hoá đơn GTGT với doanh thu 4.492.017.280 đồng.

– DNTN XD&TM Thuý Hiền nhận định: hợp đồng mua bán hàng hoá là đúng pháp luật.

II. Yêu cầu tư vấn

– Trình tự thủ tục để chị Hiền khiếu nại quyết định của Chi Cục Thuế thành phố B về việc xử phạt vi phạm pháp luật về thuế đối với doanh nghiệp tư nhân XD&TM Thuý Hiền.

– Trong trường hợp Chi Cục Thuế bác bỏ đơn khiếu nại, phải làm cách gì để có thể huỷ bỏ quyết định đó của Chi Cục Thuế và những quy định pháp luật có lợi cho phía DNTN XD&TM Thuý Hiền.

III. Căn cứ pháp lý

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản pháp luật có liên quan sau:

  1. Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội khoá XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24/11/2015;
  2. Luật Quản lý thuế số: 38/2019/QH14 được Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 13/6/2019;
  3. Luật Khiếu nại số 02/2011/QH13 được Quốc hội khoá XIII, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 11/11/2011;
  4. Luật xử lý vi phạm hành chính 15/2012/13 được Quốc hội khoá XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20/06/2012;
  5. Nghị định 125/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về thuế, hoá đơn;

IV. Phân tích sự việc

Dựa trên những tình tiết sự việc và quy định của pháp luật chúng tôi có một số nhận định như sau gửi đến Quý Công ty:

Thứ nhất, theo quy định tại Khoản 10 Điều 16 Luật Quản lý thuế 2019 thì một trong các quyền lợi của người nộp thuế là khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy, Quý Công ty có quyền gửi đơn khiếu nại lên Chi Cục thuế thành phố B đề nghị huỷ bỏ Quyết định số 2304/QĐ-XPHC ngày 13/01/2021 và đảm bảo cung cấp đầy đủ các thông tin tài liệu có liên quan. Tuy nhiên, khả năng Chi cục thuế trả lại đơn hoặc không giải quyết rất cao bởi có kết quả điều tra của cơ quan cảnh sát thuộc Bộ Công An xác nhận Công ty TNHH Tân Thiên là đối tác với DNTN Thuý Hiền có đăng ký kinh doanh nhưng không hoạt động kinh doanh theo như giấy phép đã đăng ký mà chỉ mua bán hoá đơn GTGT để thu lợi bất chính. Trong đó, có bán cho DNTN Thuý Hiền, địa chỉ 198 Nguyễn Văn Trỗi, Tp. B 20 số hoá đơn GTGT.

Thứ hai, trường hợp Chi Cục Thuế bác bỏ đơn khiếu nại Quý công ty có thể khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính. Do doanh nghiệp đã giải thể nên pháp luật có quy định không ra quyết định xử phạt hành chính đối với tổ chức vi phạm hành chính đã giải thể mà chỉ áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.

Chính vì vậy, chúng tôi xin đề xuất một số ý kiến tư vấn cho Quý công ty xem xét chi tiết ở phần dưới đây

V. Ý kiến tư vấn

Phương án 1: Khiếu nại lên Chi cục thuế thành phố B

Như đã phân tích ở trên DNTN XD&TM Thuý Hiền được phép đưa đơn khiếu nại lên Chi cục thuế thành phố B nếu nhận thấy quyết định đối với doanh nghiệp mình là không thoả đáng.

– Về thời hiệu khiếu nại: Theo quy định tại Điều 9 Luật Khiếu nại 2011 thì: “Thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính.” Như vậy, Quý công ty phải làm đơn khiếu nại trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày có quyết định xử phạt hành vi vi phạm của Chi cục thuế thành phố B.

– Về hình thức khiếu nại: Quý công ty có thể khiếu nại bằng cách nộp đơn khiếu hoặc khiếu nại trực tiếp theo Điều 8 Luật Khiếu nại 2011. Trong trường hợp Quý Công ty có nhu cầu thì chúng tôi có thể gửi mẫu đơn khiếu nại của chúng tôi.

– Về thẩm quyền giải quyết khiếu nại: do Chi cục thuế thành phố B ra quyết định với Quý công ty nên Chi cục trưởng Chi cục thuế có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình. Tuy nhiên, trong trường hợp Quý công ty khiếu nại do cho rằng quyết định xử phạt hành chính đó là chưa hợp lý thì theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật Khiếu nại 2011 sẽ gửi đơn khiếu nại lên Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của Chi cục trưởng chi cục thuế thành phố B.

Như vậy trong trường hợp này, quý công ty có thể làm đơn khiếu nại hoặc trực tiếp khiếu nại đến chi cụ thuế thành phố B. Cơ quan có thẩm quyền sẽ thụ lý đơn khiếu nại hoặc giải quyết yêu cầu khiếu nại. Trong thời hạn 10 ngày, nếu trường hợp của Quý công ty không thuộc trường hợp quy định tại Điều 11 Luật Khiếu nại 2011 thì cơ quan có thẩm quyền sẽ thụ lý giải quyết và thông báo bằng văn bản cho Quý công ty. Tiếp đó, cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành xác minh nội dung khiếu nại theo Điều 29 Luật khiếu nại. Trong trường hợp Quý công ty không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại thì có thể khiếu nại lần hai hoặc khởi kiện vụ án hành chính theo quy định tại Điều 33 Luật khiếu nại.

Phương án 2: Khởi kiện vụ án hành chính ra Toà án

Trong trường hợp khiếu nại mà Chi cục Thuế thành phố B ra Quyết định giải quyết kiếu nại với nội dung giữ nguyên quyết định xử phạt … thì Doanh nghiệp XD&TM Thuý Hiền có thể khởi kiện ra Toà án nhân dân Thành phố B yêu cầu Tóa án hủy Quyết định xử phạt …, Quyết định giải quyết khiếu nại số ….

– Căn cứ Điểm d Khoản 1 Điều 65 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 thì cơ quan có thẩm quyền không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp: Cá nhân vi phạm hành chính chết, mất tích, tổ chức vi phạm hành chính đã giải thể, phá sản trong thời gian xem xét ra quyết định xử phạt”. Tuy nhiên, tại quy định tại điểm d Khoản 1 Nghị định 125/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về thuế, hoá đơn lại quy định chỉ không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với tổ chức bị giải thể. Như vậy đang có sự mâu thuẫn giữa hai văn bản pháp luật hiện hành. Hơn nữa, DNTN XD&TM Thuý Hiền đã giải thể từ năm 2019. Dựa vào căn cứ này chúng ta có thể kiện quyết định của Cục trưởng Cục thuế là không phù hợp với quy định của pháp luật.

– Căn cứ vào Điều 4 Nghị định 125/2020/NĐ-CP quy định về hành vi sử dụng hoá đơn, chứng từ không hợp pháp; sử dụng không hợp pháp hoá đơn, chứng từ và đối chiếu với các tình tiết trong vụ án thì Doanh nghiệp tư nhân XD&TM Thuý không có bất cứ hành vi nào là sử dụng hoá đơn bất hợp pháp vì DN Thuý Hiền đặt mua hàng hoá, dịch vụ của Công ty Tân Thiên là có thật và khi giao hàng Công ty Tân Thiên có đầy đủ biên bản giao nhận hàng.

– Khi tiến hành thủ tục giải thể, tại biên bản kiểm tra thuế của Chi cục thuế thành phố B cũng đã kiểm tra toàn bộ hoá đơn chứng từ, hàng hoá mua vào bán ra của Doanh nghiệp Thuý Hiền và không hề xác định được các hoá đơn của công ty TNHH Tân Thiên xuất cho doanh nghiệp Thuý Hiền là hoá đơn sử dụng bất hợp pháp.

– Hoá đơn mua hàng của công ty Tân Thiên là hoá đơn do Bộ Tài chính phát hành. Pháp luật hiện hành không quy định doanh nghiệp Thuý Hiền bắt buộc phải biết công ty Tân Thiên mua hàng ở đâu để bán lại cho mình, chỉ cần Công ty TNHH Tân Thiên giao hàng đúng chủng loại, số lượng, có đầy đủ chứng từ hoá đơn thì bên phía doanh nghiệp Thuý Hiền sẽ thanh toán.

– Căn cứ vào Khoản 2 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính quy định: “Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính”. Xét về lỗi thì Doanh nghiệp Thuý Hiền hoàn toàn không có lỗi trong việc sử dụng hoá đơn của Công ty Tân thiên để kê khai khấu trừ thuế vì thực chất doanh nghiệp Thuý Hiền có nhận hàng và dịch vụ từ họ chuyển qua theo Hợp đồng và thực hiện thanh toán theo đúng giá trị ghi trên hợp đồng. Việc Công ty TNHH Tân Thiên sử dụng, mua bán hoá đơn bất hợp pháp thì doanh nghiệp Thuý Hiền hoàn toàn không biết và không bắt buộc phải biết.

VI. Các vấn đề liên quan

– Trong ý kiến pháp lý này, chúng tôi sử dụng các quy định hiện hành để giải thích và đưa ra kết luận pháp lý, trong tương lai có thể có những sự kiện làm thay đổi hiệu lực của những quy định này.

– Chúng tôi đã nghiên cứu và trình bày dựa trên những thông tin được cung cấp và những giả định được đặt ra, bao gồm: Trình tự thủ tục khiếu nại Quyết định của Chi cục thuế Thành phố , một số quy định pháp luật khi khởi kiện ra Toà án.

– Ý kiến pháp lý này được gửi riêng cho Doanh nghiệp tư nhân XD&TM Thuý Hiền và trong bất cứ trường hợp nào cũng không được tiết lộ cho những tổ chức, cá nhân khác nếu không được sự đồng ý trước của công ty Luật TNHH THIÊN THANH. 

Trên đây là toàn bộ ý kiến pháp lý của chúng tôi. Chúng tôi hi vọng rằng những ý kiến pháp lý này sẽ giúp ích cho Quý công ty trong quá trình cân nhắc, lựa chọn cách giải quyết tốt nhất. Nếu có thắc mắc hoặc cần giải thích gì thêm, xin vui lòng liên hệ với chúng tôi theo địa chỉ trên.

Trân trọng ./.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Nhận diện các rủi ro trong soạn thảo, đàm phán hợp đồng mua bán hàng hóa và cách phòng tránh.

Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng nhằm tạo cơ sở cho việc thực hiện một giao dịch cụ thể trong cuộc sống nói chung và trong kinh doanh thương mại nói riêng. Do nhiều lý do, việc soạn thảo và đàm phán hợp đồng đôi lúc vẫn còn một số thiếu sót, chưa chặt chẽ về mặt pháp lý hoặc chưa được quan tâm đúng mức. Điều đó có thể dẫn tới các rủi ro khiến cho hợp đồng vô hiệu hoặc gây khó khăn trong việc thực thi hợp đồng.

1. Chủ thể kí kết hợp đồng

a. Thực trạng:

Thực tế, hợp đồng vô hiệu do người ký không đúng thẩm quyền thường rất đa dạng về chủ thể ký kết, nhưng tựu chung lại sẽ rơi vào các trường hợp dưới đây:

Người ký là đại diện theo pháp luật của công ty nhưng không có thẩm quyền ký kết, ví dụ như: “Khi chưa có quyết định hoặc thông qua của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị công ty CP, người đại diện theo pháp luật ký hợp đồng đầu tư hoặc bán, vay, cho vay tài sản… có giá trị bằng hoặc lớn hơn 35% giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty nếu Điều lệ công ty không quy định một tỷ lệ khác (điểm d khoản 2 Điều 135, điểm h khoản 2 Điều 149 LDN 2014) hoặc những hợp đồng ký kết với các đối tượng được quy định tại Khoản 1 Điều 162 LDN 2014.”

Người ký không phải là đại diện theo pháp luật của công ty và không có ủy quyền hợp pháp của người có thẩm quyền ký kết.

Có thể kể đến một vài trường hợp như: Phó Giám đốc, Giám đốc chi nhánh, Trưởng các phòng, ban… ký hợp đồng nhưng không có ủy quyền hợp pháp của người có thẩm quyền.

b. Cách phòng tránh:

– Kiểm tra trong Giấy ĐKKD xem ai là người đại diện theo pháp luật.

– Yêu cầu cung cấp Văn bản ủy quyền cho nhân viên khi giao dịch hoặc người ký  không phải người đại diện theo pháp luật.

– Kiểm tra trong giấy ủy quyền xem người ký có thuộc phạm vi được ủy quyền không (điều kiện ủy quyền, quyền của người được ủy quyền).

2. Rủi ro về giá cả, phương thức thanh toán

a. Thực trạng:

– Rủi ro về giá khi thị  trường biến động.

– Rủi ro về đồng tiền làm phương thức thanh toán.

– Tranh chấp về chi phí bốc dỡ, vận chuyển lưu kho bãi.

– Rủi ro về cách thức giao nhận tiền.

– Rủi ro trong phương thức bảo đảm hợp đồng bằng phương thức bảo lãnh.

– Không quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của từng bên 

b. Cách phòng tránh:

Cần đưa ra các điều khoản chi tiết, cụ thể, linh hoạt phù hợp với từng giao dịch. Chẳng hạn như về giá cả, chính vì nhìn thấy rủi ro về mặt thị trường biến động nên khi đàm phán về giá cả chúng ta nên đề cập tới một khoảng giá chứ không nên đưa ra 1 con số cụ thể

3. Rủi ro về bảo lãnh của Hợp đồng

a. Thực trạng:

– Làm giả chứng thư bảo lãnh.

– Rủi ro người ký phát chứng thư bảo lãnh không đúng thẩm quyền vượt  quá thẩm quyền. 

– Điều kiện của bảo lãnh: Ngân hàng phát hành thư bảo lãnh trong đó yêu cầu bên thụ hưởng phải chứng minh được vi phạm của bên được bảo lãnh, khi đó ngân hàng mới thanh toán. 

– Rủi ro để từ chối bảo lãnh còn ở cách ghi thời hạn bảo lãnh, ví dụ thời hạn bảo lãnh là 360 ngày, dẫn tới cách hiểu khác nhau là ngày thường hay ngày làm việc. 

– Bên bảo lãnh có thể viện lý do để từ chối thanh toán hoặc chậm thanh toán cho bên nhận bảo lãnh. (Viện lý do HĐ gốc/ PLHĐ bị sửa đổi tùy tiện) .

b. Cách khắc phục:

– Cần áp dụng chung biểu mẫu về thư bảo lãnh đính kèm hướng dẫn. Tốt nhất không áp dụng bảo lãnh có điều kiện.

– Thực hiện đúng các điều khoản đã ký trong hợp đồng (Đặc biệt các chứng từ liên quan phải chuẩn xác, đúng và phù hợp thời gian). 

– Không nên sửa lại hợp đồng, bổ sung PLHĐ giữa hai bên khi đã có chứng thư bảo lãnh khi chưa có sự đồng ý của bên bảo lãnh. (Trường hợp  hai bên sửa đổi HD, lập PLHD phải báo/đề nghị bên bảo lãnh lập lại Bảo lãnh theo nội dung sửa đổi).

4. Rủi ro về điều khoản quy định về phạt vi phạm

a. Thực trạng:

– Theo Luật thương mại (Điều 301) thì quyền thoả thuận về mức phạt vi phạm của các bên bị hạn chế, cụ thể: “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm”. Do vậy, các bên khi thoả thuận về mức phạt phải căn cứ vào quy định của Luật thương mại để lựa chọn mức phạt trong phạm vi từ 8% trở xuống, nếu các bên thoả thuận mức phạt lớn hơn (ví dụ 12%) thì phần vượt quá (4%) được coi là vi phạm điều cấm của pháp luật và bị vô hiệu. 

– Theo quy định tại Bộ luật Dân sự nếu chậm thanh toán các bên có thể thỏa thuận mức phạt nhưng không được vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản (Điều 476).

– Mức lãi chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả.

b. Cách phòng tránh:

– Đây là điều khoản thông thường. Khi thương thảo hợp đồng với khách hàng có thể đưa vào hợp đồng hoặc không cần đưa vào vì đã được pháp luật quy định. Cán bộ kinh doanh cần linh hoạt khi sử dụng điều khoản này. 

5. Rủi ro về điều khoản bất khả kháng

a. Thực trạng:

Giá trị quan trọng nhất của việc soạn thảo điều khoản về bất khả kháng chính là giúp cho các bên lường trước được các trường hợp miễn trách nhiệm nếu vi phạm nghĩa vụ hợp đồng khi điều kiện bất khả kháng xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng. Khi đàm phán cũng như soạn thảo hợp đồng, các bên đã phải lường trước những sự kiện này, nếu không nó trở thành rủi ro lớn sau khi hợp đồng mua bán được kí kết

b. Cách phòng tránh:

– Khi soạn thảo hợp đồng cần có thỏa thuận rõ ràng về các trường hợp bất khả kháng:

– Bất khả kháng có thể do hiện tượng thiên nhiên: Lũ, lụt, hỏa hoạn, động đất, sóng thần ..

– Bất khả kháng có thể do hiện tượng xã hội: Chiến tranh, bạo loạn, đảo chính, đình công, cấm vận, thay đổi của chính phủ

Ngoài ra, các bên có thể đưa ra các sự kiện chính bản thân mình:,mất điện, hỏng máy…bên cung cấp vật tư chậm trễ giao hàng là sự kiện bất khả kháng để miễn trách nhiệm

Từ những phân tích trên có thể thấy rằng, chỉ một lỗi nhỏ trong soạn thảo hợp đồng cũng  có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của các bên sau này, bao gồm nhưng không giới hạn ở việc hợp đồng bị vô hiệu, mất thời gian giải quyết tranh chấp, tốn kém chi phí vào các thủ tục tố tụng, mất uy tín,…. Chúng ta có thể tự soạn thảo và rà soát hợp đồng nhưng đừng để những rủi ro tiềm ẩn trong hợp đồng biến công sức của ta trở về con số không, các rủi ro hoàn toàn có thể phòng tránh được, vì vậy hãy cố gắng khắc phục tất cả các rủi ro đấy.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Luật Doanh nghiệp 2014
  2. Bộ luật dân sự năm 2015

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

BẢN ÁN 08/2017/KDTM-ST NGÀY 07/06/2017 VỀ TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI MUA BÁN HÀNG HÓA Trong ngày 07 tháng 6 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 01/2017/TLST- KDTM ngày 23 tháng 01 năm 2017 về “Tranh chấp kinh doanh thương mại về mua bán hàng hóa”theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2017/QĐXX- ST, ngày 07 tháng 4 năm 2017 giữa: 

1. Nguyên đơn: 

Công ty cổ phần Nông dược H (Cty Nông dược 2); địa chỉ: số 28, đường NĐC, phường ĐK, Quận I, Tp Hồ Chí Minh. Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Vũ Mạnh HÀ, sinh năm 1983; địa chỉ: số 28, đường NĐC, phường ĐK, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (theo văn bản ủy quyền số 41/2016 và số 44/2016 ngày 16/11/2016) 

2. Bị đơn: 

2.1. Công ty trách nhiệm hữu hạn Nguyên DN (Cty DEN) do anhNguyenPK,sinh năm 1988 làm Giám đốc, địa chỉ: số 599, tổ 13, ấp PMT, xã PT, huyện, tỉnh An Giang. Người đại diện theo ủy quyền của anh Nguyễn đông Phan Văn B sinh năm 1970, nơi cư trú: ấp MP, xã MĐ, huyện, tỉnh An Giang ( theo văn bản ủy quyền số 40/2017 ngày 17/4/2017) 

2.2. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên PD(Cty DP) do bà Đoàn Thị Kim T, sinh năm 1962 làm Giám đốc, địa chỉ: số 694/44, ấp PMT, xã PT, huyện TP, tỉnh An Giang. Người đại diện theo ủy quyền của bà Đoàn Thị Kim T là ông Phan Văn B sinh năm 1970, nơi cư trú: ấp MP, xã BĐ, huyện, tỉnh An Giang ( theo văn bản ủy quyền số 40/2017 ngày 17/4/2017) 

(Các đương sự có mặt) 

3. Nội dung vụ án: 

+ Đối với Cty Nguyên DN (Cty DN) do anh Nguyễn PDlam Giám đốc các bên có thỏa thuận như sau: Vào năm 2013 giữa Cty Nông dược 2 ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa (vật tư nông nghiệp) với Cty DN, gồm hợp đồng 1A 000045 – 2014 ký ngày 01/10/2013 và phụ lục hợp đồng ký ngày 01/10/2014 Từ khi hai bên ký hợp đồng và phụ lục hợp đồng, tiếng anh mua bán, giao nhận hàng hóa, có trả tiền, sau nhiều lần còn nợ đến ngày 31/3/2015 là 752.738.280đ (theo giấy xác nhận công nợ ngày 31/3/2015). Nay công ty Nông dược 2 yêu cầu công ty DN do anh D làm Giám Đốc trả số tiền còn nợ vốn là 752.738.280đ và yêu cầu tính lãi từng lần nhận hàng, tính từ lần đầu cho đến nay, mức lãi theo hợp đồng đã ký kết số tiền là 345.467.498 đ. 

+ Đối với Công ty PD do bà Đoàn Thị Kim T làm Giám Đốc các bên có thỏa thuận như sau: Vào năm 2011 giữa Cty Nông dược 2 ký kết hợp đồng bán hàng hóa (vật tư nông nghiệp) với Cty PD, gồm hợp đồng số 38C NANG/H.A.I/2012 ký ngày 01/10/2011 và hợp đồng số 1AGG000045–2014 ký ngày 01/10/2013 và phụ lục hợp đồng ký ngày 01/10/2014. Từ Khi Hai bên ký hợp đồng và phụ lục hợp đồng, tiến hành mua bán, giao nhận hàng hóa, có trả tiền, sau nhiều lần còn nợ đến ngày 31/3/2016 là 1.086.345.512đ(theo giấy xác nhận công nợ ngày 31/3/2016). Nay công ty Nông Dược 2 Yêu Cầu công ty PD do bà T làm Giám đốc trả số tiền cònnợvốnlà1.086.345.512đ và yêu cầu tính lãi từng lần nhận hàng, tính từ lần đầu đến nay, mức lãi theo hợp đồng đã ký kết số tiền là 677.281.381 đ.

– Bị đơn: Cty DN do anh Nguyễn PD làm đại diện và Cty PD bà Đoàn Thị Kim T đại diện: Đã được tống đạt niêm yết hợp lệ các thủ tục tố tụng, nhưng vẫn vắng mặt nên không có lời trình bày. Tại phiên tòa ông Phan Văn đại diện cho 2 bị đơn trình bày thống nhất các lần mua bán như hợp đồng đã ký kết, số tiền còn lại và lãi phát sinh theo hợp đồng, nhưng 2 công ty bà Kim và PD làm giám đốc làm ăn thua lỗ nên xin phần lãi phát sinh, còn vốn khi bán được tài sản sẽ trả. 

4. Nhận định của Tòa án: 

Về quan hệ tranh chấp: Cty Nông dược 2 yêu cầu Cty DN và Cty thanh toán tiền mua bán vật tư nông nghiệp. Do hai bên đều có đăng ký kinh doanh và đều vì mục tiêu lợi nhuận nên quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là“Tranh chấp kinh doanh thương mại về mua bán hàng hóa” theo quy định tại Điều 3 Luật thương mại 2005 

– Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, các bên thống nhất số lượng hàng hóa đã giao nhận, số tiền đã trả, số tiền vốn còn lại, số tiền lãi chưa trả nhưng không thống nhất nhau về phương thức thanh toán, thời gian và cách tính lãi. 

Về cách thanh toán đại diện Cty PD và Cty DN xin trả dần đến khi dứt nợ là kéo dài thời gian gây thiệt thòi quyền lợi cho phái Cty Nông dược 2, vả lại tại phiên tòa đại diện Cty Nông dược 2 không đồng ý cho Cty PD và Cty trả dần nên không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu của Cty PT và Ct DN. – Về tiền lãi: Cty Nông dược 2 căn cứ vào hợp đồng sau 50 ngày tính lãi chậm trả của từng lần giao hàng, còn đại diện Cty PD và Cty DN yêu cầu xem xét được xin lãi hoặc được tính từ lúc xác nhận công nợ (Cty DNk ngày 31/3/2015, Cty CP ký ngày 31/3/2016) theo mức lãi chậm trả do pháp luật quy định. HĐXX nhận thấy trong hoạt động thương mại, các bên tự thỏa thuận là chủ yếu, nếu các bên không có thỏa thuận thì điều chỉnh lãi theo Điều 306 Luật thương mại, khoản 2, Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ Luật dân sự năm 2015. Về thời gian tính lãi mà Cty Nông dược 2 đưa ra cho rằng Cty DN và Cty PD vi phạm sau 50 để tính từng lần giao hàng là không có căn cứ bởi vì tài liệu có trong hồ sơ và tại phiên tòa đại diện Cty Nông dược không chứng minh được các lần đòi nợ đối với 2 bị đơn nên thời hạn tính lãi được tính từ ngày xác nhận công nợ cụ thể số tiền lãi được tính là: 

+ Đối với Cty DN số tiền mua bán là 752.738.280đ X0.83%/ tháng(10%/năm) X 26 tháng 7 ngày (tháng 31/3/2015 đến 07/6/2017)=163.898.723đ 

+ Đối với Cty PD số tiền mua bán là 1.086.345.512đ X0.83%/ tháng(10%/năm) X 14 tháng 7 ngày (tháng 31/3/2016 đến 07/6/2017)=128.337.237đ 

Do đó Cty DN phải trả vốn và lãi cho Cty Nông dược 2 là 752.738.280đ+163.898.723đ = 916.637.000đ.Cty PD phải trả vốn và lãi choCtyNôngdược 2 là 1.086.345.512đ +128.337.237đ = 1.214.682.749đ. 

Về yêu cầu xin lãi của Cty PD và Cty DEN, do đặt ra yêu cầu trả dần nên phía Cty Nông dược 2 không đồng ý nên không có căn cứ xem xét yêu cầu này của Cty PD và Cty DN, nếu các bên có thỏa thuận mới thì được giải quyết ở giai đoạn thi hành án

5. Biên bản thương lượng ghi nhận sự thỏa thuận của các bên tranh chấp

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc 

BIÊN BẢN GHI NHẬN KẾT QUẢ THƯƠNG LƯỢNG

(Về việc giải quyết tranh chấp) 

– Căn cứ vào Luật Thương Mại 2005 

– Căn cứ vào Bộ luật dân sự 2015 

– Căn cứ vào mong muốn và sự thỏa thuận của các bên Hôm nay, vào 8h ngày 07 tháng 05 năm 2017 tại Trụ sở Công ty Nông dược 2:Số 28, đường NĐC, phường ĐK, Quận Ở, Thành phố Hồ Chí Minh Tiến hành thương lượng trong cơ sở mong muốn và thiện chí của các bên, lập biên bản ghi nhận kết quả thương lượng về vụ việc tranh chấp giữa Công ty Nông dược 2 với Công ty PD và Công ty PN. 

I. Thành phần tham gia thương lượng: 

1. Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Vũ Mạnh, sinh năm 1983; địa chỉ: số 28, đường NĐC, phường ĐK, Quận A, ThànhphốHồChíMinh (theo văn bản ủy quyền số 41/2016 và số 44/2016 ngày 16/11/2016)2. Người đại diện theo ủy quyền của anh Nguyễn PD là ông Phan Văn sinh năm 1970, nơi cư trú: ấp MP, xã Đ, huyện TP, tỉnh An Giang( theo văn bản ủy quyền số 40/2017 ngày 17/4/2017) 

3. Người đại diện theo ủy quyền của bà Đoàn Thị Kim T là ông Phan Văn sinh năm 1970, nơi cư trú: ấp MP, xã BĐ, huyện CẤP, tỉnh AnGiang(theo văn bản ủy quyền số 40/2017 ngày 17/4/2017). 

II. Nội dung cuộc họp: 

Căn cứ vào Luật Thương mại 2005 và Bộ luật Dân sự 2015. Căn Cứ Vào Thiện Chí các bên tham gia, thương lượng các nội dung sau:

CÁC NỘI DUNG THƯƠNG LƯỢNG

• Số tiền vốn còn lại và số tiền lãi chưa trả 

• Cách thức thanh toán số tiền nợ và tiền lãi. 

• Tiền lãi mà Công ty PD và Công ty PN cần phải trả cho Công ty Nông dược 2. 

