Phân tích hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự vô hiệu. Sưu tầm một bản án của Tòa án xác định giao dịch dân sự vô hiệu và nêu quan điểm cá nhân về hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự này được giải quyết trong bản án.

Giao dịch dân sự là một trong những căn cứ quan trọng và phổ biến nhất làm phát sinh quan hệ pháp luật dân sự, là phương tiện phasp lí để các chủ thể trong xã hội thiết lập các quan hệ về tào sản và nhân thân. Kinh tế ngày càng phát triển, giao dịch dân sự ngày càng được mở rộng thì việc xảy ra các tranh chấp liên quan đến nó ngày càng tăng. Đặc biệt hiện nay, vấn đề vi phạm điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự khá phổ biến và phức tạp. Việc tìm hiểu và làm rõ các quan điểm của pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu và các nguyên tắc giải quyết hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự vô hiệu là rất cần thiết. Để từ đó, thuận tiện hơn cho việc áp dụng pháp luật cũng như tìm ra những hạn chế khi áp dụng và có hướng hoàn thiện các quan điểm của pháp luật.

I, LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU

1. Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu

1.1 Khái niệm giao dịch dân sự

Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lí đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 116 BLDS 2015).

Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận ý chí của hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.

Hành vi pháp lý đơn phương là giao dịch trong đó thể hiện ý chí của một bên nhằm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình hoặc của bên kia.

1.2 Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự

Điều 117 BLDS 2015 quy định:

“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.”

1.3 Khái niệm, đặc điểm của giao dịch dân sự vô hiệu

– Điều 112: Giao dịch dân sự vô hiệu

Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy đinh khác.

– Đặc điểm:

+ Giao dịch dân sự vô hiệu có sự vi phạm điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự từ khi giao kết, xác lập giao dịch.

+ Mức độ vi phạm là nghiệm trọng hoặc ít nghiêm trọng.

+ Sự vi phạm có thể do cố ý hoặc vô ý của một trong các bên giao dịch.

+ Các bên tham gia vào giao dịch phải gánh chịu hậu quả pháp lí.

* Phân biệt giao dịch dân sự vô hiệu với giao dịch dân sự không có hiệu lực:

– Có thể hiểu, GDDS vô hiệu là giao dịch không tồn tại theo quy định của pháp luật, không có hiệu lực pháp lý. Còn GDDS không có hiệu lực là GDDS không làm phát sinh bất kỳ một hậu quả pháp lí nào

– Giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch không có hiệu lực tại thời điểm giao kết còn GDDS bị mất hiệu lực là giao dịch có hiệu lực tại thời điểm ký kết nhưng giao dịch bị chấm dứt hiệu lực là do rơi vào tình trạng không thế thực hiện được.

– Về hậu quả pháp lí, nếu GDDS vô hiệu các bên phải khôi phục tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, bên nào có lỗi thì phải bồi thường. Đối với giao dịch bọ chấm dứt hiệu lực, các bên không phải khôi phục lại tình trạng ban đầu mà giữ nguyên hiện trạng hiện tại thời điểm chấm dứt giao dịch.

2. Phân hoại giao dịch dân sự vô hiệu

– Căn cứ theo phạm vi nội dung vô hiệu, GDDS vô hiệu được chia thành 2 loại

+ Giao dịch dân sự vô hiệu toàn bộ: xảy ra khi toàn bộ mục đích, nội dung  của GDDS đó là vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội hoặc một trong các bên tham gia giao dịch đó không có quyền xác lập giao dịch dân sự hoặc vi phạm một thỏa thuận và ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại, dẫn đến toàn bộ giao dịch vô hiệu.

+ Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần: là giao dịch mà trong đó chỉ có một phần hoặc một số phần của giao dịch đó bị vô hiệu nhưng không ảnh ưởng đến hiệu lực của các phần còn lại.

– Căn cứ theo tính chất, trình tự bị coi là vô hiệu thì có 2 loại:

+ Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối: không có hiệu lực pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ các bên, thậm chí ngay cả trong trường hợp khi các bên đã tiến hành thực hiện nội dung cam kết.

+ Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối: có hiệu lực pháp lý cho đến khi nào bị tuyên bố vô hiệu. Nó chỉ trở nên vô hiệu khi có đơn yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan đồng thời cũng có quyết định của Tòa án.

3. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

Hậu quả của GDDS vô hiệu phải tuân theo quy định tại Điều 131 BLDS 2015:

“1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.

2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.

3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.

4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.

5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.”

Riêng đối với trường hợp hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được (Điều 408):

“1. Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu.

2. Trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được.

3. Quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được nhưng phần còn lại của hợp đồng vẫn có hiệu lực.”

Hậu quả pháp lý của GDDS vô hiệu: Không làm phát sinh, thay đỏi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên, kể từ thời điểm xác lập dù giao dịch đó đã được thực hiện hay chưa. Do vậy, việc chiếm hữu, sử dụng tài sản của các bên trong GDDS vô hiệu được coi là chiếm hữu, sử dụng tài sản không có căn cứ pháp luật, cho nên phát sinh nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản không có căn cứ pháp luật theo quy định tại các điều từ Điều 579 đến Điều 583 BLDS 2015[1].

Khi một giao dịch dân sự được tuyên bố là vô hiệu thì có thể dẫn đến các vấn đề sau: Hoàn trả về tài sản, vấn đề thiệt hại xảy ra, vấn đề thỏa thuận của các bên khi giao dịch vô hiệu, vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba ngay tình. Trong việc hoàn trả tài sản, tùy theo từng trường hợp vi phạm cụ thể mà Tòa án có thể buộc các bên gánh chịu hậu quả theo một trong ba phương thức khác nhau: 1, Hoàn trả song phương: các bên đều phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận được từ bên kia; 2, Hoàn trả đơn phương: một bên được hoàn trả lại tài sản giao dịch, còn tài sản giai dịch thuộc bên kia (bên vi phạm) thì bị tịch thu sung công quỹ; 3, Tịch thu toàn bộ: Mọi tài sản giao dịch của cả hai bên vi phạm đều bị tịch thu sung công quỹ[2].

Do tính chất khác nhau của GDDS vô hiệu tương đối và GDDS vô hiệu tuyệt đối nên hậu quả pháp lý cũng khác nhau. Cụ thể:

a, Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối

– Trường hợp giao dịch dân sự chưa được thực hiện: Do chưa được thực hiện nên cũng chưa phát sinh vấn đề hoàn trả tài sản, hoa lợi, lợi tức. Trong trường hợp giao dịch đã được xác lập mà các bên vẫn chưa thực hiện các quyền và nghĩa vụ thỏa thuận cũng như chưa chuyển giao tài sản cho nhau thì hậu quả pháp lý vật chất không được đặt ra. Tuy nhiên, nếu giao dịch vô hiệu do có lỗi và gây thiệt hại cho bên không có lỗi thì bên có lỗi vẫn phải bồi thường.

– Trường hợp giao dịch dân sự đã, đang thực hiện: Về nguyên tắc, GDDS vô hiệu thì các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả lại được bằng hiện vật thì phải hoàn trả lại bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức bị tịch thu theo quy định của pháp luật.

b, Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối

– Trường hợp giao dịch dân sự chưa thực hiện: Trường hợp này chưa làm phát sinh các hậu quả pháp lý cho các bên tham gia giao dịch, vì vậy vấn đề thiệt hại xảy ra, yêu cầu công nhân thỏa thuận các bên và bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình là không phát sinh trong trường hợp này.

– Trường hợp giao dịch dân sự đã, đang thực hiện: bên có lỗi làm cho giao dịch bị vô hiệu phải bồi thường cho bên bị thiệt hại hoặc người thứ ba bị thiệt hại. Nếu các bên đều có lỗi thì căn cứ vào mức độ lỗi để xác định trách nhiệm bồi thường tương ứng. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường do pháp luật quy định hoặc các bên có thỏa thuận trước về hậu quả, như: phạt, phạt cọc khi một bên có lỗi và phải chịu thiệt hại tương ứng với lỗi của họ gây ra. Đối với giao dịch vô hiệu tương đối là loại giao dịch có khả năng khắc phục, được coi là một laoij giao dịch dân sự có thể có hiệu lực nhưng cũng có thể bị vô hiệu theo sự lựa chọn của một trong các bên tham gia giao dịch. Giao dịch này thông thường không xâm phạm trật tự công cộng và đạo đức xã hội và chỉ có thể bị vô hiệu đối với bên có lỗi mà không bị vô hiệu đối với bên không có lỗi. Khi xác nhận giao dịch dân sự vô hiệu thì các quyền và nghĩa vụ của các bên đã thỏa thuận đều không có giá trị pháp lý.

II, BẢN ÁN CỦA TÒA ÁN XÁC ĐỊNH GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU TRÊN THỰC TIỄN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA GIAO DỊCH ĐÓ

Từ những lý luận phân tích như trên cho thấy việc vi phạm trong giao kết hợp đồng dẫn đến giao dịch dân sự bị vô hiệu xảy ra nhiều trường hợp. Để làm rõ những trường hợp này có rất nhiều tình huống có thể làm rõ. Tuy nhiên, do hạn chế về số trang của tiểu luận nên em xin lấy ví dụ về một vụ án điển hình đó là Bản án 21/2017/DS-ST ngày 21/08/2017 về tranh chấp giao dịch về cầm cố quyền sử dụng đất.

1. Tóm tắt bản án

– Nguyên đơn: Anh Lê Văn H, sinh năm 1971. Địa chỉ: ấp 3BA, xã N, Huyện A, Tỉnh K. Có mặt

– Bị đơn: Ông Lê Văn S, sinh năm 1942; Bà Nguyễn Thị Ơ, sinh năm 1945

Cùng địa chỉ: Tổ 6, ấp 5 B, xã N, Huyện A, Tỉnh K. Có mặt

– Người làm chứng: Anh Lê Thanh T, sinh năm 1982. Địa chỉ: Ấp 5 B, xã N, Huyện A, Tỉnh K. Có mặt

– Nội dung vụ án: Ngày 29/02/2002, anh H có nhận cầm cố quyền sử dụng đất của vợ chồng ông Lê Văn S, bà Nguyễn  Thị  Ơ với diện tích là 05  công đất  ruộng tầm 3m (tương đương 6.480m2, tọa lạc tại ấp 5 B, xã N, Huyện A, Tỉnh K với số vàng cố đất là 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999). Khi cố hai bên có làm giấy tay với nhau và thỏa thuận thời hạn cố từ ngày 29/02/2002 đến ngày 29/02/2004, nếu đến hạn vợ chồng ông Sứ, bà Ơ không chuộc đất thì anh tiếp tục sử dụng. Anh H đã giao vàng cho vợ chồng ông Sứ, bà Ơ xong và nhận 05 công đất canh tác. Do phần đất này năm trong chu vi đất của ông Sứ, bà Ơ nên khi nhà nước quy hoạch nuôi tôm anh không trồng lúa được nên đã cho con ông Sứ là anh Tùng thuê đến 2016. Sau khi hết hợp đồng anh Tùng không thuê nữa mà đã giao trả lại phần đất này cho ông Sứ, bà Ơ sử dụng. Hiện nay ông Sứ bà Ơ đã nhận lại đất cầm cố cho anh rồi nhưng chưa trả vàng cố đất cho anh. Vì vậy, anh H yêu cầu hủy hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất giữa anh với vợ chồng ông Sứ, bà Ơ ngày 29/02/2002 và yêu cầu ông Sứ, bà Ơ trả lại cho anh 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999).

Nội dung giải quyết vụ án: tại bản án số 21/2017/DSST ngày 21/08/2017, Tòa án nhân dân huyện A tỉnh K đã xử:

+ Căn cứ pháp lý: Căn cứ vào Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân năm 2015; Điều 179 Luật đất đai năm 2013; Điều 123, 131 Bộ luật Dân sự 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

+ Nội dung:

  1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Lê Văn H.
  2.  Tuyên bố giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất giữa ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ và anh Lê Văn H xác lập ngày 29/02/2002 là vô hiệu.
  3. Buộc ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ có nghĩa vụ trả cho anh Lê Văn H 20 (Hai mươi) chỉ vàng 24kr (vàng 9999).
  4. Ghi nhận anh Lê Văn H đã giao và vợ chồng ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ đã nhận xong 05 công đất cầm cố cho anh Lê Văn H.
  5. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Buộc ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).

Hoàn trả cho anh Lê Văn H số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 0007910 ngày 16/6/2017 của Chi cục thi hành án dân sự Huyện A.

  • Quyền kháng cáo: Án xử công khai, các đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

2. Hậu quả pháp lý của bản án

– Vấn đề pháp lí của bản án “ Tranh chấp giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất”.

– Giao dịch dân sự trong bản án được xác định là giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối đã được thực hiện.

– Hậu quả pháp lý của bản án:

+ Ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ có nghĩa vụ hoàn trả số vàng cố đất lại cho anh Lê Văn H là 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999). Đối với phần đất cầm cố hiện nay anh Lê Văn H đã giao trả lại cho ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ xong nên Hội đồng xét xử ghi nhận và miễn xét.

+ Xét yêu cầu của ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ yêu cầu mỗi năm trả cho anh Lê Văn H 04 chỉ vàng đến khi trả đủ 20 chỉ là không có cơ sở chấp nhận.

3. Quan điểm của cá nhân về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự được giải quyết trong bản án

* Hậu quả pháp lý phát sinh:

Với nội dung vụ án nêu trên, bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh K đã áp dụng Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 179 Luật Đất đai; Điều 123 Bộ luật dân sự 2015 ra quyết định tuyên bố giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất giữa ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ và anh Lê Văn H xác lập ngày 29/02/2002 là vô hiệu.

Pháp luật cho phép các chủ thể được tự do xác lập về thực hiện giao dịch dân sự. Tuy nhiên “tự do thực hiện giao dịch dân sự” chỉ được thừa nhận ở một mức độ hợp lý nếu giao dịch đó không trái pháp luật và trái đạo đức. Xét thấy, quyết định này của Tòa án nhân dân huyện A là hoàn toàn phù hợp và đúng theo pháp luật. Bởi, theo quy định tại Điều 179 của Luật Đất đai hiện hành quy định về quyền của người sử dụng đất thì không quy định người sử dụng đất được phép cầm cố quyền sử dụng đất. Như vậy, việc thỏa thuận cầm cố quyền sử dụng đất giữa ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ với anh Lê Văn H là vi phạm pháp luật nên bị vô hiệu theo quy định tại Điều 123 Bộ luật dân sự 2015: “Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định”.

Khi tìm hiểu nguyên nhân của giao dịch dân sự vô hiệu, áp dụng vào trường hợp cụ thể này thì chúng ta có thể thấy một bộ phận không nhỏ trong xã hội thiếu kiến thức pháp luật, không hiểu biết về quyền và nghĩa vụ của chính mình nên mới dẫn đến tranh chấp. Khi Tòa án giải quyết theo đúng pháp luật thì ít nhiều cũng ảnh hưởng không nhỏ đến phần tài sản giao dịch vì các bên trả lại cho nhau những gì đã nhận mà giao dịch đó diễn ra trước khi Tòa xử cũng là 15 năm. Do đó, hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu sẽ dẫn đến những hệ lụy không thể tránh khỏi, đây là hậu quả khi các bên không tìm hiểu pháp luật, thực hiện giao dịch dân sự dựa trên ý chí và nguyện vọng của mình.

– Theo quyết định đó, hậu quả pháp lý của bản án cũng phù hợp, đúng theo tinh thần pháp luật. Vì, theo quy định tại Điều 131 Bộ luật dân sự 2015, “1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập; 2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”. Do đó, ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ có nghĩa vụ hoàn trả số vàng cố đất lại cho anh Lê Văn H là 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999) là hợp lý. Và đối với phần đất là 05 công đất tầm 3m khi anh H giao dịch với vợ chồng ông S, bà Ơ ngày 29/2/2002 thì hiện nay ông S, bà Ơ đã nhận lại nên Tòa không xét đến.

Theo chi tiết vụ việc trên, cá nhân em nhận thấy rằng, hậu quả pháp lý của bản án đã đúng theo quy định của pháp luật, đảm bảo cho việc thiết lập giao dịch được pháp luật bảo vệ, quyền và nghĩa vụ của các bên được cân bằng. Trong vụ án này, do phần đất giao dịch giữa anh H với vợ chồng ông S bà Ơ nằm trong chu vi đất của ông Sứ, bà Ơ nên khi nhà nước quy hoạch nuôi tôm anh không trồng lúa được nên đã cho con ông Sứ là anh Tùng thuê đến 2016. Sau khi hết hợp đồng anh Tùng không thuê nữa mà đã giao trả lại phần đất này cho ông Sứ, bà Ơ sử dụng. Tức là, tài sản là đối tượng của giao dịch vẫn giữ nguyên, có tác động nhưng không ảnh hưởng đến lợi ích của hai bên, và ông S, bà Ơ cũng không có ý kiến gì về việc trả hoa lợi ,lợi tức nên phần đất này sẽ không phải trị giá bằng tiền mà trả bằng hiện vật, ông S, bà Ơ cũng sẽ có nghĩa vụ trả lại anh H 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999).

– Xét yêu cầu của ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ yêu cầu mỗi năm trả cho anh Lê Văn H 04 chỉ vàng đến khi trả đủ 20 Tòa tuyên án là không có cơ sở chấp nhận. Bởi theo khoản 2 Điều 131 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “ Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận ”. Việc ông bà nhận của anh H 20 chỉ vàng 24kr thì phải có nghĩa vụ trả anh H 20 chỉ vàng 24kr. Trong trường hợp anh H đồng ý cho ông bà trả mỗi năm 04 chỉ vàng thì Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự. Tuy nhiên, anh H không đồng ý cho ông bà trả dần mỗi năm 04 chỉ vàng nên Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định pháp luật buộc ông bà có nghĩa vụ trả cho anh H 20 chỉ vàng 24kr. Từ các nhận định nêu trên, sau khi thảo luận Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Văn H, buộc ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ có nghĩa vụ trả cho Lê Văn H 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999).

Đối với quyết định về hậu quả pháp lý này, cá nhân em cho rằng chưa đảm bảo lợi ích của các bên tham gia giao dịch. Vì sở dĩ giao dịch dân sự này bị vô hiệu là do lỗi của cả hai bên, theo nguyên tắc khi giao dịch dân sự bị vô hiệu thì các bên trả lại cho nhau những gì đã nhận. Khi xác lập giao dịch, ông S bà Ơ có nhận của anh H 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999). Theo như em tìm hiểu giá vàng này tại thời điểm ngày 29/2/2002 là 2,950 triệu đồng/1 chỉ và tính đến thời điểm giao dịch dân sự bị tuyên là vô hiệu là ngày 21/8/2017 giá vàng là 3,520 triệu đồng/1 chỉ. Như vậy, ta có thể dễ dàng nhận thấy giá vàng tại hai thời điểm khác nhau rất lớn. Nếu như phía ông S, bà Ơ đã sử dụng số vàng này rồi thì khả năng trả 20 chỉ vàng cùng một lúc là khó thực hiện, chưa kể ông S, bà Ơ đã tuổi cao, không lao động được nhiều, nên cá nhân em nhận thức được rằng Tòa án cần phải cân nhắc thêm, chấp nhận yêu cầu của ông S, bà Ơ mỗi năm trả 4 chỉ vàng cho đến khi trả xong. Điều này vẫn tuân thủ những quy định của pháp luật mà còn hợp lý, đảm bảo lợi ích của cả hai bên khi giao dịch dân sự bị tuyên bố vô hiệu.

* Hậu quả phải bồi thường thiệt hại:

– Trong vụ án này, mức độ thiệt hại của các bên tham gia giao dịch là không được nhắc đến vì trên thực tế phần thiệt hại là không đáng kể hoặc không có. Hơn nữa, yếu tố lỗi trong vụ án này thuộc về cả hai bên tham gia giao dịch. Ông S, bà Ơ có lỗi đã không hiểu biết pháp luật hoặc do lỗ hổng của pháp luật làm cho học không hiểu hoặc hiểu sai, họ đã đem phần đất tương ứng là 05 công đất tầm 3m của mình đi cầm cố; nhưng anh H cũng có lỗi không tìm hiểu trước khi tiến hành giao dịch để cuối cùng không thỏa thuận được dẫn đến tranh chấp. Do vậy, không có ai phải bồi thường thiệt hại.

* Hậu quả pháp lý phát sinh đối với người thứ ba ngay tình:

– Theo nguyên tắc, khi giao dịch dân sự vô hiệu thì ngoài việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch thì còn phải đảm bảo lợi ích xã hội, lợi ích công cộng và các chủ thể khác. Tuy nhiên, trong vụ án này chỉ có hai bên trực tiếp tham gia giao dịch và người có quyền và nghĩa vụ liên quan là anh Tùng con ông S, không tồn tại người thứ ba ngay tình nên hậu quả này cũng không được xét đến.

III, THỰC TRẠNG – PHƯƠNG HƯỚNG ÁP DỤNG LUẬT ĐỂ TUYÊN BỐ  GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU, HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC TUYÊN BỐ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU

1. Thực trạng

Hiện nay ở nước ta hàng năm có số lượng án giao dịch dân sự chiếm tỷ lệ khá lớn so với các án dân sự và hôn nhân gia đình, khoảng 70% – 80%, số lượng án giao dịch dân sự vô hiệu chiếm khoảng 15% – 20%, số lượng án giải quyết ở cấp sơ thẩm bị cấp phúc thẩm cải sửa còn cao hơn 50%. Với những con số ấy ta có thể thấy thực trạng sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật ở nước ta còn nhiều hạn chế. Thông thường, các bên khi tham gia giao dịch không nắm được những quy định của pháp luật mà thực hiện giao dịch chủ yếu dưới dạng tự phát, dẫn đến nhiều giao kết vô hiệu ngay tại thời điểm ký kết mà các bên không biết, vẫn thực hiện khi có tranh chấp mới yêu cầu hủy.

Khi giải quyết các vụ việc đã thực hiện rồi thì các thẩm phán thường lúng túng, phải cân nhắc có nên hủy hay không, nếu hủy giao dịch dân sự vô hiệu thì phù hợp với pháp luật nhưng không phù hợp với thực tiễn và ngược lại, thậm chí còn có trường hợp tuyên bố hủy nhưng vẫn công nhận. Mặt khác, diễn biến của giao dịch dân sự vô hiệu phức tạp do sự biến đổi về giá cả thị trường, có khi tài sản bị chênh lệch giá cả giữa lúc xác lập giao dịch và lúc giải quyết gấp 4,5 lần… Trong khi đó, đường lối giải quyết hậu quả của các giao dịch dân sự vô hiệu lại không nhất quán giữa các thành viên trong hội đồng xét xử, không mang lại sự công bằng cho các đương sự. Chính vì lẽ đó, nhiều khi đương sự lợi dụng sơ hở của pháp luật đã thất hứa, yêu cầu hủy giao dịch nhằm chuộc lợi cho mình. Hiện nay còn tồn tại tình trạng giải quyết một vụ án nhiều lần, nhiều cấp xét xử nhưng vẫn chưa đưa ra được quyết định phù hợp, các đương sự vẫn tiếp tục khiếu nại căng thẳng.

Vấn đề có liên quan đến hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu:

+ Về hậu quả các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận: trên thực tế việc hoàn trả này không thật sự đảm bảo lợi ích của các chủ thể đặc biệt là trong các giao dịch có đối tượng là nhà, quyền sử dụng đất. Khi các giao dịch có đối tượng như trên bị vô hiệu, bên mua sẽ trả lại nhà, đất cho bên bán còn bên bán sẽ trả tiền cho bên mua. Một điều dễ nhận ra trong việc hoàn trả này đó chính là sự chênh lệch về số lượng tài sản. Lúc này tài sản hai bên thường không có giá trị ngang nhau như lúc kí kết giao dịch nữa. Việc này dẫn đến sự mất cân bằng về mặt lợi ích.

+ Sau một thời gian sau khi giao dịch dân sự được thiết lập, thường thì các đối tượng của giao dịch đã bị sửa đổi, cải tạo, không còn nguyên vẹn. Trong những trường hợp như thế này mà giao dịch dân sự bị vô hiệu sẽ rất khó xử lý trong việc hoàn trả tài sản. Về vấn đề này pháp luật cũng chưa quy định rõ.

+ Về hậu quả hoàn trả lại tiền nếu không hoàn trả lại bằng hiện vật: hiện nay pháp luật cũng chưa quy định về việc hoàn trả bằng tiền được tính theo giá trị của tài sản tại thời điểm hoàn trả hay tính theo giá trị của tài sản tại thời điểm các bên xác lập giao dịch. Vấn đề này rất quan trọng trong việc đảm bảo lợi ích các bên, đặc biệt là đối với các giao dịch có đối tượng thường xuyên thay đổi về giá cả.

2. Một số góp ý về giải pháp

– Trước tiên, vấn đề quan trọng nhất đó là giáo dục cho mọi người dân biết rõ hơn các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật dân sự về vấn đề giao dịch dân sự nói riêng. Bởi lẽ có làm được điều này thì chúng ta sẽ hạn chế được một số lượng đáng kể các vụ việc tranh chấp về giao dịch dân sự vô hiệu.

– Những người cầm cán cân công lý cũng cần phải bồi dưỡng nâng cao trình độ không chỉ trên lý thuyết mà còn phải dực vào thực tế và những người trong nội bộ hội đồng xét xử không chỉ các vụ án về giao dịch dân sự mà các vụ án khác cũng cần có tiếng nói chung. Tránh tình trạng mỗi người một quan điểm, mỗi cấp một quan điểm như vậy sẽ làm cho nhân dân mất lòng tin, có thể còn dẫn đến tình trạng một số đối tượng lợi dụng sự bất đồng quan điểm đó nhằm chuộc lợi cho bản thân

– Ngoài ra, các cấp chính quyền cũng cần xiết chặt hơn nữa công tác quản lý về các mặt của đời sống xã hội của nhân dân để hạn chế phần nào các vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm các hợp đồng dân sự nói riêng.

– Từ thực tiễn xét xử tại các Tòa án về xử lý hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu, có thể thấy, hợp đồng dân sự bị tuyên bố vô hiệu thường thuộc hai dạng sau:

Thứ nhất, hợp đồng bị tuyên bố là vô hiệu vì bản thân hợp đồng không đem lại lợi ích cho ít nhất một bên chủ thể như mong muốn của họ. Ví dụ như: hợp đồng vô hiệu do một bên bị lừa dối, bị nhầm lẫn, bị đe dọa.

Thứ hai, hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu bởi một lý do, nhưng lý do này không làm ảnh hưởng đến lợi ích mà các bên mong muốn. Ví dụ như: hợp đồng vô hiệu do vi phạm hình thức của hợp đồng hoặc hợp đồng vô hiệu do một bên chủ thể không có đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Thương mại.

Có thể nhận thấy, đối với dạng hợp đồng vô hiệu thứ nhất thì việc xử lý hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu là các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận… sẽ đem lại sự công bằng cho bên có lợi ích nhưng không đạt được. Nhưng đối với dạng hợp đồng vô hiệu thứ hai, thì khi giao kết và thực hiện hợp đồng, các bên đều đã đạt được mong muốn của mình, do đó, việc áp dụng một cách cứng nhắc quy định “khôi phục tình trạng ban đầu”, “hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”… rõ ràng là không cần thiết. Hợp đồng này không làm ảnh hưởng đến lợi ích của các bên, lợi ích của người thứ ba hay của cộng đồng. 

Sự chấp nhận này sẽ hạn chế được tình trạng tuyên bố hợp đồng vô hiệu tràn lan do một bên chủ thể lợi dụng quy định của pháp luật để “bội ước” hợp đồng hay sự lúng túng của Tòa án trong việc xét xử hợp đồng vô hiệu do vi phạm về hình thức hoặc không thỏa mãn điều kiện đăng ký kinh doanh. Và các quy định về hậu quả pháp lý đối với các hợp đồng trên cũng phải được sửa đổi, bổ sung.[3]

Với những quan điểm pháp luật đầy đủ, rõ ràng phù hợp với quy luật phát triển của kinh tế thị trường sẽ góp phần tạo môi trường kinh tế – xã hội thuận lợi, lành mạnh, đem lại lợi ích không nhỏ cho các chủ thể và sự phát triển kinh tế đất nước. Đặc biệt hơn nữa, với vị trí và tầm quan trọng của Bộ luật dân sự thì những quy định về GDDS hoặc các luật chuyên ngành điều chỉnh như Luật thương mại, Luật đất đai, Luật nhà ở,.. Nếu không có những quy định cụ thể, rành mạch sẽ làm cho các chủ thể hoang mang, thậm chí là mang tâm lý bắt buộc khi tham gia GDDS, gây ra những hậu quả khó lường. Vì vậy, cần xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật về GDDS vô hiệu, phù hợp với thực tiễn, tạo môi trường giao dịch thuận lợi để các cơ quan nhà nước nói chung, cơ quan tư pháp nói riêng hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ mà Nhà nước giao.

PHỤ LỤC

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A TỈNH K

BẢN ÁN 21/2017/DS-ST NGÀY 21/08/2017 VỀ TRANH CHẤP GIAO DỊCH VÀ CẦM CỐ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 21 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành Huyện  A,  Tỉnh  K  xét  xử  sơ  thẩm  công  khai  vụ  án  thụ  lý  số: 111/2017/TLST-DS ngày 22 tháng 6 năm 2017, về việc “Tranh chấp giao dịch dân sự cầm cố quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 76/2017/QĐXXST-DS ngày 04 tháng 8 năm 2017, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Lê Văn H, sinh năm 1971. Địa chỉ: ấp 3BA, xã N, Huyện A, Tỉnh K. Có mặt

2. Bị đơn: Ông Lê Văn S, sinh năm 1942

Bà Nguyễn Thị Ơ, sinh năm 1945

Cùng địa chỉ: Tổ 6, ấp 5 B, xã N, Huyện A, Tỉnh K. Có mặt

3. Người làm chứng: Anh Lê Thanh T, sinh năm 1982. Địa chỉ: Ấp 5 B, xã N, Huyện A, Tỉnh K. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 10/4/2017 và các lờ khai tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Lê Văn H trình bày: Nguyên vào ngày 29/02/2002, anh có nhận cầm cố quyền sử dụng đất của vợ chồng ông Lê Văn S, bà Nguyễn  Thị  Ơ với diện tích là 05  công đất  ruộng tầm 3m (tương đương 6.480m2, tọa lạc tại ấp 5 B, xã N, Huyện A, Tỉnh K với số vàng cố đất là 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999). Khi cố hai bên có làm giấy tay với nhau và thỏa thuận thời hạn cố từ ngày 29/02/2002 đến ngày 29/02/2004, nếu đến hạn vợ chồng ông Sứ, bà Ơ không chuộc đất thì anh tiếp tục sử dụng. Anh đã giao vàng cho vợ chồng ông Sứ, bà Ơ xong và nhận 05 công đất canh tác. Do phần đất này năm trong chu vi đất của ông Sứ, bà Ơ nên khi nhà nước quy hoạch nuôi tôm anh không trồng lúa được nên đã cho con ông Sứ là anh Tùng thuê đến 2016. Sau khi hết hợp đồng anh Tùng không thuê nữa mà đã giao trả lại phần đất này cho ông Sứ, bà Ơ sử dụng. Hiện nay ông Sứ bà Ơ đã nhận lại đất cầm cố cho anh rồi nhưng chưa trả vàng cố đất cho anh.

Nay anh H yêu cầu hủy hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất giữa anh với vợ chồng ông Sứ, bà Ơ ngày 29/02/2002 và yêu cầu ông Sứ, bà Ơ trả lại cho anh 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999).

Bị đơn, ông Lê Văn S trình bày: Ông thống nhất là vào năm 2002, vợ chồng ông có cố cho anh Lê Văn H 05 công đất ruộng tầm 3m, tọa lạc tại ấp 5 B, xã N, Huyện A, Tỉnh K với số vàng là 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999), phần đất này nằm trong chu vi diện tích đất 30 của ông, khi cố hai bên thỏa thuận khi nào vợ chồng ông có vàng thì chuộc lại đất, nếu không chuộc thì anh H cứ canh tác. Sau khi Nhà nước quy hoạch nuôi tôm thì anh H cho con trai ông tên là Tùng thuê lại mỗi công 800.000đ/năm,  từ  2013  đến  năm  2016  anh  H  cho  Tùng  thuê  với  số  tiền 10.000.000đ/diện tích 05 công. Sau khi hết hợp đồng thì anh Tùng không thuê nữa và anh H cũng không canh tác nên vợ chồng ông đã nhận lại phần đất này rồi. Vì đất này nằm trong chu vi đất của ông chưa có bờ bao riêng.

Nay ông yêu cầu mỗi năm trả cho anh H 04 chỉ vàng 24kr đến khi trả đủ 20 chỉ vàng 24kr. Vì trả một lần 20 chỉ ông không có khả năng.

Bị đơn, bà Nguyễn Thị Ơ trình bày: Bà thống nhất với lời trình bày và yêu cầu của chồng bà là ông Lê Văn S.

Người làm chứng, anh Lê Thanh T trình bày: Trước đây anh có thuê 05 công đất của anh H, giá thuê mỗi công là 800.000đ/năm, từ  năm 2013 anh thuê đến năm 2016, thời hạn thuê là 03 năm với giá 10.000.000đ/05 công đất. Sau khi hết hợp đồng anh không thuê nữa và phần đất này hiện nay cha mẹ anh là ông Sứ, bà Ơ đang quản lý.

Nay anh có ý kiến là yêu cầu anh H cho cha mẹ anh chuộc lại mỗi năm là 04 chỉ vàng, chuộc lại một lần 20 chỉ là cha mẹ anh không có khả năng.

Tài liệu, chứng cứ do các bên đương sự cung cấp gồm: Tờ cố đất ngày 29/02/2002, hợp đồng cho thuê đất, biên bản hòa giải của ban lãnh đạo ấp 5 B ngày 08/4/2017.

Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay: Các đương sự giữ nguyên ý kiến, yêu cầu khởi kiện như đã trình bày trên.

Phần các đương sự thống nhất nhau:

– Phần diện tích 05 công đất cố vợ chồng ông Sứ, bà Ơ đã nhận lại rồi.

– Ông Sứ, bà Ơ còn nợ anh H số vàng cố đất là 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999).

Phần không thỏa thuận được:

– Anh Lê Văn H yêu cầu ông Sứ, bà Ơ trả cho anh số vàng cố đất là 20 chỉ vàng 24kr, trả đủ một lần.

– Ông Sứ, bà Ơ yêu cầu mỗi năm trả 04 chỉ vàng 24kr cho anh H đến khi dứt nợ.

Tại phiên tòa kiểm sát viên phát biểu:

Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong thời gian chuẩn bị xét xử:

Thẩm phán đã thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định đúng mối quan hệ pháp luật tranh chấp, tổ chức hòa giải, thu thập chứng cứ đúng theo trình tự Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, Thẩm phán chuyển hồ sơ cho việc kiểm sát nghiên cứu chưa đúng quy định tại Điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự và sắp xếp hồ sơ chưa đúng quy định tại Điều 204 Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa: Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa sơ thẩm đúng theo trình tự Bộ luật tố tụng dân sự. Thư ký ghi biên bản phiên tòa đúng chức năng, nhiệm vụ của mình.

Đối với đương sự tham gia giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các chứng cứ đương sự cung cấp, lời khai của các đương sự. Thấy rằng yêu cầu của nguyên đơn anh Lê Văn H là có cơ sở chấp nhận. Bởi vì, theo luật đất đai hiện hành không quy định người sử dụng đất được phép cầm cố. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều 123, 131 Bộ luật dân sự 2015 để tuyên bố giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất giữa anh H với ông Sứ, bà Ơ là vô hiệu và buộc ông Sứ, bà Ơ trả lại cho ông H 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do các đương sự cung cấp, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn anh Lê Văn H khởi kiện bị đơn vợ chồng ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ có nơi cư trú trên địa bàn Huyện A nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Huyện A theo quy định tại Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn anh Lê Văn H yêu cầu hủy hợp đồng cầm cố giữa anh với vợ chồng ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ nên quan hệ pháp luật được xác định trong vụ án là “Tranh chấp giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất”.

[3] Về nội dung vụ án: Anh Lê Văn H và vợ chồng ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ thống nhất là vào ngày 29 tháng 02 năm 2002, ông Sứ, bà Ơ có cố cho anh H 05 công đất tầm 3m với số vàng là 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999). Hiện nay phần đất cố ông Sứ, bà Ơ đã nhận lại rồi nhưng chưa trả lại vàng cố đất cho anh H.

Hội đồng xét xử, xét thấy anh H yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất giữa anh với ông Sứ, bà Ơ và yêu cầu ông Sứ, bà Ơ trả lại cho anh 20 chỉ vàng 24kr là có cơ sở chấp nhận. Bởi, theo quy định tại Điều 179 của Luật Đất đai hiện hành quy định về quyền của người sử dụng đất thì không quy định người sử dụng đất được phép cầm cố quyền sử dụng đất. Do đó, việc thỏa thuận cầm cố quyền sử dụng đất giữa ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ với anh Lê Văn H là vi phạm pháp luật nên bị vô hiệu theo quy định tại Điều 123 Bộ luật dân sự 2015.

Điều 123 Bộ luật dân sự 2015, có quy định: Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội.

“Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định”.

Theo quy định tại Điều 131 Bộ luật dân sự 2015, có quy định về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự bị vô hiệu như sau:

1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.

2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

Như vậy, giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất giữa ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ và anh Lê Văn H xác lập ngày 29/02/2002 là vô hiệu. Do đó, ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ có nghĩa vụ hoàn trả số vàng cố đất lại cho anh Lê Văn H là 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999) là phù hợp. Đối với phần đất cầm cố hiện nay anh Lê Văn H đã giao trả lại cho ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ xong nên Hội đồng xét xử ghi nhận và miễn xét.

Xét yêu cầu của ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ yêu cầu mỗi năm trả cho anh Lê Văn H 04 chỉ vàng đến khi trả đủ 20 chỉ là không có cơ sở chấp nhận. Bởi theo khoản 2 Điều 131 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “ Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận ”. Việc ông bà nhận của anh H 20 chỉ vàng 24kr thì phải có nghĩa vụ trả anh H 20 chỉ vàng 24kr. Trong trường hợp anh H đồng ý cho ông bà trả mỗi năm 04 chỉ vàng thì Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự. Tuy nhiên, anh H không đồng ý cho ông bà trả dần mỗi năm 04 chỉ vàng nên Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định pháp luật buộc ông bà có nghĩa vụ trả cho anh H 20 chỉ vàng 24kr, khi nào Bản án có hiệu lực pháp luật thì các bên căn cứ Bản án để yêu cầu thi hành án theo Luật thi hành án dân sự.

Từ các nhận định nêu trên, sau khi thảo luận Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Văn H, buộc ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ có nghĩa vụ trả cho Lê Văn H 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999).

[4] Về án phí DSST:

Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Án phí dân sự sơ thẩm 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

Yêu cầu của anh Lê Văn H được chấp nhận nên không phải chịu án phí. Hoàn trả lại cho anh Lê Văn H số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Buộc ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Xét thấy, kiểm sát viên phát biểu về việc vi phạm của Thẩm phán về thời hạn chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu và sắp xếp hồ sơ chưa đúng trình tự là phù hợp. Thẩm phán ghi nhận và rút kinh nghiệm khắc phục cho các vụ án khác. Xét thấy về nội dung Kiểm sát viên đề nghị là có cơ sở chấp nhận như Hội đồng xét xử phân tích ở phần trên.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân năm 2015; Điều 179 Luật đất đai năm 2013; Điều 123, 131 Bộ luật Dân sự 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Lê Văn H.

2. Tuyên bố giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất giữa ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ và anh Lê Văn H xác lập ngày 29/02/2002 là vô hiệu.

3. Buộc ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ có nghĩa vụ trả cho anh Lê Văn H 20 (Hai mươi) chỉ vàng 24kr (vàng 9999).

4. Ghi nhận anh Lê Văn H đã giao và vợ chồng ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ đã nhận xong 05 công đất cầm cố cho anh Lê Văn H.

5. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Buộc ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Ơ nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).

Hoàn trả cho anh Lê Văn H số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 0007910 ngày 16/6/2017 của Chi cục thi hành án dân sự Huyện A.

6. Quyền kháng cáo:

Án xử công khai, các đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành thoequy định Điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân  sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo Điều 6,7,9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được quy định theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Trường đại học luật Hà Nội Giáo trình “ Luật dân sự Việt Nam – tập I”, Nxb Công an nhân dân, 2018.
  2. Bộ luật dân sự 2015( có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2017), Nxb Lao động
  3. Luật đất đai 2013 ( có hiệu lực thi hành  ngày 1 tháng 7 năm 2014)
  4. Luật Tố tụng dân sự 2015
  5. Trịnh Thị Hòa, Luận văn thạc sĩ “ Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự vô hiệu”, 2017

[1] Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên, 2016), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, Nhà xuất bản Tư pháp, tr203

[2] Trịnh Thị Hòa, Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, 2017, tr22

[3] Nguyễn Thị Thanh (2013) “ Hoàn thiện các quy định về xử lý hậu quả của hợp đồng dân sư

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thực trạng thu hồi đất. Thực trạng hiện nay người dân thường bất đồng và khiếu nại với các cơ quan chức năng về tình trạng thu hồi đất còn nhiều khuất tất, ảnh hưởng tới đời sống của người dân. Anh (chị) hãy chỉ rõ những biểu hiện của những dạng sai phạm trong thu hồi đất và cho biết những nhận định, đánh giá của mình về vấn đề đó.

Luật Đất đai 2013 ra đời đánh dấu nhiều điểm mới và tiến bộ so với Luật đất đai 2003 về nội dung liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất, công tác quản lý Nhà nước về đất đai,.. phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội trong tình hình mới và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, sau khoảng thời gian triển khai thực hiện Luật Đất đai và các văn bản pháp luật có liên quan khác trong thực tiễn đã bộc lộ một số hạn chế, khó khăn bất cập trong công tác thu hồi đất dẫn đến tình trạng tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và đất đai có chiều hướng gia tăng, đồng thời gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người dân.

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VẤN ĐỀ THU HỒI ĐẤT

1. Khái niệm “thu hồi đất”

Thu hồi là động từ chỉ hành động “thu về lại cái trước đó đã đưa ra, đã cấp phát hoặc bị mất vào tay người khác”[1]. Căn cứ theo quy định của pháp luật hiện hành, thuật ngữ “thu hồi đất” được định nghĩa thông qua cụm từ “ Nhà nước thu hồi đất” tại khoản 11 Điều 3 Luật Đất đai 2013, cụ thể như sau: “Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai”.

Như vậy có thể hiểu một cách khái quát thì: Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại đất và quyền sử dụng đất đang có người sử dụng, trong những trường hợp nhất định theo quy định của pháp luật đất đai.

2. Các trường hợp bị thu hồi đất theo quy định pháp luật đất đai hiện hành

Luật Đất đai 2013 đã khắc phục được tính không khái quát, liệt kê trong các quy định về các trường hợp bị thu hồi đất trong Luật Đất đai 2003 bằng việc quy định rõ các trường hợp này theo 4 nhóm lí do cụ thể, đó là:

– Thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh (Điều 61)

– Thu hồi đất để phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia công cộng (Điều 62)

– Thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai (Điều 64)

– Thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất có nguy cơ đe dọa tính mạng con người (Điều 65)

3. Thẩm quyền thu hồi đất

Căn cứ  Điều 66 Luật Đất đai 2013, về cơ bản, thẩm quyền thu hồi đất thuộc về hai hệ thống cơ quan, đó là: UBND cấp tỉnh và UBND cấp huyện thống nhất với thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cụ thể như sau:

– Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:

+ Thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

Bài luận: Thực trạng thu hồi đất

+ Thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn.

– Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau:

+ Thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư;

+ Thu hồi đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam.

4. Trình tự, thủ tục thu hồi đất

Có thể khái quát các bước trong thu hồi đất như sau:

– Bước 1: Thông báo thu hồi đất.

– Bước 2: Điều tra, đo đạc, kiểm đếm.

– Bước 3: Xây dưng, lấy ý kiến người dân về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

– Bước 4: UBND cấp có thẩm quyền ban hành Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và Quyết định thu hồi đất trong cùng 1 ngày.

– Bước 5: Thực hiện bồi thường, hõ trợ, tái định cư.

– Bước 6: UBND cấp huyện ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất nếu người có đất đã được vận động thuyết phục nhưng không chấp hành việc bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng.

– Bước 7: Tiếp quản đất đã giải phóng mặt bằng.

II. NHỮNG SAI PHẠM TRONG THỰC TRẠNG THU HỒI ĐẤT THƯỜNG GẶP HIỆN NAY

1. Biểu hiện của những dạng sai phạm trong thu hồi đất thường gặp hiện nay

1.1. Sai phạm trong việc áp dụng các căn cứ thu hồi đất, dẫn đến việc thu hồi đất trở nên “vô tội vạ”

Nhiều nước trên thế giới hiện nay chỉ quy định khi thật cần thiết vì mục đích công cộng (bệnh viện, trường học,…) thì nhà nước mới thu hồi đất. Trong khi đó,  khoản 1 Điều 16 Luật Đất đai của nước ta hiện nay quy định 3 trường hợp nhà nước thu hồi đất đai. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đề việc thu hồi đất có tính chất “vô tội vạ”, không để ý đến bảo vệ tài sản ở trên đất của người dân, dẫn đến lạm dụng trong thu hồi đất, dễ xảy ra tiêu cực. Tại một số địa phương, tình trạng thu hồi đất không đúng mục đích nhằm trục lợi cá nhân vẫn xảy ra. Do một số dự án khó chứng minh được tính vì lợi ích quốc gia, lợi ích doanh nghiệp, vì vậy một số doanh nghiệp lợi dụng điểm này khiến một số hộ dân mất đất ở để “đổi” lấy những dự án treo.

          Mới đây, chính quyền quận Long Biên, TP Hà Nội đã bị phát hiện “núp bóng” dự án công để thu hồi gần 4 ha “đất vàng”. Nhận định về vấn đề này, luật sư Nguyễn Văn Nghi (Đoàn luật sư Hà Nội) cho biết: “Hiểu nôm na thì ban đầu thành phố Hà Nội có dự định xây dựng một trường học chất lượng cao nên giao cho quận Long Biên tổ chức mời thầu và lựa chọn nhà đầu tư thực hiện. Tôi hiểu rằng ban đầu đây là một dự án xây dựng trường công lập nên nhà nước đứng ra thu hồi đất là phù hợp với các quy định của pháp luật. Đáng ra sau khi lựa chọn được nhà đầu tư thì quận Long Biên và nhà đầu tư phải kí hợp tác đầu tư theo những hình thức đầu tư được quy định tại Luật Đầu tư năm 2005. Ấy nhưng quận Long Biên không làm như thế mà thu hồi đất xong rồi giao cho doanh nghiệp xây dựng, kinh doanh kiếm lợi. Nếu thực sự như vậy, tôi nghĩ quận Long Biên đã núp bóng dự án đầu tư công để thu hồi đất không đúng quy định của Luật Đất đai”[2]. Trong trường hợp này, xây dựng trường học tư kinh doanh để kiếm lời không nằm trong mục đích thu hồi đất của nhà nước nhưng việc thu hồi đất và việc bồi thường không thỏa đáng cho người dân vẫn xảy ra. Có thể thấy cơ quan địa phương đã không có trách nhiệm, trục lợi cá nhân dẫn đến mất quyền lợi của người dân, họ mất đất, mất ruộng, không được hưởng lợi ích gì ngoài một khoản tiền vô cùng rẻ mạt.

1.2. Sai phạm trong việc thu hồi đất không đúng thẩm quyền

Do thẩm quyền thu hồi đất giao cho địa phương, pháp luật đất đai lại còn thiếu chặt chẽ, dẫn đến một số cá nhân lợi dụng chức vụ quyền hạn, dẫn đến việc thu hồi  đất không đúng thẩm quyền. Theo quy định pháp luật về đất đai, thẩm quyền thu hồi đất thuộc về Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Uỷ ban nhân dân cấp huyện nhưng có rất nhiều trường hợp thu hồi đất không đúng thẩm quyền.

Bài luận: Thực trạng thu hồi đất

Vừa qua, UBND tỉnh Thái Bình đã ra Kết luận thanh tra số 191/KL–UBND liên quan tới tố cáo (TC) về sai phạm trong việc thu hồi quyền sử dụng đất của người dân tại huyện Kiến Xương. Trong đó, nội dung công dân TC ông Bùi Đức Hạnh, nguyên Chủ tịch UBND huyện Kiến Xương “không trả lời đơn khiếu nại (KN) của công dân” là TC đúng. Nội dung kết luận còn chỉ rõ, nguyên Chủ tịch UBND huyện Kiến Xương nay là Phó Giám đốc Sở Công thương từng ký 03 quyết định không đúng thẩm quyền[3]. Qua công tác kiểm tra và thanh tra, UBND tỉnh Thái Bình đã ban hành Kết luận số 191/KL-UBND, theo đó, nguyên Chủ tịch UBND huyện Kiến Xương đã ban hành các quyết định thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chỉ đạo việc cắm mốc thu hồi đất thổ cư của bố mẹ công dân sai quy định, trục lợi cá nhân. UBND tỉnh Thái Bình đã yêu cầu ông Bùi Đức Hạnh, nguyên Chủ tịch UBND huyện Kiến Xương (nay là Phó Giám đốc Sở Công thương) nghiêm túc kiểm điểm trách nhiệm trong việc để xảy ra những sai phạm.

1.3. Sai phạm trong trình tự, thủ tục thu hồi đất

Điều 69 Luật Đất đai 2013 đã quy định cụ thể trình tự, thủ tục thu hồi đất. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, các vi phạm do các chủ thể quản lý thực hiện do làm trái các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi đất diễn ra rất đa dạng như: Định giá đất sai, phân loại đất không sát theo luật định, khai tăng diện tích đất, tăng hộ để lấy tiền đền bù hay bớt xén tiền đền bù,…

Có thể kể đến trường hợp Thu hồi đất tại thôn Minh Khai, thị trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên để thực hiện dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật Cụm công nghiệp Minh Khai mở rộng. Cơ quan có thẩm quyền  không tiến hành gửi thông báo đến từng hộ có đất bị thu hồi; không tổ chức lấy ý kiến trực tiếp của người dân về phương án bồi thường, hỗ trợ; không tổ chức kiểm đếm, thống kê hoa màu trên đất; ra quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt phương án chi tiết bồi thường hỗ trợ không trong cùng một ngày…. Lợi dụng việc những người nông dân kém hiểu biết pháp luật cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất đã bỏ qua những bước cơ bản cho thấy sự yếu kém về quản lý, thiếu công khai, minh bạch giữa cơ quan công quyền với người nông dân.

1.4. Sai phạm trong việc thực hiện các chính sách bồi thường, tái định cư cho người dân bị thu hồi đất

Với người nông dân thì nguồn thu nhập chính cũng được tạo ra trên những mảnh đất nông nghiệp nên khi mất đất họ phải chuyển đổi ngành nghề, cuộc sống gặp vô vàn khó khăn. Tuy nhiên, người dân được bồi thường, hỗ trợ với mức rất thấp, không đảm bảo cuộc sống cho bản thân và gia đình. Có thể kể đến việc thu hồi đất nông nghiệp tại phường Ninh Xá, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh để thực hiện dự án xây nhà ở để bán. Khi thu hồi đất, người dân được bồi thường đất với giá vô cùng rẻ mạt nhưng cán bộ lại tiến hành mua đi bán lại với giá cao để hưởng chênh lệch. Sự việc gây bức xúc lớn trong nhân dân dẫn đến khiếu kiện lên các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để đòi quyền lợi của mình nhưng cán bộ bao che cho nhau, yêu cầu của người dân không những không được giải quyết mà còn bị đe dọa, xúc phạm. Hay việc thu hồi đất tại thôn Minh Khai, thị trấn Như Quỳnh, Huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên đã có nhiều hộ không đồng ý với mức bồi thường, hỗ trợ do chính quyền không tiến hành lấy ý kiến của dân về phương án bồi thường. Do đó, khi tiến hành bồi thường đã gặp phải sự phản đối quyết liệt của người dân.

Bài luận: Thực trạng thu hồi đất

Hoặc nghiêm trọng hơn lại có một số sai phạm nghiêm trọng trong việc xác định hộ gia đình được hưởng chính sách tái định cư khi bị thu hồi đất tại một số địa phương. Trong đơn gửi Báo Nhân Dân, nhiều hộ dân có đất nông nghiệp bị thu hồi để thực hiện sáu dự án (gồm: Dự án xây dựng Khu đô thị mới Hạ Ðình; dự án Xây dựng chợ Yên Xá; dự án xây dựng Trường tiểu học Tân Triều; dự án Nhà ở giãn dân tại điểm dân cư nông thôn Triều Khúc; dự án Indeco Complex và dự án hạ ngầm đường điện 110 kV; dự án Khu đô thị Tây Nam Kim Giang I) đều có chung bức xúc: Việc thu hồi đất của UBND thành phố Hà Nội là chủ trương đúng đắn nhằm phát triển kinh tế-xã hội, tuy nhiên, trong quá trình lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, các cơ quan chức năng của huyện Thanh Trì đã không thực hiện đúng quy định. Cụ thể: Theo quy định của UBND thành phố Hà Nội, đối với các hộ dân khi bị thu hồi hơn 30% diện tích đất nông nghiệp thì sẽ được hưởng chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm bằng 60 m2 đất ở. Trong danh sách 124 hộ được cấp đất tái định cư theo Quyết định số 1939/QÐ-UBND ngày 23-4-2014 của UBND huyện Thanh Trì khi bị thu hồi đất tại sáu dự án nêu trên thì 10 hộ không có đất bị thu hồi và ba hộ chưa bị thu hồi đến 30% đất nông nghiệp vẫn được bố trí tái định cư.

Bên cạnh đó, giải quyết việc làm cho người nông dân bị thu hồi đất vẫn còn nhiều tồn tại. Sự phối hợp giữa cơ quan nhà nước và địa phương trong đào tạo chuyển đổi việc làm cho người nông dân chưa chặt chẽ; dẫn tới người nông dân còn ngần ngại với việc học nghề mới, khó khăn trong việc tiếp nhận công nghệ hiện đại.

2. Nguyên nhân dẫn đến các sai phạm trong việc thu hồi đất đai

Thứ nhất, quản lý nhà nước về đất đai vẫn chưa chặt chẽ, đồng thời chế tài xử lý vi phạm chưa có đủ sức răn đe dẫn đến việc một số đối tượng còn coi thường pháp luật, cố tình gây sai phạm nhằm trục lợi trong quá trình thu hồi đất đai.

Thứ hai, pháp luật về thu hồi đất đai còn nhiều hạn chế, thiếu sự thống nhất, chưa thỏa đáng với nguyện vọng của nhân dân. Cụ thể, Luật Đất đai 2013 quy định việc thu hồi đất theo Điều 61, 62, 64 và 65 là cần thiết nhằm bảo vệ và sử dụng hiệu quả tài nguyên đất để phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng. Song, khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban bành quyết định thu hồi và tiến hành thu hồi lại gặp nhiều khó khăn do người bị thu hồi đất không chấp hành quyết định thu hồi hoặc tự nguyện thực hiện quyết định nhưng chậm giao đất theo quy định, nhiều trường hợp khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tổ chức cưỡng chế thì người bị thu hồi đất gây cản trở người thi hành công vụ, có trường hợp dùng các biện pháp nguy hiểm (dùng chất nổ, vũ khí nguy hiểm khác tấn công người thi hành công vụ) làm ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng người thi hành công vụ,… vì họ cho rằng giá đất bồi thường, chính sách trước và sau thu hồi đất không tương xứng với thị trường và lợi ích thực tế đất bị thu hồi mang lại. Có thể nói, đây là bất cập lớn đối với việc thực hiện các quy định của pháp luật về thu hồi đất thời gian qua.

Thứ ba, nhận thức pháp luật của cán bộ quản lý đất đai còn yếu kém, một số cán bộ chưa được đào tạo nghiệp vụ, áp dụng đúng với văn bản pháp luật hiện hành; việc tiếp thu ý kiến của người dân bị thu hồi đất chưa được thực hiện nghiêm túc, chưa giải thích được những vướng mắc của người dân.

III. KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN, KHẮC PHỤC THỰC TRẠNG THU HỒI ĐẤT

Thứ nhấthoàn thiện quy định về thu hồi đất và trình tự thủ tục thu hồi đất để xây dựng khu đô thị.

Thời hạn thông báo thu hồi đất như quy định tại Khoản 1 Điều 67 Luật Đất đai năm 2013 là chưa phù hợp mà nên sửa đổi theo hướng phù hợp với hiện trạng từng địa phương và phải phù hợp với thời kỳ thu hoạch. Mục đích thu hồi, trình tự thu hồi đất để xây dựng khu đô thị và thu hồi vì mục đích quốc phòng, an ninh là khác nhau; vậy nên phương thức và trình tự thủ tục cần thiết phải quy định khác nhau. Quy định này nhằm tránh gây thất thoát, lãng phí quỹ đất và thiệt thòi của người nông dân bị thu hồi đất.

Thứ haihoàn thiện quy định về khung giá đất.

Hoàn thiện cơ chế về định giá đất để xác định chính xác được giá thực tế trên thị trường. Cần cắt giảm bớt các trường hợp cơ quan nhà nước trực tiếp quyết định giá đất, nên khuyến khích sự thỏa thuận giữa các bên. Định giá đất là hoạt động mang tính nghề nghiệp, bởi vậy giao thẩm quyền cho cơ quan hành chính là Ủy ban nhân dân như quy định tại Khoản 1 Điều 144 Luật Đất đai năm 2013 là không hợp lý bởi làm tăng tính độc quyền quyết định đất đai ở địa phương, tăng khả năng tham nhũng trong quản lý đất đai. Pháp luật nên quy định thẩm quyền định giá đất khi Nhà nước thu hồi đất thuộc về một cơ quan, tổ chức độc lập chuyên hoạt động ở lĩnh vực định giá đất.

Thứ bahoàn thiện quy định về chính sách bồi thường, hỗ trợ để đảm bảo ổn định cuộc sống cho người nông dân bị thu hồi đất

Việc bồi thường bằng tiền mặt một lần chỉ giải quyết được quyền lợi trước mắt, có thể coi là xóa đói giảm nghèo ngay cho người nông dân. Nhưng đây không phải là giải pháp tối ưu nếu người nông dân không làm chủ được tài chính, tiêu xài phung phí, thì sẽ không đáp ứng cuộc sống, dẫn đến nghèo đói.

Cần đổi mới và đa dạng hóa các hình thức bồi thường trên cơ sở nâng cao sự đồng thuận. Để tránh sự bất bình đẳng, phần chênh lệch giá đất khi chuyển mục đích sử dụng đất cần được san sẻ cho người dân bị thu hồi đất để đảm bảo quyền lợi cho họ.  Cần thiết phải pháp điển hóa hình thức bồi thường thiệt hại xảy ra thực tế; những thiệt hại về vật chất hay phi vật chất nhưng tính được mức độ thiệt hại như thiệt hại môi trường, sức khỏe, tinh thần của người nông dân bị thu hồi đất.

Thứ tưkhắc phục những khó khăn trong việc xác định nguồn gốc đất dẫn đến sự khó khăn trong việc xác định điều kiện để được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người dân.

Thứ nămnhanh chóng ổn định cuộc sống và giải quyết việc làm cho người dân bị thu hồi đất.

Nhà nước cần tiến hành nhiều chính sách hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề, đào tạo nghề mới, chính sách vay vốn tín dụng, chính sách hỗ trợ sản xuất, hỗ trợ đóng bảo hiểm… cho hộ nông dân nghèo. Nên quan tâm nhiều hơn đến hệ thống đào tạo nghề để đào tạo cho người nông dân bị thu hồi đất; từ trường lớp, đội ngũ giáo viên, lĩnh vực đào tạo cho phù hợp với văn hóa từng địa phương. Mô hình làng nghề truyền thống cũng rất tốt và phù hợp với phong tục tập quán nước ta. Những lao động độ tuổi 50 trở lên khó có khả năng chuyển đổi nghề nghiệp thì nên dành phần đất sát với khu quy hoạch xây dựng khu đô thị để họ có thể xây dựng mô hình kinh doanh, dịch vụ nhỏ lẻ như buôn bán, xây nhà trọ cho thuê…

Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, giữ vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội và sự ổn định đời sống của người dân. Trong quá trình phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc thu hồi đất để phục vụ cho lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế – xã hội là một quá trình tất yếu, tác động rất lớn đến người bị thu hồi đất. Vì vậy, Nhà nước cần chú trọng hơn vào việc giám sát, thực hiện quá trình thu hồi đất đai với người dân nhằm tránh những sai phạm đáng tiếc, gây bất ổn, mất lòng tin với nhân dân.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Luật Đất đai 2003
  2. Luật Đất đai 2013
  3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật đất đai, Nxb.CAND, Hà Nội, 2018

Thực trạng thu hồi đất.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Trách nhiệm, nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong hoạt động huy động vốn nhằm đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền – liên hệ thực tiễn.

Việt Nam đang trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với xu hướng “toàn cầu hoá” hiện nay, nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế lại càng trở nên cấp thiết. Các tổ chức tín dụng (TCTD) là một loại hình doanh nghiệp đặc thù với lĩnh vực kinh doanh tiền tệ nên vô cùng nhạy cảm với nền kinh tế. Các Tổ chức tín dụng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức sử dụng vốn tự có và vốn huy động để cho vay, đầu tư và cung cấp dịch vụ tiền tệ khác. Như vậy, an toàn trong kinh doanh là yêu cầu bức thiết đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng. Để đảm bảo an toàn trong kinh doanh của các TCTD pháp luật có những quy định có tính hạn chế quyền tự do kinh doanh của các TCTD nhằm bảo đảm an toàn cho chính họ, đồng thời để bảo vệ những lợi ích chung của Nhà nước bao gồm sự ổn định tiền tệ quốc gia, sự an toàn của cả hệ thống các tổ chức tín dụng, lợi ích của người gửi tiền và hạn chế đến mức thấp nhất những tiêu cực, rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của tổ chức tín dụng.

I. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM

1.Khái quát hoạt động huy động vốn của tổ chức tín dụng

Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân[1]

Huy động vốn theo nghĩa chung nhất là việc các TCTD tập trung những giá trị tiền tệ từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng là vốn để kinh doanh.

Huy động vốn là hoạt động thường xuyên và luôn gắn liền với kế hoạch kinh doanh của TCTD, bởi lẽ vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu để các TCTD tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình. Chính vì vậy, khi tiến hành các hoạt động huy động vốn, TCTD phải tính toán sao cho việc sử dụng đồng vốn huy động được hiệu quả nhất. Mặt khác, huy động vốn xét về bản chất chính là việc TCTD đi vay tiền từ các chủ sở hữu số tiền đó và có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút vốn.

Vai trò của hoạt động huy động vốn:

– Đối với các TCTD:

 Huy động vốn đem lại nguồn vốn lớn, chủ yếu cho các TCTD tiến hành các hoạt dộng kinh doanh. Nguồn vốn này là cơ sở để các TCTD tổ chức mọi hoạt động kinh doanh, quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của TCTD, quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của TCTD trên thương trường, quyết định năng lực cạnh tranh của TCTD,..Không những thế, huy động vốn còn tạo tiền đề để TCTD tiến hành các hoạt động kinh doanh khác như: làm dịch vụ thanh toán, ngân quỹ, góp phần làm tăng thêm lợi nhuận cho các TCTD.

– Đối với nền kinh tế:

Thông qua hoạt động huy động vốn của các TCTD, nền kinh tế có thêm một kênh thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi khác nhau trong dân cư nhằm đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho kênh phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, sự cung cầu vốn giữa các thành phần khác nhau trong xã hội gặp nhau được dễ dàng hơn. Cũng qua hoạt động này, Nhà nước có thể điều chỉnh chính sách tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền, thúc đẩy phát triển kinh tế. Hơn nữa, chính sách lãi suất huy dộng vốn hợp lý, hoạt động huy động vốn của các TCTD sẽ tăng khả năng kích thích tiết kiệm trong nhân dân. Thông qua hoạt động này chúng ta có thể đánh giá được trình độ phát huy nội lực của quốc gia, khai thác tiềm năng của mọi nguồn vốn đang còn tiềm ẩn thu gom được một lượng tiền tương đối lớn trong nền kinh tế, giảm dần lượng tiền mặt trong lưu thông. Từ đó, các TCTC có thể tập trung được các nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế, góp phần nâng cao đời sống nhân dân.

2. Pháp luật chiều chỉnh hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Hiện nay, theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, các TCTD được huy động vốn thông qua bốn hình thức sau:

Thứ nhất, huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi:

Khoản 13 Điều 4 Luật các TCTD 2010 đưa ra định nghĩa về hoạt động này: “Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận”

Như vậy, trên phương diện pháp lý thì “quan hệ tiền gửi” là quan hệ kinh tế phát sinh giữa một bên là tổ chức, cá nhân gửi tiền với bên kia là tổ chức được phép nhận tiền gửi. Xét về bản chất thì quan hệ tiền gửi là một quan hệ hợp đồng vay nợ, bởi vì quan hệ này được thiết lập dựa trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và tự do thỏa thuận giữa các chủ thể; Có sự chuyển giao một lượng tiền nhất định từ người gửi tiền sang tổ chức nhận tiền gửi để tổ chức này quản lý, sử dụng. Sau đó, tổ chức nhận tiền gửi có nghĩa vụ phải hoàn trả cho người gửi tiền cả gốc và lãi (nếu có) khi đến hạn hoặc khi người gửi tiền có yêu cầu; Đồng thời, quan hệ gửi tiền phát sinh trên cơ sở có sự tín nhiệm giữa các bên. Trong các hình thức huy động vốn của TCTD, hình thức huy động vốn bằng nhận tiền gửi là hình thức chủ yếu, chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn vốn huy động của mỗi TCTD.

Các loại tiền gửi: Tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.

Thứ hai, huy động vốn thông qua việc phát hành giấy tờ có giá

 Theo Khoản 8, Điều 6, Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010; Khoản 1, Điều 3 Thông tư 04/2016/TT-NHNN và Khoản 1 Điều 2 Thông tư 01/2012/TT-NHNN quy định: ‘’ Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”.

Các giấy tờ có giá do TCTD phát hành là một công cụ vay nợ trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn dưới hình thức giấy nhận nợ hoặc chứng chỉ tiền gửi, trong đó TCTD cam kết trả gốc, lãi cho người mua sau một thời gian nhất định

Dựa trên các quy định của pháp luật hiện hàng thì giấy tờ có giá bao gồm:

– Căn cứ vào thời hạn phát hành:

+ Giấy tờ có giá ngắn hạn

+ Giấy tờ có giá dài hạn

– Căn cứ và chủ sở hữu giấy tờ có giá:

+ Giấy tờ có giá ghi danh

+Giấy tờ có giá vô danh

TCTD muốn được huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá phải thỏa mãn những điều kiện mà pháp luật quy định và được thống dốc Ngân hàng Nhà nước hoặc người được Thống đốc ủy quyền chấp thuận bằng văn bản. TCTD huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá phỉa có trách nhiệm công bố công khai về việc phát hành giấy tờ có giá theo quy định, phải thanh toán tiền gốc và lãi đúng hạn và đầy đủ cho người sở hữu giấy tờ có giá và phải thực hiện chế độ báo cáo kết quả phát hành cho Ngân hàng Nhà nước theo quy định.

Thứ ba, huy động vốn bằng việc vay vốn giữa các Tổ chức tín dụng

Ngoài việc huy động vốn của dân cư và của các tổ chức kinh tế- xã hội, Pháp luật còn cho phép TCTD được vay vốn của các TCTD khác ở trong nước và các TCTD nước ngoài. Quy định cụ thể trong hoạt động vay vốn giữa các TCTD được nói rõ trong Luật các TCTD 2010 đối với từng loại hình TCTD. Việc vay và cho vay vốn của các TCTD sẽ giúp cho các tổ chức tín dụng điều hòa, phân phối vốn để tăng cường khả năng thanh toán, đảm bảo an toàn, hiệu quả choa hoạt động của từng TCTD. Quan hệ vay vốn này được thực hiện dựa trên cơ sở hợp đồng tín dụng.

Về biện pháp bảo đảm, các bên thỏa thuận việc áp dụng hoặc không áp dụng hình thức bảo đảm cho khoản vay bao gồm đảm bảo bằng tài sản, bảo lãnh của một TCTD khác. Việc áp dụng hình thức bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm tiền vay được thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành. Về phương thức cho vay các bên thỏa thuận áp dụng phương thức cho vay từng lần, theo hạn mức hoặc các phương thức khác phù hợp với quy định của pháp luật.

Thứ tư, huy động vốn thông qua vay vốn của Nhà nước.

Ngoài các hình thức huy động vốn đã nêu, các TCTD có thể vay vốn từ Ngân hàng Nhà nước. Hoạt động này vừa là một hình thức huy động vốn của TCTD vừa là một công cụ để Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ, tái cấp vốn.

II. TRÁCH NHIỆM, NGHĨA VỤ CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN NHẰM ĐẢM BẢO QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI GỬI TIỀN

1. Bảm đảm an toàn cho người gửi tiền

Bảo đảm an toàn cho người gửi tiền là sự bảo đảm an toàn về số tiền mà khách hàng gửi vào TCTD và những thông tin về chính khách hàng phải được bảo vệ và giữ bí mật.

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 14 Nghị định 117/2018/NĐ-CP thì Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có trách nhiệm sau đây:

“2. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có trách nhiệm sau đây:

a) Cung cấp thông tin khách hàng trung thực, đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng và phạm vi thông tin được yêu cầu cung cấp;

b) Đảm bảo an toàn, bí mật thông tin khách hàng trong quá trình cung cấp, quản lý, sử dụng, lưu trữ thông tin khách hàng;

c) Giải quyết khiếu nại của khách hàng trong việc cung cấp thông tin khách hàng theo quy định của pháp luật;

d) Tổ chức giám sát, kiểm tra và xử lý vi phạm quy định nội bộ về giữ bí mật, lưu trữ, cung cấp thông tin khách hàng;

đ) Chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật đối với trường hợp vi phạm quy định của Nghị định này, pháp luật có liên quan.”

            Căn cứ khoản 1, 2 Điều 35 BLDS 2015 và Điều 6 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 thì việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, tổ chức phải được cá nhân, tổ chức đồng ý. Ngoài ra, Điều 38 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt nam 2010 và Điều 14 Luật các tổ chức tín dụng 2010 đều có quy định về nghĩa vụ bảo vệ bí mật bí mật thông tin liên quan đến tài khoản, tiền gửi, tài sản gửi và các giao dịch của khách hàng. Về nguyên tắc giữ bí mật, cung cấp thông tin khách hàng, Nghị định 117/2018/NĐ-CP quy định về việc giữ bí mật, cung cấp thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng nêu rõ tại Điều 4: “Thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải được giữ bí mật và chỉ được cung cấp theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nghị định này và pháp luật có liên quan”.

            Như vậy, thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng phải được bảo mật tuyệt đối, trừ các trường hợp pháp luật quy định được phép cung cấp. Bảo mật thông tin của khách hàng là trách nhiệm của các tổ chức tín dụng, các chi nhánh ngân hàng, các cơ quan, tổ chức này không được tự ý tiết lộ thông tin khách hàng ra bên ngoài hay thực hiện bất kì hành vi bất chính nào như việc trục lợi, sử dụng trái phép, mua bán, trao đổi, tặng cho, sửa chữa, thay đổi hoặc công khai hóa thông tin đó. Ngoài ra, sự an toàn còn được thể hiện ở tính hoàn trả cả gốc và lãi cho người gửi tiền khi hợp đồng hết hạn. Đây cũng là nghĩa vụ của TCTD khi thực hiện hợp đồng gửi tiền theo quy định của pháp luật.

Đồng thời, Nghị định 117/2018/NĐ-CP cũng có quy định để khách hàng có thể bảo vệ mình trong trường hợp có vi phạm xảy ra, theo đó, khách hàng có quyền khiếu nại, khởi kiện, yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật trong trường hợp cơ quan nhà nước, tổ chức khác, cá nhân, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cung cấp, sử dụng thông tin khách hàng không đúng quy định của pháp luật.

2. Công bố công khai các dịch vụ và chế độ ưu đãi đối với người gửi tiền

            Quy định về vấn đề này, theo khoản 4 Điều 10 Luật các TCTD 2010 thì các TCTD phải có trách nhiệm Thông báo công khai lãi suất tiền gửi, phí dịch vụ, các quyền, nghĩa vụ của khách hàng đối với từng loại sản phẩm, dịch vụ đang cung ứng”

            Bản chất của việc TCTD nhận tiền gửi của người gửi tiền là hợp đồng vay tài sản. Như vậy, mọi điều khoản của hợp đồng phải được công khai. Trong quan hệ hợp đồng này, TCTD tự nắm bắt và chi phối được quyền lợi của mình nhưng người gửi tiền thì không thể thực hiện được điều đó. Quyền lợi của người gửi tiền chịu sự chi phối của TCTD. Vì thế, để thực hiện đúng quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng và bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, các TCTD phải công khai các loại dịch vụ và ưu đãi đối với người gửi tiền trong từng loại dịch vụ đó.

            Mục đích của người gửi tiền vào TCTD rất đa dạng, có người muốn gửi để an toàn, hưởng lợi nhuận, có người muốn mở tài khoản để thanh toán,…Tuy nhiên, dịch vụ mà được nhiều người gửi tiền lựa chọn nhất đó là gửi tiết kiệm để hưởng lãi suất. Có thể khẳng định nhiều người ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt là tầng lớp người già , tiền sinh hoạt của họ trông chờ vào tiền lãi mà họ nhận hàng tháng khi tham gia hoạt động gửi tiền vào các TCTD. Để đảm bảo quyền lợi và thỏa mãn nhu cầu này của người gửi tiền, các TCTD đưa ra các loại hình gửi tiết kiệm phong phú: không kì hạn, có kì hạn (kì hạn 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng,..) Thông thường, kì hạn càng kéo dài thì mức lãi suất càng cao. Tùy vào mục đích và nhu cầu, người gửi tiền tự lựa chọn dịch vụ cho phù hợp. Để đảm bảo quyền được thông tin của người gửi tiền, tất cả các dịch vụ kể trên của TCTD được công khai tại thông qua nhiều hình thức (ghi trong hợp đồng mẫu của ngân hàng, niêm yết công khai tại quầy giao dịch của ngân hàng,…). Qua đó, người gửi tiền biết rõ quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia hợp đồng với TCTD.

3. Thực hiện đúng và đầy đủ các quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn và phòng tránh rủi ro trong quá trình hoạt động

            Để đảm bảo khoản tiền gửi của khách hàng, TCTD phải thực hiện đúng các quy định về tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của mình. Cụ thể trong Luật các Tổ chức tín dụng 2010 và Thông tư 13/2018/VBHN- NHNN quy định các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Theo đó, các TCTD phải đảm bảo các quy định về:

  • Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu: các TCTD phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% giữa vốn tự có so với tổng tài sản “có” rủi ro của TCTD (tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ)[2]. Phải thực hiện Báo cáo tài chính hợp nhất theo quy định của pháp luật, ngoài việc duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu nêu trên, phải đồng thời duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% trên cơ sở hợp nhất vốn, tài sản của TCTD và công ty trực thuộc (tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu hợp nhất).
  • Giới hạn tín dụng: các TCTD phải căn cứ vào quy định tại Thông tư trên, quy chế nội bộ về quản lý chất lượng tín dụng để xây dựng, ban hành quy định về các tiêu chí xác định một khách hàng và nhóm khách hàng có liên quan, chính sách tín dụng đối với khách hàng và các giới hạn tín dụng áp dụng đối với một khách hàng và nhóm khách hàng có liên quan.
  • Tỷ lệ về khả năng chi trả, cuối mỗi ngày: TCTD phải xác định và có các biện pháp để đảm bảo các tỷ lệ về khả năng chi trả cho ngày hôm sau như tỷ lệ tối thiểu bằng 15% giữa tổng tài sản “có” thanh toán ngay và tổng nợ phải trả.
  • Giới hạn góp vốn, mua cổ phần, mức góp vốn, mua cổ phần của TCTD trong một doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư không được vượt quá 11% vốn điều lệ của doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư đó trừ trường hợp góp vốn, mua cổ phần thành lập công ty trực thuộc theo quy định của pháp luật.
  • Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động: TCTD chỉ được sử dụng nguồn vốn huy động để cấp tín dụng với điều kiện trước và sau khi cấp tín dụng đều đảm bảo tỷ lệ về khả năng chi trả và các tỷ lệ bảo đảm an toàn khác quy định tại Thông tư này.

      Bên cạnh đó, các TCTD còn phải xác lập mức dự phòng rủi ro và xử lý rủi ro. Hoạt động ngân hàng là hoạt động luôn tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro cao. Vì vậy, việc quy định các biện pháp phòng ngừa và xử lý rủi ro tín dụng là rất cần thiết nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của các TCTD và đảm bảo quyền lợi người gửi tiền.

4. Tạo thuận lợi cho khách hàng gửi tiền, rút tiền theo yêu cầu

      Một trong những yêu cầu tiên quyết đối với các TCTD trong hoạt động huy động vốn chính là việc tạo thuận lợi tối đa cho các khách hàng khi có nhu cầu gửi hay rút tiền. Bởi đa số người gửi tiền thực hiện gửi tiền vào các TCTD là nhằm mục đích cất trữ một khoản tiền nhàn rỗi và sinh lợi nhuận; khi có nhu cầu sử dụng cấp bách thì cần phải được sự hỗ trợ tích cực từ các TCTD, đây cũng là nghĩa vụ và trách nhiệm của họ.

      Thông tư 48/2018/TT-NHNN quy định về tiền gửi tiết kiệm đã quy định chi tiết về Thủ tục gửi tiền tiết kiệm cũng như thủ tục chi trả tiền gửi tiết kiệm của TCTD đối với khách hàng lần lượt tại Điều 12 và Điều 18. Các quy định về trình tư, thủ tục gửi tiền, rút tiền rất chặt chẽ, đầy đủ đảm bảo tính an toàn cho cả TCTD cũng như khách hàng, tuy nhiên vẫn rất nhanh chóng, thuận tiện cho người gửi tiền.

Ví dụ quy định về thủ tục gửi tiền gửi tiết kiệm tại địa điểm giao dịch của tổ chức tín dụng được quy định tại Điều 12 của thông tư như sau:

Điều 12. Thủ tục gửi tiền gửi tiết kiệm tại địa điểm giao dịch của tổ chức tín dụng

1. Người gửi tiền phải trực tiếp đến địa điểm giao dịch của tổ chức tín dụng và xuất trình Giấy tờ xác minh thông tin của người gửi tiền; trường hợp gửi tiền gửi tiết kiệm chung, tất cả người gửi tiền phải trực tiếp xuất trình Giấy tờ xác minh thông tin của mình. Trường hợp gửi tiền gửi tiết kiệm thông qua người đại diện theo pháp luật, người đại diện theo pháp luật phải xuất trình giấy tờ chứng minh tư cách đại diện của người đại diện theo pháp luật, Giấy tờ xác minh thông tin của người đại diện theo pháp luật và Giấy tờ xác minh thông tin của người gửi tiền.

2. Người gửi tiền đăng ký chữ ký mẫu trong trường hợp thay đổi chữ ký mẫu hoặc chưa có chữ ký mẫu được lưu tại tổ chức tín dụng. Đối với người gửi tiền là người không viết được, người không đọc được, người không nhìn được: người gửi tiền thực hiện theo hướng dẫn của tổ chức tín dụng.

3. Tổ chức tín dụng đối chiếu, cập nhật các thông tin người gửi tiền theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền.

4. Người gửi tiền thực hiện thủ tục khác theo hướng dẫn của tổ chức tín dụng.

5. Sau khi hoàn thành các thủ tục quy định tại khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này, tổ chức tín dụng thực hiện việc nhận tiền gửi tiết kiệm và giao Thẻ tiết kiệm cho người gửi tiền.

6. Đối với việc gửi tiền gửi tiết kiệm vào Thẻ tiết kiệm đã cấp:

a) Trường hợp gửi bằng tiền mặt: Người gửi tiền thực hiện các thủ tục quy định tại khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này, xuất trình Thẻ tiết kiệm đã cấp. Tổ chức tín dụng nhận tiền gửi tiết kiệm, ghi nhận tiền gửi tiết kiệm vào Thẻ tiết kiệm đã cấp và giao Thẻ tiết kiệm cho người gửi tiền;

b) Trường hợp gửi từ tài khoản thanh toán của người gửi tiền: người gửi tiền thực hiện các thủ tục do tổ chức tín dụng hướng dẫn.

5. Mua bảo hiểm tiền gửi

            Theo khoản 1 Điều 4 Luật Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) 2012: “ Bảo hiểm tiền gửi là sự bảo đảm hoàn trả tiền gửi cho người được bảo hiểm tiền gửi trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản”.

            Bảo hiểm tiền gửi xuất hiện như một đòi hỏi khách quan của nền kinh tế, là cơ sở để củng cố niềm tin của người gửi tiền đối với các TCTD. Hiện nay, BHTG là công cụ quan trọng nhất để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Người gửi tiền trong các TCTD đóng vai trò là người cho vay, khi các TCTD phá sản hoặc mất khả năng thanh toán các khoản tiền vay đó thì người gửi tiền phải chịu rủi ro. Như vậy, rủi ro của người gửi tiền về cơ bản nằm ngoài tầm kiểm soát của họ và họ không có khả năng tự bảo vệ mình. Vì thế, để đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền và đảm bảo cho an toàn cho nền tài chính quốc gia cần có một tổ chức đứng ra BHTG cho họ.

            Đặc điểm lớn nhất của BHTG là người được thụ hưởng (người gửi tiền) không phải là người tham gia bảo hiểm mà là chính các TCTD. Chính vì thế, BHTG trở thành hình thức bắt buộc đối với cá TCTD có huy động vốn từ dân cư. TCTD là người đi vay tiền của người gửi tiền nhưng đồng thời cũng là chủ thể trực tiếp chi phối quyền lợi của người gửi tiền. Bởi vậy, việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiên vừa là quyền vừa là nghĩa vụ và trách nhiệm của TCTD. TCTD huy động vốn, việc bảo vệ tốt quyền lợi của người gửi tiền là cơ sở củng cố niềm tin, tạo thêm cơ hội kinh doanh.

6. Mở Tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng nhà nước, duy trì số dư bắt buộc

            Các TCTD phải mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng nhà nước và phải duy trì dự trữ bắt buộc theo quy định tại Luật NHNN, Luật các TCTD. Quy định này nhằm đảm bảo hoạt động kinh doanh diễn ra thường xuyên và ổn định, an toàn. Từ đó, đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền trong hoạt động huy động vốn của tổ chức tín dụng

            Ngày 27/12/2019, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 30/2019/TT-NHNN quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Theo đó, dự trữ bắt buộc là số tiền mà tổ chức tín dụng phải gửi tại Ngân hàng Nhà nước được xác định theo quy định tại Điều 5, duy trì theo quy định tại Điều 9 và hướng dẫn tại Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư này; Điều 6 quy định Tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc và có 3 trường hợp tổ chức tín dụng không thực hiện dự trữ bắt buộc theo Điều 3.

Điều 5. Xác định dự trữ bắt buộc

1. Dự trữ bắt buộc trong kỳ duy trì dự trữ bắt buộc được Ngân hàng Nhà nước xác định cho từng tổ chức tín dụng bằng cách lấy tỷ lệ dự trữ bắt buộc quy định đối với tổ chức tín dụng theo từng loại tiền gửi trong kỳ duy trì dự trữ bắt buộc nhân với số dư bình quân tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc tại tổ chức tín dụng trong kỳ xác định dự trữ bắt buộc tương ứng theo từng loại tiền gửi.

Công thức tính dự trữ bắt buộc như sau:

DTBB =     i      (Tỷ lệ DTBBi x HĐi)

Trong đó:

DTBB: Số tiền phải dự trữ bắt buộc trong kỳ duy trì dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng;

Tỷ lệ DTBBi: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc quy định đối với tổ chức tín dụng tương ứng với tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc loại i áp dụng trong kỳ duy trì dự trữ bắt buộc;

i: Số dư bình quân tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc loại i tại tổ chức tín dụng trong kỳ xác định dự trữ bắt buộc.

2. Số dư bình quân tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc tại tổ chức tín dụng trong kỳ xác định dự trữ bắt buộc được tính bằng cách cộng các số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc cuối mi ngày tại toàn hệ thống của tổ chức tín dụng (bao gồm trụ sở chính, chi nhánh ở trong nước và các đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc ở trong nước của tổ chức tín dụng hoặc trụ sở của chi nhánh ngân hàng nước ngoài) trong kỳ chia cho tổng số ngày trong kỳ xác định dự trữ bắt buộc.

Công thức tính số dư bình quân tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc đối với từng loại tiền gửi như sau:

Số dư bình quân tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc loại i (HĐi)=Tổng số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc loại i cuối mỗi ngày trong kỳ xác định dự trữ bắt buộc
Số ngày trong kỳ xác định dự trữ bắt buộc

III. THỰC TRẠNG TRÁCH NHIỆM, NGHĨA VỤ CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN

1. Những mặt đạt được

            – Trách nhiệm của các tổ chức tín dụng (TCTD) nhận tiền gửi là đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền cũng như giữ vững được uy tín, thương hiệu. Để đảm bảo an toàn giao dịch, an toàn tiền gửi, cả TCTD và người gửi tiền đều phải tuân thủ các quy định pháp luật về tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn. Ngày 31/12/2018, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành Thông tư số 48/2018/TT-NHNN quy định về tiền gửi tiết kiệm (Thông tư 48) và Thông tư 49/2018/TT-NHNN về tiền gửi có kỳ hạn (Thông tư 49) nhằm đảm bảo an toàn giao dịch cho cả TCTD và người gửi tiền, đồng thời đảm bảo lợi ích hợp pháp của pháp nhân, cá nhân có nhu cầu gửi tiền khi có nguồn tiền nhàn rỗi hoặc thu nhập hợp pháp.

            Nhìn chung, hệ thống pháp luật đã có sự thay đổi để hoàn thiện hành lang pháp lý nhằm đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền. Với việc ban hành các quy định về tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn, NHNN đã đề cao tính minh bạch, an toàn cho người gửi tiền.

Tại Thông tư 48, NHNN đưa ra các quy định cụ thể về đối tượng gửi tiết kiệm, hình thức tiền gửi tiết kiệm, địa điểm nhận và chi trả tiền gửi tiết kiệm…Theo đó, người gửi tiền phải trực tiếp đến địa điểm giao dịch của TCTD và xuất trình giấy tờ xác minh định danh của người gửi tiền/người đại diện theo pháp luật. Quy định này nhằm đảm bảo an toàn giao dịch cho cả TCTD và người gửi tiền. Trong khi đó, Thông tư 49 bảo đảm lợi ích hợp pháp của pháp nhân, cá nhân là người cư trú và người không cư trú muốn gửi tiền có kỳ hạn khi có nguồn tiền nhàn rỗi hoặc thu nhập hợp pháp. Đồng thời, quy định này cũng nhằm hạn chế các dòng vốn nóng, đầu cơ trên thị trường tiền tệ, người gửi tiền gửi có kỳ hạn chỉ được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của chính mình. Như đối với giao dịch gửi tiền khác, việc gửi, nhận tiền gửi có kỳ hạn có thể được thực hiện thông qua người đại diện hợp pháp hoặc tự mình thực hiện. Đây là những biện pháp nhằm đảm bảo an toàn tiền gửi cho người dân và TCTD.

            – Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ngày càng được hoàn thiện hơn. Theo số liệu của BHTG Việt Nam (BHTGVN) từ năm 2000 đến nay đã chi trả đầy đủ, kịp thời cho 1622 người gửi tiền với tổng số tiền khoảng 21 tỷ đồng, đã củng cố niềm tin, giúp người dân yên tâm vào hoạt động của các TCTD. Trên cơ sở kế thừa những ưu điểm và khắc phục những thiếu sót của Nghị định 89/1999/NĐ-CP về BHTG, Luật BHTG 2012 đã ra đời với những quy định tiến bộ gồm nhiều quy phạm ghi nhận quyền của người gửi tiền, quy định cơ chế bảo vệ quyền của người gửi tiền, quy định cơ chế xử phạt đối với chủ thể vi phạm quyền của người gửi tiền,…

            – Các quy định về phòng tránh rủi ro và đảm bảo an toàn cho hệ thống tín dụng nhằm vào bảo vệ quyền lợi người gửi tiền có nhiều thành tựu đáng kể. Trong thời gian qua, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm đưa ra các thông số để lường trước vấn đề rủi ro, trên cơ sở đó, tìm các giải pháp nhằm hạn chế và loại trừ rủi ro đối với hệ thống tín dụng. Với những nỗ lực này, bước đầu tạo điều kiện để hệ thống tín dụng phát triển lành mạnh, tránh sự sụp đổ tạo nền phản ứng dây chuyền cho hệ thống kinh tế quốc gia và bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền.

2. Những hạn chế

            Bên cạnh những mặt đạt được kể trên, do nhiều nguyên nhân khác nhau trách nhiệm của các TCTD trong hoạt động huy động vốn nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền còn nhiều bất cập và hạn chế.

            Thứ nhất, pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền ở nước ta chưa được thống nhất trong văn bản pháp luật riêng biết mà quy định trong Luật Dân sự, Luật các TCTD, Luật BHTG, Luật bảo vệ người tiêu dùng,..Các quy định nằm rải rác ở nhiều văn bản và nghị định khác nhau, điều này gay khó khăn cho cơ quan áp dụng pháp luật, đồng thời đối với cả các TCTD. Bởi vì khi cần sử dụng các quy phạm pháp luật để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, họ phải “ nhặt” ở nhiều văn bản khác nhau, gây ra tình trạng thiếu hụt căn cứ pháp lý dẫn đến trách nhiệm của các TCTD đối với người gửi tiền cũng giảm sút.

            Thứ hai, một số TCTD còn cố tình thực hiện sai hay thực hiện không đầy đủ quy định của pháp luật BHTG, nhất là trong công tác kiểm tra tại chỗ của tổ chức BHTG. Một sai phạm thường gặp nữa là trong việc nộp phí BHTG. Đó là tình trạng nộp thừa hay cố tình trốn tránh không nộp phí BHTG, nộp phí không đầy đủ, không đồng bộ.

            Thứ ba, trong một số trường hợp, hợp đồng gửi tiền chưa rõ ràng. Bản chât của việc gửi tiền là hợp đồng vay tài sản, trong đó bên vay là các TCTD, bên cho vay là người gủi tiền Thực tế hiện nay, hoạt động này không có văn bản hợp đồng cụ thể. Ví dụ, hoạt động gửi tiền tiết kiệm, người gửi tiền đến quầy giao dịch của các TCTD điền các thông tin vào một tờ mẫu mà ngân hàng cung cấp, sau đó giao dịch viên điền các phần thông tin đó vào phần mềm quản lí và cuối cùng giao dịch viên đưa cho người gửi tiền một “sổ tiết kiệm” . Trên sổ tiết kiệm có ghi một số thông tin cơ bản như họ tên khách hàng, chứng minh thư nhân dân của khách hàng, số tiền gửi, kỳ hạn gửi và một số điều khoản thường là để bảo vệ quyền lợi của TCTD. Do trình độ hiểu biết còn thấp nên người gửi tiền thường ít quan tâm đến quyền lợi của mình khi gửi tiền, họ chấp nhận theo những điều khoản mà TCTD đưa ra, thậm chí có người còn không quan tâm đến những điều khoản đó.

Nếu xảy ra tranh chấp giữa TCTD và người gửi tiền thì hợp đồng là căn cứ đầu tiên và quan trọng nhất để giải quyết. Nhưng trong hợp đồng không ghi cụ thể quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Việc giải quyết quyền lợi cho người gửi tiền phải căn cứ vào quy chế riêng của TCTD. Như vậy, người gửi tiền vốn ở thế bất lợi, càng khó đưa ra các chứng cứ bảo vệ quyền lợi của mình khi có tranh chấp với TCTD.

            Thứ tư, thực tế kiến thức về pháp luật bảo vệ người gửi tiền của các nhân viên trong các TCTD còn nhiều hạn chế. Trong nhiều trường hợp, cán bộ ngân hàng vì tư lợi đã xâm phạm quyền lợi của người gửi tiền. Những hành vi vi phạm chủ yếu là chuyên viên ngân hàng thường làm giấy tờ chứng từ, không nhập số tiền gửi của khách hàng vào hệ thống quản lý để chiếm đoạt số tài sản đó. Hoặc có trường hợp có nhập hệ thống nhưng nhập ít hơn số tiền thực nhận được của người gửi tiền và chiếm đoạt số tiền chênh lệch.

            Vừa qua, vụ chiếm đoạt hơn 400 tỉ đồng tại Oceanbank Hải Phòng đã làm chấn động tâm lý của người gửi tiền. Cụ thể Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an ngày 18-7 cho biết đã hoàn tất bản kết luận điều tra vụ án tham ô và lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra tại Ocean Bank Chi nhánh Hải Phòng. Cơ quan điều tra đã đề nghị Viện KSND tối cao truy tố 4 bị can nguyên là cán bộ OceanBank gồm: Trần Thị Kim Chi (nguyên giám đốc chi nhánh); Nguyễn Thị Minh Huệ (nguyên trưởng phòng kế toán kho quỹ); Lê Vương Hoàng (nguyên giao dịch viên, kiểm soát viên) và Chu Văn Nha (nguyên thủ quỹ). Số tiền các bị can chiếm đoạt trong vụ án này là hơn 400 tỉ đồng. 

            Thủ đoạn của các bị can là để tiền ngoài hệ thống để chiếm đoạt, tự hạch toán sổ tiết kiệm dù không được khách hàng yêu cầu. Kết quả điều tra cho thấy tháng 3-2010, Trần Thị Kim Chi được bổ nhiệm làm phó giám đốc OceanBank chi nhánh Hải Phòng. Thời gian này, một số khách hàng có sẵn mối quan hệ với Chi và cán bộ ngân hàng nên thường liên hệ và đặt lịch trước mỗi lần đến giao dịch hoặc gửi tiết kiệm. Tuy nhiên, các bị can không hạch toán số tiền gửi của khách hàng lên hệ thống FCC và phát hành sổ tiết kiệm ngoài hệ thống, sau đó tiêu hủy chứng từ mở sổ tiết kiệm mà khách hàng đã ký. Bằng thủ đoạn nêu trên, Trần Kim Chi đã in và phát hành 79 sổ tiết kiệm ngoài hệ thống cho 21 khách hàng, chiếm đoạt của khách hàng hơn 242 tỉ đồng và 2,7 triệu USD. Bên cạnh đó, do cần tiền để sử dụng cá nhân hoặc trả cho khách hàng có sổ tiết kiệm ngoài hệ thống đến rút tiền, Chi đã trực tiếp hoặc thông qua cấp dưới lấy tiền từ quỹ chi nhánh để sử dụng hoặc trả cho khách hàng. Để cân đối quỹ tiền mặt, Chi chỉ đạo nhân viên hạch toán, tất toán sổ tiết kiệm của khách hàng đang có trên hệ thống FCC mặc dù khách hàng không yêu cầu tất toán. Đến kỳ hạn tất toán sổ tiết kiệm, Chi chỉ đạo Lê Vương Hoàng chủ động liên hệ khách hàng, đặt lịch đón tiếp, vận động khách hàng tiếp tục gửi tiền tiết kiệm. Khi khách hàng đồng ý gửi tiếp, Hoàng hướng dẫn làm các thủ tục tất toán nộp lại sổ tiết kiệm cũ, ký khống (không điền nội dung ngày, tháng, năm) vào phiếu rút tiền. Sau đó, Hoàng mở sổ tiết kiệm mới nhưng không hạch toán vào hệ thống, đồng thời tiêu hủy các sổ tiết kiệm mới mà chỉ giữ lại các chứng từ tất toán sổ tiết kiệm cũ để hợp thức hóa cho việc tất toán khống trước đó.

IV. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NÂNG CAO NGHĨA VỤ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC TCTD TRONG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN NHẰM ĐẢM BẢO QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI GỬI TIỀN

            Thứ nhất, pháp luật cần quy định rõ quyền của người gửi tiền để tăng phần trách nhiệm của các TCTD. Đây có lẽ là nội dung quan trọng nhất bởi phải xác định được quyền của người gửi tiền chúng ta mới xây dựng được cơ chế bảo vệ những quyền đó. Để phù hợp với thông lệ quốc tế, pháp luật nước ta cần ghi nhận người gửi tiền có những quyền sau: quyền được thỏa mãn những nhu cầu gắn với khoản tiền gửi; quyền được an toàn, quyền được cung cấp thông thi, quyền được lựa chọn, quyền được đại diện, quyền được khiếu nại, khởi kiện và bồi thường thiệt hại.

            Thứ hai, xây dựng cơ chế bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền là cá nhân và tổ chức cần có những điểm riêng biệt. Người gửi tiền là cá nhân thường có mục đích gửi tiết kiệm và hưởng lãi suất, người gửi tiền là tổ chức thường có mục đích là mở tài khoản thanh toán. Vì thế, khi xây dựng cơ chế bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, bên cạnh những quy định chung, nhà làm luật cần xây dựng những quy định  riêng cho phù hợp với đặc điểm của từng chủ thể.

            Thứ ba, hoàn thiện quy định của pháp luật về hợp đồng gửi tiền. Như đã phân tích ở phần hạn chế, việc gửi tiền hiện nay chưa có hợp đồng nên trong nhiều trường hợp xảy ra tranh chấp, người gửi tiền khó khăn trong việc đưa ra cơ sở pháp lý chứng minh vi phạm của các TCTD. Lĩnh vực tài chính tiền tệ là một lĩnh vực nhạy cảm, sự sụp đổ của một tổ chức tài chính nào đó sẽ gây hậu quả khôn lường cho nền kinh tế. Để đảm bảo an toàn cho hệ thống huyết mạch của nền kinh tế quốc gia cần có nhiều giải pháp đồng bộ. Để góp phần bảo đảm sự an toàn này, quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng gửi tiền cần khắt khe, chặt chẽ.

            Thứ tư, bên cạnh việc hoàn thiện hành lang pháp lý, TCTD nâng cao quy trình kiểm soát chặt chẽ rủi ro, nhất là rủi ro khách hàng bị lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, lộ thông tin cá nhân. Các rủi ro công nghệ nếu xảy ra rất dễ khiến khách hàng bị thiệt hại và có thể để lại hậu quả trên diện rộng. Xu hướng ngân hàng mở (Open Banking) hiện nay tạo điều kiện cho các bên thứ ba cung cấp nhiều loại dịch vụ mới cho khách hàng thông qua giao diện lập trình ứng dụng mở (open API) giúp tăng trải nghiệm của khách hàngTuy nhiên, cũng có nguy cơ xảy ra rủi ro mất thông tin, dữ liệu và tiền, nên các TCTD cần hết sức lưu tâm tăng cường an ninh mạng, an toàn thông tin, dữ liệu khách hàng và của bản thân mình.

            Thứ năm, TCTD phải đảm bảo khả năng thanh khoản, trước hết là tuân thủ đảm bảo các tỷ lệ an toàn theo quy định của NHNN. Bên cạnh đó, điều hành cân đối vốn phù hợp với diễn biến thị trường nhằm đảm bảo an toàn thanh khoản cho hệ thống.  Đồng thời, các TCTD phải tuân thủ đúng theo các quy định của pháp luật và của NHNN về đảm bảo an ninh, an toàn tiền gửi cho khách hàng. Ngoài ra, phía TCTD cần tăng cường công tác tuyên truyền, cung cấp thông tin, tư vấn cho khách hàng, tích cực tham gia giáo dục tài chính, giúp khách hàng hiểu rõ về sản phẩm – dịch vụ, đặc biệt là các sản phẩm mới.

            Thứ sáu, các TCTD cần có chính sách và quy trình giải quyết sự vụ, sự việc một cách chuyên nghiệp, thấu đáo khi khách hàng gặp vấn đề liên quan đến tiền gửi nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho khách hàng cũng như giữ vững uy tín, thương hiệu của TCTD trên thị trường. Như thế mới đảm bảo đôi bên cùng có lợi và quan hệ hợp tác lâu dài, bền vững.

            Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền là trách nhiệm cũng như nghĩa vụ của các TCTD góp phần bảo vệ quyền con người và đảm bảo cho hệ thống tài chính hoạt động lành mạnh, ổn định phát triển kinh tế, xã hội cho đất nước. Với đề tài “Trách nhiệm, nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong hoạt động huy động vốn nhằm đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền – liên hệ thực tiễn”, luận văn đã phân tích những vấn đề lí luận, thực trạng pháp luật về hoạt động huy động vốn của TCTD, qua đó hướng hới trách nhiệm và nghĩa vụ của họ đối với người gửi tiền. Đồng thời qua việc phân tích đó, luận văn đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực thi hiệu quả nhằm hướng đến lợi ích tuyệt đối của người gửi tiền trên thực tế.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Ngân hàng, NXB Công an nhân dân
  2. Luật các TCTD 2010, sửa đổi bổ sung 2017
  3. Luật Ngân hàng Nhà nước 2010
  4. Luật Bảo hiểm tiền gửi 2012
  5. Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010
  6. Nghị định 117/2018/NĐ-CP quy định về việc giữ bí mật, cung cấp thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
  7. Thông tư 04/2016/TT-NHNN 
  8. Thông tư 01/2012/TT-NHNN
  9. Thông tư 49/2018/TT-NHNN
  10. Thông tư 13/2018/VBHN- NHNN quy định các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
  11. Thông tư 48/2018/TT-NHNN quy định về tiền gửi tiết kiệm đã quy định chi tiết về Thủ tục gửi tiền tiết kiệm cũng như thủ tục chi trả tiền gửi tiết kiệm của TCTD đối với khách hàng
  12. Thông tư 30/2019/TT-NHNN quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
  13. TS. Hà Huy Tấn, Bảo hiểm tiền gửi và những vấn đề cần hoàn thiện để vảo vệ tốt hơn quyền lợi của người gửi tiền, Báo VIBOnline, đăng ngày 26/04/2014
  14. Luật Bảo hiểm tiền gửi 2012 – “Chiếc áo” vừa hơn, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam – Viet Nam banks asociation, cập nhật ngày 18/10/2013
  15. Bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại ngân hàng theo pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đào Thị Sao
  16. Đảm bảo an toàn tiền gửi- bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam – Viet Nam banks asociation, cập nhật ngày 24/7/2020
  17. Pháp luật về huy động vốn của các TCTD Việt Nam

[1] Khỏan 1 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng.

[2] Điều 9. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu

1. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu phản ánh mức đủ vốn của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên cơ sở giá trị vốn tự có và mức độ rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải thường xuyên duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều này.

2. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của tổ chức tín dụng:

a) Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của tổ chức tín dụng gồm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ và tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu hợp nhất.

b) Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ: Từng tổ chức tín dụng phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ 9%.

Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ được xác định bằng công thức sau:

Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ (%) =Vốn tự có riêng lẻx 100%
Tổng tài sản Có rủi ro riêng lẻ

Trong đó:

– Vốn tự có riêng lẻ được xác định theo quy định tại Phụ lục 1 Thông tư này.

– Tổng tài sản Có rủi ro riêng lẻ là tổng giá trị các tài sản Có nội bảng được xác định theo mức độ rủi ro và giá trị tài sản Có nội bảng tương ứng của cam kết ngoại bảng được xác định theo mức độ rủi ro theo quy định tại Phụ lục 2 Thông tư này.

c) Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu hợp nhất: Tổ chức tín dụng có công ty con, ngoài việc duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ theo quy định tại điểm b khoản này phải đồng thời duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu hợp nhất 9%.

Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu hợp nhất được xác định bằng công thức sau:

Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu hợp nhất (%) =Vốn tự có hợp nhấtx 100%
Tổng tài sản Có rủi ro hợp nhất

Trong đó:

– Vốn tự có hợp nhất được xác định theo quy định tại Phụ lục 1 Thông tư này.

– Tổng tài sản Có rủi ro hợp nhất được xác định theo quy định tại Phụ lục 2 Thông tư này.

3. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của chi nhánh ngân hàng nước ngoài: Chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9%.

Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu được xác định bằng công thức sau:

Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (%) =Vốn tự cóx 100%
Tổng tài sản Có rủi ro

Trong đó:

– Vốn tự có được xác định theo quy định tại Phụ lục 1 Thông tư này.

– Tổng tài sản Có rủi ro là tổng giá trị các tài sản Có nội bảng được xác định theo mức độ rủi ro và giá trị tài sản Có nội bảng tương ứng của cam kết ngoại bảng được xác định theo mức độ rủi ro theo quy định tại Phụ lục 2 Thông tư này.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Phân tích, đánh giá đối với các quy định về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp và nêu ví dụ minh hoạ.

Để duy trì hoạt động của Nhà nước thì nghĩa vụ đóng thuế của các cá nhân, tổ chức là vô cùng quan trọng. Thuế không chỉ đơn thuần là một nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước mà thuế còn gắn liền với các vấn đề về sự tăng trưởng kinh tế, về sự công bằng trong phân phối và sự ổn định xã hội. Trong phạm vi nghiên cứu các vấn đề của tài chính và Ngân sách Nhà nước, chúng ta sẽ xem xét thuế với các vai trò cơ bản của nó là: tạo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, kích thích tăng trưởng kinh tế và điều chỉnh thu nhập.

Vai trò tạo nguồn thu của thuế xuất phát từ yêu cầu và quyền lực của nhà nước đối với xã hội. Nhà nước với quyền lực chính trị có thể ban hành các loại thuế với các mức thuế suất tuỳ ý. Tuy nhiên, khi xét về mục đích lâu dài khi định ra các loại thuế, thuế suất, đối tượng chịu thuế chính phủ không chỉ đơn thuần thỏa mãn nhu cầu tăng thu của Ngân sách Nhà nước, mà phải thỏa mãn đồng thời yêu cầu tăng trưởng kinh tế và điều chỉnh thu nhập. Việc đáp ứng cả ba yêu cầu đó đòi hỏi chính phủ phải tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng khi ban hành các loại thuế, bởi vì nguồn thu của thuế bắt nguồn từ thu nhập quốc dân, khả năng động viên của thuế phụ thuộc chủ yếu vào phát triển của sản xuất, hiệu quả của sản xuất.

Trong phạm vi nghiên cứu vấn đề “Phân tích, đánh giá và nêu ví dụ minh hoạ đối với các quy định về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp”. Em sẽ chỉ ra tầm quan trọng của Thuế thu nhập doanh nghiệp trong đời sống xã hội và các căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam.

I. THUẾ THU NHẬP

1.1. Khái niệm

Thuế thu nhập là thuế đánh vào thu nhập của cá nhân và pháp nhân. Trong trường hợp đánh vào thu nhập của cá nhân, nó được gọi là thuế thu nhập cá nhân. Còn trong trường hợp đánh vào thu nhập của pháp nhân, nó được gọi là thuế doanh nghiệp, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế sự nghiệp, thuế lợi nhuận, v.v…

1.2. Đặc điểm

  • Cơ sở tính thuế:  là thu nhập, song có nhiều cách xác định thu nhập chịu thuế. Có nơi, cơ sở tính thuế là những khoản thu nhập được cơ quan thu xác định là thu nhập để tiêu dùng. Có nơi, cơ sở tính thuế là những khoản thu nhập thường xuyên; còn thu nhập nhất thời, thu nhập ngoài kế hoạch của người nộp thì không bị đánh thuế. Lại có nơi, cơ sở tính thuế là mọi khoản thu nhập.

Thu nhập thường được tính cho thời gian một năm tài chính. Thuế suất thuế thu nhập là tỷ lệ thu bằng một số phần trăm nhất định của thu nhập trong một năm tài chính.

  • Thuế thu nhập là thuế trực thu: người nộp thuế và người phải chi tiền đóng thuế là một, nên thuế thu nhập là một thứ thuế trực thu. Đối tượng thu là cá nhân hoặc pháp nhân. Ở nhiều nước, bất cứ cá nhân nào cũng phải đóng thuế thu nhập. Đứng từ góc độ lý thuyết chuẩn tắc của kinh tế học công cộng, cứ chủ thể kinh tế nào tiêu dùng hàng hóa công cộng thì đều phải nộp thuế bất kể thu nhập của người đó nhiều hay ít (đánh thuế theo lợi ích). Song trong thực tế, việc thu thuế thu nhập từ những người có thu nhập thấp hơn một ngưỡng nhất định có thể không đem lại nhiều lợi ích bằng với chi phí kỹ thuật cho việc thu thuế. Do đó theo nguyên tắc về “tính đơn giản” của thuế, nhiều nước áp dụng thuế suất 0% đối với nhóm người này, hay nói cách khác chỉ thu thuế từ những người có thu nhập cao hơn một ngưỡng nhất định.
  • Thuế thu nhập và điều tiết thu nhập:

Thuế thu nhập là trường hợp điển hình của việc chính quyền dùng thuế để điều tiết thu nhập vì mục đích công bằng. Thông qua áp dụng thuế suất lũy tiến, chính quyền buộc người có thu nhập cao hơn phải chịu gánh nặng thuế lớn hơn (đánh thuế theo khả năng). Cơ quan thu sẽ đặt ra các bậc thuế; mỗi bậc tương ứng với một phạm vi thu nhập. Đối với mỗi bậc sẽ có một thuế suất riêng. Chính quyền còn dùng thuế thu nhập để điều tiết thu nhập bằng cách khấu trừ (trừ vào tổng số thuế phải nộp thông thường) khi người đóng thuế là người tàn tật dẫn tới khả năng lao động kiếm thu nhập của anh ta bị hạn chế, khi người đóng thuế có con nhỏ hơn một độ tuổi nhất định. Ở một số nước, nếu vợ hoặc chồng của người đóng thuế không đi làm, người đóng thuế cũng được chính quyền khấu trừ. Khoản thu nhập không phải đóng thuế này gọi là thu nhập miễn thuế.

1.3. Các loại thuế thu nhập

1. Thuế thu nhập cá nhân (TNCN)

Thuế thu nhập cá nhân khoản tiền thuế mà người có thu nhập phải trích nộp một phần tiền lương hoặc từ các nguồn thu khác vào Ngân sách Nhà nước sau khi đã tính các khoản được giảm trừ.

Theo đó, thuế TNCN được xây dựng trên nguyên tắc công bằng và khả năng nộp thuế. Thuế thu nhập cá nhân không đánh vào những cá nhân có thu nhập thấp, vừa đủ nuôi sống bản thân và gia đình ở mức cần thiết.

Do đó việc nộp tiền thuế thu nhập cá nhân cũng góp phần làm giảm hợp lý khoảng cách chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư.

Đối tượng phải nộp thuế thu nhập cá nhân qua mạng gồm: Cá nhân cư trú và cá nhân không cư trú tại Việt Nam có thu nhập chịu thuế:

  1. Đối với cá nhân cư trú, thu nhập chịu thuế là thu nhập phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam, không phân biệt nơi trả thu nhập.
  2. Đối với cá nhân không cư trú, thu nhập chịu thuế là thu nhập phát sinh tại Việt Nam, không phân biệt nơi trả và nhận thu nhập.

2. Thuế thu nhập Doanh nghiệp

II. THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP

2.1. Khái niệm

Thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế thu trên thu nhập của các cơ sở kinh doanh để động viên một phần thu nhập của họ vào Ngân sách Nhà nước. Ngoài ra, nhà nước cũng có thể sử dụng loại thuế này để điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua việc động viên công bằng giữa các thành phần kinh tế, khuyến khích ưu đãi đầu tư nhằm thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển.

Tên gọi là thuế thu nhập doanh nghiệp nhưng loại thuế này cũng áp dụng đối với thu nhập của các cá nhân, các cơ sở kinh doanh không thành lập theo luật doanh nghiệp và phần thu nhập chịu thuế là phần thu nhập còn lại sau khi đã khấu trừ các chi phí liên quan đến quá trình sản xuất, kinh doanh.

