Công ty Luật LVN – Luật sư Tư vấn trực tuyến – Gọi ngay 1900.0191

Tư vấn soạn thảo: Đơn đề nghị được xét thưởng


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập- Tự do- Hạnh phúc

—————

………, ngày … tháng … năm ……

ĐƠN ĐỀ NGHỊ ĐƯỢC XÉT THƯỞNG

(V/v yêu cầu được xét thưởng trong việc …………………)

Căn cứ Quy chế hoạt động của công ty……………….;

Căn cứ Hợp đồng lao động đã ký kết;

Kính gửi: Ông…………………. – Giám đốc công ty………………….

Tôi tên là:………………………………………………………………….

Nhân viên Phòng …………………. thuộc công ty…………………

Nội dung:

…………………………. (Trình bày lý do, nội dung khen thưởng)

Ví dụ:

“Hôm nay ngày …/…2018, tôi viết đơn này để trình bày với ông một việc như sau :

Vào quý … năm 201…. trong hoạt động/kế hoạch/chương trình …………………. của công ty có 5 đồng chí đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao và mang về hiệu quả cao cho công ty (Có danh sách gửi kèm theo). Vì vậy, tôi viết đơn này kính mong ông xem xét, đánh giá để 05 đồng chí có tên trên có thể được xét thưởng xứng đáng với kết quả đã đạt được của mình.”

Dựa theo quy định về khen thưởng theo Quy chế hoạt động của công ty và theo quy định trong Hợp đồng lao động đã ký, đề nghị ông…………………………………. xét khen thưởng đối với 05 đồng chí để các đồng chí được khích lệ hơn trong hoạt động thi đua lao động, sản xuất, công tác.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Người làm đơn

 

 


Với những tư vấn trên đây Công ty Luật LVN mong rằng đã có thể giải đáp được nhu cầu của quý khách, nếu quý khách vẫn còn chưa rõ hoặc có thông tin mới với trường hợp trên, quý khách có thể liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật Miễn phí số: 1900.0191 để được Luật sư hỗ trợ ngay lập tức.

Tham khảo thêm bài viết:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Câu hỏi được gửi từ khách hàng: Số nhà thực tế và trên sổ khác nhau thì xử lý thế nào?

Địa chỉ nhà tôi trên thực tế đã có nhiều thay đổi do cơ quan nhà nước thông báo và lắp biển, tuy nhiên trên sổ đỏ thì vẫn là địa chỉ cũ, như vậy tôi cứ kệ giữ nguyên hay có cần phải đem ra để người ta sửa lại không, cái này có bắt buộc trong thời gian bao lâu là phải sửa không vì cứ như vậy sẽ rất nhiều thông tin bị ảnh hưởng?


Số nhà thực tế và trên sổ khác nhau thì xử lý thế nào?
Số nhà thực tế và trên sổ khác nhau thì xử lý thế nào?

Luật sư Tư vấn Số nhà thực tế và trên sổ khác nhau thì xử lý thế nào – Gọi 1900.0191

1./ Thời điểm xảy ra tình huống pháp lý

Ngày 18 tháng 12 năm 2017

2./ Cơ sở văn bản Pháp Luật áp dụng

Luật đất đai năm 2013

Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ : Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai

Thông tư số 23/2014/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường : Quy định về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất

3./ Luật sư trả lời

Khi số nhà thực tế và số nhà trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất có sự sai khác, người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất cần thực hiện việc đính chính lại thông tin trên Giấy chứng nhận nói trên cho đúng với thực tế sử dụng.

Khoản 1 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013 quy định về việc đính chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sỡ hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình (gọi chung là Giấy chứng nhận) đã cấp như sau: “Cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận có trách nhiệm đính chính Giấy chứng nhận đã cấp có sai sót trong các trường hợp sau đây:

a) Có sai sót thông tin về tên gọi, giấy tờ pháp nhân hoặc nhân thân, địa chỉ của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất so với giấy tờ pháp nhân hoặc nhân thân tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận của người đó;

b) Có sai sót thông tin về thửa đất, tài sản gắn liền với đất so với hồ sơ kê khai đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất đã được cơ quan đăng ký đất đai kiểm tra xác nhận”.

Thủ tục đính chính Giấy chứng nhận đã cấp được thực hiện như sau:

Căn cứ Khoản 1 Điều 86 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai năm 2013: “Người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất nộp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng đã cấp có sai sót cho Văn phòng đăng ký đất đai để đính chính. Trường hợp sai sót do lỗi của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất phải có đơn đề nghị để được đính chính”.

Đồng thời, theo hướng dẫn tại khoản 3 Điều 10 Thông tư 24/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 quy định về hồ sơ địa chính của Bộ Tài nguyên và Môi trường, khi thực hiện thủ tục đính chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bạn phải chuẩn bị những hồ sơ sau:

– Đơn đề nghị đính chính đối với trường hợp người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản phát hiện sai sót trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng đã cấp;

– Bản gốc Giấy chứng nhận đã cấp.

Như vậy, khi phát hiện địa chỉ số nhà bị ghi sai trên Giấy chứng nhận sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, chủ sở hữu làm đơn đề nghị đính chính gửi tới Văn phòng đăng ký đất đai cấp huyện, kèm theo đơn là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy tờ khác chứng minh thông tin có sai lệch để đề nghị giải quyết. Văn phòng đăng ký đất đai có trách nhiệm kiểm tra; lập biên bản kết luận về nội dung và nguyên nhân sai sót; lập hồ sơ trình cơ quan có thẩm quyền thực hiện đính chính vào Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở đã cấp có sai sót; đồng thời chỉnh lý nội dung sai sót vào hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu đất đai.

Với những tư vấn trên đây Công ty Luật LVN mong rằng đã có thể giải đáp được nhu cầu của quý khách, nếu quý khách vẫn còn chưa rõ hoặc có thông tin mới với trường hợp trên, quý khách có thể liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật Miễn phí số: 1900.0191 để được Luật sư hỗ trợ ngay lập tức.

Tham khảo thêm bài viết:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Câu hỏi được gửi từ khách hàng: Bố mẹ đã già mất sức lao động thì có được hoãn nhập ngũ?

Em xin chào các anh các chị, em có 1 câu hỏi anh chị giải đáp giúp em, em là nam sinh năm 1995, là con cả trong nhà, em em mới chỉ 15 tuổi, còn bố mẹ em hiện đã già và không còn sức lao động nữa, kinh tế trong gia đình chủ yếu phụ thuộc vào tiền lương hàng tháng của em, nhưng vừa rồi em lại bị ubnd gọi đi nhập ngũ, em không muốn đi và muốn ở nhà để làm việc nuôi gia đình, em mà đi thì không biết nhà sẽ ra sao nữa, vây các anh chị tư vấn giúp em với trường hợp của em như thế thì làm sao để không phải nhập ngũ ạ.


Bố mẹ đã già mất sức lao động thì có được hoãn nhập ngũ?
Bố mẹ đã già mất sức lao động thì có được hoãn nhập ngũ?

Luật sư Tư vấn Bố mẹ đã già mất sức lao động thì có được hoãn nhập ngũ – Gọi 1900.0191

1./Thời điểm xảy ra tình huống pháp lý

Ngày 24 tháng 11 năm 2017

2./Cơ sở văn bản Pháp Luật áp dụng

Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015

2. Luật sư tư vấn:

– Căn cứ Khoản 1 Điều 41 Luật nghĩa vụ quân sự năm 2015 Tạm hoãn gọi nhập ngũ quy định Tạm hoãn gọi nhập ngũ đối với những công dân sau đây:

“1. Tạm hoãn gọi nhập ngũ đối với những công dân sau đây:

a) Chưa đủ sức khỏe phục vụ tại ngũ theo kết luận của Hội đồng khám sức khỏe;

b) Là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi dưỡng thân nhân không còn khả năng lao động hoặc chưa đến tuổi lao động; trong gia đình bị thiệt hại nặng về người và tài sản do tai nạn, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm gây ra được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận;

c) Một con của bệnh binh, người nhiễm chất độc da cam suy giảm khả năng lao động từ 61% đến 80%;

d) Có anh, chị hoặc em ruột là hạ sĩ quan, binh sĩ đang phục vụ tại ngũ; hạ sĩ quan, chiến sĩ thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân;

đ) Người thuộc diện di dân, giãn dân trong 03 năm đầu đến các xã đặc biệt khó khăn theo dự án phát triển kinh tế – xã hội của Nhà nước do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trở lên quyết định;

e) Cán bộ, công chức, viên chức, thanh niên xung phong được điều động đến công tác, làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật;

g) Đang học tại cơ sở giáo dục phổ thông; đang được đào tạo trình độ đại học hệ chính quy thuộc cơ sở giáo dục đại học, trình độ cao đẳng hệ chính quy thuộc cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong thời gian một khóa đào tạo của một trình độ đào tạo.”

Như vậy, bạn cần chứng minh mình là lao động duy nhất trong nhà, để thỏa mãn trường hợp nêu trên:” Là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi dưỡng thân nhân không còn khả năng lao động hoặc chưa đến tuổi lao động; trong gia đình bị thiệt hại nặng về người và tài sản do tai nạn, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm gây ra được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận;”. Do đó, khi bạn chứng minh rằng bạn thuộc trường hợp được tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ quân sự vì là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi người khác trong gia đình không còn sức lao động. Việc xem xét giải quyết tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ quân sự dựa vào đơn đề nghị của người làm đơn có xác nhận của UNBN phường/xã nơi cư trú.

Thủ tục yêu cầu tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ quân sự:

+ Chuẩn bị Hồ sơ yêu cầu tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ quân sự bao gồm:

Bản chính đơn xin tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời bình

Giấy tờ chứng minh đối tượng được tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời bình

+ Sau đó nộp tại UBND cấp xã để giải quyết.

Trường hợp Hội đồng nghĩa vụ quân sự địa phương không giải quyết thì bạn có quyền tiếp tục gửi đơn khiếu nại đến Hội đồng nghĩa vụ quân sự quận/huyện để xem xét giải quyết.

Với những tư vấn trên, Công ty Luật LVN mong rằng đã giải đáp được phần nào nhu cầu của quý khách, nếu quý khách vẫn còn chưa rõ hoặc có thông tin mới với trường hợp này, quý khách có thể liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật Miễn phí số: 1900.0191 để được Luật sư hỗ trợ ngay lập tức.

Tham khảo thêm bài viết:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Câu hỏi được gửi từ khách hàng: Bố mẹ đang bị bệnh thì có được hoãn nghĩa vụ quân sự?

Xin được các luật sư tư vấn. Em nhận được thông báo tham gia nghĩa vụ quân sự của địa phương, em không có mong muốn trốn tránh hay gì cả nhưng hiện tại bố em đang bị suy thận và phải điều trị tại bệnh viện trung ương có khả năng phải điều trị dài, mẹ em thì còn phải lao động để chăm lo cho gia đình và nuôi sống các em, vì thế em không thể nào chấp hành lệnh gọi của địa phương để nhập ngũ bây giờ được, xin hỏi với trường hợp của em như vậy thì có thể được hoãn nghĩa vụ để thực hiện sau không, em cần phải làm thủ tục thế nào, có cần xin chứng nhận của bệnh viện về bệnh tình của bố em để cung cấp cho xã không ạ?

Em xin cảm ơn!


Bố mẹ đang bị bệnh thì có được hoãn nghĩa vụ quân sự
Bố mẹ đang bị bệnh thì có được hoãn nghĩa vụ quân sự

Luật sư Tư vấn Bố mẹ đang bị bệnh thì có được hoãn nghĩa vụ quân sự – Gọi 1900.0191

1./Thời điểm xảy ra tình huống pháp lý

Ngày 24 tháng 11 năm 2017

2./Cơ sở văn bản Pháp Luật áp dụng

Luật nghĩa vụ quân sự năm 2015

3./Luật sư trả lời

Theo Điểm b Khoản 1 Điều 41 Luật nghĩa vụ quân sự năm 2015 quy định Tạm hoãn gọi nhập ngũ đối với những công dân thuộc các trường hợp sau đây:

“1. Tạm hoãn gọi nhập ngũ đối với những công dân sau đây:

a) Chưa đủ sức khỏe phục vụ tại ngũ theo kết luận của Hội đồng khám sức khỏe;

b) Là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi dưỡng thân nhân không còn khả năng lao động hoặc chưa đến tuổi lao động; trong gia đình bị thiệt hại nặng về người và tài sản do tai nạn, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm gây ra được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận;

c) Một con của bệnh binh, người nhiễm chất độc da cam suy giảm khả năng lao động từ 61% đến 80%;

d) Có anh, chị hoặc em ruột là hạ sĩ quan, binh sĩ đang phục vụ tại ngũ; hạ sĩ quan, chiến sĩ thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân;

đ) Người thuộc diện di dân, giãn dân trong 03 năm đầu đến các xã đặc biệt khó khăn theo dự án phát triển kinh tế – xã hội của Nhà nước do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trở lên quyết định;

e) Cán bộ, công chức, viên chức, thanh niên xung phong được điều động đến công tác, làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật;

g) Đang học tại cơ sở giáo dục phổ thông; đang được đào tạo trình độ đại học hệ chính quy thuộc cơ sở giáo dục đại học, trình độ cao đẳng hệ chính quy thuộc cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong thời gian một khóa đào tạo của một trình độ đào tạo.”

Do trong trường hợp của bạn, tuy bố bạn bị bệnh nặng đã mất khả năng lao động nhưng vẫn còn mẹ bạn có khả năng lao động, bạn chưa phải là lao động duy nhất trong gia đình nên không thỏa mãn trường hợp theo quy định của pháp luật:” Là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi dưỡng thân nhân không còn khả năng lao động hoặc chưa đến tuổi lao động; trong gia đình bị thiệt hại nặng về người và tài sản do tai nạn, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm gây ra được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận;”. Vì thế, bạn không thuộc trường hợp được tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ quân sự. Tuy nhiên do hoàn cảnh gia đình của bạn cũng tương đối khó khăn nên bạn có thể gửi đơn đề nghị yêu cầu tạm hoãn nghĩa vụ quân sự để địa phương linh hoạt xem xét tình hình thực tế từ đấy có biện pháp phù hợp hơn.

Thủ tục yêu cầu tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ quân sự:

+ Chuẩn bị Hồ sơ yêu cầu tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ quân sự bao gồm:

-Bản chính đơn xin tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời bình

-Giấy tờ chứng minh đối tượng được tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời bình

+ Sau đó nộp tại UBND cấp xã để giải quyết.

Trường hợp Hội đồng nghĩa vụ quân sự địa phương không giải quyết thì bạn có quyền tiếp tục gửi đơn khiếu nại đến Hội đồng nghĩa vụ quân sự quận/huyện để xem xét giải quyết.

Với những tư vấn trên, Công ty Luật LVN mong rằng đã giải đáp được phần nào nhu cầu của quý khách, nếu quý khách vẫn còn chưa rõ hoặc có thông tin mới với trường hợp này, quý khách có thể liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật Miễn phí số: 1900.0191 để được Luật sư hỗ trợ ngay lập tức.

Tham khảo thêm bài viết:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Không phải là căn cứ thu hồi quyết định thi hành án khi người được thi hành án có đơn đề nghị rút đơn yêu cầu thi hành án

 

 

Vụ việc đang tổ chức thi hành án thì người được thi hành án có đơn đề nghị rút đơn yêu cầu thi hành án (chứ không phải đề nghị không tiếp tục thi hành án). Trường hợp này ra quyết định thu hồi quyết định thi hành án theo điểm c khoản 1 Điều 37 Luật Thi hành án dân sự được không?

 

Gửi bởi: Ngo Thi Huong

Trả lời có tính chất tham khảo

Khoản 1 Điều 37 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định người có thẩm quyền ra quyết định về thi hành án ra quyết định thu hồi quyết định về thi hành án trong các trường hợp sau đây:

a) Quyết định về thi hành án được ban hành không đúng thẩm quyền;

b) Quyết định về thi hành án có sai sót làm thay đổi nội dung vụ việc;

c) Căn cứ ra quyết định về thi hành án không còn;

d) Trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 54 của Luật này.

Việc thi hành án dân sự đã phát sinh do người được thi hành án đã yêu cầu thi hành án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định thi hành án trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ thời điểm nhận đơn yêu cầu thi hành án quy định tại khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự. Do đó, vụ việc đang tổ chức thi hành án thì người được thi hành án có đơn đề nghị rút đơn yêu cầu thi hành án thì không phải là “căn cứ ra quyết định về thi hành án không còn” nên không thu hồi quyết định thi hành án theo điểm c khoản 1 Điều 37 Luật Thi hành án dân sự.

Trong trường hợp này, cơ quan thi hành án dân cần giải thích rõ cho đương sự biết về hậu quả pháp lý của việc có đơn đề nghị rút đơn yêu cầu thi hành án thì bản chất là đề nghị không tiếp tục thi hành án, cơ quan thi hành án sẽ đình chỉ thi hành án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 Luật Thi hành án dân sự để họ quyết định, họ sẽ không còn quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành trở lại vụ việc thi hành án đó. Khi giải thích cần lập biên bản ghi rõ nội dung, quan điểm của người đã có đơn đề nghị, có chữ ký của họ để cơ quan thi hành án xử lý vụ việc đúng pháp luật, tránh tình trạng khiếu nại phức tạp kéo dài.

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Luật sư Tư vấn – Gọi 1900.0191


Trường hợp nhà đầu tư thuê đất của nhà nước và dự án thuộc trường hợp được hưởng ưu đãi về tiền thuê sử dụng đất, Nhà đầu tư gửi đơn đề nghị miễn, giảm tiền thuê đất tới tới cơ quan quyết định cho thuê đất để được hưởng các quyền lợi của nhà đầu tư. Đơn đề nghị miễn giảm tiền thuê đất bao gồm các nội dung như sau:

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

———-oOo————-

……., ngày ….. tháng ….. năm 2018

ĐƠN ĐỀ NGHỊ MIỄN, GIẢM TIỀN THUÊ ĐẤT

Căn cứ Luật Đất đai 2013;

Căn cứ Luật Đầu tư 2014;

Căn cứ Quyết định số …………. quyết định cho thuê đất của UBND ……

Kính gửi: Chủ tịch Ủy Ban nhân dân ………..(cơ quan quyết định cho thuê đất)

Cá nhân/tổ chức thuê đất:

– cá nhân:

Năm sinh:

Số chứng minh nhân dân:                         cấp ngày:                        tại:

Hộ khẩu thường trú:

Chỗ ở hiện nay:

Điện thoại liên hệ:

– Tổ chức:

Địa chỉ trụ sở chính:

Mã số thuế:

Đại diện:                                         Chức vụ:

Điện thoại:                                         fax:

Căn cứ Quyết định số ……….., tôi/ công ty  ………………. được Ủy ban nhân dân ……….. quyết định cho thuê đất thực hiện dự án ………………………………

 Thông tin về thửa đất được cho thuê

Diện tích:                                      Thửa số:

tại:

Hình thức thuê đất: Trả tiền một lần/ trả tiền hàng năm

Mục đích thuê đất:

Thời gian thuê:

Tiền thuê đất:

Dựa trên Điều 15, 16 Luật Đầu tư 2014,… , xét điều kiện hưởng ưu đãi về tiền thuê đất của dự án …………, cho nên tôi/công ty ……….. kính đề nghị UBND xem xét, quyết định các nội dung:

– Xem xét các điều kiện hưởng ưu đãi tiền thuê đất đối với dự án ……. đã được UBND quyết định cho thuê đất theo quyết định số ………..

– Tiến hành việc thẩm định điều kiện miễn, giảm tiền thuê đất của địa phương;

– Miễn/giảm tiền thuê đất với mức………………..

– Có văn bản nêu rõ lý do khi không quyết định miễn, giảm tiền thuê đất.

Kính đề nghị Quý ông/bà xem xét và nhanh chóng giải quyết các đề nghị nêu trên.

Xin trân trọng cảm ơn!

Tài liệu kèm theo:

Người làm đơn/CÔNG TY……….

(Ký ghi rõ họ tên/đại diện; đóng dấu)

Tham khảo thêm bài viết:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Luật sư Tư vấn – Gọi 1900.0191


Khi để xe ở bãi đỗ xe mà bị hư hỏng, chủ xe có quyền yêu cầu đơn vị trông giữ xe có trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại về tài sản của mình. Mẫu đơn đề nghị/yêu cầu có nội dung cơ bản như sau:

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
—————

……., ngày ….. tháng ….. năm ………

ĐƠN YÊU CẦU BỒI THƯỜNG
(đối với thiệt hại về tài sản)

Căn cứ Bộ luật Dân sự 2015;

Căn cứ Hợp đồng gửi giữ số………./HĐGG giữa…….

Kính gửi: Ban quản lý bãi đỗ xe ……………………/ Công ty………..

Tôi là:………………………………………………………………………………………………………

Chứng minh nhân dân số:………………………………cấp ngày:……………..tại: …………….

Địa chỉ:…………………………………………………………………………………………………………

Sự việc dẫn đến trách nhiệm bồi thường:

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

(Trình bày rõ sự việc)

Các thiệt hại xảy ra:

1.Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm.

Tên tài sản:…………………………………………………………………………………………………….

Đặc điểm của tài sản (hình dáng, màu sắc, kích thước, công dụng, năm sản xuất, xuất xứ tài sản, nơi mua tài sản…):…………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………………….

Tình trạng tài sản (bị phát mại, bị mất, bị hư hỏng):…………………………………………..

……………………………………………………………………………………………………………………

Giá trị tài sản khi mua: ………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………………………………………

Giá trị tài sản khi bị xâm phạm: ……………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………………………………………………

Thiệt hại do việc không sử dụng, khai thác tài sản (nếu có): ……………………………..

…………………………………………………………………………………………………………………..

(Kèm theo tài liệu chứng minh về tài sản nêu trên nếu có)

2.Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút (nếu có)

……………………………………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………………………………

(Kèm theo tài liệu chứng minh thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút)

3.Thiệt hại khác (nếu có)

……………………………………………………………………………………………………………………

(Kèm theo tài liệu chứng minh – nếu có

Căn cứ vào Điều……….. hợp đồng Gửi giữ số ………….. ngày………………… giữa

 Cho nên, tôi có các đề nghị như sau:

– Mức yêu cầu bồi thường thiệt hại dự kiến để khắc phục các hậu quả là ……….. đồng

– Công ty nhanh chóng tiến hành phiên họp gặp mặt để trao đổi về nghĩa vụ bồi thường;

– Trả lời bằng văn bản trong 15 ngày kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu bồi thường này về kế hoạch bồi thường của công ty.

Đề nghị Quý Cơ quan/công ty xem xét, giải quyết bồi thường cho tôi về những thiệt hại trên theo quy định của pháp luật.

Tôi xin chân thành cảm ơn !

Người yêu cầu bồi thường
(Ký và ghi rõ họ tên)

Tham khảo thêm bài viết:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Câu hỏi được gửi từ khách hàng: Thời hạn làm đơn đề nghị giám đốc thẩm bản án hình sự được quy định như thế nào trong pháp luật Việt Nam?

Em đang đọc quy định về thủ tục giám đốc thẩm trong vụ án hình sự ạ, tuy nhiên đang băn khoăn về “thời hạn bị cáo, bị hại… có quyền làm đơn đề nghị giám đốc thẩm gửi đến người có quyền kháng nghị bản án có hiệu lực pháp luật để giải quyết theo trình tự giám đốc thẩm”. Tuy nhiên chưa thấy quy định tại điều khoản nào cả, các bác/anh/chị Luật sư có thể cho em xin ý kiến về “thời hạn làm đơn đề nghị giám đốc thẩm bản án hình sự” được không ạ?
Em xin cảm ơn!


Luật sư Tư vấn Luật Tố tụng hình sự – Gọi 1900.0191

Dựa trên những thông tin được cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam. Chúng tôi đưa ra trả lời như sau:

1./ Thời điểm pháp lý

Ngày 18 tháng 06 năm 2018

2./ Cơ sở Pháp Luật liên quan tới vấn đề thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015

3./ Luật sư tư vấn

Thủ tục Giám đốc thẩm là thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Thời hạn kháng nghị bản bán, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm được quy định như sau:

Căn cứ Điều 379 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được quy định như sau:

Điều 379. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

1. Việc kháng nghị theo hướng không có lợi cho người bị kết án chỉ được tiến hành trong thời hạn 01 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.