Sau khi bàn bạc, thỏa thuận, hai bên thống nhất một số nội dung thương lượng cụ thể sau: 

Những nội dung các bên thống nhất: 

Các bên thống nhất về: Số lượng hàng hóa đã giao nhận, số tiền đã trả, ngoài ra còn có số tiền vốn còn lại và số tiền lãi chưa trả cụ thể là:

– Số tiền vốn còn lại: 

+ Công ty DN: số tiền còn nợ vốn là 752.738.280đ + Công ty PN: số tiền còn nợ vốn là 1.086.345.512đ

– Số tiền lãi chưa trả 

+ Công ty DN: mức lãi theo hợp đồng đã ký kết số tiền là 345.467.498đ+ Công ty PN: mức lãi theo hợp đồng đã ký kết số tiền là 677.281.381 Những nội dung các bên chưa thống nhất: 

Về tiền lãi: Bên đại diện Công ty Nông dược 2 cho rằng căn cứ vào hợp đồng sau 50 ngày tính lãi chậm trả của từng lần giao hàng, còn đại diện Cty và Cty DN yêu cầu xem xét được xin lãi hoặc được tính từ lúc xác nhận công nợ(Cty DU ký ngày 31/3/2015, Cty CP ký ngày 31/3/2016) theo mức lãi chậm trả do pháp luật quy định. 

Về cách thức thanh toán: Đại diện Công ty Nông dược muốn 2 công ty PD và PN tiến thành thanh toán 1 lần dứt điểm, không kéo dài gây ảnh hưởng tới Công ty Nông dược 2, bên cạnh đó 2 công ty PD và PN xin trả dần đến khi dứt nợ, Công ty Nông dược 2 tỏ rõ không đồng ý vì việc này gây ảnh hưởng tới quyền lợi của họ.

Nội dung trên, được các bên thống nhất thông qua. Buổi thương lượng kết thúc vào lúc 11 giờ cùng ngày, gửi các bên tranh chấp mỗi ben01 bản và được các bên cùng nhất trí ký tên dưới đây: 

NGƯỜI LẬP
( ký và ghi rõ họ tên)
ĐẠI DIỆN DOANH NGHIỆP
 ( ký và ghi rõ họ tên)
Công ty Nông dược 2 Công ty PD Công ty PN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật Thương mại 2005 

2. Bộ luật Dân sự 2015 3. Bản án 08/2017/KDTM-ST ngày 07/06/2017 về tranh chấpkinhdoanhthương mại mua bán hàng hóa,

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bình luận các phương thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh theo Luật Bảovệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010.

Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong tiêu dùng có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ tiêu dùng, cũng như giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, và dịch vụ. Vì vậy,khi tranh chấp phát sinh, các phương thức giải quyết tranh chấp sẽ được đưa để so sánh và chọn lựa.

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP GIỮA NGƯỜI TIÊU DÙNG VÀ TỔ CHỨC, CÁ NHÂN KINH DOANH VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TIÊU DÙNG

1. Khái niệm tranh chấp giữa người tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh: 

Mỗi quốc gia đều có một cách nhìn khác nhau về khái niệm tranh chấp tiêu dùng. Tranh chấp trong tiêu dùng trong pháp luật Đài Loan định nghĩa là:“Tranh chấp phát sinh do việc mua bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ của người tiêu dùng và doanh nghiệp kinh doanh” 

Do vậy, nhìn một cách tổng quát thì tranh chấp liên quan tới quyền lợi của người tiêu dùng được hiểu là những mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ hợp pháp giữa một bên là người tiêu dùng và 1 bên là thương nhân trong đó người tiêu dùng với tư cách một bên trong quan hệ pháp luật tiêu dùng mà bị thiệt hại hoặc cho rằng bị thiệt hại đòi hỏi quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Tranh chấp trong tiêu dùng phát sinh phần lớn là vì quan hệ tiêu uống được xây dựng trên nền tảng của hợp đồng mua bán và NTD thường ở vị thế yếu hơn,còn thương nhân ở vị thế mạnh hơn. Khi mối quan hệ giữa NTD và thương nhân xảy ra mâu thuẫn không thể giải quyết được sẽ dẫn đến tranh chấp trong tiêu dùng. Tranh chấp của NTD chủ yếu về quyền lợi, không vì mục tiêu lợi nhuận và khác biệt so với các tranh chấp khác như tranh chấp trong kinh doanh thương mại, hoặc tranh chấp dân sự thông thường,… 

Trên cơ sở khái niệm và bản chất của tranh chấp tiêu dùng, giải quyết tranh chấp tiêu dùng được hiểu là việc cơ quan, hoặc tổ chức có thẩm quyền xem xét và ra quyết định xử lý các tranh chấp tiêu dùng trên cơ sở xem xét tài liệu,chứng cứ có trong vụ việc tranh chấp tiêu dùng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quan hệ tiêu dùng. 

2. Pháp luật về giải quyết tranh chấp tiêu dùng:

Về Các phương thức giải quyết tranh chấp tiêu dùng:

Giải quyết tranh chấp tiêu dùng theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 quy định từ Điều 30 đến Điều 46. Cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp tiêu dùng bao gồm: Dựa vào các quy định Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng làm trung tâm, và các ngành luật khác có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp như: Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Vệ sinh an toàn thực phẩm, Luật Cạnh tranh…Dựa vào các quy định luật hình thức và trình tự giải quyết tranh chấp theo Bộ luật Tố tụng dân sự. 

2.1. Thương lượng: (Điều 31-32) 

Người tiêu dùng có quyền gửi yêu cầu đến tổ chức, cá nhân để thương lượng khi cho rằng quyền , lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Đây là cách giải quyết tranh chấp phát sinh giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân thông dụng nhất và đảm bảo lợi ích các bên.

Tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, tiến hành thương lượng với người tiêu dùng trong thời hạn không quá 07 ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận được yêu cầu. 

Quá thời hạn trên, nếu tổ chức, cá nhân không giải quyết hoặc giải quyết không thỏa đáng, người tiêu dùng có thể gia hạn để tiếp tục thương lượng hoặc sử dụng các phương thức giải quyết tranh chấp khác như hòa giải, trọng tài hoặc tòa án. 

2.2. Hòa giải: (Điều 33-37) 

Hòa giải là một trong các phương thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Hòa giải là việc giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân thông qua bên thứ ba. 

Tổ chức, cá nhân và người tiêu dùng có quyền thỏa thuận lựa chọn bên thứ ba là cá nhân hoặc tổ chức hòa giải để thực hiện hòa giải. Hòa giải được thực hiện trên các nguyên tắc sau: 

– Bảo đảm khách quan, trung thực, thiện chí, không được ép buộc, lừa dối.- Tổ chức, cá nhân tiến hành hòa giải, các bên tham gia hòa giải phải bảo đảm bí mật thông tin liên quan đến việc hòa giải, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. 

2.3. Trọng tài: (Điều 38-40) 

Phương thức trọng tài được sử dụng khi điều khoản trọng tài được tổ chức,cá nhân thông báo trước khi ký kết hợp đồng giao dịch và được người tiêu dùng chấp thuận. 

Trường hợp điều khoản trọng tài do tổ chức, cá nhân đưa vào hợp đồng theo mẫu hoặc điều kiện giao dịch chứng thì khi xảy ra tranh chấp, người tiêu dùng là cá nhân có quyền lựa chọn phương thức khác nếu không nhất trí phương thức trọng tài.

Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp tại trọng tài được thực hiện theo quy định của pháp luật về trọng tài thương mại. 

Tham khảo: 

– Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam và các Trung tâm trọng tài thương mại khác. 

– Các văn phòng khiếu nại của Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam và các Hội ở các tỉnh, thành phố. 

2.4. Tòa án: (Điều 41-46) 

Vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được giải quyết theo thủ tục đơn giản quy định trong pháp luật về tố tụng dân sự khi có đủ các điều kiện sau đây: 

1. Cá nhân là người tiêu dùng khởi kiện; tổ chức, cá nhân trực tiếp cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng bị khởi kiện; 2. Vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng; 

3. Giá trị giao dịch dưới 100 triệu đồng. 

Nghĩa vụ chứng minh trong vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 

1. Người tiêu dùng có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, trừ việc chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. 

2. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại. 

3. Toà án quyết định bên có lỗi trong vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. 

Người tiêu dùng khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình không phải nộp tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án.

Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được quyền đại diện hoặc tự mình khởi kiện vì lợi ích công cộng. 

Ngoài bốn phương thức trên, Điều 25 và 26 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng quy định về giải quyết yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng cấp huyện. Quy định này được hướng dẫn chi tiết từ Điều 20 đến Điều 23 Nghị định Chính phủ số 99/2011/NĐ-CP ngày 27 tháng 10 năm 2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Theo đó: 

Trường hợp phát hiện hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của tổ chức, cá nhân gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích của nhiều người tiêu dùng, lợi ích công cộng thì người tiêu dùng có quyền yêu cầu trực tiếp hoặc bằng văn bản đến cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cấp huyện nơi thực hiện giao dịch giải quyết. 

Sau khi tiếp nhận yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, cơ quan có thẩm quyền tiến hành giải quyết yêu cầu. Trường hợp cần thiết, cơ quan có thẩm quyền có quyền yêu cầu các bên giải trình, cung cấp thêm thông tin, tài liệu phục vụ cho việc giải quyết yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. 

Trong thời hạn mười lăm (15) ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hợp lệ, cơ quan có thẩm quyền phải trả lời theo quy định tại Điều 26 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Trường Hợp Vụ việc phức tạp, thời hạn trả lời có thể được gia hạn nhưng không quá mười lăm (15) ngày làm việc. 

Trong quá trình giải quyết yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, nếu cơ quan có thẩm quyền xác định vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan khác thì chuyển hồ sơ vụ việc cho cơ quan đó giải quyết và nêu rõ trong văn bản trả lời người tiêu dùng.

CHƯƠNG II: BÌNH LUẬN VỀ CÁC PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP GIỮA NGƯỜI TIÊU DÙNG VÀ TỔ CHỨC, CÁ NHÂN KINH DOANH

1. Thực trạng các quy định theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 về giải quyết tranh chấp tiêu dùng ở Việt Nam:

Sau 10 năm thực thi Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, cho thấy các ưu điểm, nhược điểm đã dần bộc lộ và quy định về giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ vẫn còn một số hạn chế nhất định, cụ thể như sau: 

Thứ nhất, đối với phương thức thương lượng: 

Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 chưa đề cập tới thời hạn ràng buộc các bên phải đạt được thỏa thuận thương lượng để giải quyết dứt điểm tranh chấp và ràng buộc các bên đối với trách nhiệm thi hành kết quả thương lượng đã được các bên thông qua. Tại Khoản 2 Điều 31 Luật BVQLNTD 2010 chỉ quy định: “Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm tiếp nhận, tiến hành thương lượng với người tiêu dùng trong thời hạn không quá 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu.” Quy định này chỉ mới giới hạn thời hạn tiếp nhận và tiến hành thương lượng trong tranh chấp tiêu dùng mà chưa đề cập tới thời hạn ràng buộc các bên phải đạt được thỏa thuận thương lượng để giải quyết dứt điểm tranh chấp. Điều này vô tình tạo ra khe hở phải doanh nghiệp nếu họ cố tình kéo dài thời gian thương lượng giữa các bên nhằm tạo ra ưu thế trong thương lượng và trì hoãn đưa ra kết quả cuối cùng. 

Thứ hai, đối với giải quyết tranh chấp tại Tòa án:

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 43 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, Người tiêu dùng một khi khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình thì không phải tạm ứng án phí, đồng thời cũng không phải tạm ứng lệ phí Tòa án. Theo quy định Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí khi có người muốn yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự thì họ phải có nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng lệ phí theo quy định pháp luật, trừ trường hợp họ được phép miễn hoặc không cần phải nộp tiền tạm ứng lệ phí. 

Người tiêu dùng là chủ thể đặc biệt, khi khởi kiện không cần phải tạm ứng án phí và lệ phí so với các chủ thể thông thường khác. Tuy nhiên, Tòa Án Khi áp dụng pháp luật để xét xử, giải quyết tranh chấp, Tòa án loại trừ quyền tiên, và quyền hợp pháp của người tiêu dùng là không phải tạm ứng lệ phí, án phí. Đồng

thời, Tòa án không chấp nhận người sử dụng dịch vụ, hàng hóa với tư cách là người tiêu dùng khi họ thuê dịch vụ hoặc hàng hóa nào đó của các cá nhân, tổ chức, bao gồm thương nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. 

Tòa án bắt buộc họ phải đóng tạm ứng án phí, lệ phí thì Tòa án mới thụ lý giải quyết. Tòa cho là việc gì giải quyết tranh chấp giữa người sử dụng dịch vụ là người thuê đối với một dịch vụ của một cá nhân hoặc tổ chức nào đó chỉ đơn thuần là vấn đề dân sự thông thường chứ không liên quan đến tiêu dùng.Đồng Thời, Tòa án cho là việc sử dụng dịch vụ như đề cập ở trên thì không phải là người tiêu dùng 

2. Giải pháp hoàn thiện: 

Thứ nhất, đối với phương thức thương lượng, hòa giải:

Sớm bổ sung cơ chế bảo đảm thực thi kết quả thương lượng, hòa giải bởi hệ thống cơ quan tư pháp và thi hành án dân sự. Kết quả thương lượng, hòa giải sau khi được lập thành biên bản có thể phải đăng ký tại cơ quan tòa án và chuyển tới cơ quan thi hành án để thực thi. Hỗ trợ quá trình thực thi các phán quyết trên là hệ thống các trung tâm thừa phát lại được tổ chức nhằm giảm tài cho co quan thi hành án dân sự của nhà nước. Trình tự công nhận và thi hành thỏa thuận thương lượng, hòa giải sẽ áp dụng theo trình tự rút gọn, tòa án tôn trọng và không can thiệp vào nội dung và giá trị pháp lý của thỏa thuận.

Thứ hai, đối với án phí: 

Theo Khoản 2 Điều 43 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 không nên quy định “Người tiêu dùng khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền,lợi ích hợp pháp của mình không phải nộp tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa Án”. Nên quy định NTD khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình không phải nộp tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án các cấp. 

Việc nghiên cứu về các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại nói chung và tranh chấp giữa người tiêu dùng và cá nhân, tổ chức kinh doanh nói riêng là rất quan trọng, trong quá trình phát triển hiện nay, vai trò của người tiêu dùng phải càng được nâng cao và quan tâm hơn, việc đẩy mạnh các biện pháp bảo đảm để các quy định được áp dụng trong thực thế một cách nhuần nhuyễn giúp các chủ thể tham gia mối quan hệ tiêu dùng nhận thức được rõ hơn quyền và nghĩa vụ của mình khi xảy ra tranh chấp tiêu dùng.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 2. Luật thương mại 2005 

3. Bộ luật tố tụng dân sự 2015 

4. Nghị định Chính phủ số 99/2011/NĐ-CP ngày 27 tháng 10 năm 2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 

5. Nguyễn Trọng Điệp (2014), Giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng với thương nhân ở Việt Nam hiện nay.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Phân tích các điều kiện để các loại bất động sản được phép đưa vào kinh doanh trong thị trường bất động sản.

Theo pháp luật dân sự hiện hành, cụ thể tại điều 107 BLDS 2015 quy định bất động sản bao gồm: đất đai; nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai; tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng; tài sản khác theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên không phải tất cả các loại bất động sản này đều được tham gia kinh doanh vào thị trường bất động sản mà từng loại bất động sản sẽ có những điều kiện riêng, đảm bảo hoạt động kinh doanh bất động sản được an toàn và hiệu quả. Điều 5 Luật Kinh doanh bất động sản 2014 sửa đổi bổ sung 2020 quy định có bốn loại bất động sản được đưa vào kinh doanh.

Điều 5. Các loại bất động sản đưa vào kinh doanh

Các loại bất động sản đưa vào kinh doanh theo quy định của Luật này (sau đây gọi là bất động sản) bao gồm:

1. Nhà, công trình xây dựng có sẵn của các tổ chức, cá nhân;

2. Nhà, công trình xây dựng hình thành trong tương lai của các tổ chức, cá nhân;

3. Nhà, công trình xây dựng là tài sản công được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép đưa vào kinh doanh;

4. Các loại đất được phép chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai thì được phép kinh doanh quyền sử dụng đất.

Như vậy, điều kiện để các loại bất động sản này được phép kinh doanh trong thị trường bất động sản cũng khác nhau.

Nhà, công trình xây dựng có sẵn của các tổ chức, cá nhân

BĐS này được hiểu là tại thời điểm giao dịch thì nhà, công trình xây dựng đã tồn tại và nghiệm thu. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 9 Luật KDBĐS thì nhà, công trình xây dựng được đưa vào kinh doanh phải đáp ứng điều kiện sau:

Thứ nhất, có đăng ký quyền sở hữu nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất trong giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất. Đối với nhà, công trình xây dựng có sẵn trong dự án đầu tư kinh doanh bất động sản thì chỉ cần có giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai. Quy định này là hoàn toàn hợp lý bởi lẽ đất là bất động sản tạo ra tiền đề vật chất để các bất động sản khác hình thành, trong đó có nhà, công trình xây dựng. Trên thực tế, nhà đất là một khối tài sản thống nhất không thể tách rời do đó một nguyên lý phổ quát trong quản lý đất đai đó là quản lý theo thửa đất, những tài sản khác sinh ra từ đất, gắn liền với đất thì được quản lý theo đất.

Thứ hai, không có tranh chấp về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất. Đây là một trong những điều kiện quan trọng để bất động sản được đưa vào kinh doanh bởi khi có tranh chấp các thủ tục pháp lý rất phức tạp, bất động sản đôi khi còn bị thu hồi hoặc đấu giá,… dẫn đến thiệt hại nhất định cho các chủ thể kinh doanh. Hơn nữa, nhà đất là một khối tài sản thống nhất, không thể tách rời và nó mang giá trị lớn không chỉ đối với mỗi cá nhân mà còn đối với quốc gia. Theo đó, việc quy định quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất không có tranh chấp là một trong những điều kiện để đưa bất động sản vào kinh doanh nhằm tránh gây ra sự tranh cãi, kiện tụng liên quan đến quyền sở hữu những tài sản đặc biệt này làm rối loạn thị trường bất động sản.

Thứ ba, không bị kê biên để bảo đảm thi hành án. Kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được áp dụng khi người phải thi hành án, người vi phạm phải có trách nhiệm thi hành nghĩa vụ trả tiền và mặc dù người này có điều kiện thi hành nhưng không tự nguyện thi hành. Như vậy, đây là điều kiện không thể thiếu đối với nhà ở, công trình xây dựng đưa vào kinh doanh bất động sản tránh ảnh hưởng đến quyền lợi của những người.

Nhà, công trình xây dựng hình thành trong tương lai của các tổ chức, cá nhân

Bất động sản hình thành trong tương lai cụ thể là nhà, công trình xây dựng đang trong quá trình xây dựng và chưa được nghiệm thu đưa vào sử dụng. Điều kiện của BĐS hình thành trong tương lai được đưa vào kinh doanh được quy định tại Khoản 1 Điều 55 Luật KDBĐS 2014:

Thứ nhất, có giấy tờ về quyền sử dụng đất. Quy định này phù hợp với pháp luật đất đai hiện hành. Theo đó, Khoản 7, 8, 9 Điều 3 Luật Đất đai 2013 quy định

“7. Nhà nước giao quyền sử dụng đất (sau đây gọi là Nhà nước giao đất) là việc Nhà nước ban hành quyết định giao đất để trao quyền sử dụng đất cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất.

8. Nhà nước cho thuê quyền sử dụng đất (sau đây gọi là Nhà nước cho thuê đất) là việc Nhà nước quyết định trao quyền sử dụng đất cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất thông qua hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất.

9. Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng đất ổn định mà không có nguồn gốc được Nhà nước giao đất, cho thuê đất thông qua việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu đối với thửa đất xác định.”

Thứ hai, đã có hồ sơ dự án đầu tư xây dựng nhà ở, có thiết kế kỹ thuật nhà ở được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và có Giấy phép xây dựng (nếu thuộc diện phải có Giấy phép xây dựng); đã giải chấp đối với trường hợp có thế chấp nhà ở. Điều kiện này rất quan trọng vì tại thời điểm ký hợp đồng trong kinh doanh BĐS thì nhà, công trình này chưa hình thành hoặc đang hình thành theo hồ sơ dự án, thiết kế bản vẽ thi công và tiến độ cụ thể. Như vậy, đối tượng của hợp đồng là nhà, công trình đang được xây dựng nên các bên không thể quan sát đánh giá trực tiếp bằng mắt, bên mua sẽ căn cứ vào hồ sơ dự án, bản vẽ được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt để quyết định giao kết hợp đồng.

Thứ ba, đối với chung cư thì đã hoàn thành việc xây dựng xong phần móng theo quy định của pháp luật về xây dựng; đối với nhà ở riêng lẻ thì đã hoàn thành việc đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật (gồm đường giao thông, hệ thống cấp, thoát nước, hệ thống cấp điện sinh hoạt, điện chiếu sáng công cộng) của khu vực nhà ở theo thiết kế và tiến độ được duyệt.

Thứ tư, có hợp đồng bảo đảm giao dịch nhà ở ký với tổ chức tài chính hoặc ngân hành thương mại theo quy định tại Điều 118 Luật nhà ở.

Thứ năm, trước khi bán, cho thuê mua ở nhà hình thành trong tương lai, chủ đầu tư phải có văn bản thông báo cho cơ quan quản lý nhà ở cấo tỉnh về việc nhà ở đủ điều kiện được bán, cho thuê mua. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo, cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh có trách nhiệm trả lời bằng văn bản cho chủ đầu tư về nhà ở có đủ điều kiện được bán, cho thuê mua; trường hợp không đủ điều kiện phải nêu rõ lý do

Như vậy, có thể thấy rằng pháp luật đã quy định trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về việc thẩm định xem chủ đầu tư có được bán nhà ở hình thành trong tương lai hay không. Quy định như vậy nhằm đề cao vai trò của nhà nước trong việc hạn chế rủi ro cho khách hàng, phần nào sẽ dẫn đến tâm lý “tin tưởng” của khách hàng khi mua nhà ở hình thành trong tương lai.

Nhà, công trình xây dựng là tài sản công được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép đưa vào kinh doanh

Theo khoản 1 Điều 56 Luật quản lý, sử dụng tài sản công 2017 thì tài sản công được đưa vào kinh doanh bao gồm: tài sản được giao, được đầu tư xây dựng, mua sắm để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao nhưng chưa sử dụng hết công suất; tài sản được đầu tư xây dựng, mua sắm theo dự án được cơ quan, người có thẩm quyền phê duyệt để phục vụ hoạt động kinh doanh mà không do ngân sách nhà nước đầu tư. Để kinh doanh loại bất động sản là tài sản công thì Đơn vị sự nghiệp công lập phải lập đề án sử dụng tài sản công vào mục đích kinh doanh. Đề án sử dụng tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập vào mục đích kinh doanh như sau:

Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đề án, cơ quan được giao thực hiện nhiệm vụ quản lý tài sản công, Sở tài chính xem xét, cho ý kiến thẩm định về: sự cần thiết, sự phù hợp của đề án với chức năng, nhiệm vụ của đơnvij, quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công và pháp luật có liên quan, có nội dung trong đề án cần phải chỉnh lý, hoàn thiện; Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được ý kiến thẩm định, đơn vị sự nghiệp công lập có trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu ý kiến thẩm định để chỉnh lý, hoàn thiện đề án, trình cơ quan, người có thẩm quyền phê duyệt. Riêng đối với đề án sử dụng tài sản là cơ sở hoạt động sự nghiệp của đơn vị sự nghiệp công lập thuộc trung ương quản lý có nguyên giá theo sổ kế toán từ 500 tỷ đồng trở lên thì Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan trung ương phải xin ý kiến của Thủ tướng Chính phủ (đối với đơn vị sự nghiệp công lập thuộc trung ương quản lý), Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải xin ý kiến của Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp (đối với đơn vị sự nghiệp thuộc địa phương quản lý) trước khi phê duyệt.

Các loại đất được phép chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai thì được phép kinh doanh quyền sử dụng đất.

Căn cứ vào Điều 188 Luật đất đai 2013 thì người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:

– Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trừ trường hợp luật định. Giấy chứng nhận là căn cứ để xác định ai là người có quyền sử dụng đất, ai là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất theo thông tin tại trang bìa hoặc trang ghi thông tin biết động. Điều kiện này rất quan trọng bởi nếu không có nó giao dịch vô hiệu và đất không được phép kinh doanh.

– Đất không có tranh chấp. Khi đất có tranh chấp thì NSD đất không được sang tên (chuyển nhượng) hoặc các quyền khác như chuyển đổi đất nông nghiệp, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất.

– Quyền sử dụng đất không bị kê biên để đảm bảo thi hành án. Đất bị kê biên là hoạt động bảo đảm thi hành án do cơ quan thi hành tiến hành kiểm kê, lập danh sách tài sản (trong đó có đất đai) thuộc sở hữu của bị can, bị cáo hoặc người có trách nhiệm dân sự theo bản án, quyết định của Toà án. Pháp luật quy định điều kiện này là phù hợp với mục đích là bảo đảm an toàn tuyệt đối cho các giao dịch, bảo vệ lợi ích chính đáng cho các chủ thể tham gia.

– Trong thời hạn sử dụng đất

Thời hạn sử dụng đất là khoảng thời gian mà người sử dụng đất được thực hiện các quyền của mình. Tuỳ từng loại đất và trường hợp cụ thể mà thời hạn sử dụng đất là ổn định lâu dài, 50 năm, 70 năm, 99 năm. Thời hạn sử dụng đất khi nhận chuyển nhượng phụ thuộc vào thời hạn của chính loại đất đó. Nội dung này được quy định rõ tại Điều 128 Luật đất đai 2013: “Thời hạn sử dụng đất khi nhận chuyển quyền sử dụng đất đối với loại đất có quy định thời hạn là thời gian sử dụng đất còn lại của thời hạn sử dụng đất trước khi nhận chuyển quyền sử dụng đất”. Do đó đất trong thời hạn sử dụng của chủ sở hữu mới được phép chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại,..và được phép kinh doanh quyền sử dụng đất.

Như vậy, pháp luật KDBĐS đã quy định rất rõ ràng và cơ bản các điều kiện về BĐS được đưa vào kinh doanh. Tại Khoản 1 Điều 8 Luật KDBĐS xác định kinh doanh BĐS không đủ điều kiện theo quy định của Luật này là một hành vi cấm thực hiện. Do đó, các tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản phải tuân thủ theo các điều kiện như trên, trường hợp vi phạm pháp luật và phải chịu các chế tài tương xứng cho hành vi đó.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bình luận quy định pháp luật về chính sách khoan hồng theo Luật Cạnh tranh.

Chính sách khoan hồng là thuật ngữ không hề xa lạ đối với mọi người, đặc biệt là trong lĩnh vực cạnh tranh. Thế nhưng, Luật Cạnh tranh 2004 chưa đề cập mà phải đến khi ban hàng bộ luật mới luật Cạnh tranh 2018, chính sách khoan hồng mới được ghi nhận.

I. Lý luận chung về chính sách khoan hồng

1. Khái niệm

Khoan hồng là việc miễn hoặc giảm hình phạt đối với các doanh nghiệp vi phạm pháp luật cạnh tranh nhưng sau đó lại hợp tác với các cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh. Theo đó, nội dung cốt lõi của chính sách này là miễn hoặc giảm đáng kể tổ chức, cá nhân tham gia chương trình khoan hồng khỏi nguy cơ bị xử phạt hành chính hoặc bị phạt nặng. mà lẽ ra họ phải chịu thiệt hại do vi phạm luật cạnh tranh.

2. Vai trò của chính sách khoan hồng

Giá trị của chính sách khoan hồng nằm ở khả năng cho phép các cơ quan quản lý cạnh tranh được tiếp cận các chứng cứ và thông tin mật liên quan đến các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bất hợp pháp, mà trên thực tế nếu không có chính sách này thì sẽ cực kỳ khó khăn và tốn thời gian để thu thập chúng trong giai đoạn đầu của cuộc điều tra. Vì vậy, khoan hồng có thể được sử dụng như là một phương pháp bổ sung trong việc thu thập chứng cứ, giúp giảm đáng kể chi phí điều tra cũng như chi phí xét xử cho cả cơ quan quản lý cạnh tranh và tòa án. Các cơ hội được hưởng miễn trừ hình phạt cũng khuyến khích người có chức vụ trong doanh nghiệp, là người nắm giữ đầy đủ và chi tiết các bằng chứng ngay từ đầu, cung cấp thông tin về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và từ đó giúp cho việc thu thập các chứng cứ này của các cơ quan quản lý cạnh tranh trở nên dễ dàng hơn.