Ở các nước, tên gọi của luật thuế này có thể khác nhau như luật thuế thu nhập công ty, luật thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế lợi tức… Nhưng bản chất là tương đối giống nhau. Có quốc gia quy định loại thuế này trong một luật riêng, quốc gia khác lại quy định chung một bộ luật với thuế thu nhập cá nhân vì họ cho rằng hai loại thuế đánh trên thu nhập này có quan hệ mật thiết với nhau nên quy định trong cùng một văn bản thì sẽ dễ tiếp cận hơn.

Về phạm vi điều chỉnh

Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có phát sinh thu nhập phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Đối tượng nộp thuế thuộc phạm vi điều chỉnh của thuế thu nhập doanh nghiệp và có hai điều kiện: thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp và phải có phát sinh thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh đó.

Về đối tượng điều chỉnh của Thuế thu nhập doanh nghiệp theo đó gồm:

  • Tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có thu nhập chịu thuế bao gồm doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật đầu tư, Luật các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật chứng khoán, Luật dầu khí, Luật thương mại và các văn bản pháp luật khác dưới các hình thức: Công ty cổ phần; Công ty trách nhiệm hữu hạn; Công ty hợp danh; Doanh nghiệp tư nhân; Doanh nghiệp Nhà nước; Văn phòng Luật sư, Văn phòng công chứng tư…
  • Các đơn vị sự nghiệp công lập, ngoài công lập có sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có thu nhập trong tất cả các lĩnh vực;
  • Các tổ chức được thành lập và hoạt động theo Luật hợp tác xã;
  • Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật nước ngoài có cơ sở thường trú tại Việt Nam.
  • Tổ chức khác có hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ và có thu nhập chịu thuế.

2.2. Đặc điểm

1. Thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế trực thu

Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) là một loại thuế trực thu, song thuế TNDN thường không sử dụng thuế suất luỹ tiến mà sử dụng thuế suất phổ thông (standard rate) và một số mức thuế suất khác mức thuế suất phổ thông. học kế toán trưởng ở đâu

Mức thuế suất khác nhau có thể được áp dụng đối với các nhóm đối tượng hoặc một số loại thu nhập khác nhau vì mục tiêu chính sách.

2. Thuế thu nhập doanh nghiệp đánh vào thu nhập của mỗi tổ chức, pháp nhân kinh doanh

Thuế TNDN đánh vào thu nhập của mỗi tổ chức, pháp nhân kinh doan và thường được coi như là một loại thuế đánh vào vốn (tư bản), bởi vốn của một tổ chức được hình thành từ sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân sở hữu nó. hạch toán chi phí vận chuyển

Về mặt kinh tế, thuế TNDN được xem như một loại thuế “thu trước” hoặc “thu gộp” của thuế thu nhập cá nhân. Thông qua việc thu thuế TNDN, các chính phủ có thể giảm bớt được chi phí quản lý thu và hạn chế được nhiều rủi ro so với thu thuế thu nhập cá nhân.

3. Thuế thu nhập doanh nghiệp phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của người nộp thuế

Thuế TNDN phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của người nộp thuế do bản chất thuế TNDN đánh vào lợi nhuận của hoạt động kinh doanh và các khoản thu nhập khác của hoạt động sản xuất, kinh doanh.

4. Các chính sách khuyến khích, ưu đãi về thuế được lồng ghép trong quy định pháp luật về thuế TNDN học kế toán ở đâu

– Các chính sách khuyến khích, ưu đãi thuế vì các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội hoặc tham gia giải quyết các vấn đề xã hội thường được lồng ghép, thiết kế trong quy định pháp luật về thuế TNDN.

Đặc biệt, các ưu đãi thuế TNDN để thu hút đầu tư vào các vùng khó khăn, khuyến khích phát triển các lĩnh vực theo định hướng, cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài thường được thể hiện trong chính sách thuế TNDN của nhiều nước. học logistics ở đâu

Những đặc điểm của thuế thu nhập doanh nghiệp trên đặt ra yêu cầu phải xem xét mối quan hệ giữa thuế TNDN và thuế TNCN, giữa chính sách thuế với chính sách phát triển kinh tế cũng như các cam kết quốc tế về tự do hoá thương mại và bảo hộ đầu tư.

2.3. Vai trò

* Về kinh tế

Thuế TNDN đã góp phần làm thay đổi căn bản nội hàm chính sách thuế, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, điều tiết vĩ mô nên kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu, cải thiện môi trường kinh doanh và từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của cộng đồng các doanh nghiệp trong nước.

Thuế TNDN ban hành đã khắc phục được cơ bản những điểm yếu của thuế lợi tức. Phạm vi điều chỉnh luật thuế TNDN đã được mở rộng áp dụng cho cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và một số đối tượng khác như công ty nước ngoài hoạt động kinh doanh thông qua cơ sở thường trú tại Việt Nam, hộ gia đình nông dân sản xuất hàng hóa lớn, các cá nhân hành nghề độc lập,… Các khoản chi phí hợp lý được quy định một cách rõ ràng và phù hợp với những điều kiện của nền kinh tế thị trường theo những thông lệ quốc tế. Một số khoản thu nhập có thể phát sinh trong nền kinh tế thị trường được bổ sung vào đối tượng chịu thuế, xóa bỏ sự phân biệt thuế suất và điều chỉnh sát với các mặt bằng thuế suất chung của thuế thu nhập công ty trên thế giới,…

* Về thu Ngân sách Nhà nước

Thuế TNDN đã điều tiết được hầu hết các khoản thu nhâp từ hoạt động sản xuất, kinh doanh; Số thu về thuế TNDN tăng trưởng hàng năm từ đó tạo nguồn thu lớn, tập trung và ngày càng ổn định cho Ngân sách Nhà nước, góp phần bù đắp số giảm thu về thuế xuất nhập khẩu do phải thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu theo cam kết quốc tế.

* Góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế Việt Nam

Luật thuế TNDN đã góp phần làm cho hệ thống thuế ở Việt Nam từng bước tương đồng và phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời góp phần làm cho hệ thống thuế tiến thêm một bước tới mục tiêu công bằng và bình đẳng trong nghĩa vụ thuế giữa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp.

Thuế TNDN đã xóa bỏ hẳn sự đối xử phân biệt giữa các thành phần kinh tế, ngành nghề sản xuất kinh doanh, rút ngắn khoách cách phân biệt giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, thuế TNDN thể hiện rõ mục tiêu phân phối lại nhưng cũng đồng thời hàm chứa mục tiêu trợ giúp, nâng  đỡ những cơ sở sản xuất kinh doanh có khó khăn do những điều kiện kinh tế, xã hội tự nhiên mang lại, trên cơ sở đó thực hiện mục đích công bằng xã hội kết hợp với công bằng kinh tế. Từ đó góp phần tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, các khu vực hoạt động cũng như tạo điều kiện cho sản xuất và kinh doanh phát triển.

* Góp phần xử lý tốt mối quan hệ mang tính hệ thống giữa các sắc thuế

Luật thuế TNDN được thiết kế trên cơ sở mối quan hệ phụ thuộc, bổ sung, bọc lót nhau, thể hiên sự nhất quán về mục tiêu điều tiết và động viên của cả hệ thống thuế.

So với thuế lợi tức, thuế TNDN thể hiện rõ mục tiêu đòn bẩy kinh tế nhằm khuyến khích các khu vực kinh tế, ngành nghề, lĩnh vực phát triển theo mục tiêu định hướng của nhà nước. Đặc biệt, thuế TNDN chứa đựng nhiều nội dung miễn, giảm thuế theo mục tiêu và hoàn cảnh kinh tế. Đặc tính đó thể hiện mối tương quan hệ thống giữa thuế giá trị gia tăng – thuế thu nhập doanh nghiệp nói riêng và thuế gián thu – thuế trực thu nói chung.

* Góp phần thúc đẩy quản lý, tăng cường công tác hạch toán kế toán của doanh nghiệp.

Việc tính đúng thuế TNDN trên nguyên tắc phải có hóa đơn, chứng từ, từ đó thúc đẩy các doanh nghiệp, người kinh doanh phải chú trọng tổ chức thực hiện tốt hơn công tác mở sổ sách kế toán, ghi chép, quản lý và sử dụng hỏa đơn, chứng từ.

Do làm tốt công tác kế toán, hóa đơn, chứng từ, các đối tượng nộp thuế theo kê khai đã lập và nộp tờ khai thuế tương đối đúng hạn và đầy đủ.

* Củng cố công tác quản lý thu thuế, nâng cao ý thức tự giác thực hiên nghĩa vụ nộp thuế của đối tượng thuế.

2.4. Căn cứ phát sinh mối quan hệ pháp luật thues thu nhập Doanh nghiệp

2.4.1. Quy phạm pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp

Để quan hệ pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp phát sinh thì trước hết phải có các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Hiện nay, các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp được quy định trước hết ở Luật thuế thu nhập doanh nghiệp ban hành ngày 03/6/2008; Luật sừa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp ngày 19/6/2013; Luật số 71/2014/QHI3 ngày 26/11/2014 sưa đổi, bổ sung một số đỉều của các luật về thuế và các văn bản quy đĩnh chi tiết hướng dẫn thi hành. Ngoài ra, còn các quy phạm pháp luật thuế quốc tế được quy định trong các hiệp định tránh đánh thuế hai lần mà Việt Nam đã tham gia kí kết.

2.4.2. Sự kiện pháp lí làm phát sinh quan hệ pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp

Theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp thì một tổ chức sẽ là đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp khi có hai sự kiện pháp lí sau:

Thứ nhất, có sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ hay còn gọi là có hành vi kinh doanh.

Theo cách hiểu thông thường thì hành vi kinh doanh là hành vi của chủ thể kinh doanh. Dưới góc độ quản lí hành chính thì một tổ chức được quyền thực hiện các hành vi kinh doanh của mình khi họ có đủ tư cách pháp lí của một chủ thể kinh doanh hợp pháp tức là khi họ đã làm thủ tục xin cấp giấy phép đầu tư hoặc giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh và đã được cơ quan nhà nước có thẩm cấp giấy phép đầu tư hoặc giấy chứng nhận đãng kí kinh doanh cho họ.

Tuy nhiên, dưới góc độ quản lí thuế thì dấu hiệu để xác định tổ chức có hành vi kinh doanh hiểu theo nghĩa rộng hơn, thông thoáng và mềm dẻo hơn nhằm hạn chế khả năng gây thất thu thuế, tạo thuận lợi cho cơ quan thuế, đối tượng nộp thuế thực thi nhanh chóng các nghĩa vụ của mình. Theo tinh thần của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp thì một tổ chức được coi thoả mãn dấu hiệu “có hành vi kinh doanh” khi họ thuộc một trong hai trường hợp sau:

Trường hợp thứ nhất, tổ chức đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyển cấp giấy phép đầu tư hoặc giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, kể từ khi đó họ được xem là có hành vi kinh doanh mà không cần quan tâm đến việc họ đã thực hiện hành vi kinh doanh trên thực tế hay chưa.

Trường hợp thứ hai, tổ chức đã thực tế tiến hành hoạt động kinh doanh trong những lĩnh vực, ngành nghề mà Nhà nước không cấm nhưng họ chưa đăng kí kinh doanh thì cũng được xem là có đủ dấu hiệu “có hành vi kinh doanh” và thời điểm xác định họ có hành vi kinh doanh kể từ thời điểm họ bắt đầu thực hiện hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, hành vi kinh doanh này có thể coi là chưa hợp thức về phương diện quản lí hành chính nhưng có thể coi hợp thức trên phương diện quản lí thuế khi họ đã làm thủ tục đăng kí thuế trước hoặc cùng với thời điểm tiến hành hoạt động kinh doanh của mình.

Khi một tổ chức được xác định có hành vi kinh doanh thì khi đó phát sinh nghĩa vụ đăng kí thuế của họ với cơ quan thuế. Tuy nhiên, chưa làm phát sinh nghĩa vụ kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp.

Thứ hai, có thu nhập phát sinh.

Dấu hiệu có thu nhập phát sinh là căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế của đối tượng nộp thuế. Tuy nhiên, thu nhập phát sinh ở đây phải là thu nhập chịu thuế theo quy định của pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp, cụ thể:

“Thu nhập chịu thuế bao gồm thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ và thu nhập khác”.

Về nguyên tắc bất kì khoản thu nhập nào của tổ chức kinh doanh thì đều phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp

III. CĂN CỨ TÍNH THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP

Theo quy định tại Luật thuế thu nhập doanh nghiệp thì căn cứ tính thuế TNDN là Thu nhập tính thuế và thuế suất. Cụ thể:

Thuế TNDN=Thu nhập tính thuếxThuế suất

3.1. Thu nhập tính thuế:

– Thu nhập tính thuế trong kỳ tính thuế được xác định như sau:

Thu nhập tính thuế=Thu nhập chịu thuếThu nhập được miễn thuếCác khoản lỗ được kết chuyển

– Thu nhập chịu thuế được xác định theo công thức:

Thu nhập chịu thuế=(Doanh thu – Chi phí được trừ)+Thu nhập chịu thuế khác

Trong đó:

  • Doanh thu là toàn bộ tiền bán hàng, tiền gia công, tiền cung ứng dịch vụ. Bao gồm cả khoản phụ thu, phụ trội mà cơ sở kinh doanh được hưởng. Không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền.

Nếu DN kê khai thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ: Là doanh thu không có thuế GTGT;

Nếu DN kê khai thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp: Là doanh thu bao gồm cả thuế GTGT.

  • Chi phí được trừ là những khoản chi phí không nằm trong các khoản chi phí không được trừ theo quy định của pháp luật. Và đồng thời các khoản chi phí được trừ phải đáp ứng các điều kiện sau:

Khoản chi thực tế phát sinh liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

Khoản chi có đủ hóa đơn, chứng từ hợp pháp theo quy định của pháp luật.

Khoản chi nếu có hóa đơn mua hàng hóa, dịch vụ từng có giá trị từ 20 triệu đồng trở lên (giá đã bao gồm thuế GTGT) khi thanh toán phải có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt.

– Thu nhập miễn thuế: Các khoản thu nhập được miễn thuế TNDN gồm 12 khoản thu nhập được miễn thuế TNDN quy định pháp luật.

– Các khoản lỗ được kết chuyển:

Các khoản lỗ phát sinh trong kỳ tính thuế là số chênh lệch âm về thu nhập tính thuế. Chưa bao gồm các khoản lỗ được kết chuyển từ các năm trước.

Doanh nghiệp sau khi quyết toán thuế cả năm mà bị lỗ thì phải chuyển toàn bộ và liên tục số lỗ vào thu nhập chịu thuế của những năm theo. Thời gian chuyển lỗ tính liên tục không quá 5 năm, kể từ năm tiếp sau năm phát sinh lỗ.

Doanh nghiệp có số lỗ giữa các quý trong cùng một năm tài chính thì được bù trừ số lỗ của quý trước vào các quý tiếp theo của năm tài chính đó. Khi quyết toán thuế toán thuế TNDN, doanh nghiệp xác định số lỗ của cả năm.

Quá thời hạn 5 năm kể từ năm tiếp sau năm phát sinh lỗ, nếu số lỗ chưa chuyển hết thì sẽ không được chuyển vào thu nhập của các năm tiếp theo.

3.2. Thuế suất thuế TNDN:

Mức thuế suất thu nhập doanh nghiệp năm 2021 là 20% được quy định tại Điều 11 Thông tư 78/2014/TT-BTC, cụ thể như sau:

Trước ngày 01/01/2016:

  • Doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có tổng doanh thu năm không quá 20 tỷ đồng áp dụng thuế suất 20%.
  • Doanh nghiệp có tổng doanh thu năm trên 20 tỷ đồng áp dụng thuế suất 22%.
  • Doanh nghiệp mới thành lập trong năm không đủ 12 tháng:
    • Trong năm tạm tính quý theo mức thuế suất 22% (trừ trường hợp thuộc diện được hưởng ưu đãi về thuế);
    • Kết thúc năm tài chính nếu doanh thu bình quân của các tháng trong năm không vượt quá 1,67 tỷ đồng thì doanh nghiệp quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm tài chính theo thuế suất 20%;
    • Doanh thu bình quân của các tháng trong năm đầu tiên không vượt quá 1,67 tỷ đồng thì năm tiếp theo doanh nghiệp được áp dụng thuế suất thuế TNDN 20%.

Từ ngày 01/01/2016 đến nay tất cả các doanh nghiệp đang áp dụng mức thuế suất 20% và 22% chuyển sang áp dụng mức thuế suất 20%.

  • Các trường hợp đặc biệt:
    • Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí tại Việt Nam từ 32% đến 50%. Căn cứ vào vị trí khai thác, điều kiện khai thác và trữ lượng mỏ doanh nghiệp có dự án đầu tư tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí gửi hồ sơ dự án đầu tư đến Bộ Tài chính để trình Thủ tướng Chính phủ quyết định mức thuế suất cụ thể cho từng dự án, từng cơ sở kinh doanh.

Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác các mỏ tài nguyên quý hiếm (bao gồm: bạch kim, vàng, bạc, thiếc, wonfram, antimoan, đá quý, đất hiếm trừ dầu khí) áp dụng thuế suất 50%; Trường hợp các mỏ tài nguyên quý hiếm có từ 70% diện tích được giao trở lên ở địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn thuộc danh mục địa bàn ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ban hành kèm theo Nghị định số 218/2013/NĐ-CP của Chính phủ áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 40%.

3.3. Một vài ví dụ về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp

VÍ DỤ:

Doanh nghiệp A kinh doanh điện thoại nhập khẩu thương hiệu X. Vào năm 20xx, doanh thu của công ty ước đạt 10 tỷ đồng. Doanh nghiệp này nhập khẩu 1000 chiếc điện thoại từ nước ngoài về với giá 7.000.000đ/chiếc có đầy đủ hoá đơn, chứng từ thuế GTGT. Tiền thuế tính trên mỗi chiếc điện thoại là 10% giá bán. Về thị trường trong nước, doanh nghiệp A phân phối lại điện thoại thương hiệu X với giá 10.000.000đ và người mua phải trả 11.000.000đ để mua chiếc điện thoại trên (10% thuế GTGT).

Vậy, số thuế TNDN mà doanh nghiệp này phải nộp là (10 tỷ – 7 tỷ) x 20%= 600 triệu đồng.

Qua nghiên cứu lý luận về thuế TNDN, chính sách thuế TNDN và quản lý thuế TNDN và cơ sở thực tiễn thuế TNDN ở Việt Nam, có thể rút ra một số kết luận cơ bản sau:

Thứ nhất, thực trạng về chính sách thuế TNDN tại Việt Nam cho đến nay đã làm rõ tác động tích cực của sắc thuế này đối với nền kinh tế.

Thứ hai, một số giải pháp nhằm hoàn thiện và thực hiện tốt chính sách thuế Thu nhập doanh nghiệp.

Thứ ba, yêu cầu về quản lý thuế TNDN, cụ thể về quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra kiểm tra thuế đối với DN, đề xuất các tiêu chí đánh giá rủi ro như về mức độ tuân thủ của người nộp thuế và tiêu chí về nợ thuế của người nộp thuế trong hoạt động thanh tra kiểm tra thuế để thực hiện tốt quản lý  thuế TNDN. Bên cạnh đó, một số giải pháp đáng chú ý nữa là: tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý thuế, cụ thể: phát triển phần mềm hỗ trợ phân tích rủi ro; đầu tư xây dựng và phát triển hạ tầng công nghệ thông tin và giao dịch điện tử; Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho công tác quản lý thuế; Tăng cường công tác phối hợp giữa các bộ phận trong cơ quan thuế; tăng cường hợp tác quốc tế về thuế; ngoài những giải pháp đột phá, còn rất cần sự cam kết, kiên định đồng hành của Chính Phủ./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Luật thuế Việt Nam, NXB Công An nhân dân, tái bản lần thứ 12 năm 2019

2. Luật thuế Thu nhập Doanh nghiệp 2008;

3. Văn bản hợp nhất Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp ban hành ngày 15 tháng 7 năm 2020;

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Mô tả đặc điểm các thuộc tính nhân cách của bản thân và nêu phương hướng rèn luyện.

          Con người luôn luôn là vấn đề trọng tâm của mỗi thời đại, mỗi xã hội, và mỗi thể chế chính trị. Đặc biệt, trong xã hội Việt Nam hiện nay mỗi khi đánh giá về một con người thường chủ yếu nói về nhân cách. Nhân cách là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng mối quan hệ giữa con người với con người từ những chuyện bình thường, mối quan hệ gia đình, đến mối quan hệ xã hội. Nhân cách thể hiện qua cách ứng xử của con người với nhau, cũng như với những sự việc trong cuộc sống, đồng thời nhân cách thể hiện trình độ văn hóa, nhân tính và nguyên tắc sống của con người. Nhà tâm lý học nổi tiếng người Nga Lev Vygotsky đã từng khẳng định: Vấn đề nhân cách và phát triển nhân cách là vấn đề tập trung cao nhất của toàn bộ tâm lý học. Nhân cách là toàn bộ các giá trị mà con người đạt được trong sự trưởng thành xã hội của nó. Những giá trị đó gắn liền với những chức năng và vị thế của con người trong các quan hệ xã hội mà nó biểu hiện ra bằng hoạt động, với tất cả sự phong phú và toàn vẹn của đời sống cá nhân trong môi trường xã hội. Vì vậy, vấn đề nhân cách và giáo dục nhân cách phải được nhìn nhận là điểm cốt lõi nhất, là chỗ sâu sắc và tinh tế nhất của triết lý giáo dục. Do đó, trong phạm vi bài tiểu luận này, em xin được trình bày về vấn đề nhân cách và thuộc tính nhân cách của bản thân em với đề tài “Mô tả đặc điểm các thuộc tính nhân cách của bản thân và nêu phương hướng rèn luyện”.

I. Các thuộc tính tâm lý của nhân cách và đặc điểm các thuộc tính tâm lý nhân cách của bản thân:

          Nhân cách chỉ bao hàm phần xã hội, tâm lý của cá nhân mà thôi. Đó là con người với tư cách là chủ thể của hoạt động, chủ thể của quan hệ người – người. Theo A. G. Covaliov: “Nhân cách là một cá nhân có ý thức, chiếm vị trí nhất định trong xã hội và đang thực hiện một vai trò xã hội nhất định”; Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Nhân cách gồm 2 mặt đức và tài. Hay theo Phạm Minh Hạc, Trần Trọng Thủy, nhân cách là toàn bộ những đặc điểm, phẩm chất tâm lý của cá nhân quy định giá trị xã hội và hành vi xã hội của họ.

          Nhân cách của một con người có những đặc điểm như: tính thống nhất, tính ổn định, tính tích cực và tính giao lưu. Người có nhân cách luôn làm chủ được suy nghĩ và hành động để không ảnh hưởng đến người xung quanh, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân, biết lắng nghe và luôn lắng nghe để hoàn thiện bản thân mình…Nhân cách con người còn được biểu hiện qua rất nhiều hình thái: Ứng xử, lời ăn tiếng nói… “Lời nói không mất tiền mua…”. Bên cạnh đó, nhân cách còn được đánh giá qua tư tưởng, thái độ, hành động. Có nhân cách thì tư tưởng cởi mở, trong sáng, thái độ hòa hiếu, hành động dứt khoát, quyết liệt … và ngược lại.

          Các thuộc tính tâm lý của nhân cách là xu hướng, tính cách, năng lực và khí chất. Cũng giống như một vecto lực có phương, chiều, cường độ và tính chất của nó thì xu hướng nói lên phương hướng phát triển nhân cách, năng lực nói lên cường độ của nhân cách, khí chất và tính cách lại thể hiện tính chất, phong cách của nhân cách bản thân.

1. Xu hướng và phương hướng rèn luyện.

          Xu hướng là ý định hướng tới những mục tiêu có nhiều ý nghĩa đối với đời sống cá nhân, là hướng hoạt động chủ yếu nhằm vươn tới mục tiêu đó trong thời gian tương đối dài. Xu hướng có những mặt biểu hiện như nhu cầu, hứng thú, thế giới quan và lý tưởng.

1.1. Nhu cầu:

          Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà cá nhân nhận thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển trong những điều kiện xã hội, lịch sử nhất định. Đối với bản thân em hiện nay, nhu cầu của em đó là thi kết thúc học phần các môn học trong học kỳ này với số điểm cao. Để thỏa mãn được nhu cầu của bản thân, em đã và đang cố gắng học tập, đọc nhiều tài liệu và làm bài tập để chuẩn bị tốt cho kỳ thi sắp tới. Bên cạnh đó, nội dung của nhu cầu do điều kiện và phương thức thỏa mãn nó quy định. Điều kiện sống của cá nhân quy định nội dung, đối tượng của nhu cầu.          Điều kiện sống vật chất và tinh thần của em đầy đủ, nên em sẽ hướng tới những nhu cầu phong phú, phản ánh những điều kiện sống của em. Ngoài ra, nhu cầu có tính chu kỳ và cường độ tăng dần: Chu kỳ của nhu cầu bắt đầu từ trạng thái thiếu hụt làm nảy sinh nhu cầu, nhu cầu gặp đúng đối tượng nảy sinh động cơ thúc đẩy chủ thể tác động vào đối tượng để thỏa mãn nhu cầu. Sau khi thỏa mãn được nhu cầu thì chu kỳ của một loại nhu cầu kết thúc nhưng lại nảy sinh những nhu cầu khác với cường độ cao hơn chu kỳ trước đó.

          Căn cứ vào hình thức tồn tại đối tượng của nhu cầu, người ta chia nhu cầu thành nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Nhu cầu vật chấtlà những đòi hỏi kháchquan phải được thoả mãn về các phương tiện sinh hoạt vật chất của con người, như nhu cầu ăn, mặc, ở, phương tiện đi lại, công cụ lao động. Từ khi còn bé, nhu cầu vật chất của em được thỏa mãn thông qua tác động với người khác và chủ yếu là những người có ý nghĩa với em. Như được bố mẹ cho ăn, tắm rửa, bế bồng, ôm ấp. Khi đó, nhu cầu vật chất được thoả mãn như thế nào, ảnh hưởng mạnh mẽ đến tương lai sau này. Đối với bản thân em, nhu cầu được đáp ứng nhất quán với sự tôn trọng, từ đó em đã phát triển ý thức tôn trọng bản thân, tôn trọng người khác và môi trường sống xung quanh em. Thứ hai, nhu cầu tinh thần như: nhu cầu nhận thức, vui chơi giải trí,… Đây là nhu cầu có liên quan tới sự tồn tại xã hội của con người, nhu cầu chỉ ở con người mới có. Cũng như đối với nhu cầu vật chất đã nêu trên, khi ngay từ bé em đã đươc thỏa mãn những nhu cầu tình thần, được bố mẹ yêu thương, được vui chơi giải trí và giao tiếp với mọi người xung quanh từ đó em đã phát triển cảm giác mình thật sự có giá trị, có phẩm giá, tự tôn đi đến yêu thương người khác. Đó là cơ sở đầu tiên để hình thành xu hướng cá nhân em và là một trong những động lực cửa sự phát triển nhân cách. Hai loại nhu cầu trên có mối quan hệ với nhau. Nhu cầu vật chất là cơ sở để hình thành nhu cầu tinh thần. Thỏa mãn nhu cầu vật chất tạo điều kiện để nhu cầu tinh thần nảy nở và phát triển. Thỏa mãn nhu cầu vật chất trong chừng mực nhất định cũng là thỏa mãn nhu cầu tinh thần. Nhu cầu tinh thần khi đã hình thành sẽ có tác dụng chỉ đạo nhu cầu vật chất.

1.2. Hứng thú:

          Hứng thú là thái độ riêng có tính chất đặc thù của cá nhân đối với đối tượng nào đó vừa có ý nghĩa trong đời sống vừa có khả năng mang lại cho cá nhân sự khoái cảm. Trở lại với liên hệ về bản thân em ở trên, việc em muốn đạt được kết quả cao trong kỳ thi cuối học phần sắp tới, em có nhu cầu muốn thỏa mãn điều đó, khi cá nhân em có sự hứng thú và hiểu rõ ý nghĩa của nó đối với đời sống cá nhân. Sự hứng thú thể hiện trước hết ở sự tập trung chú ý cao độ, sự say mê học tập và trau dồi kiến thức. Bên cạnh đó, sự hứng thú là động cơ thúc đẩy em tham gia tích cực vào công việc học tập ấy, khi đó sẽ hoạt động một cách thoải mái, tích cực, tự giác, sáng tạo và có hiệu quả cao. Hứng thú làm tăng sức làm việc cho cá nhân, làm cho cá nhân dẻo dai hơn, ít mệt mỏi hơn.

1.3. Thế giới quan cá nhân:

          Thế giới quan cá nhân là hệ thống những quan điểm, quan niệm của cá nhân, thể hiện trong việc xem xét, đánh giá và giải quyết các vấn đề trong tự nhiên, xã hội và bản thân. Thế giới quan cá nhân có những phẩm chất cơ bản như tính khoa học, tính hệ thống và nhất quán, tính khái quát và tính cụ thể, tính hiệu lực. Thế giới quan đóng vai trò nhân tố sống động của ý thức cá nhân, giữ vai trò chỉ dẫn cách thức tư duy và hành động của cá nhân. Đối với bản thân em, thế giới quan đóng vai trò chủ đạo, quyết định việc lựa chọn xu hướng cá nhân. Khi em đang học lớp 12, xu hướng của em là muốn được học đại học chuyên ngành Luật. Và thế giới quan cá nhân như một chiếc la bàn định hướng cuộc sống, và là “cương lĩnh bên trong”, giúp em xác định mục tiêu kế hoạch phấn đấu đó là phải thi đỗ vào một trong các trường đại học có chuyên ngành Luật. Thế giới quan là động lực mạnh mẽ thúc đẩy em học tập, trau dồi kiến thức, luyện thật nhiều đề thi để có kết quả thi Đại học như mục tiêu của bản thân. Bên cạnh đó, em kết hợp với niềm tin, để tạo cho em nghị lực, ý chí để hành động phù hợp với quan điểm đã chấp nhận.

1.4. Lý tưởng:

          Lý tưởng là mục tiêu mà cá nhân cho là cao đẹp, mẫu mực hoàn chỉnh nhất của cuộc sống, có tác dụng lôi cuốn mạnh mẽ toàn bộ cuộc sống và hoạt động của cá nhân trong một thời gian tương đối dài để đạt tới mục tiêu đó. Lý tưởng vừa có tính hiện thực vừa có tính lãnh mạn; bên cạnh đó, lý tưởng còn có tính xã hội và giai cấp. Với câu chuyện thi vào đại học năm lớp 12 của em, em nhận thấy rằng. Tuổi trẻ là khoảng thời gian đẹp đẽ và ý nghĩa để bản thân em cũng như tất cả mọi người có cơ hội được học tập, được lập nghiệp. Vì thế vào đại học là ước mơ cao đẹp và chính đáng của đa số các bạn. Theo như em được biết, từ trước tới nay đã có nhiều thiên tài trên thế giới trưởng thành từ môi trường Đại học như nhà sinh vật học Darwin, nhà hóa học Marie Curie, Mendeleev, nhà bác học Anh-xtanh… Vì vậy, trước khi bước vào ngưỡng cửa cuộc đời, khi ấy em muốn chọn cho mình con đường Đại học và quyết tâm theo đuổi ước mơ ấy đến cùng, dù cánh cửa các trường Đại học có hẹp, dù mất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc. Mười hai năm đèn sách, vượt qua bao vất vả gian nan, trên vai mang nặng công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy, trước ngưỡng cửa cuộc đời ai cũng mong ước mình sẽ có một tương lai rạng rỡ. Tương lai ấy là gì? Đó là cuộc sống ổn định, có việc làm phù hợp với sở thích, khả năng và ngành nghề mà mình đã được đào tạo, có thu nhập cao, có điều kiện phát huy năng lực sáng tạo và cống hiến cho xã hội. Đối với em, tương lai ấy tạo ra cho bản thân cơ hội thăng tiến trong sự nghiệp, có thể phấn đấu trở thành một người Luật sư – người bảo vệ công lý cho tất cả mọi người, hay một Pháp chế doanh nghiệp…Khi ấy em mang trong mình lý tưởng mong muốn được vào Đại học, mong muốn sẽ được tiếp cận và tiếp thu những tri thức cơ bản về ngành nghề mà ta theo học từ các thầy cô, các giáo sư có trình độ học vấn và chuyên môn giỏi.

* Phương hướng rèn luyện:

          Để phát triển nhân cách và có xu hướng hướng tới những mục tiêu cao đẹp của bản thân, em cần xây dựng cho mình những hứng thú tích cực, đặc biệt là hứng thú với hoạt động học tập, nghiên cứu, rèn luyện trong nhà trường. Đồng thời phát triển nhiều hứng thú trên các lĩnh vực khác làm cho đời sống tâm lý thêm phần phong phú. Bên cạnh đó, cần tạo cho mình một lý tưởng cao đẹp như một ngôi sao dẫn đường chỉ hướng cho cuộc sống và thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động của cá nhân, điều khiển bản thân đến con đường thành công. Ngoài ra, em sẽ xây dựng lên một niềm tin đúng đắn về chân lý khách quan giúp tạo cho em một động lực, ý chí để hành động phù hợp với quan điểm đã chấp nhận.

2. Tính cách, đặc điểm của tính cách và phương hướng rèn luyện tính cách của bản thân:

          Tính cách cá nhân bao gồm nhiều nét tính cách. Nét tính cách là một thuộc tính tâm lý nói lên thái độ đặc trưng của cá nhân đối với từng mặt, từng khía cạnh, từng lĩnh vực của hiện thực, được biểu hiện bằng các hành vi xử sự tương ứng quen thuộc của cá nhân. Mỗi nét tính cách là một thuộc tính tâm lý cá nhân. Tổng hợp nhiều nét tính cách tạo thành tính cách cá nhân. Giữa các cá nhân có sự khác nhau về tính cách chủ yếu là do sự khác biệt về các tính chất như tính ổn định và bền vững, tính phức tạp và thống nhất, tính xã hôi – lịch sử quy định.

          Nói về tính cách của bản thân, em nhận thấy mình là người có tính cách mạnh mẽ. Đôi lúc em muốn tự lực để chứng minh sức mạnh của bản thân và kháng cực các điểm yếu, cố gắng để chi phối mọi thứ xung quanh. Em thích giải quyết vấn đề, kiểm soát được mọi tình huống xảy ra và đưa ra các giải pháp một cách kịp thời.  Tính cách của em được hình thành và phát triển trong quá trình sống và hoạt động của cá nhân, chịu sự tác động của điều kiện xã hội – lịch sử và hoàn cảnh sống riêng của bản thân.

* Phương hướng rèn luyện:

          Vì vậy, là một sinh viên Đại học để rèn luyện những nét tính cách tích cực cho bản thân em cần rèn luyện những hành vi thói quen phù hợp với chuẩn mực xã hội. Bên cạnh đó, em cần rèn luyện tính kiên trì, có thái độ trân trọng đối với công việc, không dễ dàng chấp nhận thất bại để giải quyết vấn đề, không dễ ngã lòng trước khó khăn. Tiếp đó, cần học tính độc lập và chấp nhận rủi ro, khi đối diện với thực tế, dù vui hay buồn vẫn tỏ ra bình tĩnh, dám chấp nhận trách nhiệm về các vấn đề để hoàn thành công việc, không hảo huyền, không nôn nóng, biết tính toán các nguy cơ. Để hình thành nét tính cách, tính cách tốt đáp ứng các yêu cầu của xã hội không phải dễ dàng, trong thời gian ngắn, vì vậy em sẽ cố gắng tự rèn luyện bản thân để phát triển bản thân trở nên tốt đẹp hơn.

3. Năng lực và phương hướng rèn luyện năng lực.

          Năng lực là tổ hợp các thuộc tính tâm lý cá nhân, đáp ứng những yêu cầu đặc trưng của một loại hoạt động nhất định nhằm bảo đảm cho hoạt động đó đạt kết quả cao. Theo mức độ chuyên biệt của năng lực chia thành: năng lực chung và năng lực riêng. Năng lực chungcòn được gọi là năng lực trí tuệ: là năng lực nắm và vận dụng tri thức cơ bản của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội làm cơ sở cho mọi hoạt động trong xã hội. Năng lực riêngcòn gọi là năng lực chuyên môn: là năng lực đặc trưng riêng trong những lĩnh vực hoạt động nhất định.

          Đối với bản thân em, sau khi đi thực tập ở văn phòng luật trên lĩnh vực luật, em nhận thấy mình có năng lực giao tiếp, thuyết trình, lập luận và đưa ra quan điểm của mình trước những Luật sư có kinh nghiệm và trước mọi người trong văn phòng. Vì khi đi thực tập, em đã được đi cùng các anh chị luật sư lên tòa án và gặp các đương sự trong nhiều vụ việc dân sự nên trong quá trình đó, năng lực riêng của em đã được hình thành và phát triển.  Khi hình thành nên năng lực giao tiếp, thuyết trình giúp em tự tin hơn trong quá trình giao tiếp, xử lý các công việc được giao một cách thuận lợi hơn.

* Phương hướng rèn luyện:

          Để nâng cao năng lực của bản thân theo em trước hết cần rèn luyện sự tập trung vì Tập trung là một trong những yếu tố giúp con người nâng cao năng lực cho bản thân. Theo Bill Gates và Warren Buffett cho biết “tập trung là bí quyết giúp bạn thành công trong bất cứ một lĩnh vực nào khi làm việc”. Những người có năng lực cao nhất là những người vô cùng tập trung. Họ luôn tập trung thời gian và tâm trí vào những công việc quan trọng nhất đồng thời loại bỏ những công việc không cần thiết, không quan trọng.

          Bên cạnh đó, cần phát triển khả năng tiên liệu “Nếu … thì”. Trong cuốn sách “Pre-Suasion: A Revolutionary Way to Influence and Persuade”, tác giả có đề cập tới một phương pháp giúp nâng cao năng lực làm việc của bản thân đó là phương pháp “Nếu… thì…”. Phương pháp này giúp bạn chinh phục mục tiêu, nâng cao năng lực nhanh gấp 3 lần so với những người chỉ làm việc theo bản năng.

          Ngoài ra, em sẽ tập thói quen lên kế hoạch cho ngày hôm sau, vì phương pháp này sẽ giúp con người phát triển nhanh hơn trên lộ trình phát triển năng lực của bản thân. Có một doanh nhân nổi tiếng từng nhận định “Khi bạn dành 1 phút để lập kế hoạch sẽ tiết kiệm 10 phút thực thi”. Điều này có nghĩa là khi chúng ta lên kế hoạch, liệt kê tất cả các công việc cần làm vào ngày hôm sau, đưa vào khung thời gian cụ thể sẽ giúp chúng ta gia tăng hiệu quả làm việc.

          Một người có năng lực là người làm chủ được chính bản thân mình. Vì vậy, chúng ta cần làm chủ tư duy, làm chủ suy nghĩ để cho trí óc chúng ta ngày càng trưởng thành, tích cực hơn. Suy nghĩ thoáng hơn, nhìn nhận lại vấn đề và sử dụng ngôn từ đúng đắn. Đó là làm chủ tư duy. Sự chủ động đối với thành công giống như que diêm đang cháy đối với ngọn nến. Robert Downey Jr. đã bước ra thế giới, từ bỏ con đường nghiện ngập và giờ đã trở thành một ngôi sao lớn trên dàn điện ảnh Hollywood. Đó là một người biết làm chủ bản thân, tự cứu mình ra khỏi phần đen tối trong xã hội này.

4. Khí chất, những ưu – nhược điểm của bản thân và rèn luyện khí chất của bản thân.

          Khí chất là thuộc tính tâm lý biểu hiện về cường độ, tốc độ và nhịp độ của các hoạt động tâm lý. Theo “Thuyết thần kinh” do nhà sinh lý học Nga I.P.Paplôp đề ra, cơ sở sinh lý của khí chất là do kiểu hoạt động thần kinh cấp cao  quy định.

          Theo như em nhận thấy, bản thân em thuộc người có khí chất nóng nảy. Khi tham gia hoạt động nhóm em luôn nhiệt tình, hăng hái, năng động và sẽ cố gằng hoàn thành tốt phần công việc của mình. Khi đã tiếp nhận một nhiệm vụ nào đó, bản thân em sẽ có thái độ nghiêm túc, say mê công việc, và đôi lúc còn có thể dùng nhiệt tình của mình để lôi cuốn người khác. Mỗi cá nhân là một thực thể riêng biệt, độc đáo, và mỗi người có một khí chất riêng.Với khí chất nóng nảy của bản thân, em nhận thấy mình có nhiều ưu điểm như khi đứng trước những lựa chọn, thường sẽ quyết định nhanh chóng, quyết đoán, dám nghĩ dám làm. Đối với những người bạn mới, những người chưa từng quen biết, khi tiếp xúc với họ em thường là người sẽ làm quen trước, cởi mở hơn và giao tiếp một cách thẳng thắn, bộc trực.

          Có một sự thật mà ai cũng phải thừa nhận rằng, con người ai cũng có khuyết điểm, chẳng có ai là tốt đẹp về mọi mặt, được cái này thì mất cái kia, đó là quy luật của cuộc sống không ai có thể phủ nhận. Và một người có khí chất nóng nảy cũng như vậy, ngoài những ưu điểm như trên, vì nhận thức nhanh, phản ứng mau lẹ nên bản thân em thường nhận thức không sâu, đặc biệt là khó kiềm chế bản thân, dễ bị kích động dẫn đến những hành động bột phát. Điều này khiến em dễ làm mất lòng người khác, khi rơi vào hoàn cảnh khó khăn sẽ thường không tự chủ được bản thân. Nhưng khi mọi chuyện đã qua đi, em thường không để bụng, và không bao giờ thù dai. Sau những sự việc đã xảy ra trong cuộc sống, em nhận thấy bản thân mình thiếu kiên trì, bền bỉ, khi gặp những khó khăn trở ngại thường dễ nản trí và cảm thấy bi quan, thất vọng. Về vấn đề tình cảm tuy là người yêu ghét rõ ràng nhưng lại sống thiên về tình cảm nhiều hơn lý trí, và đôi khi dễ bị tình cảm lất át lý trí bản thân.

* Phương hướng rèn luyện:

          Trong cuộc sống, con người luôn sống trong những câu hỏi về giá trị của chính mình, khí chất của bản thân mình. Hàng loạt những câu hỏi luôn được đặt ra như: Mình đang đứng ở vị trí nào? Mình là người như thế nào trong mắt mọi người? Hay phải làm sao để nhận được sự tôn trọng của những người xung quanh? Chúng ta cứ sống và tìm kiếm câu trả lời cho những câu hỏi đó. Hiểu và tìm kiếm khí chất bản thân là nhu cầu chính đáng của con người bởi vì “Biết mình biết ta trăm trận trăm thắng”. Vì vậy, để khắc phục những nhược điểm của khí chất nóng nảy, mỗi khi cảm thấy mình sắp nổi nóng, em sẽ hít thở thật sâu, tự trấn an hoặc dừng ngay những suy nghĩ tồi tệ. Bên cạnh đó, em sẽ chia sẻ với những người thân thiết, giãi bày những vẫn đề của bản thân và nỗ lực thay đổi cách ứng xử của chính mình. Ngoài ra, ngay từ bây giờ bản thân em phải học cách lắng nghe, nhìn nhận sự việc từ nhiều góc độ, đặt mình trong hoàn cảnh của người khác để có những đánh giá khách quan hơn.

II. Phương hướng rèn luyện chung để phát triển nhân cách:

          Để phát triển nhân cách cho bản thân, cần phát triển các thuộc tính tâm lý của nhân cách là xu hướng, tính cách, năng lực và khí chất. Vì vậy, bản thân em cũng tất cả mọi người, phải biết nỗ lực, rèn luyện nhân cách, nâng cao tâm hồn mình theo chiều hướng tốt. Điều đó giúp mỗi người không ngừng tiến bộ và cuộc sống trở nên có ý nghĩa hơn. Cho dù vị trí trong xã hội có khác nhau, nhưng mỗi người phải giữ gìn nhân cách của mình và luôn phấn đấu vươn lên trong cuộc sống. Nhân cách của một người được thể hiện thông qua hành động và việc làm của người đó. Người có nhân cách tốt không bao giờ có tính đố kị, ghen tị với người khác mà họ luôn nỗ lực để không thua kém người khác. Họ chịu khó tìm tòi, học hỏi nhiều hơn và duy trì nghiêm túc thói quen này. Họ sống thật khiêm tốn, không hề tự mãn và luôn nhìn lại bản thân mỗi ngày để kiểm tra xem xét lại mọi hành động và suy nghĩ của mình, nỗ lực sửa chữa những sai sót. Sống nhân hậu, vị tha, họ luôn chú tâm vào từng lời nói và mỗi việc làm, không bị chi phối, không bất mãn, lo âu vì những chuyện không cần thiết. Trong bất kì hoàn cảnh nào của cuộc sống, họ đều biết gìn giữ nhân cách, phẩm giá của bản thân, sẵn sàng hy sinh lợi ích của mình và luôn lắng nghe ý kiến của người khác để hoàn thiện bản thân. Nhân cách chính là tài sản mà chúng ta cần phải biết coi trọng, gìn giữ. Sống chân thật với bản thân, với tất cả mọi người là điều mà chúng ta cần phải khắc ghi để rèn luyện nhân cách, nâng cao phẩm giá của mình. Điều đó không chỉ giúp ích cho chính bản thân mà còn góp phần làm đẹp cho cuộc sống này.

          Trên đây là bài làm của em về đề tài “Mô tả đặc điểm các thuộc tính nhân cách của bản thân và nêu phương hướng rèn luyện”. Việc hình thành nhân cách ở mỗi con người là một quá trình liên tục, lâu dài và chịu sự quy định của nhiều yếu tố. Nhân cách của mỗi con người không nằm ở việc bạn được sinh ra ở đâu, do ai sinh ra, mà là ở sự nỗ lực hình thành và phát triển nhân cách của bản thân . Nếu ta không ngừng nỗ lực, kiên trì dù không quá thông minh, nhưng chắc chắn cũng sẽ đạt được ước nguyện. Nhân cách của chúng ta do chính chúng ta tạo nên, không có muộn, không có sớm, chỉ có bắt đầu và không bao giờ kết thúc.

          “Cuộc sống là một khung vải rộng và bạn nên vẽ vào đó tất cả những màu sắc trong khái niệm của mình” (Danny Kaye). Thật vậy, cuộc sống là khung vải rộng mà ở đó bản thân có thể thỏa sức sáng tạo nên chính nhân cách của bản thân, hạnh phúc của mình. Bản thân mỗi con người là một bản gốc, không có bản sao lưu nào khác, vì vậy hãy vẽ lên cuộc sống giá trị khác nhau của bạn, tạo cho mình một nhân cách tích cựcvà mang nét riêng của bản thân “Tôi tự hào vì khác biệt” (Khuyết danh).

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quy luật giá trị – lý luận và thực tiễn ở Việt Nam.

Một xã hội cần có những chính sách về phát triển kinh tế ngày một toàn diện và hiệu quả hơn sao cho đời sống tinh thần và vật chất của con người trong xã hội đó ngày một ổn định phong phú, nhưng để có được một xã hội như vậy không phải tự nhiên mà có. Thực tế đã chứng minh rằng việc phát triển kinh tế là một việc vô cùng khó khăn, đó là cuộc chạy đua sôi động giữa các nước trên thế giới nhằm đạt được một vị trí cao hơn trên thị trường quốc tế. Muốn thực hiện điều đó thì trong chính sách phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đòi hỏi phải được dựa trên một nền tảng cơ sở lý thuyết vững chắc về các quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật giá trị. Chúng ta đã biết được quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Mọi hoạt động của các chủ thể kinh tế trong sản xuất và lưu thông hàng hóa đều chịu sự tác động của quy luật này. Đất nước Việt Nam ta đang đứng trước những khó khăn lớn về mọi mặt nhất là trong phát triển kinh tế, do đó chúng ta cẩn phải áp dụng những biện pháp phát triển kinh tế thật thận trọng, khẩn trương và làm sao để có hiểu quả nhất. Chính vì vậy việc áp dụng quy luật giá trị vào việc phát triển kinh tế là rất quan trọng. Chúng ta cần phải thật linh hoạt trong từng vấn đề, từng lĩnh vực của sự phát triển kinh tế. Để tìm hiểu kĩ hơn về vấn đề này, em xin chọn đề tại số 1: “Quy luật giá trị – lí luận và thực tiễn ở Việt Nam”.

1. Lí luận về quy luật giá trị và vai trò của quy luật giá trị:

1.1. Khái niệm quy luật giá trị:

            Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa. Ở đâu có có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị.

1.2. Nội dung quy luật giá trị:

            Tất cả các hoạt động kinh tế của con người đều chịu sự tác động của quy luật kinh tế nào đó. Quy luật giá trị là một trong những quy luật kinh tế có tác động mạnh đến các hoạt động kinh tế của con người. Quy luật giá trị là quy luật của nền sản xuất hàng hóa, biểu hiện nhu cầu khách quan của việc định hướng nền sản xuất và trau dồi theo các quan hệ tỷ lệ phản ánh hao phí lao động xã hội cần thiết. Giá trị là hình thức biểu hiện các hao phí đó trên cơ sở quy tất cả các loại lao động cụ thể thành lao động trừu tượng và quy lao động phức tạp thành lao động giản đơn. Giá trị là phương thức điều tiết các mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa trong quá trình trao đổi hoạt động.

            Quy luật giá trị hoạt động trong các hình thái xã hội khác nhau và trong hệ thống các quan hệ kinh tế của mối hình thái. Quy luật đó không thuộc về quy luật biểu hiện bản chất xã hội cơ bản của một hình thái xã hội nào, các biểu hiện cụ thể của nó phụ thuộc vào quy luật kinh tế cơ bản của phương thức sản xuất nhất định

            Trong sản xuất thì hao phí lao động cá biệt phải phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì trong nền sản xuất hàng hóa, vấn đề đặc biệt quan trọng là hàng hóa sản xuất ra có bán được hay không. Để có thể bán được thì hao phí lao động để sản xuất ra hàng hóa của các chủ thể kinh doanh phải phù hợp với mức hao phí lao động xã hội có thể chấp nhận được. Mức hao phí càng thấp thì họ càng có khả năng phát triển kinh doanh, thu được nhiều lợi nhuận.

            Trong trao đổi hàng hóa cũng phải dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết, tức là tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá, hai hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau, nhưng có lượng giá trị bằng nhau thì phải trao đổi ngang nhau.

            Đòi hỏi trên của quy luật là khách quan, đảm bảo sự công bằng, hợp lí, bình đẳng giữa những người sản xuất hàng hóa. Quy luật giá trị bắt buộc những người sản xuất và trao đổi hàng hóa phải tuân theo yêu cầu hay đòi hỏi của nó thông qua “mệnh lệnh” của giá cả thị trường. Tuy nhiên trong thực tế do sự tác động của nhiều quy luật kinh tế , nhất là quy luật cung cầu làm cho giá cả hàng hóa thường xuyên tách rời giá trị. Nhưng sự tách rời đó chỉ xoay quanh giá trị, C.Mác gọi đó là vẻ đẹp của quy luật giá trị. Trong vẻ đẹp này, giá trị hàng hóa là trục, giá cả thị trường lên xuống quanh trục đó. Đối với mỗi hàng hóa, giá cả của nó có thể cao thấp khác nhau, nhưng khi xét trong một khoảng thời gian nhất định, tổng giá cả phù hợp với tổng giá trị của nó.

            Giá cả thị trường tự phát lên xuống xoay quanh giá trị là biểu hiện sự hoạt động quy luật giá trị.

1.3. Các hình thức chuyển hóa quy luật giá trị:

            Tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt được dùng để các hàng hóa khác biểu thị giá trị của mình. Giá trị hàng hóa được biểu thị ra bằng tiền gọi là giá cả hàng hóa.

            Trong giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản, sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị và tiền tệ tiêu vong

            Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, quy luật giá trị chuyển hóa thành quy luật giá cả sản xuất.

            Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, quy luật giá trị chuyển hóa thành quy luật giá cả độc quyền cao.

1.4. Mối quan hệ giữa giá cả, giá cả thị trường, giá cả độc quyền và giá trị hàng hóa.

   Ta xét mối quan hệ giữa giá cả, giá cả thị trường, giá cả độc quyền và giá trị hàng hóa:

            +) Giá cả: là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa. Giá trị là cơ sở của giá cả. Khi quan hệ cung cầu cân bằng, giá cả hàng hóa cao hay thấp là ở giá trị của hàng hóa quyết định. Trong điều kiện sản xuất hàng hóa, giá cả hàng hóa tự phát lên xuống xoay quanh giá trị tùy theo quan hệ cung cầu, cạnh tranh và sức mua của đồng tiền. Sự hoạt động của quy luật giá trị biểu hiện ở sự lên xuống của giá cả thị trường. Tuy vậy, sự biến động của giá cả vẫn có cơ sở là giá trị, mặc dù nó thường xuyên tách rời giá trị.

            +) Giá cả sản xuất là hình thái biến tướng của giá trị, nó bằng chi phí sản xuất của hàng hóa cộng với lợi nhuận bình quân.

                Trong giai đoạn tư bản tự do cạnh tranh do hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân nên hàng hóa không bán theo giá trị mà bán theo giá cả sản xuất.

            +) Giá trị hàng hóa chuyển thành giá cả sản xuất không phải là phủ nhận quy luật giá trị mà chỉ là biểu hiện cụ thể của quy luật giá trị trong giai đoạn tư bản tự do cạnh tranh.

            +) Giá cả độc quyền:

                        – Trong giai đoạn tư bản độc quyền, tổ chức độc quyền đã nâng giá cả hàng hóa lên trên giá cả sản xuất và giá trị. Giá cả độc quyền bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận độc quyền. Lợi nhuận độc quyền vượt quá lợi nhuận bình quân.

                        – Khi nói giá cả độc quyền thì thường hiểu là giá cả bán ra cao hơn giá cả sản xuất và giá trị, đồng thời cũng cần hiểu còn có giá cả thu mua rẻ mà tư bản độc quyền mua của người sản xuất nhỏ, tư bản vừa và nhỏ ngoài độc quyền.

                        – Giá cả độc quyền không xóa bỏ giới hạn của giá trị hàng hóa, nghĩa là giá cả độc quyền không thể tăng thêm hoặc giảm bớt giá trị và tổng giá trị thặng dư do xã hội sản xuất ra; phần giá cả độc quyền vượt quá giá trị chính là phần giá trị mà những người bán (công nhân, người sản xuất nhỏ, tư bản vừa và nhỏ…) mất đi. Nhìn vào phạm vi toàn xã hội, toàn bộ giá cả độc quyền cộng với giá cả không độc quyền về đại thể bằng toàn bộ giá trị.

1.5. Cơ chế biểu hiện của quy luật giá trị:

      +) Quy luật giá trị hoạt động được thể hiện ở sự biến đổi lên xuống của giá cả xoay quanh giá trị dưới tác động của quan hệ cung – cầu hàng hóa trên thị trường.

      +) Nếu sức mua đồng tiền không đổi, không kể đến điều tiết của nhà nước và độc quyền thì xảy ra 03 trường hợp sau:

  • Khi cung = cầu, thì giá cả = giá trị
  • Khi cung > cầu, thì giá cả < giá trị
  • Khi cung < cầu, thì giá cả > giá trị

        Tuy nhiên, xét tổng thể thì tổng giá cả luôn bằng tổng giá trị.

      +) Trong nền sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Đó là: điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa; kích thích tiến bộ, nâng cao năng suất lao động; phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu – nghèo.