2. Việc kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án có thể được tiến hành bất cứ lúc nào, cả trong trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ.

3. Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự đối với đương sự được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

4. Nếu không có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thì người có quyền kháng nghị phải trả lời bằng văn bản cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã kiến nghị biết rõ lý do của việc không kháng nghị.

Theo đó, thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự theo quy định phụ thuộc vào việc kháng nghị có lợi hay không có lợi cho người bị kết án. Cho nên:

  • Nếu việc kháng nghị cho vụ án hình sự, theo hướng không có lợi cho người bị kết án chỉ được tiến hành trong thời hạn 01 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
  • Nếu việc kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án có thể được tiến hành bất cứ lúc nào, cả trong trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ.

Bên cạnh đó, việc kháng nghị phải đảm bảo có căn cứ để tiến hành kháng nghị như sau:

Căn cứ Điều 371 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, các căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm như sau:

Điều 371. Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong các căn cứ:

1. Kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;

2. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án;

3. Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.”

Như vậy, căn cứ trên cơ sở pháp luật nêu trên, thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm tùy thuộc vào việc kháng nghị đó có lợi hay không có lợi cho người bị kết án và tối đa là 1 năm kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật nếu việc kháng nghị là không có lợi cho người bị kết án. Việc kháng nghị trong thời hạn này phải đảm bảo có căn cứ theo quy định pháp luật cho phép được kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bao gồm một trong các căn cứ sau:

1.Kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;

2. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án;

3. Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.

Với những tư vấn về câu hỏi Thời hạn làm đơn đề nghị giám đốc thẩm bản án hình sự được quy định như thế nào trong pháp luật Việt Nam ?, Công ty Luật LVN mong rằng đã có thể giải đáp được nhu cầu của quý khách, nếu quý khách vẫn còn chưa rõ hoặc có thông tin mới với trường hợp trên, quý khách có thể liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật Miễn phí số: 1900.0191 để được Luật sư hỗ trợ ngay lập tức.

Tham khảo thêm bài viết:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Mẫu Đơn đề nghị hỗ trợ chi phí học tập


Hỗ trợ chi phí học tập là văn bản của cá nhân có đủ những điều kiện được hỗ trợ chi phí học tập gửi đến cơ quan có thẩm quyền đề nghị những cơ quan này xem xét về việc hỗ trợ chi phí học tập.

ĐƠN ĐỀ NGHỊ HỖ TRỢ CHI PHÍ HỌC TẬP
(Kèm theo Thông tư liên tịch số 09/2016/TTLT-BGDĐT-BTC-BLĐTBXH ngày 30 tháng 3 năm 2016 của Liên Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính và Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội)

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
—————

ĐƠN ĐỀ NGHỊ HỖ TRỢ CHI PHÍ HỌC TẬP

(Dùng cho các đối tượng được hỗ trợ chi phí học tập theo quy định tại Nghị định 86/2015/NĐ-CP)

          Kính gửi: Cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông/Phòng giáo dục đào tạo/Sở giáo dục đào tạo (1) …………………………………………………….

          Họ và tên (2): …………………………………………………………………….

          Là cha/mẹ (hoặc người giám hộ) của em (3): ………………………………

          Hiện đang học tại lớp: ………………………………………………………….

          Trường: …………………………………………………………………………..

          Thuộc đối tượng: (ghi rõ đối tượng được quy định tại Thông tư liên tịch hướng dẫn Nghị định 86) ………………………………………………………………

          Căn cứ vào Nghị định số 86/2015/NĐ-CP của Chính phủ, tôi làm đơn này đề nghị được xem xét để được cấp tiền hỗ trợ chi phí học tập theo quy định và chế độ hiện hành.

………, ngày …… tháng …… năm……
Người làm đơn (4)
(Ký tên và ghi rõ họ tên)

Xác nhận của Cơ sở giáo dục ngoài công lập (5)

Xác nhận em: …………………………………………………………………………

Hiện đang học tại lớp …… Học kỳ: …………… Năm học: ……………………..

 

………, ngày …… tháng …… năm……
Thủ trưởng đơn vị
(Ký tên, đóng dấu)

(1) Gửi cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông nếu học công lập; gửi phòng giáo dục đào tạo nếu học mầm non và trung học cơ sở ngoài công lập; gửi Sở giáo dục đào tạo nếu học trung học phổ thông ngoài công lập.

(2) Đối với đối tượng là trẻ em mẫu giáo ghi tên cha mẹ (hoặc người giám hộ), đối với học sinh phổ thông ghi tên của học sinh.

(3) Nếu là học sinh phổ thông trực tiếp viết đơn thì không phải điền dòng này.

(4) Cha mẹ (hoặc người giám hộ)/học sinh phổ thông.

(5) Dùng cho cơ sở giáo dục ngoài công lập.

DỊCH VỤ SOẠN THẢO ĐƠN, HỢP ĐỒNG, CÔNG VĂN CHỈ 500 NGÀN ĐỒNG -> GỌI NGAY 1900.0191

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Kính thưa tổng đài tư vấn trực tuyến về luật đất đai! Tôi xin có một vài câu hỏi được giúp đỡ như sau: Tôi có mua thửa đất thuộc dạng sạt lở chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng khi mua bán đã có dấu xác nhận của UBND xã, tôi xin hỏi đất đó tôi có đủ điều kiện để làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không? Và có thể xây nhà kiên cố trên đất đó không?
Kính mong được giúp đỡ! Xin chân thành cảm ơn!

1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 của Quốc hội

Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ : Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai

Nghị định số 75/2000/NĐ-CP của Chính phủ : Về công chứng, chứng thực

Nghị định số 79/2007/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký

2. Luật sư tư vấn:

TH1: Bạn đang sử dụng đất từ trước ngày 01/01/2008:

Căn cứ khoản 1 Điều 82 Nghị định 43/2014/NĐ-CP:

“Điều 82. Thủ tục đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với trường hợp đã chuyển quyền sử dụng đất nhưng chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền theo quy định

1. Trường hợp người đang sử dụng đất do nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trước ngày 01 tháng 01 năm 2008 mà đất đó chưa được cấp Giấy chứng nhận và không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều này thì người nhận chuyển quyền sử dụng đất thực hiện thủ tục đăng ký đất đai, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu theo quy định của Luật Đất đai và quy định tại Nghị định này mà không phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất; cơ quan tiếp nhận hồ sơ không được bắt buộc người nhận chuyển quyền sử dụng đất nộp hợp đồng, văn bản chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.”

Như vậy nếu việc mua bán của bạn từ trước ngày 01/01/2008 và bạn đang sử dụng đất thì bạn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

TH2: Bạn đang sử dụng từ trước ngày 01/07/2014:

Do đây là trường hợp hợp đồng mua bán ký trước ngày 01/07/2014 nên sẽ áp dụng Nghị định 75/2000/NĐ-CP và nghị định 79/2007/NĐ-CP để phân tích việc đóng dấu của UBND xã.

Căn cứ khoản 2 Điều 689 Bộ luật dân sự năm 2005:

“2. Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật.”

Căn cứ khoản 2 Điều 82 Luật đất đai năm 2013:

“2. Trường hợp người đang sử dụng đất do nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 mà bên nhận chuyển quyền sử dụng đất chỉ có Giấy chứng nhận của bên chuyển quyền sử dụng đất hoặc hợp đồng, giấy tờ về chuyển quyền sử dụng đất theo quy định thì thực hiện theo quy định như sau:

a) Người nhận chuyển quyền sử dụng đất nộp đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và các giấy tờ về quyền sử dụng đất hiện có;

b) Văn phòng đăng ký đất đai thông báo bằng văn bản cho bên chuyển quyền và niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất về việc làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho người nhận chuyển quyền. Trường hợp không rõ địa chỉ của người chuyển quyền để thông báo thì phải đăng tin trên phương tiện thông tin đại chúng của địa phương ba số liên tiếp (chi phí đăng tin do người đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trả);

c) Sau thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thông báo hoặc đăng tin lần đầu tiên trên phương tiện thông tin đại chúng của địa phương mà không có đơn đề nghị giải quyết tranh chấp thì Văn phòng đăng ký đất đai lập hồ sơ để trình cơ quan có thẩm quyền quyết định hủy Giấy chứng nhận đã cấp đối với trường hợp không nộp Giấy chứng nhận để làm thủ tục đồng thời cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất mới cho bên nhận chuyển quyền.

Trường hợp có đơn đề nghị giải quyết tranh chấp thì Văn phòng đăng ký đất đai hướng dẫn các bên nộp đơn đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo quy định.”

Căn cứ khoản 1 Điều 17 Nghị định 79/2007/NĐ-CP:

“Điều 17. Thủ tục chứng thực chữ ký

1. Cá nhân yêu cầu chứng thực chữ ký của mình phải xuất trình các giấy tờ sau đây:

a) Chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu hoặc giấy tờ tuỳ thân khác;

b) Giấy tờ, văn bản mà mình sẽ ký vào đó.”

Căn cứ khoản 2 Điều 41 Nghị định 75/2000/NĐ-CP:

“2. Chứng thực là việc Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ theo quy định của Nghị định này.”

Căn cứ khoản 1 Điều 41 Nghị định 75/2000/NĐ-CP:

“1. Người yêu cầu công chứng, chứng thực ghi Phiếu yêu cầu công chứng, chứng thực theo mẫu quy định, xuất trình giấy tờ tuỳ thân và giấy tờ cần thiết để thực hiện việc công chứng, chứng thực. Trong trường hợp hợp đồng liên quan đến tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, thì người yêu cầu công chứng, chứng thực phải có đầy đủ giấy tờ để chứng minh quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 50 của Nghị định này.”

Như vậy theo quy định trên thì có thể thấy giấy tờ mua bán của bạn có xác nhận của UBND xã thì đây là trường hợp bạn đi thực hiện thủ tục xác nhận chữ ký của các bên chứ không phải công chứng hợp đồng mua bán vì theo quy định khi công chứng hợp đồng thì phải có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất nên trường hợp này bạn không được cấp giấy chứng nhận khi dựa vào giấy tờ trên.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Công ty Luật LVN – Luật sư Tư vấn trực tuyến – Gọi ngay 1900.0191

Mẫu Đơn đề nghị miễn giảm học phí cho sinh viên

Đơn đề nghị miễn giảm học phí cho sinh viên là văn bản được cá nhân sử dụng để đề nghị chủ thể có thẩm quyền xem xét việc miễn giảm học phí, cụ thể: phòng đào tạo của các trường đại học, cao đẳng, … sẽ là cơ quan xem xét giải quyết.


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

—–o0o—–

…, ngày … tháng … năm 2019

ĐƠN ĐỀ NGHỊ MIỄN GIẢM HỌC PHÍ CHO SINH VIÊN

– Căn cứ Nghị định số 86/2015/NĐ-CP về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm học 2015 – 2016 đến năm học 2020 – 2021,

– Căn cứ Thông tư liên tịch 09/2016/TTLT-BGDĐT-BTC-BLĐTBXH hướng dẫn thực hiện một số Điều của Nghị định số 86/2015/NĐ-CP

Kính gửi: Phòng đào tạo ………………

Tên em là: ……………………………………                       Giới tính: ……………

Sinh ngày: … / … / …

Hộ khẩu thường trú: …………………………………………………………………….

Nơi ở hiện nay: ………………………………………………………………………….

Mã sinh viên: ………………………………..                        Lớp: …………………..

Chuyên ngành: ………………………………                       Khoa: …………………

Thuộc đối tượng: ………………………………………………………………………..

(Thuộc đối tượng được miễn giảm học phí/được giảm học phí: thân nhân của người có công với cách mạng hoặc …)

Căn cứ vào Nghị định số 86/2015/NĐ-CP, em làm đơn này đề nghị Nhà trường xem xét, giải quyết để được miễn/giảm học phí theo quy định của pháp luật.

Em xin cam đoan nội dung trên là đúng sự thật nếu sai em xin chịu mọi trách nhiệm trước Nhà trường và pháp luật.

Em xin chân thành cảm ơn!

  Người làm đơn

DỊCH VỤ SOẠN THẢO ĐƠN, HỢP ĐỒNG, CÔNG VĂN CHỈ 500 NGÀN ĐỒNG -> LIÊN HỆ 1900.0191

 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Biện pháp bảo đảm thi hành án và thực tiễn áp dụng

23/01/2013

Trong lĩnh vực thi hành án dân sự không ít người phải thi hành án có nghĩa vụ thi hành án thường không tự nguyện, có tâm lý chây ỳ, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định, nên hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản nhằm làm mất đi điều kiện thi hành án. Để ngăn chặn các hành vi nêu trên của người phải thi hành án, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã quy định các biện pháp bảo đảm thi hành án để đáp ứng đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn công tác thi hành án dân sự trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm trong tổ chức thi hành án cũng gặp không ít khó khăn vướng mắc cần phải được tháo gỡ, vì đây là chế định mới trong Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

1. Biện pháp phong toả tài khoản

Khoản 1 Điều 66 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Chấp hành viên có quyền tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự áp dụng ngay biện pháp bảo đảm thi hành án nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, chấp hành viên không phải thông báo trước cho đương sự”.

Việc “chấp hành viên có quyền tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự” áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án. Như vậy, đây là quyền hoàn toàn chủ động của chấp hành viên trong việc phong toả tài khoản của người phải thi hành án và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình (trừ trường hợp đương sự yêu cầu) với một mục đích duy nhất là nhằm kịp thời ngăn chặn việc tẩu tán tiền dưới mọi hình thức trong tài khoản của người phải thi hành án. Về thủ tục, quyết định này được giao ngay cho cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản của người phải thi hành án để thi hành và không phải thông báo trước cho đương sự. Theo đó, sẽ hạn chế được việc người phải thi hành án tẩu tán số tiền đang có trong tài khoản. Có thể khẳng định rằng những quy định về biện pháp bảo đảm phong tỏa tài khoản được quy định trong Luật Thi hành án dân sự rất tiến bộ, phù hợp với thực tiễn công tác thi hành án dân sự. Tuy nhiên, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 không quy định việc thu thập thông tin về tài khoản của người phải thi hành án, nhưng tại Điều 11 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP quy định “Quyết định phong tỏa tài khoản phải xác định số tiền bị phong tỏa”. Vì vậy, để xác định số tiền bị phong tỏa được chính xác, chấp hành viên cần phải tiến hành các hoạt động thu thập thông tin về tài khoản của người phải thi hành án tại ngân hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc nhà nước. Thực tế, trong thời gian qua, đã xảy ra trường hợp chấp hành viên do thiếu thông tin hoặc thông tin không chính xác, đầy đủ, đã vội vàng ra quyết định phong tỏa tài khoản không đúng đối tượng, dẫn đến việc người phải thi hành án có cơ hội đã rút hết tiền trong tài khoản của mình.

Việc thu thập thông tin về tài khoản của người phải thi hành án có thể do người yêu cầu áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản thực hiện hoặc cũng có thể do chấp hành viên thực hiện. Thông tin về tài khoản của người phải thi hành án có rất nhiều nguồn khác nhau. Việc xác định người đó có tài khoản hay không có thể căn cứ vào một trong những yếu tố như: Lĩnh vực, ngành nghề hoạt động của người phải thi hành án, các hợp đồng của người phải thi hành án với các đối tác, đăng ký kinh doanh… Chấp hành viên cũng có thể thông qua việc phân tích, nghiên cứu bản án, nhất là các bản án kinh doanh thương mại hoặc thông qua người được thi hành án, người có quyền, nghĩa vụ liên quan.

Như vậy, trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản được thực hiện theo quy định về cưỡng chế thi hành án trong Luật Thi hành án dân sự.

2. Biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự

Theo quy định tại khoản 1 Điều 68 Luật Thi hành án dân sự, thì chấp hành viên đang thực hiện nhiệm vụ thi hành án có quyền tạm giữ hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hỗ trợ để tạm giữ tài sản, giấy tờ mà đương sự đang quản lý, sử dụng. Có thể thấy, đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ không chỉ là người phải thi hành án, mà cả người được thi hành án nếu họ đang quản lý, sử dụng tài sản, giấy tờ của người phải thi hành án.

Các tài sản, giấy tờ tạm giữ là các tài sản, giấy tờ có liên quan đến việc thi hành án như: Giấy đăng ký xe môtô, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… hoặc các tài sản có thể xử lý được để thi hành án. Khi áp dụng biện pháp này, chấp hành viên cần lưu ý nghiên cứu các tài sản không được kê biên theo qui định tại Điều 87 Luật Thi hành án dân sự để cân nhắc khi tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự hoặc tài sản có giá trị tương với nghĩa vụ thi hành án theo Điều 8 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP. Trong trường hợp cần thiết, chấp hành viên có thể yêu cầu lực lượng cảnh sát hoặc tổ chức, cá nhân khác hỗ trợ việc tạm giữ giấy tờ, tài sản của người phải thi hành án. Như vậy, khi áp dụng biện pháp này, chấp hành viên không phải xác minh, mà nghĩa vụ chứng minh thuộc về người phải thi hành án.

3. Biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản

Biện pháp này là một trong ba biện pháp bảo đảm thi hành án mà chấp hành viên khi tổ chức thi hành án xét thấy cần ngăn chặn hoặc phát hiện đương sự có hành vi chuyển quyền sở hữu, sử dụng, tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.

Tài sản bị tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án. Hiện nay, có rất nhiều tài sản, quyền tài sản mà việc chuyển dịch quyền sở hữu, sử dụng phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền như: Vốn góp của tổ chức, cá nhân tại doanh nghiệp; quyền sử dụng đất; phương tiện xe cơ giới. Đối với những tài sản này, để thực hiện mua bán, chuyển nhượng, các bên tham gia quan hệ mua bán, chuyển nhượng phải thực hiện thông qua việc đăng ký tại phòng đăng ký kinh doanh, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và sở hữu nhà… Quyền sở hữu, sử dụng của bên mua, bên nhận chuyển nhượng chỉ được xác lập khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký. Chính vì thế, trường hợp đương sự có hành vi chuyển dịch tài sản, để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, thì chấp hành viên ra quyết định đề nghị cơ quan có thẩm quyền đăng ký dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản nhằm duy trì điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.

Việc áp dụng các biện pháp bảo đảm trong thực tiễn công tác thi hành án dân sự có những thuận lợi và khó khăn cơ bản.

Những thuận lợi khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự

Một là, Luật Thi hành án dân sự đã bổ sung kịp thời quyền hạn cho các chấp hành viên trong việc tạm giữ giấy tờ, tài sản để đảm bảo thi hành án mà từ trước đến nay pháp luật còn đang bỏ ngỏ. Quy định này sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự và tạo hành lang pháp lý cho các chấp hành viên thực hiện, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Nhà nước giao, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả trong công tác thi hành án.

Hai là, trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án được quy định trong Luật Thi hành án dân sự khá tinh gọn, nhanh chóng về thời gian, đơn giản về thủ tục tạo thuận lợi cho chấp hành viên có thể kịp thời ngăn chặn hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản, đảm bảo cho cơ quan thi hành án áp dụng các biện pháp cưỡng chế để thi hành án trong những trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án.

Chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình thi hành án, ngay cả trong trường hợp chưa xác định được chủ sở hữu của tài sản, khi áp dụng biện pháp bảo đảm chấp hành viên không cần phải thông báo trước cho đương sự, tránh được việc đương sự có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.

Như vậy, việc áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản có rất nhiều thuận lợi. Thứ nhất, khi xác minh được số dư trong tài khoản thì chấp hành viên có thể ra ngay quyết định áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản mà không cần phải xem xét việc thi hành án ở giai đoạn nào, có hết thời gian tự nguyện hay chưa. Mặt khác, đối với quyết định phong tỏa tài khoản này, chấp hành viên chỉ cần giao cho ngân hàng để thực hiện việc phong tỏa tài khoản mà không cần phải thông báo trước cho người phải thi hành án theo khoản 1 Điều 66 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, tránh được tình trạng người phải thi hành án tẩu tán tiền trong tài khoản. Thứ hai, trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định phong tỏa tài khoản, chấp hành viên ra quyết định cưỡng chế bằng biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản, khi áp dụng biện pháp cưỡng chế bằng biện pháp cưỡng chế này có rất nhiều thuận lợi như: Đã có sẵn tiền trong tài khoản, nên việc cưỡng chế diễn ra nhanh gọn về thủ tục, ít tồn thời gian và đạt hiệu quả cao.

Ba là, khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án chấp hành viên đã đánh vào đòn tâm lý của người phải thi hành án là ngại dư luận không tốt; sợ mất danh dự, uy tín của bản thân và gia đình, nên họ sẽ chọn phương thức tự nguyện thi hành án là tốt nhất.

Bốn là, khoản 2 Điều 66 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Người yêu cầu chấp hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình. Trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp bảo đảm hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường” đề cao trách nhiệm của người yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án trước pháp luật, theo hướng nếu yêu cầu của họ không đúng dẫn đến thiệt hại cho quyền lợi của người bị áp dụng biện pháp bảo đảm hoặc cho người thứ ba thì họ phải chịu trách nhiệm bồi thường.

Một số khó khăn vướng mắc khi áp dụng các biện pháp bảo đảm

Trong quá trình áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án bên cạnh những thuận lợi, còn có một số khó khăn cần được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn để việc thực hiện trên thực tế được thống nhất.

Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Thi hành án dân sự chưa có quy định nào hướng dẫn thời hạn ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án. Điều này sẽ dẫn đến việc áp dụng tuỳ thuộc vào ý chí chủ quan và không thống nhất giữa các chấp hành viên, như vậy dễ dẫn đến việc khiếu nại của đương sự. Trong thực tiễn, có những trường hợp khi đương sự nộp đơn đề nghị cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp bảo đảm có thể chấp hành viên sẽ ra ngay quyết định áp dụng, nhưng cũng có thể vài ngày, thậm chí là lâu hơn chấp hành viên mới ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm. Việc chậm trễ này có thể ảnh hưởng đến kết quả tổ chức thi hành, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi hành án.

Quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm do chấp hành viên ký trong trường hợp cần ngăn chặn hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản nhằm trốn tránh việc thi hành án. Trường hợp đương sự có đơn yêu cầu thi hành án và kèm theo yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm thì tại thời điểm này ai sẽ là người ký quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm. Trường hợp này có hai hướng quan điểm khác nhau.

Quan điểm thứ nhất cho rằng, thủ trưởng cơ quan thi hành án đồng thời cũng là chấp hành viên, do đó trong trường hợp đương sự gửi đơn yêu cầu thi hành án kèm theo yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm, thì thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án đồng thời là người ký quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, sau đó phân công cho chấp hành viên giải quyết việc thi hành án.

Quan điểm thứ hai cho rằng, quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án là do chấp hành viên trực tiếp giải quyết việc thi hành án ký, do đó, trong trường hợp đương sự gửi đơn yêu cầu thi hành án kèm theo yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm thì thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án, sau đó phân công cho chấp hành viên giải quyết việc thi hành án. Chấp hành viên nào được phân công giải quyết hồ sơ thi hành án thì sẽ ký quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án.

Khi áp dụng biện pháp bảo đảm phong tỏa tài khoản, việc thu thập thông tin về tài khoản của người phải thi hành án do người được thi hành án tiến hành xác minh gặp nhiều khó khăn do vướng phải các quy định về bảo mật thông tin khách hàng của các tổ chức tín dụng, ngân hàng, kho bạc nhà nước. Các tổ chức này sẽ viện dẫn các quy định tại Điều 17 và Điều 104 Luật các Tổ chức tín dụng để từ chối cung cấp thông tin về tài khoản của người phải thi hành án. Do đó, các tổ chức tín dụng, ngân hàng, kho bạc nhà nước lấy lý do đó không hợp tác trong việc cung cấp về thông tin cho người được khi hành án. Điều 176 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 chỉ quy định về trách nhiệm của kho bạc, ngân hàng và tổ chức tín dụng khác trong thi hành án dân sự chứ không quy định chế tài xử lý khi các tổ chức này không thực hiện hết trách nhiệm của mình theo quy định tại Điều 176 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Khoản 1 Điều 68 Luật Thi hành án dân sự có quy định việc chấp hành viên có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân hỗ trợ để tạm giữ tài sản, giấy tờ mà đương sự đang quản lý, sử dụng trên thực tế thi hành nhiều trường hợp gặp khó khăn.