Như vậy, ảnh hưởng của chính sách khoan hồng tạo ra một hiệu ứng vòng tròn như sau: chính sách khoan hồng tạo động lực cho các thành viên giữ lại chứng cứ về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ngay từ ban đầu, điều này làm cho cơ quan quản lý cạnh tranh dễ dàng phát hiện, điều tra và xử lý hơn; một khi hiệu quả thực thi pháp luật của cơ quan quản lý cạnh tranh tăng cao, nguy cơ doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị phát hiện và xử phạt cũng sẽ càng gia tăng; trong tình thế đó, doanh nghiệp sẽ bị thúc đẩy chọn phương án chủ động tự tiết lộ hành vi vi phạm để xin được áp dụng biện pháp khoan hồng hơn là thụ động chờ bị cơ quan cạnh tranh phát hiện và xử lý nghiêm khắc.

3. Nội dung quy định chính sách khoan hồng theo Luật Cạnh tranh 2018

Nội dung chính sách khoan hồng được quy định tại Điều 112 Luật Cạnh tranh 2018 cụ thể như sau:

“1. Doanh nghiệp tự nguyện khai báo giúp Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia phát hiện, điều tra và xử lý hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm quy định tại Điều 12 của Luật này được miễn hoặc giảm mức xử phạt theo chính sách khoan hồng.

2. Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia quyết định việc miễn hoặc giảm mức xử phạt theo chính sách khoan hồng.

3. Việc miễn hoặc giảm mức xử phạt quy định tại khoản 1 Điều này được thực hiện trên cơ sở đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:

a) Đã hoặc đang tham gia với vai trò là một bên của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại Điều 11 của Luật này;

b) Tự nguyện khai báo hành vi vi phạm trước khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định điều tra;

c) Khai báo trung thực và cung cấp toàn bộ các thông tin, chứng cứ có được về hành vi vi phạm, có giá trị đáng kể cho việc phát hiện, điều tra và xử lý hành vi vi phạm;

d) Hợp tác đầy đủ với cơ quan có thẩm quyền trong suốt quá trình điều tra và xử lý hành vi vi phạm.

4. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với doanh nghiệp có vai trò ép buộc hoặc tổ chức cho các doanh nghiệp khác tham gia thỏa thuận.

5. Chính sách khoan hồng áp dụng cho không quá 03 doanh nghiệp đầu tiên nộp đơn xin hưởng khoan hồng đến Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại khoản 3 Điều này.

6. Căn cứ xác định doanh nghiệp được hưởng khoan hồng được quy định như sau:

a) Thứ tự khai báo;

b) Thời điểm khai báo;

c) Mức độ trung thực và giá trị của các thông tin, chứng cứ đã cung cấp.

7. Việc miễn, giảm mức phạt tiền được thực hiện như sau:

a) Doanh nghiệp đầu tiên có đơn xin hưởng khoan hồng và đáp ứng đủ điều kiện quy định tại khoản 3 Điều này được miễn 100% mức phạt tiền;

b) Doanh nghiệp thứ hai và thứ ba có đơn xin hưởng khoan hồng và đáp ứng đủ điều kiện quy định tại khoản 3 Điều này lần lượt được giảm 60% và 40% mức phạt tiền.”

Theo đó, để được hưởng chính sách khoan hồng, các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cần đáp ứng các điều kiện quy định tai Khoản 3 Điều 112 Luật Cạnh tranh 2018, cụ thể như sau:

Thứ nhất, đã hoặc đang tham gia với vai trò là một bên của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

Chỉ những doanh nghiệp là thành viên của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh mới là đối tượng được hưởng khoan hồng, trừ những doanh nghiệp có vai trò tổ chức hoặc ép buộc các doanh nghiệp khác tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Như vậy, tất cả các cá nhân và tổ chức kinh doanh, bao gồm các loại hình công ty, hợp tác xã và hộ kinh doanh (trừ một số chủ thể được pháp luật quy định) đều có thể là đối tượng được hưởng chính sách khoan hồng nếu tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

Thứ hai, tự nguyện khai báo hành vi vi phạm trước khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định điều tra.

Pháp luật Việt Nam chỉ cho phép miễn giảm trách nhiệm với doanh nghiệp thực hiện khai báo trước khi cơ quan có thẩm quyền bắt đầu việc điều tra. Nếu cơ quan điều tra tự phát hiện hoặc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị tố giác bởi một bên thứ ba nào đó, và việc điều tra đã được bắt đầu, thì các chủ thể tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh mất hoàn toàn cơ hội được hưởng khoan hồng.

Thứ ba, khai báo trung thực và cung cấp toàn bộ các thông tin, chứng cứ có được về hành vi vi phạm, có giá trị đáng kể cho việc phát hiện, điều tra và xử lý hành vi vi phạm.

Tiêu chuẩn của chất lượng thông tin mà doanh nghiệp cung cấp là phải “có giá trị đáng kể”, tuy nhiên Luật Cạnh tranh lại chưa có những quy định để xác định giá trị của thông tin. Việc đánh giá chất lượng của thông tin phụ thuộc và sự chủ quan tùy nghi của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia. Các doanh nghiệp tiến hành khai báo và cung cấp thông tin cho cơ quan điều tra vẫn chưa chắc được hưởng khoan hồng nếu các thông tin cung cấp không được Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia đánh giá là không đủ giá trị.

Thứ tư, hợp tác với cơ quan điều tra trong suốt quá trình điều tra và xử lý hành vi vi phạm.

Ngoài việc tự nguyện khai báo và cung cấp những thông tin về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, các chủ thể khai báo cần phối hợp với cơ quan điều tra trong suốt quá trình điều tra, cho đến khi hành vi vi phạm đã được xử lý.

Như vậy, các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh vẫn có cơ hội được hưởng chính sách khoan hồng nếu đáp ứng các điều kiện nêu trên. Khi đó, các doanh nghiệp đầu tiên, thứ hai và thứ ba nộp đơn xin hưởng khoan hồng sẽ nhận được mức miễn giảm lần lượt là 100%, 60% và 40% mức phạt tiền đối hành vi đã thực hiện.

4. Phân biệt “Chính sách khoan hồng” và “Chính sách miễn trừ” trong luật Cạnh tranh

Chính sách khoan hồng là một nội dung hoàn toàn mới được ghi nhận trong Luật Cạnh tranh 2018 cho nên cơ chế mới này rất dễ khiến nhiều người nhầm lẫn với chính sách miễn trừ đã có trong bộ luật. Trên thực tế 2 chính sách này là hoàn toàn khác nhau:

– Về mục đích

Đối với miễn trừ: Theo thông lệ quốc tế, các trường hợp miễn trừ được xây dựng dựa trên nguyên tắc lập luận hợp lý (rule of reason), theo đó, nguyên tắc đánh giá tính bất hợp pháp của một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trên cơ sở cân nhắc giữa các tác động tích cực và tiêu cực, đặc biệt là tác động thúc đẩy cạnh tranh và tác động hạn chế cạnh tranh hoặc giữa tác động hạn chế cạnh tranh với hiệu quả hay lợi ích kinh tế mà hành vi thỏa thuận mang lại. Xét về bản chất, khi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đã cấu thành đủ các dấu hiệu để kết luận là vi phạm luật cạnh tranh, tuy nhiên, nếu lợi ích đối với nền kinh tế và người tiêu dùng mà thỏa thuận đó có thể mang lại cao hơn tác động hạn chế cạnh tranh thì thỏa thuận đó có thể được cơ quan cạnh tranh cho phép thực hiện. 

Hiện nay, tại Việt Nam theo quy định mới của LCT 2018, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm sẽ được miễn trừ có thời hạn nếu nó có lợi cho người tiêu dùng và đáp ứng một trong bốn điều kiện sau đây: (1) Tác động thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ; (2) Tăng cường sức cạnh tranh của DN Việt Nam trên thị trường quốc tế; (3) Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm; (4) Thống nhất các điều kiện thực hiện hợp đồng, giao hàng, thanh toán nhưng không liên quan đến giá và các yếu tố của giá. Như vậy, mục đích hướng tới khi xây dựng cơ chế miễn trừ cho các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm là thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường, bên cạnh đó còn mang đến lợi ích cho người tiêu dùng.

Đối với chính sách khoan hồng: Trên một phương diện khác so với miễn trừ, chính sách khoan hồng được xây dựng nhằm thu hút tham gia khai báo, hợp tác của các thành viên trong thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, từ đó khiến cho những thỏa thuận bất chính được đưa ra ánh sáng và xử lý theo quy định. Điều này cho thấy chính sách khoan hồng và cơ chế miễn trừ được thiết kế với mục đích hoàn toàn khác biệt: một bên hỗ trợ công tác phát hiện và điều tra, xử lý các hành vi vi phạm, một bên thúc đẩy lợi ích của kinh tế và quyền lợi cho người tiêu dùng.

– Về thời điểm áp dụng và thủ tục:

Thủ tục miễn trừ và chính sách khoan hồng mang bản chất của thủ tục hành chính được thực hiện theo quy định của pháp luật cạnh tranh. Do vậy, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hưởng quyền miễn trừ hoặc hưởng quyền khoan hồng không mặc nhiên được áp dụng khi thỏa mãn các điều kiện do luật định về mặt nội dung mà bắt buộc phải nhận được quyết định chấp thuận của cơ quan quản lý cạnh tranh (CQQLCT).

Cụ thể, để được hưởng chính sách miễn trừ thì các thành viên dự định tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm phải tiến hành nộp hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ cho CQQLCT có thẩm quyền. Căn cứ trên hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ, CQQLCT ra quyết định chấp thuận hoặc quyết định không chấp thuận cho các bên được hưởng miễn trừ. Theo đó, các bên tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đáp ứng điều kiện được hưởng miễn trừ chỉ được thực hiện thỏa thuận hạn chế cạnh tranh sau khi có quyết định hưởng miễn trừ. Điều cho thấy chính sách miễn trừ bắt đầu xác lập trước khi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đưa vào hoạt động.

Trong khi đó, doanh nghiệp (DN) đã hoặc đang tham gia với vai trò là một bên của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh muốn xin hưởng khoan hồng phải tiến hành liên hệ với CQQLCT để khai báo và xin được miễn, giảm mức phạt tiền theo chính sách khoan hồng. Qua đó, chúng ta thấy rằng chính sách khoan hồng lại đặt ra đối với những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đã được xây dựng và vận hành, khi mà có thành viên nào đó đứng ra khai báo về hoạt động bất chính của thỏa thuận.

– Về phạm vi lợi ích mà doanh nghiệp đạt được:

Nếu như chính sách khoan hồng cho phép các DN khai báo được hưởng quyền giảm trừ, thậm chí có thể miễn trừ hoàn toàn hình phạt mà lẽ ra phải bị xử lý theo quy định thì ở khía cạnh khác, chính sách miễn trừ lại đưa đến cơ hội cho các DN có một khoảng thời hạn nhất định được hưởng miễn trừ việc áp dụng các chế tài, trên cơ sở đó tạo điều kiện cho các DN có thể dành thời gian tập trung nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua việc thực hiện các thỏa thuận hợp tác với các DN khác là đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Theo đó, thấy phần thưởng mà các bên trong thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nhận được từ chính sách khoan hồng tồn tại dưới 02 mức độ khác nhau, có thể được giảm trừ hoặc miễn trừ hình phạt tùy thuộc vào điều kiện mà DN đó thỏa mãn. Mặt khác, chính sách khoan hồng không đặt ra thời hạn áp dụng, điều này được hiểu là nếu một DN nhận được quyết định cho hưởng chính sách khoan hồng thì đương nhiên nhận được quyền miễn/giảm trên cơ sở xem xét toàn bộ quá trình hoạt động của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đó. Trong khi đó, các DN được hưởng chính sách miễn trừ sẽ thoát khỏi hoàn toàn hình phạt (tức miễn trừ hoàn toàn) và quyết định cho hưởng miễn trừ không có giá trị vĩnh viễn, chúng luôn có giá trị trong một thời hạn nhất định (trong quyết định cho hưởng miễn trừ luôn xác định thời hạn cho hiệu lực) hoặc có thể được xem xét lại và có thể bị bãi bỏ theo quy định của pháp luật.

II. Bình luận và đánh giá thực tiễn áp dụng chính sách khoan hồng theo Luật Cạnh tranh 2018

Do Chính sách khoan hồng là điểm mới trong Luật Cạnh tranh 2018, do đó khi áp dụng vào thực tế vẫn không tránh khỏi những hạn chế, tuy nhiên, bên cạnh đó, rất nhiều ưu điểm cần phát huy, em xin đánh giá, bình luận chung về chính sách khoan hồng ở một số điểm như sau:

Về giá trị pháp lý: 

Bản chất chính sách khoan hồng là một công cụ nhằm phát hiện để điều tra, xử lý thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nên chính sách khoan hồng của nhiều nước trên thế giới không được quy định thành một điều khoản trong luật, tức là không phải là một quy định pháp lý mà có tính chất là một công cụ chính sách do Cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh xây dựng, ban hành và áp dụng. Chính sách khoan hồng tại Hoa Kỳ do Bộ Tư pháp ban hành để trên cơ sở đó Cơ quan điều tra chống độc quyền thuộc Bộ Tư pháp áp dụng. Chính sách khoan hồng tại Úc do Ủy ban Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng xây dựng và áp dụng. Chính sách khoan hồng tại Nhật do Ủy ban thương mại công bằng ban hành và áp dụng. Còn tại Việt Nam, chính sách khoan hồng được luật định tại Điều 112 Luật Cạnh tranh 2018 của Việt Nam là một quy định pháp lý làm cơ sở để Cơ quan cạnh tranh thực thi nên có giá trị pháp lý cao đảm bảo tính chắc chắn, minh bạch đối với cộng đồng doanh nghiệp và được đảm bảo thực thi cùng với hiệu lực thực thi của Luật Cạnh tranh 2018 của Việt Nam.

Về mục tiêu và ý nghĩa: 

Chính sách khoan hồng quy định trong Luật Cạnh tranh 2018 của Việt Nam đã thể hiện đầy đủ mục tiêu và ý nghĩa của chính sách là nhằm giúp Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia phát hiện để điều tra và xử lý đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm trên cơ sở tự nguyện khai báo của doanh nghiệp về hành vi vi phạm giống như mục tiêu và ý nghĩa của chính sách khoan hồng mà các nước trên thế giới trong đó có Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc, Châu Âu, Malaysia… đã áp dụng. Điều này được thể hiện rõ tại khoản 1 Điều 112 Luật Cạnh tranh 2018 của Việt Nam, theo đó doanh nghiệp tự nguyện khai báo giúp phát hiện, điều tra và xử lý hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm được miễn hoặc giảm mức xử phạt theo chính sách khoan hồng.

Về thẩm quyền:

Người đứng đầu của Cơ quan cạnh tranh (Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia) là Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia có quyền quyết định việc cho miễn hoặc giảm mức xử phạt. Quy định này cũng giống như ở nhiều nước là Cơ quan cạnh tranh có quyền quyết định áp dụng chính sách khoan hồng để miễn hoặc giảm mức xử phạt cho đương đơn. Tuy nhiên, kinh nghiệm các nước cũng cho thấy khi Cơ quan cạnh tranh áp dụng chương trình khoan hồng để miễn hoặc giảm mức xử phạt thì cần có sự công nhận của các cơ quan có liên quan như Cơ quan điều tra hình sự, Cơ quan công tố, Cơ quan tòa án.

     Về điều kiện áp dụng: Quy định tại Điều 112 Luật Cạnh tranh 2018 của Việt Nam về cơ bản đã đầy đủ và minh bạch về các điều kiện để được hưởng khoan hồng, điều này cho phép mọi doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức có thể tự đánh giá về khả năng của mình đáp ứng các điều kiện theo luật định để có thể được áp dụng chính sách khoan hồng. Khoản 3 Điều 12 Luật Cạnh tranh 2018 của Việt Nam quy định điều kiện để được miễn giảm mức xử phạt theo chính sách khoan hồng là tự nguyện khai báo về hành vi vi phạm trước khi Cơ quan cạnh tranh ra quyết định điều tra, cung cấp thông tin, bằng chứng và hợp tác đầy đủ với Cơ quan cạnh tranh giống như chính sách khoan hồng ở các nước.

     Yếu tố tự nguyện khai báo và khai báo trước khi có quyết định điều tra có tính chất tiên quyết đảm bảo đương đơn có thể được hưởng khoan hồng. Cần nhận thức rõ là đương đơn khai báo trước khi có quyết định điều tra, khác với việc khai báo trước khi cơ quan điều tra biết hoặc có thông tin về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Quy định khai báo trước khi có quyết định điều tra có tính linh hoạt cao hơn và tạo cơ hội hơn cho cả doanh nghiệp muốn khai báo và cả cơ quan điều tra cạnh tranh, bởi trong nhiều trường hợp, mặc dù Cơ quan cạnh tranh có thông tin về thỏa thuận nhưng chưa đầy đủ và đảm bảo tính chắc chắn để quyết định điều tra, do đó cần có thêm các thông tin, bằng chứng cụ thể khác và điều đó rất cần từ các đương đơn xin hưởng khoan hồng.

     Những doanh nghiệp có vai trò ép buộc, tổ chức sẽ không được miễn giảm mức xử phạt theo chính sách khoan hồng. Quy định này nhằm tránh trường hợp doanh nghiệp lợi dụng, sử dụng chính sách pháp luật và quyền lực của cơ quan thực thi như một biện pháp cạnh tranh không chính đáng của mình.

     Tuy nhiên, kinh nghiệm của các nước cũng cho thấy cần có một trình tự, thủ tục cụ thể nhằm đảm bảo rõ ràng, minh bạch và sự chắc chắn cho các cá nhân, tổ chức và cả cơ quan thực thi khi áp dụng.

Về số lượng doanh nghiệp:

Khoản 5 Điều 112 Luật Cạnh tranh 2018 của Việt Nam quy định chính sách khoan hồng chỉ áp dụng cho tối đa 03 doanh nghiệp đầu tiên nộp đơn xin hưởng khoan hồng và đáp ứng đủ điều kiện. Theo quy định tại khoản 6 điều này, cơ sở để xác định thứ tự ưu tiên của ba doanh nghiệp đầu tiên là thứ tự khai báo, thời điểm khai báo và mức độ trung thực và giá trị của các thông tin, chứng cứ đã cung cấp. Việc quy định số lượng doanh nghiệp được hưởng khoan hồng tối đa 03 doanh nghiệp một phần nhằm hạn chế số lượng chủ thể vi phạm được hưởng khoan hồng để đảm bảo tính răn đe và nghiêm minh của pháp luật (các doanh nghiệp ngoài 03 doanh nghiệp này sẽ bị xử lý nghiêm minh) đồng thời không hạn chế quá ít doanh nghiệp để có cơ hội thu được nhiều thông tin, tài liệu, bằng chứng có giá trị hơn.

Về mức miễn giảm:

Khi đã xác định được 03 doanh nghiệp đầu tiên, theo quy định tại khoản 7 Điều 112 Luật Cạnh tranh 2018 của Việt Nam, doanh nghiệp thứ nhất được miễn 100% mức phạt tiền; doanh nghiệp thứ hai và thứ ba lần lượt được giảm 60% và 40% mức phạt tiền. Quy định này đảm bảo mục tiêu hiệu quả giống như chính sách khoan hồng của các nước là bảo vệ người trình báo khỏi hình phạt, hoặc giảm hình phạt dưới mức họ phải chịu. Quy định này cũng đảm bảo tính hấp dẫn của chính sách.

 Một điểm quan trọng nữa là cùng với quy định chính sách khoan hồng, Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) của Việt nam tại Điều 217 quy định về tội vi phạm các quy định về cạnh tranh cũng đã lần đầu tiên quy định xử lý hình sự đối với các tổ chức, cá nhân tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm, làm tiền đề cho việc thực thi hiệu quả chính sách khoan hồng tại Luật Cạnh tranh 2018 của Việt Nam.

Chính sách khoan hồng tại Điều 112 Luật Cạnh tranh 2018 của Việt Nam là một cơ chế mới để phát hiện thỏa thuận hạn chế cạnh tranh mà Cơ quan cạnh tranh có thể sử dụng. Điều này cũng khiến các thỏa thuận phi pháp trở nên rủi ro hơn, có nhiều khả năng bị phá vỡ hơn và buộc các doanh nghiệp phải cân nhắc đến việc liệu có nên tham gia vào các thỏa thuận với những kẻ có khả năng lừa đảo hay không.

III. Một số giải pháp khắc phục

Mặc dù có giá trị pháp lý và tính chắc chắn về mặt pháp lý cao nhưng do chỉ là một điều khoản trong luật nên quy định về chính sách khoan hồng tại Điều 112 Luật Cạnh tranh 2018 của Việt Nam chủ yếu là những nguyên tắc cơ bản giới hạn trong một điều khoản, chưa thực sự chi tiết, cụ thể nên các cá nhân, tổ chức và Cơ quan cạnh tranh khó có thể áp dụng hiệu quả ngay được, chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu cần thiết, đặc biệt là về mặt thủ tục, để đảm bảo tính khả thi, hiệu lực, hiệu quả. Vì vậy, quy định này cần có hướng dẫn cụ thể hơn.

Ngoài ra, việc chính sách khoan hồng không áp dụng đối với các cá nhân là một bất cập. Để gia tăng khả năng thành công trong các vụ việc về thoả thuận HCCT, nên bổ sung việc áp dụng chính sách khoan hồng đối với các cá nhân có liên quan. Vì vậy, cần sửa đổi Điều 112 Luật Cạnh tranh năm 2018 theo hướng: “cá nhân có liên quan đến việc hình thành, thúc đẩy, thực hiện các thoả thuận hạn chế cạnh tranh nếu thoả mãn các điều kiện tại khoản 3 Điều này có thể được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc giảm hình phạt”

Như vậy, cần thiết xây dựng và phát triển “chính sách khoan hồng” trong quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam một cách hoàn thiện hơn. Khi đưa ra những đề xuất mới cần học hỏi kinh nghiệm các nước, kết hợp với nguyên tắc minh bạch, rõ ràng, bảo mật thông tin đối tượng khai báo và chương trình bảo vệ nhân chứng… bởi đây là một chính sách rất quan trọng dành cho các chủ ttheertrong lĩnh vực cạnh tranh.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Luật Cạnh tranh 2018
  2. Nguyễn Anh Tuấn, Cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng chính sách khoan hồng theo Luật Cạnh tranh của một số nước trên thế giới và đề xuất bổ sung cho Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý số 1/2013
  3. 4 điều kiện hưởng khoan hồng trong thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, Nguyễn Kim Anh
  4. Chính sách khoan hồng theo quy định của Luật Cạnh tranh 2018,

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Phân tích các nguyên tắc của kinh doanh bất động sản. Nhận định, đánh giá về việc thực thi pháp luật về các nguyên tắc này trên thực tế thời gian qua.

1. Phân tích các nguyên tắc của kinh doanh bất động sản 

Theo Điều 4 Luật Kinh Doanh Bất động sản 2014 quy định về các nguyên tắc của kinh doanh bất động sản bao gồm: 

“1. Bình đẳng trước pháp luật; tự do thỏa thuận trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên thông qua hợp đồng, không trái quy định của pháp luật. 

2. Bất động sản đưa vào kinh doanh phải có đủ điều kiện theo quy định của Luật này. 

3. Kinh doanh bất động sản phải trung thực, công khai, minh bạch. 

4. Tổ chức, cá nhân có quyền kinh doanh bất động sản tại khu vực ngoài phạm vi bảo vệ quốc phòng, an ninh theo quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.” 

Đây là những yêu cầu cơ bản đối với các chủ thể kinh doanh bất động sản có là cơ sở để quản lý nhà nước về kinh doanh bất động sản, các nguyên tắc này là: 

Thứ nhất, kinh doanh bất động sản phải Bình đẳng trước pháp luật; tự do thỏa thuận trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên thông qua hợp đồng, không trái quy định của pháp luật. 

Về bình đẳng trước pháp luật: được quy định tại Điều 10 Luật kinh doanh bất động sản 2014. Theo đó, trong phạm vi quy định của điều luật thì các chủ thể có quyền và nghĩa vụ như nhau. Quan hệ bình đẳng giúp các bên cạnh tranh nhau 1 cách công bằng,cạnh tranh bằng thực lực chứ không phải lách luật. 

Về tự do thỏa thuận trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên thông qua hợp đồng, không trái quy định của pháp luật. Bản chất của các giao dịch và sự thỏa thuận về các nội dung của các chủ thể. Nhà nước tôn trọng và công nhận kết quả thỏa thuận của các bên thông qua hình thức hợp đồng, chỉ cần nó không trái quy định của pháp luật. 

Thứ hai, hàng hóa (bất động sản) đưa vào kinh doanh bất động sản phải thỏa mãn các điều kiện của pháp luật. 

Bất động sản là hàng hóa đặc biệt, thể hiện ở tính chất, đặc thù là không di dời được.Các điều kiện của pháp luật ở đây được hiểu là các quy định cụ thể để bất động sản có thể đưa vào kinh doanh. Chính vì vậy, pháp luật chỉ cho phép kinh doanh những bất động sản nào có “đăng ký quyền sở hữu nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất trong giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất. Đối với nhà, công trình xây dựng có sẵn trong dự án đầu tư kinh doanh bất động sản thì chỉ cần có giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai; Không có tranh chấp về quyền sử dụng đất,quyền sở hữu nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất; Không bị kê biên để bảo đảm thi hành án” đối với Nhà, công trình xây dựng (Theo Khoản 1 Điều 9 Luật Kinh Doanh Bất động sản 2014) và “Có giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai; Không có tranh chấp về quyền sử dụng đất; Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án; Trong thời hạn sử dụng đất” đối với Các Loại Đất được phép kinh doanh quyền sử dụng đất. (Khoản 1 Điều 9 Luật Kinh Doanh Bất Động sản 2014). 

Như vậy, các quy định này là rất cơ bản và cần thiết để chứng minh tình trạng pháp lý của tài sản để đảm bảo an toàn cho các bên giao dịch, đồng thời tránh những tranh chấp không đáng có có thể xảy ra trong tương lai. Việc quy định các điều kiện cho bất động sản sẽ tạo ra một môi trường kinh doanh bất động sản an toàn và phát triển cho các nhà đầu tư kinh doanh bất động sản. 

Thứ ba, kinh doanh bất động sản phải trung thực, công khai và minh bạch. 

Trong pháp luật về kinh doanh bất động sản thì vấn đề công khai, minh bạch là yếu tố rất quan trọng để thị trường bất động sản hoạt động một cách hiệu quả, đúng quy luật về vận động. Có thể nhận thấy với một đất nước đang phát triển với dân cư đông thì nhu cầu nhà ở và nhu cầu phát triển kinh tế sẽ rất được chú trọng, như vậy thì hoạt động kinh doanh bất động sản sẽ rất tiềm năng. Tình trạng đầu cơ nhà đất, kích cầu ảo để nâng giá bất động sản khiến cho thị trường rất bất ổn. Thông tin về bất động sản không đầy đủ,thiếu minh bạch, quyền và nghĩa vụ các bên tham gia giao dịch không được đảm bảo,…đo vậy, nguyên tắc này đặt ra nhằm tập trung vào việc công khai thông tin về bất động sản như là vị trí, quy hoạch chi tiết, công năng, thực trạng và tình trạng pháp lý của chính bất động sản đó; công khai các hoạt động kinh doanh bất động sản liên quan đến bán,chuyển nhượng, cho thuê bất động sản và xây dựng quy chế công khai thủ tục mua bán,chuyển nhượng, cho thuê bất động sản thông qua các sàn giao dịch, dịch vụ môi giới hoặc định giá, như vậy mới có thể khuyến khích đầu tư, tạo ra nền thị trường ổn định,loại bỏ các gian lận, lừa đảo trong kinh doanh bất động sản. 

Cuối cùng, Tổ chức, cá nhân có quyền kinh doanh bất động sản tại khu vực ngoài phạm vi bảo vệ quốc phòng, an ninh theo quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. 

Có thể thấy khu vực bảo vệ quốc phòng là thuộc về chính trị của mỗi quốc gia. Nó Nắm giữ các bí mật kinh tế quân sự của Nhà nước, ảnh hưởng gián tiếp tới đời sống vật chất và nền kinh tế của một nước nên không được phép kinh doanh bất động sản trong khu vực này là hợp lý. Nguyên tắc này đảm bảo sự hòa bình ổn định, sự bình ổn san ninh quốc phòng nước nhà. Rõ ràng, chính trị không phải để kinh doanh. 