1.6. Vai trò của quy luật giá trị:

      +) Quy luật giá trị điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa:

            Trong sản xuất, quy luật giá trị điều tiết việc phân phối tư liệu sản xuất và sức lao động giữa các ngành sản xuất thông qua sự biến động của giá cả hàng hóa. Như em đã nói ở trên, do ảnh hưởng của quan hệ cung cầu giá cả hàng hóa trên thị trường lên xuống xoay quanh giá trị của nó. Nếu một ngành nào đó, cung không đáp ứng cầu, giá cả hàng hóa lên cao thì những người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất. Những người đang sản xuất hàng hóa sẽ thu hẹp quy mô sản xuất để chuyển sang sản xuất loại hàng hóa này. Như vậy, tư liệu sản xuất, sức lao động và vốn được chuyển vào ngành này tăng lên, cung về loại hàng hóa này trên thị trường sẽ tăng cao. Ngược lại khi ngành đó thu hút quá nhiều lao động xã hội, cung vượt cầu, giá cả hàng hóa hạ xuống, thì người sản xuất sẽ phải chuyển bớt tư liệu sản xuất và sức lao động ra khỏi ngành này để đầu tự vào nơi có giá cả hàng hóa cao. Nhờ vậy mà tư liệu sản xuất và sức lao động được phân phối qua lại một cách tự phát vào các ngành này để đầu tư vào nơi có giá cả hàng hóa cao. Nhờ vậy mà tư liệu sản xuất và sức lao động được phân phối qua lại một cách tự phát vào các ngành sản xuất khác nhau. Ở đây ta thấy rằng sự biến động của giá cả xung quanh giá trị không những chỉ rõ sự biến động về kinh tế mà còn có tác động điều tiết nền kinh tế.

            Ngoài ra ta còn thấy quy luật giá trị cũng điều tiết và lưu thông hàng hóa. Hàng hóa bao giờ cũng vận động từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao. Quy luật giá trị có tác dụng điều tiết sự vận động đó, phân phối các nguồn hàng hóa một cách hợp lí hơn trong nước.

      +) Quy luật giá trị kích thích cải tiến kĩ thuật, hợp lí hóa sản xuất nhằm tăng năng xuất lao động:

            Trong nền kinh tế hàng hóa, người sản xuất hàng hóa nào cũng mong có nhiều lãi. Người có nhiều lãi hơn là người có thời gian lao động cá biệt ít hơn hoặc bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Còn những người có thời gian lao động cá biệt lớn hơn thời gian lao động xã hội cần thiết thì sẽ bị lỗ không thu về được toàn bộ lao động đã hao phí. Muốn đứng vững và thắng trong cạnh tranh, mỗi người sản xuất đều luôn tìm cách rút xuống đến mức tối thiểu thời gian lao động cá biệt. Muốn vậy, những người sản xuất phải tìm mọi cách cải tiến kĩ thuật, nâng cao trình độ tay nghề, sử dụng thành tựu mới của khoa học, kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lí của sản xuất, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy các quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, kết qủa là năng suất lao động tăng lên nhanh chóng. Ngoài ra để có thể thu được nhiều lãi, người sản xuất hàng hóa còn phải thường xuyên cải tiến chất lượng, mẫu mã hàng hóa cho phù hợp nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng, cải tiến các biện pháp lưu thông, bán hàng để tiết kiệm chi phí lưu thông và tiêu thị sản phẩm nhanh. Vì vậy quy luật giá trị có tác dụng thúc đẩy sản xuất hàng hóa nhiều, nhanh, tốt, rẻ hơn.

      +) Quy luật giá trị phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành kẻ giàu người nghèo, làm phát sinh và phát triển quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa:

            Trong cuộc cạnh tranh chạy theo giá trị, lao động cá biệt của mỗi người sản xuất có thể không nhất trí với lao động xã hội cần thiết. Những người làm tốt, làm giỏi có năng suất lao động cá biệt thấp hơn thời gian lao động xã hội cần thiết và nhờ đó họ phát tài, làm giàu, mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất. Bên cạnh đó những người làm ăn kém, không may mắn, thời gian lao động cá biệt lớn hơn thời gian lao động xã hội cần thiết nên bị lỗ vốn thậm chí đi đến phá sản. Như vậy, quy luật giá trị có ý nghĩa đánh giá người sản xuất, kích thích những yếu tố tích cực phát triển và đào thải các yếu tố kém. Nó đảm bảo sự bình đẳng đối với người sản xuất. Sự phân hóa này là kết quả tự nhiên sản xuất hàng hóa dựa trên chế độ tư hữu.

2. Thực tiễn việc vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế ở Việt Nam:

2.1. Việc vận dụng quy luật giá trị vào những năm nền kinh tế bao cấp:

            Trong thời kì này chúng ta đã có cách hiểu không đúng về việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội, do đó việc vận dụng quy luật giá trị đã có những thiếu sót, sai lệch. Hậu quả là đã làm triệt tiêu những nhân tố tích cực, năng động của xã hội. Khiến cho nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, kém phát triển.

2.2. Việc vận dụng quy luật giá trị thời gian trong thời kì đổi mới:

Trong thời kỳ đổi mới, chúng ta phát triển nền sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị hoạt động, tạo nên sự cạnh tranh, phát triển kinh tế… Bên cạnh đó, cũng nảy sinh những mặt trái như: phân hóa giàu – nghèo, buôn bán gian lận…

Hiện nay nước ta đang hội nhập theo nền kinh tế thế giới với chính sách mở cửa hợp tác với các nước. Đảng ta đã đưa ra quan điểm “Một nền kinh tế phát triển theo mô hình nền kinh tế nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa và dưới sự quản lý của nhà nước“. Trong quá trình phát triển nền kinh tế, nước ta chịu tác động của nhiều nhân tố khách quan, một trong những nhân tố khách quan chủ yếu là quy luật giá trị.

Việt Nam sau hơn 30 năm đổi mới, dưới tác động của quy luật giá trị và vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu nhất định trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là về kinh tế. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được cơ sở vật chất – kỹ thuật, hạ tầng kinh tế – xã hội từng bước đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã hội cho phát triển dài hạn và bền vững.

Trong đó, tăng trưởng kinh tế với tốc độ khá cao trong khu vực và trên thế giới. Năm 2017, tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 6,81%, cao nhất trong 10 năm trở lại đây.Lạm phát được kiểm soát tốt giúp kinh tế vĩ mô phát triển ổn định.

Về cơ cấu GDP theo ngành đã có chuyển dịch tích cực theo hướng giảmtỷ trọng của khu vực nông – lâm – ngư nghiệp và tăng tỷ trọng của khu vựccông nghiệp xây dựng và dịch vụ. Đến nay, đóng góp vào tăng trưởng của 02 ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 90% tăng trưởng toàn ngành kinh tế. Tuy nhiên tốc độ chuyển dịch còn chậm.

Bên cạnh những tác động tích cực, quy luật giá trị cũng có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta như phân hóa giàu – nghèo, cạnh tranh không lành mạnh giữa các chủ thể sản xuất, buôn bán gian lận…Vì vậy, cần phải nghiên cứu kỹ quy luật giá trị để có những hiểu biết thêm về những biểu hiện mới của nó từ đó có những chính sách và hướng đi rõ ràng cụ thể để nước ta ngày càng phát triển đi lên.

Trong thời gian tới, để phát huy những tác động tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực của quy luật giá trị vào nền kinh tế thị trường, chúng ta cần nắm vững nội dung, cơ chế hoạt động của quy luật giá trị trong nền kinh tế, từ đó vận dụng vào các lĩnh vực một cách đúng đắn để hạn chế những tác động tiêu cực của quy luật giá trị đối với quá trình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta.

2.3. Vận dụng quy luật giá trị vào lĩnh vực sản xuất:

      +) Một nguyên tắc căn bản của kinh tế thị trường là trao đổi ngang giá tức là thực hiện sự trao đổi hàng hóa thông qua thị trường, sản phẩm phải trở thành hàng hóa. Nguyên tắc này đòi hỏi tuân thủ quy luật giá trị – sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần thiết. cụ thể:

  • Xét ở tầm vi mô: Mỗi cá nhân khi sản xuất các sản phẩm đều cố gắng làm cho thời gian lao động cá biệt nhỏ hơn thời gian lao động xã hội.
  • Xét ở tầm vĩ mô: Mỗi doanh nghiệp đều cố gắng nâng cao nắng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giảm thời gian lao động xã hội cần thiết.

 Do vậy, nhà nước đưa ra các chính sách để khuyến khích nâng cao trình độ chuyên môn. Mỗi doanh nghiệp phải cố gắng cải tiến máy móc, mẫu mã, nâng cao tay nghề lao động. Nếu không quy luật giá trị ở đây sẽ thực hiện vai trò đào thải nó. Tất yếu điều đó dẫn tới sự phát triển của lực lượng sản xuất mà trong đó đội ngũ lao động có tay nghề chuyên môn ngày càng cao, công cụ lao động luôn luôn được cải tiến. Và cùng với nó, sự xã hội hóa, chuyên môn hóa lực lượng sản xuất cũng được phát triển. Đây là những vẫn dụng đúng đắn của nhà nước ta.

      +) Vận dụng quy luật giá trị đối với việc hoạch toán kinh tế của các doanh nghiệp:

Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, mỗi doanh nghiệp là người sản xuất hàng hóa cạnh tranh gay gắt với nhau, để đứng vững được trên thị trường, chiến thắng đối thủ cạnh tranh thì họ phải tính đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thông qua các hình thức giá trị, giá cả, lợi nhuận, chi phí… Để có lợi nhuận, các doanh nghiệp phải tìm cách hạ thấp chi phí sản xuất bằng cách hợp lý hóa sản xuất, tiết kiệm chi phí vật chất, tăng năng suất lao động… Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải nắm vững và vận dụng tốt quy luật giá trị trong hoạch toán kinh tế. Thời gian qua ta thấy có rất nhiều doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, điều đó cho thấy các doanh nghiệp đã vận dụng khá tốt quy luật giá trị vào hoạch toán kinh tế.

Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, Nhà nước ta đã quyết định cổ phần hóa phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước, và Nhà nước chỉ giữ lại một số ngành có tính chất an ninh quốc gia. Các doanh nghiệp rồi sẽ dần chuyển thành các công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu và mỗi cổ đông sẽ vì lợi ích của mình để đầu tư vào sản xuất, hoạch toán kinh tế sao cho lợi nhuận càng nhiều càng tốt. Bởi vậy, việc vận dụng quy luật giá trị vào hoạch toán kinh tế của mỗi công ty cổ phần thời kỳ này là một việc hết sức quan trọng và cần thiết đối với mỗi công ty cổ phần.

      +) Vận dụng quy luật giá trị đối với việc hình thành giá cả sản xuất:

Thời kỳ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, tất cả giá cả các mặt hàng đều do Chính phủ kiếm soát. Sau năm 1986, nền kinh tế nước ta chuyển sang sản xuất hàng hóa thì giá cả là do thị trường quyết định. Nhà nước ta cũng xác định, thời kỳ này giá cả phải vận dụng tổng hợp các quy luật, trong đó quy luật giá trị có tác động trực tiếp. Giá cả phải do giá trị quyết định. Tuy nhiên, trên tực tế giá cả hàng hóa chịu tác động của nhiều yếu tố như cung – cầu, cạnh tranh, sức mua đồng tiền, giá các mặt hàng liên quan… không thể giữ giá theo ý muốn chủ quan của Nhà nước. Qua đây cho ta thấy ngay trong Nhà nước cũng đã nhận ra được vai trò quan trọng của quy luật giá trị trong việc hình thành giá cả trong nền kinh tế thị trường.

2.4. Vận dụng quy luật giá trị vào lĩnh vực lưu thông hàng hóa.

Trong lĩnh vực lưu thông, quy luật giá trị yêu cầu trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá, tức giá cả bằng giá trị. Dưới tác động quy luật giá trị, hàng hóa trong nền kinh tế sẽ được đưa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, từ nơi cung nhiều đến nơi cầu nhiều. Thông qua sự biến động về giá cả trên thị trường, luồng hàng hóa sẽ lưu thông từ đó tạo sự cân đối về nguồn hàng giữa các vùng miền.

Đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, thông qua hệ thống giá cả quy luật giá trị có ảnh hưởng nhất định đến việc lưu thông của một hàng hóa nào đó. Giá mua cao sẽ khơi thêm nguồn hàng, giá bán hạ sẽ thúc đẩy mạnh việc tiêu thụ và ngược lại. Do đó mà Nhà nước ta đã vận dụng vào việc định giá cả sát giá trị, xoay quanh giá trị để kích thích cải tiến kỹ thuật, tăng cường quản lý. Không những thế Nhà nước ta còn chủ động tách giá cả khỏi giá trị với từng loại hàng hóa trong từng thời kỳ nhất định, lợi dụng sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị để điều tiết một phần sản xuất và lưu thông, điều chỉnh cung cầu và phân phối. Giá cả được coi là một công cụ kinh tế quan trọng để kế hoạch hóa sự tiêu dùng của xã hội. 

Ví dụ: giá cả của sản phẩm công nghiệp nặng lại đặt thấp hơn giá trị để khuyến khích sự đầu tư phát triển, áp dụng kỹ thuật vào sản xuất. Tuy nhiên, sự điều chỉnh này ở nước ta không phải bao giờ cũng phát huy tác dụng tích cực, nhiều khi những chính sách này lại làm cho giá cả bất ổn, tạo điều kiện cho hàng hóa nước ngoài tràn vào nước ta do giá cả hợp lý hơn. 

Bên cạnh những tác động tích cực thì còn có những hạn chế. Do chạy theo lợi nhuận, do tính cạnh tranh cao trong nền kinh tế nên xuất hiện tình trạng gian lận trong buôn bán, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng xuất hiện tràn lan trên thị trường…Ở Việt Nam, theo đánh giá của cơ quan chức năng, hàng giả, hàng nhái đang len lỏi vào thị trường một cách công khai. Thực trạng hàng giả hàng nhái hiện nay là một vấn nạn xã hội chưa hề có dấu hiệu thuyên giảm, thậm chí đang ngày một gia tăng. Thị trường băng đĩa CD, VCD, DVD ở Việt Nam là một ví dụ điển hình cho hiện tượng này. Theo thống kê, đối với mặt hàng mỹ phẩm, khoảng 75% thị phần mỹ phẩm bán ngoài thị trường là hàng giả và hàng nhập lậu, hàng chính hãng chỉ có 25% còn lại. Đặc biệt, 100% các sản phẩm nước hoa và sáp vuốt tóc bày bán tại các chợ không phải hàng thật. Nhiều sản phẩm mỹ phẩm của nước ngoài chưa hề được công bố cũng đã được bán tại nhiều chuỗi cửa hàng của Việt Nam trong đó có cả những chuỗi cửa hàng danh tiếng. Từ những hạn chế đó, Nhà nước với vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế cần đưa ra những chính sách thiết thực, hiệu quả để khắc phục những hạn chế, đồng thời phát huy mặt tích cực.

3. Giải pháp nhằm vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế ở Việt Nam trong thời gian tới.

      +) Đầu tư vào việc nghiên cứu, ứng dụng và triển khai khóa học công nghệ:

            Trong tình trạng nước ta còn thiếu thốn trầm trọng khoa học kĩ thuật như hiện nay, nước ta cần phải hỗ trỡ nhiều hơn nữa kinh phí cho các nghiên cứu, các đề tài nghiên cứu phục vụ trực tiếp cho việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuấ, thực hiện cơ chế đặt hàng trực tiếp giữa nhà nước, doanh nghiệp và các cơ sở nghiên cứu khoa học, tránh tình trạng bỏ phí vốn đầu tư do tách rời giữa sản phẩm nghiên cứu và thực tiễn. Tăng kinh phí đào tạo, nhất là đào tạo mới và đào tạo bổ sung đội ngũ lao động chất lượng cao. Đặc biệt chú trọng đội ngũ công nhân lành nghề, giỏi việc, làm chủ được những công nghệ mới.

            Tiếp theo phải nâng cao trình độ văn hóa cho nguồn nhân lực, phấn đấu phổ cập phổ thông cơ sở và phổ thông trung học đối với những đối tượng và những vùng có điều kiện nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu các kiến thức trong đào tạo chuyên môn kĩ thuật cho người lao động. Thực hiện chính sách phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở để tạo ra cơ cấu đào tạo hợp lí.

      +) Để phát huy các tác động tích cực, đẩy lùi các tác động tiêu cực của kinh tế thị trường cần nâng cao vai trò quản lí của nhà nước thông qua quy hoạch, kế hoạch, công cụ tài chính, qua các phương thức kích thích, giáo dục, thuyết phục và cả cưỡng chế:

  • Phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là trung tâm: đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhà nước ta. Phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa để từ đó tạo đà để thực hiện những nhiệm vụ khác, đưa nước ta nhanh chóng phát triển, tiếp theo con đường xã hội chủ nghĩa.
  • Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
  • Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, tăng cường vai trò quản lí kinh tế của nhà nước
  • Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: đây là nhiệm vụ nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị vào nền kinh tế nước ta.
  • Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an kinh quốc gia.

      +) Lưu thông hàng hóa, tăng khả năng cạnh tranh hàng hóa của Việt Nam.

            Một trong những yếu tố then chốt để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam là cơ cấu lại và tăng cường năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp, trong đó có vai trò quan trọng của khu vực nhà nước vì khu vực này nắm phần lớn tài sản quốc gia, nguồn lao động kĩ thuật, tài nguyên và giữ vai trog chủ đạo trong các thành phần kinh tế. Khu vực doanh nghiệp cần xây dựng được chương trình cắt giảm chi phí sản xuất trong từng công đoạn sản xuất với từng sản phẩm. Nhà nước thực hiện chính sách khuyến khích nghiên cứu áp dụng đổi mới công nghệ, đầu tư đổi mới thiết bị sản xuất. Tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, xây dựng khuôn khổ chính sách tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiến hành cơ cấu lại sản xuất có hiệu quả, tăng khả năng cạnh tranh. Hạn chế độc quyền của các doanh nghiệp, nhà nước chỉ thực hiện trợ giá những mặt hàng thiết yếu quan trọng và một số mặt hàng nông sản xuất khẩu.

            Thực hiện chính sách hỗ trợ có điều kiện trong một khoảng thời gian nhất định để dần dần tăng năng lực cạnh tranh của một số sản phẩm, mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu. Bằng cách mở rộng quan hệ với các quốc gia, các nước, hỗ trỡ xúc tiến thương mại ở các thị trường giàu tiềm năng. Tăng cường đầu tư vào hoạt động nghiên cứu thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài.

            Giải pháp phát triển nguồn nhân lực phải đặc biệt coi trọng. Trong thời gian tới cần đầu tư cho đào tạo và đào tạo lại, nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo lên trên 30% số lao động hiện có, trong đó chú trọng đào tạo nghề công nghệ cao.

      +) Nhà nước cần chú ý hơn tới vấn đề đồng bộ hệ thống thị trường ở nước ta: ở nước ta một số loại thị trường phát triển nhanh chóng, phát huy được hiệu quả trong nền kinh tế thị trường, trong khi đó một số loại thị trường còn rất sơ khai, chưa hình thành một cách đầy đủ, vì thế nhà nước cần có những biện pháp để vực dậy một số thị trường đó.

      +) Nhà nước ta khi vận dụng quy luật giá trị phải xuất phát từ nhiều quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội, căn cứ vào nhiệm vụ kinh tế, chính trị trong từng thời kì.

* Kết luận: Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của nền sản xuất hàng hóa. Sự ra đời và hoạt động của quy luật này gắn liền với sản xuất và lưu thông hàng hóa. Trên đây là bài làm của em với chủ đề lí luận về quy luật giá trị và những thực tiễn ở Việt Nam. Việc vận dụng quy luật giá trị vào phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có ý nghĩa vô cùng to lớn, giúp nền kinh tế Việt Nam phát triển theo kịp trình độ các nền kinh tế phát triển trên thế giới. Tuy nhiên, Nhà nước với vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế cần có những giải pháp để hạn chế những tác động tiêu cực của quy luật giá trị tới nền kinh tế, giúp nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Ký Hợp đồng thử việc hoặc không Ký hợp đồng lao động thì nếu gây thiệt hại có phải bồi thường không.

Ngày 1/3/2019, A và công ty X có địa chỉ tại quận Nam Từ Liêm, Hà Nội ký hợp đồng thử việc với các điều khoản: thời gian 90 ngày, lương thử việc bằng lương cơ sở, công việc là nhân viên kiểm tra sản phẩm. Hết hạn thử việc các bên không ký HĐLĐ nhưng A vẫn tiếp tục làm việc tại công ty X. Ngày 15/8/2021, do sơ xuất trong quá trình vận hành máy nên A đã làm nổ thiết bị khiến công nhân H đứng gần đó bị thương phải vào bệnh viện điều trị 1 tháng, sau khi ra viện giám định bị suy giảm 55% khả năng lao động. Công ty đã phải bỏ ra 50 triệu để sửa chữa máy móc bị hỏng. Sau sự việc đó, giám đốc doanh nghiệp dự kiến xử lý kỷ luật sa thải A và yêu cầu A bồi thường thiệt hại.

Hỏi:

1. Nhận xét hợp đồng thử việc của A và công ty X?

Căn cứ theo điều 25 của BLLĐ 2019 về thời gian thử việc:

Thời gian thử việc do hai bên thỏa thuận căn cứ vào tính chất và mức độ phức tạp của công việc nhưng chỉ được thử việc một lần đối với một công việc và bảo đảm điều kiện sau đây:

1. Không quá 180 ngày đối với công việc của người quản lý doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp;

2. Không quá 60 ngày đối với công việc có chức danh nghề nghiệp cần trình độ chuyên môn, kỹ thuật từ cao đẳng trở lên;

3. Không quá 30 ngày đối với công việc có chức danh nghề nghiệp cần trình độ chuyên môn, kỹ thuật trung cấp, công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ;

4. Không quá 06 ngày làm việc đối với công việc khác.

– Việc Công ty X ký hợp đồng thử việc với công ty A thời hạn 90 ngày là không đúng theo quy định của pháp luật và sẽ phải chịu các chế tài theo quy định. Vị trí mà nhân viên A làm không phải là một trong các công việc đặc biệt quy định ở khoản 1.

– Chính vì vậy, chỉ có thể ký hợp đồng thử việc tối đa là 60 ngày. Nhưng công ty X lại ký hợp đồng thử việc 90 ngày vì vậy điều khoản này trong hợp đồng sẽ bị vi phạm và phải căn cứ vào quy định ở điều 25 bộ luật này để xác định thời hạn thử việc.

– Thực tế nếu công ty muốn thử việc nhân viên A trong 90 ngày thì có thể ký hai hợp đồng thử việc, trong đó quy định rõ ràng không vượt quá số ngày pháp luật quy định. Đó cũng là một trong những khe hở của bộ luật lao động 2019 khi không quy định rõ ràng về số lần thử việc của người lao động.

2. Công ty có căn cứ để sa thải A hay không? Tư vấn cho công ty các thủ tục để việc xử lý kỷ luật đối với A hợp pháp?

– Công ty X có căn cứ để sa thải A trong trường hợp:

+ Thứ nhất, xét trên góc độ thực tế việc A và công ty X không ký kết hợp đồng lao động cũng là một sự bất lợi cho cả hai bên về nhiều khía cạnh. Và việc không ký kết hợp đồng với người lao động bằng văn bản có thể khiến người sử dụng lao động vi phạm phát luật và chịu các chế tài theo quy định của pháp luật. Trong đó liên quan đến tình huống này về phía người lao động ở đây, sự bất lợi đó chính là việc các quyền của người lao động không được đảm bảo đồng nghĩa với việc nghĩa vụ của NLĐ với NSDLĐ không được đảm bảo. Căn cứ theo điều 14 BLLĐ 2019 thì hình thức của HĐLĐ phải được thể hiện bằng văn bản trừ trường hợp giao kết dưới 1 tháng lao động. Chính vì vậy khi xảy ra tranh chấp, việc NLĐ đòi lại quyền lợi của mình là rất khó khăn. Việc A không yêu cầu ký hợp đồng lao động sau khi

+ Thứ hai, giả thiết đặt NLĐ ở đây đang trong một quan hệ lao động hợp pháp được cả hai bên ngầm thỏa thuận nhưng chưa kịp kí kết hợp đồng lao động vì một số lý do thì sự việc xảy ra do lỗi của người nhân viên A có thể bị sa thải căn cứ theo khoản 2 điều 125 BLLĐ 2019:

2. Người lao động có hành vi tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động, có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của người sử dụng lao động hoặc quấy rối tình dục tại nơi làm việc được quy định trong nội quy lao động;

→ Như vậy với tình huống đưa ra, việc ngươì lao động sơ xuất trong quá trình vận hành máy đã làm nổ thiết bị khiến công nhân H đứng gần đó bị thương phải vào bệnh viện điều trị 1 tháng đã gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho công ty. Công nhân H thì đã có bên phía bảo hiểm chi trả phần tổn thất do tai nạn trong lúc làm việc nhưng những tài sản của công ty thì đã bị tổn thất nghiêm trọng cụ thể là mất 50 trđ để sửa chữa máy móc bị hỏng. Phía công ty X có thể đưa ra căn cứ hành vì sơ xuất của nhân viên A gây thiệt hại nghiêm trọng tới tài sản của công ty nên công ty có quyền sa thải nhân viên A. Trong nội quy công ty nếu có nếu rõ mức độ thiệt hại nghiêm trong ở khoảng 50 trđ sẽ sa thải NLĐ thì càng có căn cứ chắc chắn hơn để tiến hành xử lý kỉ luật nhân viên A bằng hình thức sa thải.

* Thủ tục xử lý kỉ luật đối với nhân viên A của công ty X như sau:

Tiến hành họp xử lý lao động tại công ty X. NSDLĐ thông báo cho những thành phần có liên quan: Nhân viên A, tổ chức đại diện người lao động tại công ty với A là thành viên về nội dung, thời gian, địa điểm tiến hành cuộc họp xử lý kỷ luật lao động, họ tên người bị xử lý kỷ luật lao động, hành vi vi phạm bị xử lý kỷ luật lao động trước 5 ngày họp.

– Phía lãnh đạo công ty phải nhận được xác nhận từ phía các thành phần sẽ tham gia vào buổi họp. Trường hợp 1 trong các thành phần vắng mặt thì chuyển buổi họp sang hôm khác để đảm bảo được tính khách quan của buổi họp, trường hợp hai bên không thỏa thuận được thì người sử dụng lao động quyết định thời gian, địa điểm họp vẫn tiến hành họp xử lý kỷ luật lao động; Tránh việc xảy ra tranh chấp sau đó cho công ty X

– Nội dung cuộc họp xử lý kỷ luật lao động phải được lập thành biên và có chữ ký của người tham dự cuộc họp (trường hợp có người không ký vào biên bản thì người ghi biên bản nêu rõ họ tên, lý do không ký (nếu có) vào nội dung biên bản).

– Trong thời hiệu xử lý kỷ luật lao động là trong 6 tháng tính từ thời điểm có hành vi vi phạm kỉ luật xảy ra, phía NSDLĐ bên công ty X ban hành quyết định xử lý sa thải A và gửi đến nhân viên A, tổ chức đại diện cho người lao động tại cơ sở.

3. Giả sử công ty X không giải quyết quyền lợi cho anh H vì cho rằng anh A là người gây ra tai nạn cho anh H nên anh A có trách nhiệm phải bồi thường. Ý kiến của anh (chị) về vấn đề này? Giải quyết quyền lợi cho anh HH H theo quy định của pháp luật?

Theo như giả thiết nêu trên, em không đồng tình với quan điểm này. Bởi vì:

– Anh H là nhân viên của công ty X- là người lao động của công ty X, ký hợp đồng lao động với người đại diện hợp pháp của công ty X. Mối quan hệ này được Bộ luật lao động 2019 điều chỉnh. Chính vì vậy, công ty X phải có trách nhiệm với mọi vấn đề liên quan đến anh H khi anh H đang trong quá trình làm việc tại công ty hoặc được giao công việc. Trong trường hợp này, công ty X phải có nghĩa vụ giải quyết quyền lợi cho NLĐ H vì anh H bị tai nạn trong quá trình làm việc tại công ty X và công ty X phải chịu bồi thường thiệt hại cho anh H.

  Phần bồi thường mà công ty X phải bồi thường cho anh H theo quy định của pháp luật được tính như sau:

+ Phía bảo hiểm xã hội, y tế phải chi trả cho các chi phí cơ bản tai nạn nghề nghiệp của anh H theo quy định của Thông tư 26/2017/TT-BTBVXH về chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.

+ Công ty X phải bồi thường thiệt hại căn cứ theo điều 6 của BLLĐ 2019 về nghĩa vụ của NSDLĐ với NLĐ: “d) Thực hiện quy định của pháp luật về lao động, việc làm, giáo dục nghề nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và an toàn, vệ sinh lao động; xây dựng và thực hiện các giải pháp phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc;…”và Điều 134. Bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc

“1. Người sử dụng lao động có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các giải pháp nhằm bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc”. Công ty X có trách nhiệm bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động cho người lao động tại nơi làm việc. Trong trường hợp này, mặc dù đó là sự cố không mong muốn của công ty X nhưng việc để NLĐ xảy ra tai nạn trong quá trình làm việc chịu sự giám sát và quản lý của NSDLĐ. Và công ty X với anh H là mối quan hệ lao động hợp pháp. Chính vì vậy, công ty X phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho anh H và anh H cũng có quyền yêu cầu công ty X bồi thường thiệt hại cho mình theo thỏa thuận trong hợp đồng và theo quy định của pháp luật. Về các chi phí bồi thường như thế nào được quy định trong điều 38 Luật an toàn vệ sinh lao động 2015 về Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.

Note: Khi công ty X đã bồi thường cho anh H theo đúng thỏa thuận và quy định pháp luật thì phía bên công ty X có thể yêu cầu nhân viên A chịu 1 phần trách nhiệm bồi thường về vấn đề sơ xuất trong quá trình vận hành máy nên A đã làm nổ thiết bị khiến công nhân H đứng gần đó bị thương phải vào bệnh viện điều trị 1 tháng, sau khi ra viện giám định bị suy giảm 55% khả năng lao động.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Trách nhiệm cung cấp thông tin của tổ chức, cá nhân kinh doanh với người tiêu dùng theo Luật bảo vệ quyền lợi NTD (2010).

Năm 1985, Liên Hợp Quốc đã ra Bản hướng dẫn bảo vệ người tiêu dùng, gửi tới các Chính phủ thành viên, nội dung đảm bảo thực hiện 8 quyền cơ bản của người tiêu dùng. Quyền được cung cấp thông tin là một trong tám quyền cơ bản đó. Một trong những mục tiêu chủ yếu khi xây dựng Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của các quốc gia trên thế giới và tại Việt Nam là “khắc phục vị trí yếu thế của người tiêu dùng và đặc biệt khắc phục tình trạng “bất cân xứng về thông tin giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh”. Điều đó cho thấy thông tin là một trong những yếu tố mà người tiêu dùng quan tâm nhất khi mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ. Là thành viên của Liên Hợp Quốc, Việt Nam đang tích cực xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Tuy nhiên trong thực tiễn thi hành, quyền được cung cấp thông tin của người tiêu dùng vẫn bị xâm hại nghiêm trọng dưới nhiều hình thức khác nhau.

Nhận thức được bất cập đó, bài viết sau đây lựa chọn đề bài: “Trách nhiệm cung cấp thông tin của tổ chức, cá nhân kinh doanh với người tiêu dùng theo Luật bảo vệ quyền lợi NTD (2010)”.

I. KHÁI QUÁT VỀ TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP THÔNG TIN HÀNG HÓA CỦA TỔ CHỨC, CÁ NHÂN KINH DOANH

1.1 Thông tin hàng hóa

          Thông tin hàng hóa (TTHH) được hiểu là “tập hợp các thuộc tính về hàng hóa đó, được thể hiện dưới dạng chữ cái, từ ngữ, màu sắc, kí hiệu, hình ảnh,… dùng để xác định hàng hóa đó và giúp khách hàng phân biệt giữa hàng hóa của các tổ chức, cá nhân khác nhau”[1].

          Thông tin của hàng hóa bao gồm những đặc điểm sau:

          – TTHH là những thông tin liên quan đến những tin tức cụ thể về hàng hóa như: nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa, chất lượng, giá cả, thành phần, công dụng, hạn sử dụng, thông tin về cảnh báo, phòng ngừa rủi ro cho người tiêu dùng (NTD),.. Ngoài ra, thông tin về hàng hóa còn bao gồm cả về thông tin của cá nhân, tổ chức kinh doanh, cung cấp hàng hóa, dịch vụ đó như: uy tín, thương hiệu, năng lực hoạt động, địa điểm kinh doanh, địa điểm thực hiện bảo hành, sửa chữa hàng hóa,…Đó là những thông tin cần thiết mà NTD cần tiếp cận khi tham gia quan hệ tiêu dùng và sử dụng hàng hóa.

          – TTHH là những thông tin chỉ được thực hiện bởi các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa. Bởi lẽ, chỉ có họ mới là người hiểu rõ các đặc tính, tính năng đối với hàng hóa của mình để từ đó đưa ra các thông tin, khuyến nghị cho NTD một cách trung thực, chính xác và đầy đủ nhất. Ngoài các tổ chức, cá nhân kinh doanh thì người tiêu dùng hoặc bất kì ai đều khó có thể tiếp cận được những thông tin này do những hạn chế về độ chuyên nghiệp, trình độ chuyên môn cũng như phương tiện để thực hiện.

          – TTHH là những thông tin được thể hiện dưới nhiều hình thức và cách thức khác nhau. Về hình thức thể hiện rất đa dạng, phong phú, như chữ cái, từ ngữ, màu sắc, kí hiệu, hình ảnh. Về cách thức tiếp cận như qua việc công bố chất lượng của tổ chức, cá nhân kinh doanh; qua việc ghi nhãn hàng hóa; qua hoạt động quảng cáo thương mại.

          – Mục đích của TTHH là nhằm đáp ứng nhu cầu của NTD, giúp người tiêu dùng có sự lựa chọn, sử dụng phù hợp với nhu cầu và điều kiện của mình.

1.2 Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh

          Quan hệ tiêu dùng là một loại quan hệ được thực hiện trên sơ sở hợp đồng mua bán, theo đó, người tiêu dùng mua hoặc sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của thương nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ cung cấp mà không nhằm mục đích kinh doanh (bán lại). Do vậy, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh trong việc cung cấp TTHH cho người tiêu dùng là nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh cung cấp các thông tin hàng hóa cho người tiêu dùng trong quá trình kinh doanh và phải chịu hậu quả bất lợi khi không tuân thủ đúng quy định của pháp luật.

          Trách nhiệm cung cấp thông tin của tổ tổ chức, cá nhân kinh doanh có các đặc điểm sau:

          -Là trách nhiệm được pháp luật quy định. Điều này được thể hiện ở thái độ của Nhà nước trong việc điều chỉnh mối quan hệ giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh với người tiêu dùng.

          – Phát sinh trong việc cung cấp TTHH cho người tiêu dùng. Trách nhiệm này được xác định khi tổ chức, cá nhân kinh doanh cung cấp hàng hóa ra thị trường cho người tiêu dùng. Tổ chức, cá nhân kinh doanh có thể thực hiện trách nhiệm dưới nhiều phương thức khác nhau, như: công bố chất lượng hàng hóa, ghi nhãn hàng hóa, quảng cáo thương mại,…

1.3 Pháp luật về trách nhiệm cung cấp thông tin của tổ chức, cá nhân kinh doanh với người tiêu dùng theo Luật bảo vệ quyền lợi NTD (2010)

          Luật bảo vệ người tiêu dùng năm 2010 là đạo luật điều chỉnh trực tiếp các quan hệ về bảo vệ quyền lợi NTD, trong đó quy định rõ quyền của NTD và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa trong việc cung cấp thông tin cho người tiêu dùng. Cụ thể các quyền của NTD được quy định tại Điều 8 LBVNTD[2].

          Các hợp đồng được giao kết một cách bình đẳng giữa các chủ thể, quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin trong hợp đồng của BLDS năm 2015 đã hoàn thiện hơn so với các Bộ luật trước đó. Tuy nhiên, để điều chỉnh mối quan hệ hợp đồng giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ với người tiêu dùng thì các quy định này vẫn chưa đáp ứng yêu cầu bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng do các thương nhân, với kiến thức chuyên nghiệp, thường ở vị thế ưu việt hơn người tiêu dùng về phương diện nắm giữ thông tin đối với hàng hóa, dịch vụ mà họ cung cấp. Chính vì thế, nghĩa vụ cung cấp thông tin của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng còn được Luật BVQLNTD 2010 quy định:

Điều 12. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong việc cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng

1. Ghi nhãn hàng hóa theo quy định của pháp luật.

2. Niêm yết công khai giá hàng hóa, dịch vụ tại địa điểm kinh doanh, văn phòng dịch vụ.

3. Cảnh báo khả năng hàng hóa, dịch vụ có ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tính mạng, tài sản của người tiêu dùng và các biện pháp phòng ngừa.

4. Cung cấp thông tin về khả năng cung ứng linh kiện, phụ kiện thay thế của hàng hóa.

5. Cung cấp hướng dẫn sử dụng; điều kiện, thời hạn, địa điểm, thủ tục bảo hành trong trường hợp hàng hóa, dịch vụ có bảo hành.

6. Thông báo chính xác, đầy đủ cho người tiêu dùng về hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung trước khi giao dịch.

          Luật BVQLNTD 2010 quy định chế tài đối với việc vi phạm nghĩa vụ thông tin cho người tiêu dùng. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ vi phạm nghĩa vụ thông tin theo quy định của có thể bị chế tài dân sự khi người tiêu dùng yêu cầu (vô hiệu hợp đồng hay hủy hợp đồng và bồi thường thiệt hại). Bên cạnh đó, cơ quan nhà nước có quyền áp dụng chế tài hành chính theo quy định từ Điều 47 đến Điều 54 của Nghị định số 98/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Ngoài ra tổ chức, cá nhân vi phạm còn có thể bị tước giấy phép kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, đình chỉ hoạt động,…. Như vậy, đối với doanh nghiệp có quy mô lớn, lợi ích mà họ đạt được lớn hơn rất nhiều lần mức phạt tiền do luật định nên chế tài hành chính vẫn chưa có tính răn đe cao.  Hơn nữa, chế tài đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ thông tin cho người tiêu dùng còn có thể là chế tài hình sự nếu vi phạm theo Điều 197 Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017[3].

II. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP THÔNG TIN CỦA TỔ CHỨC CÁ NHÂN KINH DOANH VỚI NGƯỜI TIÊU DÙNG

2.1. Trách nhiệm Ghi nhãn hàng hóa theo quy định của pháp luật

          Căn cứ vào Nghị định số 43/2017/NĐ-CP ngày 14/04/2017, nhãn hàng hóa phải được thể hiện trên hàng hóa, bao bì thương phẩm của hàng hóa ở vị trí khi quan sát có thể nhận biết được dễ dàng, đầy đủ các nội dung quy định của nhãn mà không phải tháo rời các chi tiết, các phần của hàng hóa. Ý nghĩa của việc ghi nhãn hàng hóa là thể hiện nội dung cơ bản, cần thiết về hàng hóa để người tiêu dùng nhận biết, làm căn cứ lựa chọn, tiêu thụ và sử dụng. Để người tiêu dùng Việt Nam hiểu được nội dung nhãn thì phải sử dụng tiếng Việt (trừ một số ngoại lệ) để ghi nhãn hàng hóa. Nhãn phải chứa đựng các thông tin cơ bản về hàng hóa như số lượng, định lượng, thành phần, thông số kỹ thuật, thông tin cảnh báo, xuất xứ hàng hóa, hạn sử dụng… Ngoài ra, trên nhãn hàng hóa phải ghi tên và địa chỉ tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm về hàng hóa. Nếu tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa thực hiện nghiêm túc quy định về ghi nhãn hàng hóa thì họ đã cung cấp được những thông tin cơ bản hàng hóa cho người tiêu dùng trước khi giao kết hợp đồng. 

            Trên thực tế, các tổ chức, cá nhân kinh doanh thực hiện khá tốt nghĩa vụ này. Bởi ghi nhãn hàng hóa sẽ giúp người tiêu dùng trực tiếp nhìn thấy và phân biệt sản phẩm của doanh nghiệp mình với đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên doanh nghiệp, các cơ quan chức năng, đặc biệt là người tiêu dùng vẫn đang phải đối mặt với vấn đề “nhìn hình, đoán chữ” hoặc “nhìn bao bì, đoán nội dung” mỗi khi xem hàng hóa. Không ít trường hợp người dùng phải mò mẫm học cách sử dụng vì các nhà nhập khẩu khi dịch các thông tin từ tiếng nước ngoài rồi dán chồng lên nhãn chính với kích thước nhỏ khiến người dùng khó đọc. Hơn nữa việc xác định chính xác sản phẩm có đúng quy định hay không cũng khó. Nếu như những thông tin trên nhãn sản phẩm không đầy đủ hay không giống vớicông bố sản phẩm mà doanh nghiệp đã thực hiện. Không chỉ người tiêu dùng chịu thiệt thòi mà ngay cả doanh nghiệp cũng sẽ phải chịu tổn thất về doanh số và xử phạt của cơ quan chức năng.

2.2.Trách nhiệm Niêm yết công khai giá hàng hóa, dịch vụ tại địa điểm kinh doanh, văn phòng dịch vụ

          Theo khoản 6 Điều 4 Luật Giá năm 2012, “Niêm yết giá là việc tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thông báo công khai bằng các hình thức thích hợp, rõ ràng và không gây nhầm lẫn cho khách hàng về mức giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bằng Đồng Việt Nam bằng cách in, dán, ghi giá trên bảng, trên giấy hoặc trên bao bì của hàng hóa hoặc bằng hình thức khác tại nơi giao dịch hoặc nơi chào bán hàng hóa, dịch vụ để thuận tiện cho việc quan sát, nhận biết của khách hàng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.

          Trong thực tiễn, các doanh nghiệp lớn như siêu thị, doanh nghiệp vận chuyển, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông… thường thực hiện đúng nghĩa vụ này. Trái lại, nhiều hộ kinh doanh nhỏ lẻ, cá nhân hoạt động độc lập, không thường xuyên có thể không thực hiện đúng quy định khi chỉ thông tin về giá bằng lời nói và thương lượng giá trực tiếp với người tiêu dùng. Trong thực tiễn, để thu hút khách hàng và để cạnh tranh, các doanh nghiệp thường gửi các thông tin báo giá trước cho khách hàng là người tiêu dùng để họ so sánh, lựa chọn mua hàng hóa với mức giá tốt nhất (ví dụ các tờ tin tức về hàng hóa của siêu thị, bảng báo giá về các mặt hàng điện tử của các công ty kinh doanh thương mại,…) Đối với việc ghi giá bằng đồng Việt Nam, đa số tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa thực hiện nghiêm túc nhưng vẫn có một số trường hợp vi phạm khi ghi giá bằng ngoại tệ (thường xảy ra ở các doanh nghiệp mua bán tại các tỉnh biên giới hoặc tại một số cửa hàng chuyên bán hàng cho khách du lịch nước ngoài) dù việc niêm yết, ghi giá bằng ngoại tệ bị cấm ở Việt Nam, trừ trường hợp được Ngân hàng Nhà nước cho phép.

2.3.Trách nhiệm Cảnh báo khả năng hàng hóa, dịch vụ có ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tính mạng, tài sản của người tiêu dùng, các biện pháp phòng ngừa

          Nghĩa vụ thông tin này được quy định trong Nghị định số 43/2017/NĐ-CP ngày 14/04/2017 về nhãn hàng hóa và một số văn bản dưới luật khác. Nghĩa vụ thông tin cảnh báo này phải được ghi nhận trên nhãn hàng hóa. Ngoài ra còn được ghi nhận trong các tài liệu hướng dẫn sử dụng đi kèm với sản phẩm hoặc trong chính hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ soạn thảo. Ví dụ, đối với thực phẩm, quy định doanh nghiệp phải ghi thành phần hoặc chất trong thành phần phức hợp của hàng hóa thuộc loại đặc biệt có sử dụng chất bảo quản mà đã quy định liều lượng sử dụng và xếp trong danh sách gây kích ứng, độc hại đối với người, động vật và môi trường, phải ghi tên chất bảo quản kèm theo các thành phần này. Nghĩa vụ này có tác dụng phòng ngừa tác động xấu của hàng hóa, dịch vụ đối với người tiêu dùng. Đây cũng là nghĩa vụ tiền hợp đồng: quyền tự do lựa chọn giao kết hợp đồng của người tiêu dùng sẽ được thực hiện hiệu quả hơn khi họ nắm được thông tin cảnh báo về loại hàng hóa, dịch vụ mà họ muốn mua hay sử dụng. Tuy nhiên, ngay cả sau khi hợp đồng đã hoàn thành, nếu doanh nghiệp cung cấp hàng hóa, dịch vụ phát hiện khuyết tật của hàng hóa hay những tác động không tốt của dịch vụ đối với người tiêu dùng thì doanh nghiệp vẫn phải thực hiện nghĩa vụ thông tin cảnh báo.

          Hiện nay, bia rượu là những loại hàng hóa có số lượng tiêu thụ rất lớn hàng năn. Nhưng việc cảnh báo về sự nguy hại đến sức khỏe người tiêu dùng thì không Doanh nghiệp nào nhắc tới. Bởi không có doanh nghiệp nào muốn hàng hóa của mình không bán chạy cả. Tuy nhiên, trách nhiệm này không chỉ giúp ích cho NTD mà còn có ý nghĩa với cả các tổ chức, cá nhân kinh doanh trong nghĩa vụ của họ khi có tranh chấp bồi thường thiệt hại.

2.4. Trách nhiệm Cung cấp thông tin về khả năng cung ứng linh kiện, phụ kiện thay thế của hàng hóa và cung cấp hướng dẫn sử dụng; điều kiện, thời hạn, địa điểm, thủ tục bảo hành trong trường hợp hàng hóa, dịch vụ có bảo hành.

          Nghĩa vụ thông tin về điều kiện, thời hạn, địa điểm, thủ tục bảo hành được quy định trong Luật BVQLNTD, không quy định trong Luật Dân sự mặc dù Bộ luật có quy định nghĩa vụ bảo hành. Trong thực tiễn, để cạnh tranh, các doanh nghiệp thường nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ thông tin về bảo hành cho người tiêu dùng để đánh vào tâm lý người tiêu dùng tin tưởng vào hàng hóa nào được bảo hành dài hạn hơn khi so sánh giữa các hàng hóa cùng loại. Đối với nghĩa vụ cung cấp thông tin về khả năng cung ứng linh kiện, phụ kiện thay thế của hàng hóa thì các doanh nghiệp có uy tín sẽ thực hiện tương đối tốt nghĩa vụ này. Doanh nghiệp cung cấp sản phẩm có thời gian bảo hành linh kiện, phụ kiện khác với thời gian bảo hành của sản phẩm chính cũng thường xuyên thực hiện nghĩa vụ này. Ví dụ, đối với các loại laptop, thời gian bảo hành thiết bị sạc pin hoặc linh kiện khác với thời gian bảo hành xe nên các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm này sẽ phải thông tin về khả năng cung ứng linh kiện, phụ kiện thay thế.

2.5. Trách nhiệm Thông báo chính xác, đầy đủ cho người tiêu dùng về hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung trước khi giao dịch.

          Nghĩa vụ công bố, công khai thông tin về nội dung hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung có thể được thực hiện tại trụ sở doanh nghiệp hay trên trang thông tin điện tử của doanh nghiệp hoặc bằng tài liệu gửi cho người tiêu dùng. Ngoài ra, đối với 10 loại hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung bắt buộc phải đăng ký do có đối tượng thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu (như điện sinh hoạt, nước sinh hoạt, vận chuyển bằng đường hàng không…) thì doanh nghiệp còn thực hiện nghĩa vụ đăng ký tại Bộ Công Thương hoặc Sở Công Thương (căn cứ vào Nghị định số 99/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Quyết định số 02/2012/QĐ-TTG, Quyết định số 35/2015/QĐ-TTg và Quyết định số 38/2018/QĐ-TTg). Để nắm được thông tin về nội dung hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung, người tiêu dùng phải được quyền đọc trước các tài liệu này. Tuy nhiên, trong thực tế không phải doanh nghiệp nào cũng cho phép người tiêu dùng có thời gian nghiên cứu trước về hợp đồng, nhiều trường hợp, doanh nghiệp chỉ đưa hợp đồng để người tiêu dùng ký mà không dành cho họ thời gian đọc trước.

III. BÌNH LUẬN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP THÔNG TIN CỦA TỔ CHỨC CÁ NHÂN KINH DOANH VỚI NGƯỜI TIÊU DÙNG

3.1. Những ưu điểm của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm cung cấp thông tin hàng hóa của tổ chức, cá nhân kinh doanh

          Thứ nhất, pháp luật Việt Nam nói chung và Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói riêng đã có những quy định tương đối cơ bản về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh đối với người tiêu dùng trong việc cung cấp thông tin hàng hóa. Nhìn chung, số lượng các văn bản quy phạm pháp luật quy định tương đối lớn và được quy định trong các văn bản pháp luật có hiệu lực và nhiều lĩnh vực khác nhau. Văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý điều chỉnh một cách bao quát, chi tiết nhất hiện nay là Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010. Các văn bản luật khác được ban hành chủ yếu để điều chỉnh việc cung cấp TTHH trong các lĩnh vực cụ thể như quảng cáo, thực thẩm, giá, chất lượng hàng hóa,…

          Thứ hai, pháp luật quy định rõ những thông tin mà tổ chức, cá nhân kinh doanh phải cung cấp cho người tiêu dùng. Đó là những thông tin về hàng hóa, tên địa chỉ của tổ chức, cá nhân kinh doanh; ngày sản xuất, nội dung giao dịch hàng hóa; hóa đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch; nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa; thông tin cần thiết khác về hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng đã mua và sử dụng.

          Thứ ba, pháp luật quy định cụ thể những yêu cầu mà tổ chức, cá nhân kinh doanh khi cung cấp thông tin hàng hóa phải đáp ứng cho người tiêu dùng. Đó là: thông tin phải đầy đủ, chính xác, trung thực. Nghĩa vụ này không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với người tiêu dùng để họ tự quyết định việc lựa chọn, sử dụng hàng hóa cho nhu cầu, mục đích của mình mà còn có ý nghĩa đối với cả tổ chức, cá nhân kinh doanh vì đây sẽ là cơ hội xây dựng thương hiệu cho chính họ, đem lại niềm tin cho người tiêu dùng.

          Thứ tư, pháp luật quy định rõ giới hạn trách nhiệm cung cấp thông tin hàng hóa của tổ chức, cá nhân kinh doanh. Người tiêu dùng có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá cả hoặc các nội dung khác mà các tổ chức, cá nhân kinh doanh đã công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết. NTD có quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của pháp luật.

3.2. Một số hạn chế của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm cung cấp thông tin hàng hóa của tổ chức, cá nhân kinh doanh

          Bên cạnh những ưu điểm, pháp luật về trách nhiệm cung cấp thông tin hàng hóa của tổ chức, cá nhân kinh doanh vẫn còn những hạn chế sau:

          Thứ nhất, có sự chồng chéo về quy định cung cấp TTHH, đặc biệt là trong hoạt động quảng cáo. Để bảo vệ cho người tiêu dùng, pháp luật quy định về các hoạt động quảng cáo thương mại có thể gây ra sự cạnh tranh không lành mạnh và bị cấm quảng cáo như: cấm quảng cáo thuốc lá, cấm quảng cáo làm tiết lộ bí mật nhà nước, phương hại đến độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên nội dung này không chỉ được quy định tại Luật Quảng Cáo 2012[4] mà còn bị trùng lặp  trong Luật bảo vệ người tiêu dùng 2010[5].

          Thứ hai, thiết chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam theo mô hình hạt nhân nên quy định và phân công thẩm quyền quản lí các vụ việc trong cung cấp TTHH qua hoạt động quảng cáo không cụ thể. Thẩm quyền quản lí nhà nước được quy định: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (quản lí quảng cáo, thực hiện chức năng quản lí Nhà nước về quảng cáo trong vi phạm cả nước); Bộ Công thương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động xúc tiến thương mại, trong đó có hoạt động quảng cáo thương mại; Bộ Thông tin và truyền thông quản lý Nhà nước về hoạt động quảng cáo trên báo chí, mạng thông tin máy tính,..Luật cũng quy định các Bộ quản lý ngành trong phạm vi nhiệm vụ của mình như Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.,…

          Tuy có sự phân cấp quản lý giữa các Bộ, ngành về việc cung cấp thông tin hàng hóa nhưng sự phân công chưa cụ thể dẫn đến sự chồng chéo và quản lý lỏng lẻo trên thực tế. Vụ việc công ty ACECOOK là một ví dụ điển hình. Công ty này đã khiếu nại quảng cáo của Công ty cổ phần MASAN đưa thông tin gây nhầm lẫn về chất lượng mì ăn liền “Tiến Vua bò cải chua” và yêu cầu ngừng truyền thông[6]. Công ty ACECOOK cho rằng mẫu quảng cáo này có dấu hiệu của hành vi cạnh tranh không lành mạnh và đã gửi đơn lên Cục Quản lý cạnh tranh nhưng bị trả lại hồ sơ với lý do không đúng thẩm quyền giải quyết và cho rằng vụ việc này thuộc thẩm quyền của Bộ Thông tin và Truyền thông. Bộ Thông tin và Truyền thông tiếp tục cho rằng đây là thộc thẩm quyền của Bộ Công thương mà trực tiếp là Cục Quản lý cạnh tranh. Qua đó cho thấy việc phân định thẩm quyền không cụ thể, không rõ ràng và thiếu quy định về cơ chế phối hợp giải quyết các vụ việc làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của NTD và của các doanh nghiệp làm ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý Nhà nước trong công tác quản lý việc cung cấp thông tin cho NTD.

3.3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao trách nhiệm cung cấp thông tin hàng hóa củatổ chức,cá nhân kinh doanh cho người tiêu dùng

          Chỉnh sửa tên gọi tại Điều 12 LBVNTD 2010 là Trách nhiệm tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong việc cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng nhưng thực chất quy định này đề cập đến nghĩa vụ cung cấp thông tin chứ không phải về trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin. Để tránh hiểu nhầm, tên của điều luật nên sửa đổi chính xác là Nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong việc cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng

          – Bổ sung quy định tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có nghĩa vụ chứng minh bản thân đã thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ thông tin cho người tiêu dùng để khi xảy ra tranh chấp, quyền lợi của NTD vẫn được đảm bảo.

          – Quy định cụ thể về thẩm quyền theo hướng quy định một cơ quan chuyên trách quản lý về hoạt dộng cung cấp thông tin qua hình thức quảng cáo. Bên cạnh đó còn cần có những quy định cụ thể về lĩnh vực, nội dung, thời gian giải quyết vụ việc, trách nhiệm của các bên tham gia để có cơ chế hữu hiệu phối hợp hoạt động giữa các cơ quan có liên quan về hoạt động quảng cáo trong các lĩnh vực.

          – Để tránh sự chồng chéo khi quy định về hành vi cạnh tranh k lành mạnh trong hoạt động quảng cáo thương mại và những hành vi bị cấm quảng cáo thì nên sửa đổi theo hướng chỉ nên quy định trong Luật chuyên ngành về quảng cáo (Luật quảng cáo) về các hành vi bị cấm quảng cáo. Các văn bản khác có liên quan không quy định trùng lặp mà chỉ viện dẫn các điều luật có liên quan đến hoạt động quảng cáo.

          Nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong việc cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng là một nghĩa vụ thiết yếu để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng khi giao kết hợp đồng. Nghĩa vụ này phải được thực hiện cả trước, trong và sau khi giao kết hợp đồng. Pháp luật Việt Nam về trách nhiệm cung cấp thông tin hàng hóa của tổ chức, cá nhân kinh doanh cho người tiêu dùng đã tạo được một hành lang pháp lý cơ bản cho việc tiếp cận thông tin của người tiêu dùng. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành vẫn còn một số nội dung cần phải hoàn thiện để thực sự trở thành một công cụ hữu hiệu nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển lành mạnh, minh bạch và ổn định trong thời kì hội nhập hiện nay.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Giáo trình Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Trường đại học luật Hà Nội, nxb Công an nhân dân, 2012;
  2. Bộ luật Dân sự năm 2015;
  3. Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 và các văn bản quy định chi tiết luật này;
  4. Luật Giá năm 2012;
  5. Lê Thị Hải Ngọc (2017), Trách nhiệm của nhà sản xuất, cung ứng trong việc cung cấp thông tin về chất lượng hàng hóa cho người tiêu dùng, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội;
  6. Lê Thị Hải Ngọc (2020), Thực trạng pháp luật về trách nhiệm cung cấp thông tin hàng hóa của tổ chức, cá nhân kinh doanh và một số giải pháp hoàn thiện, Tạp chí Pháp luật và thực tiễn số 42/2020;
  7. Đoàn Phan Tân, “Về khái niệm của thông tin và các giá trị làm nên thuộc tính của thông tin”, Bài đăng trên Tạp chí Văn hóa – Nghệ thuật, tháng 3/2011
  8. Phan Khánh An (2013), Vai trò của thông tin trong bảo vệ người tiêu dùng, Tạp chí tranh và Người tiêu dùng, số 39/2013

[1] Đoàn Phan Tân, “Về khái niệm của thông tin và các giá trị làm nên thuộc tính của thông tin”, Bài đăng trên Tạp chí Văn hóa – Nghệ thuật, tháng 3/2011

[2] Điều 8. Quyền của người tiêu dùng

1. Được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp.