Mặc dù, Điều 11 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong việc thi hành án và cơ quan, tổ chức có liên quan có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên theo quy định của Luật này”.

Ví dụ: Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 15/DSST/2009 ngày 07/09/2009 của Tòa án nhân dân huyện YK, tỉnh NB về “Hợp đồng vay nợ” đã tuyên buộc bà Trần Thị Hải phải trả cho bà Nguyễn Thu Trang số tiền 20.000.000đ và lãi chậm thi hành án. Ngày 23/10/2009, Chi cục Thi hành án dân sự huyện YK nhận được đơn yêu cầu thi hành án hợp lệ của bà Nguyễn Thu Trang, trong đơn yêu cầu thi hành án bà Trang cho biết hiện nay bà Trần Thị Hải đang sử dụng một chiếc xe máy hiệu Jupiter biển kiểm soát 35F-04546. Chi cục Thi hành án dân sự đã ra quyết định thi hành án và giao cho chấp hành viên tổ chức thi hành. Chấp hành viên tiến hành tống đạt quyết định thi hành án và ấn định thời gian tự nguyện thi hành án theo đúng quy định. Khi đến làm việc với bà Hải tại nhà bà Hải, thì chấp hành viên phát hiện trong nhà bà Hải có chiếc xe máy đúng như bà Trang đã cung cấp. Chấp hành viên tiến hành lập biên bản tạm giữ ngay chiếc xe máy hiệu Jupiter biển kiểm soát 35F-04546. Trong quá trình lập biên bản tạm giữ tài sản, thì bà Hải cho rằng, chiếc xe máy này không phải của bà mà do người khác gửi, và chống đối việc tạm giữ tài sản của chấp hành viên. Chấp hành viên đã yêu cầu công an xã (được chấp hành viên mời đến làm việc) và trưởng thôn hỗ trợ để tạm giữ chiếc xe, nhưng công an xã không phối hợp với lý do họ không có trách nhiệm trong việc tạm giữ tài sản của đương sự, và không có chỉ đạo của cấp trên về việc tạm giữ trên.

Phân tích tình huống trên thấy rằng, mặc dù Luật trao quyền cho chấp hành viên được áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án tại bất cứ thời điểm nào của quá trình thi hành án, nhằm ngăn chặn hành vi tẩu tán hủy hoại tài sản của người phải thi hành án. Tuy nhiên, để thực hiện được nhiệm vụ, chấp hành viên cần sự phối hợp của các cấp, ngành liên quan.

Việc thi hành phần nghĩa vụ của người phải thi hành án là phần vốn góp trong các tổ chức, doanh nghiệp thì thực tế còn nhiều khó khăn trong việc xác định quyền tài sản của người phải thi hành án và chấp hành viên còn e ngại khi xử lý quyền tài sản này vì không nhận được sự đồng thuận từ phía các tổ chức, doanh nghiệp do việc xử lý phần vốn góp sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất kinh doanh cũng như làm thay đổiđiều lệ, cơ cấu nhân sự của tổ chức, doanh nghiệp.

Đối với trường hợp chấp hành viên ra quyết định chấm dứt việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản của người phải thi hành án, Luật Thi hành án dân sự và Nghị định số 58/2009/NĐ-CP đều chưa quy định trong trường hợp nào thì chấp hành viên ra quyết định chấm dứt việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng thay đổi hiện trạng tài sản của người phải thi hành án. Như vậy, chấp hành viên có thể linh hoạt vận dụng và tham khảo theo quy định tại Điều 77 Luật Thi hành án dân sự để ra quyết định chấm dứt việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng thay đổi hiện trạng tài sản của người phải thi hành án.

Cần thắt chặt hơn nữa các chế tài đối với các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong việc từ chối phối hợp thực hiện yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên như: Phối hợp với các cơ quan chuyên môn để thiết lập nên các quy chế, chế định, chế tài để xử lý các hành vi làm cản trở đến công tác thực thi pháp luật thi hành án trên cơ sở tuân thủ Điều 136 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Các bản án, quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.

Xuất phát từ những ưu điểm của các biện pháp bảo đảm trên, theo chúng tôi cần có hướng dẫn thống nhất, cụ thể hơn nữa để các chấp hành viên có cơ sở vững chắc trong việc áp dụng vào thực tiễn thi hành án.

Vũ Hòa

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bất cập về quy định thời hiệu đối với quyền yêu cầu thi hành án của người phải thi hành án

29/07/2014

Để đảm bảo quyền bình đẳng của người phải thi hành án với người được thi hành án, bảo đảm cho việc thi hành án được thực hiện đúng pháp luật và có hiệu quả, pháp luật thi hành án dân sự đã quy định cho người phải thi hành án có một số quyền và nghĩa vụ thi hành án giống như quyền và nghĩa vụ của người được thi hành án, điển hình như quyền được gửi đơn hoặc trực tiếp yêu cầu cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án (Điều 7 Luật Thi hành án dân sự năm 2008). Thực tiễn cho thấy, quy định về quyền yêu cầu thi hành án của người phải thi hành án là một trong những quy định thể hiện tính đúng đắn, khoa học của pháp luật thi hành án dân sự. Tuy vậy, quyền yêu cầu thi hành án của người phải thi hành án lại bị giới hạn bởi thời hiệu yêu cầu thi hành án. Theo quan điểm của tác giả, đây cũng là một trong những điểm hạn chế, bất cập của pháp luật thi hành án dân sự hiện hành.

Bằng việc đưa ra quy định về thời hiệu yêu cầu thi hành án, Nhà nước ta đã giới hạn quyền yêu cầu thi hành án của đương sự trong thời hạn nhất định. Thời hiệu yêu cầu thi hành án chỉ đặt ra đối với phần bản án, quyết định thi hành theo đơn yêu cầu của đương sự. Khoản 1 Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 quy định khá cụ thể, chi tiết về thời hiệu yêu cầu thi hành án đối với quyền yêu cầu thi hành án của người phải thi hành án nói riêng và của đương sự nói chung:

“- Trong trường hợp 05 năm, kể từ ngày Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án.

– Trong trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong Bản án, quyết định thì thời hạn 05 năm tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn.

– Đối với Bản án, quyết định thi hành án theo định kỳ thì thời hạn 05 năm được áp dụng cho từng thời kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn”.

Nghiên cứu quy định này, ta có thể hiểu rằng trong trường hợp nếu người phải thi hành các khoản không thuộc các khoản cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định chủ động (Điều 36 Luật Thi hành án dân sự) thì khi hết thời hạn đó mà người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án thì người được thi hành án không còn quyền yêu cầu thi hành phần bản án, quyết định chưa yêu cầu thi hành án nữa, còn người phải thi hành án có quyền chứng minh thời hiệu đã hết.

Vấn đề thực tế phát sinh khi người được thi hành án vì nhiều lý do khác nhau đã không làm đơn yêu cầu thi hành án ngay sau khi có bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật; trong khi đó, người phải thi hành án đã có điều kiện thi hành hơn thế, họ mong muốn nhanh chóng thực hiện xong nghĩa vụ của mình, nên đã làm đơn yêu cầu thi hành án. Hơn nữa việc thi hành án xong được pháp luật quy định là một trong những tình tiết xét giảm án phạt tù hay được xác nhận và đảm bảo thủ tục xuất nhập cảnh, nên người phải thi hành án rất muốn thi hành ngay… Vậy cơ quan thi hành ándân sự có thẩm quyền sẽ nhận đơn hay từ chối nhận đơn?

Vì quy định của pháp luật thi hành án dân sự về thời hiệu yêu cầu thi hành án của người phải thi hành án chưa chặt chẽ, chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết cách giải quyết về những vấn đề phát sinh trong thực tế, nên trong quá trình tác nghiệp tại các cơ quan thi hành án dân sự cho thấy nhiều cách hiểu khác nhau, nên việc áp dụng pháp luật giữa các cơ quan chức năng chưa thống nhất cao.

Ví dụ: Bản án số 57/HSST ngày 21/9/2005 của Tòa án nhân dân huyện A tuyên Vũ Văn Xoa hình phạt chung thân, buộc Xoa bồi thường cho gia đình nạn nhân do bà Lê Thị Tuyển đại diện, số tiền là 19.630.000đ. Bản án số 46/HSPT ngày 22/11/2005 của Tòa án nhân dân tỉnh N giữ nguyên hình phạt tù chung thân đối với bị cáo, các quyết định của Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật. Ngày 8/5/2013, bà Nguyễn Thị Quế là mẹ đẻ của người phải thi hành án được ủy quyền đến cơ quan thi hành án dân sự nộp đơn yêu cầu thi hành án khoản bồi thường 19.630.000đ theo Bản án.

Xét theo quy định của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu yêu cầu thi hành án đã hết từ lâu và theo quy định của pháp luật dân sự thì người yêu cầu thi hành án là bà Quế được sự ủy quyền hợp lệ.

Xét về động cơ bà Quế nộp đơn yêu cầu thi hành án thi hành án để Xoa được hưởng thêm tình tiết giảm án theo quy định của pháp luật.

Đối với người được thi hành án, bà Lê Thị Tuyển trình bày: Vì người phải thi hành án đã bị tuyên phạt tù chung thân, bản thân người phải thi hành án không có tài sản, là lý do gia đình bà chưa làm đơn đề nghị, mặt khác do trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế, nên bà không biết đến quy định về thời hiệu yêu cầu thi hành án, dẫn đến việc để quá thời hiệu yêu cầu.

Về vấn đề này, tại địa phương có hai quan điểm xử lý như sau:

Thứ nhất, vận dụng Điều 30 Luật Thi hành án dân sự và Điều 2 Nghị định số 58/2009/NĐ- CP để giải thích cho đương sự hiểu rằng đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án, nên không nhận đơn yêu cầu thi hành án nữa.

Thứ hai, với chủ trương của Nhà nước ta luôn khuyến khích và tôn trọng các đương sự tự nguyện thi hành án, trong trường hợp này là sự tự nguyện của gia đình người phải thi hành án và có sự ủy quyền của người phải thi hành án. Vì vậy, mặc dù thời hiệu yêu cầu thi hành án đã hết từ lâu, nhưng cũng nên ghi nhận sự tự nguyện này, để chấp nhận đơn yêu cầu thi hành án. Nếu người phải thi hành án là Vũ Văn Xoa có tích cực cải tạo thật tốt, được nhiều lần giảm án, thì thời hạn chấp hành hình phạt tù ít nhất là 20 năm, sau đó mới được ra ngoài xã hội để lao động sản xuất. Bởi thế, không nên xác định thời hiệu yêu cầu thi hành án đối với trường hợp này.

Theo quan điểm của người viết, nên áp dụng và thống nhất giải quyết theo quan điểm thứ hai, vì cách giải quyết này không chỉ làm lợi cho người được thi hành án, người phải thi hành án, mà còn làm cho bản án được thi hành một cách triệt để.

Chính vì thế, để thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước ta, việc quy định quyền yêu cầu thi hành án của người phải thi hành án là cần thiết, hợp lý nhưng không nhất thiết phải quy định thời hiệu yêu cầu thi hành án dân sự của người phải thi hành án. Bởi trong một số trường hợp, như trường hợp đã phân tích ở trên, quy định đó sẽ làm hạn chế quyền yêu cầu thi hành án của người phải thi hành án. Do vậy, các nhà làm luật nên điều chỉnh quy định về vấn đề này, đồng thời soạn thảo những văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết, giúp cho việc giải quyết của các cơ quan thi hành án dân sự được thống nhất, việc tổ chức thi hành án của chấp hành viên được thuận lợi, dễ dàng, tạo diều kiện cho người dân hoàn thành phần nghĩa vụ thi hành án dân sự nói chung, trong bản án hình sự nói riêng.,.

Lê Thị Ngời

Chi cục thi hành án dân sự huyện An Dương, Hải Phòng

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Ưu tiên thanh toán trong thi hành án dân sự – Chỉ được thực hiện khi đủ điều kiện

22/01/2015

Hệ thống các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự hiện nay đang dần được hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho chấp hành viên và cơ quan thi hành án dân sự thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Theo pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan thi hành án dân sự, mà trực tiếp chấp hành viên là người có trách nhiệm đảm bảo hiệu lực trên thực tế của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Tính hiệu quả trong việc này phụ thuộc trước hết vào tính khách quan, công bằng trong phán quyết của bản án, quyết định đó. Ngoài ra, tính minh bạch, rõ ràng trong các quy định của pháp luật cũng là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng. Xin nêu và phân tích một vụ việc cụ thể để thấy rõ tầm quan trọng cũng như vướng mắc mà chấp hành viên và cơ quan thi hành án dân sự gặp phải như sau:

Trong quá trình giải quyết vụ kiện dân sự đòi lại tài sản giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Tú và bị đơn là ông Nho Văn Lập. Theo đơn đề nghị của ông Tú, ngày 13/01/2014, Tòa án nhân dân huyện K đã ban hành Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài khoản của ông Lập với số tiền phong tỏa là 320.000.000 đồng. Việc thực hiện Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được cơ quan thi hành án dân sự huyện K thụ lý và thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

Ngày 14/3/2014, Tòa án nhân dân huyện K ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa nguyên đơn là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện K và ông Nho Văn Lập (Quyết định số 01/2014/KDTM). Theo đó, ông Nho Văn Lập có trách nhiệm trả tiền nợ đã vay của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện K số tiền là 400.000.000 đồng. Đồng thời, ông Nho Văn Lập phải chịu 10.000.000 đồng tiền án phí.

Trên cơ sở Quyết định trên, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện K đã làm đơn yêu cầu thi hành án, Chi cục Thi hành án dân sự huyện K đã thụ lý và phân công chấp hành viên tổ chức thi hành.

Ngày 02/4/2014, Tòa án nhân dân huyện K đưa ra xét xử vụ kiện đòi tài sản giữa ông Tú và ông Lập và ban hành Bản án số 02/2014/DSST. Trong phần Quyết định nêu rõ:

“1. Buộc ông Nho Văn Lập phải trả cho ông Nguyễn Văn Tú số tiền đã vay là 320.000.000 đồng.

2. Giữ nguyên biện pháp phong tỏa tài khoản đối với ông Nho Văn Lập để đảm bảo thi hành án.

3. Ông Nho Văn Lập phải chịu 16.000.000 đồng tiền án phí”.

Sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật, ông Nguyễn Văn Tú làm đơn yêu cầu thi hành án, Chi cục Thi hành án dân sự huyện K đã thụ lý và đưa ra tổ chức thi hành theo đúng quy định của pháp luật.

Hết thời hạn tự nguyện thi hành án theo các quyết định thi hành án, ông Nho Văn Lập không tự nguyện thi hành. Chi cục Thi hành án dân sự huyện K tiến hành xử lý số tiền 320.000.000 đồng của ông Nho Văn Lập bị phong tỏa. Đến đây, có hai quan điểm, khác nhau liên quan đến việc thanh toán các nghĩa vụ của ông Nho Văn Lập. Cụ thể như sau:

Quan điểm thứ nhất, cơ quan thi hành án dân sự huyện K phải xử lý toàn bộ số tiền 320.000.000 đồng để thanh toán nghĩa vụ trả nợ của ông Nho Văn Lập đối với ông Nguyễn Văn Tú.

Quan điểm thứ hai, cơ quan thi hành án dân sự huyện K phải thực hiện thứ tự thanh toán tiền thi hành án theo đúng quy định tại Điều 47 Luật Thi hành án dân sự và văn bản hướng dẫn thi hành.

– Ý kiến theo quan điểm thứ nhất cho rằng, trong Bản án số 02/2014/DSST ngày 02/4/2014, Tòa án nhân dân huyện K đã ấn định số tiền phong tỏa 320.000.000 đồng được dùng để thanh toán cho nghĩa vụ trả nợ cho ông Nguyễn Văn Tú. Vì vậy, cơ quan thi hành án xử lý tiền để chi trả toàn bộ cho ông Tú là đúng chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thi hành án. Mặt khác, trước khi ban hành Bản án số 02/2014/DSST, Tòa án đã ban hành Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để ngăn chặn việc ông Lập cất giấu, tẩu tán tiền, gây khó khăn cho việc thi hành án sau này.

Tại Điều 102 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định các biện pháp khẩn cấp tạm thời gồm:

“Điều 102. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời

1. Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

2. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng.

3. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm.

4. Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động.

5. Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định sa thải người lao động.

6. Kê biên tài sản đang tranh chấp.

7. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.

8. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp.

9. Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hoá khác.

10. Phong toả tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong toả tài sản ở nơi gửi giữ.

11. Phong toả tài sản của người có nghĩa vụ.

12. Cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định.

13. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà pháp luật có quy định”.

Khoản 4 Điều 17 Bộ luật Tố tụng dân sự cũng quy định:

“4. Trong trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 10, khoản 11 Điều 102 của Bộ luật này thì chỉ được phong toả tài khoản, tài sản có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ phải thực hiện”.

Mặt khác, tại tiểu mục 7.2 Mục 7 Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định tại Chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của Bộ luật Tố tụng dân sự hướng dẫn:

“7.2. Trong trường hợp người yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời yêu cầu phong toả tài khoản, tài sản để bảo đảm nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ phải thực hiện theo đơn khởi kiện, thì Toà án chỉ được phong toả tài khoản, tài sản có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản đó trở xuống”.

Từ những quy định trên có thể nhận định rằng, ngay từ khi thụ lý vụ việc, ông Tú đã làm đơn đề nghị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài khoản và đã được Tòa án chấp nhận là cơ sở khẳng định việc phong tỏa số tiền 320.000.000 đồng là vừa đủ và chỉ để đảm bảo thanh toán nghĩa vụ trả nợ cho ông Nguyễn Văn Tú mà không quan tâm đến các nghĩa vụ khác như án phí, trả nợ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hay bất kỳ nghĩa vụ nào theo bản án, quyết định đã có hiệu lực khác.

– Ý kiến theo quan điểm thứ hai cho rằng, tại phần quyết định của Bản án số 02/2014/DSST chỉ nêu: “Giữ nguyên biện pháp phong tỏa tài khoản đối với ông Nho Văn Lập để đảm bảo thi hành án” mà không ấn định rõ là “để đảm bảo thi hành nghĩa vụ trả nợ cho ông Nguyễn Văn Tú”. Vì vậy, không thể xác định số tiền 320.000.000 đồng được dùng để thi hành nghĩa vụ đã ấn định trong bản án, mà phải hiểu rằng số tiền này được dùng để đảo bảo thi hành cho các nghĩa vụ dân sự của ông Nho Văn Lập theo các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Có như vậy mới đảm bảo tính công bằng giữa các chủ thể trước pháp luật.

Ý kiến theo quan điểm thứ hai còn chỉ ra rằng, Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán hướng dẫn như trên là để xác định trách nhiệm của người yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và tránh tình trạng lạm dụng, gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, chứ không có ý nghĩa biện pháp khẩn cấp tạm thời là để đảm bảo cho nghĩa vụ trong đơn khởi kiện.

Mặt khác, thứ tự thanh toán tiền thi hành án, Điều 47 Luật Thi hành án dân sự quy định:

“Điều 47. Thứ tự thanh toán tiền thi hành án

1. Số tiền thi hành án, sau khi trừ các chi phí thi hành án và khoản tiền quy định tại khoản 5 Điều 115 của Luật này, được thanh toán theo thứ tự sau đây:

a) Tiền cấp dưỡng; tiền lương, tiền công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động; tiền bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần;

b) Án phí;

c) Các khoản phải thi hành án khác theo bản án, quyết định.

2. Trường hợp có nhiều người được thi hành án thì việc thanh toán tiền thi hành án được thực hiện như sau:

a) Việc thanh toán được thực hiện theo thứ tự quy định tại khoản 1 Điều này. Trường hợp trong cùng một hàng ưu tiên có nhiều người được thi hành án thì việc thanh toán được thực hiện theo tỷ lệ số tiền mà họ được thi hành án;

b) Số tiền thi hành án thu theo quyết định cưỡng chế thi hành án nào thì thanh toán cho những người được thi hành án đã có đơn yêu cầu tính đến thời điểm có quyết định cưỡng chế đó. Số tiền còn lại được thanh toán cho những người được thi hành án theo các quyết định thi hành án khác tính đến thời điểm thanh toán.

Số tiền còn lại được trả cho người phải thi hành án.

3. Số tiền thu được từ việc bán tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bán tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành một nghĩa vụ cụ thể được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ được bảo đảm đó sau khi trừ các chi phí về thi hành án.

4. Thứ tự thanh toán tiền thi hành án về phá sản được thực hiện theo quy định của pháp luật về phá sản.

5. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày thu được tiền, Chấp hành viên phải thực hiện việc thanh toán tiền thi hành án quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này”.

Để phản bác lại quan điểm thứ nhất, nếu dựa vào quy định tại khoản 3 Điều 47 nêu trên, thì điều kiện để cơ quan thi hành án được thực hiện ưu tiên thanh toán cho một nghĩa vụ cụ thể đã được ấn định trong bản án bao gồm:

Thứ nhất, “nghĩa vụ cụ thể được ưu tiên thanh toán theo quy định tại khoản 3 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự phải được xác định cụ thể trong bản án, quyết định của Tòa án tuyên kê biên bảo đảm thi hành cho nghĩa vụ cụ thể đó”. (Quy định tại khoản 2 Điều 13 Nghị định số 125/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009).

Thứ hai, chỉ thực hiện trong trường hợp Tòa án tuyên kê biên tài sản để đảm bảo thi hành nghĩa vụ cụ thể.

Như vậy, có thể thấy rằng, trong trường hợp này, Tòa án nhân dân huyện K không tuyên việc tiếp tục phong tỏa số tiền 320.000.000 đồng để đảm bảo thi hành nghĩa vụ trả nợ cho ông Nguyễn Văn Tú là hoàn toàn đúng và không thể cho rằng việc tuyên như vậy là chưa rõ ràng. Vì về mặt lý luận, việc xử lý tiền, tài sản bảo đảm thuộc thẩm quyền của cơ quan thi hành án dân sự, vấn đề phân phối, thanh toán tiền thi hành án phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 47 Luật Thi hành án dân sự.

Thanh toán tiền thi hành án theo quan điểm này một mặt có đầy đủ cơ sở pháp lý là Điều 47 Luật Thi hành án dân sự và Nghị định số 125/2013/NĐ-CP, mặt khác đảm bảo được tính công bằng cho các chủ thể, trong vụ việc này là Nhà nước, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn và ông Nguyễn Văn Tú.

Trên đây là phân tích từ một vụ việc cụ thể để thấy được tầm quan trọng, ý nghĩa của việc nhận thức đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật. Tránh tình trạng suy diễn theo ý chí chủ quan, gây ra những thiệt hại về mặt kinh tế cho cá nhân, tổ chức và là nguồn gốc phát sinh đơn thư khiếu nại, tố cáo, gây mất uy tín của cơ quan thi hành án đối với người dân và làm giảm hiệu quả, chất lượng của công tác thi hành án dân sự.

Mong nhận được ý kiến trao đổi của các đồng chí, đồng nghiệp!

Lương Thanh Tùng

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số bất cập về cách tính thời hạn khởi kiện theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009

31/12/2015

Điều 22 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 quy định về quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường và các quy định có liên quan, chúng tôi nhận thấy có hai bất cập lớn liên quan đến cách tính thời hạn khởi kiện. Một là, thời điểm nào được coi là người bị thiệt hại nhận được quyết định giải quyết bồi thường để làm cơ sở tính thời hạn khởi kiện. Hai là, cơ quan chịu trách nhiệm bồi thường không thực hiện trách nhiệm chi trả tiền bồi thường khi quyết định giải quyết bồi thường đã có hiệu lực, thì người bị thiệt hại có quyền được khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết hay không. Qua bài viết này, các tác giả sẽ chỉ ra những bất cập và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về cách tính thời hạn khởi kiện theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009.