2. Đánh giá về việc thực thi pháp luật về các nguyên tắc này trên thực tế thời gian qua 

Cơ bản các nguyên tắc này tương đối rõ ràng và đơn giản, các chủ thể tham vào hoạt động kinh doanh bất động sản đều có thể dễ dàng thực hiện, nó không quá phức tạp và khó hiểu. Tất cả các nguyên tắc này được đặt ra mang lại lợi ích chủ yếu cho chủ thể thực hiện kinh doanh bất động sản nên việc áp dụng trong thực tế khá dễ, các chủ thể tự nguyện tương đối lớn, không còn dừng lại ở nguyên tắc “suông”. 

Về quy định của pháp luật về nguyên tắc trung thực trong hoạt động kinh doanh bất động sản: Một trong những nguyên tắc của BLDS 2015, nguyên tắc chung trong linh vực luật tư, là yêu cầu các bên tham gia quan hệ dân sự phải đảm bảo tính thiện chí, trung thực. Vì vậy, những giao dịch liên quan đến bất động sản thông thường đều phải đến trước cơ quan chức năng của Nhà nước, phòng/văn phòng công chứng, văn phòng thừa phát lại, hoặc phải có những người làm chứng để những giao dịch này thực sự khách quan, trung thực. Nhằm hoàn thiện các quy định liên quan đến hợp đồng kinh doanh bất động sản thì tính trung thực cũng được ghi nhận là nguyên tắc của pháp luật về kinh doanh bất động sản.1 Ngoài ra cần quy định việc giao dịch hàng hóa bất động sản phải qua sàn giao dịch bất động sản là bắt buộc. 

Trên thực tế, để thực hiện nguyên tắc này khá là khó, vì vấn đề lợi nhuận luôn có sức hấp dẫn đối với các nhà kinh doanh bất động sản, trong khi đó thì việc khai gian về giá trị của bất động sản hay tâng bốc về bất động sản đều sẽ mang lại lợi nhuận. Do Đó, thực tế các chủ thể không tuân theo nguyên tắc là điều dễ hiểu. Về quy định của pháp luật về nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động kinh doanh bất động sản: Do Luật Đầu tư (sửa đổi) năm 2020 đã quy định kinh doanh bất động sản là ngành nghề kinh doanh có điều kiện, do vậy các doanh nghiệp phải công khai thông tin bao gồm: tên, địa chỉ trụ sở chính, số điện thoại liên lạc, tên người đại diện pháp luật và các thông tin liên quan đến bất động sản đưa vào kinh doanh theo quy định tại Khoản 2 Điều 6 của Luật Kinh doanh bất động sản trên trang thông tin điện tử của doanh nghiệp, tại trụ sở Ban Quản lý dự án đối với dự án đầu tư kinh doanh bất động sản.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam trong giai đoạn 2010-2018.

Chính sách tiền tệ của Việt Nam Giai đoạn 2010 – 2015

– Năm 2010, 2011, trước hai thách thức lớn của nền kinh tế là lạm phát cao và khu vực sản xuất gặp nhiều khó khăn, Ngân hàng Trung ương đã mạnh dạn áp dụng cơ chế điều hành mới là xây dựng và công bố chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng hàng năm thay cho việc các tổ chức tín dụng sẽ tự quyết trong giai đoạn trước. Trong 6 tháng đầu năm 2011, lạm phát tăng 13,29% so với đầu năm và tăng 20% so cùng kỳ năm trước, gây khó khăn cho nỗ lực kiềm chế lạm phát dưới 15% theo mục tiêu đề ra, thị trường bất động sản và chứng khoán sụt giảm mạnh.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng để kiểm soát lạm phát và hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an toàn hệ thống, thực hiện mạnh mẽ các biện pháp điều hành nhằm kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng dưới 20% và điều chỉnh cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung vốn cho sản xuất, giảm tỉ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất. Việc tăng cường thanh tra, giám sát và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm trần lãi suất huy động đã tạo điều kiện cho việc giảm dần mặt bằng lãi suất huy động và cho vay trong những tháng cuối năm.

– Đầu năm 2012, NHNN đã đưa ra mục tiêu giảm lãi suất huy động xuống còn 9-10%/năm vào cuối năm 2012, đồng thời đưa ra lộ trình giảm trung bình mỗi quí 1%/năm. Đến cuối năm 2012, lãi suất huy động VND giảm mạnh từ 3-6%/năm, lãi suất cho vay giảm từ 5-9%/năm so với cuối năm 2011 và trở về mức lãi suất của năm 2007. Lãi suất cho vay ưu tiên giảm về mức 12%/năm, cho vay sản xuất kinh doanh khác và cho vay tiêu dùng ở mức 12-15%/năm, riêng lãi suất cho vay đối với các khách hàng tốt chỉ còn 9-11%/năm. Tổng phương tiện thanh toán và tín dụng tăng lần lượt khoảng 20% và 9%, phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát ở mức thấp (6,8%), góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

– Năm 2013, Quốc hội và Chính phủ đề ra trong về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt và đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, chủ động điều chỉnh lượng tiền trong lưu thông nhằm đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối và kiểm soát tiền tệ. Tính đến cuối tháng 8/2013, tín dụng cho nền kinh tế đã tăng 6,45% so với đầu năm, khả năng đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng 12% trong năm 2013 đang trở thành hiện thực. 

– Năm 2014, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 2/1/2014, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 13/2/2012. Kết quả đạt được là lạm phát giảm so với năm 2013 và là mức thấp nhất trong hơn một thập kỷ. Tốc độ tăng giá tiêu dùng (tính theo năm) đã trượt về ngưỡng 2%, tính đến cuối năm 2014 CPI tăng khoảng 1,84%. Tính đến 12/12/2014, tỷ giá VND/USD liên ngân hàng là 21.126 đồng, không thay đổi kể từ ngày 19/6/2014, thấp hơn 0,6% so với trần tỷ giá. Thanh khoản thị trường ngoại hối khá tốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của tổ chức và cá nhân đều được TCTD đáp ứng đầy đủ, kịp thời.

– Năm 2015, trên cơ sở bám sát Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ và nhiệm vụ của ngành ngân Ngân hàng tại Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 27/01/2015 về tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ (CSTT) và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả năm 2015 và diễn biến kinh tế, tiền tệ, trong năm 2015, NHNN đã triển khai đồng bộ và quyết liệt các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý đồng thời đảm bảo an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD).

Tóm lại, Điểm nhấn trong điều hành chính sách tiền tệ trong giai đoạn 2010-2015  là việc NHNN đã rất thành công trong kiểm soát lạm phát. Tháng 8/2011 lạm phát ở mức 23%, năm 2012 xuống còn 6,81%, năm 2013 ở mức 6,04%; năm 2014 giảm mạnh xuống 1,84%, và năm 2015 chỉ còn 0,60%. Lạm phát thấp, đồng thời tăng trưởng tín dụng được kiểm soát phù hợp với tăng trưởng kinh tế, hỗ trợ cho GDP đạt mức tăng trưởng bình quân 5,9% trong giai đoạn 2011-2015. Lãi suất từ mức 20% – 25%/năm, thì nay lãi suất cho vay ngắn hạn còn khoảng 6% – 9%, trung và dài hạn còn 9% – 11%. Bên cạnh những thay đổi tích cực về tín dụng và lãi suất, trong 5 năm qua, chính sách điều hành tỷ giá hợp lý của NHNN cũng đã tạo điều kiện tốt hơn cho DN trong việc chủ động lên kế hoạch sản xuất kinh doanh. Từ chỗ cam kết tỷ giá hàng năm, khi nền kinh tế chịu tác động lớn dần bởi diễn biến tài chính – tiền tệ thế giới, NHNN đã có phản ứng kịp thời.

Chính sách tiền tệ của Việt Nam Giai đoạn 2016-2018

Năm 2016, nền kinh tế thế giới và trong nước vẫn chưa ổn định và nhiều yếu tố khó lường, đặt ra nhiều thách thức cho Chính phủ và Ngân hàng trung ương. NHNN đã điều hành đồng bộ các công cụ, giải pháp CSTT để điều tiết tiền tệ hợp lý, đảm bảo các chỉ tiêu tiền tệ, tín dụng tăng theo đúng định hướng đề ra. Lạm phát cả năm tăng 4,74%, đạt mục tiêu kiểm soát ở mức dưới 5% của Quốc hội. NHNN đã nỗ lực ổn định lãi suất thị trường, trong bối cảnh lạm phát tăng trở lại, tín dụng tăng ngay từ đầu năm, nhu cầu phát hành TPCP lớn, kỳ hạn dài. NHNN đã chủ động điều tiết tiền tệ, cho phép thanh khoản của hệ thống dư thừa, lãi suất thị trường liên ngân hàng ở mức thấp, qua đó tạo điều kiện ổn định lãi suất huy động, giảm sức ép lên lãi suất cho vay nhưng không gây áp lực tăng lạm phát. Nhờ các biện pháp đồng bộ như trên, mặt bằng lãi suất được giữ ổn định, một số TCTD trên cơ sở cân đối nguồn vốn đã giảm lãi suất cho vay hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh[5].

– Năm 2017, NHNN đã thực hiện đồng bộ, linh hoạt các công cụ CSTT để ổn định thị trường tiền tệ, góp phần kiểm soát lạm phát, tạo điều kiện thuận lợi để TCTD giảm lãi suất cho vay và tăng cường khả năng cung ứng tín dụng cho nền kinh tế, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế đạt 6,81% (cao nhất trong 10 năm và cao hơn mục tiêu 6,7%). Đồng thời, NHNN tiếp tục tập trung triển khai các giải pháp giảm lãi suất cho vay nhằm góp phần hỗ trợ doanh nghiệp và tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện lãi suất chịu áp lực gia tăng trong 6 tháng đầu năm 2017, NHNN đã nỗ lực điều hành CSTT đảm bảo thanh khoản cho TCTD, duy trì lãi suất liên ngân hàng ở mức hợp lý, góp phần ổn định và giảm mặt bằng lãi suất thị trường. NHNN đã mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn chất lượng tín dụng, đảm bảo cung ứng vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi trong tiếp cận vốn ngân hàng. Nhờ thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, nguồn vốn tín dụng đã được khơi thông và tăng trưởng tốt ngay từ đầu năm, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, tỷ giá và thị trường ngoại tệ cơ bản ổn định, nợ xấu được kiểm soát dưới 3% và thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt. – Năm 2018, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thắt chặt các chính sách tiền tệ thông qua việc giảm mức độ hoạt động trên thị trường mở, yêu cầu các ngân hàng kiểm soát hoạt động cho vay theo hạn mức tăng trưởng tín dụng và đặt ra mức tăng trưởng tín dụng tối đa cho năm 2018. Đầu tháng 8, ngân hàng nhà nước đã ban hành chỉ thị số 04 để kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng trưởng tín dụng và chất lượng tín dụng của hệ thống ngân hàng. Với chính sách tiền tệ thận trọng hơn của ngân hàng nhà nước, có thể khẳng định rằng ngân hàng nhà nước đã nhận thấy cần phải có biện pháp để ngăn chặn rủi ro gia tăng. Nói cách khác, ngân hàng nhà nước đang định hướng chính sách tiền tệ thắt chặt hơn trong tương lai, có thể thực hiện ngay cả khi chưa dùng đến công cụ lãi suất cơ bản. Tổng cục Thống kê cho biết, tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý III năm 2018 ước tính tăng 6,88% so với cùng kỳ năm trước, tuy thấp hơn mức tăng 7,45% của quý I nhưng cao hơn mức tăng 6,73% của quý II, cho thấy nền kinh tế vẫn giữ được đà tăng trưởng.

Lạm phát ổn định, CPI bình quân 9 tháng tăng 3,57% so với bình quân cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu hàng hóa tăng 15,4%, nhập khẩu hàng hóa tăng 11,8%. Tiêu dùng cuối cùng tăng cao 7,09%, tích lũy tài sản tăng 7,71%. Tính đến ngày 20/9/2018, tăng trưởng tín dụng ở mức 9,52% so với cuối năm 2017, tổng phương tiện thanh toán tăng 8,74% so với cuối năm 2017 (cùng kỳ năm 2017 tăng 9,59%); huy động vốn tăng 9,15% (cùng kỳ năm 2017 tăng 10,08%), thanh khoản đồng Việt Nam của toàn hệ thống vẫn tiếp tục được đảm bảo, hoạt động của các tổ chức tín dụng, thị trường tiền tệ về cơ bản ổn định và thông suốt.

Kết luận, trong giai đoạn 2010 – 2018, nước ta đã không ngừng đổi mới những chính sách tiền tệ thích ứng với nền kinh tế thế giới, nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế vĩ mô. Cụ thể là sự điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hướng điều chỉnh lãi suất chiết khấu, thực hiện hoạt động thị trường mở,… Tuy nhiên, thị trường liên ngân hàng và thị tường tiền tệ cần phải được củng cố và phát triển theo hướng cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, minh bạch hóa các thông tin, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh sôi động để đạt hiệu quả tối đa của chính sách tiền tệ. Bên cạnh đó cần phải hoàn thiện hành lang pháp lý về hệ thống ngân hành, tài chính để có cơ chế thực thi chính sách tiền tệ nói chung và công cụ chính sách tiền tệ được ninh bạch và có hiệu quả. Để chính sách tiền tệ thực sự hiệu qủa thì phải đặt nó trong một tổng thể với các chính sách khác, đặc biệt là chính sách tài khóa. Cần có sự kết hợp đồng thời cả hai chính sách này với nhau để bổ sung, hỗ trợ cho nhau khắc phục những nhược điểm, hạn chế mà khi thực hiện rời hai chính sách này có thể xảy ra nhằm tăng cường sự phát triển và giữ vững sự ổn định nền kinh tế.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Đánh giá các quy định pháp luật về chế độ thai sản.

Hiện nay tại một số doanh nghiệp trong và ngoài nước với đặc thù công việc thì đa phần sẽ là lao động nữ số lao động nữ, điều này có tác động sâu sắc tới vấn đề bảo hiểm thai sản.

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM THAI SẢN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM THAI SẢN 

1. Lý luận chung về chế độ bảo hiểm thai sản:

1.1. Khái niệm bảo hiểm thai sản: 

Chế độ bảo hiểm thai sản là một trong các chế độ của Bảo hiểm xã hội,bao gồm các quy định của Nhà nước nhằm bảo đảmthu nhập bị giảm và chi phí tăng lên. Điều này không chỉ đảm bảo sức khỏe cho người lao động nữ nói riêng trong quá trình mang thai, sinh con mà còn cho người lao động nói chung khi nuôi con sơ sinh và thực hiện các biện pháp tránh thai.

1.2. Ý nghĩa của bảo hiểm thai sản: 

Theo “Báo cáo Tổng kết chính sách bảo hiểm xã hội” của Bộ Lao động,Thương binh và Xã hội, từ năm 2000 đến nay, bình quân cứ 30 người tham gia bảo hiểm xã hội có 1 người được hưởng trợ cấp thai sản, với độ dài hưởng trợ cấp bình quân là 90 ngày. Từ năm 1995 đến nay, đã giải quyết cho gần 1,31 triệu lượt người hưởng chế độ thai sản. Như vậy, chế độ bảo hiểm có ý nghĩa rất quan trọng đối với người lao động (cả nam và nữ), cụ thể là:

– Tạo điều kiện cho lao động nữ thực hiện tốt chức năng làm mẹ và thực hiện công tác xã hội. 

– Tạo điều kiện cho lao động nam thực hiện nghĩa vụ khi có vợ sinhcon.

– Đảm bảo thu nhập cho người lao động trong thời gian hưởng thai sản.

– Đảm bảo sức khỏe cho người lao động và quyền được chăm sóc của trẻ sơ sinh. 

2. Quy định của pháp luật về chế độ bảo hiểm thai sản:

2.1. Đối tượng và điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm thai sản:

Căn cứ theo Điều 30,31 Luật BHXH 2014 Nghị định115/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: 

a) Lao động nữ mang thai; 

b) Lao động nữ sinh con; 

c) Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi; 

d) Người lao động nữ đặt vòng tránh thai, thực hiện các biện pháp triệt sản. 

đ) Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ

e) Người lao động nam đang đóng BHXH có vợ sinh con 

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 31 Luật BHXH2014, người lao động thuộc các trường hợp trên phải tham gia BHXH như sau: 

“2.Người lao động quy định tại các điểm b, c và d phải đóng BHXH từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi. 

3.Người lao động quy định tại điểm b khoản 1 Điều này đã đóng BHXH từ đủ 12 tháng trở lên mà khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì phải đóng BHXH từ đủ 03 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con.”

2.2. Chế độ và quyền lợi bảo hiểm thai sản:

2.2.1. Đối với thời gian hưởng chế độ bảo hiểm thai sản:

Căn cứ theo Điều 32, 33, 34, 35, 36 và 37 Luật BHXH quy định chi tiết thời gian hưởng chế độ Bảo hiểm thai sản như sau:

2.2.1.1. Thời gian nghỉ khám thai:(Điều 32)

Lao động nữ được nghỉ việc để đi khám thai 05 lần, mỗi lần 01 ngày; trường hợp ở xa cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc người mang thai có bệnh lý hoặc thai không bình thường thì được nghỉ 02 ngày cho mỗi lần khám thai.Thời gian nghỉ này tính theo ngày làm việc không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết,ngày nghỉ hằng tuần. 

2.2.1.2. Thời gian nghỉ khi bị sẩy thai, nạo, hút thai: (Điều 33)

Để giúp người lao động nữ nhanh chóng phục hồi sức khỏe, sớmổnđịnhnhịp sinh học của cơ thể, tại Khoản 1, Điều 33 của Luật Bảo hiểm xã hội năm2014 quy định, khi sảy thai, lao động nữ được nghỉ việc, hưởng chế độ thai sản theo chỉ định của bệnh viện có thẩm quyền. Trong thời gian nghỉ việc (tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết và ngày nghỉ hằng tuần), việc hưởng trợ cấp sẽ là :

– 10 ngày đối với trường hợp thai dưới 05 tuần tuổi. – 20 ngày đối với trường hợp thai từ 05 tuần tuổi đến dưới 13 tuần tuổi.- 50 ngày nếu thai từ 25 tuần tuổi trở lên. 

– 40 ngày nếu thai từ 13 tuần tuổi đến dưới 25 tuần tuổi.

Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, với nhịp độ cuộc sống cũngnhư yêu cầu của công việc, nhu cầu cần đảm bảo về sức khỏe sinh sản thì mức nghỉ trên là còn thấp.

2.2.1.3. Thời gian nghỉ sinh con: ( Điều 34)

– Đối với lao động nữ: 

∙Thời gian nghỉ thai sản trước và sau khi sinh con tối đa là 6 tháng, trong đó nghỉ trước sinh không quá 02 tháng. 

∙Trường hợp lao động nữ sinh đôi trở lên, cứ thêm mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 01 tháng. 

– Đối với lao động nam: 

∙Trường hợp thông thường, lao động nam đóng BHXH được nghỉ 05 ngày khi có vợ sinh con. 

∙Trường hợp vợ sinh con phẫu thuật, thời gian nghỉ là 07 ngày.

∙Trường hợp sinh đôi: Nghỉ 10 ngày. 

∙Trường hợp sinh ba trở lên, cứ thêm mỗi con thì lao động nam được nghỉ thêm 03 ngày. 

∙Nếu vợ sinh đôi và phải phẫu thuật, lao động namđược nghỉ 14 ngày làm việc. 

2.2.1.4. Chế độ thai sản của lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ: (Điều 35) 

– Lao động nữ mang thai hộ được hưởng chế độ khi khám thai, sẩy thai,nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý và chế độ khi sinh con cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho người mẹ nhờ mang thai hộ nhưng không vượt quá thời gian quy định. Trong trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ mà thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày thì người mang thai hộ vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60 ngày tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần. 

– Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản từ thời điểm nhận con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi. 

– Thủ tục hưởng chế độ thai sản đối với lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ được quy định 

2.2.1.5. Thời gian nghỉ khi nuôi con nuôi: (Điều 36)

Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi. 

Trường hợp cả cha và mẹ cùng tham gia bảo hiểm xã hội, đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản quy định tại khoản 2, Điều 31 của Luật Bảo hiểm xã hội 2014 thì chỉ cha hoặc mẹ được nghỉ việc hưởng chế độ. 

Để bảo vệ quyền lợi cho những người nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi, Điều 36, Luật Bảo hiểm xã hội (2014) quy định đây cũng là một trongnhững đối tượng được hưởng chế độ thai sản cụ thể là sẽ được nhận trợ cấp một lần cho mỗi con. Căn cứ Điều 39, Luật Bảo hiểm xã hội (2014), ngoài khoản tiền trợ cấp một lần nêu trên, người nhận con nuôi dưới 06 tháng tuổi còn được hưởng một khoản tiền bằng 100% mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH của 06 tháng trước khi nghỉ việc hưởng chế độ thai sản. 

2.2.1.6. Thời gian hưởng chế độ khi thực hiện các biện pháp tránh thai:(Điều 37) 

Khi thực hiện biện pháp tránh thai, hưởng chế độ thai sản theo chỉ định của cơ sở khám bệnh; chữa bệnh có thẩm quyền. Thời gian nghỉ việc tối đa được quy định như sau: 

– 07 ngày đối với lao động nữ đặt vòng tránh thai; – 15 ngày đối với NLĐ thực hiện biện pháp triệt sản. 

Thời gian hưởng chế độ thai sản nêu trên tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết,ngày nghỉ hằng tuần.

Trước đây, khi thực hiện các biện pháp tránh thai, người lao động chỉ được hưởng mức trợ cấp theo chế độ ốm đau (thấp hơn chế độ thai sản). Trong khi, các biện pháp tránh thai này đều gây ra ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe và tâm lý của người lao động. Vì thế, thay đổi về quan điểm của nhà làm luật đã thể hiện sự thấu hiểu và đảm bảo tính công bằng, cũng như có sự hỗ trợ, động viên đối với người lao động khi thực hiện các biện pháp tránh thai

2.2.2. Các loại trợ cấp và mức hưởng chế độ bảo hiểmthai sản:

* Đối với lao động nữ: 

– Trợ cấp 1 lần: 

Theo Điều 38 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, lao động nữ sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi sẽ được hưởng tiền thai sản, bao gồm: Trợ cấp một lần = Mức lương cơ sở x 2 

Năm 2021, mức lương cơ sở là 1,49 triệu đồng/tháng. Do đó, mức trợ cấp một lần khi sinh còn là: 1,49 triệu đồng x 2 = 2,96 triệu đồng.

– Mức hưởng: 

– NLĐ hưởng chế độ thai sản theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội 2014 thì mức hưởng chế độ thai sản được tính như sau: 

+ Mức hưởng một tháng bằng 100% mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH của 06 tháng trước khi nghỉ việc hưởng chế độ thai sản, Trường hợp NLĐ đóng BHXH chưa đủ 06 tháng thì mức hưởng chế độ thai sản theo quy định là mức bình quân tiền lương tháng của các tháng đã đóng BHXH; 

+ Mức hưởng một ngày đối với trường hợp quy định được tính bằng mức hưởng chế độ thai sản theo tháng chia cho 24 ngày; 

+ Mức hưởng chế độ khi sinh con; nhận nuôi con nuôi được tính theo mức trợ cấp tháng quy định; trường hợp có ngày lẻ hoặc trường hợp quy định thì mức hưởng một ngày được tính bằng mức trợ cấp theo tháng chia cho 30 ngày.

– Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng được tính là thời gian đóng BHXH, NLĐ và người sử dụng lao động không phải đóng BHXH. 

Như vậy có thể hiểu ngắn gọn: 

Mức hưởng hàng tháng = 100% x Mức bình quân tiền lươngthángđóngBHXH 06 tháng trước khi nghỉ việc 

Trường hợp chưa đóng đủ 06 tháng thì mức hưởng được tính theo mức bình quân tiền lương tháng của các tháng đã đóng. 

* Đối với lao động nam: 

Trợ cấp: 

Trợ cấp một lần = Mức lương cơ sở x 2 (tức 2,96 triệu đồng) – Tiền chế độ: 

Theo Điểm b khoản 1 Điều 39 Luật Bảo hiểmxã hội 2014: Mức hưởng = Mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXHcủa06thángtrước khi nghỉ việc : 24 x Số ngày nghỉ 

CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ VỀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂMTHAI SẢN

3. Thực trạng áp dụng các quy định về chế độ bảo hiểm thai sản:

3.1. Về đối tượng và điều kiện hưởng chế độ thai sản: – Về đối tượng: 

So với Luật Bảo hiểm xã hội 2006 trước đây, Luật Bảo hiểm xã hội 2014- Điều 30 đã mở rộng thêm phạm vi áp dụng chế độ bảo hiểm thai sản cho trường hợp người lao động là người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng và người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương. Tuy nhiên, trong các đối tượng hưởng trợ cấp thai sản đã quy định chưa tính đến một số trường hợp,như: người lao động phải nghỉ việc vì mang thai bệnh lí, người nuôi dưỡng trẻ sơ sinh khi người mẹ tham gia bảo hiểm bị chết sau khi sinh con, lao động nam có tham gia bảo hiểm xã hội nhưng vợ không thamgia bảo hiểm. Như thế, chưa thể hiện sự bình đẳng giữa các đối tượng thuộc diện tham gia và hưởng bảo hiểm thai sản, đồng thời chưa đảm bảo đầy đủ quyền cho người lao động, đặc biệt cho lao động nữ và trẻ sơ sinh.

– Về điều kiện: 

Việc quy định điều kiện để hưởng trợ cấp thai sản – người lao động phải có thời gian đóng BHXH đủ 6 tháng trong vòng 12 tháng trước khi sinh con–dẫn đến những trường hợp đã có thời gian tham gia BHXH nhiều năm, nhưngvì lý do nào đó không đủ điều kiện nêu trên thì sẽ không được hưởng chế độ thai sản và không được tính thời gian nghỉ thai sản theo quy định. Quy định này không đảm bảo quyền lợi cho người lao động và còn dẫn đến tình trạng“lách” luật (lao động nữ nghỉ việc nhưng vẫn đóng BHXH để đủ điều kiện hưởng trợ cấp thai sản) 

3.2. Về Các loại trợ cấp và mức hưởng bảo hiểmchế độ thai sản:

Đây là khoản tiền nhằm bù đắp thêm những chi phí tăng lênđột ngột do người mẹ cần phải sắm sửa những vật dụng cần thiết cho việc nuôi con nhỏ. Vì vậy, để đảm bảo sự công bằng, pháp luật cần ấn định bằng một khoản tiền cụ thể giống như các nước, cụ thể bằng 3 đến 5 tháng tiền lương tối thiểu chung. Và khoản trợ cấp này được áp dụng cho cả người lao động nuôi con nuôi sơ sinh. Mức trợ cấp 1 lần được áp dụng cho mỗi trẻ sơ sinh kèm theo trợ cấp mất sữa, trợ cấp thêm sữa cho trường hợp sinh đôi trở lên hoặc trường hợp khi sinh con bị thiếu cân, thiếu tháng. 

4. Một số kiến nghị, đề xuất: 

Đầu tiên, theo em cần mở rộng phạm vi các đối tượng áp dụng chế độ bảo hiểm thai sản nhằm hướng tới việc bảo vệ tối đa quyền và lợi ích của người lao động trong xã hội. Mặc dù hiện tại Luật bảo hiểmxã hội 2014 đã hướng đến 2 đối tượng cụ thể cho chế độ thai sản là lao động nữ và lao động nam,tuy nhiên vẫn chưa đi sâu và đặc thù từng ngành nghề của mỗi lao động. Ví dụ như trong môi trường làm việc nặng nhọc thì đối với lao động nữ có thể được phép chuyển sang công việc nhẹ nhàng hơn từ thời điểm có thai vì thời điểm đấy là thời điểm nhạy cảm nhất trong suốt thai kì. Như vậy sẽ đảm bảo được sức khỏe của thai phụ. 

Cuối cùng, trong suốt 9 tháng thai kì lao động nữ cần thiết đượcnghỉkhám thai 7-9 lần thay vì nghỉ 5 lần như hiện tại. Tức là trung bình1-2 tháng mang thai, lao động nữ được nghỉ đi khám thai 1 lần, như vậy sẽ đảm bảo tốt cho sức khỏe của thai phụ và thai nhi. Ngày nghỉ khám thai sẽ vẫn được tính lương như bình thường. 