2. Được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; nội dung giao dịch hàng hóa, dịch vụ; nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa; được cung cấp hóa đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch và thông tin cần thiết khác về hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng đã mua, sử dụng.

3. Lựa chọn hàng hóa, dịch vụ, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; quyết định tham gia hoặc không tham gia giao dịch và các nội dung thỏa thuận khi tham gia giao dịch với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.

4. Góp ý kiến với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ về giá cả, chất lượng hàng hóa, dịch vụ, phong cách phục vụ, phương thức giao dịch và nội dung khác liên quan đến giao dịch giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.

5. Tham gia xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

6. Yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá cả hoặc nội dung khác mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết.

7. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

8. Được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ.

[3] Điều 197. Tội quảng cáo gian dối

1. Người nào quảng cáo gian dối về hàng hóa, dịch vụ, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

2. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

[4] Điều 8, luật Quảng Cáo 2012;

[5] Điều 10 luật Bảo vệ người tiêu dùng

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bình luận điểm mới của Bộ luật lao động năm 2019 về kỷ luật lao động.

Tuân theo quy định pháp luật là sự bắt buộc phải tuân theo các cách xử sự chung, các quy phạm mang tính bắt buộc và được đảm bảo tuân theo bằng bộ máy cưỡng chế. Kỷ luật cũng là những quy định xử sự chung nhưng nó có phạm vi điều chỉnh hẹp hơn pháp luật, nó có thể là kỷ luật của một cộng đồng hoặc của tổ chức xã hội yêu cầu mọi người phải tuân theo nhằm tạo ra sự thống nhất hành động để đạt chất lượng, hiệu quả cao. Chính vì vậy kỉ luật giữ một vai trò rất quan trọng trong việc duy trì trật tự và ổn định. Kỷ luật trong lao động cũng vậy. Căn cứ theo điều 117 BLLĐ 2019: “ Kỷ luật lao động là những quy định về việc tuân theo thời gian, công nghệ và điều hành sản xuất, kinh doanh do người sử dụng lao động ban hành trong nội quy lao động và do pháp luật quy định”.

Kỷ luật lao động đã được quy định ở trong Bộ luật lao động từ khi nó ra đời vào năm 1994. Cho đến này, khi BLLĐ năm 2019 được ban hành với những điểm mới hoàn thiện hơn so với các bộ luật trước. Trong đó, vấn đề liên quan đến kỉ luật lao động có những điểm mới như sau:

I. KHÁI NIỆM KỶ LUẬT LAO ĐỘNG

BLLĐ 2019: Kỷ luật lao động là những quy định về việc tuân theo thời gian, công nghệ và điều hành sản xuất, kinh doanh do NSDLĐ ban hành trong nội quy lao động và do pháp luật quy định.

BLLĐ 2012: Kỷ luật lao động là những quy định về việc tuân theo thời gian, công nghệ và điều hành sản xuất, kinh doanh trong nội quy lao động.

→ Như vậy, quy định mới đã mở rộng nguồn của kỷ luật lao động không còn phạm vi như trước chỉ phụ thuộc vào nội quy lao động nữa. Việc mở rộng khái niệm kỷ luật lao động, sẽ giúp giải quyết nhiều vướng mắc liên quan đến kỷ luật lao động. Khi NSDLĐ và NLĐ không có quy định rõ ràng nội dung liên quan đến kỷ luật lao động thì khi đó vai trò của các quy định theo pháp luật sẽ được áp dụng. Và cơ quan Nhà nước giải quyết các vấn đề liên quan đến kỷ luật lao động sẽ không gặp phải các vướng mắc theo bộ luật cũ nữa.

II. NỘI QUY LAO ĐỘNG THEO QUY ĐỊNH BỘ LUẬT LAO ĐỘNG 2019

Theo quy định tại Điều 118 BLLĐ 2019 thì NSDLĐ phải ban hành nội quy lao động, nếu sử dụng từ 10 NLĐ trở lên thì nội quy lao động phải bằng văn bản.

(BLLĐ 2012 chỉ quy định “NSDLĐ sử dụng từ 10 NLĐ trở lên phải có nội quy lao động bằng văn bản.”)

2.1. Những nội dung chủ yếu trong nội quy lao động

Nội dung nội quy lao động không được trái với pháp luật về lao động và quy định của pháp luật có liên quan; nội quy lao động bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:

– Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi;

– Trật tự tại nơi làm việc;

– An toàn, vệ sinh lao động;

Phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc; trình tự, thủ tục xử lý hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc (quy định mới);

→ Vấn đề quấy rối tình dục tại nơi làm việc không phải là một vấn đề xa lạ với người lao động, đặc biệt là lao động nữ. Trong thời đại hội nhập kinh tế, bình đẳng giới và bảo vệ quyền lợi cho nữ giới luôn được cộng đồng quan tâm và ủng hộ. Trong quá trình quyết các vấn đề liên quan tới vấn đề quấy rối tại nơi làm việc, cơ quan có thẩm quyền cũng gặp phải các vướng mắc. Vì vậy, việc bổ sung điểm mới này của BLLĐ 2019 là vô cùng cần thiết và hợp lí.

– Việc bảo vệ tài sản và bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, sở hữu trí tuệ của NSDLĐ;

– Trường hợp được tạm thời chuyển NLĐ làm việc khác so với hợp đồng lao động (quy định mới);

→ Theo xu hướng tất yếu của nền kinh tế, người lao động không những có chuyên môn cao và còn phải có năng lực thích nghi trong nhiều điều kiện khác nhau. Vì vậy, trong những thời điểm đặc biệt khi doanh nghiệp đang cần điều chuyển nhân sự gấp vì một số lý do chính đáng, người lao động có nghĩa vụ tạm thời điều chuyển theo yêu cầu của người sử dụng lao động kể cả là công việc không được thỏa thuận trong hợp đồng. Và NSDLĐ phải đưa ra lý do hợp lý được ghi nhận trong nội quy lao động. Cụ thể lý do chính đáng như thế nào được quy định tại điều 29 BLLĐ 2019.

– Các hành vi vi phạm kỷ luật lao động của NLĐ và các hình thức xử lý kỷ luật lao động;

– Trách nhiệm vật chất;

Người có thẩm quyền xử lý kỷ luật lao động (quy định mới).

→ Bộ luật cũ không quy định về chủ thể có thẩm quyền xử lý lao động mà chỉ có văn bản hướng dẫn theo Nghị định số 05/2015/NĐ-CP. Nội dung quy định trong văn bản hướng dẫn tương đối hẹp, gây nhiều khúc mắc cho các doanh nghiệp sử dụng lao động. Quy định mới trong bộ luật 2019 đã có cách tiếp cận toàn diện hơn so với các văn bản hướng dẫn cũ, cụ thể: “Người có quyền xử lý kỷ luật lao động là người sử dụng lao động trong lĩnh vực quản lý lao động”.

2.2. Luật hóa nội dung “sử dụng dưới 10 lao động không phải đăng ký nội quy lao động”

– Theo đó, Khoản 1 Điều 119 BLLĐ 2019 quy định NSDLĐ sử dụng từ 10 NLĐ trở lên phải đăng ký nội quy lao động tại cơ quan chuyên môn về lao động thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi NSDLĐ đăng ký kinh doanh.

Như vậy, từ ngày 01/01/2021, NSDLĐ sử dụng dưới 10 NLĐ không phải đăng ký nội quy lao động.

(Nội dung này theo luật cũ được được quy định tại Khoản 4 Điều 10 Thông tư 47/2015/TT-BLĐTBXH và không được quy định trong BLLĐ 2012)

Với quy định này, việc ban hành nội quy lao động trong doanh nghiệp vừa là quyền, lại vừa là nghĩa vụ bắt buộc. Bởi lẽ:

Nội quy lao động là các xử sự chung mà doanh nghiệp dùng để duy trì trật tự, là căn cứ hợp pháp để Doanh nghiệp xử lý kỷ luật lao động, nên việc ban hành nội quy lao động nhằm hạn chế được những hành vi mà người lao có thể vi phạm, góp phần nâng cao năng suất lao động của họ. Từ đó, việc ban hành nội quy lao động thể hiện “quyền” của người sử dụng lao động. Khi biết rõ nhiệm vụ của mình và cả những chế tài dự liệu, người lao động sẽ hạn chế được những vi phạm, góp phần nâng cao năng suất lao động. Về “nghĩa vụ”, nhằm tăng cường tinh thần trách nhiệm của người sử dụng lao động từ 10 người lao động trở lên trong việc tuân theo các quy định của pháp luật, quy định ở điều này bắt buộc những doanh nghiệp sử dụng từ 10 người lao động trở lên phải ban hành nội quy lao động bằng văn bản.

2.3. Khi xử lý kỷ luật với NLĐ chưa đủ 15 tuổi thì phải có sự tham gia của người đại diện theo pháp luật

– Căn cứ Khoản 1 Điều 122 BLLĐ 2012 thì tiến hành xử lý kỷ luật lao động, NLĐ phải có mặt và có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc tổ chức đại diện NLĐ bào chữa; Trường hợp là người chưa đủ 15 tuổi thì phải có sự tham gia của người đại diện theo pháp luật.

(BLLĐ 2012 quy định trường hợp là người dưới 18 tuổi thì phải có sự tham gia của cha, mẹ hoặc người đại diện theo pháp luật)

→ Theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Dân sự năm 2015, cha, mẹ đương nhiên là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên. Vì vậy BLLĐ năm 2019 đã bỏ quy định về sự có mặt của cha, mẹ người lao động chưa thành niên khi bị xử lý kỷ luật lao động. BLLĐ này cũng đã điều chỉnh độ tuổi dành cho nguyên tắc này.

2.4. Về thời hiệu xử lý kỷ luật lao động

Thời hiệu xử lý kỷ luật lao động là 06 tháng kể từ ngày xảy ra hành vi vi phạm; trường hợp hành vi vi phạm liên quan trực tiếp đến tài chính, tài sản, tiết lộ bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh của NSDLĐ thì thời hiệu xử lý kỷ luật lao động là 12 tháng;

Khi hết thời gian không được xử lý kỷ luật lao động theo quy định tại Khoản 4 Điều 122 BLLĐ 2019 (khoảng thời gian không được xử lý kỷ luật lao động), nếu hết thời hiệu hoặc còn thời hiệu nhưng không đủ 60 ngày thì được kéo dài thời hiệu để xử lý kỷ luật lao động nhưng không quá 60 ngày kể từ ngày hết thời gian nêu trên.

NSDLĐ phải ban hành quyết định xử lý kỷ luật lao động trong thời hạn theo quy định trên.

  Như vậy, khi hết thời gian không được xử lý kỷ luật mà trường hợp còn thời hiệu nhưng không đủ 60 ngày sẽ được kéo dài thời hiệu (BLLĐ 2012 quy định phải xử lý ngay,không được kéo dài).

2.5. Thêm trường hợp NSDLĐ được sa thải NLĐ

BLLĐ 2019 bổ sung thêm 01 trường hợp NSDLĐ được áp dụng hình thức kỷ luật sa thải đối với NLĐ bên cạnh các trường hợp khác theo quy định hiện hành.

Cụ thể là trường hợp “NLĐ có hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc được quy định trong nội quy lao động“.

Trong đó, quấy rối tình dục tại nơi làm việc là hành vi có tính chất tình dục của bất kỳ người nào đối với người khác tại nơi làm việc mà không được người đó mong muốn hoặc chấp nhận. Nơi làm việc là bất kỳ nơi nào mà NLĐ thực tế làm việc theo thỏa thuận hoặc phân công của NSDLĐ.

   Các trường hợp áp dụng kỷ luật sa thải tại Bộ luật Lao động năm 2019 không thay đổi so với Bộ luật Lao động năm 2012, trừ việc Bộ luật Lao động năm 2019 bổ sung thêm trường hợp khi người lao động “quấy rối tình dục tại nơi làm việc được quy định trong nội quy lao động”. Khoản 9 Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định “Quấy rối tình dục tại nơi làm việc là hành vi có tính chất tình dục của bất kỳ người nào đối với người khác tại nơi làm việc mà không được người đó mong muốn hoặc chấp nhận. Nơi làm việc là bất kỳ nơi nào mà người lao động thực tế làm việc theo thỏa thuận hoặc phân công của người sử dụng lao động.”

   Như vậy, doanh nghiệp cần dựa trên khái niệm về hành vi “quấy rối tình dục tại nơi làm việc”, các quy định có liên quan đến hành vi này trong nội quy lao động và đó là cơ sở để xử lý kỷ luật đối với người lao động có hành vi vi phạm.

III. HÌNH THỨC KỶ LUẬT LAO ĐỘNG

* Về các hành vi bị nghiêm cấm khi xử lý kỷ luật lao động

   BLLĐ 2019: các hành vi bị nghiêm cấm khi xử lý kỷ luật lao động gồm:

Xâm phạm sức khỏe, danh dự, tính mạng, uy tín, nhân phẩm của NLĐ.

– Phạt tiền, cắt lương thay việc xử lý kỷ luật lao động.

– Xử lý kỷ luật lao động đối với NLĐ có hành vi vi phạm không được quy định trong nội quy lao động hoặc không thỏa thuận trong hợp đồng lao động đã giao kết hoặc pháp luật về lao động không có quy định.

   Như vậy, để việc thực hiện xử lý kỷ luật đối với người lao động từ ngày 01/01/2021 một cách hợp pháp và tránh các khiếu nại, tranh chấp có thể xảy ra sau này, thì hành vi vi phạm phải được quy định tại nội quy lao động hoặc hợp đồng lao động hoặc văn bản quy phạm pháp luật.

**BLLĐ 2012: các hành vi bị nghiêm cấm khi xử lý kỷ luật lao động gồm:

– Xâm phạm thân thể, nhân phẩm của NLĐ.

– Dùng hình thức phạt tiền, cắt lương thay việc xử lý kỷ luật lao động.

– Xử lý kỷ luật lao động đối với NLĐ có hành vi vi phạm không được quy định trong nội quy lao động.

Note:  Về trách nhiệm vật chất khi NLĐ làm thất thoát tài sản của NSDLĐ được BLLĐ 2019 quy định như sau:

– NLĐ làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của NSDLĐ thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật hoặc nội quy lao động của NSDLĐ (BLLĐ 2012 chỉ quy định bồi thường theo quy định của pháp luật);

– NLĐ làm mất dụng cụ, thiết bị, tài sản của NSDLĐ hoặc tài sản khác do NSDLĐ giao hoặc tiêu hao vật tư quá định mức cho phép thì phải bồi thường thiệt hại một phần hoặc toàn bộ theo thời giá thị trường hoặc nội quy lao động (BLLĐ 2012 chỉ quy định bồi thường theo giá thị trường); Trường hợp có hợp đồng trách nhiệm thì phải bồi thường theo hợp đồng trách nhiệm; trường hợp do thiên tai, hỏa hoạn, địch họa, dịch bệnh nguy hiểm, thảm họa, sự kiện xảy ra khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép thì không phải bồi thường.

  Kỉ luật lao động chính là cơ sở để tổ chức lao động khoa học và có hiệu quả trong phạm vi đơn vị sử dụng lao động và hên phạm vi của toàn xã hội. Thông qua kỉ luật lao động, người sử dụng lao động sẽ duy trì được trật tự, nề nếp trong doanh nghiệp, ổn định được sản xuất kinh doanh.

  Kỉ luật lao động là một trong những căn cứ để người lao động phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ lao động của mình, là thước đo tác phong, bản lĩnh của người lao động trong xã hội công nghiệp hiện đại. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, việc tuân thủ tốt kỉ luật lao động còn là một trong các yếu tố thu hút đầu tư trong nước cũng như nước ngoài, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động. Kỉ luật lao động còn tạo ra môi trường và điều kiện cho quan hệ lao động phát triển hài hoà, ổn định, trên cơ sở đó ổn định trật tự chung của xã hội. Sự tuân thủ nghiêm túc kỉ luật lao động của người lao động cũng sẽ tạo cho người lao động ý thức chấp hành tốt các quy định của nhà nước cũng như trật tự xã hội nói chung. Do đó, có thể thấy rằng, kỉ luật lao động trong các đơn vị được duy trì cũng sẽ là một trong các yếu tố để xã hội được ổn định và phồn vinh.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bình luận các quy định của pháp luật về giải thể doanh nghiệp và thực tiễn.

Xã hội ngày càng phát triển, số lượng các doanh nghiệp ra đời trong thời gian gần đây tăng lên một cách đáng kể, các doanh nghiệp cũng từ đó được thành lập với tốc độ “chóng mặt”. Đó là một tín hiệu đáng mừng cho nền kinh tế đang phát triển của nước ta. Những hoạt động chung của doanh nghiệp đều được đặt dưới sự quản lý của Nhà nước thông qua pháp luật. Tuy nhiên, trong một giai đoạn nào đó hoặc vì một số lý do khách quan hay chủ quan, doanh nghiệp không thể tiếp tục hoạt động được nữa và tiến hành giải thể, chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp mình. Luật Doanh nghiệp 2014 đã có những quy định cụ thể về trình tự và thủ tục về giải thể doanh nghiệp. Để tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này, em xin chọn đề tài: “Bình luận các quy định của pháp luật về giải thể doanh nghiệp và thực tiễn tìm hiểu được”.

1. Bình luận các quy định của pháp luật về giải thể doanh nghiệp:

1.1. Khái niệm giải thể doanh nghiệp:

            – Doanh nghiệp: là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng kí thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh.

            – Giải thể doanh nghiệp: là một trong những thủ tục pháp lí dẫn đến chấm dứt tồn tại của doanh nghiệp. Hậu quả của giải thể là doanh nghiệp sẽ bị xóa tên trong sổ đăng kí kinh doanh. Khi giải thể, các nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp sẽ được giải quyết và mọi tài sản còn lại của doanh nghiệp được phân chia cho các thành viên hoặc chủ sở hữu doanh nghiệp.

               +) Giải thể doanh nghiệp là một thủ tục mang tính chất hành chính.

               +) Các quy định pháp luật về giải thể doanh nghiệp bao gồm những nội dung cơ bản là: các trường hợp giải thể, thủ tục giải thể và những hoạt động doanh nghiệp bị cấm thực hiện sau khi có quyết định giải thể. Thông thường, việc quyết định giải thể doanh nghiệp thuộc quyền của chủ sở hữu doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp không còn thỏa mãn các điều kiện tồn tại theo quy định của pháp luật hoặc kinh doanh vi phạm pháp luật, thì doanh nghiệp bắt buộc phải giải thể. Các quy định về giải thể doanh nghiệp không chỉ tạo ra cơ sở pháp lí để chấm dứt tồn tại của doanh nghiệp, mà quan trọng hơn là còn bảo vệ quyền lợi của những chủ thể có liên quan, đặc biệt là quyền lợi của chủ nợ và người lao động khi doanh nghiệp chấm dứt tồn tại. Về pháp lí, vấn đề quan trọng nhất trong giải thể doanh nghiệp là giải quyết những khoản nợ và những hợp đồng mà doanh nghiệp đã giao kết trước khi chấm dứt sự tồn tại. các khoản nợ và hợp đồng này có thể được thực hiện bằng các giải pháp: Doanh nghiệp tiến hành thanh toán hết các khoản nợ và thực hiện đầy đủ các hợp đồng; Chuyển giao nghĩa vụ thanh toán nợ và nghĩa vụ hợp đồng cho chủ thể khác theo thỏa thuận giữa các bên có liên quan.

    +) Việc tiến hành giải thể doanh nghiệp sẽ được tiến hành bởi các chủ thể sau:
Theo điểm b khoản 2 Điều 201 Luật doanh nghiệp 2014 quy định: “b, Theo quyết định của chủ doanh nghiệp đối với doanh tư nhân, của tất cả thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh, Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, của Đại hội cổ đông đối với công ty cổ phần;”Như vậy đối với doanh nghiệp tư nhân là chủ doanh nghiệp, tất cả thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh. Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, còn với công ty cổ phần là Đại hội đồng cổ đông.

    +) Về mặt pháp lý, doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong hai phương thức sau để chấm dứt hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: một là, thực hiện thủ tục giải thể – thủ tục hành chính được tiến hành tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh; hai là, thực hiện thủ tục phá sản mang tính tố tụng tư pháp, yêu cầu tòa án tuyên bố chấm dứt hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tế, hầu hết các doanh nghiệp tại Việt Nam đều chọn phương thức chấm dứt hoạt động kinh doanh theo thủ tục giải thể để rút lui khỏi thương trường, còn thủ tục phá sản ít được cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đón nhận. Bằng chứng là theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, trong giai đoạn 10 năm thực thi Luật Phá sản năm 2004 (từ năm 2004 đến năm 2014) các tòa án trên cả nước chỉ tuyên bố phá sản có 84 doanh nghiệp. Thậm chí từ ngày 01/01/2015 đến nay, số lượng doanh nghiệp bị phá sản tại Việt Nam cũng không đáng kể so với phương thức giải thể doanh nghiệp – vốn được nhà đầu tư lựa chọn phổ biến hơn. Số lượng doanh nghiệp phá sản ít xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như do thủ tục phá sản doanh nghiệp tại Việt Nam phức tạp so với mặt bằng chung của thế giới. Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới (WB), để phá sản một doanh nghiệp tại Việt Nam, nhà đầu tư phải mất gần 5 năm, tiêu tốn 14,5% chi phí tài chính trên giá trị tài sản của doanh nghiệp[1]. Trong hoàn cảnh đó, thủ tục giải thể doanh nghiệp tất yếu được các nhà đầu tư lựa chọn như giải pháp phù hợp nhất để đóng cửa doanh nghiệp.

1.2. Các trường hợp giải thể doanh nghiệp:

   Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định về các trường hợp giải thể tại khoản 1 Điều 201. Nếu như Luật Doanh nghiệp 2005 quy định trường hợp giả thể của doanh nhiệp bao gồm hai hình thức đó là giải thể tự nguyện và giải thể bắt buộc. Nhưng đến Luật Doanh nghiệp 2014 thì Doanh nghiệp bị giải thể trong các trường hợp sau (Theo khoản 1 Điều 201 Luật doanh nghiệp 2014 quy định):

“a, Kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà không có quyết định gia hạn;”:

   Trường hợp Điều lệ công ty có quy định về thời hạn hoạt động, khi hết thời hạn hoạt động được ghi trong Điều lệ công ty, nếu các thành viên không muốn xin gia hạn hoạt động, thì công ty phải tiến hành giải thể. Việc quy định thời hạn hoạt động của doanh nghiệp có thể do thỏa thuận của các thành viên, cổ đông sáng lập, hoặc do sự cấp phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

b, Theo quyết định của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư nhân, của tất cả thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh, Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, của Đại hội cổ đông đối với công ty cổ phần;”:

   Quyết định giải thể này thể hiện sự tự nguyện của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp của mình. Việc chủ doanh nghiệp không muốn tiếp tục kinh doanh có thể bắt nguồn từ những lý do khác nhau, chẳng hạn như lợi nhuận thấp, thua lỗ kéo dài, có mâu thuẫn nội bộ, không còn phù hợp với mục đích kinh doanh đề ra ban đầu và nhiều yếu tố khác. Trong trường hợp này, chủ doanh nghiệp có thể đi đến quyết định giải thể doanh nghiệp để thu hồi vốn hoặc chuyển sang kinh doanh những loại hình doanh nghiệp khác với những chủ thể khác. Đây là quyết định hoàn toàn mang tính tự nguyện và chủ động của chủ doanh nghiệp.

-“ c, Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật này trong thời hạn 6 tháng liên tục mà không làm thủ tục chuyển đổi loại hình doanh nghiệp;”:

   Có đủ số lượng thành viên tối thiểu là một trong những điều kiện để công ty tồn tại và hoạt động. Pháp luật quy định số lượng thành viên tối thiểu cho mỗi loại hình công ty khác nhau. Số lượng thành viên tối thiểu theo quy định đối với công ty cổ phần là ba, con số này là hai đối với công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên. Đối với công ty hợp danh, pháp luật quy định phải có ít nhất hai cá nhân là thành viên hợp danh. Khi không có đủ số lượng thành viên tối thiểu để tiếp tục tồn tại, công ty phải kết nạp thêm thành viên cho đủ số lượng thành viên tối thiểu. Nếu trong thời hạn 6 tháng liên tục mà công ty không tiến hành kết nạp thêm thành viên khi số lượng thành viên không đủ hoặc không chuyển đổi sang loại hình doanh nghiệp phù hợp thì công ty phải tiến hành thủ tục giải thể doanh nghiệp.

– “ d, Bị thu hồi giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp.”:

   Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp phải triệu tập họp để quyết định giải thể doanh nghiệp. Để thành lập doanh nghiệp, người thành lập phải chuẩn bị hồ sơ đăng ký doanh nghiệp và nộp cho cơ quan đăng ký kinh doanh đồng thời phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực và hợp pháp của hồ sơ đăng ký doanh nghiệp. Trên cơ sở hồ sơ hợp lệ, cơ quan đăng ký kinh doanh sẽ thực hiện cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho doanh nghiệp, ghi nhận sự ra đời, công nhận về mặt pháp lý sự xuất hiện của doanh nghiệp trên thị trường. Có thể nói, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp chính là tấm giấy “thông hành” để doanh nghiệp có thể tiến hành các hoạt động của mình trên thị trường cũng như xác lập các quan hệ pháp lý với cơ quan nhà nước. Do vậy, bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cũng có nghĩa là Nhà nước rút lại sự công nhận tư cách chủ thể kinh doanh đối với doanh nghiệp. Trong trường hợp này, doanh nghiệp không còn được công nhận về địa vị pháp lý và không còn được tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh.

1.3. Điều kiện giải thể doanh nghiệp:

– Theo khoản 2 Điều 201 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định: “Doanh nghiệp chỉ được giải thể khi bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác và doanh nghiệp không trong quá trình giải quyết các tranh chấp tại Toà án hoặc cơ quan trọng tài. Người quản lí có liên quan và doanh nghiệp quy định tại điểm d khoản 1 Điều này cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ của doanh nghiệp”

– Các quy định về giải thể doanh nghiệp không chỉ tạo cơ sở pháp lý để chấm dứt tồn tại của doanh nghiệp, mà quan trọng hơn là còn bảo vệ quyền lợi của những chủ thể có liên quan, đặc biệt là quyền lợi của chủ nợ và người lao động khi doanh nghiệp chấm dứt tồn tại. Do vậy, việc xác định rõ điều kiện để tiến hành giải thể doanh nghiệp là hết sức cần thiết.

– Vấn đề mấu chốt trong giải thể doanh nghiệp là giải quyết những khoản nợ và những hợp đồng mà doanh nghiệp đã giao kết trước khi chấm dứt tồn tại. Các khoản nợ và hợp đồng này có thể được thực hiện bằng các giải pháp như: doanh nghiệp tiến hành thanh toán hết các khoản nợ và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ hợp đồng; chuyển giao nghĩa vụ thanh toán nợ và nghĩa vụ hợp đồng cho chủ thể khác theo thỏa thuận giữa các bên có liên quan. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 201 Luật Doanh nghiệp năm 2014, doanh nghiệp chỉ được giải thể khi bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác và doanh nghiệp không trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc cơ quan trọng tài.

1.4. Trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp:

   +) Trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp được quy định tại khoản 1 Điều 202 Luật Doanh nghiệp năm 2014.

   +) Giải thể doanh nghiệp dẫn tới sự chấm dứt tồn tại và hoạt động của công ty và thanh toán tài sản, thanh toán khoản nợ. Vì vậy, việc giải thể công ty phải tuân theo những thủ tục nhất định:

            – Thông qua quyết định giải thể công ty: Theo quy định của luật doanh nghiệp khi rơi vào một trong các trường hợp bị giải thể, để tiến hành việc giải thể thì công ty phải thông qua quyết định giải thể công ty. Sau khi quyết định dã được thông qua, công ty phải gửi quyết định này tới cơ quan đăng kí kinh doanh, các chủ nợ, người lạo động và người có quyền, lợi ích liên quan.

             – Thanh lí tài sản và thanh toán các khoản nợ của công ty: Các khoản nợ của doanh nghiệp được thanh toán theo thứ tự sau đây ( Theo khoản 5 Điều 202 Luật doanh nghiệp 2014)

  • Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác của người lao động theo thỏa ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết.
  • Nợ thuế và các khoản nợ khác: Sau khi đã thanh toán hết các khoản nợ và chi phí giải thể doanh nghiệp, phần còn lại thuộc về chủ thể doanh nghiệp tư nhân, các thành viên, cổ đông hoặc chủ sở hữu công ty.

            – Xóa tên doanh nghiệp: Sau thời hạn 180 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải thể theo Khoản 3 Điều 201 Luật doanh nghiệp 2014 mà không nhận được ý kiến về việc giải thể từ doanh nghiệp hoặc phản đối của bên có liên quan bằng văn bản hoặc trong 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ giải thể, Cơ quan đăng kí kinh doanh cập nhật tình trạng pháp lý của doanh nghiệp trên cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng kí doanh nghiệp.

   +) Theo điều 202 Luật doanh nghiệp 2014, giải thể doanh nghiệp dẫn tới sự chấm dứt tồn tại và hoạt động của công ty và thanh toán tài sản, khoản nợ. Vì vậy, việc giải thể công ty phải tuân theo trình tự, thủ tục nhất định. Việc giải thể doanh nghiệp làm phát sinh hai mối quan hệ: Thứ nhất là quan hệ giữa các thành viên trong nội bộ doanh nghiệp; Thứ hai là quan hệ giữa doanh nghiệp với các chủ thể khác, bao gồm bạn hàng, đối tác, người lao động trong doanh nghiệp và nhà nước. Đây là những quan hệ liên quan đến tài sản và liên quan đến hoạt động quản lí nhà nước trong lĩnh vực đăng kí kinh doanh. Hoạt động giải thể chỉ được coi là hoàn thành nếu doanh nghiệp đã xử lí xong mối quan hệ với tất cả các chủ thể nói trên.

             – Để có thể tiến hành giải thể doanh nghiệp trước hết đòi hỏi phải có một quyết định giải thể doanh nghiệp. Nếu là doanh nghiệp một chủ thì chủ sở hữu doanh nghiệp tự mình ra quyết định. Trong trường hợp doanh nghiệp nhiều chủ thì phải tiến hành họp toàn thể thành viên doanh nghiệp để thông qua quyết định giải thể. Quyết định này thể hiện sự nhất trí của các thành viên về các vấn đề liên quan đến lí do giải thể; thời hạn, thủ tục thanh lí hợp đồng và thanh toán các khoản nợ; phương án xử lí các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng lao động và việc thành lập tổ thanh lí tài sản

             – Sau khi quyết định giải thể được thông qua, doanh nghiệp phải thông báo cho những người có quyền và lợi ích liên quan đến hoạt động giải thể doanh nghiệp biết về quyết định giải thể. Việc thông báo được thực hiện đồng thời bằng ba cách, cụ thể là: Gửi trực tiếp quyết định giải thể đã được doanh nghiệp thông qua tới những người liên quan. Cùng với quyết định này là thông báo về phương án giải quyết nợ như thời hạn, địa điểm và phương thức thanh toán nợ, cách thức và thời hạn giải quyết khiếu nại của chủ nợ; Niêm yết quyết định đó tại trụ sở chính của doanh nghiệp; Đăng báo địa phương hoặc báo ngày của trung ương trong 3 số liên tiếp.

             – Theo Điểm c Khoản 1 Điều 202 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định: “Thời hạn thanh lí hợp đồng không được vướt quá 06 tháng, kể từ ngày thông qua quyết định giải thể”. Thiết nghĩ, thời gian này chỉ phù hợp với những doanh nghiệp có quy mô nhỏ, không có mối quan hệ giao dịch phức tạp, tài sản có tính thanh khoản cao chứ không phù hợp với phần lớn Doanh nghiệp khác và các trường hợp khác. Với những doanh nghiệp có quy mô khá lớn hoặc có tài sản (như bất động sản), cần thời gian dài để thanh lí và trả nợ thì thời gian này chắc chắn không đủ để giải quyết hết các hợp đồng và thanh toán nợ nần.

             – Tiếp theo, tiến hành thanh lí tài sản và thanh toán các khoản nợ theo đúng phương án giải quyết nợ như đã được thông báo. Việc thanh toán các khoản nợ là rất phức tạp vì cần phải bảo đảm quyền và lợi ích của người liên quan. Pháp luật quy định trình tự thực hiện cho việc này. Trước hết phải thanh toán các khoản nợ cho các chủ nợ, người lao động, nợ thuế, và các nghĩa vụ khác, sau đó tiến hành phân chia tài sản còn lại của công ty cho các thành viên. (Khoản 6 Điều 202 Luật Doanh nghiệp 2014)

             – Sau khi thanh toán hết nợ, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp gửi hồ sơ giải thể doanh nghiệp đến cơ quan đăng ký kinh doanh để cơ quan này xóa tên doanh nghiệp khỏi sổ đăng kí kinh doanh. Sau khi thực hiện xong các thủ tục nói trên, việc giải thể được coi là hoàn tất và doanh nghiệp chấm dứt sự tồn tại trên thực thế. Theo quy định khi một doanh nghiệp muốn được giải thể thì phải thông báo bằng văn bản đến hai cơ quan nhà nước là cơ quan thuế và Sở KH&ĐT. Các thông báo này phải kèm theo các khoản nợ mà doanh nghiệp chưa giải quyết được. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp chỉ thông báo về các khoản nợ đối với cơ quan nhà nước và giấu những khoản nợ còn lại với các chủ nợ các nhận, lương của người lao động mà các cơ quan nhà nước không thể biết được… Sau khi doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, doanh nghiệp “âm thầm biến mất” thì các chủ thể có liên quan không có cách nào hữu hiện để bảo vệ quyền lợi của mình.

             – Trên thực tế hiện nay việc giải thể doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Muốn giải thể, doanh nghiệp ngoài việc giải quyết các nghĩa vụ tài chính thì cần phải làm quyết toán thuế với cơ quan thuế, sau đó tiến hành trả dấu cho cơ quan công an và cuối cùng mới được nộp hồ sơ giải thể ở cơ quan quản lí Nhà nước về đăng kí kinh doanh hoặc đầu tư. Đặc biệt là khâu xác nhận của cơ quan thuế về việc đã hoàn thành các nghĩa vụ về thuế. Trên thực tế, việc doanh nghiệp mời cơ quan thuế tới kiểm tra xác nhận việc hoàn thành các nghĩa vụ về thuế là không dễ dàng. Chính vì vậy thời gian giải thể doanh nghiệp thường mất nhiều thời gian thậm chí có những trường hợp thời gian giải thể kéo dài cả năm. Thực tế này đã gây ra nhiều tổn thất cho doanh nghiệp nói chung. Vì để không mất thời gian, chi phí để làm thủ tục giải thể trong thực tế đã có không ít doanh nghiệp lạm dụng quy định để được giải thể tự động như quy định tại Khoản 6, Điều 158 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: “Sau thời hạn 6 tháng… mà cơ quan đăng kí kinh doanh không nhận được hồ sơ giải thể doanh nghiệp thì doanh nghiệp đó coi như đã được giải thể và cơ quan đăng kí kinh doanh xóa tên doanh nghiệp trong sổ đăng kí kinh doanh”. Đồng thời pháp luật doanh nghiệp hiện nay chưa có quy định rõ ràng về trách nhiệm của cơ quan thuế trong việc kiểm tra, xác nhận doanh nghiệp đã hoàn thành các nghĩa vụ về thuế để giúp doanh nghiệp được “chấm dứt sự tồn tại”, trách nhiệm ra sao? Thời gian trong bao lâu? Do đó, cần phải có quy định về thời hạn giải thể của doanh nghiệp hoặc trước mắt quy định thời hạn thụ lí giải quyết của cơ quan thuế trong việc xác nhận doanh nghiệp đã hoàn thành các nghĩa vụ về thuế. Qua đó giúp doanh nghiệp nhanh chóng giải thể.

   +)  Qua quá trình áp dụng và sửa đổi bổ sung Luật doanh nghiệp năm 2005, Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã quy định chi tiết hơn về trình tự, tủ tục giải thể tại điều 202. Tại khoản 3 điều này quy định ngoài việc gửi quyết định giải thể ra thì biên bản họp được gửi đến Cơ quan đăng kí kinh doanh, cơ quan thuế, người lao động trong doanh nghiệp, đăng quyết định giải thể trên cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp và phải được niêm yết công khai tại trụ sở chính, chi nhánh, văn phóng đại diện của doanh nghiệp. Còn Luật doanh nghiệp năm 2005 chỉ quy định phải gửi quyết định giải thể và chủ thể nhận quyết định quy định không chi tiết, cụ thể chỉ bao gồm cơ quan đăng ký kinh doanh, tất cả các chủ nợ, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, người lao động trong doanh nghiệp và phải được niêm yết công khai tại trụ sở chính và chi nhánh doanh nghiệp.

1.5. Các hoạt động bị cấm kể từ khi có quyết định giải thể:

( Theo Điều 205 Luật Doanh nghiệp 2014)

Việc đảm bảo quyền và lợi ích của các chủ thể liên quan đến việc giải thể doanh nghiệp được thực hiện bằng hai quy định chính: cấm doanh nghiệp thực hiện một số hành vi nhất định và trách nhiệm của người quản lí doanh nghiệp bị giải thể.

Tiếp nối Luật Doanh nghiệp năm 2005, thì Luật Doanh nghiệp 2014 cũng quy định rất rõ các hoạt động bị cấm của doanh nghiệp khi có quyết định giải thể, bởi ta thấy khi doanh nghiệp bị giải thể đồng nghĩa với việc doanh nghiệp chấm dứt sự tồn tại, hoạt động kinh doanh của mình. Việc quy định này là nhằm đảm bảo nghĩa vụ tài tài chính của doanh nghiệp phải được dùng triệt để các tài sản để thanh toán với chủ nợ đồng thời cũng đảm bảo quyền và lợi ích cho các chủ thể có liên quan.

2. Thực tiễn thi hành pháp luật về việc giải thể doanh nghiệp:

2.1. Thực trạng về việc giải thể doanh nghiệp hiện nay:

   +) Trong bối cảnh chung của nền kinh tế thế giới, nền kinh tế nước ta gặp rất nhiều khó khăn điều này tác động lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp. Theo thống kê cho thấy từ năm 2014 đến nay số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động tăng cao.

            – Theo Tổng cục Thống kê, trong năm 2014 cả nước có 67.823 doanh nghiệp gặp khó khăn buộc phải giải thể và 58.322 doanh nghiệp khó khăn phải ngừng hoạt động, tăng 14,5% so với năm trước.

              – Trong năm 2015, hơn 9.400 doanh nghiệp giải thể và 71.391 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, tăng 22,4% so với cùng kỳ năm trước.

              – Năm 2016 thống kê trong 4 tháng đầu năm cho thấy số doanh nghiệp gặp khó khăn buộc phải tạm ngừng hoạt động là 25.135 doanh nghiệp, tăng 31,8% so với cùng kì năm trước. Trong đó bao gồm 9.450 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động có thời hạn và 15.685 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ đóng mã số doanh nghiệp hoặc không đăng ký.

              – Trong năm 2019, số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể trong năm 2019 là 16.840 doanh nghiệp, tăng 3,2% so với năm 2018. Có 05 ngành có số lượng doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể giảm là: Khai khoáng có 116 doanh nghiệp, giảm 60,1%; Công nghiệp chế biến chế tạo có 1.830 doanh nghiệp, giảm 17,1%; Xây dựng có 1.625 doanh nghiệp, giảm 12,1%; Nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản có 364 doanh nghiệp, giảm 7,4% Và Vận tải kho bãi có 709 doanh nghiệp, giảm 5,2%. Các ngành có tỷ lệ gia tăng doanh nghiệp giải thể nhiều nhất là: Kinh doanh bất động sản có 686 doanh nghiệp, tăng 39,4%; Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội có 103 doanh nghiệp, tăng 47,1% và Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm có 208 doanh nghiệp, tăng 30,8%. Khu vực Đông Nam Bộ có số lượng doanh nghiệp giải thể lớn nhất với 6.385 doanh nghiệp (chiếm 37,9% cả nước), tăng 22,2%. Đồng bằng Sông Hồng có 3.529 doanh nghiệp giải thể (chiếm 21%), tăng 12,9%. Đồng bằng Sông Cửu Long có sự gia tăng đột biến về số lượng doanh nghiệp giải thể với 3.014 doanh nghiệp (chiếm 17,9%), tăng 54,8%.  [2]

                – Số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể trong 4 tháng đầu năm 2020 là 5.103 doanh nghiệp, giảm 3,8% so với cùng kỳ năm 2019. 8/17 ngành kinh doanh chính có số lượng doanh nghiệp giải thể tăng. Các lĩnh vực có tỷ lệ doanh nghiệp giải thể tăng cao so với cùng kỳ năm 2019 là Kinh doanh bất động sản; Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội và Giáo dục và đào tạo với tỷ lệ tăng lần lượt là 48,4%; 43,3% và 30,3%. Phân theo vùng lãnh thổ, 03 vùng có số lượng doanh nghiệp giải thể trong 4 tháng đầu năm 2020 tăng so cùng kỳ năm 2019 là: Đồng bằng sông Hồng (1.268 doanh nghiệp, tăng 11,1%); Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (730 doanh nghiệp, tăng 15,9%) và Đông Nam Bộ (2.245 doanh nghiệp, tăng 28,9%). Khu vực Tây Nguyên có số lượng doanh nghiệp giải thể thấp nhất với 140 doanh nghiệp (chiếm 2,7% cả nước, giảm 27,1%). Đồng bằng Sông Cửu Long có 518 doanh nghiệp (chiếm 10,2% cả nước, giảm  23,6%) và Trung du và miền núi phía Bắc có 202 doanh nghiệp (chiếm 4,0%, giảm 36,1%).[3]

   +) Về mặt số liệu thực trạng trên cho thấy giải thể doanh nghiệp đang nổi lên vấn đề “tồn kho” một lượng rất lớn doanh nghiệp đã không còn hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng vẫn không nộp đơn giải thể. Tỷ trọng doanh nghiệp tuân thủ nghĩa vụ giải thể doanh nghiệp rất thấp. Do vậy, có một lượng lớn doanh nghiệp không còn hoạt động nhưng không thực hiện quy trình giải thể, phá sản. Đây là một tỷ lệ thấp dẫn tới việc Nhà nước thất thu,  người lao động bị xâm hại quyền lợi và làm sai lệch các thông tin thống kê về doanh nghiệp, ảnh hưởng tới sự minh bạch môi trường kinh doanh. Đặc biệt, việc doanh nghiệp đã ngừng hoạt động nhưng vẫn gây hậu quả kéo dài đang thể hiện rõ với những trường hợp chủ doanh nghiệp là người nước ngoài, có thuê đất nhà nước, còn nợ thuế, nợ khách hàng, nợ lương người lao động… nhưng chủ doanh nghiệp đã bỏ trốn về nước nên không có người chịu trách nhiệm để thực hiện các thủ tục giải thể, phá sản theo quy định của pháp luật.

2.2. Ưu điểm về giải thể doanh nghiệp:

   +) Đối với doanh nghiệp:

            – Giải thể xuất phát từ ý chí chủ quan của chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân; tất cả các thành viên hợp danh (công ty hợp danh); Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty (công ty trách nhiệm hữu hạn), Đại hội đồng cổ đông ( Công ty cổ phần) khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, không tìm được hướng đi mới hoặc nó đã thực hiện xong nhiệm vụ đặt ra khi thành lập. Giải thể doanh nghiệp có yếu tố tự quyết của chủ doanh nghiệp.

            – Doanh nghiệp giải thể chỉ đơn thuần là giải quyết dứt điểm tình trạng công nợ, thanh lí tài sản chia cho các cổ đông, trả giấy phép.

            – Giám đốc doanh nghiệp giải thể có thể đứng ra thành lập, điều hành công ty mới.

            – Doanh nghiệp giải thể sau khi thực hiện xong các nghĩa vụ tài sản vẫ có thể chuyển sang một ngành nghề kinh doanh khác nếu có thể

   +) Đối với nền kinh tế:

            – Nó có tác dụng tích cực sắp xếp lại sản xuất theo hướng có hiệu quả hơn.

            – Đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn luôn tìm tòi, sáng tạo, thích ứng với môi trường kinh doanh thường xuyên biến động hiện nay.

            – Thúc đẩy việc phân công lao động một cách hợp lí và có hiệu quả.

2.3. Những hạn chế về việc giải thể doanh nghiệp:

   +) Về nghĩa vụ của doanh nghiệp:

 – Về mặt nghĩa vụ của doanh nghiệp trong giải thể ta có thể thấy điểm bất cập từ quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 201 quy định là công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật này trong thời hạn 06 tháng liên tục mà không làm thủ tục chuyển đổi loại hình doanh nghiệp thì bị giải thể.

 – Theo em quy định này là chưa được phù hợp bởi vì việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền muốn xác định được tính liên tục trong hoạt động của doanh nghiệp là rất khó khăn bởi lẽ không có một căn cứ cụ thể nào để xác định được tính liên tục trong hoạt động của doanh nghiệp hiện nay.

   +) Thời hạn thanh lý hợp đồng:

            – Về thời hạn thanh lý hợp đồng được quy định tại điểm c khoản 1 điều 202 của Luật doanh nghiệp 2014 là không được vượt quá 06 tháng kể từ ngày thông qua quyết định giải thể.

 – Theo em thì thời hạn này chỉ phù hợp với những doanh nghiệp có quy mô nhỏ, không có những mối quan hệ giao dịch phức tạp, tài sản có tính thanh toán cao chứ không phù hợp với phần lớn các doanh nghiệp khác và các trường hợp khác. Ví dụ như với những doanh  nghiệp có quy mô khá lớn và có tài sản như bất động sản thì sẽ cần thời gian dài để thanh lí hợp đồng và trả nợ thì thời hạn này chắc chắn không đủ để giải quyết hết các hợp đồng và thanh toán hết nợ. Nhưng nếu nhìn nhận ở khía cạnh tích cực chúng ta vẫn thấy có khả năng doanh nghiệp muốn thanh toán nợ, nhưng không liên lạc được với chủ nợ vì chủ nợ đã xuất ngoại định cư.

   +) Thời hạn giải thể doanh nghiệp:

 – Trong khoản 8 Điều 202 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định là sau thời hạn 180 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải thể theo khoản 3 Điều này mà không nhận được ý kiến về việc giải thể từ doanh nghiệp hoặc phản đối của bên có liên quan bằng văn bản hoặc trong 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ giải thể, Cơ quan đăng ký kinh doanh cập nhật tình trạng pháp lý của doanh nghiệp trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.

 – Theo em quy định này là chưa được hợp lý và có thể gây nhiều tác động tiêu cực đến việc giải thể doanh nghiệp. Chính quy định này mà một số doanh nghiệp đã lợi dụng để được giải thể “tự động” mà không mất thời gian, chi phí cho việc làm thủ tục giải thể[4].

Từ đó thấy rằng các quy định về giải thể doanh nghiệp quy định trong Luật Doanh nghiệp 2014 chưa thật sự rõ ràng, thiếu hiệu quả và còn tương đối phức tạp đã khiến cho các doanh nghiệp cố tình lảng tránh thực hiện việc đăng ký giải thể theo quy định, còn các cơ quan quản lý nhà nước rơi vào tình trạng khó quản lý và giám sát doanh nghiệp cũng như không xử lý được vấn đề.

3. Nguyên nhân những vướng mắc trong giải thể doanh nghiệp:

   Qua đó ta thấy được rằng những khó khăn, vướng mắc trong vấn đề giải thể doanh nghiệp xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Tuy nhiên, vấn đề pháp lý liên quan đến hồ sơ, trình tự, thủ tục giải thể đang được quy định tại Luật doanh nghiệp không phải nguyên nhân cơ bản. Việc doanh nghiệp ngại giải thể không phải mới xuất hiện trong thời gian gần đây mà đã diễn ra ngay từ khi nước ta triển khai thực hiện luật Doanh nghiệp 1999. Điều này xuất phát từ một số nguyên do sau:

+) Thứ nhất, nhận thức pháp luật của nhiều doanh nghiệp còn thấp, ý thức chấp hành các quy định của pháp luật về giải thể, phá sản theo quy định của các doanh nghiệp hiện nay chưa cao.

+) Thứ hai, chế tài xử lý đối với các chủ doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật không chịu chấp hành các quy định về giải thể, phá sản chưa đủ răn đe, dẫn tới nhiều chủ doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật không quan tâm tới nghĩa vụ giải thể, phá sản doanh nghiệp.

+) Thứ ba, hệ thống quy định về phá sản doanh nghiệp có nhiều bất cập. Vì vậy, doanh nghiệp muốn tuân thủ theo đúng quy định cũng rất khó. Trong số 140 ngàn doanh nghiệp không còn hoạt động, một tỷ lệ lớn các doanh nghiệp là lâm vào tình trạng phá sản (do không thể thanh toán hết các khoản nợ). Vì vậy, không thể thực hiện thủ tục chấm dứt hoạt động theo quy trình đơn giản là giải thể doanh nghiệp. Tuy nhiên, để thực hiện được quy trình theo quy định của Luật Phá sản, mỗi doanh nghiệp phải mất 3 đến 5 năm mới hoàn tất thủ tục. Điều này dẫn tới, tỷ lệ doanh nghiệp đã và đang thực hiện thủ tục phá sản gần như không có ý nghĩa trong thực tế.

+) Thứ tư, trong nhiều trường hợp, việc hướng dẫn, hỗ trợ, tạo điều kiện để doanh nghiệp hoàn thành nhanh chóng các thủ tục hành chính liên quan theo quy trình giải thể tại một số cơ quan quản lý nhà nước địa phương chưa được tốt. Đặc biệt là thủ tục hoàn tất nghĩa vụ thuế còn gặp nhiều khó khăn và thời gian kéo dài gây khó khăn cho việc làm thủ tục giải thể của các doanh nghiệp hiện nay.

4. Giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp, kiến nghị thi hành pháp luật về việc giải thể doanh nghiệp:

4.1. Giải pháp kiến nghị hoàn thiện các quy định về giải thể doanh nghiệp:

   Để tạo thuận lợi cho quá trình giải thể doanh nghiệp trong thời gian tới và khắc phục các vướng mắc, bất cập của quy định pháp luật doanh nghiệp thời gian qua, em xin kiến nghị một số nội dung hoàn thiện pháp luật như sau:

– Thứ nhất, về các trường hợp giải thể, Điểm d Khoản 1 Điều 201 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định trường hợp giải thể bắt buộc ” bị thu hồi giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp”. Ngoài quy định này, nên bổ sung trường hợp giải thể bắt buộc do “bị huỷ giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh”, bởi loại giấy tờ này có thể bị toà án huỷ nếu như được cấp trái pháp luật và có thể được cấp lại đúng pháp luật.

– Thứ hai, sửa đổi khoản 3 Điều 202 Luật Doanh nghiệp năm 2014 theo hướng bổ sung quy định yêu cầu doanh nghiệp giải thể phải gửi quyết định giải thể doanh nghiệp đến cơ quan bảo hiểm xã hội bên cạnh các cơ quan hữu quan khác. Theo đó, trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày thông qua, quyết định giải thể và biên bản họp phải được gửi đến Cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan thuế, cơ quan bảo hiểm xã hội và người lao động trong doanh nghiệp. Việc bổ sung chủ thể cơ quan bảo hiểm xã hội được gửi/thông báo quyết định giải thể nêu trên sẽ khắc phục các rào cản trong thủ tục giải thể doanh nghiệp thời gian qua tại Việt Nam, không những góp phần bảo vệ quyền lợi người lao động, mà còn đảm bảo cho việc quản lý nhà nước của cơ quan bảo hiểm xã hội đối với doanh nghiệp giải thể được chặt chẽ hơn, hạn chế các trở ngại phát sinh trong quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp giải thể.

– Thứ ba, Chính phủ cần ban hành Nghị định quy định chi tiết về trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp theo quy định của Khoản 9 Điều 202 Luật Doanh nghiệp năm 2014 nhằm tạo thuận lợi cho việc giải quyết giải thể doanh nghiệp từ phía cơ quan công quyền lẫn doanh nghiệp.

– Thứ tư, luật hóa tiêu chí xác định chủ doanh nghiệp bỏ trốn để làm cơ sở giải quyết cho giải thể các doanh nghiệp “mất tích” trong nền kinh tế và bổ sung một số trường hợp giải thể doanh nghiệp vào Luật Doanh nghiệp năm 2014 cho phù hợp với diễn biến thực tế của doanh nghiệp Việt Nam. Đối với tiêu chí xác định một doanh nghiệp mất tích/chủ doanh nghiệp bỏ trốn, Luật Doanh nghiệp cần quy định trong vòng bao nhiêu ngày người đại diện của doanh nghiệp vắng mặt mà không có thông báo cho chính quyền sở tại và không có ủy quyền hợp pháp cho người khác hoặc các cơ quan chức năng đã có thông báo công khai mà chủ doanh nghiệp không có phản hồi thì được xem là “chủ doanh nghiệp bỏ trốn”. Khi đó, cơ quan chức năng được quyền thanh lý tài sản của doanh nghiệp theo luật định để trả lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động. Đồng thời, qua đó làm cơ sở cho người lao động hoặc tổ chức Công đoàn khởi kiện, yêu cầu phá sản doanh nghiệp để đảm bảo quyền lợi cho người lao động. [5]

– Thứ năm, để giảm tình trạng giải thể trong các doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước tăng cường những biện pháp, chính sách hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp. Đồng thời, các chủ thể có thẩm quyền cần tăng cường công tác quản lý kiểm tra, kiểm soát, phát hiện kịp thời có chế tài xử lý những sai phạm trong hoạt động của các doanh nghiệp, kịp thời tháo gỡ khó khăn linh hoạt trong điều hành.

4.2. Một số kiến nghị sửa đổi các cơ chế của giải thể doanh nghiệp:

– Một là, tiếp tục nghiên cứu, đơn giản hóa những thủ tục hành chính của doanh nghiệp tại các cơ quan quản lý nhà nước trước khi doanh nghiệp thực hiện nộp bộ hồ sơ giải thể tại cơ quan đăng ký kinh doanh. Trong đó, tập trung đơn giản hóa quy trình về kê khai và quyết toán thuế cho doanh nghiệp sau khi doanh nghiệp quyết định giải thể.

– Hai là, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp cũng như pháp luật, chế tài xử phạt vi phạm về giải thể, phá sản doanh nghiệp nhằm nâng cao hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật của doanh nghiệp.

– Ba là, quy định cụ thể và phân định rõ chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp và chức năng quản lý nhà nước đối với dự án đầu tư; sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định về giải thể doanh nghiệp; các quy định về quản trị doanh nghiệp theo thông lệ kinh tế thị trường.

– Bốn là, hoàn thiện cơ chế, chính sách và nền tảng công nghệ thông tin để Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia giữ vai trò đầu mối cung cấp thông tin pháp lý về đăng ký doanh nghiệp, từ đó, tạo điều kiện cho mọi tổ chức, cá nhân có thể tiếp cận dễ dàng các thông tin chính xác về tình trạng pháp lý của doanh nghiệp; phát huy vai trò giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp.