1. Về thời điểm người bị thiệt hại nhận được quyết định giải quyết bồi thường để làm cơ sở tính thời hạn khởi kiện

Điều 22 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 quy định thời hạn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường là 15 ngày, kể từ ngày người bị thiệt hại nhận được quyết định giải quyết bồi thường, nhưng không đồng ý với quyết định đó thì có quyền khởi kiện ra Toà án có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết bồi thường, quy định như vậy chưa toàn diện, bởi trong thực tiễn có một số trường hợp sau sẽ không thể giải quyết được theo Luật này, đó là:

Thứ nhất, theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 16/2010/NĐ-CP ngày 3/3/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (Nghị định số 16/2010/NĐ-CP) thì đối với trường hợp người được bồi thường vắng mặt, quyết định giải quyết bồi thường có thể được giao cho người thân có đủ năng lực hành vi dân sự cùng cư trú với họ. Người thân của người được bồi thường phải ký nhận vào biên bản hoặc sổ giao nhận quyết định giải quyết bồi thường. Ngày người thân của người được bồi thường ký nhận được tính là ngày người được bồi thường nhận được quyết định giải quyết bồi thường. Trường hợp này đã quy định rất rõ về ngày nhận quyết định của người bị thiệt hại. Nhưng trong trường hợp người được bồi thường không có người thân có đủ năng lực hành vi dân sự cùng cư trú hoặc có nhưng họ từ chối nhận hộ quyết định giải quyết bồi thường, thì có thể giao quyết định giải quyết bồi thường thông qua Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã – nơi người được bồi thường cư trú. Quy định này không rõ thời điểm người bị thiệt hại nhận được quyết định giải quyết bồi thường là ngày nào, là ngày UBND cấp xã nhận từ người chuyển giao hay ngày người bị thiệt hại nhận được quyết định từ UBND cấp xã giao. Bởi luật quy định rằng, phải giao ngay quyết định cho người bị thiệt hại để đảm bảo quyền lợi cho họ, vì thời hạn để khởi kiện ra Toà án là rất ngắn.

Đồng thời, Điều 10 Nghị định số 16/2010/NĐ-CP cũng có quy định “trường hợp việc giao quyết định giải quyết bồi thường qua người khác thì người thực hiện việc giao quyết định phải lập biên bản ghi rõ việc người được bồi thường vắng mặt, quyết định giải quyết bồi thường đã được giao cho ai; lý do; ngày, giờ giao; quan hệ giữa người nhận hộ với người bị thiệt hại; cam kết giao ngay tận tay quyết định giải quyết bồi thường cho người được bồi thường. Biên bản có chữ ký của người nhận chuyển quyết định giải quyết bồi thường và người thực hiện việc giao quyết định giải quyết bồi thường, người chứng kiến”. Người khác ở đây đương nhiên được hiểu là người thân có đủ năng lực hành vi dân sự và cùng cư trú với người bị thiệt hại, nhưng có được hiểu là UBND cấp xã không? Pháp luật của Việt Nam hay sử dụng từ người cho cả cá nhân và tổ chức, ví dụ như quy định “người khởi kiện” bao gồm cá nhân, cơ quan, tổ chức[1], ngay cả các nhà khoa học cũng vậy, họ cho rằng: Khái niệm pháp lý về “con người” với tính cách là chủ thể chung của các quan hệ pháp luật cần được hiểu là bao gồm các loại thể nhân và pháp nhân[2], nên có lẽ trong trường hợp này “người khác” cũng được hiểu là UBND cấp xã. Chúng tôi kiến nghị trong trường hợp này, pháp luật nên quy định rõ là ngày nhận quyết định của người bị thiệt hại là ngày được người đại diện của Ủy ban giao cho, bởi người này cũng thuộc danh sách những người được pháp luật quy định có nhiệm vụ thực hiện việc chuyển giao quyết định và cũng đảm bảo quyền khởi kiện cho người bị thiệt hại.

Thứ hai, trường hợp người được bồi thường vắng mặt mà không rõ thời điểm trở về hoặc không rõ địa chỉ, thì người thực hiện việc giao quyết định giải quyết bồi thường phải lập biên bản về việc không thực hiện được việc giao quyết định. Biên bản phải có chữ ký của người cung cấp thông tin về người được bồi thường. Trường hợp này xảy ra có thể do lỗi hoặc không do lỗi của người bị thiệt hại, thiết nghĩ trong trường hợp này nên áp dụng thủ tục niêm yết tương tự như trong quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004[3]. Bởi lẽ, thực ra thủ tục chuyển giao quyết định này khi nghiên cứu kỹ thì rất giống với thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng quy định tại Chương X – Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004. Nhưng như đã đề cập trên, quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong nhiều trường hợp còn rất nhiều lỗ hổng, chưa dự liệu hết các trường hợp có thể xảy ra mà Bộ luật Tố tụng dân sự đã dự liệu được, mà lại thiếu các quy định viện dẫn về việc áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, muốn quy định cụ thể ra trực tiếp nhưng lại không ghi nhận được hết các trường hợp có khả năng xảy ra. Bên cạnh đó, việc đưa ra kiến nghị về việc niêm yết quyết định giải quyết bồi thường trong trường hợp này cũng là sự tiếp thu các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, có thể coi đây là luật hình thức khá đầy đủ để giải quyết các quan hệ dân sự rộng lớn, ví dụ như quy định về thời hạn kháng cáo tại khoản 1 Điều 245 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định: “Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm là mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết”. Do đó, chúng tôi kiến nghị trong trường hợp này xem như ngày niêm yết là ngày người bị thiệt hại nhận được quyết định giải quyết bồi thường.

Thứ ba, trường hợp người được bồi thường từ chối nhận quyết định giải quyết bồi thường thì người thực hiện việc giao quyết định phải lập biên bản trong đó nêu rõ lý do của việc từ chối. Trong trường hợp này chắc chắn là lỗi của người bị thiệt hại, nên chúng tôi cho rằng ngày người bị thiệt hại nhận được quyết định là ngày họ từ chối nhận quyết định giải quyết bồi thường.

Trên các cơ sở lập luận trên, chúng tôi kiến nghị cần quy định bổ sung thêm Điều 10 Nghị định số 16/2010/NĐ-CP các nội dung đã trình bày trên như quy định cụ thể ngày nhận được quyết định giải quyết bồi thường là ngày nào, trường hợp nào phải niêm yết và thủ tục niêm yết. Theo đó, cần sửa đổi Điều 22 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 cho phù hợp.

2. Việc không thực hiện trách nhiệm chi trả tiền bồi thường

Nếu như trách nhiệm này được xác định trong bản án dân sự có hiệu lực pháp luật thì áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, cụ thể là các quy định tại Chương XXXI – Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 và pháp luật về thi hành án và Điều này đã được Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 khẳng định tại khoản 5 Điều 54 như sau: “Trường hợp bản án, quyết định giải quyết bồi thường của Toà án có hiệu lực pháp luật mà cơ quan có trách nhiệm bồi thường không tự nguyện thi hành thì người được bồi thường có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự”. Thực ra, nếu Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 không quy định như trên thì đương nhiên các quy định tại Chương XXXI của Bộ luật Tố tụng dân sự vẫn được áp dụng, vì đây là trường hợp Toà án giải quyết vụ án dân sự thì pháp luật tố tụng dân sự được áp dụng một cách toàn diện nhất, điều này cho thấy một cái thừa của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Tuy nhiên, trên thực tế người bị thiệt hại vẫn chưa vận dụng triệt để quy định của pháp luật để bảo vệ quyền lợi cho mình, đó là trường hợp của ông P. Cụ thể như sau:

Ông P. khổ sở đi đòi bồi thường oan sai đã kéo dài 15 năm nay. Năm 1999, Toà án nhân dân (TAND) tỉnh Thái Bình tuyên phạt ông P. 17 năm tù về hai tội trốn thuế và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa. Xét xử phúc thẩm năm 2000, Tòa Phúc thẩm TAND tối cao tại Hà Nội tuyên ông P. không phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa và hủy phần tội trốn thuế để điều tra lại. Năm 2010, TAND tỉnh Thái Bình đã bồi thường cho ông P. 600 triệu đồng, đây là tiền bồi thường cho 3 năm ông P. ngồi tù và thu nhập thực tế bị mất. Riêng vụ kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại tài sản, tháng 8/2013, TAND thành phố Thái Bình tuyên buộc TAND tỉnh Thái Bình phải bồi thường cho ông P. hơn 21,4 tỉ đồng về tài sản bị kê biên, phát mại và một số chi phí khác sau khi ông P. bị bắt.

Trường hợp của ông P. khi bản án đã có hiệu lực chín tháng mà các cơ quan chưa trả tiền bồi thường cho ông Phi do ông P. bị bắt giam oan, tài sản bị phát mãi với giá rẻ mạt, ra tù cuộc sống của rất khó khăn. Nhiều năm qua ông P. chỉ biết đi kiện, nên ông P. cảm thấy thật sự rất mệt mỏi vì phải chờ đợi các cơ quan tố tụng từ năm này qua năm khác mà không biết khi nào mới nhận được số tiền bồi thường. Để giải tỏa những trăn trở của ông P. thì một cán bộ Toà án đã trả lời: “Theo nguyên tắc của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, bản án phải được TAND tối cao xem xét xem có phải kháng nghị giám đốc thẩm hay không. Nếu không có kháng nghị thì sẽ tiến hành chi trả tiền cho ông P.”[4]. Tuy nhiên, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 không có nguyên tắc như vậy và nếu chờ kháng nghị giám đốc thẩm thì người bị thiệt hại phải chờ rất lâu[5]. Thiết nghĩ, trong trường hợp bản án, quyết định giải quyết bồi thường của Toà án cũng như những bản án dân sự khác, khi đã có hiệu lực pháp luật thì phải được thi hành theo thủ tục quy định, còn nếu có căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hay tái thẩm thì số tiền đã thi hành không đúng có thể được giải quyết trong một bản án dân sự và áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 tại chương XX về nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật, thực tiễn có những trường hợp như thế xảy ra và Toà án cũng đã áp dụng linh hoạt các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 để giải quyết (Điều 281, Điều 256, Điều 599 đến Điều 603)[6].

Theo chúng tôi, trong trường hợp cơ quan chịu trách nhiệm bồi thường theo quyết định giải quyết bồi thường mà không nghiêm túc thực hiện việc bồi thường cho người bị thiệt hại, thì người bị thiệt hại có quyền khởi kiện cơ quan có trách nhiệm bồi thường để yêu cầu cơ quan này thực hiện nghĩa vụ bồi thường theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Lý giải cho việc kiến nghị này, theo chúng tôi quyết định giải quyết bồi thường về bản chất cũng giống như quyết định hoàn trả[7], nó không phải là quyết định hành chính nên không thể khởi kiện vụ án hành chính, mà đây thực chất như một thỏa thuận mang bản chất dân sự nên khởi kiện vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự là hợp lý, để khi bản án, quyết định có hiệu lực mà cơ quan có trách nhiệm bồi thường không chấp hành, thì người bị thiệt hại có cơ sở yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự vào cuộc và có thể cưỡng chế thi hành án như những trường hợp thông thường khác, vì suy cho cùng cơ quan có trách nhiệm bồi thường cũng là người phải thi hành án như các chủ thể khác của pháp luật dân sự.

Trên cơ sở các bất cập và kiến nghị sửa đổi văn bản hướng dẫn nêu trên, chúng tôi kiến nghị sửa Điều 22 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 như sau:

Điều 22. Khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường

“Thời hạn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết bồi thường là 15 ngày, kể từ ngày hết thời hạn ra quyết định giải quyết bồi thường theo quy định tại Điều 20 của Luật này mà cơ quan có trách nhiệm bồi thường không ra quyết định hoặc kể từ ngày người bị thiệt hại nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết.

Trường hợp quyết định giải quyết bồi thường đã có hiệu lực pháp luật thì thời hạn 15 ngày được tính kể từ ngày hết thời hạn thực hiện việc chi trả bồi thường theo quy định tại Điều 54 của Luật này mà cơ quan có trách nhiệm bồi thường không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ”.

ThS. Lê Đức Hiền, Đại học Quy Nhơn

Châu Nữ Thu Hân, TAND TP. Cao Lãnh – Đồng Tháp

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011).

2. Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009.

3. Nguyễn Như Phát (2007), “Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường Nhà nước”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (4), tr. 25.

4.http://tuoitre.vn/tin/phap-luat/20140522/vu-an-oan-duoc-boi-thuong-nhieu-nhat/608638.html,

5. Bản án số 17/2012/DS-ST ngày 28/6/2012 “về việc tranh chấp về quyền sở hữu tài sản” của Tòa án nhân dân huyện DL, tỉnh LĐ.



[1] Điều 161 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định về quyền khởi kiện vụ án: Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

[2] Nguyễn Như Phát (2007), “Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường Nhà nước”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (4),tr. 25.

[3] Điều 154 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 về thủ tục niêm yết công khai

(1). Việc niêm yết công khai văn bản tố tụng chỉ được thực hiện khi không rõ tung tích của người được cấp, tống đạt hoặc thông báo hoặc không thể thực hiện được việc cấp, tống đạt hoặc thông báo trực tiếp.

(2). Việc niêm yết công khai văn bản tố tụng do Toà án trực tiếp hoặc ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được cấp, tống đạt hoặc thông báo được thực hiện theo thủ tục sau đây:

a) Niêm yết bản chính tại trụ sở Toà án, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được cấp, tống đạt hoặc thông báo;

b) Niêm yết bản sao tại nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được cấp, tống đạt hoặc thông báo;

c) Lập biên bản về việc thực hiện thủ tục niêm yết công khai, trong đó ghi rõ ngày, tháng, năm niêm yết.

(3). Thời gian niêm yết công khai văn bản tố tụng là mười lăm ngày, kể từ ngày niêm yết.

[4]http://tuoitre.vn/tin/phap-luat/20140522/vu-an-oan-duoc-boi-thuong-nhieu-nhat/608638.html,

[5] Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành tại Điều 288 như sau: Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

1. Người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được quyền kháng nghị trong thời hạn ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

2. Trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng có các điều kiện sau đây thì thời hạn kháng nghị được kéo dài thêm hai năm, kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị:

a) Đương sự đã có đơn đề nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 284 của Bộ luật này và sau khi hết thời hạn kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều này đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị;

b) Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật theo quy định tại Điều 283 của Bộ luật này, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba, xâm phạm lợi ích của Nhà nước và phải kháng nghị để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó.

[6] Xem thêm bản án số 17/2012/DS-ST ngày 28/6/2012 về việc tranh chấp về quyền sở hữu tài sản của Tòa án nhân dân huyện DL, tỉnh LĐ.

[7] Thông tư liên tịch số 04/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 23/01/2014 hướng dẫn thực hiện trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ, quy định tại Điều 4. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong việc xem xét trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền của người lao động trong xử lý kỷ luật lao động

25/11/2015

Xử lý kỷ luật lao động (XLKLLĐ) là một chế định có vai trò quan trọng trong pháp luật về lao động với hậu quả pháp lý cao nhất là chấm dứt quan hệ lao động giữa các bên. Vì vậy, XLKLLĐ đúng pháp luật là mục tiêu của pháp luật về lao động luôn mong muốn các bên tham gia quan hệ lao động hướng tới. Tuy nhiên, nội hàm các quy định về XLKLLĐ hiện hành đang có những bất cập và hạn chế đối với người lao động – một bên yếu thế trong quan hệ lao động. Trong phạm vi bài viết này, tác giả sẽ trình bày một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về XLKLLĐ nhằm bảo đảm quyền của người lao động.

Áp dụng khiếu nại lao động hay yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động: Người bị kỷ luật “rối”

Ông A làm việc cho Công ty B có trụ sở tại quận 7, TP. Hồ Chí Minh với vị trí là quản lý nhà hàng từ năm 2012. Tháng 6/2015, ông A nhận được quyết định cách chức quản lý, chỉ làm việc ở vị trí nhân viên phục vụ nhà hàng. Ông A làm đơn khiếu nại quyết định của Công ty B và gửi đến Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận 7. Tuy nhiên, hòa giải viên lao động khuyên ông A nên làm lại đơn với tiêu đề và nội dung là đơn đề nghị hòa giải để giải quyết tranh chấp lao động cá nhân thông qua thủ tục hòa giải trước khi khởi kiện ra Tòa. Ông A rất băn khoăn và cảm thấy “rối” với lời khuyên này vì chỉ muốn khiếu nại để Công ty xem xét lại quyết định cách chức, chứ ông không có tranh chấp gì với Công ty, tại sao phải làm đơn đề nghị hòa giải. Vậy pháp luật hiện hành quy định như thế nào trong trường hợp này?

Theo quy định của Bộ luật Lao động hiện hành, cách chức là một trong ba hình thức XLKLLĐ[1]. Người bị XLKLLĐ nếu thấy không thỏa đáng có quyền khiếu nại với người sử dụng lao động, với cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động theo trình tự do pháp luật quy định[2]. Như vậy, tùy thuộc vào ý chí của mình, người lao động có thể lựa chọn quyền khiếu nại hoặc quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động với cơ quan có thẩm quyền.

Đối với quyền khiếu nại, đây là quyền yêu cầu người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại về lao động xem xét lại quyết định, hành vi về lao động của người sử dụng lao động khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó vi phạm pháp luật lao động, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình[3]. Để thực hiện quyền khiếu nại, người lao động phải chỉ ra được hai vấn đề: (1) Quyết định, hành vi về lao động của người sử dụng lao động vi phạm pháp luật lao động; (2) Quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại của người lao động được phân chia như sau: (i) Người sử dụng lao động có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định, hành vi của mình bị khiếu nại; (ii) Chánh Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, nơi người sử dụng lao động đặt trụ sở chính có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai đối với khiếu nại về lao động khi người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu hoặc đã hết thời hạn mà khiếu nại không được giải quyết[4].

Đối với quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động, đây là quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao động[5]. Điều kiện thực hiện quyền này là khi một trong hai bên có đơn yêu cầu do bên kia từ chối thương lượng, thương lượng nhưng không thành hoặc thương lượng thành nhưng một trong hai bên không thực hiện[6]. Pháp luật tôn trọng, bảo đảm quyền tự thương lượng của các bên, tôn trọng quyền và lợi ích của hai bên tranh chấp và khuyến khích hai bên trực tiếp thương lượng nhằm giải quyết hài hòa lợi ích của hai bên tranh chấp, ổn định sản xuất, kinh doanh, bảo đảm trật tự và an toàn xã hội[7]. Nói một cách khác, thương lượng được xem là vấn đề “xương sống” trong giải quyết tranh chấp lao động.

Bộ luật Lao động hiện hành định nghĩa kỷ luật lao động là những quy định về việc tuân theo thời gian, công nghệ và điều hành sản xuất, kinh doanh trong nội quy lao động[8]. Khi vi phạm các quy định này thì người lao động sẽ bị XLKLLĐ theo trình tự, thủ tục do luật định. Theo đó, người sử dụng lao động buộc phải chứng minh lỗi của người lao động và người lao động được quyền tự bào chữa cho mình[9]. Có thể nhận thấy không tồn tại yếu tố thương lượng khi XLKLLĐ. Bản chất của XLKLLĐ dựa trên việc xem xét, chứng minh yếu tố “lỗi” của người lao động, còn tranh chấp lao động xoay quanh vấn đề “thương lượng về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên”. Và nếu phải gặp nhau trong phiên hòa giải do hòa giải viên lao động tổ chức thì tỷ lệ khả năng hòa giải thành gần như bằng không, bởi điều cốt lõi ở đây là người sử dụng lao động sẽ không thể thương lượng với người lao động về yếu tố “lỗi” của người đó khi XLKLLĐ vì điều này ảnh hưởng đến trật tự tại nơi làm việc, quản lý, điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

Như vậy, thủ tục hòa giải khi áp dụng quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động trong XLKLLĐ sẽ chỉ còn là hình thức, là thủ tục buộc phải thực hiện do luật định, không có ý nghĩa đối với các bên tham gia hòa giải nói chung, người lao động nói riêng. Hơn nữa, hòa giải viên lao động chỉ hướng dẫn các bên tham gia hòa giải thương lượng hoặc đưa ra phương án hòa giải để các bên xem xét[10] chứ không có quyền đánh giá, cho ý kiến các khía cạnh pháp lý của quyết định XLKLLĐ. Kết cục ở phía trước dành cho người lao động là một quá trình tố tụng kéo dài mà không phải ai cũng đủ kiên nhẫn và thời gian theo đuổi để làm cho ra lẽ vấn đề XLKLLĐ. Rõ ràng là với thủ tục hòa giải trong XLKLLĐ mang đầy tính hình thức, quyền của người lao động đã không được bảo đảm trong giai đoạn này như mong muốn của nhà lập pháp.

Quyền khiếu nại và những “ngõ cụt” cho người lao động

Khi bị XLKLLĐ, nếu có căn cứ cho rằng quyết định XLKLLĐ của người sử dụng lao động là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người lao động thực hiện khiếu nại đến người giải quyết khiếu nại lần đầu[11]; hoặc khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền mà không cần phải trải qua thủ tục khiếu nại[12].

Việc khiếu nại có thể được thực hiện bằng hình thức gửi đơn khiếu nại hoặc khiếu nại trực tiếp. Theo đó, thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu dành cho người sử dụng lao động không quá 30 ngày hoặc 45 ngày đối với vụ việc phức tạp, kể từ ngày thụ lý. Người sử dụng lao động cần tiến hành kiểm tra, xác minh nội dung khiếu nại, gặp gỡ, đối thoại với người khiếu nại và ra quyết định giải quyết khiếu nại. Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu phải ghi rõ về quyền khiếu nại lần hai, quyền khởi kiện vụ án tại Tòa án.

Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì người khiếu nại được lựa chọn thực hiện một trong hai quyền sau đây: Thứ nhất, quyền khiếu nại đến Chánh Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, nơi người sử dụng lao động đặt trụ sở chính. Thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai không quá 45 ngày hoặc 60 ngày đối với vụ việc phức tạp, kể từ ngày thụ lý. Sau khi kiểm tra, xác minh nội dung khiếu nại, người giải quyết khiếu nại lần hai phải ra quyết định giải quyết khiếu nại lần hai. Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai phải ghi rõ về quyền khiếu nại theo quy định của Luật Khiếu nại, quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án. Thứ hai, quyền khởi kiện vụ án tại Tòa án: Người khiếu nại có quyền khởi kiện vụ án tại Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong trường hợp: (i) Không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu; hoặc (ii) Đã hết thời hạn quy định mà khiếu nại lần đầu không được giải quyết.

Nhìn vào các quy định trên, có vẻ như tồn tại nhiều cơ chế pháp lý bảo đảm quyền của người lao động, nhưng sự bất cập của hệ thống quy phạm pháp luật đã tạo nên những “ngõ cụt” cho người lao động, cụ thể:

– Không phải bất cứ trường hợp nào người lao động cũng được quyền khởi kiện ngay tại Tòa án có thẩm quyền. Bộ luật Lao động và Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành đều quy định người lao động chỉ có thể có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết khi bị XLKLLĐ theo hình thức sa thải. Đối với các hình thức XLKLLĐ khác, người lao động không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết nếu chưa thực hiện thủ tục hòa giải[13]. Lưu ý là, pháp luật bắt buộc người lao động phải thông qua thủ tục hòa giải do hòa giải viên lao động tổ chức chứ không phải thực hiện thủ tục khiếu nại đến người sử dụng lao động.

– Mặc dù pháp luật quy định quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu phải ghi rõ về quyền của người lao động được khởi kiện vụ án tại Tòa án, nhưng với quy định vừa nêu trên của Bộ luật Lao động và Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành, người lao động không có quyền khởi kiện quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của người sử dụng lao động. Tòa án sẽ không thụ lý mà buộc người lao động phải thực hiện bước “tiền tố tụng” là thủ tục hòa giải trước khi khởi kiện ra Tòa.

– Nếu khiếu nại quyết định giải quyết khiếu nại lần hai, pháp luật đã “đẩy” người lao động sang góc độ khiếu nại về một quyết định hành chính, không liên quan đến quan hệ lao động và vấn đề XLKLLĐ. Còn nếu muốn khởi kiện vụ án tại Tòa án đối với quyết định XLKLLĐ (không phải là quyết định sa thải), người lao động vẫn phải thực hiện thủ tục hòa giải trước khi khởi kiện.