Thực hiện tốt chế độ bảo hiểm thai sản tronng thời gian qua đã nâng cao chất lượng sống của rất nhiều gia đình có cả lao động namvà nữ, đặc biệt là lao động nữ khi họ có thời gian nhiều hơn để chăm sóc con cũng như chăms óc cho bản thân mình. Tuy nhiên trong quá trình áp dụng không tránhkhỏi những hạn chế, bất cập. Vì vậy cần tập trung giải quyết các vấn đề còn tồn đọng để chế độ thai sản được thực hiện một cách hiệu quả hơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAMKHẢO

  1. Luật bảo hiểm xã hội 2014 
  2. Bộ Lao động, Thương binh và xã hội (2005), Báo cáo tổng kết chính sách bảo hiểm xã hội, Bộ Lao động, Thương binh và xã hội, ngày 10/8/2005
  3. Đỗ Thị Dung (2006), Chế độ bảo hiểm thai sản và hướng hoàn thiện nhằm đảm bảo quyền lợi của lao động nữ. Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 3/2006 
  4. Hoàng Thúy Hà (2017), “Pháp luật về bảo hiểm thai sản và thực tiễn thực hiện tại quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sỹ Luật học-Trường Đại học Luật Hà Nội. 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Phân tích các điều kiện đảm bảo cho pháp luật đi vào đời sống.

Luật pháp ra đời được coi là thành tựu đại diện cho một xã hội văn minh, được dùng để điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội nên pháp luật được coi là công cụ hữu hiệu nhất giúp Nhà nước quản lý xã hội. Tuy nhiên, nói cho cùng pháp luật cũng là sinh ra từ cuộc sống, được con ngươi tạo ra để phục vụ con người, vì vậy, để pháp luật đi vào đời sống một cách hài hòa vẫn luôn là một bài toán khó. Tùy từng hoàn cảnh, tùy từng trường hợp mà pháp luật được áp dụng để vừa đảm bảo công bằng, vừa được sự đồng thuận của người dân.

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT

I. Pháp luật là gì

1. Khái niệm

Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo mục đích, định hướng nhất định.

Sở dĩ pháp luật có tính bắt buộc chung vì pháp luật do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện thống nhất. Tính bắt buộc chung thể hiện ở chỗ:
+ Việc tuân theo các quy tắc pháp luật không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của mỗi người. Bất kỳ ai dù có địa vị, tài sản, chính kiến, chức vụ như thế nào cũng phải tuân theo các quy tắc pháp luật.
+ Nếu ai đó không tuân theo các quy tắc pháp luật thì tùy theo mức độ vi phạm mà Nhà nước áp dụng các biện pháp tác động phù hợp để đảm bảo thực hiện đúng các quy tắc đó.
+ Tính quyền lực Nhà nước là yếu tố không thể thiếu, bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện.

Nhà nước sẽ thừa nhận những tập quán trong xã hội bằng cách pháp điển hóa, ghi nhận trong luật thành văn.

2. Đặc điểm

* Pháp luật mang tính quyền lực của Nhà nước:

Đây là đặc điểm riêng có của pháp luật mà không một công cụ điều chỉnh nào khác có. Để thực hiện việc tổ chức và quản lí các mặt của đời sống xã hội, nhà nước cần có pháp luật. Các quy định pháp luật có thể do nhà nước đặt ra, cũng có thể được tạo nên từ việc nhà nước thừa nhận các quy tắc xử sự sẵn có trong xã hội như đạo đức, phong tục tập quán, tín điều tôn giáo… Với tính cách là những quy tắc xử sự, phảp luật chính là những yêu cầu, đòi hỏi hoặc cho phép của nhà nước đối với hành vi ứng xử của các chủ thể trong xã hội. Nói cách khác, pháp luật thể hiện ý chí của nhà nước. Thông qua pháp luật, nhà nước cho phép người dân được làm gì, không cho phép họ làm gì hay bắt buộc họ phải làm gì, làm như thế nào… Với quyền lực của mình, nhà nước có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để tổ chức thực hiện pháp luật, yêu cầu các cá nhân, tổ chức trong xậ hội phải thực hiện pháp luật nghiêm chỉnh. Khi cần thiết, nhà nước có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế để bảo vệ pháp luật, trừng phạt người vĩ phạm, đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh trong cuộc sống.

* Pháp luật mang tính quy phạm phổ biến:

Pháp luật gồm các quy tắc xử sự chung, được thể hiện trong những hình thức xác định, có kết cấu loorrich rất chặt chẽ và được đặt ra không phải xuất phát từ một trường hợp cụ thể mà là sự khái quát hóa từ rất nhiều những trường hợp có tính phổ biến trong xã hội. Điều này đã làm cho quy định pháp luật có tính khái quát hóa cao, là những khuôn mẫu điển hình để các chủ thể (tổ chức, cá nhân) thực hiện theo khi gặp phải những tình huống mà pháp luật đã dự liệu.

Pháp luật mang tính băt buộc chung, các quy định pháp luật được dự liệu không phải cho một tổ chức hay cá nhân cụ thể mà cho tất cả các tổ chức và cá nhân có liên quan. Xuất phát từ vị trí, vai trò của nhà nước trong xã hội (tổ chức đại diện chính thức cho toàn xã hội), nên pháp luật là bắt buộc đối với tất cả, việc thực hiện pháp luật

* Pháp luật có tính hệ thống:

Pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội bằng cách tác động lên cách xử sự của các chủ thể tham gia quan hệ xã hội đó, làm cho quan hệ phát triển theo chiều hướng nhà nước mong muốn. Mặc dù điều chỉnh các quan hệ xã hội trong nhiều lĩnh vực khác nhau, song các quy định của pháp luật không tồn tại biệt lập mà giữa chúng có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhaú, tạo nên một chỉnh thể thống nhất.Cách ngành luật có mối quan hệ với nhau, hỗ trợ lần nhau

* Pháp luật có tính xác định về hình thức:

Pháp luật được thể hiện trong những hình thức xác định như tập quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm pháp luật. Ở dạng thành văn, các quy định của pháp luật được thể hiện một cách rõ ràng, cụ thể, không trừu tượng, chung chung, bảo đảm có thể được hiểu và thực hiện thống nhất trên toàn xậ hội.

3. Vai trò của pháp luật

Đối với mỗi chủ thể pháp luật sẽ thể hiện các vai trò khác nhau:

Với Nhà nước: Pháp luật được xem là công cụ hữu hiệu nhất để quản lý tất cả các vấn đề trong xã hội.

Với xã hội: Pháp luật đã thể hiện được vai trò trong việc đảm bảo sự vận hành tạo lập và duy trì mối quan hệ bình đằng trong cộng đồng.

Với công dân: Pháp luật đóng vai trò quan trọng là phương tiện để bảo về quyền lợi hợp pháp của mình.

II. Pháp luật dân chủ

Pháp luật chỉ mang tính tương đối, một hệ thống pháp luật hoạt động hiệu quả trong đời sống của nhân dân chính là pháp luật vì nhân dân, là pháp luật dân chủ. Hệ thống pháp luật phải đáp ứng đúng các điều kiện để thực sự dân chủ sẽ là nền tảng, là chìa khóa để đi vào đời sống người dân một cách dễ dàng hơn. Vậy, để có thể đi vào đời sống thì pháp luật cần có những điều kiện sau đây:

Thứ nhất, pháp luật phải có nhân dân tham gia vào quá trình xây dựng, không chỉ dừng lại ở việc góp ý, nêu quan điểm mà nhân dân phải nắm giữ được quyền lập pháp thông qua các đại biểu đại diện cho quyền lợi của nhân dân.

Thứ hai, ngăn ngừa sự lạm quyền, độc đoán, chuyên quyền của các cơ quan nhà nước, thừa nhận và bảo vệ nguyên tắc phân quyền, phối hợp và kiểm soát quyền lực Nhà nước.

Thứ ba, pháp luật dân chủ là pháp luật vì con người, nội dung và bản chất pháp luật dân chủ là đề cao giá trị con người,  hoạt động của các Cơ quan Nhà nước phải tuân thủ pháp luật nhueng không được quá cứng nhắc dẫn đến xâm hại các quyền cơ bản của con người hay công dân

Thứ tư, quy định rõ quyền, nghĩa vụ của công dân chính là quyền, nghĩa vụ của Nhà nước(mang tinh chất đối xứng), thể hiện rõ quyền con người, quyền công dân chỉ có thể hạn chế trong trường hợp khẩn cấp, đặc biệt vì lý do Quốc phòng an ninh, sức khỏe cộng đồng,…

CHƯƠNG II: CÁC ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO CHO PHÁP LUẬT ĐI VÀO ĐỜI SỐNG

1. Pháp luật phải khách quan

Nhà làm luật không tự làm ra luật, họ chỉ ghi nhận những quy luật phát triển của xã hội bằng những ký tự được gọi là quy phạm pháp luật. Bất luận trong khía cạnh nào, pháp luật cũng là sự nhận thức chủ quan của con người đối với thế giới khách quan, con người nhận thức tồn tại xã hội rồi đưa ra các quy tắc xử sự chung (pháp luật). Do vậy, quá trình xây dựng pháp luật phải phản ánh được những yêu cầu khách quan về sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ xã hội nhất định. Nội dung của các quy định pháp luật phải phù hợp với các quy luật khách quan, bảo đảm phát huy vai trò tích cực của pháp luật đối với đời sống xã hội.

Để đảm bảo nguyên tắc khách quan trong xây dựng pháp luật thì trước khi bắt tay vào xây dựng pháp luật cần nghiên cứu sâu sắc thực tiễn xã hội, các quá trình kinh tế, chính trị, tư tưởng, tâm lý xã hội; đặc điểm dân cư, nhu cầu của các tầng lớp, các nhóm nghề nghiệp; vấn đề dân tộc và sắc tộc… thông tin từ việc nghiên cứu này sẽ là cơ sở tốt để xây dựng các quy định pháp luật phù hợp. Ngoài ra còn phải nghiên cứu thực tiễn pháp lý trước đó như thực tiễn quản lý, thực tiễn xét xử, hoạt động của các tổ chức và cá nhân trong xã hội…

Mặt khác nguyên tắc khách quan còn đòi hỏi phải luôn đặt các quy định pháp luật trong mối liên hệ với sự phát triển về mọi mặt của xã hội và làm sao để xây dựng được các quy định pháp luật phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện thực tiễn phát triển của đất nước. Các dự án luật phải được nhiều cơ quan tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng, đặc biệt là cần có nhiều phương án để cho các cơ quan có thẩm quyền lựa chọn. Sau khi đã có phương án điều chỉnh cần phải có sự thẩm định về các mặt kinh tế xã hội, khoa học…, nếu thực hiện tốt nguyên tắc này hoạt động xây dựng pháp luật sẽ mang lại hiệu quả cao.

Khi xây dựng pháp luật luôn phải chú ý để làm sao các quy định pháp luật phải có khả năng thực hiện được trên thực tế. Sự phù hợp với các điều kiện thực tế (về vật chất, kỹ thuật, tổ chức…) bảo đảm cho quy định pháp luật có thể thi hành được trên thực tế. Nếu quy định pháp luật không phù hợp với thực tế thì nó sẽ khó được thi hành trong thực tế hoặc được thi hành nhưng kém hiệu quả. Nội dung các quy phạm pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng với một trình độ kỹ thuật pháp lý cao có kết cấu chặt chẽ, logic, các thuật ngữ pháp lý được sử dụng chính xác, một nghĩa, lời văn trong sáng, ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với khả năng nhận thức của quảng đại quần chúng nhân dân. “Một quy phạm pháp luật sẽ phát huy được hiệu quả cao hơn nếu phù hợp với quan niệm, ý thức hiện có của công dân và ngược lại[1]. Sự chặt chẽ, rõ ràng, chính xác của các quy phạm pháp luật cũng tránh được những thiếu sót, sơ hở có thể bị lợi dụng trong quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật. Để có thể đưa pháp luật đi vào đời sống một cách có hiệu quả thì chất lượng các văn bản pháp luật phải được xây dựng đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục luật định, có tên gọi phù hợp với nội dung thể hiện, hình thức rõ ràng, dễ thực hiện.

Ngoài ra, pháp luật phải chứa đựng các giá trị tiến bộ, dân chủ, nhưng phải phù hợp với các điều kiện kinh tế-văn hóa, chính trị-xã hội của đất nước. Đây là lí do vì sao pháp luật phải liên tục thay đổi, các VBPL cần phải sửa đổi, bổ sung các điều luật đã không còn áp dụng được trong thực tiễn nữa.

2. Pháp luật phải công khai

Việc công khai quá trình xây dựng pháp luật là cần thiết trừ trường hợp văn bản quy phạm pháp luật có nội dung thuộc bí mật nhà nước. Cần quán triệt tinh thần là xây dựng pháp luật không chỉ là công việc của nhà nước mà còn là công việc của toàn xã hội, nên cần phải để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.

Không chỉ bảo đảm sự công khai còn phải bảo đảm tính minh bạch trong quá trình xây dựng pháp luật. Tất cả các công đoạn, quy trình của quá trình xây dựng pháp luật, các nguyên tắc xây dựng pháp luật đều cần phải được quy định rõ ràng, rành mạch.

Trước khi muốn người dân học và làm theo pháp luật, thì phải công khai cả quá trình và kết quả của quá trình xây dựng pháp luật, để nhân dân có thể có cái nhìn khách quan hơn đối với mỗi vấn đề được đề cập đến. Dân biết dân mới kiểm tra và đánh giá được còn những bất cập nào, vì hơn ai hết họ là người chịu sự tác động của pháp luật. Từ đó có thể nâng cao được hiệu quả khi đưa pháp luật vào đời sống cũng như khiến người dân ý thức được quyền và nghĩa vụ của mình.

3. Cơ chế bảo vệ pháp luật hiệu quả

 Không khó để nhận ra tình trạng lạm dụng quyền lực Nhà nước hiện nay như ban hành văn bản vượt quá thẩm quyền, khiến cho việc áp dụng pháp luật trở nên khó khăn và không đảm bảo tính công bằng, minh bạch. Do đó, cần phải có những cơ chế để bảo vệ pháp luật để pháp luật được thực thi nghiêm túc, chuẩn mực, đúng đắn, xã hội mới thượng tôn pháp luật, tránh được tình trạng “Pháp luật từng địa phương”, “Pháp luật riêng của từng vùng, ngành” tránh được sự chồng chéo, sai phạm ở nội dung và hình thức các loại văn bản pháp luật.

Ngoài ra, Luật pháp thì không thương lượng, có lỗi sẽ phải bị xử phạt, không thể có những trường hợp nếu có người phạm luật rồi bị phạt, có khi nào vì nghèo lại miễn phạt, các cơ chế xử phạt cần được áp dụng nghiêm minh và triệt để hơn nữa để người dân không xảy ra tình trạng coi thường pháp luật để đến mức tái phạm 1-2 lần, từ đó pháp luật đi vào đời sống một cách đúng đắn và nghiêm minh hơn.

4. Ý thức của các chủ thể tham gia pháp luật

* Ý thức của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phục vụ trong Cơ quan Nhà nước:

Thực hiện hoạt động giám sát một cách tích cực thông qua việc phản ánh đầy đủ các ý kiến của cử tri và hoạt động chất vấn của đại biểu. Đặc biệt quan tâm đến việc giám sát các chương trình mục tiêu Quốc gia mà Nhà nước đã ban hành (chương trình xây dựng nông thôn mới; chương trình giảm nghèo bền vững) để các chương trình đó thực sự mang lại hiệu quả, góp phần vào việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.

 Tham gia thực hiện tốt công tác lập pháp, vận dụng thực tiễn thi hành pháp luật vào cuộc sống; lắng nghe những quan điểm khác nhau, phân tích lựa chọn thông tin, cân nhắc đánh giá các dự luật để tham gia thảo luận góp ý và biểu quyết có chất lượng các dự án luật, để luật ban hành ra sẽ đi vào cuộc sống, góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân và vì dân. Đồng thời tham gia một cách có trách nhiệm trong góp ý, thảo luận, biểu quyết các vấn đề quan trọng của đất nước mà Quốc hội bàn bạc, quyết định để các quyết định đó thực sự hợp lòng dân và mang lại lợi ích cho nhân dân.

Thực tế chứng minh chúng ta đã làm rất tốt thông qua mô hình PBGDPL: trong năm 2020, nhiều cơ quan, đơn vị đã đổi mới, xây dựng các mô hình PBGDPL hiệu quả như: các cấp hội phụ nữ tỉnh thành lập gần 200 tài khoản Facebook để giới thiệu hoạt động của hội và tuyên truyền pháp luật; Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh tổ chức tuyên truyền cho hành khách xuất nhập cảnh, lái xe, chủ hàng và Nhân dân khu vực biên giới, cửa khẩu được 2.500 lượt người, cấp phát 3.500 tờ rơi, tờ gấp tuyên truyền pháp luật bằng hai thứ tiếng (tiếng Việt Nam và tiếng Trung Quốc); huyện Bình Gia đa dạng hình thức hưởng ứng ngày Pháp luật Việt Nam…[2]

* Ý thức người dân:

Rõ ràng pháp luật đi vào đời sống thì người dân chính là chủ thể chịu tác động trực tiếp từ pháp luật, do đó, việc nâng cao ý thức người dân về pháp luật là một việc làm vô cùng quan trọng và mang tính lâu dài. Như đã đề cập ở trên, pháp luật chỉ mang tính tương đối, tức là trong mỗi hoàn cảnh, mỗi giai đoạn pháp luật đều được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với điều kiện xã hội-kinh tế thời điểm đó, tương tự người dân cũng vậy, luôn luôn phải được trang bị cho bản thân những kiến thức cơ bản về pháp luật, giữ những giá trị tiến bộ của pháp luật và không dập khuôn theo những quy định cũ.

Trên thực tế, khi có những vướng mắc liên quan đến pháp luật, người dân luôn có tâm lý sợ, ngại và lúng túng. Đặc điểm văn hóa này được hình thành do nhiều yếu tố, nhưng không thể phủ nhận, nhiều người trong chúng ta ngại học, ngại tìm hiểu, dẫn đến không hiểu và không muốn dùng đến luật pháp. Vấn đề lựa chọn “kênh” pháp lý để giải quyết các tranh chấp phần lớn người dân chưa quen. Bởi thế, thay vì dùng đến pháp luật, nhiều người đã chọn cách tự xử lý, tự giải quyết một cách trái pháp luật. Thậm chí, tình trạng “tự xử” bạo lực kiểu “luật rừng” thay cho luật pháp rất đáng lo ngại.  Vì vậy, để pháp luật phát huy tốt vai trò điều chỉnh các mối quan hệ của nó thì người dân phải làm quen, phải tìm hiểu, phải học. Chúng ta cần tiếp tục quan tâm, triển khai giảng dạy, tuyên truyền pháp luật một cách hệ thống đến mọi người, mọi nơi, mọi lúc. Tùy vào từng cấp học nhưng pháp luật cần được giáo dục, giảng dạy phổ biến trong các nhà trường. Mọi người dân, dù ở lĩnh vực nào, điều kiện ra sao cũng phải được thường xuyên tiếp cận, phổ biến những kiến thức này. Nâng cao trình độ hiểu biết luật pháp thông qua tuyên truyền, giáo dục cho mọi người dân luôn là thiết yếu trong xã hội. Mỗi chúng ta cần phải học luật để hành động theo luật.

Việc pháp luật đi vào đời sống người dân có hiệu quả hay không phản ánh đúng bản chất pháp luật và chất lượng của hệ thống pháp luật. Đương nhiên, một hệ thống đảm bảo tính khách quan, khả thi, công khai, minh bạch kết hợp với ý thức cuẩ người dân lẫn các nhà làm luật sẽ là một hệ thống pháp luật chuẩn mực để nhân dân có thể tin tưởng và chấp hành làm theo. Tuy nhiên, đối với việc này còn nhiều khó khăn và hạn chế. Vì vậy, tuyên truyền và nâng cao ý thức cũng như kiến thức cho người dân sẽ luôn được đặt lên hàng đầu trong công cuộc đi tìm lời giải đáo cho câu hỏi: “Làm thế nào để đưa pháp luật vào đời sống?”


[1] http://sotuphapqnam.gov.vn/index.php/2017-03-13-06-49-51/781-tieu-chi-xac-nh-cht-lng-ca-h-thng-phap-lut

[2] https://baolangson.vn/phap-luat/334387-de-phap-luat-di-vao-cuoc-song.html

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Phân tích các nguyên tắc của kinh doanh bất động sản, đánh giá thực tiễn.

Thị trường bất động sản được biết đến là một trong những thị trường quan trọng có tầm ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế thị trường vì bất động sản là những tài sản có giá trị lớn về mặt kinh tế. Có thể nói rằng thị trường bất động sản là một trong những thị trường khó gia nhập, bao gồm các giao dịch về bất động sản được thực hiện thông qua quan hệ hàng hoá tiền tệ. “Kinh doanh bất động sản là việc đầu tư vốn để thực hiện hoạt động xây dựng, mua, nhận chuyển nhượng để bán, chuyển nhượng; cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản; thực hiện dịch vụ môi giới bất động sản; dịch vụ sàn giao dịch bất động sản; dịch vụ tư vấn bất động sản hoặc quản lý bất động sản nhằm mục đích sinh lợi”- Khoản 1 Điều 3 Luật kinh doanh bất động sản 2014 sửa đổi bổ sung 2020. Để thực hiện tốt hoạt động kinh doanh bất động sản đòi hỏi pháp luật phải đặt ra những nguyên tắc chung, thống nhất. Điều 4 Luật KDBĐS quy định bốn nguyên tắc trong kinh doanh bất động sản như sau:

Một là, Bình đẳng trước pháp luật, tự do thoả thuận trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên thông qua hợp đồng, không trái quy định của pháp luật.

Nguyên tắc đầu tiên cũng là nguyên tắc mang tính tiên quyết trong hoạt động kinh doanh bất động sản. Nội dung của nó thể hiện tất cả các chủ thể tham gia vào thị trường bất động sản, không phân biệt doanh nghiệp tư nhân hay nhà nước, doanh nghiệp trong nước hoặc nước ngoài, tất cả đều được Nhà nước đối xử bình đẳng về quyền và nghĩa vụ khi tham gia kinh doanh bất động sản, miễn là họ có đủ điều kiện tham gia theo quy định của pháp luật. Theo đó, Điều 10[1] Luật KDBĐS quy định điều kiện của tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản. Trong một sân chơi là thị trường BĐS, luật chơi chính là Luật KDBĐS, người chơi là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia vào thì tất cả đều có sự bình đẳng trước pháp luật. Bởi pháp luật là cán cân công lý, không có sự thiên vị bất kì ai. Quan hệ bình đẳng giúp các bên cạnh tranh một cách công bằng, lành mạnh, không có tiêu cực. Chỉ có môi trường lành mạnh thì các cá nhân, tổ chức mới kinh doanh phát triển mạnh mẽ và bền vững.

Việc tự do thoả thuận trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên thông qua hợp đồng và không trái pháp luật cũng là nội dung quan trọng trong nguyên tắc đầu tiên này. Bản chất của các giao dịch liên quan đến BĐS thực chất là sự thoả thuận về nội dung của các chủ thể. Các chủ thể được tự do ý chí để thoả thuận những gì mình mong muốn trong phạm vi không trái với các quy định của pháp luật. Có thể nói bất động sản là một thị trường mở, mỗi cá nhân, tổ chức tham gia vào thị trường đều có nhu cầu của riêng mình như chọn bất động sản phù hợp với mệnh, gia carnh, phong thuỷ,…do đó họ có quyền phát triển, lựa chọn những lối đi riêng. Việc này cũng góp phần tạo nên một thị trường sôi động hơn, thôi thúc và phát triển nền kinh tế nước nhà.

Cùng với sự phát triển của thị trường và nền kinh tế, hoạt động kinh doanh bất động sản (BĐS) là một hoạt động tất yếu và khách quan. Thời gian qua, sau đợt suy thoái của thị trường BĐS bắt đầu từ năm 2011 thì giai đoạn từ năm 2015-2020 là giai đoạn phục hồi, phát triển của thị trường. Giai đoạn này ghi nhận hoạt động kinh doanh BĐS diễn ra sôi nổi và đạt hiệu quả cao, nhiều khu quy hoạch, dự án đầu tư của tỉnh và chính phủ kéo theo sự quan tâm và thị hiếu của nhà đầu tư khiến thị trường biến động mạnh. Hiện nay các chủ thể thực hiện khá tốt nguyên tắc này do phải chịu chi phối của nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, vẫn có những quy định chưa đồng nhất về chủ thể trong các văn bản. Ví dụ: Theo khoản 1 Điều 10 Luật KDBĐS 2014 thì tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản phải có vốn pháp định không thấp hơn 20 tỷ đồng. Nếu hiểu kinh doanh bất động sản bao gồm cả kinh doanh dịch vụ bất động sản thì hành vi thứ 2 cũng phải thỏa mãn yêu cầu về vốn pháp định. Tuy nhiên, theo điểm b khoản 1 Điều 3 Nghị định 76/2015/NĐ-CP ngày 10/9/2015 về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật KDBĐS 2014 thì tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ bất động sản không bị buộc phải có vốn pháp định. Rõ ràng, đây là sự nhầm lẫn do khi ghép khái niệm kinh doanh bất động sản và kinh doanh dịch vụ bất động sản mà các nhà soạn thảo không tính đến nên phải giải thích trong nghị định hướng dẫn thi hành.

Hai là, bất động sản đưa vào kinh doanh phải đáp ứng các điều kiện do luật định.

Điều 9[2] Luật KDBĐS 2014 quy định điều kiện của bất động sản được đưa vào kinh doanh. Đây là nguyên tắc cơ bản và cần thiết bởi đó là quy định tối thiểu và cần có để chứng minh mình là chủ sở hữu của BĐS được đưa vào giao dịch, chứng minh tình trạng pháp lý của tài sản sẽ đảm bảo an toàn cho các bên giao dịch đồng thời việc quy định quyền sử dụng đất không bị tranh chấp giúp giải quyết các vấn đề rắc rối có thể phát sinh khi thi hành án. Nguyên tắc này nhằm tạo môi trường đầu tư an toàn cho các nhà đầu tư kinh doanh bất động sản bởi đối tượng được đưa vào kinh doanh là phù hợp và được pháp luật công nhận.

Trên thực tế đa số các BĐS đưa vào kinh doanh đã đáp ứng đủ theo điều kiện luật định và pháp luật quy định cũng khá chặt chẽ. Tuy nhiên vẫn còn nhiều loại BĐS mà hiện nay pháp luật đang vướng mắc trong việc hoàn thiện quy định pháp lý để đưa vào kinh doanh như cấp giấy chứng nhânj quyền sở hữu cho bất động sản du lịch (codotel) hay căn hộ văn phòng (officetel),…Về điều kiện để bất động sản hình thành trong tương lai được bán cũng đang là một vấn đề đáng quan tâm, pháp luật quy định phải có bảo lãnh của ngân hàng, có rất nhiều dự án triển khai mua bán bất động sản hình thành trong tương lai nhưng không có sự bảo lãnh chính thức từ phía ngân hàng. Nguyên nhân bởi một số chủ đầu tư cho rằng là do vướng mắc trong khâu thẩm định năng lực tài chính và tài sản thế chấp của doanh nghiệp, đồng thời các ngân hàng e ngại bảo lãnh cho dự án nhà ở, công trình xây dựng hình thành trong tương lai tồn đọng nhiều rủi ro.

Ba là Kinh doanh bất động sản phải trung thực, công khai, minh bạch

Thị trường bất động sản là thị trường không hoàn hảo bởi cung chậm hơn cầu, BĐS lại mang tính cá biệt và loại hình KDBĐS liên quan đến tài sản lớn, tiềm ẩn nguy cơ có khả năng lừa đảo cao, đặc biệt là BĐS hình thành trong tương lai. Do đó, hoạt động kinh doanh bất động sản cần phải trung thực và chính xác, đầy đủ thông tin, rõ ràng và khách quan tránh tình trạng tạo ra thông tin để lừa đảo khách hàng. Khi thực hiện các giao dịch BĐS các chủ thể phải có thái độ đúng đắn, thành thật về BĐS là đối tượng giao dịch. Luôn luôn công khai và có thái độ đúng đắn, không che giấu, cố gắng lấp liếm, tạo thông tin giả về BĐS đề trục lợi cá nhân. Công khai minh bạch về dự án, hồ sơ pháp lý, giấy tờ kèm theo, chủ thể kinh doanh, BĐS,..mặt khác cũng cần phải trung thực đối với cơ quan nhà nước khi tiến hành làm thủ tục hành chính, cần khai báo chính xác những số liệu có liên quan đến BĐS. Nguyên tắc này mang đến cho chủ thể những lợi thế để gia nhập thị trường, có những giao dịch BĐS như mong muốn. Đồng thời góp phần tạo nên một môi trườnh kinh doanh lành mạnh, các chủ thể có thể tìm hiểu một cách nhanh chóng và tình hình của thị trường, từ đó đưa ra những phương án phù hợp cho những mục tiêu, chiến lược của mình. Đặc biệt, môt môi trường an toàn và đáng tin cậy sẽ thu hút các nguồn đầu tư lớn, xây dựng một thị trường rộng mở.