* Kết luận: Trong vòng đời doanh nghiệp, khi gặp khó khăn, doanh nghiệp có thể ngừng hoạt động sản xuất, kinh doanh trong một thời gian nhất định. Đây là một dạng rút lui tạm thời khỏi thị trường. Tuy nhiên, khi không thể tiếp tục hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp phải rút lui khỏi thị trường thông qua hình thức giải thể hoặc phá sản doanh nghiệp. Các quy định về giải thể ngày càng được hoàn thiện hơn thông qua những sửa đổi bổ sung Luật doanh nghiệp 2014. Nền tảng pháp lí cho doanh nghiệp ngày càng bền vững hơn, tạo điều kiện để khắc phục những yếu điểm còn tồn đọng trong những quy định của pháp luật.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Luật Doanh nghiệp 2014.
  2. Luật Phá sản năm 2014.
  3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
  4. Ts. Bùi Ngọc Cường (Chủ biên), Giáo trình Luật thương mại Việt Nam 1, Nxb Giáo dục.
  5. TS. Nguyễn Thị Dung (Chủ biên), Hỏi & đáp Luật Thương mại (hay Luật kinh doanh, Luật Kinh tế), Nxb. Chính trị – hành chính.
  6. TS. Nguyễn Thị Dung, Thực trạng pháp luật về giải thể doanh nghiệp – một số đánh giá và kiến nghị hoàn thiện, Tạp chí luật học số 10/2012.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Phân tích các vấn đề pháp lý và thực tiễn bảo hộ công dân của Việt Nam, có kèm ví dụ thực tiễn.

            Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, sự giao lưu của các nước trên thế giới hiện nay ngày càng mở rộng phát triển. Công dân của một quốc gia có thể sinh sống ở bất cứ nơi nào trên thế giới, vì vậy phải đề cao vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích của họ. Trong các yếu tố cấu thành quốc gia, dân cư là yếu tố có vai trò rất quan trọng. Không thể hình thành nên một quốc gia nếu như không có dân cư cư trú thường xuyên trên lãnh thổ quốc gia đó. Quốc gia sẽ đảm bảo cho công dân được hưởng những quyền và ngược lại công dân cũng phải thực hiện những nghĩa vụ pháp lý mà pháp luật quy định. Có thể nói một trong những vấn đề quan trọng trong mối quan hệ giữa các quốc gia hiện nay là vấn đề bảo hộ công dân. Hiện nay vấn đề bảo hộ công dân là một vấn đề có ý nghĩa đặc biệt không chỉ đối với mỗi quốc gia mà còn có vai trò quan trọng trên phạm vi toàn thế giới. Bên cạnh đó, tình hình chính trị bất ổn của một quốc gia có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của công dân một quốc gia khác, đặc biệt là về tính mạng và tài sản.

            Đề tài bảo hộ công dân là một đề tài rất rộng vì trên thực tế có rất nhiều vấn đề liên quan đến hoạt động bảo hộ công dân. Chẳng hạn bảo hộ cho người lao động di trú, bảo hộ trong trường hợp công dân bị bắt giữ ở nước ngoài… Trong bài tập lớn này, em sẽ tập trung phân tích những vấn đề pháp lý dựa trên pháp luật Quốc tế và pháp luật Việt Nam về bảo hộ công dân trong một số văn bản pháp luật như Hiến chương Liên Hợp Quốc năm 1945, Công ước Viên về Quan hệ ngoại giao năm 1961, Công ước Viên về Quan hệ lãnh sự năm 1963, Hiến pháp Việt Nam 2013, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 sửa đổi 2014…

            Vì vậy, em xin chọn đề tài số 7: “Lựa chọn phân tích làm rõ một hoặc một số vấn đề pháp lý và thực tiễn bảo hộ công dân của Việt Nam, có ví dụ thực tiễn” để tìm hiểu và làm rõ những vấn đề trên.

1. Vấn đề bảo hộ công dân và liên hệ thực tiễn.

1.1. Mối quan hệ giữa nhà nước và công dân.

            Công dân của một quốc gia là người mang quốc tịch của quốc gia nơi họ đang cư trú, sinh sống, được pháp luật của quốc gia quy địn cho hưởng các quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội và phải thực hiện các nghĩa vụ của công dân đối với quốc gia. Theo Điều 17 Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013: “1. Công dân nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam”.

            Trong xã hội công dân và nhà nước là hai phạm trù có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, không thể có công dân mà không có nhà nước, cũng không thể có nhà nước mà không có công dân. Mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân là mối quan hệ chính trị – pháp lý mang tính nền tảng của mỗi quốc gia thể hiện trong các quyền và nghĩa vụ được quy định tạo thành địa vị pháp lý của cá nhân và được xác định thông qua dấu hiệu quốc tịch của mỗi cá nhân công dân đó.

            Từ đó mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân có quốc tịch được thể hiện qua 3 nội dung sau:

  • Một là Nhà nước bằng pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của công dân.
  • Hai là công dân có nghĩa vụ phải tuân theo pháp luật mà Nhà nước của mình đặt ra dù họ đang ở trong hay ở ngoài nước.
  • Ba là Nhà nước có quyền phán xét xử lý tuyệt đối các hành vi của công dân mình đồng thời phải có trách nhiệm bảo hộ quyền và lợi ích của công dân cả ở trong và ngoài nước.

            Tại Việt Nam, sự công nhận quốc tịch của nhà nước Việt Nam đối với một cá nhân là cơ sở mang lại cho cá nhân địa vị bình đẳng trước pháp luật như mọi công dân Việt Nam khác công dân Việt Nam được nhà nước bảo đảm các quyền công dân và phải làm tròn các nghĩa vụ công dân đối với nhà nước và xã hội theo quy định của pháp luật.

1.2. Bảo hộ công dân là gì? Và ví dụ về bảo hộ công dân của Việt Nam.

            Bảo hộ công dân là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích của công dân nước mình ở nước ngoài, khi các quyền và lợi ích này bị xâm hại ở ngoài đó (bảo hộ ngoại giao theo nghĩa hẹp), đồng thời bao gồm cả các hoạt động giúp đỡ về mọi mặt mà nhà nước dành cho công dân của nước mình đang ở nước ngoài, kể cả trong trường hợp không có hành vi xâm hại nào tới các công dân của nước này (bảo hộ ngoại giao theo nghĩa rộng). [1]Như thế, bảo hộ công dân có thể bao gồm các hoạt động có tính công vụ như cấp phát hộ chiếu, giấy tờ hành chính hoặc các hoạt động có tính giúp đỡ, như trợ cấp tài chính cho công dân khi họ gặp khó khăn, phổ biên các thông tin cần thiết cho công dân nước mình tìm hiểu về nước mà họ có dự định tới vì nguyện vọng cá nhân cho đến các hoạt động có tính phức tạp hơn như thăm hỏi lãnh sự công dân bị bắt, bị giam hoặc tiến hành các hoạt động bảo vệ và đảm bảo cho công dân nước mình được hưởng những quyền và lợi ích tối thiêu theo quy định của nước sở tại hoặc luật quốc tế.

            Đặc biệt, tại Điều 6 luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, cũng đã quy định về bảo hộ đối với công dân Việt nam ở nước ngoài.

            Trong định hướng quan trọng của Đảng được xác định rõ trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã nêu “Giúp đỡ đồng bào định cư ở nước ngoài ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế, góp phần tăng cường hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước; được bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích chính đáng; tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; có cơ chế, chính sách thu hút đồng bào hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng và bảo vệ đất nước”. Trên tinh thần đó, công tác kết nối kiều bào và bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài đã có những chuyển biến tích cực, mang lại hiệu quả rõ nét. Đảng ta xác định: “Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tăng cường hơn nữa sự gắn bó của người Việt Nam ở nước ngoài với đất nước. Mọi người Việt Nam ở nước ngoài đều được khuyến khích, tạo điều kiện trở về thăm quê hương, đầu tư sản xuất kinh doanh, góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.”

            Những năm qua, công tác về người Việt Nam ở nước ngoài đã trở thành một trụ cột trong công tác đối ngoại của đất nước. Theo số liệu của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, tính đến tháng 10/2020, kiều bào từ 27 quốc gia và vùng lãnh thổ đã có 362 dự án FDI đầu tư tại Việt Nam với tổng số vốn đăng ký 1,6 tỷ USD. Trong 5 năm gần đây (từ 2015 đến 2019), với mức tăng trưởng trung bình 6%/năm, tổng kiều hối đạt hơn 71 tỷ USD, chiếm khoảng 44% tổng kiều hối đạt được trong vòng 26 năm (từ năm 1993 đến hết năm 2019). Riêng năm 2020, Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo kiều hối về Việt Nam đạt 15,686 tỷ USD, đứng thứ 9 trên thế giới về thu hút lượng kiều hối.

2. Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân.

            Cơ chế pháp lý bảo hộ công dân là tổng thể nguyên tắc, các thể chế, thiết chế, hình thức vận hành gắn kết với nhau trong một hệ thống nhằm thực hiện trách nhiệm chính trị – pháp lý của nhà nước trong việc thúc đẩy giúp đỡ và bảo vệ công dân khi có sự đe dọa cản trở hay xâm hại các quyền cơ bản của họ.

            Đối với công dân, cơ chế pháp lý bảo hộ công dân trang bị cho họ khả năng chủ động thực thi, bảo vệ các quyền của mình. Đối với nhà nước, cơ chế pháp lý bảo hộ công dân thúc đẩy trách nhiệm của nhà nước nhằm đảm bảo bảo vệ các quyền cơ bản của công dân ngay cả khi không có sự yêu cầu từ phía công dân. Nhà nước đồng thời phải dữ liệu được các mối nguy cơ xâm hại, cản trở, để phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các mối nguy cơ đó trong từng trường hợp cụ thể.

3. Cơ sở của bảo hộ công dân.

3.1. Cơ sở của bảo hộ công dân theo quy định của pháp luật quốc tế.

            Hoạt động bảo hộ công dân được tiến hành dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật quốc tế. Dưới góc độ pháp luật quốc tế các quy định về bảo hộ công dân được quy định khá rõ trong Công ước viên năm 1961 về quan hệ ngoại giao và Công ước viên 1963 về quan hệ lãnh sự. Điều 3, Công ước viên năm 1961 về quan hệ ngoại giao quy định một trong những chức năng chính của cơ quan đại diện ngoại giao là “bảo vệ những quyền lợi của nước cử đại diện và của những người mang quốc tịch nước đó tại nước nhận đại diện trong phạm vi được luật quốc tế thừa nhận”. Trong Điều 5, Công ước viên năm 1963 cũng quy định chức năng tương tự của cơ quan lãnh sự. 

            Quốc gia chỉ được thực hiện sự bảo hộ đối với công dân của quốc gia hay nói cách khác người được bảo hộ phải mang quốc tịch quốc gia tiến hành bảo hộ. Tuy nhiên, trong thực tiễn quan hệ quốc tế có những trường hợp công dân của quốc gia nhưng không được sự bảo hộ cần thiết của quốc gia mà họ mang quốc tịch. Ví dụ như đối với người hai hay nhiều quốc tịch không được bảo hộ nếu sự bảo hộ đó chống lại quốc gia mà người này cũng mang quốc tịch. Hoặc ngược lại cũng có trường hợp cá nhân không mang quốc tịch của quốc gia nhưng vẫn được bảo hộ đối với những cá nhân được hưởng tư cách “công dân Liên minh châu Âu”. Có hành vi vi phạm pháp luật quốc tế của quốc gia sở tại gây thiệt hại cho công dân của quốc gia thực hiện bảo hộ. Tính bất hợp pháp của hành vi gây thiệt hại sẽ được xác minh trên cơ sở các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương được ký kết giữa các bên hoặc tập quán quốc tế, chủ yếu là các điều ước quốc tế, tập quán quốc tế trong lĩnh vực quyền con người.

3.2. Cơ sở của bảo hộ công dân theo quy định của pháp luật Việt Nam.

            Bảo vệ quyền lợi của công dân Việt Nam ở nước ngoài là trách nhiệm của nhà nước được quy định trong các văn bản pháp luật của Việt Nam từ ngày lập nước đến nay và hoàn toàn phù hợp với pháp luật cũng như tập quán quốc tế. Pháp luật Việt Nam quy định khá nhiều điều khoản về bảo hộ công dân Việt Nam. Như trong điều 75 Hiến pháp 1992 quy định: “nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người dân Việt Nam định cư ở nước ngoài. Nhà nước tạo điều kiện để người dân Việt Nam định cư ở nước ngoài giữa quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương góp phần xây dựng quê hương đất nước”. Quy định này tiếp tục được cụ thể hóa tại điều 6 Luật quốc tịch năm 2008.

            Theo số liệu của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, hiện nay có khoảng 4,5 triệu người Việt Nam ở khắp các châu lục trên thế giới. Với số lượng người Việt Nam xuất cảnh ra nước ngoài mỗi năm một tăng với nhiều mục đích khác nhau đặt ra yêu cầu về sự chặt chẽ và đồng bộ trong các văn bản pháp lý về công tác bảo hộ người Việt Nam di cư ra nước ngoài. Theo các tiêu chí phân loại của Tổ chức Di cư quốc tế (IMO), người Việt Nam di cư ra nước ngoài về cơ bản cũng bao gồm: di cư lao động quốc tế theo hợp đồng có thời hạn ở nước ngoài; di cư học tập; di cư do kết hôn với người nước ngoài hoặc có quốc tịch nước ngoài; di cư vì được nhận làm con nuôi; di cư thông qua tệ nạn buôn bán người (bất hợp pháp). Nhà nước Việt Nam có chính sách nhất quán là thúc đẩy di cư hợp pháp, chống di cư trái phép, tạo điều kiện thuận lợi cho di cư trong nước và di cư quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước có người Việt Nam nhập cư. Điều 17 Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân Việt Nam ở nước ngoài được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ”.
            Bên cạnh đó, Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến việc di cư của công dân Việt Nam ra nước ngoài. Theo số liệu của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tính vào thời điểm hiện tại, Việt Nam có khoảng 53 văn bản luật và dưới luật liên quan đến di cư. Pháp luật hiện hành về cơ bản đã có những quy định tương đối cụ thể nhằm bảo hộ các quyền về sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm và các quyền lợi ích chính đáng khác của công dân khi sinh sống, lao động, học tập, kết hôn… ở nước ngoài.
            Nhìn từ góc độ pháp luật, việc bảo hộ công dân được đặt ra khi các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài bị xâm phạm. Trách nhiệm bảo vệ công dân còn bao gồm các hoạt động giúp đỡ về mọi mặt mà Nhà nước dành cho công dân Việt Nam đang ở nước ngoài, bao gồm những hoạt động mang tính công vụ như cấp phát hộ chiếu, giấy tờ hành chính cho công dân; các hoạt động có tính chất trợ giúp như giúp đỡ về tài chính cho công dân khi họ gặp khó khăn, giúp đỡ công dân trong việc chuyển thông tin, bảo quản giấy tờ, tài sản…; thăm hỏi lãnh sự khi công dân bị bắt, bị giam, áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân nước mình trên cơ sở phù hợp quy định pháp luật quốc gia sở tại hoặc luật pháp quốc tế. Việc bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và pháp nhân Việt Nam ở nước ngoài là hết sức cần thiết, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân, góp phần nâng cao vị thế chính trị, uy tín của Nhà nước Việt Nam đối với thế giới cũng như trong con mắt người Việt Nam ở nước ngoài, góp phần khuyến khích, động viên ngày càng nhiều hơn sự đóng góp của bà con Việt kiều vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
            Việc bảo hộ quyền và lợi ích của pháp nhân và công dân Việt Nam ở nước ngoài được quy định tại hầu hết các văn bản pháp luật quan trọng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, như: Hiến pháp năm 2013 (điều 17 khoản 3), Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 (Điều 5); Luật Cơ quan đại diện nước CHXHCN Việt Nam ở nước ngoài số 33/2009/QH12 ngày 18/06/2009 (Điều 8 và Điều 9)… Quyết định số 119/QĐ-TTg ngày 25/07/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Quỹ Bảo hộ công dân và pháp nhân Việt Nam ở nước ngoài với 20 tỷ đồng chi cho các hoạt động ban đầu của công tác này. Tiếp đó, ngày 20/9/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 1737/CT-TTg về tăng cường công tác bảo hộ quyền và lợi ích chính đáng của công dân Việt Nam ra nước ngoài trong tình hình hiện nay. Chỉ thị đã quy định nhiệm vụ cụ thể của các bộ, ngành hữu quan và Ủy ban nhân dân các địa phương trong công tác bảo hộ quyền và lợi ích chính đáng của công dân Việt Nam trong suốt quá trình di cư ra nước ngoài.

4. Thẩm quyền bảo hộ công dân.

            Thẩm quyền bảo hộ công dân: Dựa trên cơ sở cơ cấu tổ chức và phạm vi hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo hộ công dân, có thể chia các cơ quan này ra làm 2 loại: cơ quan có thẩm quyền trong nước và cơ quan có thẩm quyền nước ngoài.

4.1. Hoạt động bảo hộ công dân của các cơ quan có thẩm quyền trong nước.

            Việc quy định cơ quan nhà nước nào có thẩm quyền bảo hộ công dân là hoàn toàn do luật quốc gia của nước hữu quan quy định. Hầu hết các quốc gia đều giao nhiêm vụ theo dõi, thực hiện bảo hộ công dân cho bộ ngoại giao. Bộ ngoại giao chịu trách nhiệm trước Chính phủ về các hoạt động bảo hộ công dân ở trong nước cũng như ngoài nước. Trong trường hợp vấn đề bảo hộ công dân cần giải quyết có liên quan tới các bộ, các ngành khác trong Chính phủ thì Bộ ngoại giao có trách nhiệm phối hợp hoạt động với các bộ, ngành có liên quan để giải quyết và báo cáo lại với Quốc hội.

4.2. Cơ quan có thẩm quyền bảo hộ công dân ở nước ngoài.

            Thẩm quyền bảo hộ công dân nước mình ở nước ngoài thuộc về cơ quan đại diện ngoại giao – lãnh sự của nước cử đại diện tại nước nhận đại diện. Thẩm quyền của cơ quan đại diện ngoại giao lãnh sự của nước cử đại diện tại nước nhận đại diện được quy định trong Công ước Viên năm 1961 về quan hệ ngoại giao và Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự. Như điểm b Điều 3 Công ước Viên 1961 về quan hệ ngoại giao quy định: 

“1. Những chức năng chính của một cơ quan đại diện ngoại giao là:

b) Bảo vệ quyền lợi của nước cử đại diện và của những người thuộc quốc tịch của nước đó tại nước nhận đại diện, trong phạm vi được luật pháp quốc tế thừa nhận” [2]

            Do đó việc bảo vệ quyền lợi của nước cử đại diện và của những người cùng quốc tịch nước đó tại nước nhận đại diện thuộc chức năng chính của cơ quan đại diện ngoại giao. Bên cạnh đó, việc bảo hộ ngoại giao không chỉ thuộc thẩm quyền của cơ quan ngoại giao mà còn là của cơ quan lãnh sự của nước cử đại diện tại nước nhận đại diện. Ngoài ra, khi tiến hành các hoạt động bảo hộ công dân, các cơ quan chức năng có thẩm quyền phải dựa trên cơ sở pháp lý là các văn bản pháp luật quốc gia về bảo hộ công dân và các điều ước quốc tế hữu quan về bảo hộ công dân. 

            Thực tế thời gian qua cho thấy Bộ Ngoại giao và các cơ quan đại diện Việt Nam đã hỗ trợ hiệu quả cộng đồng người Việt Nam tại nước ngoài, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ, đặc biệt là giúp đỡ khẩn cấp khi cần thiết. Năm 2011, Việt Nam đã tổ chức chiến dịch giải cứu 10.400 lao động Việt Nam tại Lybia sau khi tại nước này xảy ra sự biến động lớn về chính trị – xã hội. Chính phủ Việt Nam đã thành lập Ban chỉ đạo giải quyết tình hình công dân Việt Nam tại Trung Đông và Bắc Phi với nhiệm vụ sơ tán người lao động Việt Nam tại Libya và đưa về nước[3]. Đại sứ Việt Nam tại Libya đã phối hợp với Cục Quản lý lao động ngoài nước cùng đại diện của Tổ chức di dân quốc tế (IOM) và đề nghị IOM hỗ trợ, giúp đỡ cho lao động Việt Nam. Hàng nghìn lao động Việt Nam được về nước an toàn bằng đường bộ, đường hàng không và đường thủy. Trong vụ 10 thuyền viên Việt Nam làm việc trên tàu đánh cá Đài Loan (Trung Quốc) bị cảnh sát Nam Phi bắt và xét xử ở Cape Town ngày 05/5/2009, Cục Lãnh sự (Bộ Ngoại giao) và Đại sứ quán Việt Nam tại Nam Phi đã đưa ra những phương án bảo hộ phù hợp, hiệu quả nhất. Kết quả, 10 thuyền viên này đã được đưa về nước an toàn vào ngày 22/6/2009.

5. Các biện pháp bảo hộ công dân.

            Trong quá trình thực hiện bảo hộ công dân, các nước có thể thực hiện nhiều biện pháp bảo hộ đa dạng khác nhau. Việc bảo hộ ngoại giao được tiến hành ở mức độ nào và áp dụng các biện pháp bảo hộ gì phụ thuộc vào nhiểu yếu tố như quyền lợi nào bị vi phạm, mức độ vỉ phạm, thái độ của nước sở tại, khả năng ảnh hưởng tới quan hê quốc tế, bối cảnh quốc tế… Và biện pháp ngoại giao thường được coi là biện pháp đầu tiên để thực hiện bảo hộ công dân. Cơ sở pháp lý cùa biện pháp này là nguyên tắc giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế. Biện pháp ngoại giao được thực hiện để bảo hộ công dân có thể thông qua trung gian hoà giải, thương lượng hoặc đàm phán trực tiếp.

            Như trong vụ 39 người Việt thiệt mạng trên xe container tại Anh. Tối 7/11/2019, Thông tấn xã Việt Nam đã đưa tin, trong lời chia buồn gửi tới gia đình 39 người Việt thiệt mạng trên xe container ở Anh, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đưa ra thông điệp rất rõ ràng: “Chính phủ Việt Nam lên án mạnh mẽ những hành vi mua bán người, đưa người ra nước ngoài bất hợp pháp và kêu gọi các quốc gia trong khu vực và thế giới tiếp tục đẩy mạnh hợp tác, kiên quyết phòng, chống tận gốc loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm này, không để tái diễn, sớm hoàn tất điều tra, truy tố, xét xử để nghiêm trị những kẻ phạm tội”. Trước đó, ngày 5/11, trong phiên họp của Chính phủ, đề cập vụ việc xảy ra tại hạt Essex (phía Đông Bắc London) Thủ tướng khẳng định: Chúng ta cố gắng làm hết sức mình trong công tác bảo hộ công dân! Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương liên quan cần phối hợp chặt chẽ để xử lý vụ việc, trước hết là động viên thân nhân của các nạn nhân, hỗ trợ tối đa trong khả năng của mình. Thực hiện sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ðoàn công tác liên ngành do Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Tô Anh Dũng dẫn đầu, đã sang Anh từ ngày 3/11 để phối hợp với các cơ quan liên quan của Anh đẩy nhanh tiến trình xác minh nhân thân. Ở trong nước, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an đã tích cực phối hợp Ủy ban nhân dân các địa phương liên quan trong quá trình xác minh nhân thân, tổng hợp nguyện vọng của 39 gia đình có thân nhân thiệt mạng tại Anh, hướng dẫn gia đình các nạn nhân thực hiện quy định của pháp luật Anh để làm thủ tục nhận thi thể hoặc tro cốt người bị nạn. Từ khi xảy ra vụ việc, Bộ Ngoại giao và Đại sứ quán Việt Nam tại Anh đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng và địa phương của Việt Nam cũng như phía Anh để hỗ trợ các gia đình nạn nhân trong việc giải quyết hậu sự, trên tinh thần nhân đạo, phù hợp với luật pháp quốc tế, các quy định pháp luật và tập quán của hai nước. Sáng 30/11/2019, theo TTXVN, thi thể và tro cốt 23 nạn nhân còn lại trong vụ việc 39 nạn nhân thiệt mạng tại hạt Essex, Đông Bắc London, Anh đã được đưa về đến sân bay Nội Bài, Hà Nội. Như vậy, trong các ngày 27 và 30/11/2019, Bộ Ngoại giao đã phối hợp với các cơ quan chức năng và địa phương của Việt Nam và Anh hoàn tất việc đưa thi thể và tro cốt 39 nạn nhân về nước, bàn giao cho gia đình.[4] Như vậy, Việt Nam đã sử dụng biện pháp ngoại giao để bảo hộ tốt nhất cho công dân nước mình và là trách nhiệm pháp định của Nhà nước.

            Bên cạnh biện pháp ngoại giao, các quốc gia còn sử dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế hoặc trừng phạt về ngoại giao đối với nước vi phạm như thực hiện chiến dịch bao vây, cán vân, rút cơ quan đại diện ngoại giao và toàn bộ cán bộ của cơ quan về nước hoặc có thể đưa ra toà án quốc tế yêu cầu giải quyết. Mặc dù các biện pháp bảo hộ rất đa dạng và phong phú nhưng phạm vi các biện pháp bảo hộ được sử dụng vẫn phải chịu sự điếu chỉnh và giới hạn của luật quốc tế. Mặt khác, thực tiễn bảo hộ ngoại giao cũng cần phải chú ý tới mục đích thực sự của hoạt động này và không thể dùng bảo hộ công dân là nguyên cớ phục vụ cho ý đồ và mục đích chính trị của quốc gia bảo hộ, làm ảnh hưởng tới quan hệ của các bên liên quan vấ hình ảnh của quốc gia trên chính trường quốc tế.

6. Thực tiễn về bảo hộ công dân của Việt Nam.

6.1. Một số ví dụ thực tiễn về bảo hộ công dân của Việt nam

            Trong những năm qua, người Việt Nam ra nước ngoài không ngừng gia tăng về số lượng và đa dạng về thành phần đã đặt ra những vấn đề khó khăn, thách thức cho công tác bảo hộ công dân. Theo thống kê của Cục Lãnh sự (Bộ Ngoại giao), số công dân được bảo hộ tăng dần qua từng năm. Theo đó, năm 2017 có 8.024 người; năm 2018 có trên 10.000 người; năm 2019 có 13.643 công dân và năm 2020 là 21.384 công dân. Số lượng các cuộc gọi của công dân Việt Nam cần tư vấn về các vấn đề liên quan đến bảo hộ công dân ở nước ngoài thông qua tổng đài điện thoại về bảo hộ công dân đã tăng gấp 10 lần so với thời điểm bắt đầu hoạt động từ năm 2016. Số lượng công dân được bảo hộ tăng đi kèm với tính chất các vụ việc ngày càng phức tạp và nghiêm trọng. Nhiều vụ việc chưa từng có tiền lệ như tàu biển của Việt Nam bị cướp biển tấn công và thuyền viên bị giữ làm con tin; việc bảo hộ công dân Đoàn Thị Hương bị bắt và bị xét xử tại Malaysia; đoàn du khách Việt Nam thăm Ai Cập bị đánh bom; vụ việc 39 người thiệt mạng trên một xe tải tại Đông Bắc London (Anh)…

            Nhắc đến vụ việc của Đoàn Thị Hương sinh ngày 31/5/1988, trú quán tại thôn 3, xã Nghĩa Bình, huyện Nghĩa Hưng, Nam Định. Hương bị coi là 1 trong 2 nữ nghi phạm trong vụ ám sát Kim jong nam tại Malaysia ngày 13 tháng 2 năm 2017. Ngày 15 tháng 2, Đoàn Thị Hương bị bắt giữ tại sân bay Kuala Lumpur do bị nhận dạng dựa trên camera an ninh của sân bay trùng với một trong hai người phụ nữ đã tiếp cận ông Kim. Theo luật cô bị giữ 7 ngày để điều tra. Cô khai là không biết tên của nạn nhân, và cô tưởng đây là một trò đùa trên truyền hình. Sau khi hành động, cô không thấy những người bạn của mình và đã lên taxi rời khỏi sân bay. Ngày 1 tháng 3, lúc 10h15 sáng (giờ Malaysia) tại phiên tòa luận tội, Tòa kết luận Đoàn Thị Hương đã phạm tội giết người và theo điều 302 bộ luật hình sự của Malaysia, tội này phải chịu án tử hình. Đoàn Thị Hương trả lời rõ ràng: “Tôi vô tội.” Sau khi phiên tòa công bố cáo trạng kết thúc, Tòa công bố sẽ đưa vụ án ra xét xử vào ngày 13 tháng 4: “Chúng tôi cần thêm thời gian để thu thập tất cả các tài liệu cần thiết.” Ngày 13 tháng 4, tại Tòa án Tối cao Sepang, Selangor, các công tố cho biết họ chưa có đủ tài liệu cần thiết và sẽ xử tiếp vào ngày 30 tháng 5. Ngày 29 tháng 9 năm 2017, luật sư của Đoàn Thị Hương, ông Hisyam Teh thông báo Đoàn Thị Hương và Siti Aisyah sẽ không nhận tội trước phiên tòa xét xử sẽ diễn ra vào ngày 2 tháng 10 và dự kiến kết thúc vào ngày 30 tháng 10. Ngày 14 tháng 3 năm 2019, Tòa án Malaysia bác yêu cầu rút lại cáo trạng và trả tự do cho Đoàn Thị Hương. Đoàn Thị Hương là nghi phạm duy nhất còn phải ngồi tù, và sẽ tiếp tục ra tòa vào ngày 1 tháng 4 năm 2019. Ngay từ khi xảy ra vụ việc, Chính phủ, Bộ Ngoại giao, các cơ quan liên quan và Liên đoàn Luật sư của Việt Nam đã thực hiện mọi biện pháp bảo hộ công dân để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Đoàn Thị Hương, để bảo đảm công dân Đoàn Thị Hương được xét xử công bằng, khách quan và sớm được trả tự do. Để đạt được kết quả trên, ngay từ khi xảy ra vụ việc, Chính phủ, Bộ Ngoại giao, Đại sứ quán Việt Nam tại Malaysia và các cơ quan hữu quan đã thực hiện mọi biện pháp để bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Đoàn Thị Hương, đảm bảo việc xét xử công bằng, khách quan và Đoàn Thị Hương sớm được thả tự do. Kết thúc phiên tòa, Đoàn Thị Hương và bố đẻ là ông Đoàn Văn Thạnh đã có trao đổi nhanh với báo chí và cho biết rất cảm ơn Chính phủ Việt Nam, các cơ quan hữu quan của Việt Nam cũng như các luật sư đã nỗ lực bảo vệ quyền lợi cho Đoàn Thị Hương.[5]

            Bên cạnh đó, việc bảo hộ công dân của Việt Nam còn được minh chứng qua vụ việc đoàn du khách Việt Nam thăm Ai Cập bị đánh bom. Tại Cairo, ngày 28/12/2018, Đại sứ quán Việt Nam tại Ai Cập xác nhận vào lúc 18 giờ 15 phút cùng ngày (23 giờ 15 phút giờ Việt Nam) đã xảy ra một vụ đánh bom xe gần khu vực Kim tự tháp Giza của Ai Cập. Theo thông tin của Đại sứ quán sau khi làm việc với nhà chức trách Ai Cập, khi xảy ra vụ nổ bom, trên chiếc xe trên có 18 người, trong đó có 15 người Việt Nam và 3 người Ai Cập. Về phía người Việt Nam, vụ việc đã làm ba người tử vong, ba người bị thương nặng đã được các bác sĩ phẫu thuật và điều trị tích cực, chín người bị thương khác cũng đang được điều trị, phục hồi tốt. Đại sứ Việt Nam tại Ai Cập Trần Thành Công cùng các cán bộ của Đại sứ quán đã tới bệnh viện trên thăm hỏi các nạn nhân và làm việc với các quan chức nước sở tại, trong đó có Bộ trưởng Du lịch Ai Cập Rania Al-Mashat và Bộ trưởng Y tế Hala Zayed, để phối hợp tìm biện pháp giải quyết. Theo Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng, được tin về vụ đánh bom nêu trên, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc gửi lời thăm hỏi và chia buồn sâu sắc nhất tới các gia đình các nạn nhân. Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Ngoại giao triển khai ngay các biện pháp cần thiết để bảo hộ công dân Việt Nam tại Ai Cập, hỗ trợ chăm sóc các nạn nhân, đề nghị các cơ quan chức năng của Ai Cập tạo điều kiện thuận lợi nhất để các gia đình nạn nhân sang Ai Cập làm các thủ tục liên quan. Bên cạnh đó, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng nêu rõ, Việt Nam vô cùng phẫn nộ và cực lực lên án hành động khủng bố làm chết và bị thương nhiều người Việt Nam vô tội và yêu cầu phía Ai Cập sớm mở cuộc điều tra, truy tìm và trừng trị thích đáng những kẻ gây ra vụ tấn công khủng bố này. Việt Nam kêu gọi chính phủ cùng nhân dân các nước đoàn kết chống lại chủ nghĩa khủng bố một cách không khoan nhượng để xây dựng cuộc sống hòa bình và đi lại an toàn tự do cho người dân lương thiện trên toàn thế giới. Việt Nam đánh giá cao nỗ lực hợp tác của Chính phủ và nhân dân Ai Cập trong việc hỗ trợ điều trị và bảo hộ các công dân Việt Nam bị tấn công trong vụ việc này.[6]

            Hay như trong vụ việc, hai thuyền viên Việt Nam trêu tàu trở dầu Hankuk Chemi của Hàn Quốc bị phía IRAN bắt giữ. Lực lượng vệ binh cách mạng Hồi giáo Iran bắt giữ tàu dầu treo cờ Hàn Quốc MT Hankuk Chemi vào ngày 4/1/2021, cáo buộc tàu “vi phạm luật môi trường biển”. Khi đó, MT Hankuk Chemi, di chuyển từ Ả Rập Xê Út đến Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất. Trên tàu có tổng cộng 20 thuyền viên, bao gồm 5 người Hàn Quốc, 11 người Myanmar, 2 người Indonesia và 2 người Việt Nam. Ngày 5/1/2021, trả lời câu hỏi của phóng viên người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng cho biết ngay sau khi nhận được thông tin tàu Hankuk Chemi của Hàn Quốc cùng 20 thuyền viên, trong đó có 2 thuyền viên Việt Nam bị phía Iran bắt giữ, Bộ Ngoại giao đã liên hệ với Đại sứ quán Hàn Quốc và Đại sứ quán Iran tại Hà Nội. Đồng thời, các cơ quan đại diện Việt Nam tại Hàn Quốc và Iran đã chủ động trao đổi với các cơ quan chức năng sở tại, công ty chủ tàu Hankuk Chemi để xác minh thông tin, yêu cầu đảm bảo an toàn cho các thuyền viên Việt Nam và đề nghị nhanh chóng giải quyết vụ việc. Bộ Ngoại giao cũng liên hệ với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Giao thông Vận tải để xác minh nhân thân các thuyền viên, yêu cầu các công ty phái cử đảm bảo quyền lợi cho người lao động Việt Nam ở nước ngoà. Thực hiện chỉ đạo của Bộ Ngoại giao, các cơ quan đại diện Việt Nam tại Iran và Hàn Quốc sẽ tiếp tục theo dõi sát vụ việc và sẵn sàng tiến hành các biện pháp bảo hộ công dân cần thiết, bảo vệ quyền và lợi ích của các thuyền viên Việt Nam. Tại cuộc họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao Việt Nam chiều 14/1/2021,”Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao đã gặp trao đổi trực tiếp với Đại sứ quán Iran tại Hà Nội về vấn đề này”, bà Lê Thị Thu Hằng thông tin thêm: “Theo thông tin mới nhất mà chúng tôi nhận được từ Đại sứ quán Việt Nam tại Iran, Đại sứ quán đã liên hệ được với 2 thuyền viên Việt Nam. Đến nay, 2 thuyền viên đều có tình trạng sức khỏe tốt, tinh thần ổn định”. Đại sứ quán Việt Nam tại Iran cho biết, ngày 18/1/2021, Đại sứ quán đã thăm lãnh sự 2 công dân nói trên. Hiện 2 công dân Việt Nam ở trên tàu Hankuk Chemi, trong tình trạng sức khỏe ổn định và đã được liên hệ với gia đình ở Việt Nam[7]. Đại sứ quán cũng đã làm việc với các cơ quan chức năng Iran đề nghị sớm cho phép các thuyền viên rời tàu lên bờ, được thường xuyên liên lạc với gia đình và đảm bảo sức khỏe, an toàn cho các thuyền viên.

6.2. Thực tiễn bảo hộ công dân trong đại dịch COVID-19.

            Năm 2020, khi đại dịch COVID-19 chưa có tiền lệ bùng phát trên toàn cầu, yêu cầu về công tác bảo hộ công dân đã được nâng lên một mức cao mới khi chúng ta triển khai giúp đỡ hàng nghìn công dân Việt Nam ở nước ngoài ổn định cuộc sống, bảo hộ tính mạng, tài sản, các quyền và lợi ích chính đáng của công dân. Như Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc từng nói “không để ai bị bỏ lại phía sau”, và tinh thần “bám trụ để hoàn thành tốt nhiệm vụ”, các cơ quan chức năng Việt Nam, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đã phối hợp chặt chẽ với các hãng hàng không trong và ngoài nước để tổ chức các chuyến bay đưa công dân Việt Nam về nước một cách an toàn, phù hợp với năng lực cách ly trong nước. Thứ trưởng Tô Anh Dũng nhấn mạnh trong thời gian tới, công tác đưa công dân bị “kẹt” ở nước ngoài sẽ tiếp tục được tăng cường, đẩy mạnh, cố gắng đáp ứng tối đa nguyện vọng về nước chính đáng của công dân, trên cơ sở phù hợp với tình hình diễn biến dịch bệnh trong và ngoài nước cũng như đảm bảo công tác phòng, chống dịch bệnh và năng lực cách ly tại các địa phương.

            Trên cơ sở nguyện vọng của công dân Việt Nam và điều kiện cách ly tập trung của các địa phương trong nước, nhận được sự phối hợp chặt chẽ, tích cực của các bộ, ban, ngành, địa phương, Bộ Ngoại giao đã phối hợp với các Bộ: Y tế, Quốc phòng, Công an, Giao thông Vận tải và các địa phương đã tổ chức nhiều chuyến bay đưa công dân Việt Nam từ vùng dịch về nước, trong đó nổi bật, đáng kể nhất là chuyến bay đưa công dân Việt Nam từ tâm dịch Vũ Hán trở về ngày 10/02/2020. Đặc biệt là câu chuyện về chuyến trở về quê hương đầy bất ngờ và cảm động của vợ chồng chị Nguyễn Thị Thanh và anh Nguyễn Văn Phi từ Vũ Hán sau những ngày căng thẳng đối mặt với dịch bệnh. Kể lại hành trình trở về Việt Nam, vợ chồng anh chia sẻ, vào 2h chiều ngày 9/2, họ nhận tin chính phủ Việt Nam đã bố trí một chuyến bay từ Nội Bài sang Vũ Hán đón 30 lưu học sinh và công dân đang mắc kẹt tại đây về nước, dù trước đó tất cả các chuyến bay thương mại đã bị ngừng. Thời điểm đó Trung Quốc đã có hơn 37.000 ca nhiễm và hơn 800 ca tử vong do COVID-19. Sau vài phút nụ cười xen lẫn nước mắt, cặp vợ chồng lao vào thu dọn đồ đạc để chuẩn bị trở về Việt Nam. Vì Thanh đang mang bầu những tháng cuối, nên trên chuyến bay có một bác sĩ sản khoa chăm sóc riêng. Về đến sân bay Vân Đồn, cô cũng được di chuyển bằng xe cứu thương thay vì đi xe với đông người phòng trường hợp sinh giữa đường. Tại Bệnh viện Nhiệt đới trung ương ở Đông Anh, đôi vợ chồng được ở một căn phòng cách ly riêng, có cả bàn đẻ, lồng ấp và đầy đủ các trang thiết bị khác sẵn sàng cho trường hợp chuyển dạ. Sau khi trải qua 21 ngày cách ly yên bình, chiều 2/3, cặp vợ chồng bắt luôn chuyến xe khách về quê Nghệ An và đến thẳng bệnh viên đăng ký sinh. Hai ngày sau, sự ra đời của bé trai nặng 2,7 kg, được đặt tên là Anh Vũ là “trái ngọt” anh chị nhận được sau nhiều ngày phải sống chung với lo âu, căng thẳng tại Vũ Hán.[8]

            “Chúng tôi cảm thấy mình may mắn và tự hào khi được Chính phủ quan tâm, tạo điều kiện để được trở về nhà.” Đây là lời chia sẻ của anh Vi Đ. Minh (Hà Tĩnh) khi anh cùng với 218 người khác là những lao động xa xứ, được Chính phủ tổ chức chuyến bay giải cứu từ Guinea Xích đạo trở về cuối tháng 7/2020. Chuyến bay giải cứu khi đó xác định có tới 50% ca dương tính với SARS-CoV-2 (129 người).

            Để thực hiện thành công những chuyến bay giải cứu trên, có sự đóng góp thầm lặng nhưng rất quan trọng của các cán bộ ngoại giao làm công tác bảo hộ công dân. “Thời điểm đó, tất cả các đơn vị trong Cục Lãnh sự đều được đặt ở chế độ “trực chiến,” các phòng làm việc luôn có cán bộ túc trực gần như 24/24 giờ, ban ngày theo dõi thông tin trong nước và các nước trong khu vực, tham gia Ban Chỉ đạo phòng, chống COVID-19 ở các cấp, đến đêm kết nối, trao đổi với các Cơ quan đại diện Việt Nam ở châu Âu, châu Mỹ để nắm tình hình, các chính sách của sở tại, cập nhật số lượng công dân Việt Nam ở nước ngoài cần trợ giúp, bị mắc kẹt ở các sân bay” – Đại sứ Vũ Việt Anh, nguyên Cục trưởng Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao chia sẻ những kỷ niệm cùng các cán bộ của Cục Lãnh sự thực hiện hỗ trợ công dân Việt Nam ở nước ngoài khi đại dịch COVID-19 bùng phát trên toàn cầu. Những nhà ngoại giao làm việc âm thầm, miệt mài để thu xếp cho các chuyến bay đưa đồng bào hồi hương an toàn. Với những chính sách và hành động thiết thực, công tác bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài đã làm những người con xa xứ thêm “ấm lòng”, thêm yêu mến quê hương đất nước.

            Do đại dịch COVID-19, nhu cầu bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài lớn chưa từng có, với số cuộc gọi đến tổng đài bảo hộ công dân tăng gần 200%. Công tác thông tin, tuyên truyền cũng được Bộ Ngoại giao đặc biệt chú trọng. Tính từ ngày 24/1/2020, Bộ đã phát đi hơn 50 bản tin bảo hộ công dân; hơn 10 tin phát đối nội đối ngoại; gần 110 câu trả lời của Người Phát ngôn tại Họp báo Thường kỳ cũng như trả lời riêng có liên quan đến đại dịch Covid-19 và công tác bảo hộ công dân. Bộ đã chủ động cung cấp thông tin cho một số hãng thông tấn báo chí lớn trên thế giới, đưa tin tích cực về công tác phòng, chống dịch của Việt Nam. Nhờ đó đã tạo được sự cộng hưởng trên báo chí trong và ngoài nước để đưa Việt Nam trở thành một điểm sáng trong dư luận quốc tế. Bộ Ngoại giao đã thường xuyên trao đổi với Ban Tuyên giáo Trung ương định hướng các cơ quan báo chí trong nước đưa tin phù hợp với chủ trương, tránh những thông tin chưa được kiểm chứng, không gây hoang mang cho nhân dân. Những chuyên mục do Đài Truyền hình Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam… xây dựng đã phản ánh đa dạng, đầy đủ các chính sách và khuyến cáo của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đối với công dân Việt Nam, nêu bật các nỗ lực bảo hộ công dân của các cơ quan chức năng tạo được sự đồng thuận, đánh giá cao của dư luận trong nước.

            Trước tình hình dịch COVID-19 đang diễn biến phức tạp tại Mỹ, ngày 10/4/2020, Đại sứ Việt Nam tại Mỹ: Hà Kim Ngọc đã tham gia chương trình Trao đổi trực tuyến giữa các Cơ quan đại diện Việt Nam, Hội Thanh niên sinh viên (TNSV) Việt Nam tại Mỹ về tình hình dịch bệnh và các biện pháp hỗ trợ công dân và du học sinh Viêt Nam. Trong cuộc trao đổi, các đại biểu tham dự đều chia sẻ về diễn biến lan rộng và phức tạp của dịch COVID-19, tác động rất lớn đến mọi mặt của đời sống, và du học sinh là nhóm đối tượng dễ bị ảnh hưởng nhất, để từ đó tìm giải pháp khắc phục. Cho tới nay, Đại sứ quán và các Cơ quan đại diện tại Mỹ đã nhận được gần 1.000 đơn đăng ký nhu cầu về nước và đã chuyển các cơ quan trong nước xem xét, xử lý.

            Đại sứ Việt Nam tại Đức: Nguyễn Minh Vũ cho biết, Đại sứ quán thường xuyên cập nhật thông tin về các quy định, khuyến cáo của Chính phủ Đức và Việt Nam, đặc biệt là các quy định về xuất nhập cảnh trên website của Đại sứ quán và qua tổng đài lãnh sự, bảo hộ công dân, kịp thời giải đáp các thắc mắc của bà con. Đại sứ quán tạo điều kiện thuận lợi cho bà con đến làm thủ tục lãnh sự tại Đại sứ quán, cũng như qua đường bưu điện; hạn chế việc bà con phải chờ đợi, tập trung đông người ở khu vực tiếp khách của Đại sứ quán.

            Hay theo tin tức của Tổng lãnh sự quán Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Vancouver – Canada, đã cho thấy nước ta rất quan tâm và nhắc nhở công dân Việt Nam ở nước ngoài: “Do tình hình dịch bệnh COVID-19 chuyển biến ngày càng nghiêm trọng, Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Vancouver, Canada trân trọng đề nghị các công dân Việt Nam tại Canada hạn chế tối đa các giao tiếp, di chuyển khỏi chỗ ở trừ phi có lý do thiết yếu; tuân thủ tuyệt đối yêu cầu và chỉ dẫn phòng chống dịch bệnh của Chính quyền Canada, và tỉnh bang nơi sinh sống.” [9]

            Ngày 25/3/2020, hưởng ứng lời kêu gọi của Hội người Việt Nam tại CH Séc, đại diện lãnh đạo các hội đoàn tại vùng Plơ-den-xki và thành phố Plơ-den đã trao số tiền gần 12.000 USD và 1.700 chiếc khẩu trang tặng đại diện chính quyền thành phố, để hỗ trợ địa phương phòng, chống dịch Covid-19. Ðây là hoạt động nằm trong phong trào của cộng đồng người Việt Nam quyên góp tiền, hiện vật, khẩu trang…, đã lan tỏa khắp các tỉnh, thành phố ở Séc. Người Việt Nam ở Plơ-den cũng cung cấp đồ ăn nhẹ và đồ uống miễn phí cho các nhân viên của hệ thống cơ quan, lực lượng cứu hộ tại 28 cơ sở kinh doanh của người Việt Nam trên toàn vùng. Bên cạnh đó, ngày 26-3, Ðại sứ quán Ba Lan tại Hà Nội cho biết, trước tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp tại châu Âu, thông qua Ðại sứ quán, Hội người Việt Nam tại Ba Lan và Hội Hữu nghị Việt Nam-Ba Lan đã trao một số vật dụng y tế tặng các cơ quan y tế và xã hội Ba Lan. Số vật dụng này gồm 4.000 bộ xét nghiệm Covid-19; 1.500 găng tay y tế và 500 bộ quần áo bảo hộ y tế. Cộng đồng người Việt Nam tại Ba Lan cũng tổ chức nhiều hoạt động hỗ trợ người dân sở tại, như phát miễn phí khẩu trang, thành lập đường dây nóng chia sẻ thông tin về Covid-19 ở Ba Lan.[10]

            Như trong Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa tin trong bài “Bài 2: Những chuyển bay đặc biệt” có viết rằng: “Khi liên hệ với những công dân Việt Nam tại các khu cách ly sau khi trở về nước, điều mà chúng tôi nhận thấy rõ nhất là sự cảm phục, lòng yêu mến của họ đối với các lực lượng ở tuyến đầu chống dịch. Họ cảm nhận và chia sẻ với những vất vả, hy sinh thầm lặng của các y, bác sĩ, cán bộ, chiến sĩ bộ đội, công an, tình nguyên viên,… Bởi đó là những lực lượng góp phần không nhỏ vào thành công ngăn chặn sự lây lan của dịch COVID-19 tại Việt Nam tính đến nay.” Sau mỗi ngày lại có những chuyến bay đặc biệt mang đậm ý nghĩa nhân văn trong mỗi hành trình bay. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19, những hành động đó thật ấm lòng người dân trong nước và đặc biệt là công dân nước ngoài. Khiến mỗi người trong chúng ta càng thêm yêu và tự hào về Việt Nam.

            Có lẽ rằng chưa bao giờ đất nước Việt Nam được truyền thông và bạn bè quốc tế nhắc tới nhiều như thế sau sự kiện Hội nghị thượng đỉnh Mỹ-Triều diễn ra tại Hà Nội vào tháng 2/2019. Trong những ngày qua, các hãng truyền thông lớn trên thế giới như Reuters, CNN, Sputnik…liên tiếp có những bài viết ca ngợi những nỗ lực, sáng kiến và giải mã thành công của Việt Nam trong cuộc chiến chống COVID-19. Truyền thông quốc tế coi Việt Nam là hình mẫu trong việc phòng chống dịch, trong đó sự minh bạch thông tin được đánh giá là một yếu tố quan trọng, giúp Đảng, Nhà nước và Chính phủ nhận được sự ủng hộ, tin tưởng của đông đảo quần chúng nhân dân.

            Trên đây là bài viết của em với đề tài:“Lựa chọn phân tích làm rõ một hoặc một số vấn đề pháp lý và thực tiễn bảo hộ công dân của Việt Nam, có ví dụ thực tiễn”. Từ đó, cho thấy bảo hộ công dân là một vấn đề rất quan trọng được Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng và quan tâm, nhất là công dân Việt Nam sinh sống, làm việc ở nước ngoài. Từ những ví dụ thực tiễn trên, có thể phần nào thấy rõ các nỗ lực, quyết tâm và kết quả của Chính phủ, các Bộ, ban, ngành hữu quan trong việc đưa về nước an toàn nhiều công dân Việt nam khi quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm ở nước ngoài. Bên cạnh đó, cùng với việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước, Việt Nam còn tích cực, chủ động đàm phám, ký kết nhiều Điều ước Quốc tế song phương và đa phương liên quan đến đưa người lao động làm việc ở nước ngoài cũng như bảo hộ công dân sinh sống, làm việc ở nước ngoài. Qua đó, đã thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân, góp phần khuyến khích, tạo sự yên tâm, an toàn cho những công dân Việt Nam đang ở nước ngoài.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • Hiến chương Liên Hợp Quốc năm 1945;
  • Công ước Viên về Quan hệ ngoại giao năm 1961;
  • Công ước Viên về Quan hệ lãnh sự năm 1963;
  • Hiến pháp Việt Nam 2013;
  • Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008;
  • Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 sửa đổi 2014;
  • Thông tư 92/2013/TT-BTC;
  • Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Quốc tế, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2019;
  • Tin tức của Tổng lãnh sự quán Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Vancouver – Canada;
  • Tin tổng hợp tích cực trong công tác bảo hộ công dân – Sở xây dựng tỉnh Hà Giang;
  • Số liệu của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài;
  • Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Bài 2: Những chuyến bay đặc biệt;
  • Đại đoàn kết, Bảo hộ công dân Đoàn Thị Hương như thế nào?;
  • Lao động, Thông tin mới nhất về 2 thuyển viên Việt trên tàu Hàn Quốc bị Iran bắt giữ;
  • Tuổi trẻ Online, 39 người chết trong container tại Anh;
  • Tuổi trẻ Online, Đoàn khách Việt bị đánh bom ở Ai Cập;

[1] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Quốc tế, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2019, tr.129.

[2] Công ước Viên 1961.

[4] Tuổi trẻ Online

[8] Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam

[9] Tin tức của Tổng lãnh sự quán Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Vancouver – Canada

[10] Tin tổng hợp tích cực trong công tác bảo hộ công dân – Sở xây dựng tỉnh Hà Giang

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Vận dụng nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản để nêu ra các giải pháp góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận động sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta và đã trở thành một tài sản tinh thần của báu của Đảng và dân tộc. Trong di sản tư tưởng mà Hồ Chí Minh để lại, những luận điểm của Người về Đảng Cộng sản là một phần cực kỳ quan trọng. Nghiên cứu, quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người nhằm đổi mới và chính đốn Đảng, làm cho Đảng thật trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là lực lượng chính trị lãnh đạo toàn xã hội, là một trong những nhiệm vụ chủ yếu nhất của toàn Đảng, toàn dân ta. Để tìm hiểu kĩ hơn về vấn đề này, em xin chọn đề tài số 5: “Vận dụng nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản để nêu ra các giải pháp góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”.

I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản:

1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam:

    1.1. Cơ sở tư tưởng – lý luận:

Nghiên cứu một cách sâu sắc quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đến thế kỷ XIX ở tây Âu, Mác và Ăngghen đặt sự quan tâm chủ yếu của mình vào vấn đề thành lập Đảng cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa. Đến thời kỳ Lênin, chủ nghĩa tư bản đã bước vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, vấn đề dân tộc và thuộc địa được đặt ra một cách bức thiết, cách mạng vô sản trở thành nhiệm vụ trực tiếp. Vì vậy, vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản là đập tan chủ nghĩa cơ hội, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác và phát triển sáng tạo các luận điểm của Mác và Ăngghen về Đảng để thành lập Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.

Lênin là người đáp ứng được yêu cầu lịch sử đặt ra. Người đã xây dựng thành một hệ thống những nguyên tắc cơ bản về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Những nguyên tắc cơ bản về Đảng kiểu mới của Lênin là cơ sở có ý nghĩa quyết định đến việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết Mác – Lênin về chính đảng cách mạng để đưa đến việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930. Người đã nêu ra nhiều luận điểm mới làm phong phú thêm học thuyết Mác – Lênin về chính đảng cách mạng ở những nước thuộc địa mà sinh thời Mác và Ăngghen chưa có điều kiện để đi sâu nghiên cứu, còn Lênin cũng mới đề cập ở một chừng mực nhất định.

    1.2. Cơ sở thực tiễn.

       a. Thực tiễn Việt Nam.

Cuối thế kỷ XIX thực dân Pháp xâm lược và thống trị nước ta làm cho xã hội Việt Nam biến đổi sâu sắc. Đứng trước yêu cầu khách quan của lịch sử, trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam đã xuất hiện nhiều trào lưu cứu nước như phong trào  “Cần vương” (1883 -1896); phong trào khởi nghĩa của nông dân chống Pháp ở Yên Thế (1887-1913); Phong trào cứu nước mới theo khuynh hướng dân chủ tư sản của các nhà yêu nước Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… Nhưng tất cả các phong trào cứu nước đó đều bị thất bại. Thực tiễn đó của cách mạng Việt Nam đã được Hồ Chí Minh nghiên cứu một cách kỹ lưỡng và Người đã chỉ rõ một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thất bại của các phong trào yêu nước Việt Nam là thiếu một tổ chức cách mạng có đường lối chính trị đúng đắn và phương pháp cách mạng khoa học, phù hợp để tổ chức, tập hợp và lãnh đạo các tầng lớp nhân dân đấu tranh chống bọn đế quốc và phong kiến tay sai, giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.

Mặt khác, những kinh nghiệm được rút ra trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu… cũng giúp cho Hồ Chí Minh tiếp tục xây dựng, củng cố và phát triển tư tưởng của mình về Đảng Cộng sản Việt Nam.

       b. Thực tiễn cách mạng thế giới.

Trong quá trình đi tìm con đường cứu nước, Hồ chí Minh rất chú ý xem xét những vấn đề về chính đảng cách mạng.