Tóm lại, sau một khoảng thời gian dài, nếu không đồng ý với (các) quyết định giải quyết khiếu nại, hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại về quyết định XLKLLĐ (không phải là quyết định sa thải) không được giải quyết thì người lao động đã đi tới “ngõ cụt”, không còn con đường nào khác để được yêu cầu pháp luật bảo vệ quyền lợi của mình, trừ khi quay trở lại thực hiện thủ tục hòa giải – một thủ tục phải làm cho có và gần như không có ý nghĩa như đã phân tích ở mục trên, trước khi đi tới bước khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền. Đây cũng là một quan điểm lý giải vì sao hòa giải viên lao động quận 7, TP. Hồ Chí Minh khuyên ông A nên viết lại là đơn đề nghị hòa giải để giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, tránh gặp phải các thủ tục giải quyết khiếu nại rườm rà mà ít hiệu quả và không có giá trị nếu ông A không đồng ý với (các) quyết định giải quyết khiếu nại như ví dụ ban đầu đã nêu.

Sau 20 năm sửa đổi, quyền của người lao động “lùi” thêm một bước

Để XLKLLĐ người lao động, người sử dụng lao động phải tuân thủ đúng và đủ các trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Lao động. Ngay từ khi ban hành, Bộ luật Lao động năm 1994[14] đã có một chương riêng quy định về kỷ luật lao động và nhấn mạnh, khi xem xét XLKLLĐ phải có mặt đương sự và phải có sự tham gia của đại diện ban chấp hành công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp[15]. Thực tế đã nảy sinh nhiều vấn đề liên quan đến việc bắt buộc phải có mặt đương sự nói chung và người lao động nói riêng. Trong nhiều trường hợp, người sử dụng lao động không thể liên lạc hoặc gửi thông báo XLKLLĐ cho người lao động do không có các phương thức liên lạc hoặc không thể tìm được địa chỉ hoặc do chính người lao động cố tình né tránh, dẫn đến hậu quả người lao động không có mặt khi họp xem xét XLKLLĐ. Vì vậy, văn bản hướng dẫn dưới luật đã phải ghi nhận thực trạng này và hướng dẫn rằng, nếu người sử dụng lao động đã 3 lần thông báo bằng văn bản mà người lao động vẫn vắng mặt thì người sử dụng lao động có quyền xử lý kỷ luật và thông báo quyết định kỷ luật cho người lao động biết[16]. Có nghĩa là, pháp luật cho phép người sử dụng lao động được quyền xử lý kỷ luật vắng mặt người lao động – một quy định đầy bất lợi đối với quyền của người lao động, dẫu rằng, trong một chừng mực nhất định, đó là giải pháp pháp lý tình thế giải quyết những vướng mắc về XLKLLĐ tại thời điểm điều kiện kinh tế – xã hội kém phát triển, không có nhiều phương tiện liên lạc hữu hiệu và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật còn sơ khai.

Mặc dù, Bộ luật Lao động năm 1994 đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần nhưng các quy định về thủ tục XLKLLĐ này vẫn tồn tại gần 20 năm cho đến khi Bộ luật Lao động năm 2012 ra đời, có hiệu lực từ ngày 01/5/2013. Theo đó, không ghi chung chung là “đương sự” như Bộ luật Lao động năm 1994, Bộ luật Lao động năm 2012 khẳng định rõ ràng, việc XLKLLĐ phải bảo đảm nguyên tắc: Người lao động phải có mặt và có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa; trường hợp là người dưới 18 tuổi thì phải có sự tham gia của cha, mẹ hoặc người đại diện theo pháp luật[17]. Tuy nhiên, sau hai năm, một Nghị định hướng dẫn đã “xé bỏ” sự khẳng định đó của Bộ luật Lao động năm 2012, tiếp tục cho phép người sử dụng lao động được tiến hành cuộc họp XLKLLĐ vắng mặt người lao động trong trường hợp đã 03 lần thông báo bằng văn bản mà người lao động không có mặt[18]. Không những thế, Nghị định này còn quy định, sau khi người có thẩm quyền ra quyết định XLKLLĐ đối với người lao động, quyết định XLKLLĐ chỉ được gửi đến những người tham dự phiên họp XLKLLĐ[19], không buộc phải thông báo cho người lao động biết nếu vắng mặt. Do đó, nếu người lao động vắng mặt trong cuộc họp XLKLLĐ thì người lao động cũng không được quyền nhận quyết định XLKLLĐ, tức là người bị XLKLLĐ hoàn toàn không được biết những gì xảy ra liên quan trực tiếp đến quyền lợi của mình. Như vậy, ngoài việc Nghị định đó đưa ra những quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý “cao hơn” Bộ luật, thì những quy phạm pháp luật của Nghị định này còn thể hiện một “bước lùi” lớn trong tiến trình cải cách thể chế Nhà nước bảo đảm quyền con người nói chung, quyền của người lao động nói riêng.

Những kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Từ những phân tích trên, chúng tôi nhận thấy cần phải có những bước cải cách, hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm quyền của người lao động trong XLKLLĐ:

Một là, người lao động phải có mặt trong cuộc họp XLKLLĐ và có một trường hợp ngoại lệ

Khi XLKLLĐ, người sử dụng lao động buộc phải chứng minh lỗi của người lao động và người lao động được quyền tự bào chữa cho mình. Nếu như người lao động vắng mặt thì họ không còn được quyền tự bào chữa cho mình. Vì vậy, quy định về việc người lao động phải có mặt trong cuộc họp XLKLLĐ là điều bắt buộc để bảo đảm quyền của người lao động. Tuy nhiên, cũng để bảo đảm cho người sử dụng lao động không bị bế tắc, không thể XLKLLĐ khi người lao động cố tình trốn tránh, pháp luật về lao động cần sửa đổi theo hướng: (i) Phải có các quy định chi tiết về thủ tục gửi thông báo XLKLLĐ, bao gồm thời gian gửi, phương thức gửi…; (ii) Quy định trường hợp ngoại lệ duy nhất cho phép người sử dụng lao động được tiến hành cuộc họp XLKLLĐ vắng mặt người lao động trong trường hợp XLKLLĐ theo hình thức sa thải vì lý do người lao động tự ý bỏ việc 05 ngày cộng dồn trong 01 tháng hoặc 20 ngày cộng dồn trong 01 năm mà không có lý do chính đáng. Khi đó, sau khi hoàn thành các thủ tục gửi thông báo theo quy định của pháp luật mà người lao động vẫn cố tình trốn tránh thì người sử dụng lao động được tiến hành cuộc họp XLKLLĐ vắng mặt người lao động theo hình thức sa thải vì lý do người lao động tự ý bỏ việc.

Hai là, thủ tục khiếu nại cũng phải được xem là thủ tục “tiền tố tụng”, tương tự thủ tục hòa giải

Như đã phân tích, thủ tục hòa giải trong XLKLLĐ gần như không có ý nghĩa nên pháp luật về lao động và pháp luật về tố tụng cần sửa đổi theo hướng bổ sung thủ tục khiếu nại cũng là một thủ tục do người lao động lựa chọn trước khi muốn khởi kiện quyết định XLKLLĐ ra Tòa án có thẩm quyền. Điều này bảo đảm người lao động không bị mất thời gian thực hiện thêm thủ tục hòa giải, trong khi vẫn được quyền đề nghị người sử dụng lao động xem xét lại một lần nữa quyết định XLKLLĐ của mình theo thủ tục khiếu nại.

Ba là, người lao động được quyền khởi kiện quyết định XLKLLĐ tại Tòa án có thẩm quyền mà không nhất thiết phải thông qua thủ tục hòa giải hoặc thủ tục khiếu nại

Đối với các tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh trong quan hệ lao động, nhà làm luật mong muốn các bên thương lượng để bảo đảm lợi ích được hài hòa. Vì vậy, thủ tục hòa giải đối với tranh chấp lao động là điều cần thiết. Nhưng đối với XLKLLĐ, các bên đã gặp nhau, đối thoại, chứng minh lỗi và bào chữa trong cuộc họp XLKLLĐ. Do đó, nếu không muốn thực hiện thủ tục hòa giải hoặc thủ tục khiếu nại, người lao động cần được quyền khởi kiện quyết định XLKLLĐ tại Tòa án có thẩm quyền như là một trong các quyền mà người lao động có thể lựa chọn.

Bốn là, xây dựng thiết chế trọng tài lao động độc lập

Pháp luật hiện hành ghi nhận hai thiết chế về hòa giải tranh chấp lao động, gồm có hòa giải viên lao động và Hội đồng trọng tài lao động[20]. Theo đó, hòa giải viên lao động do cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp huyện cử để hòa giải tranh chấp lao động; còn Hội đồng trọng tài lao động được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập để tiến hành hòa giải một số tranh chấp lao động tập thể. Các thủ tục hòa giải do hai thiết chế này tiến hành đều là những thủ tục bắt buộc do luật định. Do vậy, nếu các bên tham gia vào quan hệ lao động mong muốn thực hiện thủ tục khác thì hai thiết chế hòa giải sẽ không thể tiến hành thực hiện. Trở lại ví dụ ban đầu, nếu ông A khiếu nại Công ty B. thì Công ty B giải quyết khiếu nại lần đầu, Chánh Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội giải quyết khiếu nại lần hai, hòa giải viên lao động hoàn toàn không tham gia trong suốt quá trình áp dụng thủ tục khiếu nại. Hơn nữa, nhiều vấn đề hàng ngày phát sinh trong mối quan hệ lao động, ví dụ như tranh chấp, mâu thuẫn, thương lượng các điều kiện lao động, an toàn vệ sinh lao động… mà không phải lúc nào các bên cũng đủ điều kiện để mời cơ quan chức năng giải quyết hoặc tham dự.

Chính vì vậy, để xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ lao động thông qua đối thoại, thương lượng, thỏa thuận theo nguyên tắc tự nguyện, thiện chí, bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau, Nhà nước cần xây dựng thiết chế trọng tài lao động độc lập nhằm phục vụ mục tiêu này. Trọng tài viên lao động là người có chứng chỉ hành nghề trọng tài, có sự am hiểu sâu sắc pháp luật lao động, có kiến thức, kinh nghiệm giải quyết tranh chấp lao động (cá nhân, tập thể), khiếu nại lao động… Thiết chế trọng tài lao động có thể tổ chức hoặc tham gia giải quyết khiếu nại lao động, hòa giải lao động hoặc mở phiên họp giải quyết tranh chấp lao động theo tố tụng trọng tài lao động… Khi sử dụng thiết chế trọng tài lao động, các bên tham gia quan hệ lao động được tạo điều kiện bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, được một cơ quan độc lập tổ chức giải quyết sự việc bất kỳ theo đề nghị của các bên vào bất cứ thời điểm nào.

ThS. Nguyễn Bình An

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội



[1] Điều 125 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định, hình thức xử lý kỷ luật lao động bao gồm: 1. Khiển trách; 2. Kéo dài thời hạn nâng lương không quá 06 tháng; cách chức; 3. Sa thải.

[2] Điều 132 Bộ luật Lao động năm 2012.

[3] Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 119/2014/NĐ-CP ngày 17/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Bộ luật Lao động, Luật Dạy nghề, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng về khiếu nại, tố cáo.

[4] Điều 15 Nghị định số 119/2014/NĐ-CP.

[5] Khoản 7 Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2012.

[6]Khoản 6 Điều 194 Bộ luật Lao động năm 2012.

[7] Khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 194 Bộ luật Lao động năm 2012.

[8] Điều 118 Bộ luật Lao động năm 2012.

[9] Khoản 1 Điều 123 Bộ luật Lao động năm 2012.

[10] Khoản 3 Điều 201 Bộ luật Lao động năm 2012.

[11] Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 119/2014/NĐ-CP.

[12] Đoạn thứ nhất của điểm a khoản 2 Điều 10 Nghị định số 119/2014/NĐ-CP.

[13] Điểm a khoản 1 Điều 201 Bộ luật Lao động năm 2012 và điểm a khoản 1 Điều 31 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011.

[14] Bộ luật Lao động năm 1994 được thông qua ngày 23/6/1994 và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/1995.

[15] Khoản 3 Điều 87 Bộ luật Lao động năm 1994.

[16] Điểm c khoản 1 Điều 11 Nghị định số 41/CP của Chính phủ ban hành ngày 06/7/1995 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất.

[17] Điểm c khoản 1 Điều 123 Bộ luật Lao động năm 2012.

[18] Khoản 2 Điều 30 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động, quy định: “Cuộc họp xử lý kỷ luật lao động được tiến hành khi có mặt đầy đủ các thành phần tham dự được thông báo theo quy định tại khoản 1 Điều này. Trường hợp người sử dụng lao động đã 03 lần thông báo bằng văn bản, mà một trong các thành phần tham dự không có mặt thì người sử dụng lao động tiến hành cuộc họp xử lý kỷ luật lao động, trừ trường hợp người lao động đang trong thời gian không được xử lý kỷ luật quy định tại khoản 4 Điều 123 của Bộ luật Lao động”.

[19] Khoản 5 Điều 30 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP.

[20] Ngoài ra, pháp luật còn ghi nhận một thiết chế khác là hòa giải viên thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở theo quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013. Tuy nhiên, thiết chế hòa giải viên này không được quyền thực hiện hoạt động hòa giải tranh chấp về lao động căn cứ theo quy định tại Điểm đ, Khoản 2, Điều 5, Nghị định số 15/2014/NĐ-CP ngày 27/02/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bàn về thẩm quyền đề nghị miễn thi hành án khoản tiền phạt theo Bộ luật Hình sự

22/01/2013

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, miễn, giảm mức hình phạt đã tuyên là sự thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội khi đáp ứng đầy đủ một số điều kiện nhất định.

Chính sách này của Nhà nước nhằm khuyến khích người bị kết án cải tạo tốt, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra. Việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự cũng không nằm ngoài ý nghĩa và mục đích nói trên. Tuy nhiên, đứng trên góc độ các quy định của pháp luật hiện nay liên quan đến việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự, còn nhiều vấn đề chưa rõ ràng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Xin nêu ra một số bất cập và phân tích để các đồng nghiệp cùng trao đổi.

Về thẩm quyền xem xét, quyết định miễn giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự đã được quy định rõ tại Điều 63 Luật Thi hành án dân sự năm 2008: “Việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Toà án quân sự khu vực (sau đây gọi chung là Toà án cấp huyện) nơi cơ quan thi hành án dân sự đang tổ chức việc thi hành án có trụ sở”.

Thẩm quyền xét miễn, giảm hình phạt tiền được quy định tại đoạn 3 khoản 1 Điều 269 Bộ luật Tố tụng hình sự: “… Việc giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành các hình phạt khác hoặc giảm thời gian thử thách thuộc thẩm quyền quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực nơi người bị kết án chấp hành hình phạt hoặc chịu thử thách”.

Về trình tự, thủ tục lập hồ sơ, đề nghị miễn giảm cũng đã được quy định tương đối rõ ràng từ Điều 61 đến Điều 64 Luật Thi hành án dân sự; Điều 26 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự. Cụ thể hơn nữa là Thông tư số 10/2010/TTLT-BTP-BTC-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 25/5/2010 của liên Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với các khoản thu nộp ngân sách nhà nước.

Theo quy định tại Điều 2 của Thông tư số 10 thì các khoản thuộc diện được xét miễn, giảm thi hành án bao gồm:

“1. Phần tiền phạt còn lại quy định tại khoản 2 Điều 58 Bộ luật Hình sự.

2. Phần tiền phạt còn lại quy định tại khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự.

3. Các khoản truy thu tiền, tài sản thu lời bất chính, án phí, tịch thu sung quỹ nhà nước và các khoản tiền phạt khác được xác định trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án”.

Trong quy định trên, chúng ta thấy có sự phân biệt giữa khoản tiền phạt được xác định trong bản án và khoản tiền phạt còn lại theo quy định của Bộ luật Hình sự. Điều này có ý nghĩa và mục đích như thế nào, xin phân tích thêm như sau: Theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Hình sự, hình phạt bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung: “1. Hình phạt chính bao gồm: a) Cảnh cáo; b) Phạt tiền… 2. Hình phạt bổ sung bao gồm: … đ) Tịch thu tài sản; e) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính…”. Như vậy, có thể thấy rằng, phạt tiền trong bản án, quyết định về hình sự có thể được áp dụng với vai trò là hình phạt chính và cũng có thể được áp dụng là hình phạt bổ sung. Xuất phát từ việc hình phạt tiền được áp dụng với vai trò nào sẽ dẫn đến sự khác nhau về thẩm quyền đề nghị xét miễn, giảm. Xung quanh vấn đề này, theo chúng tôi, cần làm rõ quy định của một số điều luật có liên quan để thực hiện việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án một cách chính xác, tránh tình trạng các cơ quan có liên quan né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, dẫn đến việc người bị kết án có thể không được hưởng chính sách khoan hồng của Nhà nước chính từ việc làm của các cơ quan công quyền.

Tại Điều 4 Thông tư số 10 quy định về thẩm quyền đề nghị xét miễn, giảm thi hành án như sau:

“1. Trong quá trình tổ chức thi hành án, nếu xét thấy người phải thi hành án có các điều kiện quy định tại Điều 61 Luật Thi hành án dân sự; khoản 2 Điều 58, khoản 3 Điều 76 của Bộ luật Hình sự thì chấp hành viên được giao thi hành vụ việc tiến hành xác minh, lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm thi hành án và báo cáo thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có văn bản đề nghị Toà án có thẩm quyền xét miễn, giảm thi hành án.

Trường hợp, người phải thi hành án có đơn đề nghị xét miễn, giảm thi hành án, thì trong thời hạn mười ngày kể từ ngày nhận được đơn, chấp hành viên được giao thi hành vụ việc phải xác minh, nếu đủ điều kiện để xét miễn, giảm thì lập hồ sơ xét miễn, giảm thi hành án theo quy định. Trường hợp chưa đủ điều kiện xét miễn, giảm thi hành án thì trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn phải thông báo bằng văn bản cho người có đơn đề nghị xét miễn, giảm thi hành án biết.

2. Đối với phần tiền phạt còn lại quy định tại khoản 2 Điều 58 Bộ luật Hình sự; khoản tiền phạt quy định tại khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự, căn cứ hồ sơ thi hành án do cơ quan thi hành án dân sự cung cấp, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp huyện nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc đề nghị Toà án cùng cấp xét miễn, giảm thi hành án…”.

Khoản 2 Điều 58 Bộ luật Hình sự quy định: “…2. Người bị kết án phạt tiền đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục chấp hành được phần hình phạt còn lại hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Toà án có thể quyết định miễn việc chấp hành phần tiền phạt còn lại…”.

Khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự quy định: “…3. Người chưa thành niên bị phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Toà án có thể quyết định giảm hoặc miễn việc chấp hành phần tiền phạt còn lại…”.

Hai quy định nêu trên của Bộ luật Hình sự bản chất cùng quy định về điều kiện để được xét miễn chấp hành hình phạt tiền còn lại, chỉ khác nhau ở đối tượng áp dụng. Nội dung bài viết không đi vào phân tích đối tượng được xét miễn, giảm là người đã thành niên hay chưa thành niên, mà chỉ tập trung làm rõ về thẩm quyền đề nghị miễn, giảm đối với người phải thi hành án khi có đủ các điều kiện đã nêu trong nội dung khoản 2 Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Trên thực tế, có các quan điểm liên quan đến thẩm quyền đề nghị xét miễn, giảm thi hành khoản tiền phạt khác nhau như sau:

Quan điểm thứ nhất, Viện kiểm sát nhân dân chỉ có văn bản đề nghị Toà án nhân dân nơi người bị kết án đang chấp hành hình phạt (tiền) vụ việc xét miễn thi hành đối với khoản tiền phạt còn lại khi hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính trong bản án, quyết định. Nếu trường hợp hình phạt tiền là hình phạt bổ sung, thì cơ quan thi hành án căn cứ tại đoạn 1 khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch số 10 để làm văn bản trực tiếp đề nghị Toà án nhân dân nơi cơ quan thi hành án dân sự đang tổ chức thi hành vụ việc có trụ sở xét miễn.

Quan điểm thứ hai, việc đề nghị miễn thi hành khoản tiền phạt còn lại khi có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 58 và khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự là thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân không phụ thuộc vào việc hình phạt tiền đó là hình phạt chính hay hình phạt bổ sung. Và đối với khoản tiền phạt, cơ quan thi hành án dân sự chỉ có thẩm quyền đề nghị Toà án nhân dân xét miễn, giảm theo quy định của Luật Thi hành án dân sự (khi có các căn cứ tại Điều 61) chứ không được đề nghị xét miễn, giảm theo các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 58, khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự.

Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ nhất, bởi những lý do như sau:

Một là, theo khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch số 10, thì ngoài các điều kiện quy định tại Điều 61 Luật Thi hành án dân sự thì khi có căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 58, khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự, thì thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền đề nghị Toà án nhân dân xét miễn, giảm phần còn lại theo báo cáo đề xuất của chấp hành viên được phân công tổ chức thi hành vụ việc.

Hai là, mặc dù tại khoản 2 Điều 58 và khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự chỉ sử dụng cụm từ “người bị kết án phạt tiền” mà không phân biệt hoặc có hướng dẫn thực hiện rằng khoản tiền phạt đó phải là hình phạt chính, nhưng phân tích một cách có logic nội dung các điều luật nói trên có thể thấy rằng, việc quy định cứng thẩm quyền đề nghị xét miễn, giảm trong trường hợp này thuộc về Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân là hoàn toàn có cơ sở để xác định đó phải là hình phạt chính. Vì trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ về kiểm sát việc thi hành án hình sự, hàng năm, Viện kiểm sát phải tiến hành phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành rà soát, đề nghị xem xét miễn, giảm chấp hành hình phạt đối với những đối tượng có đủ điều kiện. Và chỉ khi hình phạt tiền là hình phạt chính thì Viện kiểm sát mới có thể đề nghị Toà án xem xét miễn, giảm cũng giống như đề nghị miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, giảm thời gian thử thách theo thủ tục tố tụng hình sự. Đây chính là tinh thần quy định tại khoản 2 Điều 58 và khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự. Trong trường hợp hình phạt tiền là hình phạt bổ sung, thì Viện kiểm sát nhân dân có thể yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự đang tổ chức thi hành vụ việc phải lập hồ sơ và trực tiếp đề nghị Toà án nhân dân xét miễn, giảm theo quy định của Luật Thi hành án dân sự và Thông tư liên tịch số 10.

Trong thực tế, việc miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù hoặc giảm thời gian thử thách được thực hiện thường xuyên, một năm ít nhất là 3 lần vào các dịp lễ, tết. Thủ tục và trình tự được hướng dẫn kỹ, nên khi thực hiện không có gì vướng mắc. Đối với các hình phạt bổ sung mà cụ thể là hình phạt tiền (khi không áp dụng là hình phạt chính) thì lại không có hướng dẫn cụ thể. Bằng phép suy diễn mới có thể hiểu rằng, nếu khoản tiền phạt là hình phạt bổ sung và chưa đáp ứng đủ điều kiện để được xét miễn theo quy định tại Điều 61 Luật Thi hành án dân sự, thì phải áp dụng Luật Thi hành án dân sự và Thông tư liên tịch số 10 đồng thời kèm theo điều kiện “đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục chấp hành được phần hình phạt còn lại hoặc lập công lớn”, thì mới có thể được xét miễn toàn bộ nghĩa vụ còn lại. Còn nếu phạt tiền là hình phạt chính trong bản án, quyết định thì chỉ cần có đủ điều kiện quy định duy nhất tại nội dung khoản 2 Điều 58 và khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự là người phải thi hành án đã có thể được xét miễn toàn bộ nghĩa vụ còn lại theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân.

Trước đây, tại Thông tư liên ngành số 05/TT-LN ngày 26/12/1986 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ hướng dẫn về giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành hình phạt và chấm dứt thời hạn chấp hành biện pháp tư pháp có hướng dẫn về miễn hoặc giảm thời hạn chấp hành hình phạt bổ sung theo Bộ luật Hình sự năm 1985 như sau:

– Giảm thời hạn chấp hành hình phạt bổ sung (Điều 50): Người đang chấp hành hình phạt cư trú hoặc quản chế nếu có đủ 2 điều kiện sau đây thì được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại:

+ Đã chấp hành được 1/2 thời hạn hình phạt. Thời hạn chấp hành hình phạt quản chế tính từ ngày người bị kết án trình diện với chính quyền cơ sở là đã chấp hành xong hình phạt tù. Thời hạn chấp hành hình phạt cấm cư trú tính từ ngày người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt tù.