Thời gian qua, tình trạng đồn thổi, thiếu minh bạch trong BĐS gây ra tình trạng đẩy giá bất động sản lên cao, tạo bong bóng trên thị trường và gây tâm lý bất ổn cho người dân, gây nhiễu loạn hoạt động quản luý, điều hành của cơ quan nhà nước, đồng thời để lại nhiều hệ luỵ xấu cho thị trường BĐS cũng như đối với các vấn đề an ninh, trật tự xã hội. Hàng loạt cơn sốt đất bất thường xảy ra không chỉ đối với các thành phố lớn như Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh, mà ngay cả tại các địa phương vốn không có thế mạnh về thị trường BĐS như Hưng Yên, Bắc Giang,… giá đất cũng tăng cao chóng mặt. Thực tế, qua các cuộc kiểm toán về công tác quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, tình trạng thiếu công khai, minh bạch trong quy hoạch sử dụng đất đã nhiều lần được kiểm toán nhà nước chỉ ra và yêu cầu chấn chỉnh. Tuy nhiên, do sự thiếu quyết liệt, thiếu giải pháp hữu hiệu của các địa phương, dẫn đến tình trạng này vẫn tồn tại. Một nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là do chưa có sự đồng bộ về mặt thông tin, tình trạng đầu cơ BĐS, lực lượng môi giới BĐS đã lợi dụng sơ hở đó để thổi giá nhằm thu lợi bất chính, trái quy định của pháp luật.

Bốn là, Tổ chức cá nhân có quyền kinh doanh bất động sản tại khu vực ngoài phạm vi bảo vệ quốc phòng, an ninh theo quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt

Mỗi một quốc gia đều có khu vực bảo vệ an ninh quốc phòng nắm giữ bí mật kinh tế quân sự, những vấn đề then chốt của một quốc gia. Có thể nói đây là những khu vực quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại của quốc gia đó, ảnh hưởng đến đời sống vật chất và nền kinh tế của toàn thể dân cư. Do đó, các chủ thể không được phép kinh doanh BĐS trong khu vực này là hợp lý. Nguyên tắc này tạo ra sự thống nhất cho các chủ thể khác nhau. Từ đó sẽ kèm theo là sự đơn giản khi thực hiện các thủ tục, tạo ra sự gọn nhẹ khi thực hiện khi có hoạt động giám sát, kiểm sát hoạt động. Mục đích của nguyên tắc cuối cùng này là đảm bảo sự hoà bình ổn định của an ninh quốc phòng nước nhà bởi đi cùng với sự mạnh mẽ của nền kinh tế chính là an nguy của chính trị cũng như an ninh quốc gia. Bất kì cá nhân, tổ chức nào vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định pháp luật. Còn những bất động sản khác sẽ được tự do trong vòng hoạt động kinh doanh của mình, hơn nữa khi xác định nó thuộc hay không thuộc loại bất động sản phục vụ cho mục đích an ninh quốc phòng thì sẽ an toàn cho các chủ thể tiến hành kinh doanh, không bị thiệt hại xảy ra khi có sự thay đổi. Hiện nay, cá nhân và tổ chức kinh doanh BĐS đúng theo tinh thần của pháp luật. Tuy nhiên một thực tế còn tồn đọng đó là công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất vẫn còn lộ ra rất nhiều những bất cập trong lý luận cũng như thực tiễn, gây ảnh hưởng đến sự phân bổ và sự phát triển của thị trường BĐS. Thẩm quyền trong công tác này được quy định khá mờ nhạt, cụ thể tại khoản 2 Điều 21 Luật đất đai 2013 tạo ra nhiều kẽ hở để cơ quan có thẩm quyền tự do thao túng quyền lực. Thực trạng thời gian giải toả, thu hồi đất phục vụ cho công tác quốc phòng và an ninh lại tỉ lệ nghịch với thời gian tiền đền bù được tới tay người dân. Ngoài ra, đa số các chủ thể đều có ý thức tìm hiểu và khai thác thông tin, chấp hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật trước khi kinh doanh.


[1] Điều 10. Điều kiện của tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản

1. Tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản phải thành lập doanh nghiệp hoặc hợp tác xã (sau đây gọi chung là doanh nghiệp) và có vốn pháp định không được thấp hơn 20 tỷ đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

2. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua bất động sản quy mô nhỏ, không thường xuyên thì không phải thành lập doanh nghiệp nhưng phải kê khai nộp thuế theo quy định của pháp luật.

3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.”

[2] Điều 9. Điều kiện của bất động sản đưa vào kinh doanh

  1. Nhà, công trình xây dựng đưa vào kinh doanh phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Có đăng ký quyền sở hữu nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất trong giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất. Đối với nhà, công trình xây dựng có sẵn trong dự án đầu tư kinh doanh bất động sản thì chỉ cần có giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai;

b) Không có tranh chấp về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất;

c) Không bị kê biên để bảo đảm thi hành án.

2. Các loại đất được phép kinh doanh quyền sử dụng đất phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Có giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai;

b) Không có tranh chấp về quyền sử dụng đất;

c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;

d) Trong thời hạn sử dụng đất.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Nguyên lý tác động của chính sách tiền tệ đến tỷ giá hối đoái.

Chính sách tiền tệ thực chất là sự cụ thể hóa những biện pháp nhằm tác động vào mức cung tiền của nền kinh tế, từ đó ảnh hưởng đến lãi suất trên thị trường và thông qua lãi suất, chính sách tiền tệ tác động đến tổng cầu và sản lượng của nền kinh tế để từng bước thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô được đặt ra trong từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế.

Tỷ giá hối đoái (còn được gọi là tỷ giá trao đổi ngoại tệ, tỷ giá Forex, tỷ giá FX hoặc Agio) giữa hai tiền tệ là tỷ giá mà tại đó một đồng tiền này sẽ được trao đổi cho một đồng tiền khác. Nó cũng được coi là giá cả đồng tiền của một quốc gia được biểu hiện bởi một tiền tệ khác. Ví dụ: tỷ giá hối đoái đồng Việt Nam do ngân hàng ngoại thương công bố là theo thông lệ quốc tế: Số đơn vị tiền đồng Việt Nam cần thiết để mua một đơn vị tiền nước ngoài chẳng hạn 15.000 đ/ USD.

Như vậy, sự tác động của chính sách tiền tệ đến tỷ giá hối đoái được hiểu đơn giản là sự điều tiết tỷ giá bằng cách Ngân hàng Trung ương tác động lên thị trường ngoại hối làm thay đổi lượng tiền cung ứng trên thị trường. Ngân hàng Trung ương thông qua việc tác động vào tỷ giá hối đoái để thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ và chính sách kinh tế đối ngoại.

Do trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước khác nhau và cách thức tổ chức quản lý cũng khác nhau nên cũng có những cơ chế tỷ giá khác nhau. Chính vì vậy, sự tác động của chính sách tiền tệ đối với từng tỷ giá cũng khác nhau.

1. Tác động của chính sách tiền tệ với tỷ giá hối đoái cố định – Tư bản vận động tự do

Tỷ giá hối đoái do Ngân hàng Trung ương quy định mà giữ ở một mức giá nhất định đã công bố. Khi có sức ép nâng hoặc giảm tỷ giá, Ngân hàng Trung ương sẽ dùng dự trữ ngoại tệ để can thiệp cho tỷ giá giữ nguyên mức. Tuy nhiên, vì tư bản chuyển động hoàn toàn tự do nên Ngân hàng Trung ương sẽ không thể cùng một lúc theo đuổi cả hai mục tiêu là ổn định tỷ giá hối đoái và ổn định mức cung tiền.

Giả sử, theo mô hình trên đây, nền kinh tế cân bằng tại E. Ngân hàng trung ương thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng. Trong ngắn hạn, mức giá chưa tăng đã làm cho LM1=> LM2. Tại E’ có i<i’ => Tư bản đổ ra nước ngoài => Thị trường ngoại hối dư cầu (E có xu hướng tăng). Để giữ nguyên tỷ giá buộc Ngân hàng Trung ương phải bán ra ngoại tệ làm MS giảm => LM2 giảm chuyển về LM1. Nền kinh tế từ E’ chuyển về E ban đầu.

2. Tác động của chính sách tiền tệ đối với E linh hoạt – Tư bản vận động tự do

Sự tác động này thể hiện thông qua mô hình trên đây. Nền kinh tế cân bằng tại E, Ngân hàng Trung ương thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng làm cho LM1 => LM2. Cũng giống như trong trường hợp tỷ giá cố định, việc tăng cung tiền làm lãi suất trong nước tạm thời giảm xuống thấp hơn so với lãi suất nước ngoài, tạo ra một dòng vốn chảy ra nước ngoài. Nhưng trong chế độ E thả nổi thì không có sự can thiệp của Ngân hàng Trung ương. Lúc này, thị trường ngoại hối dư cầu làm cho E tăng (e giảm) => NX tăng => AD tăng => IS1 chuyển lên IS2. Nền kinh tế cân bằng tại E’’ với sản lượng đã tăng lên cao Y’’.

3. Tác động của chính sách tiền tệ đối với E thả nổi có quản lý

Đối với hệ thống này, chính sách tiền tệ cho phép tỷ giá dao động trong một khoảng tùy theo yêu cầu của chính sách quản lý kinh tế sao cho phù hợp với thực trạng. Trừ khi tỷ giá hối đoái vượt quá khoảng giới hạn cho phép thì chính sách tiền tệ mới tác động để trở về khoảng giới hạn ban đầu.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong TTDS.

Trong quá trình tòa án giải quyết vụ việc dân sự, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự luôn luôn là mục tiêu được Toà án nhân dân coi trọng và hướng đến. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, quyền dân sự của con người ngày càng được mở rộng, kinh tế xã hội phát triển không ngừng, các tranh chấp phát sinh ngày càng đa dạng. Trên thực tế, vì lợi ích của mình hoặc do thiếu thiện chí, nhiều người có hành vi tẩu tán tài sản, hủy hoại hoặc xâm phạm chứng cứ, mua chuộc người làm chứng,…Vì vậy, đôi khi tòa án phải quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (BPKCTT) là những biện pháp cần thiết để giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng hoặc đảm bảo thi hành án. Bộ luật TTDS 2015 đã bổ sung thêm một số biện pháp khẩn cấp tạm thời mới phù hợp với các văn bản pháp luật khác có liên quan và thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời của các Tòa án nhân dân còn nhiều hạn chế, bất cập.

I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1 Khái niệm áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự

          Biện pháp khẩn cấp tạm thời là biện pháp tòa án quyết định áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng, bảo toàn tài sản tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án.[1]

          Áp dụng BPKCTT  trong giải quyết các vụ án dân sự là việc của Tòa án xét các căn cứ, thủ tục về biện pháp khẩn cấp tạm thời để ban hành một hoặc nhiều quyết định biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc ra quyết định sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng nhằm tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu nhập chứng cứ, bảo vệ chứng cứ, đảm bảo việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án.

1.2 Đặc điểm của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự

          Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là hoạt động áp dụng pháp luật nên nó có đầy đủ các đặc điểm của hoạt động áp dụng pháp luật chung như: mang tính quyền lực nhà nước, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền, mang tính cá biệt,.. Tuy nhiên, so với các biện pháp khác được tòa án quyết định áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự thì BPKCTT có những nhiều điểm khác biệt:

          – Tính khẩn cấp: Tòa án phải ra quyết định áp dụng ngay đôi khi không cần có yêu cầu của đương sự và quyết định này được thực hiện ngay sau khi được toàn án quyết định áp dụng. Mục đích của việc áp dụng BPKCTT trong các trường hợp này nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ kịp thời quyền lợi của người có yêu cầu hoặc người yếu thế.

          – Tính tạm thời: quyết định áp dụng BPKCTT chưa phải là quyết định cuối cùng về giải quyết vụ việc dân sự. Đây chỉ là biện pháp tạm thời được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, chưa phải là quyết định về giải quyết vụ việc dân sự. Sau khi áp dụng BPKCTT nếu lí do của việc áp dụng không còn nữa thì tòa án có thể hủy bỏ quyết định này.

          – Áp dụng BPKCTT phải tuân theo các điều kiện, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền  và lợi ích hợp pháp của các đương sự.

1.3 Ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự

          – Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời góp phần giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự: Các biện pháp khẩn cấp tạm thời như buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng, buộc thực hiện một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại,… được áp dụng có ý nghĩa quan trọng trong giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự. Nếu không áp dụng ngay thì có thể sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của đương sự.

          –  Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời góp phần bảo vệ chứng cứ cho việc giải quyết vụ án: Trên thực tế có nhiều trường hợp để trốn tránh nghĩa vụ, đương sự có tâm lý muốn hủy hoại chứng cứ, chuyển dịch quyền tài sản,… Việc áp dụng các BPKCTT góp phần ngăn ngừa các hành vi tiêu cực trên, đồng thời giúp Tòa án xem xét, đánh giá chứng cứ, giải quyết vụ án được chính xác và khách quan.

          – Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời góp phần bảo tình trạng tài sản tránh việc gây thiệt hại không thể khắc phục được, giữ được tài sản bảo đảm cho việc thi hành bản án, quyết định của tòa án sau này.

Như vậy, việc áp dụng BPKCTT mang nhiều ý nghĩa không những đối với việc giải quyết vụ viện dân sự của Tòa án mà cả đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, việc áp dụng BPKCTT có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của người bị áp dụng và người khác. Do vậy, tòa án phải xem xét thận trọng trước khi quyết định áp dụng biện pháp này và phải thực hiện đúng quy định của pháp luật để tránh gây thiệt hại cho đương sự và các chủ thể khác.

II, PHÂN TÍCH VÀ BÌNH LUẬN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI

2.1 Các loại biện pháp khẩn cấp tạm thời

          Trên thực tế, các tranh chấp dân sự xảy ra rất đa dạng, yêu cầu áp dụng BPKCTT đa dạng nên các biện pháp này cũng cần được áp dụng cụ thể. Theo quy định tại Điều 114 BLTTDS năm 2015 có 16 BPKCTT, đã bổ sung thêm một số biện pháp so với Bộ luật TTDS năm 2011 như: Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ, cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình, tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu, bắt giữ tàu bay bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án. Ngoài 16 biện pháp trên thì tòa án cũng có thể áp dụng các BPKCTT khác do pháp luật quy định. Mỗi BPKCTT chỉ được áp dụng trong trường hợp nhất định, với một ý nghĩa nhất định.

          Trong từng trường hợp cụ thể người có quyền yêu cầu tòa án áp dụng BPKCTT phải lựa chọn BPKCTT phù hợp để yêu cầu tòa án ra quyết định áp dụng. Do giới hạn số trang của bài tập nên em xin đi sâu phân tích một số BPKCTT cụ thể như sau:

          – Biện pháp giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục

          Theo quy đinh tại Điều 115 BLTTDS năm 2015 thì BPKCTT giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục được tòa án quyết định áp dụng trong việc giải quyết vụ án có liên quan đến những người này mà họ chưa có người giám hộ. Đối chiếu với Khoản 1 Điều 102 BLTTDS năm 2011, BLTTDS năm 2015 đã bổ sung thêm đối tượng được giao để “trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục” là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Quy định này là phù hợp với BLDS 2015 vì bộ luật mới đã bổ sung thêm quy định về năng lực hành vi dân sự của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Bên cạnh đó, Điều 115 BLTTDS năm 2015 đã bổ sung thêm quy định “Việc giao người chưa thành niên từ đủ bảy tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của người đó”. Quy định này nhằm bảo đảm cho việc chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên được tốt nhất, quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng của họ.

          Trong thực tiễn tố tụng khi giải quyết các vụ án liên quan đến người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi như vụ án li hôn, tước quyền chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên của bố mẹ,.. khi thấy cần thiết Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan tổ chức có quyền yêu cầu tòa án quyết định áp dụng BPKCTT . Tuy nhiên, trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi trong vụ án hôn nhân và gia đình đã có người giám hộ nhưng người giám hộ đó lại đang chấp hành hình phạt tù, đang trong tình trạng bị hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên hoặc một bên cha, mẹ đang chấp hành hình phạt tù còn bên kia rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như ốm nặng, nghèo túng không thể trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên. Với những trường hợp này Tòa án cũng cần phải quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân, cơ quan, tổ chức đó trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.[2]

          Vì vậy, biện pháp khẩn cấp tạm thời này cần được áp dụng đối với việc giải quyết việc tuyên bó một người bị mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi nếu họ chưa có người giám hộ hoặc đã có người giám hộ nhưng người giám hộ không có khả năng thực hiện việc giám hộ.

          -Biện pháp kê biên tài sản đang tranh chấp

          Kê biên tài sản đang tranh chấp là biện pháp khẩn cấp tạm thời do Tòa án quyết định áp dụng nhằm kiểm kê, thống kê những tài sản đang có trong tranh chấp trong vụ kiện để nắm rõ những tài sản đó và buộc người đang giữ tài sản tranh chấp không được chuyển dịch, tẩu tán hay phá hủy tài sản.

          Tòa án quyết định áp dụng BPKCTT này khi giải quyết vụ án dân sự theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu. Tài sản đang tranh chấp có thể là động sản hoặc bất động sản. Trong trường hợp tài sản bị kê biên là động sản thì sau khi kê biên tài sản có thể bị thu giữ, bảo quản tại kho của cơ quan thi hành án hoặc giao cho người thứ ba quản lý cho đến khi có quyết định của Tòa án. Trường hợp tài sản bị kê biên là bất động sản thì sau khi kê biên tài sản có thể được giao cho đương sự hoặc người thứ ba quản lý cho đến khi có quyết định của Tòa án. Căn cứ vào Điều 120 BLTTDS 2015, biện pháp này được áp dụng khi có hai điều kiện sau:

          + Khoản 1 Điều 120 BLTTDS 2015 nêu nên đối tượng kê biên:  biện pháp khẩn cấp tạm thời kê biên tài sản chỉ áp dụng đối với tài sản đang có tranh chấp mà không phải là áp dụng đối với tất cả tài sản của đương sự trong vụ án dân sự. Có quan điểm cho rằng “ Những tài sản không phải là tài sản tranh chấp hoặc những tài sản chỉ liên quan đến tài sản tranh chấp sẽ không nằm trong những phạm vi những tài sản bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời kê biên”[3]. Tuy nhiên cá nhân em cho rằng những tài sản liên quan với tài sản tranh chấp có mối quan hệ mật thiết với nhau. Đôi khi đương sự vì muốn bảo vệ lợi ích cá nhân mà muốn chuyển đổi, tạo ra chứng cứ giả để tẩu tán tài sản, khiến nó không nằm trong phạm vi bị kê biên. Nếu chỉ áp dụng trong phạm vi tài sản tranh chấp thì có thể bỏ qua những tình tiết, tài sản gây thiệt hại đến đương sự, đồng thời biện pháp này cũng mất đi giá trị là tính khẩn cấp.

          + Điều kiện thứ hai là Tòa án chỉ được áp dụng BKKCTT này khi có “căn cứ cho thấy người đang giữ tài sản có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản tranh chấp”. Như vậy có thể hiểu rằng chỉ khi có những căn cứ xác thực là người đang nắm giữ tài sản tranh chấp đã có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản tranh chấp thì Tòa án mới được quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời kê biên. Nếu hiểu như cách này thì có thể biện pháp kê biên tài sản sẽ không đáp ứng được tính khẩn cấp và gần như không có tác dụng bảo toàn tài sản vì có thể đến khi áp dụng BPKCTT thì tài sản đã bị hủy hoại hoặc tẩu tán. Nhưng nếu hiểu theo cách là có căn cứ cho thấy người đang giữ tài sản có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản tranh chấp thì tính kịp thời sẽ được đảm bảo vì trên thực tế hành vi hủy hoại, tẩu tán tài sản chưa xảy ra. Chính vì vậy, điều luật này cần phải được bổ sung rõ ràng để người thực thi pháp luật thống nhất cách hiểu và áp dụng đúng đắn nhất.

2.2 Buộc thực hiện biện pháp bảo đảm

          Pháp luật đã quy định người yêu cầu tòa án áp dụng BPKCTT phải thực hiện biện pháp bảo đảm nhằm mục đích đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng và người thứ ba; tránh được việc lạm dụng yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

          Trên thực tế, mỗi vụ việc dân sự xảy ra đều có những đặc điểm riêng cho nên việc giải quyết nó, việc áp dụng BPKCTT trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự cũng có những yêu cầu riêng. Theo Điều 136 BLTTDS 2015, việc thực hiện biện pháp bảo đảm chỉ thực hiện đối với những trường hợp mà việc áp dụng BPKCTT có thể xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng hoặc người thứ ba.

2.3 Thẩm quyền, thủ tục áp dụng, thay đổi và hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời

          Thẩm quyền quyết định áp dụng, thay đổi và hủy bỏ BPKCTT được xác định theo thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự. Trước khi mở phiên tòa, việc giải quyết vụ án dân sự do một thẩm phán tiến hành nên việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT do một thẩm phán xem xét, quyết định. Tại phiên tòa, việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT do hội đồng xét xử xem xét, quyết định. Trường hợp hủy bỏ BPKCTT sau khi bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật thì do một thẩm phán được chánh án của tòa án đã đưa ra quyết định áp dụng BPKCTT phân công giải quyết quyết định.

          Thủ tục áp dụng BPKCTT được quy định tại Điều 133 BLTTDS 2015.

          Sau khi ra quyết định mà xét thấy BPKCTT đang được áp dụng không còn phù hợp hoặc không cần thiết, phải thay đổi hoặc phải áp dụng  bổ sung BPKCTT khác vì điều kiện áp dụng thay đổi thì tòa án có thể quyết định thay đổi, áp dụng bổ sung biện pháp khẩn cấp tạm thời[4]. Ngoài ra, tòa án cũng có thể quyết định hủy bỏ BPKCTT.  Tuy vậy, để đảm bảo việc quyết định thay đổi, áp dụng bổ sung hay hủy bỏ BPKCTT được đúng, tòa án phải xem xét thận trong trước khi quyết định. Đối với việc hủy bỏ BPKCTT chỉ được thực hiện khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 138 BLTTDS 2015. Đồng thời, Tòa án phải xem xét quyết định để người yêu cầu áp dụng BPKCTT nhận lại chứng từ bảo lãnh được bảo đảm bằng tài sản của ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác hoặc tài sản bảo đảm đã nộp ở ngân hàng, trừ trường hợp người yêu cầu tòa án áp dụng BPKCTT không đúng gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị áp dụng BPKCTT hoặc cho người thứ ba.

2.4 Khiếu nại, kiến nghị áp dụng, thay đổi và hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời

          Khi áp dụng BPKCTT thì hiệu lực và việc thi hành được quy định tại Điều 123 và Điều 126 BLTTDS. Tuy nhiên, việc áp dụng, thay đổi và hủy bỏ BPKCTT có thể không chính xác hoặc không còn căn cứ nên đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị. Việc khiếu nại, kiến nghị khi cho rằng quyết định áp dụng, thay đổi, bổ sung, hủy bỏ BPKCTT của Tòa án là không đúng hoặc hành vi của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong việc giải quyết yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là không đúng. Vì quyết định áp dụng BPKCTT  có hiệu lực thi hành ngay, không thể bị kháng cáo, kháng nghị nên quy định về khiếu nại và kiến nghị về quyết định này là cần thiết, góp phần bảo đảm cho việc giải quyết yêu cầu áp dụng BPKCTT được đúng đắn và khách quan. Điều 140, Điều 141 quy định chi tiết thời hạn và thẩm quyền và việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị này.

2.5 Trách nhiệm do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng

          Áp dụng BPKCTT chỉ có ý nghĩa khi nó không xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Vì vậy, để nâng cao trách nhiệm của tòa án và người có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT, pháp luật hiện hành còn quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do áp dụng BPKCTT không đúng.

          – Đối với trường hợp người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng[5]

Hiểu sâu về quy định này thì có thể thấy điểm bất cập. Bởi đương sự có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT, song việc có áp dụng hay không là do Tòa án xem xét và quyết định. Tòa án có nhiệm vụ cân nhắc, căn cứ vào quy định của pháp luật và đơn yêu cầu để quyết định có áp dụng hay không biện pháp khẩn cấp tạm thời mà đương sự yêu cầu. Vì vậy, pháp luật chỉ xác định trách nhiệm của người yêu cầu trong trường hợp này là chưa thỏa đáng mà cần có quy định cả trách nhiệm của Tòa án trong trường hợp này.

– Đối với trường hợp Tòa án tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Theo khoản 2 Điều 113 BLTTDS 2015 tòa án áp dụng BPKCTT không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng hoặc cho người thứ ba thì tòa án phải bồi thường cho người bị hại. Tuy nhiên, tòa án chỉ phải bồi thường trong các trường hợp nhất định quy định tại điều này. Việc xác định trách nhiệm bồi thường của tòa án, mức bồi thường cụ thể trong từng trường hợp do tòa án áp dụng BPKCTT không đúng được thực hiện theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

Kết luận 1: Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định tương đối cụ thể, chi tiết các biện pháp khẩn cấp tạm thời, tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng BPKCTT, dự liệu được các tình huống phát sinh trong thực tiễn đời sống, nên đã tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án, các đương sự trong quá trình yêu cầu và áp dụng BPKCTT vào thực tiễn giải quyết vụ án dân sự. Thông qua việc phân tích và đánh giá, cũng nhận thấy một số quy định của pháp luật hiện hành còn bộc lộ những điểm hạn chế, bất cập cần được nghiên cứu và hoàn thiện thêm.

II. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI

3.1 Thực trạng thực hiện pháp luật về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

          Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung, trong đó quy định mới một số biện pháp, đồng thời sửa đổi, bổ sung một số quy định khác về các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động ,…thời gian qua cho thấy, việc áp dụng các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời tại các Tòa án nhân dân về cơ bản đã đảm bảo đúng pháp luật. Tuy nhiên, vẫn còn một số Tòa án nhân dân để xảy ra sai sót, vi phạm. Phụ lục của chỉ thị số 03/2019/CT-CA ngày 30 tháng 12 năm 2019 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (đính kèm phần phụ lục) đã chỉ ra một số sai sót cần rút kinh nghiệm trong vệc áp dụng các BPKCTT. Do đó, em xin đưa ra một vài vụ việc thực tiễn cho những sai phạm đó

Thứ nhất, về đương sự có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

          Theo quy định tại khoản 1 Điều 111 BLTTDS năm 2015 thì quy định về quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời  của đương sự . Như vậy, đương sự (gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà không phân biệt bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập hay không) đều có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án. Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay vẫn còn có ý kiến khác nhau về quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Cụ thể có ý kiến cho rằng chỉ khi nào bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập thì mới có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Một vụ án đã  minh chứng cho vấn đề này[6].

Thứ hai, về việc yêu cầu đương sự sửa đơn yêu cầu và nộp chứng cứ cho Tòa án

          Theo quy định tại khoản 1 Điều 133 BLTTDS năm 2015, người yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải làm đơn gửi đến Tòa án có thẩm quyền. Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của đương sự phải có các nội dung chính quy định từ điểm a đến điểm e khoản 1 Điều 133 BLTTDS năm 2015.

Như vậy, nếu đương sự làm đơn yêu cầu chưa đúng theo quy định thì Tòa án chưa xem xét đơn yêu cầu của đương sự mà phải yêu cầu đương sự sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu. Tuy nhiên, hiện nay BLTTDS năm 2015 cũng như chưa có văn bản nào hướng dẫn thời hạn đương sự sửa đổi, bổ sung đơn trong thời hạn bao lâu. Nếu hết thời hạn đó mà đương sự không sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu theo yêu cầu của Tòa án thì hậu quả pháp lý như thế nào. Cụ thể là Tòa án có quyền trả lại đơn yêu cầu cho đương sự hay không. Tương tự, nếu đương sự cung cấp chứng cứ chưa đủ thì Tòa án đề nghị đương sự cung cấp bổ sung chứng cứ trong thời hạn bao lâu. Nếu hết thời hạn được yêu cầu mà đương sự không cung cấp bổ sung được chứng cứ thì hậu quả pháp lý như thế nào. Cụ thể là Tòa án trả lại đơn yêu cầu cho đương sự hay xem xét đơn yêu cầu và ra quyết định không chấp nhận yêu cầu của đương sự.