Người khẳng định: “Cách mệnh Pháp dạy cho chúng ta:

1. Dân chúng công nông là gốc cách mệnh…

2. Cách mệnh thì phải có tổ chức rất vững bền mới thành công…”[1]

Hồ Chí Minh cũng giành nhiều tâm sức vào khảo cứu cuộc Cách mạng Tháng 10 Nga 1917, cuộc cách mạng do giai cấp công nhân, mà đội tiền phong của nó là Đảng Bônsêvích (cộng sản) Nga lãnh đạo và giành thắng lợi. Người chỉ rõ: “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công phải lấy dân chúng (công, nông) làm gốc, phải có đảng bền vững…”

Từ đó Người đã rút ra được những bài học quý báu về xây dựng Đảng. Những cơ sở tư tưởng – lý luận và thực tiễn nói trên góp phần quan trọng vào việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam:

            Sức mạnh to lớn của nhân dân chỉ được phát huy khi được tập hợp, đoàn kết và được lãnh đạo bởi một tổ chức chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm láo có vững thuyền mới chạy” ( trích trong cuốn sách Đường cách mệnh xuất bản 1927, của Hồ Chí Minh). Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp với quy luật phát triển của xã hội. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

            Khi đã giành được chính quyền Người viết về vai trò của Đảng như sau: “cần có sự lãnh đạo của một Đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh đạo của một Đảng biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công” (Hồ Chí Minh toàn tập – t.12-t-303). Như vậy theo Người Đảng có vai trò vô cùng to lớn, mang trọng trách hết sức nặng nề và quang vinh:

“ Đảng ta đó, trăm tay nghìn mắt
Đảng ta đây, xương sắt da đồng
Đảng ta, muôn vạn công nông
Đảng ta, muôn vạn tấm lòng, niềm tin
Đảng ta Mác – Lê nin vĩ đại
Lại hồi sinh, trả lại cho ta
Trời cao đất rộng bao la
Bát cơm, tấm áo, hương hoa, hồn người.”

3. Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam:

Về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân.

Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (2-1951), Người cho rằng: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”. Những quan điểm trên của Hồ Chí Minh dựa trên quan điểm của V.I Lênin về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng. Mục tiêu của Đảng là chủ nghĩa cộng sản. Đảng tuân thủ một cách nghiêm túc, chặt chẽ những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.

4. Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam:

    4.1.  Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu để đưa cách mạng nước ta đến thắng lợi.

Cách mạng vô sản chỉ có thể giành được thắng lợi khi có Đảng cộng sản, chính đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Hồ Chí Minh đã nhận thức, quán triệt và vận dụng sáng tạo luận điểm trên của các nhà kinh điển Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Người đặt vấn đề: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì?” và Người đã khẳng định: “… trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”.

Như vậy, Hồ Chí Minh đã khẳng định, Đảng cộng sản Việt Nam là chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, là đội tiền phong của giai cấp công nhân, có khả năng đoàn kết, tập hợp, lôi kéo mọi tầng lớp nhân dân đứng lên đấu tranh làm cách mạng – nhân tố hàng đầu quyết định mọi thằng lợi của cách mạng Việt Nam.

    4.2. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.

Hồ Chí Minh đã viết: “Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới sự thành lập Đảng cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”. Ở đây phong trào công nhân dù có tiên tiến nhất, nhưng nếu không gắn bó với phong trào yêu nước, trở thành nòng cốt của phong trào yêu nước, thì cũng không mở rộng được cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân và đưa cuộc đấu tranh đó đến thắng lợi.

    4.3. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.

Tại Đại hội II của Đảng (tháng 2.1951), Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”. Khi miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người nhắc lại luận điểm trên: “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”.

Quán triệt sâu sắc quan điểm đúng đắn của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình xây dựng và hoạt động đã gắn bó máu thịt với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc Việt Nam trong mọi thời kỳ của  cách mạng Việt Nam. Vì vậy, tuyệt đại đa số những người dân Việt Nam, dù là đảng viên hay không phải là đảng viên, dù thuộc giai tầng nào trong xã hội, ai ai đều cảm thấy Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của mình, Đảng ta, Đảng của chúng ta, tự hào với những thắng lợi, thành công của cách mạng do Đảng lãnh đạo, có trách nhiệm trong xây dựng và bảo vệ Đảng.

    4.4. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lênin “làm cốt”.

Quá trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng, nhất là 20 năm đổi mới càng chứng tỏ vị trí, vai trò nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống chính trị, tinh thần của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Điều đó tiếp tục được Đảng ta khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”[2]. Đó là sự khẳng định nhân tố hàng đầu đảm bảo tính tiền phong, tính cách mạng và khoa học của Đảng Cộng sản Việt Nam.

    4.5. Đảng Cộng sản Việt Nam phải được xây dựng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.

  • Một là, nguyên tắc tập trung dân chủ
  • Hai là, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
  • Ba là, tự phê bình và phê bình
  • Bốn là, kỷ luật nghiêm minh và tự giác
  • Năm là, đoàn kết thống nhất trong Đảng.

    4.6. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân.

Vấn đề Đảng cầm quyền là một nội dung trọng yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam. Trong Di chúc, Người đã khẳng định: “Đảng ta là Đảng cầm quyền… Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.

Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên từ suy nghĩ đến hành động đều phải tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân: Việc gì có lợi cho nhân dân thì cố gắng làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh. Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt với nhân dân, Đảng không ở trên dân, cũng không ở ngoài dân mà ở trong dân, trong lòng dân “Nước lấy dân làm gốc” “Đảng cũng phải lấy dân làm gốc”. Đảng lãnh đạo, dân là chủ.

    4.7. Đảng Cộng sản Việt Nam phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới.

Theo Hồ Chí Minh, chỉnh đốn, đổi mới Đảng đây không phải là một giải pháp tình thế, cũng không phải là một chủ trương thụ động mà Người coi là yếu tố cần và đủ giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng với xã hội, là điều kiện để Đảng không rơi vào tha hoá biến chất. Chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ cơ bản thường xuyên trong công tác xây dựng Đảng và là một nhiệm vụ rất quan trọng liên quan trực tiếp tới sức mạnh, uy tín chính trị của Đảng và mỗi đảng viên. Vì vậy Hồ Chí Minh yêu cầu công tác chuẩn bị phải chu đáo, tỉ mỉ, thận trọng, phải xác định được nội dung, phương châm chỉ đạo, hình thức và bước đi cụ thể, tránh nôn nóng, chủ quan, Người nói: “Chỉnh Đảng phải làm từng bước, phải có trọng tâm”.

II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản tác động vào nhận thức và hoạt động thực tiễn ở Việt Nam hiện nay:

     – Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là linh hồn, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn nửa thể kỷ qua. Cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta, nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của toàn dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”[3].

     –  Từ tư tưởng Hồ Chí Minh, đảng đã thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhưng linh hoạt trong từng bối cảnh cụ thể của tình hình trong nước và quốc tế, đưa đến những thành tựu vĩ đại trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.

     –  Vận dụng tư tưởng của Người trong tình hình hiện nay, Đảng ta đã xác định phải xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; gắn xây dựng với chỉnh đốn Đảng. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

  • Đảng đang chỉ đạo xây dựng dự thảo các văn kiện chuẩn bị cho Đại hội XIII của Đảng sẽ tổ chức vào đầu năm 2021. Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội được yêu cầu không chỉ xác định mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong 5 năm (2021-2025), mà còn phải xác định mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030-100 năm thành lập Đảng và tầm nhìn đến giữa thế kỷ XXI (2045)-100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Đây là chỉ đạo có ý nghĩa rất quan trọng, là sự kế thừa, phát huy những bài học kinh nghiệm, truyền thống quý báu của Đảng cộng sản Việt Nam. Xác định tầm nhìn của Đảng về phát triển đất nước đến giữa thế kỷ XXI, từ nay đến mốc thời gian đó là 30 năm, còn qua nhiều nhiệm kỳ Đại hội Đảng, là cơ sở bảo đảm sự kiên định về định hướng phát triển đất nước theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; bảo đảm sự nhất quán, kết nối, kế thừa và phát triển chủ trương, đường lối phát triển đất nước của Đảng qua các kỳ Đại hội và lĩnh hội từ tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản.
  • Tầm nhìn của Đảng về phát triển đất nước đến giữa thế kỷ XXI trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, một mặt, đòi hỏi phải quán triệt các nội dung, quan điểm trong tầm nhìn đã được nêu trong các Cương lĩnh của Đảng và kế thừa các quan điểm về mục tiêu phát triển đất nước trong các nhiệm kỳ Đại hội Đảng vừa qua và tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản; mặt khác, phải thấy được tác động của bối cảnh thế giới hiện nay khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu hóa kinh tế, mặc dù có những trở ngại do sự nổi lên của chủ nghĩa bảo hộ ở một số nước. Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, đã trở thành thành viên của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế, toàn cầu và khu vực (WTO, WB, IMF, AEC, APEC…). Trong bối cảnh đó, việc điều chỉnh, bổ sung một số quy định của luật pháp, cơ chế chính sách, tiêu chuẩn, định mức, tiêu chí đánh giá cho phù hợp với chuẩn mực, thông lệ quốc tế là cần thiết và hợp lý.

III. Giải pháp góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh:

    – Trước yêu cầu của tình hình mới, sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng vào xây dựng Đảng về đạo đức hiện nay được đặt ra như một nhiệm vụ chính trị cấp bách, hệ trọng, phải được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và sự tham gia tích cực của toàn thể nhân dân, bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, thực sự tiêu biểu cho lương tâm, trí tuệ của dân tộc và thời đại:

+)Thứ nhất, nâng cao bản lĩnh chính trị và trí tuệ của Đảng: Bản lĩnh chính trị của Đảng thể hiện ở việc kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vào thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng. Do đó, cần phải thường xuyên bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, truyền thống dân tộc và kiến thức mới của thời đại; giữ vững bản chất giai cấp công nhân; nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, tính chiến đấu của cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp.

+) Thứ hai, tập trung xây dựng Đảng về đạo đức: Theo đó, phải kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng, không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng, tránh xa chủ nghĩa cá nhân. Thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình; coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, bảo vệ chính trị nội bộ.

+) Thứ ba, xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng thực sự là nền tảng và hạt nhân chính trị ở cơ sở: Tổ chức cơ sở đảng có vị trí vai trò hết sức quan trọng, là cầu nối Đảng với quần chúng, nơi trực tiếp tổ chức, hướng dẫn cho quần chúng thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Do vậy, cần khảo sát, đánh giá thực trạng từng tổ chức cơ sở đảng để có biện pháp đổi mới, chỉnh đốn cho phù hợp; nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách và các nguyên tắc của Đảng phải được quán triệt, thực hiện nghiêm túc. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ cán bộ cơ sở, bố trí đúng đội ngũ cán bộ chủ chốt, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, kỹ năng, nghiệp vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp ủy viên cơ sở, nhất là bí thư cấp ủy.

+) Thứ tư, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu vững mạnh: Việc xây dựng đội ngũ cán bộ phải quán triệt tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng: “đừng nhìn gà hoá cuốc”, “đừng thấy đỏ tưởng là chín”, “đừng chỉ thấy cái mã bên ngoài, nó che đậy cái sơ sài  bên trong”. Vì thế, cần đổi mới mạnh mẽ công tác đánh giá cán bộ; không để lọt những người cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, chạy chức, chạy quyền, lợi ích nhóm, … vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; đồng thời, không để sót những cán bộ thực sự có đức, có tài. Tăng cường bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ.

+) Thứ năm, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân: Việc đổi mới phải theo hướng nâng cao năng lực dự báo, tầm chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương; khắc phục tình trạng ban hành nghị quyết không sát thực tiễn, thiếu tính khả thi. Tiếp tục thể chế hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Với Nhà nước, Đảng không buông lỏng lãnh đạo, đồng thời không bao biện làm thay mà phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước trong quản lý đất nước. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng gắn với đổi mới phong cách hoạt động, lề lối làm việc dân chủ, thiết thực, nói và làm thống nhất, khắc phục bệnh quan liêu, tùy tiện, chủ quan, hình thức.

+) Thứ sáu, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát: Các cấp ủy, tổ chức đảng phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng; tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước.

*Đặc biệt, nhất là trong bối cảnh hiện nay nước ta đang chuẩn bị Đại hội Đảng bộ các cấp và trước thềm Đại hội XIII của Đảng, thì việc xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, và thực hiện tốt đại hội XIII của Đảng là vô cùng quan trọng, và cần những giải pháp sau:

+) Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 9/2/2018 của Ban Bí thư khóa XII về “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới gắn với “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, một cách thiết thực, hiệu quả. Trong đó, cấp ủy các cấp, người đứng đầu mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị phải chú trọng nắm chắc tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân để kịp thời nhận diện và kiên quyết phòng, chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, ngăn chặn những diễn biến xấu về tư tưởng, chính trị.

+) Xây dựng các lực lượng chuyên trách, thường trực, tác chiến nhanh, chính xác, làm xoay chuyển tương quan so sánh lực lượng trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, lý luận để thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” gắn với việc tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị nói chung, nâng cao tính hấp dẫn trong dạy và học môn tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng trong hệ thống giáo dục quốc dân, góp phần làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc trong Đảng và trong xã hội.

* Kết luận: Tư tưởng và những chỉ dẫn quý báu của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam là đường hướng, phương châm khoa học, cách mạng, để Đảng và Nhân dân ta xây dựng Đảng của mình trở thành Đảng cách mạng chân chính, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao, đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam đi tới thành công. Trong xu thế mới của đất nước và thời đại đặt ra cho vai trò lãnh đạo của Đảng những nhiệm vụ mới. Đó là lãnh đạo nhân dân thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây vừa là điều kiện thuận lợi nhưng cũng đầy khó khăn thách thức đối với sự lãnh đạo của Đảng. Hơn lúc nào hết, chúng ta phải vận dụng sáng tạo và giữ vững những nguyên tắc trong tư tưởng của Người về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.


[1] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H2002, tr 274.

[2] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H2001, tr 83.

[3] Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.99

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Phân tích các kỹ năng mà luật sư cần sử dụng trong tranh tụng phiên tòa.

Một luật sư tranh tụng giỏi là luật sư hội tụ đầy đủ chuyên môn vững vàng và các kỹ năng vượt trội. Người luật sư cần rèn luyện để sở hữu những kỹ năng cơ bản cho mình như kỹ năng giao tiếp hiệu quả, kỹ năng tranh luận sắc bén,  kỹ năng nghiên cứu và phân tích sâu sắc, kỹ năng đàm phán thuyết phục… Đặc biệt, vai trò của luật sư trong tranh tụng được thể hiện ở các công việc mà luật sư phải làm trong các giai đoạn của quá trình tố tụng: khởi kiện, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, kháng cáo…và cũng trong bất cứ giai đoạn nào của quá trình giải quyết vụ án, luật sư đều có vai trò tư vấn pháp luật. Vì vậy đòi hỏi người luật sư phải có rất nhiều kĩ năng, và để tìm hiểu kĩ hơn về đề tài này em xin chọn đề bài số 2: “Phân tích các kỹ năng mà luật sư cần sử dụng trong tranh tụng phiên tòa.”

I. Chuẩn bị tham gia và kỹ năng tranh tụng tại phiên tòa:

1. Tiếp nhận yêu cầu và trao đổi với khách hàng, sử dụng kĩ năng giao tiếp, đàm phán, thuyết phục của một luật sư:

1.1  Trao đổi nội dung vụ tranh chấp:

Thông qua việc trình bày của khách hàng, luật sư lắng nghe và đặt các câu hỏi gợi ý để khách hàng trình bày đúng bản chất của sự việc một cách vô tư, khách quan, nhằm xác định rõ bản chất sự việc và biết được khách hàng đang quan tâm đến vấn đề gì, yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu có liên quan đến vụ tranh chấp. Cần xác định rõ một số vấn đề như sau:

+) Loại tranh chấp? Các bên trong quan hệ tranh chấp gồm những ai, tư cách như thế nào? Nội dung của tranh chấp?

          +) Yêu cầu cụ thể của khách hàng là gì? Tài liệu, chứng cứ mà khách hàng cung cấp là gì, đánh giá giá trị của chứng cứ đó…

Khách hàng có thể yêu cầu luật sư tư vấn hoặc yêu cầu luật sư đóng vai trò là người bảo vệ quyền lợi hay người đại diện cho họ trong quá trình giải quyết vụ án.

1.2. Quyết định có nên kiện hay không:

Việc khởi kiện hay không khởi kiện thuộc quyền tự định đoạt của các đương sự. Trong nhiều trường hợp đương sự cũng không tự quyết định được có nên khởi kiện hay không. Điều đó ảnh hưởng nhiều đến việc quyết định lợi ích của chính bản thân họ. Tóm lại, các đương sự quan tâm là họ được lợi bao nhiêu hay không được lợi gì trong trường hợp họ khởi kiện ra trước Tòa án. Luật sư phải giúp đương sự thực sự hiểu rõ nếu họ khởi kiện thì khả năng họ được lợi sẽ là bao nhiêu phần trăm cũng như nếu họ không khởi kiện thì quyền và lợi ích hợp pháp của họ sẽ được bảo vệ như thế nào. Luật sư là người không những chỉ nắm bắt pháp luật mà còn hiểu được trạng thái tâm lý khách hàng của mình. Không nên chỉ khởi kiện vì một mục đích là thỏa mãn tính kiêu ngạo và tính hiếu thắng của khách hàng. 

2. Hướng dẫn đương sự viết đơn khởi kiện:

Thông thường đương sự khi viết cho mình một đơn khởi kiện, họ thường bỏ qua các yếu tố về hình thức mà chủ yếu chỉ muốn yêu cầu Tòa án xem xét và giải quyết yêu cầu của mình. Một đơn kiện như thế có thể không bao hàm hết những nội dung mà nguyên đơn muốn trình bày. Đơn kiện đó cũng không có ý nghĩa tạo ra một sự chú ý từ phía Tòa án. Vì vậy, Luật sư phải giúp đương sự viết đơn hoặc tự mình viết đơn cho đương sự để ít nhất một đơn kiện hoàn chỉnh nhất. Sau khi đương sự đã viết xong đơn khởi kiện hoặc Luật sư đã viết xong đơn khởi kiện cho đương sự, Luật sư và đương sự cần ngồi với nhau để xem lại lần cuối cùng trước khi gửi đơn cho Tòa án có thẩm quyền.

3. Hướng nhất đương sự thu thập và cung cấp chứng cứ:

Để chuẩn bị cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình được tốt, đương sự cần chuẩn bị cho mình những chứng cứ cần thiết. Những chứng cứ đó đương sự phải tự mình thu thập. Các chứng cứ mà đương sự có thể tự thu thập được thông thường bao gồm: Các hồ sơ cá nhân mà đương sự thường giữ một bản, ví dụ: các bản hợp đồng, các bản di chúc, giấy chứng nhận kết hôn, giấy khai sinh …

Có một số giấy tờ, tài liệu hoặc chứng cứ đương sự phải tự mình thu thập thông qua các cơ quan chính quyền ở địa phương, ví dụ: giấy xin xác nhận hộ khẩu thường trú, giấy xin xác nhận hoặc chứng nhận về một sự kiện pháp lý nào đó. Trong một vụ án thông thường có rất nhiều loại chứng cứ khác nhau. Luật sư cần hướng dẫn các đương sự nắm bắt được sơ bộ chứng cứ nào là quan trọng đối với việc xem xét và giải quyết vụ án, trên cơ sở đó giúp đương sự tập hợp các chứng cứ lại theo hướng dẫn của mình. 

4. Hướng dẫn đương sự cung cấp chứng cứ cho tòa án:

Sau khi đã thu thập được các chứng cứ cần thiết Luật sư cần hướng dẫn các đương sự cung cấp các chứng cứ cho Tòa án. Về nguyên tắc, các chứng cứ sẽ được lần lượt cung cấp cho Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự. Tuy vậy, cung cấp chứng cứ nào vào thời điểm nào là một quyết định có tính chất chiến lược. Vì vậy cần cân nhắc kỹ cung cấp chứng cứ nào vào thời điểm nào, Luật sư sẽ đóng một vai trò rất quan trọng trong trường hợp này.

5. Luật sư nghiên cứu hồ sơ, sử dụng kĩ năng nghiên cứu và phân tích sâu sắc:

Nghiên cứu hồ sơ trong bối cảnh này để tìm hiểu, xem xét kỹ lưỡng những vấn đề cốt lõi trong hồ sơ, nhằm phục vụ cho việc giải quyết vụ án tranh chấp. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Luật sư phải nắm được các thông tin quan trọng, kiểm tra thông tin, rút ra điểm lợi thế và điểm bất lợi của các bên tranh chấp. Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, Luật sư phải ghi chép những nội dung quan trọng hay sao chép tài liệu và các bút lực cần thiết, hệ thống lại trên cơ sở đánh giá chứng cứ và bổ sung thêm nếu thấy cần thiết. Sau khi nghiên cứu hồ sơ, Luật sư phải kiểm tra, đánh giá những thông tin có được nhằm xác định độ chính xác của thông tin.

Vấn đề này đã đặt ra thách thức ở mức độ ngày càng cao hơn khi bối cảnh nước Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế. Bởi vậy, sự thay đổi hàng loạt các quy định về pháp luật để phù hợp với sân chơi chung của thế giới sẽ càng đòi hỏi người làm luật sư, nhất là luật sư tranh tụng hoạt động phải nhiều hơn để nâng cao kiến thức chuyên ngành và bắt kịp những thay đổi của pháp luật.

6. Chuẩn bị cá nhân của luật sư trong giai đoạn chuẩn bị xét xử:

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Luật sư phải làm việc rất bận rộn. Một mặt, vừa phải chuẩn bị cho khách hàng của mình, một mặt Luật sư phải tự chuẩn bị cho mình. Những phần việc Luật sư cần chuẩn bị cho mình có thể được thể hiện dưới dạng sau:

– Thu thập chứng cứ;

– Nghiên cứu hồ sơ vụ án;

– Nghiên cứu và đánh giá chứng cứ;

– Chuẩn bị đề cương bản luận cứ;

– Làm việc với Tòa án khi cần thiết.

II. Kỹ năng mà luật sư phải sử dụng trong tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm: 

Giai đoạn tranh tụng tại phiên tòa có một ý nghĩa gần như quyết định đối với Luật sư tranh tụng. Trong giai đoạn này Luật sư thể hiện hết tài thao lược của mình, bộc lộ hết các quan điểm và ý tưởng của mình.

1. Luật sư trong giai đoạn xét hỏi:

Giai đoạn xét hỏi tại phiên tòa là giai đoạn điều tra công khai có sự tham gia của tất cả những người tham gia tố tụng. Luật sư cần phải có mặt tại phiên tòa trong suốt thời gian xét xử, trừ trường hợp đặc biệt. Luật sư cần phải chú ý theo dõi quá trình hội đồng xét xử tiến hành thủ tục xét hỏi tại phiên tòa. Về mặt thủ tục, Luật sư có quyền được đặt các câu hỏi để bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của mình bằng cách thông qua các câu trả lời để khẳng định công khai những vấn đề cần phải làm sáng tỏ trong vụ án.

2. Ghi chép diễn biến của phiên tòa:

Khi theo dõi thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, Luật sư cần phải ghi chép đầy đủ lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người đại diện của đương sự, kiểm sát viên, người làm chứng, người giám định, quá trình xem xét vật chứng. Bản ghi chép này là tiền đề để Luật sư đặt các câu hỏi cho thân chủ của mình hoặc cho những người tham gia tố tụng khác để họ tự mình khẳng định công khai trước Tòa những vấn đề cần được làm rõ.

3. Đặt các câu hỏi:

Luật sư có quyền đặt các câu hỏi để yêu cầu thân chủ của mình hoặc những người tham gia tố tụng khác trả lời cho Tòa án nhằm làm rõ những tình tiết quan trọng. Trong những trường hợp khi các câu hỏi của Luật sư được các đương sự trả lời mà Luật sư thấy cần thiết phải nhấn mạnh thì đề nghị HĐXX lưu ý và đề nghị thư ký phiên tòa ghi nhận điều đó vào biên bản phiên tòa. Đối với các câu hỏi dành cho thân chủ của mình, Luật sư không nên đặt ra những vấn đề hóc búa mà trước đó Luật sư chưa có điều kiện trao đổi với thân chủ. Chỉ nên đặt những câu hỏi mà từ trước đó Luật sư đã trao đổi với thân chủ của mình, hai bên đã thống nhất về câu hỏi và câu trả lời.

4. Tranh luận tại phiên tòa:

Trong phần tranh luận nếu có sự tham gia của Luật sư, Luật sư của nguyên đơn sẽ được trình bày quan điểm của mình trước HĐXX. Trong phần tranh luận, khi trình bày quan điểm của mình Luật sư cần nhận định về các tình tiết quan trọng của vụ án, trình bày quá trình đánh giá chứng cứ và khẳng định giá trị chứng minh của các chứng cứ mà Luật sư đã đánh giá. Luôn luôn dùng các văn bản pháp luật làm căn cứ cho những nhận định và kết luận của mình. Trong quá trình tranh luận, thông thường người tham gia tranh luận chỉ có quyền đáp lại ý kiến của người khác một lần đối với mỗi ý kiến mà mình không đồng ý. Khi đáp lại ý kiến mà mình không đồng ý Luật sư nên trình bày ngắn gọn và đi thẳng vào vấn đề đồng thời nếu cần thiết dùng ngay lập luận của họ để phán bác lại.

Trong bất kỳ trường hợp nào thì mục đích của việc tranh luận cũng là để làm sáng tỏ những tình tiết cần chứng minh của vụ án trên cơ sở đó bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng. Không được lồng các ý tưởng mang tính chủ quan hoặc cá nhân để trình bày trong phần tranh luận. Nếu thấy đã tranh luận về các vấn đề nhưng vẫn chưa rõ hoặc chưa khẳng định được những tình tiết chính trong vụ án thì Luật sư có thể đề nghị HĐXX quay trở lại phần thẩm vấn.

5. Sau khi tiến hành phiên tòa sơ thẩm:

Theo quy định của pháp luật, sau khi Toà án tuyên án thì đương sự hoặc người bảo vệ quyền lợi của đương sự có quyền được xem biên bản phiên toà và đề xuất điều chỉnh hoặc bổ sung biên bản phiên toà cho phù hợp (nếu được Toà án cho phép thì tốt, còn nếu không phải lập thành văn bản gửi Toà án), do đó luật sư cùng với khách hàng của mình đề xuất với Toà án được xem biên bản phiên toà và cùng nhau trao đổi, phát hiện những vấn đề cần điều chỉnh, bổ sung. Sau khi tuyên án xong thì không được sửa chữa, bổ sung bản án, trừ trường hợp có lỗi về chính tả, tính toán sai số liệu.

III. Kỹ năng của luật sư trong giai đoạn phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án dân sự:

1. Kỹ năng của Luật sư khi tham gia phúc thẩm.

1.1. Chuẩn bị cho việc tham gia phiên tòa.

Trong thời gian chuẩn bị xét xử của Tòa án, Luật sư phải có những công việc chuẩn bị cho việc bảo vệ quyền lợi cho đương sự. Cụ thể Luật sư có thể đề nghị cho nghiên cứu hồ sơ, qua đó, Luật sư có thể đề nghị với Tòa án áp dụng những biện pháp cần thiết. Về thủ tục hòa giải ở phúc thẩm là không bắt buộc. Tòa án phúc thẩm chỉ tiến hành hòa giải khi có khả năng hòa giải thành. Trong trường hợp nếu hòa giải thành trước khi mở phiên tòa, thì tòa vẫn mở phiên tòa….

1.2. Tham gia phiên tòa.

Sau khi những công việc chuẩn bị hoàn tất, Tòa án cấp phúc thẩm sẽ mở phiên tòa phúc thẩm. Về cơ bản, thủ tục phiên tòa phúc thẩm được tiến hành với các bước giống như phiên tòa sơ thẩm. Do vậy, để việc bảo vệ quyền lợi cho đương sự được tốt, Luật sư cũng phải tham gia phiên tòa với những kỹ năng giống như kỹ năng tham gia phiên tòa sơ thẩm. Ngoài việc chuẩn bị những vấn đề về nội dung của vụ án, Luật sư còn phải theo dõi cả những vấn đề thủ tục của phiên tòa và có ý kiến kịp thời để việc thực hiện những thủ tục đó không làm thiệt hại quyền lợi cho đương sự.

2. Kỹ năng của Luật sư trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm.

Giám đốc thẩm, tái thẩm là thủ tục xét xử đặc biệt, được tiến hành khi bản án, quyết định đã có hiệu lực của pháp luật.

Vì vậy, nếu ở cấp phúc thẩm, Luật sư có quyền tham gia trực tiếp vào quá trình phúc thẩm, thì ở cấp giám đốc thẩm, tái thẩm, Luật sư chỉ có thể giúp đương sự duy nhất trong việc đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm. Trên cơ sở đề nghị này người có thẩm quyền kháng nghị sẽ xem xét và nếu thấy có đủ những căn cứ được quy định trong pháp luật, mới thực hiện quyền kháng nghị.

* Kết luận: Để thực sự trở thành luật sư tranh tụng giỏi là không hề dễ dàng. Vì vậy các luật sư nói chung và luật sư tranh tụng nói riêng luôn phải tự trau dồi, tích lũy kiến thức pháp luật và kỹ năng nghề nghiệp một cách thường xuyên.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về công ty hợp danh và phân tích những ưu điểm, nhược điểm của công ty hợp danh so với các loại hình doanh nghiệp khác.

I. CÔNG TY HỢP DANH

1.1 Khái niệm công ty hợp danh:

Công ty thương mại trên thế giới bao gồm : Công ty đối nhân và công ty đối vốn căn cứ vào sự liên kết và trách nhiệm.

quy định pháp luật hiện hành về công ty hợp danh - Ưu điểm, nhược điểm của công ty hợp danh

Công ty đối nhân thường tồn tại dưới dạng Công ti Hợp danh. Công ti hợp danh là 1 trong những loại công ty ra đời sớm nhất trong lịch sự hình thành công ti trên thế giới. Người ta đã tìm thấy những quy định về sự hợp danh theo nghĩa rộng trong các bộ luật thời cổ đại như Bộ luật Hammurabi của Babylon vào khoảng năm 2300 trước Công nguyên. Cụm từ ‘Hợp danh’ để chỉ sự hợp tác với nhau và khái niệm về công ti hợp danh ra đời cũng dựa trên cụm từ hợp danh. Công ti hợp danh có thể hiểu theo đơn giản là gồm những người tin tưởng nhau, hợp tác với nhau để kinh doanh nhằm thu lại lợi nhuận rồi cùng nhau chia sẻ. Ở châu Âu, Châu Á, tập quán kinh doanh của các thương nhân, sự liên kết những phường, hội người buôn là tiền đề ban đầu hình thành nên những hình thức hợp danh sau này.

 Mỗi quốc gia có có cách quy định khác nhau về công ty hợp danh, nhưng tựu chung lại về bản chất ta đều thấy những biểu hiện sau: Đây là loại hình công ty đối nhân, và yếu tố nhân thân của các thành viên công ty luôn được đặt ra đầu tiên. Công ty có thể có tư cách pháp nhân hoặc không có tùy theo quy định của mỗi nước. Thành viên trong công ty có thể chỉ có thành viên hợp danh hoặc có cả thành viên góp vốn. Nhưng điểm chung trong quy định của pháp luật các nước là không có sự tách bạch về tài sản của công ty với tài sản của các thành viên hợp danh và các thành viên này phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ của công ty. Tóm lại, có thể xây dựng một khái niệm khái quát về công ty hợp danh như sau: Công ty hợp danh là một dạng liên kết mang bản chất đối nhân, thường không có tư cách pháp nhân. Các thành viên trong công ty có thể chỉ có thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn hoặc bao gồm cả thành viên góp vốn chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình vào công ty.

  Theo Luật Doanh nghiệp 2020 thì :

– Công ty hợp danh là doanh nghiệp phải có ít nhất 02 thành viên (là cá nhân) là chủ sở hữu chung của Công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung[3].

– Có hai loại thành viên có thể có trong công ty hợp danh : Thành viên hợp danh và thành viên góp vốn.

 – Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Ngoài thành viên hợp danh, công ty có thể có thêm thành viên góp vốn. Thành viên góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty[3].

 – Công ty Hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp[3].

 – Hiện nay tại Việt Nam và trên thế giới có 2 loại công ty Hợp danh :

 + Loại thứ nhất : Công ti hợp danh chỉ toàn các thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới đối với công ti; có quyền quản lý và đại diện cho công ti. Khi công ti không có khả năng thanh toán nợ thì mỗi thành viên hợp danh chịu trách nhiệm liên đới bằng tài sản của mình. Chủ nợ có quyền yêu cầu bất kì thành viên hợp danh nào của công ti trả nợ nếu công ti không trả được và có thể yêu cầu áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với tài sản cá nhân của thành viên[1].

 + Loại thứ hai :Công ti hợp danh hữu hạn gồm 2 loại thành viên : Thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn, có quyền quản lý và đại diện cho công ti. Thành viên góp vốn chịu trách nhiệm hữu hạn, không có quyền quản lý công ty và không có quyền đại diện cho công ti. Công ti này cho phép 1 thương nhân có ý tưởng kinh doanh nhưng không có vốn được tận dụng vốn của thành viên góp vốn (người nắm giữ vốn những không tự thực hiện được hoạt động thương mai do Luật định).

1.2 Đặc Điểm của công ty hợp danh

1.2.1 Thành viên công ty hợp danh

Công ty hợp danh phải có tối thiểu 2 thành viên là chủ sở hữu chung công ty gọi là thành viên hợp danh. Ngoài ra có thể có thành viên góp vốn.

Thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác, trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại[3].

Thành viên hợp danh không được quyền nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề kinh doanh của công ty đó để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác.

Thành viên hợp danh không được quyền chuyển một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác nếu không được sự chấp thuận của các thành viên hợp danh còn lại.

1.2.2 Thực hiện góp vốn và cấp giấy chứng nhận phần vốn góp

– Thành viên hợp danh và thành viên góp vốn phải góp đủ và đúng hạn số vốn như đã cam kết.

– Thành viên hợp danh không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết gây thiệt hại cho công ty phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho công ty.

– Thành viên góp vốn không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết thì số vốn chưa góp đủ được coi là khoản nợ của thành viên đó đối với công ty; trong trường hợp này, thành viên góp vốn có liên quan có thể bị khai trừ khỏi công ty theo quyết định của Hội đồng thành viên.

– Tại thời điểm góp đủ vốn như đã cam kết, thành viên được cấp giấy chứng nhận phần vốn góp

1.2.3 Tài sản của công ty hợp danh

Tài sản của công ty hợp danh bao gồm:

– Tài sản góp vốn của các thành viên đã được chuyển quyền sở hữu cho công ty;

– Tài sản tạo lập được mang tên công ty;

– Tài sản thu được từ hoạt động kinh doanh do các thành viên hợp danh thực hiện nhân danh công ty và từ các hoạt động kinh doanh của công ty do các thành viên hợp danh nhân danh cá nhân thực hiện;

– Các tài sản khác theo quy định của pháp luật.

1.2.4 Đại diện theo pháp luật và điều hành kinh doanh 

Các thành viên hợp danh có quyền đại diện theo pháp luật và tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty. Mọi hạn chế đối với thành viên hợp danh trong thực hiện công việc kinh doanh hằng ngày của công ty chỉ có hiệu lực đối với bên thứ ba khi người đó được biết về hạn chế đó.

Trong điều hành hoạt động kinh doanh công ty hợp danh, thành viên hợp danh phân công nhau đảm nhiệm các chức danh quản lý và kiểm soát công ty.

Khi một số hoặc tất cả thành viên hợp danh cùng thực hiện một số công việc kinh doanh thì quyết định được thông qua theo nguyên tắc đa số.

Hoạt động do thành viên hợp danh thực hiện ngoài phạm vi hoạt động kinh doanh của công ty đều không thuộc trách nhiệm của công ty, trừ trường hợp hoạt động đó đã được các thành viên còn lại chấp thuận.

1.2.5 Ưu, nhược điểm của công ty hợp danh:

Công ti hợp danh
Ưu điểmNhược điểm
Công ty hợp danh yêu cầu phải có ít nhất 02 thành viên là chủ sở hữu, cùng kinh doanh dưới một tên chung – thành viên hợp danh. công ty hợp danh sẽ kết hợp được uy tín cá nhân của nhiều người, dễ dàng tạo được sự tin cậy với đối tác kinh doanh.Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty nên mức độ rủi ro của các thành viên hợp danh là rất cao.  
việc quản lý công ty không quá phức tạp do số lượng các thành viên ít và là những người đã có mối liên hệ mật thiết với nhau trước đó. Cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, dễ quản lý. Thích hợp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.  Dù có tư cách pháp nhân nhưng công ty hợp danh không được phát hành bất kì loại chứng khoán nào. Việc huy động vốn của công ty sẽ bị hạn chế, các thành viên chỉ có thể góp thêm tài sản của mình hoặc tiếp nhận thành viên mới.  
Thành viên hợp danh là những cá nhân có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp cao. Tạo sự tin cậy cho đối tác.  Do chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô hạn nên mức độ rủi ro của các thành viên hợp danh là rất cao.  
Ngân hàng dễ cho vay vốn và hoãn nợ hơn. Do chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp danh.  Thành viên hợp danh rút khỏi công ty vẫn phải chịu trách nhiệm. Đối với các khoản nợ của công ty hợp danh. Phát sinh từ những cam kết của công ty. Trước khi thành viên đó rút khỏi công ty.  
Nếu điều lệ công ty không có quy định khác, thành viên hợp danh trong công ty hợp danh mặc nhiên được xem là có quyền ngang nhau trong việc quyết định các vấn đề của công ty, mà không quan trọng việc vốn góp của ai nhiều hơnCông ty hợp danh không có sự phân biệt rõ ràng giữa tài sản công ty và tài sản cá nhân  
Tuy công ty hợp danh có chế độ trách nhiệm vô hạn, nhưng pháp luật lại quy định công ty hợp danh có tư cách pháp nhân. Điều này sẽ dẫn đến sự mâu thuẫn với quy định tại khoản 3 điều 84 Bộ 13 luật dân sự (Pháp nhân phải có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó).
Đối với những ngành nghề có tính chất đặc thù, đòi hỏi trách nhiệm cao của người hành nghề như y tế, tư vấn pháp lý, kiểm toán… thì loại hình công ty hợp danh rất phù hợp.Tất cả những thành viên hợp danh đều phải có những chứng chỉ hành nghề giống nhau (đối với ngành nghề có chứng chỉ) vì các thành viên hợp danh đều là đại diện theo pháp luật của công ty (trong khi các công ty khác luật chỉ đòi hỏi một số thành viên có chứng chỉ là được (đối với các ngành nghề kinh doanh có điều kiện hay pháp luật quy định).
Theo quy định tại Điều 130 Luật Doanh nghiệp, thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối về các nghĩa vụ của công ty. Như vậy, pháp nhân sẽ không thể trở thành thành viên của công ty hợp danh.

II. NHỮNG QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY HỢP DANH:

2.1 Thành lập công ti hợp danh

Pháp luật Việt Nam quy định điều kiện thành lập công ty hợp danh cũng là điều kiện chung cho các doanh nghiệp khác. Những yếu tố liên quan đến nhân thân người thành lập như độ tuổi, năng lực hành vi dân sự, nghề nghiệp được quy định cụ thể trong Bộ luật Dân sự, luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn khác. Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự; người đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị Tòa án cấm hành nghề kinh doanh không được phép tham gia thành lập doanh nghiệp. Độ tuổi theo quy định của pháp luật có đầy đủ khả năng chịu trách nhiệm trước các hợp đồng do mình ký kết là 18 tuổi

 Người thành lập công ty phải làm hồ sơ đăng ký kinh doanh, chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của nội dung hồ sơ, sau đó nộp tại cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền (phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh hoặc tương đương nơi doanh nghiệp có trụ sở chính

2.2 Thành viên

Điều 180. Hạn chế quyền đối với thành viên hợp danh

1. Thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân; không được làm thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại.

2. Thành viên hợp danh không được nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác kinh doanh cùng ngành, nghề kinh doanh của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác.

3. Thành viên hợp danh không được chuyển một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình tại công ty cho tổ chức, cá nhân khác nếu không được sự chấp thuận của các thành viên hợp danh còn lại.

Điều 181. Quyền và nghĩa vụ của thành viên hợp danh

1. Thành viên hợp danh có quyền sau đây:

a) Tham gia họp, thảo luận và biểu quyết về các vấn đề của công ty; mỗi thành viên hợp danh có một phiếu biểu quyết hoặc có số phiếu biểu quyết khác quy định tại Điều lệ công ty;

b) Nhân danh công ty kinh doanh các ngành, nghề kinh doanh của công ty; đàm phán và ký kết hợp đồng, giao dịch hoặc giao ước với những điều kiện mà thành viên hợp danh đó cho là có lợi nhất cho công ty;

c) Sử dụng tài sản của công ty để kinh doanh các ngành, nghề kinh doanh của công ty; trường hợp ứng trước tiền của mình để kinh doanh cho công ty thì có quyền yêu cầu công ty hoàn trả lại cả số tiền gốc và lãi theo lãi suất thị trường trên số tiền gốc đã ứng trước;

d) Yêu cầu công ty bù đắp thiệt hại từ hoạt động kinh doanh trong phạm vi nhiệm vụ được phân công nếu thiệt hại đó xảy ra không phải do sai sót cá nhân của thành viên đó;

đ) Yêu cầu công ty, thành viên hợp danh khác cung cấp thông tin về tình hình kinh doanh của công ty; kiểm tra tài sản, sổ kế toán và tài liệu khác của công ty khi thấy cần thiết;

e) Được chia lợi nhuận tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp hoặc theo thỏa thuận quy định tại Điều lệ công ty;

g) Khi công ty giải thể hoặc phá sản, được chia giá trị tài sản còn lại tương ứng theo tỷ lệ phần vốn góp vào công ty nếu Điều lệ công ty không quy định một tỷ lệ khác;

h) Trường hợp thành viên hợp danh chết thì người thừa kế của thành viên được hưởng phần giá trị tài sản tại công ty sau khi đã trừ đi phần nợ và nghĩa vụ tài sản khác thuộc trách nhiệm của thành viên đó. Người thừa kế có thể trở thành thành viên hợp danh nếu được Hội đồng thành viên chấp thuận;

i) Quyền khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty.

2. Thành viên hợp danh có nghĩa vụ sau đây:

a) Tiến hành quản lý và thực hiện hoạt động kinh doanh một cách trung thực, cẩn trọng và tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp tối đa cho công ty;

b) Tiến hành quản lý và thực hiện hoạt động kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật, Điều lệ công ty và nghị quyết, quyết định của Hội đồng thành viên; nếu làm trái quy định tại điểm này, gây thiệt hại cho công ty thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại;

c) Không được sử dụng tài sản của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác;

d) Hoàn trả cho công ty số tiền, tài sản đã nhận và bồi thường thiệt hại gây ra đối với công ty trong trường hợp nhân danh công ty, nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác để nhận tiền hoặc tài sản khác từ hoạt động kinh doanh của công ty mà không đem nộp cho công ty;

đ) Liên đới chịu trách nhiệm thanh toán hết số nợ còn lại của công ty nếu tài sản của công ty không đủ để trang trải số nợ của công ty;

e) Chịu khoản lỗ tương ứng với phần vốn góp vào công ty hoặc theo thỏa thuận quy định tại Điều lệ công ty trong trường hợp công ty kinh doanh bị lỗ;

g) Định kỳ hằng tháng báo cáo trung thực, chính xác bằng văn bản tình hình và kết quả kinh doanh của mình với công ty; cung cấp thông tin về tình hình và kết quả kinh doanh của mình cho thành viên có yêu cầu;

h) Nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty.

2.3 Vốn-tài sản

Điều 179. Tài sản của công ty hợp danh

1. Tài sản góp vốn của các thành viên đã được chuyển quyền sở hữu cho công ty;

2. Tài sản tạo lập được mang tên công ty;

3. Tài sản thu được từ hoạt động kinh doanh do thành viên hợp danh thực hiện nhân danh công ty và từ hoạt động kinh doanh của công ty do thành viên hợp danh nhân danh cá nhân thực hiện;

4. Tài sản khác theo quy định của pháp luật.

Điều 178. Thực hiện góp vốn và cấp giấy chứng nhận phần vốn góp

1. Thành viên hợp danh và thành viên góp vốn phải góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết.

2. Thành viên hợp danh không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết gây thiệt hại cho công ty phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho công ty.

3. Trường hợp có thành viên góp vốn không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết thì số vốn chưa góp đủ được coi là khoản nợ của thành viên đó đối với công ty; trong trường hợp này, thành viên góp vốn có liên quan có thể bị khai trừ khỏi công ty theo quyết định của Hội đồng thành viên.

4. Tại thời điểm góp đủ số vốn đã cam kết, thành viên được cấp giấy chứng nhận phần vốn góp. Giấy chứng nhận phần vốn góp phải bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây:

a) Tên, mã số doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính của công ty;

b) Vốn điều lệ của công ty;

c) Tên, địa chỉ liên lạc, quốc tịch, số giấy tờ pháp lý của cá nhân đối với thành viên là cá nhân; tên, mã số doanh nghiệp hoặc số giấy tờ pháp lý của tổ chức, địa chỉ trụ sở chính đối với thành viên là tổ chức; loại thành viên;

d) Giá trị phần vốn góp và loại tài sản góp vốn của thành viên;

đ) Số và ngày cấp giấy chứng nhận phần vốn góp;

e) Quyền và nghĩa vụ của người sở hữu giấy chứng nhận phần vốn góp;

g) Họ, tên, chữ ký của người sở hữu giấy chứng nhận phần vốn góp và của các thành viên hợp danh của công ty.

5. Trường hợp giấy chứng nhận phần vốn góp bị mất, bị hư hỏng hoặc bị hủy hoại dưới hình thức khác, thành viên được công ty cấp lại giấy chứng nhận phần vốn góp.

2.4 Tổ chức, quản lý của công ty hợp danh.

Điều 182. Hội đồng thành viên

1. Hội đồng thành viên bao gồm tất cả thành viên. Hội đồng thành viên bầu một thành viên hợp danh làm Chủ tịch Hội đồng thành viên, đồng thời kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty nếu Điều lệ công ty không có quy định khác.

2. Thành viên hợp danh có quyền yêu cầu triệu tập họp Hội đồng thành viên để thảo luận và quyết định công việc kinh doanh của công ty. Thành viên yêu cầu triệu tập họp phải chuẩn bị nội dung, chương trình và tài liệu họp.

3. Hội đồng thành viên có quyền quyết định tất cả công việc kinh doanh của công ty. Nếu Điều lệ công ty không quy định thì quyết định các vấn đề sau đây phải được ít nhất ba phần tư tổng số thành viên hợp danh tán thành:

a) Định hướng, chiến lược phát triển công ty;

b) Sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty;

c) Tiếp nhận thêm thành viên mới;

d) Chấp thuận thành viên hợp danh rút khỏi công ty hoặc quyết định khai trừ thành viên;

đ) Quyết định dự án đầu tư;

e) Quyết định việc vay và huy động vốn dưới hình thức khác, cho vay với giá trị từ 50% vốn điều lệ của công ty trở lên, trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định một tỷ lệ khác cao hơn;

g) Quyết định mua, bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn vốn điều lệ của công ty, trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định một tỷ lệ khác cao hơn;

h) Thông qua báo cáo tài chính hằng năm, tổng số lợi nhuận được chia và số lợi nhuận chia cho từng thành viên;

i) Quyết định giải thể; yêu cầu phá sản công ty.

4. Quyết định về vấn đề khác không quy định tại khoản 3 Điều này được thông qua nếu được ít nhất hai phần ba tổng số thành viên hợp danh tán thành; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định.

5. Quyền tham gia biểu quyết của thành viên góp vốn được thực hiện theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty.

Điều 183. Triệu tập họp Hội đồng thành viên

1. Chủ tịch Hội đồng thành viên có thể triệu tập họp Hội đồng thành viên khi xét thấy cần thiết hoặc theo yêu cầu của thành viên hợp danh. Trường hợp Chủ tịch Hội đồng thành viên không triệu tập họp theo yêu cầu của thành viên hợp danh thì thành viên đó triệu tập họp Hội đồng thành viên.

2. Thông báo mời họp Hội đồng thành viên có thể gửi bằng giấy mời, điện thoại, fax, phương tiện điện tử hoặc phương thức khác do Điều lệ công ty quy định. Thông báo mời họp phải nêu rõ mục đích, yêu cầu và nội dung họp, chương trình và địa điểm họp, tên thành viên yêu cầu triệu tập họp.

Các tài liệu thảo luận được sử dụng để quyết định các vấn đề quy định tại khoản 3 Điều 182 của Luật này phải được gửi trước đến tất cả thành viên; thời hạn gửi trước do Điều lệ công ty quy định.

3. Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc thành viên yêu cầu triệu tập họp chủ tọa cuộc họp. Cuộc họp Hội đồng thành viên phải được ghi biên bản, bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây:

a) Tên, mã số doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính;

b) Thời gian, địa điểm họp;

c) Mục đích, chương trình và nội dung họp;

d) Họ, tên chủ tọa, thành viên dự họp;

đ) Ý kiến của thành viên dự họp;

e) Nghị quyết, quyết định được thông qua, số thành viên tán thành, không tán thành, không có ý kiến và nội dung cơ bản của nghị quyết, quyết định đó;

g) Họ, tên, chữ ký của các thành viên dự họp.

Điều 184. Điều hành kinh doanh của công ty hợp danh

1. Các thành viên hợp danh là người đại diện theo pháp luật của công ty và tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty. Mọi hạn chế đối với thành viên hợp danh trong thực hiện công việc kinh doanh hằng ngày của công ty chỉ có hiệu lực đối với bên thứ ba khi người đó được biết về hạn chế đó.

2. Trong điều hành hoạt động kinh doanh của công ty, thành viên hợp danh phân công nhau đảm nhiệm các chức danh quản lý và kiểm soát công ty.

Khi một số hoặc tất cả thành viên hợp danh cùng thực hiện một số công việc kinh doanh thì quyết định được thông qua theo nguyên tắc đa số chấp thuận.

Hoạt động do thành viên hợp danh thực hiện ngoài phạm vi hoạt động kinh doanh của công ty đều không thuộc trách nhiệm của công ty, trừ trường hợp hoạt động đó đã được các thành viên còn lại chấp thuận.

3. Công ty có thể mở một hoặc một số tài khoản tại ngân hàng. Hội đồng thành viên chỉ định thành viên được ủy quyền gửi và rút tiền từ các tài khoản đó.

4. Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc có các nghĩa vụ sau đây:

a) Quản lý và điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty với tư cách là thành viên hợp danh;

b) Triệu tập và tổ chức họp Hội đồng thành viên; ký nghị quyết, quyết định của Hội đồng thành viên;

c) Phân công, phối hợp công việc kinh doanh giữa các thành viên hợp danh;

d) Tổ chức sắp xếp, lưu giữ đầy đủ và trung thực sổ kế toán, hóa đơn, chứng từ và các tài liệu khác của công ty theo quy định của pháp luật;

đ) Đại diện cho công ty với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án; đại diện cho công ty thực hiện quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật;

e) Nghĩa vụ khác do Điều lệ công ty quy định.

2.5 Giải thể và phá sản công ti

Công ty hợp danh ra đời do sự thỏa thuận của các thành viên, do đó việc kết thúc thời hạn hoạt động của công ty ghi trong điều lệ công ty là một trong các trường hợp dẫn đến sự kiện pháp lý là giải thể công ty. Nếu hết thời hạn theo thỏa thuận ghi trong điều lệ mà các thành viên không thỏa thuận thêm và không xin gia hạn thì công ty sẽ bị giải thể

Một trong những điều kiện thành lập công ty hợp danh là phải có ít nhất hai thành viên hợp danh trở lên. Do đó, nếu trong quá trình hoạt động công ty không đủ số thành viên theo quy định cũng sẽ phải giải thể. Cũng như các doanh nghiệp khác, công ty hợp danh bị giải thể khi bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi giấy phép kinh doanh. Đây là trường hợp giải thể bắt buộc

Một trong những điều kiện để tiến hành thủ tục giải thể công ty hợp danh là các khoản nợ của công ty phải được thanh toán hết. Nếu như các thành viên hợp danh đã dùng hết tài sản riêng của mình để thanh toán nhưng vẫn không trả hết nợ thì bắt buộc phải chuyển sang thủ tục phá sản công ty.

III. THỰC TRẠNG CÔNG TI HỢP DANH TẠI VIỆT NAM:

Hiện nay, các công ty hợp danh chủ yếu hoạt động trong một số lĩnh vực như pháp luật, kiểm toán, vận tải công nghệ: như mua bán thiết bị phần mềm, thiết bị nghiên cứu khoa học; nghiên cứu tư vấn phát triển công nghệ, thương mại; sản xuất, mua bán sản phẩm nhựa, hàng hóa là nông sản thực phẩm, thủ công mỹ nghệ, mua bán sản phẩm sinh học, hóa chất như thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật… Tuy nhiên phổ biến nhất là hai lĩnh vực tư vấn luật và kiểm toán. Mặc dù có những công ty hợp danh đang hoạt động rất hiệu quả với mô hình có thành viên góp vốn hoặc chỉ có thành viên hợp danh, song số lượng ít ỏi các công ty hợp danh đang hoạt động cho chúng ta thấy, công ty hợp danh không được các nhà đầu tư ưu tiên lựa chọn ở Việt Nam. Rõ ràng, với những ưu thế của mình, công ty hợp danh đã rất phát triển ở các nước, nhưng ở Việt Nam thì ngược lại. Nguyên nhân nào dẫn đến thực trạng đáng buồn như vậy?

Bên cạnh những nguyên nhân khách quan như tâm lý e dè của nhà đầu tư trước những cái mới, hay là mô hình công ty kén chọn lĩnh vực kinh doanh, hay những nguyên nhân tự thân của loại hình công ty đối nhân, thì nguyên nhân cơ bản vẫn là sự bất cập của pháp luật hiện hành. Việc phân tích làm rõ ràng các nguyên nhân sẽ giúp chúng ta tìm ra giải pháp tốt để công ty phát huy được vai trò và vị thế của mình trong nền kinh tế.

Thứ nhất, việc liên đới chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của công ty dẫn đến nhiều rủi ro cho thành viên hợp danh hơn so với việc làm thành viên của công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Đây là nguyên nhân tự thân của loại hình công ty mang bản chất đối nhân. Sự khắt khe trong chế độ trách nhiệm buộc các nhà đầu tư phải cân nhắc tính toán kỹ lưỡng trước khi có quyết định tham gia công ty. Hơn nữa, điều kiện để trở thành thành viên hợp danh đối với những công ty kinh doanh những ngành nghề có tính chất đặc thù, đòi hỏi trách nhiệm cao của người hành nghề như y tế, tư vấn pháp lý, kiểm toán… là phải có chứng chỉ hành nghề. Việc tìm được chủ thể vừa thân thiết, vừa cùng có chuyên môn, chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật, lại vừa đồng lòng san sẻ rủi ro trên thực tế không hề đơn giản. Thứ hai, những bất cập về môi trường pháp lý đã khiến cho công ty hợp danh bị thực tiễn từ chối. Không thể phủ nhận vai trò của Luật Doanh nghiệp trong việc thúc đẩy các doanh nghiệp phát 15 triển, ngày càng tạo điều kiện thông thoáng hơn về mặt pháp lý cho các doanh nghiệp phát huy hết khả năng trong môi trường kinh doanh. Tuy nhiên, vẫn còn những quy định bất hợp lý của pháp luật khiến cho loại hình này chưa được nhân rộng trên thị trường. Đặc biệt là chính sách thuế đối với công ty và thành viên công ty. Xét về mặt thực tiễn kinh doanh hiện nay, rõ ràng chúng ta thấy khoản thu nhập thuộc đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân đã phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp do công ty mang tư cách pháp nhân nhưng thành viên không được hưởng quy chế dành cho thành viên trong tổ chức có tư cách pháp nhân. Sự khó khăn này khiến cho các thành viên hợp danh buộc phải cân nhắc lại loại hình công ty và địa vị pháp lý của mình trong công ty để đảm bảo hiệu quả kinh doanh cao nhất. Thứ ba, về điều kiện trở thành thành viên hợp danh. Điểm b khoản 1 Điều 130 Luật Doanh nghiệp quy định thành viên hợp danh bắt buộc phải là cá nhân. Do đó pháp nhân không thể tham gia thành lập hoặc trở thành thành viên hợp danh của công ty này. Thành viên hợp danh theo pháp luật thương mại Pháp, Mỹ không hạn chế là cá nhân, mà còn bao gồm cả pháp nhân. Từ đó có thể hình thành mô hình kinh doanh kết hợp, cho phép tránh được trách nhiệm vô hạn của cá nhân thành viên mà vẫn có thể khai thác được những điểm mạnh của công ty hợp danh. Ví dụ: một công ty hợp danh có tất cả các thành viên hợp danh là pháp nhân song thực ra, việc điều hành công ty do các cá nhân là người đứng đầu pháp nhân thành viên thực hiện.