+ Đã có nhiều tiến bộ thể hiện ở việc tích cực lao động, học tập và nghiêm chỉnh chấp hành các chính sách và pháp luật các quy định về cấm cư trú hoặc quản chế.

– Giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt (Điều 51): Theo khoản 1 Điều 51, đối với người bị kết án có lý do đáng được khoan hồng thêm thì có thể được xét giảm sớm hơn hoặc mức cao hơn so với thời gian và mức quy định ở Điều 49 và Điều 50,lý do đáng được khoan hồng thêm là:

+ Người bị kết án đã lập công như tố cáo giúp trại cải tạo hoặc cơ quan điều tra phát hiện tội phạm; có sáng kiến hoặc cải tiến kỹ thuật có giá trị trong sản xuất; cứu được tính mạng của người khác trong tình thế hiểm nghèo; cứu được tài sản của Nhà nước, của tập thể hoặc của công dân khi có bão lụt, hỏa hoạn v.v…

+ Người bị kết án đã quá già yếu hoặc đang mắc bệnh hiểm nghèo. Người quá già yếu là người đã 70 tuổi trở lên hoặc trên 60 tuổi mà thường xuyên ốm yếu. Mắc bệnh hiểm nghèo nghĩa là mắc một trong những bệnh nguy hiểm đến tính mạng như lao nặng, ung thư, bại liệt…

Bộ luật Hình sự quy định thời hạn sớm hơn và mức cao hơn không đáng kể so với thời hạn quy định ở Điều 49 và Điều 50. Tuy nhiên, ít nhất thì người bị kết án cũng phải đã chấp hành được 1/4 thời hạn của hình phạt; các hình phạt được miễn chấp hành bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung.

Đến nay, đối chiếu quy định tại các Điều 49, 50 và 51 Bộ luật Hình sự năm 1985 và các Điều 57, 58, 59 Bộ luật Hình sự năm 2000, sửa đổi năm 2009, về cơ bản không có gì thay đổi, bởi vì: Điều 49 chuyển thành Điều 58; Điều 50 được chuyển thành khoản 5 Điều 57; khoản 2 Điều 51 chuyển thành Điều 57, khoản 1 chuyển thành Điều 59, khoản 3 chuyển thành khoản 4 Điều 58.

Tuy nhiên, đến nay Thông tư liên ngành số 05/TT-LN ngày 26/12/1986 đã hết hiệu lực pháp luật. Do đó, không thể áp dụng tinh thần Thông tư này để cho rằng, khoản tiền phạt được xét miễn theo khoản 2 Điều 58 và khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự bao gồm cả tiền phạt là hình phạt chính và tiền phạt là hình phạt bổ sung.

Như vậy, có thể thấy rằng, hiện nay trong hệ thống các quy định của pháp luật còn nhiều quy định gây khó khăn về cách hiểu, cách thực hiện. Trong quy định về thẩm quyền đề nghị xét miễn, giảm ở trên gây ra tình trạng giữa cơ quan thi hành án dân sự và Viện kiểm sát nhân dân không thống nhất quan điểm trong việc cơ quan nào có thẩm quyền đề nghị Toà án nhân dân xét miễn đối với khoản tiền phạt còn lại khi có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 58, khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự. Để hiểu một cách đúng đắn và áp dụng thống nhất đòi hỏi phải phân tích, đánh giá và đặt trong mối quan hệ với các quy định pháp luật khác. Tuy nhiên, để thực hiện không phải là điều dễ dàng. Qua bài viết này, chúng tôi mong muốn góp phần làm rõ quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền đề nghị xét miễn thi hành đối với khoản tiền phạt còn lại để các cơ quan thi hành án dân sự và Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình thực hiện tránh được những cách hiểu khác nhau, gây ảnh hưởng đến quyền của người bị kết án hoặc người phải thi hành án khi có đủ điều kiện để được hưởng sự khoan hồng của Nhà nước.

Lương Thanh Tùng

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bất cập trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo Bộ luật Tố tụng dân sự

22/01/2013

Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung một số điều được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/3/2011, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2012.

Bộ luật này đã góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; giáo dục mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng dân sự vẫn còn một số bất cập nhất định trong việc quy định các biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Thứ nhất: Theo quy định tại khoản 3 Điều 117 Bộ luật Tố tụng dân sự thì: “Đối với trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều 99 của Bộ luật này thì sau khi nhận được đơn yêu cầu cùng với đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo, Chánh án Toà án chỉ định ngay một thẩm phán thụ lý giải quyết đơn yêu cầu. Trong thời hạn 48 giờ kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu, thẩm phán phải xem xét và ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; nếu không chấp nhận yêu cầu, thì thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết”. Như vậy, trong thời hạn 48 giờ để thẩm phán xem xét quyết định có áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hay không, có lẽ là quá dài. Đặc biệt là đối với các yêu cầu về việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp như: Kê biên tài sản đang tranh chấp; cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp; cấm mua bán, tặng cho, trao đổi tài sản; phong toả tài khoản. Sự chậm trễ trong việc ra quyết định áp dụng các biện pháp tạo điều kiện cho đương sự tẩu tán tài sản, lẫn tránh nghĩa vụ thi hành án, đồng nghĩa với việc bản án chỉ có hiệu lực trên giấy, mà không có hiệu lực trong thực tế, vì bị đơn dân sự không còn tài sản để thi hành án.

Mặt khác, khoản 3 Điều 117 Bộ luật Tố tụng dân sự không quy định rõ ràng là trong trường hợp thực sự khẩn cấp Toà án có thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời vào các ngày lễ hoặc ngày nghỉ hay không? Như vậy, về mặt chủ quan hay khách quan, thì đương sự vẫn có điều kiện về mặt thời gian để tẩu tán tài sản, vì theo luật công chứng và theo quy định của một số tổ chức tín dụng, không nhất thiết phải ngừng hoạt động vào những ngày nghỉ lễ.

Thứ hai: Theo quy định tại khoản 1 Điều 120 Bộ luật Tố tụng dân sự thì: “Người yêu cầu Toà án áp dụng một trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 6, 7, 8, 10 và 11 Điều 102 của Bộ luật này phải gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Toà án ấn định nhưng phải tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện để bảo vệ lợi ích của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và ngăn ngừa sự lạm dụng quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có quyền yêu cầu…”.

Theo chúng tôi, vấn đề này không đúng với thực tế, gây khó khăn cho người yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Để làm sáng tỏ sự bất cập của điều luật, chúng tôi xin đưa ra ví dụ như sau:

Bà Nguyễn Thị Hương cho ông Quách Thành Sơn vay số tiền 2.000.000.000 đồng (hai tỷ đồng) không có lãi suất, do ông Sơn không trả cho bà Hương đúng thời gian quy định trong hợp đồng, nên bà Hương khởi kiện ông Sơn theo thủ tục dân sự và đã được Tòa án thụ lý giải quyết. Trong quá trình giải quyết, ông Sơn đã treo bảng bán nhà (là tài sản duy nhất). Do vậy, bà Hương đã có đơn đề nghị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để đảm bảo cho việc thi hành án. Tòa đã xem xét, định giá ngôi nhà của ông Sơn khoảng 3.000.000.000 đồng (ba tỷ đồng). Do vậy, Tòa án đề nghị bà Hương phải nộp 3.000.000.000 đồng (ba tỷ đồng) vào ngân hàng để Tòa mới có cơ sở ra quyết định khẩn cấp tạm thời không cho ông Sơn trao đổi, mua bán, chuyển nhượng đối với ngôi nhà nói trên dưới bất kỳ hình thức nào, nhưng trong thực tế, sau khi cho ông Sơn vay 2.000.000.0000 đồng (hai tỷ đồng), thì bà Hương không còn khoản tiền nào khác. Do vậy, bà Hương không thực hiện được yêu cầu của Tòa án. Kết quả là ông Sơn đã bán ngôi nhà là tài sản duy nhất nhằm tẩu tán tài sản trước khi Tòa án có bản án.

Trên đây, là một số ý kiến từ việc nghiên cứu các quy định về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Bộ luật Tố tụng dân sự, thiết nghĩ, các cơ quan chức năng cần sớm có những nghiên cứu, hướng dẫn cụ thể để các quy định về buộc thực hiện biện pháp bảo đảm khi vận dụng trong thực tiễn có thể đảm bảo được sự công bằng và quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.

Nguyễn Trọng Tài

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Câu hỏi được gửi từ khách hàng: Bố mất sức lao động, mẹ ung thư có được hoãn nghĩa vụ quân sự?

Xin chào các anh, em thuộc gia đình có hoàn cảnh khó khăn, bố em bị tai nạn lao động cách đây 8 năm, giờ mất sức lao động, chỉ làm được những việc nhẹ ở nhà, còn mẹ em thì bị ung thư, tuy chưa nguy hiểm nhưng cũng phải điều trị rất tốn kém, em hiện là lao động chính trong nhà, lương em ngoài việc để trang trải sinh hoạt gia đình còn để lo cho em trai đi học cấp 2, vậy em có được hoãn nghĩa vụ quân sự không, xã em đang thiếu chỉ tiêu nên họ cứ bắt em đi và không cho hoãn.


Bố mất sức lao động, mẹ ung thư có được hoãn nghĩa vụ quân sự?
Bố mất sức lao động, mẹ ung thư có được hoãn nghĩa vụ quân sự?

Luật sư Tư vấn Bố mất sức lao động, mẹ ung thư có được hoãn nghĩa vụ quân sự .– Gọi 1900.0191

1./Thời điểm xảy ra tình huống pháp lý

Ngày 6 tháng 12 năm 2017

2./Cơ sở văn bản Pháp Luật áp dụng

Luật nghĩa vụ quân sự năm 2015

3./Luật sư trả lời

 Khoản 1 Điều 41 Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015 quy định về các trường hợp Tạm hoãn gọi nhập ngũ như sau:

“1.Tạm hoãn gọi nhập ngũ đối với những công dân sau đây:

a) Chưa đủ sức khỏe phục vụ tại ngũ theo kết luận của Hội đồng khám sức khỏe;

b) Là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi dưỡng thân nhân không còn khả năng lao động hoặc chưa đến tuổi lao động; trong gia đình bị thiệt hại nặng về người và tài sản do tai nạn, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm gây ra được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận;

c) Một con của bệnh binh, người nhiễm chất độc da cam suy giảm khả năng lao động từ 61% đến 80%;

d) Có anh, chị hoặc em ruột là hạ sĩ quan, binh sĩ đang phục vụ tại ngũ; hạ sĩ quan, chiến sĩ thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân;

đ) Người thuộc diện di dân, giãn dân trong 03 năm đầu đến các xã đặc biệt khó khăn theo dự án phát triển kinh tế – xã hội của Nhà nước do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trở lên quyết định;

e) Cán bộ, công chức, viên chức, thanh niên xung phong được điều động đến công tác, làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật;

g) Đang học tại cơ sở giáo dục phổ thông; đang được đào tạo trình độ đại học hệ chính quy thuộc cơ sở giáo dục đại học, trình độ cao đẳng hệ chính quy thuộc cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong thời gian một khóa đào tạo của một trình độ đào tạo.”

Như vậyCăn cứ quy định nêu trên, trong trường hợp bố mất sức lao động và mẹ bị ung thư, bạn trở thành lao động duy nhất trong nhà, bạn sẽ thuộc trường hợp:” b) Là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi dưỡng thân nhân không còn khả năng lao động hoặc chưa đến tuổi lao động; trong gia đình bị thiệt hại nặng về người và tài sản do tai nạn, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm gây ra được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận;”

Việc xem xét giải quyết tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ quân sự dựa vào đơn đề nghị của người làm đơn có xác nhận của UNBN phường/xã nơi cư trú.

Thủ tục yêu cầu tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ quân sự:

+ Chuẩn bị Hồ sơ yêu cầu tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ quân sự bao gồm: Bản chính đơn xin tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời bình; Giấy tờ chứng minh đối tượng được tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời bình.

+ Sau đó nộp tại UBND cấp xã để giải quyết.

Với những tư vấn trên, Công ty Luật LVN mong rằng đã giải đáp được nhu cầu của quý khách, nếu quý khách vẫn còn chưa rõ hoặc có thông tin mới với trường hợp này, quý khách có thể liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật Miễn phí số: 1900.0191 để được Luật sư hỗ trợ ngay lập tức.

Bài liên quan:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Câu hỏi được gửi từ khách hàng: Ly hôn với người nước ngoài không có mặt ở Việt Nam có được không?

Tôi kết hôn năm 2009 với một người đàn ông Trung Quốc, đến năm 2012 chúng tôi có 1 con chung là cháu trai và đến năm 2016 chúng tôi lại có thêm 1 cháu trai nữa, đến đầu năm 2017 thì chồng tôi quay trở lại Trung quốc với ly do có chuyện gia đình cần giải quyết, được 4 tháng không thấy chồng quay lại tôi có điện sang hỏi thăm thì được biết tin anh ta về để kết hôn với 1 người phụ nữ Trung quốc, tôi không thể chấp nhận được cuộc hôn nhân như thế này nữa nên giờ muốn ly hôn, nhưng anh ta không đồng ý về việt nam để giải quyết thủ tục buông tha cho tôi, vậy tôi phải làm thế nào?


Ly hôn với người nước ngoài không có mặt ở Việt Nam có được không
Ly hôn với người nước ngoài không có mặt ở Việt Nam có được không

Luật sư Tư vấn Ly hôn với người nước ngoài không có mặt ở việt nam có được không – Gọi 1900.0191

1./ Thời điểm xảy ra tình huống pháp lý

Ngày 1 tháng 12 năm 2017

2./ Cơ sở văn bản Pháp Luật áp dụng

  • Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
  • Luật hôn nhân gia đình năm 2014;
  • Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ Luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự;
  • Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình.

3./ Luật sư trả lời

       Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Căn cứ theo quy định pháp luật về hôn nhân và gia đình, Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Trong trường hợp ly hôn có yếu tố nước ngoài, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:

Điều 127. Ly hôn có yếu tố nước ngoài

1. Việc ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam theo quy định của Luật này.

2. Trong trường hợp bên là công dân Việt Nam không thường trú ở Việt Nam vào thời điểm yêu cầu ly hôn thì việc ly hôn được giải quyết theo pháp luật của nước nơi thường trú chung của vợ chồng; nếu họ không có nơi thường trú chung thì giải quyết theo pháp luật Việt Nam.

3. Việc giải quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó.”

     Như vậy, căn cứ vào quy định nêu trên, trong trường hợp công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, người nước ngoài không cư trú sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, thì công dân Việt Nam có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam giải quyết việc ly hôn theo quy định pháp luật Việt Nam.

     Căn cứ Điều 469, Điều 28, Điều 35, Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Thẩm quyền giải quyết ly hôn trong trường hợp nêu trên thuộc về Tòa án nhân dân cấp huyện và công dân Việt Nam có quyền yêu cầu Tòa án nhân dân cấp huyện nơi mình cư trú để giải quyết ly hôn.

     Căn cứ Khoản 1 Điều 7 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP, trường hợp đương sự là người nước ngoài không còn cư trú sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam tại thời điểm Tòa án thụ lý vụ án thì được xác định là Đương sự ở nước ngoài. Khi đó, việc tiến hành tố tụng được thực hiện đối với đương sự ở nước ngoài như sau:

      Căn cứ Điều 473 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Người khởi kiện, người yêu cầu phải ghi đầy đủ họ, tên, địa chỉ, quốc tịch của đương sự ở nước ngoài trong đơn khởi kiện, đơn yêu cầu kèm theo giấy tờ, tài liệu xác thực họ, tên, địa chỉ, quốc tịch của đương sự đó.Trường hợp không ghi đầy đủ họ, tên, địa chỉ, quốc tịch của đương sự ở nước ngoài hoặc thiếu những nội dung trên thì phải bổ sung trong thời hạn do Tòa án ấn định, hết thời hạn đó mà không cung cấp được thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu.

 Trường hợp không xác định được địa chỉ của đương sự ở nước ngoài thì người khởi kiện, người yêu cầu có thể yêu cầu Tòa án Việt Nam đề nghị cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài xác định địa chỉ của đương sự hoặc có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú hoặc yêu cầu Tòa án Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài tuyên bố đương sự mất tích hoặc đã chết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc pháp luật nước ngoài hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Trường hợp cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài trả lời cho Tòa án Việt Nam không xác định được địa chỉ của đương sự ở nước ngoài hoặc sau 06 tháng mà không có trả lời thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu.

  • Trường hợp xác định được nơi cư trú, địa chỉ của đương sự ở nước ngoài, việc tiến hành tố tụng được giải quyết như sau:

 Tòa án thực hiện việc tống đạt, thông báo văn bản tố tụng của Tòa án theo một trong các phương thức sau đây:

– Theo phương thức được quy định tại điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;

– Theo đường ngoại giao đối với đương sự cư trú ở nước mà nước đó và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa cùng là thành viên của điều ước quốc tế;

– Theo đường dịch vụ bưu chính đến địa chỉ của đương sự đang cư trú ở nước ngoài với điều kiện pháp luật nước đó đồng ý với phương thức tống đạt này;

 Trường hợp các phương thức tống đạt thực hiện không có kết quả thì Tòa án tiến hành niêm yết công khai tại trụ sở cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, Tòa án đang giải quyết vụ việc hoặc tại nơi cư trú cuối cùng của đương sự tại Việt Nam trong thời hạn 01 tháng và thông báo trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có), Cổng thông tin điện tử của cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài; trường hợp cần thiết, Tòa án có thể thông báo qua kênh dành cho người nước ngoài của Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình của trung ương ba lần trong 03 ngày liên tiếp.

Bên cạnh đó, việc tiến hành tố tụng được thực hiện theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 như sau:

Điều 476. Thông báo về việc thụ lý, ngày mở phiên họp, phiên tòa

1. Tòa án phải gửi thông báo thụ lý vụ án, trong đó nêu rõ thời gian, địa điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải (sau đây gọi chung là phiên họp hòa giải), mở lại phiên họp hòa giải, mở phiên tòa và mở lại phiên tòa trong văn bản thông báo thụ lý vụ án cho đương sự ở nước ngoài.

2. Thời hạn mở phiên tòa, phiên họp hòa giải được xác định như sau:

a) Phiên họp hòa giải phải được mở sớm nhất là 06 tháng và chậm nhất là 08 tháng, kể từ ngày ra văn bản thông báo thụ lý vụ án. Ngày mở lại phiên họp hòa giải (nếu có) được ấn định cách ngày mở phiên họp hòa giải chậm nhất là 01 tháng;

b) Phiên tòa phải được mở sớm nhất là 09 tháng và chậm nhất là 12 tháng, kể từ ngày ra văn bản thông báo thụ lý vụ án. Ngày mở lại phiên tòa (nếu có) được ấn định cách ngày mở phiên tòa chậm nhất là 01 tháng, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 477 của Bộ luật này.

3. Tòa án phải gửi thông báo thụ lý việc dân sự, trong đó nêu rõ thời gian, địa điểm mở phiên họp, mở lại phiên họp giải quyết việc dân sự trong văn bản thông báo thụ lý việc dân sự cho đương sự ở nước ngoài.

Phiên họp phải được mở sớm nhất là 06 tháng và chậm nhất là 08 tháng, kể từ ngày ra văn bản thông báo thụ lý việc dân sự. Ngày mở lại phiên họp giải quyết việc dân sự (nếu có) được ấn định cách ngày mở phiên họp lần đầu chậm nhất là 01 tháng.

Điều 477. Xử lý kết quả tống đạt văn bản tố tụng của Tòa án cho đương sự ở nước ngoài và kết quả yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thu thập chứng cứ

Khi nhận được kết quả tống đạt và kết quả thu thập chứng cứ ở nước ngoài, tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án xử lý như sau:

1. Không mở phiên họp hòa giải khi đã nhận được kết quả tống đạt theo một trong các phương thức quy định tại khoản 1 Điều 474 của Bộ luật này, đương sự đã cung cấp đầy đủ lời khai, tài liệu, chứng cứ và vụ án dân sự thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 207 của Bộ luật này;

2. Hoãn phiên họp hòa giải nếu đã nhận được thông báo về việc tống đạt đã hoàn thành nhưng đến ngày mở phiên họp hòa giải mà Tòa án vẫn không nhận được lời khai, tài liệu, chứng cứ của đương sự và họ không đề nghị được vắng mặt tại phiên họp hòa giải. Nếu đến ngày mở lại phiên họp hòa giải mà đương sự ở nước ngoài vẫn vắng mặt thì Tòa án xác định đây là trường hợp không tiến hành hòa giải được;

3. Tòa án hoãn phiên tòa trong các trường hợp sau đây:

a) Đương sự ở nước ngoài đề nghị hoãn phiên tòa lần thứ nhất;

b) Đương sự ở nước ngoài vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất, trừ trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt;

4. Tòa án không nhận được văn bản thông báo về kết quả tống đạt cũng như lời khai, tài liệu, chứng cứ của đương sự ở nước ngoài và đến ngày mở phiên tòa đương sự ở nước ngoài không có mặt, không có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt họ thì Tòa án hoãn phiên tòa. Ngay sau khi hoãn phiên tòa thì Tòa án có văn bản đề nghị Bộ Tư pháp hoặc cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài thông báo về việc thực hiện tống đạt văn bản tố tụng của Tòa án cho đương sự ở nước ngoài trong trường hợp Tòa án thực hiện việc tống đạt thông qua các cơ quan này theo một trong các phương thức quy định tại các điểm a, b và d khoản 1 Điều 474 của Bộ luật này.

Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được văn bản của Tòa án, cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài phải thông báo cho Tòa án về kết quả thực hiện việc tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự ở nước ngoài.

Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày Bộ Tư pháp nhận được văn bản của Tòa án, Bộ Tư pháp phải có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài trả lời về kết quả thực hiện ủy thác tư pháp.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản của cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài gửi về thì Bộ Tư pháp phải trả lời cho Tòa án.

Hết thời hạn 03 tháng, kể từ ngày chuyển văn bản của Tòa án cho cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài mà không nhận được văn bản trả lời thì Bộ Tư pháp phải thông báo cho Tòa án biết để làm căn cứ giải quyết vụ án;

5. Tòa án xét xử vắng mặt đương sự ở nước ngoài trong các trường hợp sau đây:

a) Tòa án đã nhận được kết quả tống đạt theo một trong các phương thức tống đạt quy định tại khoản 1 Điều 474 của Bộ luật này, đương sự đã cung cấp đầy đủ lời khai, tài liệu, chứng cứ và đương sự đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt họ;

b) Tòa án đã thực hiện các biện pháp quy định tại khoản 3 Điều 474 của Bộ luật này;

c) Tòa án không nhận được thông báo của cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại khoản 4 Điều này về kết quả thực hiện việc tống đạt cho đương sự ở nước ngoài.

6. Nếu Tòa án nhận được văn bản thông báo về việc tống đạt không thực hiện được do họ, tên, địa chỉ của đương sự không đúng hoặc đương sự đã chuyển đến địa chỉ mới nhưng không rõ địa chỉ mới thì Tòa án giải quyết như sau:

a) Tòa án yêu cầu nguyên đơn và người thân thích trong nước của đương sự ở nước ngoài (nếu có) cung cấp địa chỉ đúng hoặc địa chỉ mới của đương sự ở nước ngoài. Tòa án tiếp tục tống đạt thông báo thụ lý cho đương sự ở nước ngoài theo địa chỉ do nguyên đơn, người thân thích trong nước của đương sự ở nước ngoài cung cấp;

b) Nếu nguyên đơn, người thân thích trong nước của đương sự không cung cấp được hoặc người thân thích trong nước của đương sự từ chối cung cấp địa chỉ đúng hoặc địa chỉ mới của đương sự ở nước ngoài hoặc đương sự ở nước ngoài không có người thân thích ở Việt Nam thì Tòa án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án. Đồng thời, Tòa án giải thích cho người khởi kiện biết quyền yêu cầu Tòa án thông báo tìm kiếm đương sự vắng mặt tại nơi cư trú hoặc yêu cầu Tòa án tuyên bố đương sự mất tích hoặc đã chết;

c) Trường hợp nguyên đơn là công dân Việt Nam yêu cầu ly hôn với người nước ngoài đang cư trú ở nước ngoài mà không thể thực hiện việc cung cấp đúng họ, tên, địa chỉ hoặc địa chỉ mới của người nước ngoài theo yêu cầu của Tòa án mặc dù nguyên đơn, thân nhân của họ hoặc cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc của nước ngoài đã tiến hành xác minh tin tức, địa chỉ của người nước ngoài đó nhưng không có kết quả thì nguyên đơn yêu cầu Tòa án thông báo trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có), Cổng thông tin điện tử của cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài; trường hợp cần thiết, theo yêu cầu của nguyên đơn, Tòa án có thể thông báo qua kênh dành cho người nước ngoài của Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình của trung ương ba lần trong 03 ngày liên tiếp.