Thứ ba, về xác định giá trị tài sản bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

          Hiện nay về nguyên tắc Tòa án chỉ phong tỏa tài sản, tài khoản tương ứng với nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải thực hiện. Nên việc Tòa án phải xác định giá trị tài sản bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên, vấn đề xác định giá trị tài sản bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cần phải được hướng dẫn cụ thể hơn, nhất là về thẩm quyền, trình tự, thủ tục và thời gian Tòa án phải xác định giá trị tài sản bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Cụ thể là tự Thẩm phán, Hội đồng xét xử có quyền xác định giá trị tài sản bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không. Hay là phải do Hội đồng định giá tài sản xác định. Trình tự, thủ tục tiến hành việc xác định giá tài sản như thế nào. Thời hạn để xác định già trị tài sản bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là bao lâu. Một vấn đề khác nữa là nếu tại phiên tòa đương sự có đơn yêu cầu phong tỏa tài sản và Tòa án cần phải xác định giá trị tài sản bị áp dụng biện pháp tạm thời và cần có thời gian mới xác định được già trị tài sản thì Hội đồng xét xử quyết định tạm dừng phiên tòa hay phải hoãn phiên tòa.

Thứ tư, một số biện pháp khẩn cấp tạm thời còn được hiểu chưa rõ ràng

          Có rất nhiều BPKCTT được áp dụng chưa đúng, còn hiểu sai về quy định pháp luật, cụ thể như một vài vụ án thực tiễn sau:

          Vụ án đầu tiên[7] liên quan đến biện pháp giao người chưa thành niên, người bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục”

Cần phải hiểu thuật ngữ “người giám hộ” theo nghĩa rộng gồm “người đại diện theo pháp luật, người giám hộ” và phải là việc đại diện, giám hộ hợp pháp. Trong trường hợp trên, theo bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, bà L là người đại diện theo pháp luật và có quyền nuôi dưỡng cháu K. Việc ông H giữ cháu K mà không có sự đồng ý của bà L ảnh hưởng đến quyền nuôi dưỡng con chung của bà L. Vì vậy, bà L hoàn toàn có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT tại Điều 115 BLTTDS năm 2015.

          Vụ án thứ hai[8] liên quan đến biện pháp “cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định”

Điều 127 BLTTDS năm 2015 quy định, cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy, đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác thực hiện hoặc không thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có liên quan trong vụ án đang được Tòa án giải quyết.

Tuy nhiên, quy định của Điều 127 vô tình tạo khoảng trống để đương sự lạm dụng, né tránh khi yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT trong thực tiễn. Theo đó, đương sự có thể yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT tại Điều 127 để buộc người đang chiếm hữu, người giữ tài sản hoặc chủ sở hữu tài sản (mà không phải tài sản tranh chấp) không được tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc có hành vi chuyển dịch quyền về tài sản cho người khác hoặc yêu cầu áp dụng BPKCTT đối với phần tài sản có giá trị lớn hơn nghĩa vụ của người bị áp dụng BPKCTT. Trong khi đó, các yêu cầu này thực chất thuộc phạm vi áp dụng BPKCTT tại các Điều 120, 121, 125, 126 BLTTDS năm 2015.

3.2 Hoàn thiện pháp luật TTDS về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

          – Hoàn thiện pháp luật về xác định trách nhiệm của Thẩm phán trong trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng.

          – Hoàn thiện quy định về thời điểm ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp đương sự nộp đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT cùng với việc nộp đơn khởi kiện.

          – Thống nhất cách hiểu chung về quy định: đương sự có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

          – Bổ sung văn bản quy định thời hạn, thủ tục và hậu quả pháp lý việc yêu cầu đương sự sửa đơn yêu cầu và nộp chứng cứ cho Tòa án.

          – Quy định chi tiết về việc xác định giá trị tài sản bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

          Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là một trong những thủ tục cần thiết khi giải quyết vụ án dân sự, góp phần bảo đảm cho hoạt động xét xử và thi hành án dân sự. Các quy định về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong BLTTDS  ngày càng được hoàn thiện bằng việc bổ sung nhiều biện pháp mới cho phù hợp với thực tiễn và pháp luật nội dung. Thông qua sự tìm hiểu và phân tích cũng như từ thực tiễn áp dụng BPKCTT , những vấn đề bất cập, mâu thuẫn trong pháp luật cần được kịp thời phát hiện và kiến nghị sửa đổi, góp phần nâng cao hiệu suất áp dụng BPKCTT, bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Trường đại học luật Hà Nội NXB Công an nhân dân, 2018;
  2. Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017;
  3. Luật Trách nhiệm bồi thường Nhà nước năm 2016;
  4. Chỉ thị số 03/2019/CT-CA ngày 30 tháng 12 năm 2019 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về việc nâng cao chất lượng áp dụng các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự;
  5. Bùi Thị Huyền, Bàn về một số biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của BLTTDS năm 2015, Tạp chí Khoa học kiểm sát, số 02/2017;
  6. Nguyễn Trọng Bình, Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự và thực tiễn tại các tòa án nhân dân Sơn La, Luận văn thạc sĩ Luật học; TS. Hoàng Ngọ Thính hướng dẫn;

Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, chủ biên TS. Bùi Thị Huyền, Nxb Lao động năm 2016;


[1] Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, nxb Công an nhân dân tr.179

[2] Bùi Thị Huyền, Bàn về một số biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của BLTTDS năm 2015, Tạp chí Khoa học kiểm sát, số 02/2017

[3] Trần Phương Thảo (2011) BIện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự, Luận văn án tiến sĩ Luật học, Hà Nội. tr.80

[4] Điều 137. Thay đổi, áp dụng bổ sung biện pháp khẩn cấp tạm thời

Khi xét thấy biện pháp khẩn cấp tạm thời đang được áp dụng không còn phù hợp mà cần thiết phải thay đổi hoặc áp dụng bổ sung biện pháp khẩn cấp tạm thời khác thì thủ tục thay đổi, áp dụng bổ sung biện pháp khẩn cấp tạm thời khác được thực hiện theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này

[5] Điều 113. Trách nhiệm do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng

1. Người yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình; trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường.

[6] Nguyên đơn là ông A là bên được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất tranh chấp, bị đơn là chị H là bên đang trực tiếp sử dụng thửa đất. Quá trình giải quyết vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất, ông A dùng xe cơ giới đấp đất trên thửa đất tranh chấp để chặn ngang đường cấp thoát nước vào ao nuôi cá của bị đơn. Bị đơn nộp đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc nguyên đơn phải khai thông đường cấp thoát nước vào ao nuôi cá của bị đơn. Vì việc ông A chặn đường cấp thoát nước vào ao cá của chị H làm thiệt hại tôm mà chị H đang nuôi chưa thu hoạch. Đối với vụ án này, có quan điểm cho rằng chị H không có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vì trong chị H không có yêu cầu phản tố gì trong vụ án. Nhưng có quan điểm cho rằng chị H có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vì BLTTDS năm 2015 không có quy định bị đơn không có yêu cầu phản tố sẽ không có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

[7] Theo đơn khởi kiện, ông Huỳnh Ngọc H cho rằng, theo bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 629/2018/HNGĐ-ST của Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh T, bà Trần Hồng L được ly hôn với ông H; bà L được quyền nuôi dưỡng con chung tên Huỳnh Ngọc K, sinh ngày 11/10/2016. Chi cục Thi hành án dân sự huyện A đã giao cháu K cho ông Trần Hồng T (cha ruột của bà L) nhận nuôi dưỡng do được bà L ủy quyền. Tuy nhiên, do ông T nuôi dưỡng cháu K không đúng với bản án đã tuyên, là người lớn tuổi, vụng về trong việc chăm sóc trẻ nhỏ nên ông H đã mang cháu K về nuôi dưỡng sau khi ông T nhận cháu K khoảng 15 phút. Vì vậy, ông H yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, giao cháu K cho ông H nuôi dưỡng.

Trong quá trình giải quyết vụ án, do yêu cầu giao trả cháu K nhưng ông H không chấp nhận nên bà L có đơn yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT theo Điều 115 BLTTDS năm 2015. Tuy nhiên, Tòa án nhân dân huyện A đã không chấp nhận yêu cầu của bà L do cháu K đang có người đại diện hợp pháp, người giám hộ theo quy định của pháp luật là bà L, ông H.

[8] Theo đơn khởi kiện ngày 13/5/2019, nguyên đơn ông Huỳnh Văn T trình bày, vào ngày 17/02/2019, ông T có cho bà Nguyễn Thị Đ vay số tiền 50.000.000 đồng, lãi suất 5%/tháng, thời hạn vay 01 năm. Hai bên có lập biên nhận thể hiện. Từ lúc vay tiền đến nay, bà Đ không đóng lãi cho ông T. Do bà Đ vi phạm nghĩa vụ trả lãi nên ông T khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh B buộc bà Đ trả lại số tiền vay 50.000.000 đồng và tiền lãi theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án, do biết bà Đ được cấp quyền sử dụng đất nông nghiệp diện tích 3.500m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS03878 ngày 15/9/2017 của Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh B và bà Đ đang thực hiện thủ tục chuyển nhượng cho người khác nên để đảm bào cho việc thi hành án, ông T yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT tại Điều 127 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, cấm bà Đ chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích 3.500m2. Ngày 21/8/2019, Tòa án nhân dân huyện T ban hành Quyết định áp dụng BPKCTT theo yêu cầu của bà Đ.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bình luận việc thực hiện chính sách tền tệ tác động đến tỷ giá hối đoái

Theo như em tìm hiểu, nửa đầu năm 2017, nước ta đã phải đối mặt với bối cản cán cân thương mại thâm hụt ( Cán cân thương mại hàng hóa của khối doanh nghiệp có vốn FDI trong nửa đầu năm thặng dư hơn 7,55 tỷ USD); những biến động lớn trên thị trường tài chính quốc tế đặc biệt sự kiện Brexit và các khâu chuẩn bị, quá trình đàm phán thực hiện Brexit. Những tác động đa chiều của cuộc bầu cử tại Mỹ, cũng như các quyết định của Mỹ, biến động về quan hệ ngoại giao của Qatar và một số nước Trung Đông; Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) tăng lãi suất 2 lần. Đồng đô la Mỹ mất giá trên thị trường tài chính quốc tế,…Tuy nhiên tỷ giá vẫn được giữ ổn định nhờ sự tác động của chính sách tiền tệ:

– Thứ nhất, trong nửa năm đầu 2017, tỷ giá không thay đổi nhiều nên NHNN đã có động thái mua vào khoảng 1 tỷ USD vào dự trữ ngoại hối. Lượng tiền này tiếp tục được bơm ra nền kinh tế thông qua các ngân hàng. Tính trong 6 tháng đầu năm, tín dụng ngoại tệ đã tăng 5,5% – 6% trong khi năm 2016 không tăng.

– Thứ hai, để góp phần giảm áp lực đáng kể lên tỷ giá, chính sách tiền tệ đã phối hợp đồng bộ, chặt chẽ trong điều hành lãi suất VND trên thị trường tiền tệ và thị trường trái phiếu Chính phủ. Thanh khoản của hệ thống các TCTD, sự ổn định của thị trường vàng… Cụ thể là quyết định giảm lãi suất điều hành đồng thời giữ nguyên hạn mức tăng trưởng tín dụng chung là 18%. Mục đích của NHNN là cho các ngân hàng thương mại (NHTM) cơ hội giảm lãi suất cho vay và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng. Qua số liệu thống kê, mức lãi suất huy động và cho vay năm 2016 và 6 tháng đầu năm 2017 đang ở mức thực dương, NIM của các ngân hàng đang ở mức hợp lý, xu hướng lạm phát giảm thấp.

Nhận thấy tác động của chính sách tiền tệ giai đoạn này là trong hệ thống tỷ giá hối đoái linh hoạt, tư bản vận động tự do, NHNN thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng mức cung tiền trong nền kinh tế làm cho lãi suất giảm xuống làm cho tăng tổng cầu, nhờ vậy mà quy mô của nền kinh tế mở rộng, thu nhập tăng và tỷ lệ thất nghiệp giảm. Khi lãi suất giảm, tư bản đương nhiên đổ ra nước ngoài để đầu tư vào những nước có lãi suất cao hơn, lúc này thị trường ngoại hối dư cầu làm cho tỷ giá ngoại tệ tăng, tỷ giá nội tệ giảm kéo theo xuất khẩu ròng tăng, tổng cầu tăng nên nền kinh tế cân bằng tại điểm có sản lượng cao hơn mức ban đầu.

– Thứ ba, chính sách tiền tệ đã thực hiện biện pháp thu hút lượng ngoại tệ vào Việt Nam bằng cách tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Cụ thể, thực hiện theo quyết định 1058/ QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ quyết định phê duyệt đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lí nợ xấu giai đoạn 2016-2020. Triển khai hoạt động này là việc lành mạnh hóa, nâng cao năng lực tài chính: Kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng và xử lý nợ xấu, xử lý nợ xấu tại các NHTM thông qua bán nợ cho VAMC, tăng vốn điều lệ và lợi nhuận để lại; Đổi mới hệ thống quản trị ngân hàng theo hướng hiện đại, phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế; Cơ cấu lại hoạt động kinh doanh theo hướng an toàn, lành mạnh,…Theo tác động của quy luật cung cầu ngoại tệ sẽ làm cho đồng ngoại tệ mất giá, đồng nội tệ lên giá, tỷ giá hối đoái giảm. Ngược lại, khi cán cân thanh toán quốc tế bội chi sẽ làm cho đồng ngoại tệ lên giá, đồng nội tệ mất giá, tỷ giá hối đoái tăng.

Tóm lại, chính sách tiền tệ trong 6 tháng đầu năm 2017 đã  thực hiện một cách thận trọng và chặt chẽ, ổn định được lãi suất và tỷ giá. Trong khi đó, việc điều hành giảm lãi suất phát hành trái phiếu phù hợp, giảm chi tiêu ngân sách và có lộ trình tăng giá hàng hoá thiết yếu phù hợp ở chính sách tài khoá đã góp phần kiểm soát lạm phát. Từ đây ta có thể nhận thấy Chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá và quản lý ngoại hối, chính sách lãi suất và tín dụng tiếp tục được điều hành hiệu quả và kết hợp hài hòa với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác để  thực hiện cho được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát ở mức thấp và thúc đẩy tăng trưởng trong trung và dài hạn. Đây là nhiệm vụ chính trị tổng quát, xuyên suốt của ngành Ngân hàng với vai trò chủ đạo để cùng với các Bộ, ngành thực hiện cho được mục tiêu chung của Chính phủ. Quản lý chặt chẽ thị trường ngoại tệ, thị trường vàng, không để xảy ra những biến động bất lợi. Tiếp tục tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Phát huy vai trò chủ đạo của thị trường tiền tệ trong việc duy trì sự ổn định của thị trường tài chính, hỗ trợ thúc đẩy thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản phát triển lành mạnh.

Như vậy, qua việc tìm hiểu rõ hơn về nội dung và tác động của chính sách tiền tệ đối với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô ở nước ta hiện nay, đặc biệt là tác động của nó đối với tỷ giá hối đoái đóng vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng trong nền kinh tế. Hiểu rõ về chính sách tiền tệ và vận dụng nó trong nền kinh tế hiện nay đòi hỏi cần phải có tầm nhìn rộng và kiến thức về nó. Để nền kinh tế Việt Nam có thể đi lên đạt được những mục tiêu tăng trưởng mà Nhà nước ta đã đề ra thì cần vận dụng một cách triệt để và có hiệu quả chính sách này.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Phân tích hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự vô hiệu. Sưu tầm một bản án của Tòa án xác định giao dịch dân sự vô hiệu và nêu quan điểm cá nhân về hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự này được giải quyết trong bản án.

Giao dịch dân sự là một trong những căn cứ quan trọng và phổ biến nhất làm phát sinh quan hệ pháp luật dân sự, là phương tiện phasp lí để các chủ thể trong xã hội thiết lập các quan hệ về tào sản và nhân thân. Kinh tế ngày càng phát triển, giao dịch dân sự ngày càng được mở rộng thì việc xảy ra các tranh chấp liên quan đến nó ngày càng tăng. Đặc biệt hiện nay, vấn đề vi phạm điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự khá phổ biến và phức tạp. Việc tìm hiểu và làm rõ các quan điểm của pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu và các nguyên tắc giải quyết hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự vô hiệu là rất cần thiết. Để từ đó, thuận tiện hơn cho việc áp dụng pháp luật cũng như tìm ra những hạn chế khi áp dụng và có hướng hoàn thiện các quan điểm của pháp luật.

I, LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU

1. Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu

1.1 Khái niệm giao dịch dân sự

Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lí đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 116 BLDS 2015).

Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận ý chí của hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.

Hành vi pháp lý đơn phương là giao dịch trong đó thể hiện ý chí của một bên nhằm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình hoặc của bên kia.

1.2 Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự

Điều 117 BLDS 2015 quy định:

“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.”

1.3 Khái niệm, đặc điểm của giao dịch dân sự vô hiệu

– Điều 112: Giao dịch dân sự vô hiệu

Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy đinh khác.

– Đặc điểm:

+ Giao dịch dân sự vô hiệu có sự vi phạm điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự từ khi giao kết, xác lập giao dịch.

+ Mức độ vi phạm là nghiệm trọng hoặc ít nghiêm trọng.

+ Sự vi phạm có thể do cố ý hoặc vô ý của một trong các bên giao dịch.

+ Các bên tham gia vào giao dịch phải gánh chịu hậu quả pháp lí.

* Phân biệt giao dịch dân sự vô hiệu với giao dịch dân sự không có hiệu lực:

– Có thể hiểu, GDDS vô hiệu là giao dịch không tồn tại theo quy định của pháp luật, không có hiệu lực pháp lý. Còn GDDS không có hiệu lực là GDDS không làm phát sinh bất kỳ một hậu quả pháp lí nào

– Giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch không có hiệu lực tại thời điểm giao kết còn GDDS bị mất hiệu lực là giao dịch có hiệu lực tại thời điểm ký kết nhưng giao dịch bị chấm dứt hiệu lực là do rơi vào tình trạng không thế thực hiện được.

– Về hậu quả pháp lí, nếu GDDS vô hiệu các bên phải khôi phục tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, bên nào có lỗi thì phải bồi thường. Đối với giao dịch bọ chấm dứt hiệu lực, các bên không phải khôi phục lại tình trạng ban đầu mà giữ nguyên hiện trạng hiện tại thời điểm chấm dứt giao dịch.

2. Phân hoại giao dịch dân sự vô hiệu

– Căn cứ theo phạm vi nội dung vô hiệu, GDDS vô hiệu được chia thành 2 loại

+ Giao dịch dân sự vô hiệu toàn bộ: xảy ra khi toàn bộ mục đích, nội dung  của GDDS đó là vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội hoặc một trong các bên tham gia giao dịch đó không có quyền xác lập giao dịch dân sự hoặc vi phạm một thỏa thuận và ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại, dẫn đến toàn bộ giao dịch vô hiệu.

+ Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần: là giao dịch mà trong đó chỉ có một phần hoặc một số phần của giao dịch đó bị vô hiệu nhưng không ảnh ưởng đến hiệu lực của các phần còn lại.

– Căn cứ theo tính chất, trình tự bị coi là vô hiệu thì có 2 loại:

+ Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối: không có hiệu lực pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ các bên, thậm chí ngay cả trong trường hợp khi các bên đã tiến hành thực hiện nội dung cam kết.

+ Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối: có hiệu lực pháp lý cho đến khi nào bị tuyên bố vô hiệu. Nó chỉ trở nên vô hiệu khi có đơn yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan đồng thời cũng có quyết định của Tòa án.

3. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

Hậu quả của GDDS vô hiệu phải tuân theo quy định tại Điều 131 BLDS 2015:

“1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.

2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.

3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.

4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.

5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.”

Riêng đối với trường hợp hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được (Điều 408):

“1. Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu.

2. Trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được.

3. Quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được nhưng phần còn lại của hợp đồng vẫn có hiệu lực.”

Hậu quả pháp lý của GDDS vô hiệu: Không làm phát sinh, thay đỏi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên, kể từ thời điểm xác lập dù giao dịch đó đã được thực hiện hay chưa. Do vậy, việc chiếm hữu, sử dụng tài sản của các bên trong GDDS vô hiệu được coi là chiếm hữu, sử dụng tài sản không có căn cứ pháp luật, cho nên phát sinh nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản không có căn cứ pháp luật theo quy định tại các điều từ Điều 579 đến Điều 583 BLDS 2015[1].

Khi một giao dịch dân sự được tuyên bố là vô hiệu thì có thể dẫn đến các vấn đề sau: Hoàn trả về tài sản, vấn đề thiệt hại xảy ra, vấn đề thỏa thuận của các bên khi giao dịch vô hiệu, vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba ngay tình. Trong việc hoàn trả tài sản, tùy theo từng trường hợp vi phạm cụ thể mà Tòa án có thể buộc các bên gánh chịu hậu quả theo một trong ba phương thức khác nhau: 1, Hoàn trả song phương: các bên đều phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận được từ bên kia; 2, Hoàn trả đơn phương: một bên được hoàn trả lại tài sản giao dịch, còn tài sản giai dịch thuộc bên kia (bên vi phạm) thì bị tịch thu sung công quỹ; 3, Tịch thu toàn bộ: Mọi tài sản giao dịch của cả hai bên vi phạm đều bị tịch thu sung công quỹ[2].

Do tính chất khác nhau của GDDS vô hiệu tương đối và GDDS vô hiệu tuyệt đối nên hậu quả pháp lý cũng khác nhau. Cụ thể:

a, Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối

– Trường hợp giao dịch dân sự chưa được thực hiện: Do chưa được thực hiện nên cũng chưa phát sinh vấn đề hoàn trả tài sản, hoa lợi, lợi tức. Trong trường hợp giao dịch đã được xác lập mà các bên vẫn chưa thực hiện các quyền và nghĩa vụ thỏa thuận cũng như chưa chuyển giao tài sản cho nhau thì hậu quả pháp lý vật chất không được đặt ra. Tuy nhiên, nếu giao dịch vô hiệu do có lỗi và gây thiệt hại cho bên không có lỗi thì bên có lỗi vẫn phải bồi thường.

– Trường hợp giao dịch dân sự đã, đang thực hiện: Về nguyên tắc, GDDS vô hiệu thì các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả lại được bằng hiện vật thì phải hoàn trả lại bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức bị tịch thu theo quy định của pháp luật.

b, Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối

– Trường hợp giao dịch dân sự chưa thực hiện: Trường hợp này chưa làm phát sinh các hậu quả pháp lý cho các bên tham gia giao dịch, vì vậy vấn đề thiệt hại xảy ra, yêu cầu công nhân thỏa thuận các bên và bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình là không phát sinh trong trường hợp này.

– Trường hợp giao dịch dân sự đã, đang thực hiện: bên có lỗi làm cho giao dịch bị vô hiệu phải bồi thường cho bên bị thiệt hại hoặc người thứ ba bị thiệt hại. Nếu các bên đều có lỗi thì căn cứ vào mức độ lỗi để xác định trách nhiệm bồi thường tương ứng. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường do pháp luật quy định hoặc các bên có thỏa thuận trước về hậu quả, như: phạt, phạt cọc khi một bên có lỗi và phải chịu thiệt hại tương ứng với lỗi của họ gây ra. Đối với giao dịch vô hiệu tương đối là loại giao dịch có khả năng khắc phục, được coi là một laoij giao dịch dân sự có thể có hiệu lực nhưng cũng có thể bị vô hiệu theo sự lựa chọn của một trong các bên tham gia giao dịch. Giao dịch này thông thường không xâm phạm trật tự công cộng và đạo đức xã hội và chỉ có thể bị vô hiệu đối với bên có lỗi mà không bị vô hiệu đối với bên không có lỗi. Khi xác nhận giao dịch dân sự vô hiệu thì các quyền và nghĩa vụ của các bên đã thỏa thuận đều không có giá trị pháp lý.

II, BẢN ÁN CỦA TÒA ÁN XÁC ĐỊNH GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU TRÊN THỰC TIỄN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA GIAO DỊCH ĐÓ

Từ những lý luận phân tích như trên cho thấy việc vi phạm trong giao kết hợp đồng dẫn đến giao dịch dân sự bị vô hiệu xảy ra nhiều trường hợp. Để làm rõ những trường hợp này có rất nhiều tình huống có thể làm rõ. Tuy nhiên, do hạn chế về số trang của tiểu luận nên em xin lấy ví dụ về một vụ án điển hình đó là Bản án 21/2017/DS-ST ngày 21/08/2017 về tranh chấp giao dịch về cầm cố quyền sử dụng đất.

1. Tóm tắt bản án

– Nguyên đơn: Anh Lê Văn H, sinh năm 1971. Địa chỉ: ấp 3BA, xã N, Huyện A, Tỉnh K. Có mặt

– Bị đơn: Ông Lê Văn S, sinh năm 1942; Bà Nguyễn Thị Ơ, sinh năm 1945

Cùng địa chỉ: Tổ 6, ấp 5 B, xã N, Huyện A, Tỉnh K. Có mặt

– Người làm chứng: Anh Lê Thanh T, sinh năm 1982. Địa chỉ: Ấp 5 B, xã N, Huyện A, Tỉnh K. Có mặt

– Nội dung vụ án: Ngày 29/02/2002, anh H có nhận cầm cố quyền sử dụng đất của vợ chồng ông Lê Văn S, bà Nguyễn  Thị  Ơ với diện tích là 05  công đất  ruộng tầm 3m (tương đương 6.480m2, tọa lạc tại ấp 5 B, xã N, Huyện A, Tỉnh K với số vàng cố đất là 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999). Khi cố hai bên có làm giấy tay với nhau và thỏa thuận thời hạn cố từ ngày 29/02/2002 đến ngày 29/02/2004, nếu đến hạn vợ chồng ông Sứ, bà Ơ không chuộc đất thì anh tiếp tục sử dụng. Anh H đã giao vàng cho vợ chồng ông Sứ, bà Ơ xong và nhận 05 công đất canh tác. Do phần đất này năm trong chu vi đất của ông Sứ, bà Ơ nên khi nhà nước quy hoạch nuôi tôm anh không trồng lúa được nên đã cho con ông Sứ là anh Tùng thuê đến 2016. Sau khi hết hợp đồng anh Tùng không thuê nữa mà đã giao trả lại phần đất này cho ông Sứ, bà Ơ sử dụng. Hiện nay ông Sứ bà Ơ đã nhận lại đất cầm cố cho anh rồi nhưng chưa trả vàng cố đất cho anh. Vì vậy, anh H yêu cầu hủy hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất giữa anh với vợ chồng ông Sứ, bà Ơ ngày 29/02/2002 và yêu cầu ông Sứ, bà Ơ trả lại cho anh 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999).

Nội dung giải quyết vụ án: tại bản án số 21/2017/DSST ngày 21/08/2017, Tòa án nhân dân huyện A tỉnh K đã xử:

+ Căn cứ pháp lý: Căn cứ vào Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân năm 2015; Điều 179 Luật đất đai năm 2013; Điều 123, 131 Bộ luật Dân sự 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

+ Nội dung:

  1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Lê Văn H.
  2.  Tuyên bố giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất giữa ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ và anh Lê Văn H xác lập ngày 29/02/2002 là vô hiệu.
  3. Buộc ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ có nghĩa vụ trả cho anh Lê Văn H 20 (Hai mươi) chỉ vàng 24kr (vàng 9999).
  4. Ghi nhận anh Lê Văn H đã giao và vợ chồng ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ đã nhận xong 05 công đất cầm cố cho anh Lê Văn H.
  5. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Buộc ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).

Hoàn trả cho anh Lê Văn H số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 0007910 ngày 16/6/2017 của Chi cục thi hành án dân sự Huyện A.

  • Quyền kháng cáo: Án xử công khai, các đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

2. Hậu quả pháp lý của bản án

– Vấn đề pháp lí của bản án “ Tranh chấp giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất”.

– Giao dịch dân sự trong bản án được xác định là giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối đã được thực hiện.