Trong trường hợp này, Tòa án không phải tống đạt lại văn bản tố tụng cho đương sự ở nước ngoài. Hết thời hạn 01 tháng, kể từ ngày đăng thông báo, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đương sự.

  • Trường hợp người nước ngoài bỏ về nước không thực hiện nghĩa vụ vợ chồng theo quy định, thời gian không có tin tức cho vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam từ một năm trở lên mà đương sự, thân nhân của họ và các cơ quan có thẩm quyền (cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở nước họ, các cơ quan có thẩm quyền mà người đó là công dân), sau khi đã điều tra xác minh địa chỉ của họ theo thủ tục xuất nhập cảnh, địa chỉ mà họ khai khi đăng ký kết hôn theo giấy đăng ký kết hôn… nhưng cũng không biết tin tức, địa chỉ của họ thì giải quyết ly hôn như sau:

Căn cứ Khoản 2.4 mục 2 Phần II Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP quy định về trường hợp công dân Việt Nam ly hôn với người nước ngoài không còn cư trú ở Việt Nam như sau:

2.4. Đối với trường hợp công dân Việt Nam ở trong nước xin ly hôn với người nước ngoài đang cư trú ở nước ngoài

Công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, nhưng người nước ngoài đã về nước mà không còn liên hệ với công dân Việt Nam, nay công dân Việt Nam xin ly hôn, thì Toà án thụ lý giải quyết.

Theo quy định tại Điều 18 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì vợ chồng có nghĩa vụ chăm sóc giúp đỡ nhau, cùng xây dựng gia đình hạnh phúc; do đó, nếu người nước ngoài bỏ về nước không thực hiện nghĩa vụ vợ chồng theo quy định, thời gian không có tin tức cho vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam từ một năm trở lên mà đương sự, thân nhân của họ và các cơ quan có thẩm quyền (cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở nước họ, các cơ quan có thẩm quyền mà người đó là công dân), sau khi đã điều tra xác minh địa chỉ của họ theo thủ tục xuất nhập cảnh, địa chỉ mà họ khai khi đăng ký kết hôn theo giấy đăng ký kết hôn… nhưng cũng không biết tin tức, địa chỉ của họ, thì được coi là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ và xử cho ly hôn.”

Với những tư vấn trên, Công ty Luật LVN mong rằng đã giải đáp được nhu cầu của quý khách, nếu quý khách vẫn còn chưa rõ hoặc có thông tin mới với trường hợp này, quý khách có thể liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật Miễn phí số: 1900.0191 để được Luật sư hỗ trợ ngay lập tức.

Bài liên quan:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Luật sư Tư vấn Luật Đất đai – Gọi 1900.0191


Câu hỏi được gửi từ khách hàng: Lập Đơn đề nghị ủy ban xuống lập biên bản về tranh chấp đất đai

Em hơi nhứt đầu về cái đơn đề nghị ủy ban xuống để lập biên bản về tranh chấp đất hiện tòa đã thụ lý… Các bác ơi mình viết đơn giản nhưng dễ hiểu được không. Chứ làm theo mẫu trên mạng thì mình lún túng quá. Học vấn lớp 3 thôi nên khó khăn về viết với trình tự đơn. Mọi người giúp em với !

Luật sư tư vấn:

Mẫu Đơn đề nghị ủy ban xuống lập biên bản về tranh chấp đất đai bạn có thể tham khảo nội dung các nội dung sau, trên cơ sở thực tế trường hợp, hoàn cảnh của mình, bạn có thể thêm các nội dung sao cho phù hợp, cụ thể:

Đơn đề nghị ủy ban xuống lập biên bản về tranh chấp đất đai:

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

—————–o0o—————–

                                                                                  ……, ngày… tháng… năm…

                                   

ĐƠN ĐỀ NGHỊ

  (V/v yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai)

Căn cứ Luật Đất đai 2013;

Kính gửi: Ông/bà:                                            – Chủ tịch  Ủy ban nhân dân xã (phường, thị trấn)…..

Tôi là:…………

Sinh năm:………

CMND số:……..   Ngày cấp:…….

Nơi cấp:………..

Hộ khẩu thường trú:……..

Chỗ ở hiện tại:……….

Địa điểm khu đất tranh chấp: (ghi rõ số nhà, đường, khối (xóm, làng, ấp), xã (phường, thị trấn, huyện):…………………………

Thuộc tờ bản đồ số:……, thửa đất số:……., diện tích đất tranh chấp:….m2

Tôi xin trình bày với quý Ông/ bà về  tranh chấp đất đai giữa gia đình tôi và ông(bà):………………………….

Địa chỉ tại:……………

Tóm tắt nội dung vụ việc:

………………………………………

Đến nay, các bên không thể thương lượng, hòa giải được với nhau để giải quyết vụ việc tranh chấp đất đai nêu trên.

Dựa vào Điều 202, Điều 203 Luật Đất đau 2013 nên tôi đề nghị :

–  Lập tổ hòa giải của UBND xã …………. tổ chức hòa giải tranh chấp đất giữa gia đình tôi với gia đình ông/ bà ……….. địa chỉ tại…………….để giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp nêu trên.

– Thực hiện đo đạc lại ranh giới thửa đất để xác định quyền sử dụng của các bên.

– Gia đình tôi được tiếp tục sử dụng thửa đất để …………

– ………………………….

Kính mong Ông/bà xem xét, chấp thuận và sớm tiến hành hòa giải theo đề nghị nêu trên.

Tôi xin trân trọng cảm ơn !

Tài liệu gửi kèm: 

– Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

-………….

Người viết đơn

Bài liên quan:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Vợ không hợp tác và không thể triệu tập thì có thể ly hôn được không
Vợ không hợp tác và không thể triệu tập thì có thể ly hôn được không

Câu hỏi được gửi từ khách hàng:

Tôi kết hôn năm 2014, tuy nhiên vợ tôi có dấu hiệu thần kinh không bình thường. Sau khi đẻ con, mới được 3 tháng cô ta đã bỏ nhà đi đâu không ai biết. Tới nay có thông tin cô ta đã vào Sài Gòn và chung sống với người đàn ông khác, tôi muốn ly hôn để con tôi được hạnh phúc và không muốn nhìn mặt cô ta nữa nhưng khi nộp lên tòa, tòa lại bảo rằng không thể liên lạc và yêu cầu cô ta về trình diện được, tôi xin hỏi như vậy thì có phải tôi không thể ly hôn cô ta không, xin được giúp đỡ!

Luật sư Tư vấn Vợ không hợp tác và không thể triệu tập thì có thể ly hôn được không. – Gọi 1900.0191

Công ty Luật LVN

Xin cảm ơn quý khách đã tin tưởng và gửi thắc mắc đến Công ty Luật LVN. Đối với câu hỏi này, dựa trên những thông tin mà khách hàng cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ghi nhận tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các văn bản thỏa thuận được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam. Chúng tôi đưa ra trả lời như sau:

1./ Thời điểm xảy ra tình huống pháp lý

Ngày 22 tháng 01 năm 2018

2./ Cơ sở văn bản Pháp Luật áp dụng

Bộ luật Dân sự 2015;

Luật Hôn nhân và Gia đình 2014;

Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.

3./ Luật sư trả lời

Khi cảm thấy mục đích hôn nhân không đạt được nữa và vợ chồng không còn cảm thấy hạnh phúc trong hôn nhân thì một bên hoặc các bên có thể làm thủ tục ly hôn theo hai cách: thuận tình ly hôn hoặc ly hôn theo yêu cầu của một bên.

Như bạn trình bày thì bạn là người đang muốn đơn phương ly hôn với vợ của mình thì theo Điều 56 luật Hôn nhân và Gia đình 2014, ly hôn theo yêu cầu của một bên được quy định như sau:

Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên

  1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
  2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
  3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.

Theo quy định ở trên thì thủ tục hòa giải tại Tòa là một bước bắt buộc trong thủ tục ly hôn theo yêu cầu của một bên trừ 2 trường hợp được quy định tại Khoản 2 và 3 Điều 56 luật Hôn nhân và Gia đình 2014. Do vậy, Tòa án buộc phải liên lạc và yêu cầu vợ của bạn trình diện tại Tòa. Tuy nhiên, trong trường hợp Tòa án không liên lạc và yêu cầu vợ của bạn trình diện tại Tòa được thì bạn nên tự mình tìm cách liên hệ với vợ và nếu liên hệ thành công thì gửi thông tin cho Tòa án để Tòa liên lạc lại và gửi giấy triệu tập vợ bạn để giải quyết việc ly hôn. Trong trường hợp vợ bạn tham gia phiên tòa thì thủ tục ly hôn được diễn ra bình thường.

Trong trường hợp vợ bạn không tham gia phiên tòa thì Theo Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự dưới đây, nếu Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà vợ bạn hoặc người đại diện của vợ bạn không có mặt và không có đề nghị xét xử vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa. Khi tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vợ bạn hoặc người đại diện của vợ bạn vẫn không có mặt thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt. (Trường hợp có đề nghị xét xử vắng mặt thì Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt.)

Điều 227. Sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

  1. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa; nếu có người vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Tòa án phải thông báo cho đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về việc hoãn phiên tòa.

  1. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa, trừ trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; nếu vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì Tòa án có thể hoãn phiên tòa, nếu không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì xử lý như sau:

a) Nguyên đơn vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Nguyên đơn có quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật;

b) Bị đơn không có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ;

c) Bị đơn có yêu cầu phản tố vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu phản tố và Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố, trừ trường hợp bị đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu phản tố đó theo quy định của pháp luật;

d) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập và Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu độc lập của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu độc lập đó theo quy định của pháp luật;

đ) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.

Khi bạn đã tự mình liên hệ nhưng không  thể liên hệ được và cũng không có được bất cứ thông tin gì về vợ bạn thì sau thời gian 2 năm kể từ ngày biết được tin tức cuối cùng của vợ mình, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật nhưng bạn vẫn không có tin tức xác thực về việc vợ bạn còn sống hay đã chết thì bạn có thể gửi đơn yêu cầu tuyên bố vợ mình mất tích kèm các tài liệu, chứng cứ để chứng minh người bị yêu cầu tuyên bố mất tích đã biệt tích 02 năm liền trở lên mà không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hoặc đã chết và chứng minh cho việc mình đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo tìm kiếm lên Tòa án nhân dân cấp huyện để bắt đầu thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích.

Sau khi có quyết định tuyên bố vợ mình mất tích thì bạn có thể tiến hành thủ tục ly hôn theo yêu cầu của một bên dựa vào Điều 56.2 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.

 

Trên đây là tư vấn của Công ty Luật LVN đối với trường hợp của quý khách. Nếu còn vướng mắc hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác quý khách vui lòng liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật qua điện thoại miễn phí số: 1900.0191 để được giải đáp nhanh nhất.

Sự hài lòng của quý khách là nỗ lực của chúng tôi!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Cho thuê xe ô tô cá nhân và việc làm thủ tục bên thuế hàng tháng
Cho thuê xe ô tô cá nhân và việc làm thủ tục bên thuế hàng tháng

Câu hỏi được gửi từ khách hàng:

Tôi có một ô tô con loại 4 chỗ và một ô tô loại 7 chỗ, do không dùng đến nên muốn cho 1 công ty thuê lại để kinh doanh, công ty đó yêu cầu tôi phải xuất hóa đơn hàng tháng cho họ để họ có thể kê khai với nhà nước, vậy theo pháp luật hiện hành tôi sẽ phải làm những thủ tục gì, cụ thể như thế nào?

Luật sư Tư vấn Cho thuê xe ô tô cá nhân và việc làm thủ tục bên thuế hàng tháng – Gọi 1900.0191

Công ty Luật LVN

Xin cảm ơn quý khách đã tin tưởng và gửi thắc mắc đến Công ty Luật LVN. Đối với câu hỏi này, dựa trên những thông tin mà khách hàng cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ghi nhận tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các văn bản thỏa thuận được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam. Chúng tôi đưa ra trả lời như sau:

1./ Thời điểm xảy ra tình huống pháp lý

Ngày 18 tháng 1 năm 2017

2./ Cơ sở văn bản Pháp Luật áp dụng

Thông tư 39/2014/TT-BTC Thông tư hướng dẫn thi hành Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2010 và Nghị định số 04/2014/NĐ-CP ngày 17 tháng 01 năm 2014 của Chính phủ quy định về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.

3./ Luật sư trả lời

Đối với các tổ chức không phải là doanh nghiệp, hộ và cá nhân không kinh doanh nhưng có phát sinh hoạt động bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cần phải kê khai nộp thuế Giá trị gia tăng mà cần có hóa đơn để giao cho khách hàng thì Cơ quan thuế là cơ quan cấp hóa đơn cho các cá nhân, tổ chức này.

Hóa đơn do cơ quan thuế cấp trong trường hợp này được gọi là hóa đơn lẻ (hóa đơn do cơ quan thuế cấp theo từng số tương ứng với đề nghị của tổ chức, hộ và cá nhân không kinh doanh).

Cơ quan cấp hóa đơn lẻ cho việc bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được xác định theo Điều 13.3 Thông tư 39/TT/BTC như sau:

– Đối với tổ chức: Cơ quan thuế quản lý địa bàn nơi tổ chức đăng ký mã số thuế hoặc nơi tổ chức đóng trụ sở hoặc nơi được ghi trong quyết định thành lập.

– Đối với hộ và cá nhân không kinh doanh: Cơ quan thuế quản lý địa bàn nơi cấp mã số thuế hoặc nơi đăng ký hộ khẩu thường trú trên sổ hộ khẩu hoặc giấy chứng minh nhân dân (hoặc hộ chiếu) còn hiệu lực hoặc nơi cư trú do hộ, cá nhân tự kê khai (không cần có xác nhận của chính quyền nơi cư trú).

Trường hợp tổ chức, hộ và cá nhân không kinh doanh có bất động sản cho thuê thì cơ quan thuế quản lý địa bàn có bất động sản thực hiện cấp hóa đơn lẻ.

Do đó, trong trường hợp của bạn thì bạn phải đến cơ quan thuế quản lý địa bàn nơi cấp mã số thuế (nếu bạn đã làm thủ tục đăng ký mã số thuế) hoặc nơi đăng ký hộ khẩu thường trú trên sổ hộ khẩu hoặc giấy chứng minh nhân dân (hoặc hộ chiếu) còn hiệu lực hoặc nơi cư trú tự kê khai để đề nghị cấp hóa đơn lẻ.

Trình tự thủ tục xin cấp hóa đơn lẻ như sau:

Bước 1: Tổ chức, hộ, cá nhân có nhu cầu sử dụng hóa đơn lẻ nộp đơn đề nghị cấp hóa đơn lẻ cùng các chứng từ mua bán kèm theo (chứng từ mua bán kèm theo trong trường hợp của bạn có thể là: hợp đồng thuê xe; giấy chứng nhận đăng ký xe, biển số xe; bảo hiểm xe; chứng minh thư nhân dân của chủ sở hữu xe…) đến cơ quan có thẩm quyền cấp hóa đơn lẻ (mẫu đơn đề nghị xem tại phụ lục 3 văn bản ban hành kèm theo Thông tư 39/2014/TT-BTC).

Bước 2: Căn cứ đơn đề nghị cấp hóa đơn lẻ và các chứng từ mua bán kèm theo, cơ quan thuế có trách nhiệm hướng dẫn người nộp thuế xác định số thuế phải nộp theo quy định của pháp luật về thuế. (Riêng trường hợp được cấp hóa đơn giá trị gia tăng lẻ thì số thuế giá trị gia tăng phải nộp là số thuế giá trị gia tăng ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng cấp lẻ)

Bước 3: Người đề nghi cấp hóa đơn lẻ lập hóa đơn đủ 3 liên tại cơ quan thuế và nộp thuế đầy đủ trước khi nhận hóa đơn lẻ.

Bước 4: Cơ quan thuế đóng dấu vào phía bên trái của liên 1, liên 2 và giao cho người đề nghị cấp hóa đơn, liên 3 lưu tại cơ quan thuế.

Sau khi thực hiện xong thủ tục xin cấp hóa đơn lẻ và nhận được liên 1 và liên 2 thì bạn sẽ cần giao liên 2 cho bên thuê xe và lưu lại liên 1.

Trên đây là tư vấn của Công ty Luật LVN đối với trường hợp của quý khách. Nếu còn vướng mắc hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác quý khách vui lòng liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật qua điện thoại miễn phí số: 1900.0191 để được giải đáp nhanh nhất.

Sự hài lòng của quý khách là nỗ lực của chúng tôi!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Xây nhà cấp 4 ở khu tái định cư có cần xin giấy phép xây dựng
Xây nhà cấp 4 ở khu tái định cư có cần xin giấy phép xây dựng

Câu hỏi được gửi từ khách hàng: Xây nhà cấp 4 ở khu tái định cư có cần xin giấy phép xây dựng

Luật sư Tư vấn Xây nhà cấp 4 ở khu tái định cư có cần xin giấy phép xây dựng – Gọi 1900.0191

Công ty Luật LVN

Xin cảm ơn quý khách đã tin tưởng và gửi thắc mắc đến Công ty Luật LVN. Đối với câu hỏi này, dựa trên những thông tin mà khách hàng cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ghi nhận tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các văn bản thỏa thuận được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam. Chúng tôi đưa ra trả lời như sau:

1./ Thời điểm xảy ra tình huống pháp lý

Ngày 15 tháng 12 năm 2017

2./ Cơ sở văn bản Pháp Luật áp dụng

– Luật Nhà ở số 65/2014/QH13;

– Luật Xây dựng số 50/2014/QH13;

– Thông tư 15/2016/TT-BXD Thông tư hướng dẫn về cấp giấy phép xây dựng.

3./ Luật sư trả lời

Dựa theo Điều 36 Luật Nhà ở 2014 về các hình thức bố trí nhà ở để phục vụ tái định cư thì hộ gia đình, cá nhân khi được Nhà nước giao đất ở hoàn toàn có quyền tự xây dựng nhà ở theo quy hoạch được phê duyệt.

Căn cứ vào Khoản 2 Điều 89 Luật Xây dựng quy định các trường hợp được miễn cấp giấy phép xây dựng:

“2. Công trình được miễn giấy phép xây dựng gồm:

a) Công trình bí mật nhà nước, công trình xây dựng theo lệnh khẩn cấp và công trình nằm trên địa bàn của hai đơn vị hành chính cấp tỉnh trở lên;

b) Công trình thuộc dự án đầu tư xây dựng được Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp quyết định đầu tư;

c) Công trình xây dựng tạm phục vụ thi công xây dựng công trình chính;

d) Công trình xây dựng theo tuyến ngoài đô thị nhưng phù hợp với quy hoạch xây dựng đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt hoặc đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận về hướng tuyến công trình;

đ) Công trình xây dựng thuộc dự án khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao có quy hoạch chi tiết 1/500 đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và được thẩm định thiết kế xây dựng theo quy định của Luật này;

e) Nhà ở thuộc dự án phát triển đô thị, dự án phát triển nhà ở có quy mô dưới 7 tầng và tổng diện tích sàn dưới 500 m2 có quy hoạch chi tiết 1/500 đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt;

g) Công trình sửa chữa, cải tạo, lắp đặt thiết bị bên trong công trình không làm thay đổi kết cấu chịu lực, không làm thay đổi công năng sử dụng, không làm ảnh hưởng tới môi trường, an toàn công trình;

h) Công trình sửa chữa, cải tạo làm thay đổi kiến trúc mặt ngoài không tiếp giáp với đường trong đô thị có yêu cầu về quản lý kiến trúc;

i) Công trình hạ tầng kỹ thuật ở nông thôn chỉ yêu cầu lập Báo cáo kinh tế – kỹ thuật đầu tư xây dựng và ở khu vực chưa có quy hoạch chi tiết xây dựng điểm dân cư nông thôn được duyệt;

k) Công trình xây dựng ở nông thôn thuộc khu vực chưa có quy hoạch phát triển đô thị và quy hoạch chi tiết xây dựng được duyệt; nhà ở riêng lẻ ở nông thôn, trừ nhà ở riêng lẻ xây dựng trong khu bảo tồn, khu di tích lịch sử – văn hóa;

l) Chủ đầu tư xây dựng công trình được miễn giấy phép xây dựng theo quy định tại các điểm b, d, đ và điểm i khoản này có trách nhiệm thông báo thời điểm khởi công xây dựng kèm theo hồ sơ thiết kế xây dựng đến cơ quan quản lý xây dựng tại địa phương để theo dõi, lưu hồ sơ.”

Theo đó, trường hợp bạn xây dựng nhà ở riêng lẻ ở nông thôn, trừ nhà ở riêng lẻ xây dựng trong khu bảo tồn, khu di tích lịch sử – văn hóa hoặc bạn xây dựng nhà ở thuộc dự án phát triển đô thị, dự án phát triển nhà ở có quy mô dưới 7 tầng và tổng diện tích sàn dưới 500 m2 có quy hoạch chi tiết 1/500 đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt thì sẽ không cần phải xin giấy phép xây dựng. Ngoài các trường hợp này, bạn sẽ phải thực hiện xin cấp giấy phép xây dựng.

Nếu nhà ở của bạn thuộc trường hợp phải xin cấp giấy phép xây dựng thì bạn có thể tham khảo các hướng dẫn dưới đây về quy trình, thủ tục xin cấp giấy phép xây dựng.

Hồ sơ xin cấp giấy phép xây dựng

Hồ sơ xin cấp giấy phép xây dựng quy định tại Điều 11 Thông tư 15/2016/TT-BXD như sau:

Điều 11. Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng đối với nhà ở riêng lẻ

1. Đơn đề nghị cấp giấy phép xây dựng theo mẫu tại Phụ lục số 1 Thông tư này.

2. Bản sao hoặc tệp tin chứa bản chụp chính một trong những giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.

3. Bản sao hoặc tệp tin chứa bản chụp chính hai bộ bản vẽ thiết kế kỹ thuật hoặc thiết kế bản vẽ thi công được phê duyệt theo quy định của pháp luật về xây dựng, mỗi bộ gồm:

a) Bản vẽ mặt bằng công trình trên lô đất tỷ lệ 1/50 – 1/500 kèm theo sơ đồ vị trí công trình;

b) Bản vẽ mặt bằng các tầng, các mặt đứng và mặt cắt chính của công trình tỷ lệ 1/50 – 1/200;

c) Bản vẽ mặt bằng móng tỷ lệ 1/50 – 1/200 và mặt cắt móng tỷ lệ 1/50 kèm theo sơ đồ đấu nối hệ thống thoát nước mưa, xử lý nước thải, cấp nước, cấp điện, thông tin tỷ lệ 1/50 – 1/200.

Trường hợp thiết kế xây dựng của công trình đã được cơ quan chuyên môn về xây dựng thm định, các bản vẽ thiết kế quy định tại Khoản này là bản sao hoặc tệp tin chứa bản chụp các bản vẽ thiết kế xây dựng đã được cơ quan chuyên môn về xây dựng thẩm định.

4. Đối với công trình xây chen có tầng hầm, ngoài các tài liệu quy định tại Khoản 1, 2, 3 Điều này, hồ sơ còn phải bổ sung bản sao hoặc tệp tin chứa bản chụp chính văn bản chấp thuận biện pháp thi công móng của chủ đầu tư đảm bảo an toàn cho công trình và công trình lân cận.

5. Đối với công trình xây dựng có công trình liền kề phải có bản cam kết của chủ đầu tư bảo đảm an toàn đối với công trình liền kề.

Thủ tục xin cấp giấy phép xây dựng

Thủ tục quy định tại Điều 102 Luật Xây dựng 2014:

Điều 102. Quy trình cấp, cấp lại, điều chỉnh và gia hạn giấy phép xây dựng

1. Quy trình cấp giấy phép xây dựng và điều chỉnh giấy phép xây dựng được quy định như sau:

a) Chủ đầu tư nộp 02 bộ hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng, điều chỉnh giấy phép xây dựng cho cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng;

b) Cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ của tổ chức, cá nhân đề nghị cấp, điều chỉnh giấy phép xây dựng; kiểm tra hồ sơ; ghi giấy biên nhận đối với trường hợp hồ sơ đáp ứng theo quy định hoặc hướng dẫn để chủ đầu tư hoàn thiện hồ sơ đối với trường hợp hồ sơ không đáp ứng theo quy định;

c) Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng phải tổ chức thẩm định hồ sơ, kiểm tra thực địa. Khi thẩm định hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền phải xác định tài liệu còn thiếu, tài liệu không đúng theo quy định hoặc không đúng với thực tế để thông báo một lần bằng văn bản cho chủ đầu tư bổ sung, hoàn chỉnh hồ sơ. Trường hợp hồ sơ bổ sung chưa đáp ứng được yêu cầu theo văn bản thông báo thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm thông báo bằng văn bản hướng dẫn cho chủ đầu tư tiếp tục hoàn thiện hồ sơ. Chủ đầu tư có trách nhiệm bổ sung, hoàn thiện hồ sơ theo văn bản thông báo. Trường hợp việc bổ sung hồ sơ vẫn không đáp ứng được các nội dung theo thông báo thì trong thời hạn 03 ngày làm việc, cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm thông báo đến chủ đầu tư về lý do không cấp giấy phép;

d) Căn cứ quy mô, tính chất, loại công trình và địa điểm xây dựng công trình có trong hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng, cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng có trách nhiệm đối chiếu các điều kiện theo quy định tại Luật này để gửi văn bản lấy ý kiến của các cơ quan quản lý nhà nước về những lĩnh vực liên quan đến công trình xây dựng theo quy định của pháp luật;

đ) Trong thời gian 12 ngày đối với công trình và nhà ở riêng lẻ kể từ ngày nhận được hồ sơ, các cơ quan quản lý nhà nước được hỏi ý kiến có trách nhiệm trả lời bằng văn bản về những nội dung thuộc chức năng quản lý của mình. Sau thời hạn trên, nếu các cơ quan này không có ý kiến thì được coi là đã đồng ý và phải chịu trách nhiệm về những nội dung thuộc chức năng quản lý của mình; cơ quan cấp giấy phép xây dựng căn cứ các quy định hiện hành để quyết định việc cấp giấy phép xây dựng;

e) Kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng phải xem xét hồ sơ để cấp giấy phép trong thời gian 30 ngày đối với trường hợp cấp giấy phép xây dựng, bao gồm cả giấy phép xây dựng có thời hạn, giấy phép xây dựng điều chỉnh, giấy phép di dời và trong thời gian 15 ngày đối với nhà ở riêng lẻ. Trường hợp đến thời hạn cấp giấy phép nhưng cần phải xem xét thêm thì cơ quan cấp giấy phép xây dựng phải thông báo bằng văn bản cho chủ đầu tư biết lý do, đồng thời báo cáo cấp có thẩm quyền quản lý trực tiếp xem xét và chỉ đạo thực hiện, nhưng không được quá 10 ngày kể từ ngày hết hạn theo quy định tại khoản này.

3. Việc nhận kết quả, nộp lệ phí cấp giấy phép xây dựng được quy định như sau:

a) Chủ đầu tư nhận giấy phép xây dựng kèm theo hồ sơ thiết kế trình xin cấp giấy phép xây dựng có đóng dấu của cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng tại nơi tiếp nhận hồ sơ theo thời hạn ghi trong giấy biên nhận;

b) Chủ đầu tư có trách nhiệm nộp lệ phí theo quy định khi nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng.

4. Trường hợp hồ sơ không đủ điều kiện để cấp giấy phép xây dựng trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, cơ quan có thẩm quyền cấp phép xây dựng phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho chủ đầu tư biết. Nếu quá thời hạn ghi trong giấy biên nhận mà cơ quan có thẩm quyền không trả lời thì chủ đầu tư được phép xây dựng công trình theo hồ sơ thiết kế đã được thẩm định, phê duyệt theo quy định có trong hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng.

5. Chính phủ quy định chi tiết về hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng, điều chỉnh, gia hạn, cấp lại, thu hồi giấy phép xây dựng đối với từng loại giấy phép xây dựng, từng loại công trình.

6. Bộ trưởng Bộ Xây dựng quy định chi tiết mẫu đơn đề nghị, bản vẽ thiết kế trong hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng.”

Trên đây là tư vấn của Công ty Luật LVN đối với trường hợp của quý khách. Nếu còn vướng mắc hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác quý khách vui lòng liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật qua điện thoại miễn phí số: 1900.0191 để được giải đáp nhanh nhất.

Sự hài lòng của quý khách là nỗ lực của chúng tôi!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Câu hỏi: Làm gì để được tạm hoãn nghĩa vụ quân sự

Em là con trai duy nhất trong gia đình sinh năm 1993, hiện bố em đã 67 tuổi, mẹ em thì đã mất, vậy em có được tạm hoãn nghĩa vụ quân sự không và cần làm thủ tục gì để được tạm hoãn.

Làm gì để được tạm hoãn nghĩa vụ quân sự
Làm gì để được tạm hoãn nghĩa vụ quân sự

Luật sư Tư vấn Làm gì để được tạm hoãn nghĩa vụ quân sự – Gọi 1900.0191

Công ty Luật LVN

Xin cảm ơn quý khách đã tin tưởng và gửi thắc mắc đề nghị được tư vấn luật đến Công ty Luật LVN. Để thuận tiện cho việc quý khách có thể theo dõi cũng như xem lại nội dung tư vấn của chúng tôi, bộ phận Tư vấn pháp luật đã biên tập lại nội dung thành các Ấn bản thông tin pháp luật miễn phí và đăng tải trên website: wikiluat.com và luatlvn.com.

Đối với câu hỏi này, dựa trên những thông tin mà khách hàng cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ghi nhận tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các văn bản thỏa thuận được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam. Chúng tôi đưa ra trả lời như sau:

1. Thời điểm sự kiện pháp lý

Ngày 27 tháng 07 năm 2017

2. Cơ sở pháp lý

Luật nghĩa vụ quân sự năm 2015

3. Luật sư trả lời

Luật nghĩa vụ quân sự 2015 có quy định các trường hợp tạm hoãn nghĩa vụ quân sự như sau:

“Điều 41. Tạm hoãn gọi nhập ngũ và miễn gọi nhập ngũ

1. Tạm hoãn gọi nhập ngũ đối với những công dân sau đây:

a) Chưa đủ sức khỏe phục vụ tại ngũ theo kết luận của Hội đồng khám sức khỏe;

b) Là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi dưỡng thân nhân không còn khả năng lao động hoặc chưa đến tuổi lao động; trong gia đình bị thiệt hại nặng về người và tài sản do tai nạn, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm gây ra được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận;

c) Một con của bệnh binh, người nhiễm chất độc da cam suy giảm khả năng lao động từ 61% đến 80%;

d) Có anh, chị hoặc em ruột là hạ sĩ quan, binh sĩ đang phục vụ tại ngũ; hạ sĩ quan, chiến sĩ thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân;

đ) Người thuộc diện di dân, giãn dân trong 03 năm đầu đến các xã đặc biệt khó khăn theo dự án phát triển kinh tế – xã hội của Nhà nước do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trở lên quyết định;

e) Cán bộ, công chức, viên chức, thanh niên xung phong được điều động đến công tác, làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật;

g) Đang học tại cơ sở giáo dục phổ thông; đang được đào tạo trình độ đại học hệ chính quy thuộc cơ sở giáo dục đại học, trình độ cao đẳng hệ chính quy thuộc cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong thời gian một khóa đào tạo của một trình độ đào tạo.”

Bạn đã có giấy gọi nhập ngũ tuy nhiên xét thấy bạn là “lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi dưỡng thân nhân không còn khả năng lao động hoặc chưa đến tuổi lao động” theo điểm b khoản 1 điều 41, gia đình bạn hiện tại chỉ có bạn và bà chung sống nên bạn được xác định là lao động duy nhất, vậy bạn được tạm hoãn nghĩa vụ quân sự.

Bạn cần có đơn xin tạm hoãn và được sự xác nhận của UBND cấp xã nơi bạn cư trú và gửi lên ban chỉ huy quân sự.

Việc xem xét giải quyết tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ quân sự dựa vào đơn đề nghị của người làm đơn có xác nhận của UNBN phường/xã nơi cư trú.

Thủ tục yêu cầu tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ quân sự:

+ Chuẩn bị Hồ sơ yêu cầu tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ quân sự bao gồm:

i) Bản chính đơn xin tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời bình

ii) Giấy tờ chứng minh đối tượng được tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời bình

+ Sau đó nộp tại UBND cấp xã để giải quyết.

Trường hợp Hội đồng nghĩa vụ quân sự địa phương không giải quyết thì dì bạn có quyền tiếp tục gửi đơn khiếu nại đến Hội đồng nghãi vụ quân sự quận/huyện để xem xét giải quyết.

      Trên đây là tư vấn của Công ty Luật LVN đối với trường hợp của quý khách. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác quý khách vui lòng liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật qua điện thoại miễn phí số: 1900.0191 để có thể được giải đáp nhanh nhất.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN


SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Rút đơn đề nghị thuận tình ly hôn

Tôi và chồng tôi đồng ý cùng viết đơn ly hôn và đã gửi đến toà án nhân dân (chồng tôi là người đi nộp). Tòa án đã gọi lên để tiến hành hoà giải nhưng chúng tôi đã từ chối và yêu cầu cân có thời gian để suy nghĩ. Đến nay tôi muốn rút đơn. Vậy, tôi có thể rút đơn được khôg hay phải chồng tôi đi rút.

Gửi bởi: Nguyễn lan anh

Trả lời có tính chất tham khảo

Theo thông tin bạn cung cấp, hai vợ chồng bạn cùng đồng ý viết đơn ly hôn nên đây được coi là yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, một trong những yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; bạn và chồng bạn tham gia tố tụng với tư cách là người yêu cầu. Thủ tục chung về việc giải quyết việc dân sự được thực hiện theo hướng dẫn tại chương 10, phần thứ 5 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Theo đó, Khoản 3 Điều 320 Bộ luật Tố tụng dân sự có quy định: “Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, nếu người yêu cầu rút đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu”. Do vậy, bạn với tư cách là người yêu cầu trong vụ việc dân sự có quyền rút đơn đề nghị thuận tình ly hôn.

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 24/2004/QH11 Tố tụng dân sự

Trả lời bởi: CTV3

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Câu hỏi:

Hiện tại, công ty chúng tôi đang thành lập website để hoạt động kinh doanh quảng cáo qua mạng internet.

Tôi gửi kèm theo Đề án thành lập website của chúng tôi.

Tôi muốn xin các luật sư tư vấn giúp tôi nên đăng ký loại giấy phép hoạt động website nào.

Đồng thời xin cho biết mức phí dịch vụ đăng ký giấy phép là bao nhiêu.

Mong nhận được hồi đáp sớm.

Trân trọng

 

 

Trả lời:

Thân chào bạn !

Đọc thư của bạn, Tôi có ý kiến như sau:

Bạn có thể thực hiện thủ tục yêu cầu cấp phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp, như sau:

1.Điều kiện cấp phép

a. Là tổ chức, doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật tại Việt Nam;

b. Có đủ phương tiện kỹ thuật, nhân sự, chương trình quản lý phục vụ cho việc thiết lập, cung cấp và quản lý thông tin phù hợp với quy mô hoạt động;

c. Cam kết của người đứng đầu tổ chức, doanh nghiệp hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung trang thông tin điện tử và tuân thủ các quy định về quản lý thông tin điện tử trên Internet.

2.Hồ sơ cấp phép

Hồ sơ cấp phép được lập thành 02 bộ, mỗi bộ hồ sơ gồm có:

a. Đơn đề nghị cấp phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp, có nội dung cam kết tuân thủ các quy định về quản lý thông tin điện tử trên Internet;

b. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đầu tư hoặc quyết định thành lập;

c. Sơ yếu lý lịch của người đứng đầu tổ chức, doanh nghiệp;

d. Đề án thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp gồm những nội dung chính sau:

  • Mục đích cung cấp thông tin; nội dung thông tin; các chuyên mục; nguồn tin hợp pháp; quy trình xử lý tin, nhân sự, mẫu bản tin trang chủ và các trang chuyên mục chính.

  • Loại hình dịch vụ dùng để cung cấp hoặc trao đổi thông tin (website, forum, blog…);

  • Biện pháp kỹ thuật, nghiệp vụ bảo đảm cho việc cung cấp và quản lý thông tin;

  • Tên miền dự kiến sử dụng.

3.Thời gian và quy trình xử lý hồ sơ

Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ Thông tin và Truyền thông tiến hành xét duyệt hồ sơ. Trường hợp tổ chức, doanh nghiệp đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định, Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ cấp phép. Trong trường hợp từ chối, Bộ Thông tin và Truyền thông có văn bản thông báo và nêu rõ lý do.

4.Bổ sung, sửa đổi, cấp lại giấy phép

a. Khi có nhu cầu thay đổi quy định trong giấy phép về nội dung thông tin, người chịu trách nhiệm, tên miền, tên tổ chức, doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở giao dịch, tổ chức, doanh nghiệp phải có đơn đề nghị trong đó nêu chi tiết nội dung đề nghị sửa đổi và lý do thay đổi nội dung giấy phép, bản sao giấy phép đang có hiệu lực, gửi về Bộ Thông tin và Truyền thông;

b. Trong trường hợp giấy phép bị mất, bị rách, bị cháy hoặc bị tiêu huỷ dưới các hình thức khác, tổ chức, doanh nghiệp thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp phải gửi văn bản đề nghị nêu rõ lý do xin cấp lại giấy phép tới Bộ Thông tin và Truyền thông;

c. Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ Thông tin và Truyền thông tiến hành xét duyệt hồ sơ. Trường hợp tổ chức, doanh nghiệp đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định, Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ có quyết định bổ sung, sửa đổi hoặc cấp lại giấy phép. Trong trường hợp từ chối, Bộ Thông tin và Truyền thông có văn bản thông báo và nêu rõ lý do.

5.Gia hạn giấy phép

a. Tổ chức, doanh nghiệp được cấp phép muốn gia hạn giấy phép phải gửi hồ sơ xin gia hạn tới Bộ Thông tin và Truyền thông 30 ngày trước ngày giấy phép hết hạn. Hồ sơ xin gia hạn gồm đơn xin gia hạn giấy phép và bản sao giấy phép đang có hiệu lực

b. Bộ Thông tin và Truyền thông thẩm định và xét gia hạn giấy phép trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ. Trường hợp từ chối gia hạn giấy phép, Bộ Thông tin và Truyền thông có văn bản nêu rõ lý do cho tổ chức, doanh nghiệp nộp đơn biết;

c. Giấy phép chỉ được gia hạn 01 lần và thời gian gia hạn không vượt quá một năm.

  1. Thu hồi giấy phép

a. Tổ chức bị thu hồi giấy phép khi xảy ra một trong các trường hợp sau:

  • Cung cấp nội dung thông tin vi phạm các quy định về quản lý thông tin điện tử trên Internet theo văn bản kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

  • Trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp giấy phép không triển khai hoạt động cung cấp thông tin trên mạng Internet theo quy định tại giấy phép được cấp.

b. Tổ chức, doanh nghiệp bị thu hồi giấy phép không được cấp phép tại ít nhất trong vòng 01 năm, kể từ ngày bị thu hồi giấy phép.

7.Thời hạn của giấy phép

Giấy phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp có thời hạn tối đa không quá 05 năm.

 

Wiki Luật kính đáp!

    Câu trả lời trên chỉ mang tính chất tham khảo nằm trong khuôn khổ phạm vi nội dung câu hỏi mà quý khách gửi tới. Đối với trường hợp cụ thể hơn hoặc xuất hiện các tình tiết pháp lý khác thì các văn bản pháp luật điều chỉnh trên đây có thể không được áp dụng hoặc đã hết hiệu lực và được thay thế bằng văn bản khác.

    Để giải quyết nhanh chóng, chính xác những vướng mắc đang mắc phải hay nhu cầu tư vấn hỗ trợ pháp luật, quý khách vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi, yêu cầu của quý khách sẽ được chuyển đến các luật sư đầu ngành trong từng lĩnh vực cùng trực tiếp trao đổi và giải đáp.

    Chúng tôi rất mong được phục vụ, hợp tác cùng Quý khách!
Xin gửi đến Quý khách hàng lời chúc Sức khỏe, Hạnh phúc, Thành công và lời chào trân trọng nhất./.

Bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến!

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Câu hỏi:

Cho tôi xin được hỏi: Tôi có bản án dân sự đã có hiệu lực pháp luật ngày 14/01/2011 và có đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm ngày 31/08/2011.Vậy theo nghị quyết 60/2011/QH12 mục 2, khoản d và luật số 65/2011/QH12 diều 284b, khoản3 thì trong thời gian chờ đợi trả lời có kháng nghị hay không thì:

1- Cơ quan thi hành án có quyền cưỡng chế theo bản án hay không?

2- Nếu cơ quan thi hành án có quyền cưỡng chế theo bản án thì nghị quyết 60/2011/QH12 mục 2, khoản d được soạn ra để làm gì?

 

 

Trả lời:

Chào bạn,

Căn cứ vào điều 286 BLTTDS 2004 và điều 48, điều 49 luật thi hành án dân sự 2008 có quy định thì người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định của Toà án có quyền yêu cầu hoãn thi hành án, quyết định tạm đình chỉ thi hành án. Do vậy trong trường hợp của bạn, khi chưa có yêu cầu hoãn thi hành án, quyết định tạm đình chỉ thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì cơ quan thi hành án có quyền cưỡng chế thi hành án sau khoảng thời hạn tự nguyện thi hành án.
Còn về quy định tại điểm d, mục 2 nghị quyết 60/2011/QH12 có quy định thì quy định này chỉ áp dụng khi đáp ứng các điều kiện :
  • Đối với những bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động đã có hiệu lực
  • Có đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong thời gian kể từ ngày luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS được công bố đến trước ngày 01/01/2012 ( ngày mà luật sửa đổi, bổ sung một số điều BLTTDS có hiệu lực )
  • Chưa có kháng nghị của người có thẩm quyền kháng nghị

Trong trường hợp của bạn, do không đáp ứng được các điều kiện trên nên thì không thể áp dụng theo quy định này được.

Wiki Luật kính đáp!

    Câu trả lời trên chỉ mang tính chất tham khảo nằm trong khuôn khổ phạm vi nội dung câu hỏi mà quý khách gửi tới. Đối với trường hợp cụ thể hơn hoặc xuất hiện các tình tiết pháp lý khác thì các văn bản pháp luật điều chỉnh trên đây có thể không được áp dụng hoặc đã hết hiệu lực và được thay thế bằng văn bản khác.

    Để giải quyết nhanh chóng, chính xác những vướng mắc đang mắc phải hay nhu cầu tư vấn hỗ trợ pháp luật, quý khách vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi, yêu cầu của quý khách sẽ được chuyển đến các luật sư đầu ngành trong từng lĩnh vực cùng trực tiếp trao đổi và giải đáp.

    Chúng tôi rất mong được phục vụ, hợp tác cùng Quý khách!
Xin gửi đến Quý khách hàng lời chúc Sức khỏe, Hạnh phúc, Thành công và lời chào trân trọng nhất./.

Bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến!

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Công ty Luật LVN – Luật sư Tư vấn trực tuyến – Gọi ngay 1900.0191

Mẫu Đơn đề nghị giải quyết hưu trí

Đơn đề nghị giải quyết đề nghị hưu trí là văn bản được cá nhân sử dụng để đề nghị chủ thể có thẩm quyền xem xét và tiến hành giải quyết chế độ hưu trí cho cá nhân khi chủ thể này có đủ điều kiện để được hưởng chế độ hưu trí.


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
————-

 ………., ngày…. tháng…. năm…….  

ĐƠN ĐỀ NGHỊ GIẢI QUYẾT CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ

Kính gửi: – Công ty……………

– Ban Giám đốc công ty……………

(Hoặc: các chủ thể khác có thẩm quyền giải quyết)

– Căn cứ Bộ luật lao động năm 2012;

– Căn cứ Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014;

– Căn cứ………

Họ và tên …………………………………………………………

Sinh ngày ………….tháng ………năm…………… Nơi sinh (tỉnh, TP)……………………………

Giấy CMND/thẻ CCCD số …………………… Ngày cấp…/…/…. Nơi cấp (tỉnh, TP)…………….

Địa chỉ thường trú:…………………………………………………………………….

Chỗ ở hiện nay ……………………………………………………………………….

Điện thoại liên hệ: ……………………………

Là:…………… (tư cách yêu cầu, ví dụ: người lao động của Quý công ty theo Hợp đồng lao động số……..)

Tôi xin trình bày với Quý cơ quan sự việc như sau:

…………………………………………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………………………………………….

(Bạn trình bày về nguyên nhân, lý do mà bạn làm đơn, trong đó phải chứng minh được bạn là đối tượng được hưởng chế độ hưu trí và chế độ bạn hưởng hiện nay không đúng với chế độ mà bạn lẽ ra được hưởng theo đúng quy định của pháp luật)

Căn cứ quy định tại Điều….. Bộ luật lao động năm 2012/Luật bảo hiểm xã hội năm 2014/… quy định:

“…” (Trích căn cứ mà bạn sử dụng để chứng minh yêu cầu mà bạn đưa ra khi làm đơn được nêu bên dưới là hợp pháp, hợp lý, hay việc không giải quyết chế độ hưu trí cho bạn của công ty mà bạn làm việc/ công ty bảo hiểm có nghĩa vụ phải giải quyết chế độ hưu trí cho bạn là vi phạm quy định của pháp luật)

Tôi nhận thấy, trong trường hợp của tôi, tôi có quyền đề nghị/yêu cầu Quý công ty:

1./….

2./…. (Liệt kê những yêu cầu của bạn về việc giải quyết chế độ hưu trí của chủ thể có thẩm quyền dựa trên những căn cứ pháp lý nhất định)

Vậy nên, tôi làm đơn này kính đề nghị Quý công ty xem xét và giải quyết đề nghị trên của tôi theo quy định của pháp luật/….

Tôi xin cam đoan với Quý công ty những gì mà tôi đã trình bày trên là hoàn toàn đúng sự thật, và xin chịu mọi trách nhiệm phát sinh. Tôi xin trân trọng cảm ơn!

Để chứng minh cho những thông tin mà tôi đã nêu trên, tôi xin gửi kèm theo đơn này những tài liệu, chứng cứ sau đây:

1./…

2./…. (Liệt kê số lượng văn bản, tài liệu, tình trạng văn bản được gửi kèm, là bản gốc hay bản sao)

 

Người làm đơn
(Ký, ghi rõ họ tên)

DỊCH VỤ SOẠN THẢO ĐƠN, HỢP ĐỒNG, CÔNG VĂN CHỈ 500 NGÀN ĐỒNG -> GỌI NGAY 1900.0191

 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Mẫu Đơn đề nghị sửa lại cửa phòng làm việc


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

 

 Hà Nội, ngày … tháng … năm 20 …

ĐƠN ĐỀ NGHỊ SỬA LẠI CỬA PHÒNG LÀM VIỆC

Kính gửi: …………………

Tôi tên là: ………………Sinh năm: ……………

CMND số: …………Nơi cấp: ……Ngày cấp: ……

Chức vụ: …………………………….

Điện thoại: ……………………………

Nội dung đề nghị như sau:

……………………………………………

Từ những nội dung trên kính mong cơ quan sớm xem xét và chấp nhận đơn đề nghị ngày của tôi.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

 

Người làm đơn

(ký và ghi rõ họ tên)

DỊCH VỤ SOẠN THẢO ĐƠN, HỢP ĐỒNG, CÔNG VĂN CHỈ  500 NGÀN ĐỒNG -> GỌI NGAY 1900.0191

 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com