– Hậu quả pháp lý của bản án:

+ Ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ có nghĩa vụ hoàn trả số vàng cố đất lại cho anh Lê Văn H là 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999). Đối với phần đất cầm cố hiện nay anh Lê Văn H đã giao trả lại cho ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ xong nên Hội đồng xét xử ghi nhận và miễn xét.

+ Xét yêu cầu của ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ yêu cầu mỗi năm trả cho anh Lê Văn H 04 chỉ vàng đến khi trả đủ 20 chỉ là không có cơ sở chấp nhận.

3. Quan điểm của cá nhân về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự được giải quyết trong bản án

* Hậu quả pháp lý phát sinh:

Với nội dung vụ án nêu trên, bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh K đã áp dụng Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 179 Luật Đất đai; Điều 123 Bộ luật dân sự 2015 ra quyết định tuyên bố giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất giữa ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ và anh Lê Văn H xác lập ngày 29/02/2002 là vô hiệu.

Pháp luật cho phép các chủ thể được tự do xác lập về thực hiện giao dịch dân sự. Tuy nhiên “tự do thực hiện giao dịch dân sự” chỉ được thừa nhận ở một mức độ hợp lý nếu giao dịch đó không trái pháp luật và trái đạo đức. Xét thấy, quyết định này của Tòa án nhân dân huyện A là hoàn toàn phù hợp và đúng theo pháp luật. Bởi, theo quy định tại Điều 179 của Luật Đất đai hiện hành quy định về quyền của người sử dụng đất thì không quy định người sử dụng đất được phép cầm cố quyền sử dụng đất. Như vậy, việc thỏa thuận cầm cố quyền sử dụng đất giữa ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ với anh Lê Văn H là vi phạm pháp luật nên bị vô hiệu theo quy định tại Điều 123 Bộ luật dân sự 2015: “Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định”.

Khi tìm hiểu nguyên nhân của giao dịch dân sự vô hiệu, áp dụng vào trường hợp cụ thể này thì chúng ta có thể thấy một bộ phận không nhỏ trong xã hội thiếu kiến thức pháp luật, không hiểu biết về quyền và nghĩa vụ của chính mình nên mới dẫn đến tranh chấp. Khi Tòa án giải quyết theo đúng pháp luật thì ít nhiều cũng ảnh hưởng không nhỏ đến phần tài sản giao dịch vì các bên trả lại cho nhau những gì đã nhận mà giao dịch đó diễn ra trước khi Tòa xử cũng là 15 năm. Do đó, hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu sẽ dẫn đến những hệ lụy không thể tránh khỏi, đây là hậu quả khi các bên không tìm hiểu pháp luật, thực hiện giao dịch dân sự dựa trên ý chí và nguyện vọng của mình.

– Theo quyết định đó, hậu quả pháp lý của bản án cũng phù hợp, đúng theo tinh thần pháp luật. Vì, theo quy định tại Điều 131 Bộ luật dân sự 2015, “1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập; 2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”. Do đó, ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ có nghĩa vụ hoàn trả số vàng cố đất lại cho anh Lê Văn H là 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999) là hợp lý. Và đối với phần đất là 05 công đất tầm 3m khi anh H giao dịch với vợ chồng ông S, bà Ơ ngày 29/2/2002 thì hiện nay ông S, bà Ơ đã nhận lại nên Tòa không xét đến.

Theo chi tiết vụ việc trên, cá nhân em nhận thấy rằng, hậu quả pháp lý của bản án đã đúng theo quy định của pháp luật, đảm bảo cho việc thiết lập giao dịch được pháp luật bảo vệ, quyền và nghĩa vụ của các bên được cân bằng. Trong vụ án này, do phần đất giao dịch giữa anh H với vợ chồng ông S bà Ơ nằm trong chu vi đất của ông Sứ, bà Ơ nên khi nhà nước quy hoạch nuôi tôm anh không trồng lúa được nên đã cho con ông Sứ là anh Tùng thuê đến 2016. Sau khi hết hợp đồng anh Tùng không thuê nữa mà đã giao trả lại phần đất này cho ông Sứ, bà Ơ sử dụng. Tức là, tài sản là đối tượng của giao dịch vẫn giữ nguyên, có tác động nhưng không ảnh hưởng đến lợi ích của hai bên, và ông S, bà Ơ cũng không có ý kiến gì về việc trả hoa lợi ,lợi tức nên phần đất này sẽ không phải trị giá bằng tiền mà trả bằng hiện vật, ông S, bà Ơ cũng sẽ có nghĩa vụ trả lại anh H 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999).

– Xét yêu cầu của ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ yêu cầu mỗi năm trả cho anh Lê Văn H 04 chỉ vàng đến khi trả đủ 20 Tòa tuyên án là không có cơ sở chấp nhận. Bởi theo khoản 2 Điều 131 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “ Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận ”. Việc ông bà nhận của anh H 20 chỉ vàng 24kr thì phải có nghĩa vụ trả anh H 20 chỉ vàng 24kr. Trong trường hợp anh H đồng ý cho ông bà trả mỗi năm 04 chỉ vàng thì Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự. Tuy nhiên, anh H không đồng ý cho ông bà trả dần mỗi năm 04 chỉ vàng nên Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định pháp luật buộc ông bà có nghĩa vụ trả cho anh H 20 chỉ vàng 24kr. Từ các nhận định nêu trên, sau khi thảo luận Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Văn H, buộc ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ có nghĩa vụ trả cho Lê Văn H 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999).

Đối với quyết định về hậu quả pháp lý này, cá nhân em cho rằng chưa đảm bảo lợi ích của các bên tham gia giao dịch. Vì sở dĩ giao dịch dân sự này bị vô hiệu là do lỗi của cả hai bên, theo nguyên tắc khi giao dịch dân sự bị vô hiệu thì các bên trả lại cho nhau những gì đã nhận. Khi xác lập giao dịch, ông S bà Ơ có nhận của anh H 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999). Theo như em tìm hiểu giá vàng này tại thời điểm ngày 29/2/2002 là 2,950 triệu đồng/1 chỉ và tính đến thời điểm giao dịch dân sự bị tuyên là vô hiệu là ngày 21/8/2017 giá vàng là 3,520 triệu đồng/1 chỉ. Như vậy, ta có thể dễ dàng nhận thấy giá vàng tại hai thời điểm khác nhau rất lớn. Nếu như phía ông S, bà Ơ đã sử dụng số vàng này rồi thì khả năng trả 20 chỉ vàng cùng một lúc là khó thực hiện, chưa kể ông S, bà Ơ đã tuổi cao, không lao động được nhiều, nên cá nhân em nhận thức được rằng Tòa án cần phải cân nhắc thêm, chấp nhận yêu cầu của ông S, bà Ơ mỗi năm trả 4 chỉ vàng cho đến khi trả xong. Điều này vẫn tuân thủ những quy định của pháp luật mà còn hợp lý, đảm bảo lợi ích của cả hai bên khi giao dịch dân sự bị tuyên bố vô hiệu.

* Hậu quả phải bồi thường thiệt hại:

– Trong vụ án này, mức độ thiệt hại của các bên tham gia giao dịch là không được nhắc đến vì trên thực tế phần thiệt hại là không đáng kể hoặc không có. Hơn nữa, yếu tố lỗi trong vụ án này thuộc về cả hai bên tham gia giao dịch. Ông S, bà Ơ có lỗi đã không hiểu biết pháp luật hoặc do lỗ hổng của pháp luật làm cho học không hiểu hoặc hiểu sai, họ đã đem phần đất tương ứng là 05 công đất tầm 3m của mình đi cầm cố; nhưng anh H cũng có lỗi không tìm hiểu trước khi tiến hành giao dịch để cuối cùng không thỏa thuận được dẫn đến tranh chấp. Do vậy, không có ai phải bồi thường thiệt hại.

* Hậu quả pháp lý phát sinh đối với người thứ ba ngay tình:

– Theo nguyên tắc, khi giao dịch dân sự vô hiệu thì ngoài việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch thì còn phải đảm bảo lợi ích xã hội, lợi ích công cộng và các chủ thể khác. Tuy nhiên, trong vụ án này chỉ có hai bên trực tiếp tham gia giao dịch và người có quyền và nghĩa vụ liên quan là anh Tùng con ông S, không tồn tại người thứ ba ngay tình nên hậu quả này cũng không được xét đến.

III, THỰC TRẠNG – PHƯƠNG HƯỚNG ÁP DỤNG LUẬT ĐỂ TUYÊN BỐ  GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU, HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC TUYÊN BỐ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU

1. Thực trạng

Hiện nay ở nước ta hàng năm có số lượng án giao dịch dân sự chiếm tỷ lệ khá lớn so với các án dân sự và hôn nhân gia đình, khoảng 70% – 80%, số lượng án giao dịch dân sự vô hiệu chiếm khoảng 15% – 20%, số lượng án giải quyết ở cấp sơ thẩm bị cấp phúc thẩm cải sửa còn cao hơn 50%. Với những con số ấy ta có thể thấy thực trạng sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật ở nước ta còn nhiều hạn chế. Thông thường, các bên khi tham gia giao dịch không nắm được những quy định của pháp luật mà thực hiện giao dịch chủ yếu dưới dạng tự phát, dẫn đến nhiều giao kết vô hiệu ngay tại thời điểm ký kết mà các bên không biết, vẫn thực hiện khi có tranh chấp mới yêu cầu hủy.

Khi giải quyết các vụ việc đã thực hiện rồi thì các thẩm phán thường lúng túng, phải cân nhắc có nên hủy hay không, nếu hủy giao dịch dân sự vô hiệu thì phù hợp với pháp luật nhưng không phù hợp với thực tiễn và ngược lại, thậm chí còn có trường hợp tuyên bố hủy nhưng vẫn công nhận. Mặt khác, diễn biến của giao dịch dân sự vô hiệu phức tạp do sự biến đổi về giá cả thị trường, có khi tài sản bị chênh lệch giá cả giữa lúc xác lập giao dịch và lúc giải quyết gấp 4,5 lần… Trong khi đó, đường lối giải quyết hậu quả của các giao dịch dân sự vô hiệu lại không nhất quán giữa các thành viên trong hội đồng xét xử, không mang lại sự công bằng cho các đương sự. Chính vì lẽ đó, nhiều khi đương sự lợi dụng sơ hở của pháp luật đã thất hứa, yêu cầu hủy giao dịch nhằm chuộc lợi cho mình. Hiện nay còn tồn tại tình trạng giải quyết một vụ án nhiều lần, nhiều cấp xét xử nhưng vẫn chưa đưa ra được quyết định phù hợp, các đương sự vẫn tiếp tục khiếu nại căng thẳng.

Vấn đề có liên quan đến hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu:

+ Về hậu quả các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận: trên thực tế việc hoàn trả này không thật sự đảm bảo lợi ích của các chủ thể đặc biệt là trong các giao dịch có đối tượng là nhà, quyền sử dụng đất. Khi các giao dịch có đối tượng như trên bị vô hiệu, bên mua sẽ trả lại nhà, đất cho bên bán còn bên bán sẽ trả tiền cho bên mua. Một điều dễ nhận ra trong việc hoàn trả này đó chính là sự chênh lệch về số lượng tài sản. Lúc này tài sản hai bên thường không có giá trị ngang nhau như lúc kí kết giao dịch nữa. Việc này dẫn đến sự mất cân bằng về mặt lợi ích.

+ Sau một thời gian sau khi giao dịch dân sự được thiết lập, thường thì các đối tượng của giao dịch đã bị sửa đổi, cải tạo, không còn nguyên vẹn. Trong những trường hợp như thế này mà giao dịch dân sự bị vô hiệu sẽ rất khó xử lý trong việc hoàn trả tài sản. Về vấn đề này pháp luật cũng chưa quy định rõ.

+ Về hậu quả hoàn trả lại tiền nếu không hoàn trả lại bằng hiện vật: hiện nay pháp luật cũng chưa quy định về việc hoàn trả bằng tiền được tính theo giá trị của tài sản tại thời điểm hoàn trả hay tính theo giá trị của tài sản tại thời điểm các bên xác lập giao dịch. Vấn đề này rất quan trọng trong việc đảm bảo lợi ích các bên, đặc biệt là đối với các giao dịch có đối tượng thường xuyên thay đổi về giá cả.

2. Một số góp ý về giải pháp

– Trước tiên, vấn đề quan trọng nhất đó là giáo dục cho mọi người dân biết rõ hơn các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật dân sự về vấn đề giao dịch dân sự nói riêng. Bởi lẽ có làm được điều này thì chúng ta sẽ hạn chế được một số lượng đáng kể các vụ việc tranh chấp về giao dịch dân sự vô hiệu.

– Những người cầm cán cân công lý cũng cần phải bồi dưỡng nâng cao trình độ không chỉ trên lý thuyết mà còn phải dực vào thực tế và những người trong nội bộ hội đồng xét xử không chỉ các vụ án về giao dịch dân sự mà các vụ án khác cũng cần có tiếng nói chung. Tránh tình trạng mỗi người một quan điểm, mỗi cấp một quan điểm như vậy sẽ làm cho nhân dân mất lòng tin, có thể còn dẫn đến tình trạng một số đối tượng lợi dụng sự bất đồng quan điểm đó nhằm chuộc lợi cho bản thân

– Ngoài ra, các cấp chính quyền cũng cần xiết chặt hơn nữa công tác quản lý về các mặt của đời sống xã hội của nhân dân để hạn chế phần nào các vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm các hợp đồng dân sự nói riêng.

– Từ thực tiễn xét xử tại các Tòa án về xử lý hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu, có thể thấy, hợp đồng dân sự bị tuyên bố vô hiệu thường thuộc hai dạng sau:

Thứ nhất, hợp đồng bị tuyên bố là vô hiệu vì bản thân hợp đồng không đem lại lợi ích cho ít nhất một bên chủ thể như mong muốn của họ. Ví dụ như: hợp đồng vô hiệu do một bên bị lừa dối, bị nhầm lẫn, bị đe dọa.

Thứ hai, hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu bởi một lý do, nhưng lý do này không làm ảnh hưởng đến lợi ích mà các bên mong muốn. Ví dụ như: hợp đồng vô hiệu do vi phạm hình thức của hợp đồng hoặc hợp đồng vô hiệu do một bên chủ thể không có đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Thương mại.

Có thể nhận thấy, đối với dạng hợp đồng vô hiệu thứ nhất thì việc xử lý hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu là các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận… sẽ đem lại sự công bằng cho bên có lợi ích nhưng không đạt được. Nhưng đối với dạng hợp đồng vô hiệu thứ hai, thì khi giao kết và thực hiện hợp đồng, các bên đều đã đạt được mong muốn của mình, do đó, việc áp dụng một cách cứng nhắc quy định “khôi phục tình trạng ban đầu”, “hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”… rõ ràng là không cần thiết. Hợp đồng này không làm ảnh hưởng đến lợi ích của các bên, lợi ích của người thứ ba hay của cộng đồng. 

Sự chấp nhận này sẽ hạn chế được tình trạng tuyên bố hợp đồng vô hiệu tràn lan do một bên chủ thể lợi dụng quy định của pháp luật để “bội ước” hợp đồng hay sự lúng túng của Tòa án trong việc xét xử hợp đồng vô hiệu do vi phạm về hình thức hoặc không thỏa mãn điều kiện đăng ký kinh doanh. Và các quy định về hậu quả pháp lý đối với các hợp đồng trên cũng phải được sửa đổi, bổ sung.[3]

Với những quan điểm pháp luật đầy đủ, rõ ràng phù hợp với quy luật phát triển của kinh tế thị trường sẽ góp phần tạo môi trường kinh tế – xã hội thuận lợi, lành mạnh, đem lại lợi ích không nhỏ cho các chủ thể và sự phát triển kinh tế đất nước. Đặc biệt hơn nữa, với vị trí và tầm quan trọng của Bộ luật dân sự thì những quy định về GDDS hoặc các luật chuyên ngành điều chỉnh như Luật thương mại, Luật đất đai, Luật nhà ở,.. Nếu không có những quy định cụ thể, rành mạch sẽ làm cho các chủ thể hoang mang, thậm chí là mang tâm lý bắt buộc khi tham gia GDDS, gây ra những hậu quả khó lường. Vì vậy, cần xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật về GDDS vô hiệu, phù hợp với thực tiễn, tạo môi trường giao dịch thuận lợi để các cơ quan nhà nước nói chung, cơ quan tư pháp nói riêng hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ mà Nhà nước giao.

PHỤ LỤC

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A TỈNH K

BẢN ÁN 21/2017/DS-ST NGÀY 21/08/2017 VỀ TRANH CHẤP GIAO DỊCH VÀ CẦM CỐ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 21 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành Huyện  A,  Tỉnh  K  xét  xử  sơ  thẩm  công  khai  vụ  án  thụ  lý  số: 111/2017/TLST-DS ngày 22 tháng 6 năm 2017, về việc “Tranh chấp giao dịch dân sự cầm cố quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 76/2017/QĐXXST-DS ngày 04 tháng 8 năm 2017, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Lê Văn H, sinh năm 1971. Địa chỉ: ấp 3BA, xã N, Huyện A, Tỉnh K. Có mặt

2. Bị đơn: Ông Lê Văn S, sinh năm 1942

Bà Nguyễn Thị Ơ, sinh năm 1945

Cùng địa chỉ: Tổ 6, ấp 5 B, xã N, Huyện A, Tỉnh K. Có mặt

3. Người làm chứng: Anh Lê Thanh T, sinh năm 1982. Địa chỉ: Ấp 5 B, xã N, Huyện A, Tỉnh K. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 10/4/2017 và các lờ khai tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Lê Văn H trình bày: Nguyên vào ngày 29/02/2002, anh có nhận cầm cố quyền sử dụng đất của vợ chồng ông Lê Văn S, bà Nguyễn  Thị  Ơ với diện tích là 05  công đất  ruộng tầm 3m (tương đương 6.480m2, tọa lạc tại ấp 5 B, xã N, Huyện A, Tỉnh K với số vàng cố đất là 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999). Khi cố hai bên có làm giấy tay với nhau và thỏa thuận thời hạn cố từ ngày 29/02/2002 đến ngày 29/02/2004, nếu đến hạn vợ chồng ông Sứ, bà Ơ không chuộc đất thì anh tiếp tục sử dụng. Anh đã giao vàng cho vợ chồng ông Sứ, bà Ơ xong và nhận 05 công đất canh tác. Do phần đất này năm trong chu vi đất của ông Sứ, bà Ơ nên khi nhà nước quy hoạch nuôi tôm anh không trồng lúa được nên đã cho con ông Sứ là anh Tùng thuê đến 2016. Sau khi hết hợp đồng anh Tùng không thuê nữa mà đã giao trả lại phần đất này cho ông Sứ, bà Ơ sử dụng. Hiện nay ông Sứ bà Ơ đã nhận lại đất cầm cố cho anh rồi nhưng chưa trả vàng cố đất cho anh.

Nay anh H yêu cầu hủy hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất giữa anh với vợ chồng ông Sứ, bà Ơ ngày 29/02/2002 và yêu cầu ông Sứ, bà Ơ trả lại cho anh 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999).

Bị đơn, ông Lê Văn S trình bày: Ông thống nhất là vào năm 2002, vợ chồng ông có cố cho anh Lê Văn H 05 công đất ruộng tầm 3m, tọa lạc tại ấp 5 B, xã N, Huyện A, Tỉnh K với số vàng là 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999), phần đất này nằm trong chu vi diện tích đất 30 của ông, khi cố hai bên thỏa thuận khi nào vợ chồng ông có vàng thì chuộc lại đất, nếu không chuộc thì anh H cứ canh tác. Sau khi Nhà nước quy hoạch nuôi tôm thì anh H cho con trai ông tên là Tùng thuê lại mỗi công 800.000đ/năm,  từ  2013  đến  năm  2016  anh  H  cho  Tùng  thuê  với  số  tiền 10.000.000đ/diện tích 05 công. Sau khi hết hợp đồng thì anh Tùng không thuê nữa và anh H cũng không canh tác nên vợ chồng ông đã nhận lại phần đất này rồi. Vì đất này nằm trong chu vi đất của ông chưa có bờ bao riêng.

Nay ông yêu cầu mỗi năm trả cho anh H 04 chỉ vàng 24kr đến khi trả đủ 20 chỉ vàng 24kr. Vì trả một lần 20 chỉ ông không có khả năng.

Bị đơn, bà Nguyễn Thị Ơ trình bày: Bà thống nhất với lời trình bày và yêu cầu của chồng bà là ông Lê Văn S.

Người làm chứng, anh Lê Thanh T trình bày: Trước đây anh có thuê 05 công đất của anh H, giá thuê mỗi công là 800.000đ/năm, từ  năm 2013 anh thuê đến năm 2016, thời hạn thuê là 03 năm với giá 10.000.000đ/05 công đất. Sau khi hết hợp đồng anh không thuê nữa và phần đất này hiện nay cha mẹ anh là ông Sứ, bà Ơ đang quản lý.

Nay anh có ý kiến là yêu cầu anh H cho cha mẹ anh chuộc lại mỗi năm là 04 chỉ vàng, chuộc lại một lần 20 chỉ là cha mẹ anh không có khả năng.

Tài liệu, chứng cứ do các bên đương sự cung cấp gồm: Tờ cố đất ngày 29/02/2002, hợp đồng cho thuê đất, biên bản hòa giải của ban lãnh đạo ấp 5 B ngày 08/4/2017.

Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay: Các đương sự giữ nguyên ý kiến, yêu cầu khởi kiện như đã trình bày trên.

Phần các đương sự thống nhất nhau:

– Phần diện tích 05 công đất cố vợ chồng ông Sứ, bà Ơ đã nhận lại rồi.

– Ông Sứ, bà Ơ còn nợ anh H số vàng cố đất là 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999).

Phần không thỏa thuận được:

– Anh Lê Văn H yêu cầu ông Sứ, bà Ơ trả cho anh số vàng cố đất là 20 chỉ vàng 24kr, trả đủ một lần.

– Ông Sứ, bà Ơ yêu cầu mỗi năm trả 04 chỉ vàng 24kr cho anh H đến khi dứt nợ.

Tại phiên tòa kiểm sát viên phát biểu:

Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong thời gian chuẩn bị xét xử:

Thẩm phán đã thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định đúng mối quan hệ pháp luật tranh chấp, tổ chức hòa giải, thu thập chứng cứ đúng theo trình tự Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, Thẩm phán chuyển hồ sơ cho việc kiểm sát nghiên cứu chưa đúng quy định tại Điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự và sắp xếp hồ sơ chưa đúng quy định tại Điều 204 Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa: Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa sơ thẩm đúng theo trình tự Bộ luật tố tụng dân sự. Thư ký ghi biên bản phiên tòa đúng chức năng, nhiệm vụ của mình.

Đối với đương sự tham gia giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các chứng cứ đương sự cung cấp, lời khai của các đương sự. Thấy rằng yêu cầu của nguyên đơn anh Lê Văn H là có cơ sở chấp nhận. Bởi vì, theo luật đất đai hiện hành không quy định người sử dụng đất được phép cầm cố. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều 123, 131 Bộ luật dân sự 2015 để tuyên bố giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất giữa anh H với ông Sứ, bà Ơ là vô hiệu và buộc ông Sứ, bà Ơ trả lại cho ông H 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do các đương sự cung cấp, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn anh Lê Văn H khởi kiện bị đơn vợ chồng ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ có nơi cư trú trên địa bàn Huyện A nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Huyện A theo quy định tại Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn anh Lê Văn H yêu cầu hủy hợp đồng cầm cố giữa anh với vợ chồng ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ nên quan hệ pháp luật được xác định trong vụ án là “Tranh chấp giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất”.

[3] Về nội dung vụ án: Anh Lê Văn H và vợ chồng ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ thống nhất là vào ngày 29 tháng 02 năm 2002, ông Sứ, bà Ơ có cố cho anh H 05 công đất tầm 3m với số vàng là 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999). Hiện nay phần đất cố ông Sứ, bà Ơ đã nhận lại rồi nhưng chưa trả lại vàng cố đất cho anh H.

Hội đồng xét xử, xét thấy anh H yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất giữa anh với ông Sứ, bà Ơ và yêu cầu ông Sứ, bà Ơ trả lại cho anh 20 chỉ vàng 24kr là có cơ sở chấp nhận. Bởi, theo quy định tại Điều 179 của Luật Đất đai hiện hành quy định về quyền của người sử dụng đất thì không quy định người sử dụng đất được phép cầm cố quyền sử dụng đất. Do đó, việc thỏa thuận cầm cố quyền sử dụng đất giữa ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ với anh Lê Văn H là vi phạm pháp luật nên bị vô hiệu theo quy định tại Điều 123 Bộ luật dân sự 2015.

Điều 123 Bộ luật dân sự 2015, có quy định: Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội.

“Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định”.

Theo quy định tại Điều 131 Bộ luật dân sự 2015, có quy định về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự bị vô hiệu như sau:

1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.

2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

Như vậy, giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất giữa ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ và anh Lê Văn H xác lập ngày 29/02/2002 là vô hiệu. Do đó, ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ có nghĩa vụ hoàn trả số vàng cố đất lại cho anh Lê Văn H là 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999) là phù hợp. Đối với phần đất cầm cố hiện nay anh Lê Văn H đã giao trả lại cho ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ xong nên Hội đồng xét xử ghi nhận và miễn xét.

Xét yêu cầu của ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ yêu cầu mỗi năm trả cho anh Lê Văn H 04 chỉ vàng đến khi trả đủ 20 chỉ là không có cơ sở chấp nhận. Bởi theo khoản 2 Điều 131 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “ Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận ”. Việc ông bà nhận của anh H 20 chỉ vàng 24kr thì phải có nghĩa vụ trả anh H 20 chỉ vàng 24kr. Trong trường hợp anh H đồng ý cho ông bà trả mỗi năm 04 chỉ vàng thì Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự. Tuy nhiên, anh H không đồng ý cho ông bà trả dần mỗi năm 04 chỉ vàng nên Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định pháp luật buộc ông bà có nghĩa vụ trả cho anh H 20 chỉ vàng 24kr, khi nào Bản án có hiệu lực pháp luật thì các bên căn cứ Bản án để yêu cầu thi hành án theo Luật thi hành án dân sự.

Từ các nhận định nêu trên, sau khi thảo luận Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Văn H, buộc ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ có nghĩa vụ trả cho Lê Văn H 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999).

[4] Về án phí DSST:

Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Án phí dân sự sơ thẩm 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

Yêu cầu của anh Lê Văn H được chấp nhận nên không phải chịu án phí. Hoàn trả lại cho anh Lê Văn H số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Buộc ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Xét thấy, kiểm sát viên phát biểu về việc vi phạm của Thẩm phán về thời hạn chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu và sắp xếp hồ sơ chưa đúng trình tự là phù hợp. Thẩm phán ghi nhận và rút kinh nghiệm khắc phục cho các vụ án khác. Xét thấy về nội dung Kiểm sát viên đề nghị là có cơ sở chấp nhận như Hội đồng xét xử phân tích ở phần trên.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân năm 2015; Điều 179 Luật đất đai năm 2013; Điều 123, 131 Bộ luật Dân sự 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Lê Văn H.

2. Tuyên bố giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất giữa ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ và anh Lê Văn H xác lập ngày 29/02/2002 là vô hiệu.

3. Buộc ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ có nghĩa vụ trả cho anh Lê Văn H 20 (Hai mươi) chỉ vàng 24kr (vàng 9999).

4. Ghi nhận anh Lê Văn H đã giao và vợ chồng ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ đã nhận xong 05 công đất cầm cố cho anh Lê Văn H.

5. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Buộc ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).

Hoàn trả cho anh Lê Văn H số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 0007910 ngày 16/6/2017 của Chi cục thi hành án dân sự Huyện A.

6. Quyền kháng cáo:

Án xử công khai, các đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành thoequy định Điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân  sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo Điều 6,7,9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được quy định theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Trường đại học luật Hà Nội Giáo trình “ Luật dân sự Việt Nam – tập I”, Nxb Công an nhân dân, 2018.
  2. Bộ luật dân sự 2015( có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2017), Nxb Lao động
  3. Luật đất đai 2013 ( có hiệu lực thi hành  ngày 1 tháng 7 năm 2014)
  4. Luật Tố tụng dân sự 2015
  5. Trịnh Thị Hòa, Luận văn thạc sĩ “ Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự vô hiệu”, 2017

[1] Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên, 2016), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, Nhà xuất bản Tư pháp, tr203

[2] Trịnh Thị Hòa, Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, 2017, tr22

[3] Nguyễn Thị Thanh (2013) “ Hoàn thiện các quy định về xử lý hậu quả của hợp đồng dân sư

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com