Vì thế mà mặc dù quy trình, thủ tục thành lập công ty hợp danh ở Pháp rất nghiêm ngặt, song công ty hợp danh vẫn chiếm một số lượng đáng kể trong nền kinh tế Pháp

Công ty hợp danh đã không còn mới mẻ và xa lạ gì đối với nhận thức chung của xã hội cũng như đối với giới kinh doanh nước ta. Tồn tại trên phương diện lý luận hơn chục năm, trên thực tiễn khoảng 6, 7 năm nhưng số lượng công ty hợp danh đang hoạt động vẫn không vượt quá con số 30.

Để công ty hợp danh thực sự trở thành mô hình kinh doanh phát huy vai trò và tác dụng đối với nền kinh tế cần phải có một nền tảng pháp lý ổn định và vững chắc. Việc tiếp tục sửa đổi bổ sung pháp luật liên quan đến công ty hợp danh để công ty hợp danh thực sự trở nên hấp dẫn trong mắt các nhà đầu tư, góp phần 17 đa dạng hóa các hình thức kinh tế, tạo lập được một cơ chế góp vốn linh hoạt mềm dẻo, qua đó góp phần thúc đẩy kinh tế – xã hội nói chung là việc làm hết sức cần thiết. Trên quan điểm đó, luận văn đã đi vào nghiên cứu đề tài này với các nhiệm vụ chủ yếu là phân tích về mặt lý luận các đặc điểm pháp lý chủ yếu của công ty hợp danh, từ đó nêu lên những mặt mạnh, ưu thế của loại hình doanh nghiệp này so với các loại hình doanh nghiệp khác.

Đồng thời trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động của loại hình doanh nghiệp này để chỉ ra những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành, từ đó đề xuất một số giải pháp cụ thể cho việc hoàn thiện khung pháp lý về doanh nghiệp nói chung và công ty hợp danh nói riêng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Luật thương mại Việt Nam, NXB Tư Pháp năm

2. Luật thương mại Việt Nam 2014

3. Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2020

4. Luận văn ThS ngành: Luật Kinh tế; Mã số: 60 38 50 Nguyễn Thị Thùy Giang

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Nghiên cứu thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp tư nhân theo quy định của Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội.

Nghiên cứu thủ tục hành chính đăng ký thành nghiệp doanh nghiệp tư nhân dưới đây theo quy định của Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội  (Nguồn: Cồng thông tin điện tử của Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp tư nhân

I. Trình tự thực hiện đăng ký thành lập doanh nghiệp tư nhân

Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ:

– Công dân, tổ chức: nộp hồ sơ tại Bộ phận “một cửa” hoặc nộp hồ sơ trực tuyến qua mạng điện tử, nộp phí, lệ phí (nếu có) và nhận giấy biên nhận giải quyết hồ sơ.

– Phòng Đăng ký kinh doanh Sở KH&ĐT: tiếp nhận hồ sơ, trả giấy biên nhận cho công dân, tổ chức; Trường hợp nộp hồ sơ trực tuyến qua mạng điện tử Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp Quốc gia tự động gửi giấy biên nhận cho công dân, tổ chức theo địa chỉ email đã đăng ký.

Bước 2: Giải quyết hồ sơ:

+ Phòng Đăng ký kinh doanh thụ lý hồ sơ, xin ý kiến của các cơ quan liên quan (nếu cần) trong quá trình giải quyết.

+ Hoàn tất kết quả giải quyết hồ sơ và chuyển cho Bộ phận một cửa phòng ĐKKD để trả cho công dân, doanh nghiệp.

Bước 3: Trả kết quả giải quyết hồ sơ:

+ Công dân nhận kết quả giải quyết hồ sơ tại bộ phận “một cửa” phòng ĐKKD hoặc qua đường bưu điện (nếu có đăng ký dịch vụ).

II. Cách thức thực hiện

– Nộp hồ sơ trực tiếp tại Bộ phận “một cửa” phòng ĐKKD của Sở KH&ĐT: Tầng 3, Nhà B10A – Khu đô thị Nam Trung Yên, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội;

– Hoặc nộp hồ sơ trực tuyến qua mạng điện tử tại Cổng Thông tin Đăng ký doanh nghiệp Quốc gia theo địa chỉ: https://dangkykinhdoanh.gov.vn

III. Thành phần, số lượng hồ sơ

a) Thành phần hồ sơ, bao gồm:

1. Giấy đề nghị Đăng ký doanh nghiệp (đã ghép nội dung công bố thông tin);

2. Bản sao hợp lệ một trong các giấy tờ chứng thực cá nhân quy định tại Điều 10 Nghị định 78/2015/NĐ-CP của chủ sở hữu công ty;

3. Cam kết thực hiện Mục tiêu xã hội, môi trường (đối với DN xã hội);

4. Quyết định của cơ quan có thẩm quyền cho phép chuyển cơ sở bảo trợ xã hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện thành Doanh nghiệp xã hội. (đối với trường hợp chuyển cơ sở bảo trợ xã hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện thành Doanh nghiệp xã hội);

5. Trường hợp người có thẩm quyền ký văn bản đề nghị đăng ký doanh nghiệp ủy quyền cho tổ chức, cá nhân khác thực hiện thủ tục liên quan đến đăng ký doanh nghiệp thì người được ủy quyền phải nộp bản sao hợp lệ một trong các giấy tờ chứng thực cá nhân (1. Đối với công dân Việt Nam: Thẻ căn cước công dân hoặc Chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu Việt Nam còn hiệu lực. 2. Đối với người nước ngoài: Hộ chiếu nước ngoài hoặc giấy tờ có giá trị thay thế hộ chiếu nước ngoài còn hiệu lực), kèm theo:

1. Bản sao hợp lệ hợp đồng cung cấp dịch vụ với tổ chức làm dịch vụ thực hiện thủ tục liên quan đến đăng ký doanh nghiệp và giấy giới thiệu của tổ chức đó cho cá nhân trực tiếp thực hiện thủ tục liên quan đến đăng ký doanh nghiệp; hoặc

2. Văn bản ủy quyền cho cá nhân thực hiện thủ tục liên quan đến đăng ký doanh nghiệp. Văn bản này không bắt buộc phải công chứng, chứng thực.

b) Số lượng hồ sơ: 01 (bộ)

IV. Mẫu đơn, mẫu tờ khai

1. Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp (Phụ lục I-1, Thông tư số 02/2019/TT-BKHĐT ngày 08/01/2019 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư);

2. Cam kết thực hiện Mục tiêu xã hội, môi trường (theo Biểu mẫu 1, Thông tư số 04/2016/TT- BKHĐT ngày 17/05/2016 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư) ;

V. Thời hạn giải quyết

03 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ

VI. Đối tượng thực hiện TTHC

Tổ chức /cá nhân

VII. Cơ quan thực hiện TTHC

a) Cơ quan trực tiếp thực hiện TTHC và có thẩm quyền quyết định: Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội.

b) Cơ quan hoặc người có thẩm quyền được uỷ quyền hoặc phân cấp thực hiện (nếu có): /;’không

c) Cơ quan phối hợp (nếu có): Các cơ quan liên quan (các Bộ, các Sở, Ngành, UBND quận, huyện…).

VIII. Kết quả giải quyết TTHC

Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp tư nhân

IX. Phí, lệ phí

Lệ phí: 100.000 VNĐ (Miễn lệ phí đối với trường hợp Doanh nghiệp thực hiện đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử);

Phí công bố thông tin: Miễn phí

XI. Các yêu cầu khác trong giải quyết TTHC

Khi nhận kết quả giải quyết hồ sơ, người đến nhận phải mang các giấy tờ sau:

– Giấy biên nhận giải quyết hồ sơ.

– Trường hợp người có thẩm quyền ký văn bản đề nghị đăng ký doanh nghiệp ủy quyền cho tổ chức, cá nhân khác đến nhận kết quả giải quyết hồ sơ thì người được ủy quyền phải nộp bản sao hợp lệ một trong các giấy tờ chứng thực cá nhân (1. Đối với công dân Việt Nam: Thẻ căn cước công dân hoặc Chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu Việt Nam còn hiệu lực. 2. Đối với người nước ngoài: Hộ chiếu nước ngoài hoặc giấy tờ có giá trị thay thế hộ chiếu nước ngoài còn hiệu lực.), kèm theo:

1. Bản sao hợp lệ hợp đồng cung cấp dịch vụ với tổ chức làm dịch vụ thực hiện thủ tục liên quan đến đăng ký doanh nghiệp và giấy giới thiệu của tổ chức đó cho cá nhân trực tiếp thực hiện thủ tục liên quan đến đăng ký doanh nghiệp; hoặc

2. Văn bản ủy quyền cho cá nhân thực hiện thủ tục liên quan đến đăng ký doanh nghiệp. Văn bản này không bắt buộc phải công chứng, chứng thực.

– Công dân, tổ chức có thể đăng ký để nhận kết quả giải quyết hồ sơ qua đường bưu điện.

XII. Căn cứ pháp lý liên quan của TTHC

1/ Các Luật:

– Luật Doanh nghiệp 2014;

– Luật Đầu tư năm 2014;

2/ Các văn bản của Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương:

– Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 về đăng ký doanh nghiệp; Nghị định số 108/2018/NĐ-CP ngày 23/8/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 về đăng ký doanh nghiệp;

– Nghị định 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp;

– Nghị định số 05/1999/NĐ-CP ngày 03/02/1999 về Chứng minh nhân dân; Nghị định số 170/2007/NĐ-CP ngày 19/11/2007 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 05/1999/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 1999 của Chính phủ về Chứng minh nhân dân. Nghị định 106/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 17/9/2013 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 05/1999/NĐ-CP ngày 03/02/1999 của Chính phủ về Chứng minh nhân dân đã được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định 170/2007/NĐ-CP ngày 19/11/2007 của Chính phủ;

– Thông tư số 215/2016/TT-BTC ngày 10/11/2016 của Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí cung cấp thông tin doanh nghiệp, lệ phí đăng ký doanh nghiệp; Thông tư số 130/2017/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 04/12/2017 sửa đổi bổ sung một số điều của Thông tư số 215/2016/TT-BTC;

– Thông tư số 20/2015 /TT-BKHĐT ngày 01/12/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn về đăng ký doanh nghiệp.

– Thông tư số 04/2016/TT-BKHĐT ngày 17/05/2016 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định các biểu mẫu văn bản sử dụng trong đăng ký doanh nghiệp xã hội theo Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh

nghiệp;

– Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ ngày 06/07/2018 về việc ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam.

– Các văn bản pháp luật chuyên ngành có liên quan khác.

Phân tích thủ tục:

1. Phân tích biểu hiện của các nguyên tắc “khách quan, công bằng”, “công khai, minh bạch” và “đơn giản, tiết kiệm, nhanh chóng, kịp thời” trong nội dung của thủ tục hành chính nêu trên.

2. Phân tích vai trò của thủ tục hành chính trong việc bảo đảm quyền của các tổ chức, cá nhân trong quản lý hành chính nhà nước.

Nội dung:

1. Phân tích biểu hiện của các nguyên tắc “khách quan, công bằng”, “công khai, minh bạch” và “đơn giản, tiết kiệm, nhanh chóng, kịp thời” trong nội dung của thủ tục hành chính nêu trên.

    Việc quản lý nhà nước có 3 loại thủ tục: Thủ tục lập pháp; thủ tục tư pháp; thủ tục hành chính. Trong đó thủ tục hành chính là thủ tục phức tạp và liên quan đến nhiều loại chủ thể khác nhau, bao hàm nhiều yếu tố: các hoạt động cụ thể cần thực hiện; trình tự thực hiện các hoạt động đó; cách thức tiến hành, thời hạn tiến hành các hoạt động cụ thể.

Thủ tục hành chính có thể hiểu là cách thức tổ chức thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước theo đó chủ thể có thẩm quyền thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cá nhân, tổ chức thực hiện quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết các công việc của quản lý hành chính nhà nước.

* Một số đặc điểm của thủ tục hành chính:

+ Chủ thể là thủ tục hành chính là chủ thể thực hiện TTHC (nhân danh Nhà nước sử dụng quyền lực Nhà nước để tiến hành các thủ tục hành chính) và chủ thể tham gia TTHC (chủ thể phục tùng quyền lực Nhà nước).

1, Chủ thể thực hiện TTHC: cơ quan, cán bộ, công chức Nhà nước, tổ chức xã hội, cá nhân được Nhà nước ủy quyền.

2, Chủ thể tham gia TTHC: là cơ quan, cán bộ, công chức Nhà nước, cá nhân, tổ chức.

+ Thủ tục hành chính mang tính quy phạm nhưng cũng có tính linh hoạt, mềm dẻo trong tổ chức và thực hiện thủ tục hành hính.

+ Một thủ tục hành chính có: Trình tự thực hiện, cách thức thực hiện, thành phần số lượng hồ sơ, thời hạn thời hiệu và các biểu mẫu đi kèm.

* Phân loại thủ tục hành chính

– Theo mục đích của thủ tục: Thủ tục ban hành QPPL và thủ tục giải quyết các công việc cụ thể (cấp các loại giấy phép, giải quyết yêu cầu, đề nghị của cá nhân, tổ chức; thủ tục khiếu nại, tố cáo…).

– Theo tính chất công việc: Thủ tục hành chính nội bộ (thủ tục ban hành VBQPPL, thành lập, sáp nhập, giải thể, tuyển dụng, bổ nhiệm, kỉ luật….) và thủ tục hành chính liên hệ (thủ tục cấp giấy phép, khiếu nại, cưỡng chế hành chính..).

* Các nguyên tắc mà một thủ tục hành chính cần tuân theo quy định của Pháp luật:

1, Nguyên tắc Pháp chế.

2, Nguyên tắc khách quan, công bằng.

3, Nguyên tắc công khai, minh bạch.

4, Nguyên tắc đơn giản, tiết kiệm, nhanh chóng, kịp thời.

5, Nguyên tắc các bên tham gia đều bình đẳng trước Pháp luật.

Thủ tục hành chính trên là thủ tục hành chính liên hệ hay cũng là thủ tục hành chính giải quyết các công việc cụ thể về việc đăng ký thành lập doanh nghiệp tư nhân theo quy định của Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội. Chính vì vậy, thủ tục trên cũng phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản của thủ tục hành chính.

Trong đó:

CÁC NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG THỦ TỤC HÀNH CHÍNH:

1.1. Biểu hiện của nguyên tắc “Khách quan, công bằng”

   Tính công bằng, khách quan khi thực hiện thủ tục hành chính thể hiện ở việc cơ quan tiến hành thủ tục phải có đủ tài liệu, chứng cứ khi xem xét giải quyết công việc, đảm bảo thực hiện đúng các yêu cầu của thủ tục nhằm giải quyết một cách đúng đắn nhất các công việc của nhà nước, các kiến nghị, yêu cầu hợp pháp của công dân, tổ chức. Khi thực hiện thủ tục hành chính phải bảo đảm tính khách quan, không vì vụ lợi mà gây thiệt hại cho nhà nước, tập thể và cá nhân.

1.1.1. Việc quy định thủ tục hành chính xuất phát từ nhu cầu khách quan của hoạt động quản lý, phải hợp lý, thuận tiện cho việc thực hiện.

+ Trong thủ tục hành chính trên điều đó được thể hiện ở việc nhu cầu thành lập doanh nghiệp là nhu cầu hiện nay là vô cùng cần thiết của các cá nhân, tổ chức và việc kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp cũng rất khó khăn vì vậy thủ tục hành chính trên được ban hành nhằm quản lý hoạt động trên dễ dàng hơn. Việc ban hành thủ tục hành chính trên mang tính khách quan vì khi các doanh nghiệp được thành lập thì xã hội cũng đòi hỏi phải có một công cụ để điều chỉnh nó. Và công cụ đó chính là Pháp luật cụ thể là thủ tục hành chính: “Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp tư nhân”.

+ Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp của Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội các đầu mục được liệt kê rõ ràng về trình tự, thủ tục các loại giấy tờ cần thiết cho việc quản lý hoạt động trên. Thủ tục trên đưa ra các ý rõ ràng và hợp lý phù hợp với tình hình thực tế tại Hà Nội, thuận tiện cho cả hai chủ thể trong mối quan hệ Pháp luật này.

+ Trong khi xây dựng Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp tư nhân, Sở KH&ĐT soạn thảo văn bản lấy ý kiến của đối tượng TTHC trên tác động giúp Sở có những thông tin cần thiết về đối tượng và nắm bắt được tình hình nhu cầu thực tế của chủ thể tham gia. Sở không được mô tẩ, bình luận sự việc theo quan điểm, nhận định chủ quan của bản thân chủ thể tổ chức lấy ý kiến.

1.1.2 Việc thực hiện thủ tục hành chính phải dựa trên cơ sở những căn cứ khách quan, không áp đặt vì lợi ích chủ quan của bất cứ đối tượng nào.

+ Việc ban hành thủ tục này đã căn cứ dựa trên rất nhiều nguồn pháp lý: Luật, Nghị định, Thông tư thông tư liên tịch, quyết định của UBND tỉnh..

+ Không chỉ dựa trên căn cứ pháp lí mà còn dựa cả vào tình hình thực tế từng địa phương. Hà Nội là 1 trong những thành phố trung tâm của Việt Nam cũng chính vì vậy các hoạt động trong lĩnh vực kinh tế diễn ra rất sôi nổi và cũng vì điều đó nên Nhà nước cần phải giám sát các hoạt động trên để các hoạt động đó không gây hại cho xã hội và hợp pháp.

+ Không một cá nhân nào hay tổ chức nào có quyền áp đặt để thực hiện lợi ích chủ quan của mình trong các TTHC.

1.1.3 Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các đối tượng tham gia vào các thủ tục hành chính.

Bảng 1: Phân tích quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia trong TTHC.

NHÀ NƯỚCCÔNG DÂN, TỔ CHỨC
QuyềnNghĩa vụQuyềnNghĩa vụ
Cơ quan có thẩm quyền yêu cầu đủ hồ sơ, giấy tờ và thực hiện TTHC theo đúng trình tự đối với công dân, tổ chức.Phòng đăng ký kinh doanh Sở KH&ĐT có nghĩa vụ tiếp nhận hồ sơ, trả giấy biên nhan cho công dân, tổ chức; trường hợp nộp hồ sơ trực tuyến qua mạng điện tử Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp Quốc gia thì sẽ tự động gửi lại giấy biên nhận cho công dân, tổ chức.  Công dân được  nhận kết quả giải quyết hồ sơ tại bộ phận “một cửa” phòng ĐKKD hoặc qua đường bưu điện (nếu có đăng ký dịch vụ).  Công dân, tổ chức thực hiện nộp hồ sơ tại Bộ phận “một cửa” hoặc nộp hồ sơ trực tuyến qua mạng điện tử, nộp phí, lệ phí (nếu có) và nhận giấy biên nhận giải quyết hồ sơ.  
Cơ quan trực tiếp thực hiện TTHC và có thẩm quyền quyết định cấp giấy phép thành lập Doanh nghiệp tư nhân: Phòng đăng ký kinh doanh thuộc Sở KH&ĐT Hà NộiPhòng Đăng ký kinh doanh thụ lý hồ sơ, xin ý kiến của các cơ quan liên quan (nếu cần) trong quá trình giải quyết. Hoàn tất kết quả giải quyết hồ sơ và chuyển cho Bộ phận một cửa phòng ĐKKD để trả cho công dân, doanh nghiệp.  Cá nhân, tổ chức có nghĩa vụ chuẩn bị đủ hồ sơ giấy tờ theo quy định Pháp luật và thực hiện đăng ký TTHC theo đúng trình tự quy định.   
 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ  03 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ   
 Cán bộ thu đúng, đủ lệ phí nộp vào ngân sách Nhà nướcLệ phí: 100.000 VNĐ (Miễn lệ phí đối với trường hợp Doanh nghiệp thực hiện đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử);   

 – Quyền của chủ thể bên này sẽ là nghĩa vụ của chủ thể bên kia. Bảng 1 đã thể hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của cơ quan có thẩm quyền và công dân, tổ chức đăng ký TTHC.

– Bất cứ chủ thể nào tham gia cũng phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình theo quy định của Pháp luật. Trong đó, chủ thể thực hiện TTHC giữ vai trò vô cùng quan trọng của mình trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình với công dân, tổ chức.

– Nguyên tắc “Khách quan, công bằng” không chỉ được thể hiện chỉ ở TTHC trên mà nó còn được biểu hiện ở các TTHC khác. Trong đó những căn cứ pháp lý của Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp tư nhân cũng có, biểu hiện ở:

+ Theo khoản 6 điều 5 nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản QPPL  của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015: “ Bảo đảm công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản QPPL”.

+ Theo điều 5 của Luật doanh nghiệp 2014. Bảo đảm của Nhà nước đối với doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp

1. Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của các loại hình doanh nghiệp được quy định tại Luật này; bảo đảm bình đẳng trước pháp luật của các doanh nghiệp không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế; thừa nhận tính sinh lợi hợp pháp của hoạt động kinh doanh.

2. Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp.

3. Tài sản và vốn đầu tư hợp pháp của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp không bị quốc hữu hóa, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính.

  Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của doanh nghiệp; trường hợp trưng mua thì doanh nghiệp được thanh toán, trường hợp trưng dụng thì doanh nghiệp được bồi thường theo giá thị trường tại thời điểm trưng mua hoặc trưng dụng. Việc thanh toán hoặc bồi thường phải bảo đảm lợi ích của doanh nghiệp và không phân biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp.

1.2. Biểu hiện của nguyên tắc “Công khai, minh bạch”

   Thủ tục hành chính phải rõ ràng. Đây là một nguyên tắc quan trọng vì sự thiếu rõ ràng của hệ thống thủ tục hành chính trong việc giải quyết các nhu cầu, đề nghị của công dân, tổ chức gây nhiều khó khăn cho công dân, tổ chức khi đến cơ quan quản lý nhà nước để xin giải quyết một vấn đề nào đó. Sự không rõ ràng của thủ tục hành chính cũng nảy sinh tiêu cực trong thực hiện thủ tục hành chính. Bởi vì người dân không biết mình phải thực hiện những quy định gì, các quy định đó được giải quyết ở đâu?. Do sự không rõ ràng này mà trong quá trình tiến hành thẩm định các dự án, các nhà quản lý đã lợi dụng làm ăn không hợp pháp hoặc gây ra sự chậm trễ trong quá trình phê duyệt. Thủ tục hành chính rõ ràng đòi hỏi thủ tục hành chính phải được xây dựng một cách khoa học, hợp lý, dễ hiểu và dễ thực hiện.

1.2.1 Nhà nước tạo điều kiện cho những đối tượng thực hiện thủ tục đóng góp:

 – Theo khoản 6 điều 5 về nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật: “Bảo đảm công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật”.

 – Theo khoản 2 điều 6 về tham gia góp ý kiến xây dựng văn bản Pháp luật: “Trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo và cơ quan, tổ chức có liên quan có trách nhiệm tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia góp ý kiến về đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; tổ chức lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản quy phạm pháp luật”.

 Trên web của Sở KH&ĐT mục đầu tư xây dựng có nêu rõ: “Quyền của công dân, tổ chức, doanh nghiệp”:

1. Yêu cầu được giải quyết thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội.

2. Đóng góp ý kiến theo Mẫu Phiếu tiếp nhận các góp ý của công dân, tổ chức, doanh nghiệp gửi vào Hòm thư góp ý đặt tại Bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính hoặc theo địa chỉ chính của cơ quan.

3. Thông báo qua đường dây nóng hoặc khiếu nại, tố cáo những hành vi tiêu cực hoặc gây phiền hà, nhũng nhiễu công dân, tổ chức của cán bộ, công chức Sở theo quy định giải quyết khiếu nại, tố cáo của Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội.

→ Các minh chứng trên có thể cho thấy rõ Nhà nước luôn tạo điều kiện đóng góp ý kiến về các văn bản Pháp luật cho công dân, tổ chức nhằm thể hiện tính công khai minh bạch trong các văn bản pháp lí.

1.2.2 Nội dung các thủ tục phải rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện:

+ Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp tư nhân do Sở KH&ĐT ban hành gồm 12 phần, trong mỗi phần đã liệt kê đầy đủ những yêu cầu cũng như những quyền lợi mà chủ thể tham gia TTHC là những đối tượng có nhu cầu đăng ký thành lập doanh nghiệp tư nhân. Trong đó cũng đã chỉ rõ căn cứ pháp lý của văn bản này là gồm các luật, các nghị định, thông tư có phạm vi điều chỉnh rộng hơn văn bản này.

+ Tất cả hồ sơ, giấy tờ trong TTHC đều được lưu trữ lại để khi có vấn đề gì xảy ra sẽ có căn cứ pháp lí xác nhận bên đúng, bên sai thuận tiện cho việc tổ chức và quản lý của cơ quan có thẩm quyền.

1.2.3 Các TTHC phải được công bố cho người thực hiện TTHC biết để có thể thực hiện dễ dàng.

+ Công dân, tổ chức khi tham gia Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp tư nhân sẽ được tiếp nhận hồ sơ thủ tục tạiPhòng Đăng ký kinh doanh Sở KH&ĐT: tiếp nhận hồ sơ, trả giấy biên nhận cho công dân, tổ chức; Trường hợp nộp hồ sơ trực tuyến qua mạng điện tử Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp Quốc gia tự động gửi giấy biên nhận cho công dân, tổ chức theo địa chỉ email đã đăng ký.

+ Công dân được  nhận kết quả giải quyết hồ sơ tại bộ phận “một cửa” phòng ĐKKD hoặc qua đường bưu điện (nếu có đăng ký dịch vụ): Điều đó thể hiện rõ sự công khai trong quá trình thực hiện TTHC. Bộ phận một cửa, nơi tiếp đón mọi người dân không phân biệt cá nhân, tổ chức nào cả.

+ Thành phần hồ sơ, những giấy tờ cần thiết để thực hiện TTHC được công khai trên văn bản cũng như trên web điện tử của Sở KH&ĐT.

Xã hội ngày càng dân chủ, nhu cầu thu hút nhân dân vào việc quản lý Nhà nước ngày càng lớn thì yêu cầu về tính công khai, minh bạch của TTHC càng cấp thiết. Đặc biệt, trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng mở rộng thì tính công khai, minh bạch trở thành một yếu tố quyết định. Đây là một trong những nguyên tắc pháp lí được nêu trong các văn bản pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam thừa nhận.

1.3. Biểu hiện của nguyên tắc “Đơn giản, tiết kiệm, nhanh chóng, kịp thời”

  Nguyên tắc này có liên hệ mật thiết với nguyên tắc khách quan khi xây dựng các quy định về thủ tục hành chính

  Trong việc thực hiện thủ tục hành chính, nguyên tắc này đòi hỏi chủ thể thực hiện thủ tục hành chính phải có những biện pháp tổ chức thực hiện khoa học

– Theo Nghị quyết của CP số 38/CP/1994 yêu cầu “các quy định về TTHC phải đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện”.

– Theo khoản 1,2,3 điều 8 của Luật ban hành văn bản quy phạm Pháp luật:

1. Ngôn ngữ trong văn bản quy phạm pháp luật và tiếng Việt. Ngôn ngữ sử dụng trong văn bản quy phạm pháp luật phải chính xác, phổ thông, cách diễn đạt phải rõ ràng, dễ hiểu.

2. Văn bản quy phạm pháp luật phải quy định cụ thể nội dung cần điều chỉnh, không quy định chung chung, không quy định lại các nội dung đã được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật khác.

3. Tùy theo nội dung, văn bản quy phạm pháp luật có thể được bố cục theo phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm; các phần, chương, mục, tiểu mục, điều trong văn bản quy phạm pháp luật phải có tiêu đề. Không quy định chương riêng về thanh tra, khiếu nại, tố cáo, khen thưởng, xử lý vi phạm trong văn bản quy phạm pháp luật nếu không có nội dung mới.

– Thủ tục hành chính trên quy định rất chi tiết và rõ ràng, từng khoản từng mục một và thời hạn giải quyết hồ sơ, hoàn tất thủ tục… Nội dung viết ngắn gọn, dễ hiểu, rõ ràng giúp người đọc có thể hiểu được và thực hiện đúng quy định.

→ Việc đơn giản hóa thủ tục hành chính và cải cách hành chính là vô cùng cần thiết như là khai báo trực tuyến điện tử  để tiết kiệm thời gian, chi phí, công sức đi lại cho các tổ chức, cá nhân khi thực hiện các thủ tục hành chính với các cơ quan hành chính. Tiết kiệm chi phí cho công tác nhân sự do thực hiện thủ tục hành chính, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, xã hội văn minh.

2. Phân tích vai trò của thủ tục hành chính trong việc bảo đảm quyền của các tổ chức, cá nhân trong quản lý hành chính nhà nước.

Quy định TTHC là một đảm bảo pháp lý cho việc thực hiện các quy định

– Một VBQPPL hành chính: + Quy định nội dung

                                              + Quy định thủ tục. Trong đó, quy định TTHC là một bộ phận quan trọng của quy phạm pháp luật hành chính, là phương tiện để đưa quy phạm nội dung của Luật Hành chính vào thực tế cuộc sống.

– Quy phạm nội dung là các nguyên tắc quản lý, thẩm quyền giải quyết của cơ quan quản lý hành chính Nhà nước, quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức.. và quy phạm thủ tục đưa các nguyên tắc đó ra thực hiện hành động cụ thể.

– Theo điều 21 Nghị định 63/2010/NĐ-CP quy định về kiểm soát TTHC

Điều 21. Quyền và nghĩa vụ của đối tượng thực hiện thủ tục hành chính

1. Thực hiện đầy đủ các quy định về thủ tục hành chính.

2. Từ chối thực hiện những yêu cầu không được quy định trong thủ tục hành chính hoặc chưa được công khai theo quy định.

3. Chịu trách nhiệm về tính hợp pháp, chính xác của các giấy tờ có trong hồ sơ và cung cấp đầy đủ thông tin có liên quan.

4. Không được cản trở hoạt động thực hiện thủ tục hành chính của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền.

5. Không hối lộ hoặc dùng các thủ đoạn khác để lừa dối cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong thực hiện thủ tục hành chính.

6. Giám sát việc thực hiện thủ tục hành chính; phản ánh, kiến nghị với cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền về những bất hợp lý của thủ tục hành chính và các hành vi vi phạm của cán bộ, công chức trong thực hiện thủ tục hành chính.

7. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện các quyết định hành chính và hành vi hành chính theo quy định của pháp luật.

8. Trực tiếp hoặc ủy quyền cho người đại diện hợp pháp của mình tham gia thực hiện thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật.

9. Thực hiện quy định khác của pháp luật.

   Từ những quy định trên có thể thấy vai trò của TTHC tới cá nhân, tổ chức là vô cùng quan trọng. Nó tác động trực tiếp tới quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, pháp nhân:

2. VAI TRÒ CỦA TTHC TRONG VIỆC ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA CÁC TỔ CHỨC, CÁ NHÂN TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

2.1. TTHC là phương tiện cụ thể hóa một cách chính thống phần lớn các quyền, tự do của công dân vốn được ghi nhận trong Hiến pháp,

  Về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội…. Nhiều quyền cơ bản của công dân chỉ có thể được bảo đảm, bảo vệ khi được cụ thể hóa thông qua TTHC, nhờ có các quy phạm pháp luật TTHC mà các quy phạm Hiến pháp về Quyền công dân được thực hiện trên thực tế.

+ Theo điều 22 trong Hiến Pháp Việt Nam 2013:

1, Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp.

2, Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý.

3, Việc khám xét chỗ ở là do luật quy định.

+ Ta có dự thảo Luật cư trú năm 2020 quy định rất rõ ràng, cụ thể hóa về quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp. Song, đi cùng với quyền của mình, công dân cũng phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình với xã hội.

 Điều 4. Quyền tự do cư trú của công dân

1. Công dân có quyền tự do cư trú theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Công dân có đủ điều kiện đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú thì có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú. Công dân không có đủ điều kiện đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú thì thực hiện khai báo thông tin về nơi đang thực tế sinh sống để được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận.

2. Quyền tự do cư trú của công dân chỉ bị hạn chế theo quy định của luật.

2.2. TTHC nhằm giới hạn quyền lực của hệ thống hành chính nhà nước trong mối quan hệ với cá nhân, tổ chức của công dân.

  Trong bộ máy nhà nước, bộ máy hành chính nhà nước có đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức hành chính rất đông đảo, hoạt động của họ luôn gắn với công vụ, công chức nhà nước, luôn gắn với việc giải quyết các công việc của cá nhân, tổ chức và được bảo đảm bởi một bộ máy mang tính quyền lực nhà nước có tính cưỡng chế cao. Vì vậy, mọi hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước, của cán bộ, công chức, viên chức đều phải được giới hạn bởi các quy phạm pháp luật về TTHC, trước hết là TTHC để tránh sự tùy tiện trong việc giải quyết các công việc của cá nhân, tổ chức, đặc biệt là giới hạn việc sử dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính.

     Trong Nghi định 63/2010/NĐ-CP quy định về kiểm soát TTHC:

   Điều 6. Các hành vi bị nghiêm cấm trong

1. Nghiêm cấm cán bộ, công chức được phân công thực hiện thủ tục hành chính thực hiện các hành vi sau đây:

a) Tiết lộ thông tin về hồ sơ tài liệu và các thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân của đối tượng thực hiện thủ tục hành chính mà mình biết được khi thực hiện thủ tục hành chính, trừ trường hợp được đối tượng thực hiện thủ tục hành chính đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác; sử dụng thông tin đó để xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;

b) Từ chối thực hiện, kéo dài thời gian thực hiện hoặc tự ý yêu cầu bổ sung thêm hồ sơ, giấy tờ ngoài quy định mà không nêu rõ lý do bằng văn bản;

c) Hách dịch, cửa quyền, sách nhiễu, gây phiền hà, gây khó khăn cho đối tượng thực hiện thủ tục hành chính; lợi dụng các quy định, các vướng mắc về thủ tục hành chính để trục lợi;

d) Nhận tiền hoặc quà biếu dưới bất cứ hình thức nào từ đối tượng thực hiện thủ tục hành chính khi tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính ngoài phí, lệ phí thực hiện thủ tục hành chính đã được quy định và công bố công khai;

đ) Đùn đẩy trách nhiệm, thiếu hợp tác, chậm trễ, gây cản trở trong thực hiện nhiệm vụ được giao.

2. Nghiêm cấm đối tượng thực hiện thủ tục hành chính cản trở hoạt động của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền; đưa hối lộ hoặc dùng các thủ đoạn khác để lừa dối cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong thực hiện thủ tục hành chính.

3. Nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi cản trở hoạt động kiểm soát thủ tục hành chính.

  Điều 20. Trách nhiệm của cán bộ, công chức được phân công thực hiện thủ tục hành chính

1. Thực hiện nghiêm túc, đầy đủ nhiệm vụ được giao trong quá trình thực hiện thủ tục hành chính.

2. Phải tạo thuận lợi cho đối tượng thực hiện thủ tục hành chính; có tác phong, thái độ lịch sự, nghiêm túc, khiêm tốn; ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc trong thực hiện thủ tục hành chính.

3. Tiếp nhận và giải quyết hồ sơ của cá nhân, tổ chức theo quy định.

4. Hướng dẫn tổ chức, cá nhân thực hiện trình tự, hồ sơ hành chính đầy đủ, rõ ràng, chính xác không để tổ chức, cá nhân phải đi lại bổ sung hồ sơ quá hai lần cho một vụ việc, trừ trường hợp tổ chức, cá nhân thực hiện không đúng theo hướng dẫn của cán bộ, công chức được phân công thực hiện thủ tục hành chính.

5. Chấp hành nghiêm túc các quy định của cấp có thẩm quyền về thủ tục hành chính đã được người đứng đầu Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương công bố.

6. Chủ động tham mưu, đề xuất, sáng kiến cải tiến việc thực hiện thủ tục hành chính; kịp thời phát hiện, kiến nghị với cơ quan, người có thẩm quyền để sửa đổi, bổ sung, thay đổi hoặc hủy bỏ, bãi bỏ các quy định về thủ tục hành chính không phù hợp, thiếu khả thi.

7. Phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc thực hiện thủ tục hành chính.

8. Thực hiện quy định khác của pháp luật.

– Trong Nghị Định 63/2010/NĐ-CP về kiểm soát thủ tục hành chính đã quy định rất rõ ràng quyền và nghĩa cụ của bên chủ thể thực hiện TTHC đó là: cán bộ, công chức, cơ quan Nhà nước phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với công dân.

– Thực tế có thể thấy trong các TTHC ban hành văn bản QPPL đều quy định rất cụ thể quyền và nghĩa vụ của cán bộ, công chức, cơ quan có thẩm quyền về những vấn đề cụ thể.

– Sử dụng biện pháp cường chế hành chính luôn là biện pháp mà cơ quan Hành pháp sử dụng cuối cùng trong mọi trường hợp. Vì biện pháp này mang tính bạo lực rất cao, thể hiện sự áp đặt tuyệt đối của Nhà nước lên cá nhân, tổ chức. Mà Nhà nước ta luôn đề cao tính nhân đạo kể cả xử lý các trường hợp mang tính quy phạm. Chính vì vậy việc giới hạn biện pháp cưỡng chế hành chính trong TTHC được Nhà nước cực kỳ chú trọng.

2.3. TTHC là phương tiện để công dân có thể kiểm soát được các hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước (CQHCNN)

  Từ hoạt động điều hành hành chính đến hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; hoạt động tổ chức có tính nội bộ cơ quan HCNN đến hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính trên mọi lĩnh vực, mọi mặt đời sống dân cư trên toàn lãnh thổ quốc gia… Kiểm soát hoạt động của hành chính nhà nước, một mặt để tăng cường pháp chế trong quản lý, mặt khác nhằm phòng ngừa, ngăn chặn những hành vi vi phạm của hệ thống hành chính tới Quyền công dân.

+ Trong điều 21 NĐ 63/2010/NĐ-CP đã nêu rõ:

6. Giám sát việc thực hiện thủ tục hành chính; phản ánh, kiến nghị với cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền về những bất hợp lý của thủ tục hành chính và các hành vi vi phạm của cán bộ, công chức trong thực hiện thủ tục hành chính.

7. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện các quyết định hành chính và hành vi hành chính theo quy định của pháp luật.

→ Quyền của chủ thể bên này cũng là nghĩa vụ của chủ thể tham gia bên kia. Tức là công dân có quyền giám sát quá trình thực hiện TTHC của cán bộ, công chức, cơ quan. Nếu thấy có bất kỳ sai phạm nào về TTHC cũng như hành vi của chủ thể thực hiện TTHC thì công dân có quyền khiếu nại, tố cáo lên cơ quan có thẩm quyền để giải quyết.

2.4. TTHC là biện pháp pháp lý, các phương thức, cách thức khác nhau để bảo vệ các quyền công dân khi bị xâm hại trong hầu hết các lĩnh vực quan hệ xã hội.

  Trong thực tiễn tổ chức và hoạt động của Nhà nước và đời sống xã hội, quyền công dân có thể bị xâm hại từ phía các cơ quan quyền lực nhà nước, hay từ các chủ thể khác.

– Từ những phân tích trên có thể thấy rằng TTHC đóng một vai trò vô cùng quan trọng do TTHC liên quan trực tiếp tới việc thực hiện thẩm quyền của các chủ thể quản lý hành chính Nhà nước, tới việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức. Đây được coi là nhiệm vụ khó khăn, lâu dài và thường xuyên. Hiện nay, nhu cầu cải cách hành chính là cấp thiết vì TTHC vẫn còn rất nhiều bất cập như: mang đậm dấu ấn thời kì bao cấp, nặng về cơ chế “xin-cho”, rườm rà, phức tạp, nhiều cấp trung gian,….Những hạn chế này đã gây nhiều trở ngại cho việc thực hiện quản lý làm hạn chế quyền của công dân, tạo ra một nên hành chính mang tính quan liêu phong kiến trì trệ. Đặc biệt, TTHC là một trở ngại lớn đối với tình hình hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế, giảm khả năng thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài.

– Cải cách TTHC là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cải cách TTHC nhằm tạo bước chuyển căn bản trong quan hệ và thủ tục giải quyết công việc giữa các cơ quan Nhà nước với nhau, giữa cơ quan Nhà nước với tổ chức xã hội và giữa cơ quan Nhà nước với công dân. Cải cách TTHC là một bộ phận của cải cách thể chế hành chính nhà nước, nhằm xây dựng và thực thi TTHC theo những chuẩn mực nhất định. CCTTHC thực chất là cải cách trình tự thực hiện thẩm quyền hành chính trong mối liên hệ tới quyền và nghĩa vụ của công dân, tổ chức và nội bộ cơ quan Nhà nước:

Một là, hoàn thiện nội dung và hình thức của TTHC bằng cách thực hiện rà soát, sửa đổi và thay thế những văn bản, quy phạm không còn phù hợp và cần phải pháp điển hóa, nâng cấp chất lượng ban hành văn bản quy phạm… Bên cạnh đó, phải thay đổi tư duy, quan điểm, nhận thức về Nhà nước, về hệ thống hành chính nhà nước. Cần nhận thức và sửa chữa, khắc phục những hạn chế trong quá trình xây dựng và ban hành các quy phạm pháp luật; thay đổi nhận thức, thái độ trong CCTTHC.

Hai là, cần có cách nhìn tổng quát, hệ thống về CCTTHC; giải quyết cái cốt lõi, cái gốc của vấn đề, đặc biệt là những quy định của hệ thống hành chính liên quan tới việc hạn chế các quyền của công dân, hay việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính trong quản lý.

Ba là, hoàn thiện pháp luật hành chính phải được tiến hành một cách đồng bộ cả pháp luật vật chất, pháp luật thủ tục, pháp luật tố tụng hành chính. Hoàn thiện TTHC với tư cách là phương tiện bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Phương tiện này cần được đặc biệt chú ý bởi nó liên quan đến đời sống hằng ngày cũng như chiếm khối lượng chủ yếu trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân (như đăng ký kinh doanh, đóng thuế, tạm trú, xử phạt hành chính,…).

Nhiệm vụ cải cách nền hành chính đặt ra các yêu cầu bức xúc về cải cách mạnh mẽ hơn TTHC theo hướng xóa bỏ triệt để cơ chế “xin – cho”, đơn giản hóa các thủ tục. Cần thay đổi nhận thức về CCHC nhà nước từ cai trị chuyển sang Nhà nước phục vụ, xây dựng một Chính phủ kiến tạo. Trên cơ sở đó, Nhà nước cũng có những thay đổi về vai trò quản lý từ “người chèo thuyền” sang “ người lái thuyền” trong bối cảnh hội nhập của đất nước.

Bốn là, đổi mới nhận thức về mối quan hệ giữa CQHCNN và công dân. Các CQHCNN không nên quan niệm công dân chỉ là người thụ hưởng mà cần nhìn nhận đây là khách hàng. Tính chất phục vụ thể hiện trên nhiều hình thức khác nhau và phải thể hiện trong tư duy công dân là khách hàng của các CQHCNN. Từ đó, các CQHCNN phải thiết lập cơ cấu tổ chức hợp lý để hiểu khách hàng của mình hơn thông qua điều tra, nghiên cứu khách hàng, chăm sóc, theo dõi khách hàng, giải quyết các kiến nghị, yêu cầu khiếu nại. Xây dựng các khế ước cam kết về sự phục vụ của các CQHCNN đối với công dân.

Năm là, vai trò trách nhiệm giải trình của các CQHCNN trước Nhân dân cần được đề cao. Phải có những quy định được thể chế hóa, chế tài rõ ràng, cụ thể và nghiêm minh đối với những hành vi che giấu hoặc từ chối cung cấp thông tin hợp pháp của các cơ quan, của cán bộ, công chức nhà nước. Nhà nước cần tiếp tục bổ sung và bảo đảm thực hiện các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các cơ quan công quyền trong việc cung cấp thông tin. Phải làm rõ trách nhiệm cung cấp thông tin, trách nhiệm giám sát tuân thủ và các chế tài xử phạt trong trường hợp không cung cấp thông tin theo quy định của pháp luật./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hiến pháp Việt Nam 2013

2. Nghị định 63/2010/NĐ-CP quy định về kiểm soát TTHC

3. Luật ban hành văn bản quy phạm Pháp luật năm 2015/QH13

4.Nghị định 45/2020/NĐ-CP quy định về thực hiện TTHC trên môi trường điện tử

5. Luật Doanh nghiệp 2014;

6. Luật Đầu tư năm 2014;

7.Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 về đăng ký doanh nghiệp

8. Cổng thông tin điện tử của Sở kế hoạch & đầu từ thành phố Hà Nội.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Đặc trưng của ngôn từ người Việt, ngôn từ của giới trẻ hiện nay.

Vấn đề ngôn từ giới trẻ trong giai đoạn hiện nay trở thành vấn đề cấp bách, cần sự chung tay của các lực lượng xã hội. Trong đó, bản thân giới trẻ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc góp phần giữ gìn sự trong sáng và giàu đẹp của tiếng Việt trên cơ sở kế thừa và phát huy truyền thống đi đôi với việc sáng tạo những giá trị mới phù hợp với tinh thần thời đại.

1. ĐẶC TRƯNG CỦA NGÔN TỪ NGƯỜI VIỆT

1.1. Ngôn từ là gì:

            Ngôn từ là phương tiện giao tiếp trọng yếu nhất của con người. Nhiều ngôn từ sử dụng điệu bộ, âm thanh, ký hiệu, hay chữ viết, và cố gắng truyền khái niệm, ý nghĩa, và ý nghĩ, nhưng mà nhiều khi những khía cạnh này nằm sát quá, cho nên khó phân biệt nó. Ngôn ngữ không phải là một bộ “quy tắc và ngữ pháp”. Ngôn từ là công cụ người ta dùng để biểu đạt ý nghĩa và tình cảm của mình đối với người khác, qua đó để người ta hiểu nhau.

            Cùng với sự biến đổi của xã hội, ngôn từ không ngừng biến đổi theo để có thể hoàn thành sứ mệnh của mình. Điều này đặt ra đòi hỏi đối với người nghiên cứu ngôn từ là cần kịp thời nghiên cứu những xu hướng phát triển mới của ngôn từ nhằm phục vụ công tác dự báo, định hướng, chuẩn hóa và giáo dục ngôn từ phù hợp với từng giai đoạn.

1.2. Ngôn từ của người Việt:

            Trước hết, đó là sự phong phú trong hệ thống xưng hô tiếng Việt: Trong khi các ngôn ngữ khác chỉ sử dụng các đại từ nhân xưng thì tiếng Việt, ngoài các đại từ nhân xưng, còn sử dụng một số lượng lớn các danh từ chỉ quan hệ họ hàng (anh, chị – em; ông, bà, bác, cô, gì, chú – cháu, con…) và một số danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ (thầy, cô, bác sĩ, ông cai, ông lý, ông huyện,…) để thay thế cho đại từ, chúng trở thành các từ đại từ hóa, những từ đại từ hóa này có xu hướng lấn át các đại từ nhân xưng.

            Trong tiếng Việt có tổng cộng trên 60 từ xưng hô. Hệ thống xưng hô cực kỳ phong phú này thể hiện rất rõ các đặc tính của văn hóa nông nghiệp Việt Nam:

            – Có tính chất thân mật hóa cao (đặc tính trọng tình cảm). Với cách xưng hô này, tất cả mọi người trong cộng đồng đều trở thành bà con họ hàng trong một gia đình.

            – Có tính chất cụ thể hóa cao (tính linh hoạt). Trong hệ thống từ xưng hô này, không có cái “tôi” chung chung: với mỗi người đối thoại khác nhau, người nói ở vào những cương vị khác nhau, những vai khác nhau. Trong hệ thống từ xưng hô này, cũng không có cái “anh” chung chung, cái “nó” chung chung; quan hệ xưng hô phụ thuộc vào tuổi tác, địa vị xã hội, thời gian, không gian giao tiếp: Cùng là một cặp đối thoại, lúc ở trường học thì người này gọi người kia là thầy, nhưng khi về nhà thì lại gọi là em, vì người thầy kia chính là em trai (hoặc em họ) của người này. Còn nhớ, vào những năm 60, có một vị lãnh đạo từng kêu gọi mọi người dùng các đại từ tôi, nó trong giao tiếp, xưng hô như ở các ngôn ngữ khác cho giản tiện và dân chủ, thế nhưng truyền thống văn hóa vẫn mạnh hơn: không một người Việt Nam nào có thể xưng “tôi” với một người cao tuổi, một người bậc trên; cũng như không một người Việt Nam nào có thể gọi một người cao tuổi, một người bậc trên là “nó”.

            – Có tính xã hội hóa cao (tính cộng đồng). Hai người nói chuyện với nhau đấy, xưng hô với nhau đấy, nhưng thực ra vẫn luôn luôn kéo cả những người thứ ba, thứ tư… vào cuộc. Đó là những lối gọi nhau bằng tên con, tên cháu, tên vợ, tên chồng… Hai vợ chồng gọi nhau là bố nó – mẹ nó, ba nó – má nó, ông nó – bà nó… chẳng là đã lôi cả những người thứ ba là con mình, cháu mình vào cuộc đấy ư? Hai người nói chuyện với nhau đấy nhưng cũng chính là đang thông báo, đang tự giới thiệu cho những người ngoài ­ những người thứ tư ­ biết rằng mình đã có con, có cháu; đã lên bậc cha, bậc mẹ; lên bậc ông, bậc bà…, để những người này nếu muốn nói chuyện với mình thì còn biết đường mà xưng hô!

            – Có tính đa nghĩa cao (tính tổng hợp). Cùng là hai người, nhưng cách xưng hô có thể đồng thời tổng hợp được các quan hệ khác nhau: Lối xưng hô ông-con, chú-con, bác-em… vừa thể hiện quan hệ “ông-cháu”, “chú-cháu”, “bác-cháu”, vừa thể hiện quan hệ “cha-con”, “anh-em”; vừa thể hiện được sự cách biệt về tuổi tác (gọi “ông” là cách biệt rất lớn, ngang tuổi ông mình; gọi “bác” là cách biệt nhiều, ngang tuổi anh bố mình; gọi “chú” là cách biệt ít hơn, ngang tuổi em bố mình), sự cách biệt về vai vế (“ông” bằng vai với ông mình, “chú”, “bác” bằng vai với bố mình), vừa thể hiện được sự gần gũi, thân mật như cha con, anh em.

            – Có tính tôn ty, nhưng đồng thời lại vẫn rất dân chủ. Tôn ty đây là sự thể hiện đúng quan hệ tuổi tác, thứ bậc trong họ hàng, ngoài xã hội…, và vì thể hiện đúng, cho nên rất dân chủ, công bằng.

            – Thể hiện tâm lý nhường nhịn, trọng sự hòa thuận (hiếu hòa). Người Việt Nam xưng và hô theo nguyên tắc xưng khiêm hô tôn (tự xưng thì khiêm nhường còn gọi đối tượng giao tiếp với mình thì tôn kính). Việc tôn trọng, đề cao nhau dẫn đến tục kiêng tên riêng: tên riêng xưa kia không phải là cái dùng để gọi nhau (trái với chức năng bẩm sinh của nó). Đặt tên con cần nhất là không được trùng với tên của những người bề trên trong họ hàng cũng như xung quanh hàng xóm. Cũng vì kiêng tên riêng mà người Việt Nam trước đây có tục nhập gia vấn húy: vào nhà ai, phải hỏi tên chủ nhà trước để khi nói chuyện nếu có dùng đến từ đó thì phải nói chệch đi (nhưng người phương Tây thì, ngược lại, gặp nhau phải hỏi tên nhau để còn dùng tên ấy mà gọi).

            Ví dụ như có trường hợp hai người quen nhau mấy chục năm mà chỉ khi một trong hai người mất, người kia mới biết được tên thật của bạn qua cáo phó; và không phải ngẫu nhiên mà trong một cuộc thi “Ở nhà chủ nhật” của Đài truyền hình VTV3 có câu đố yêu cầu các cháu tham gia cuộc thi nói được tên thật của bà nội mình.

            Bên cạnh đó, nghi thức trong các cách nói lịch sự cũng rất phong phú. Do truyền thống tình cảm và linh hoạt nên người Việt Nam không có một từ cảm ơn, xin lỗi chung chung cho mọi trường hợp như phương Tây. Với mỗi trường hợp có thể có một cách cảm ơn, xin lỗi khác nhau: Con xin chú (cảm ơn khi nhận quà), Chị chu đáo quá (cảm ơn khi được quan tâm), Bác bày vẽ quá (cảm ơn khi được tiếp đón), Quý hóa quá (cảm ơn khi khách đến thăm), Anh quá khen (cảm ơn khi được khen), Cậu đã cứu cho tớ một bàn thua trông thấy, Cháu được như hôm nay là nhờ cô đấy (cảm ơn khi được giúp đỡ)…

            Ngoài ra, văn hóa nông nghiệp ưa ổn định, sống chú trọng đến không gian, nên người Việt Nam phân biệt kĩ các lời chào theo quan hệ xã hội và theo sắc thái tình cảm. Trong khi đó văn hóa phương Tây ưa hoạt động lại phân biệt kĩ các lời chào theo thời gian như chào gặp mặt, chào chia tay, chào buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi tối…

1.3. Đặc trưng của ngôn từ người Việt:

            +) Thứ nhất, ngôn từ Việt Nam có tính biểu trưng cao. Tính biểu trưng thể hiện ở xu hướng khái quát hóa, ước lệ hóa, công thức hóa với những cấu trúc cân đối, hài hòa. Xu hướng ước lệ bộc lộ ở chỗ tiếng Việt thích những cách diễn đạt bằng các con số biểu trưng. Lối tư duy tổng hợp mọi yếu tố, lối sống ổn định có quan hệ tốt với hết thảy mọi người dẫn đến xu hướng trọng sự cân đối hài hòa trong ngôn từ – một biểu hiện khác của tính biểu trưng. Tính cân xứng là một đặc tính rất điển hình của tiếng Việt.

            Lối tư duy tổng hợp mọi yếu tố; lối sống ưa ổn định và có quan hệ tốt với hết thảy mọi người dẫn đến xu hướng trọng sự cân đối hài hòa trong ngôn từ – một biểu hiện khác chỉ tính biểu trưng. Tính cân xứng là một đặc tính rất điển hình của riêng Việt.

            Truyền thống văn chương Việt Nam thiên về thơ ca: Người Việt Nam hầu như ai cũng biết làm thơ; lịch sử mấy nghìn năm của Việt Nam chủ yếu là lịch sử của thơ ca – một thứ thơ có cấu trúc chặt chẽ (lục bát; song thất lục hát) và có vần điều nghiêm ngặt thể hiện sự cân đối; hài hòa. Văn chương phương Tây thì; ngược lại; có khuynh hướng thiên về văn xuôi. Thống kê trên 2 tập Từ điển văn học cho thấy trong 198 mục từ tác phẩm văn học phương Tây (châu Âu + Nga) thì có 43 thơ và 155 văn xuôi, tức là vãn xuôi chiếm 78,3%; còn trong 95 mục từ tác phẩm văn học Việt Nam (không kể các truyện cổ tích được kể riêng như Trầu Cau; Thành Gióng…) thì có 69 thơ và 26 văn xuôi, tức là thơ chiếm 72,6% (trong 26 mục văn xuôi này có rất nhiều tác phẩm hịch, chèo, tuồng… mang đậm chất thơ). Ở Việt Nam, văn xuôi truyền thống cũng là văn xuôi thơ, thế mạnh đó còn do tiếng Việt là một ngôn ngữ giàu thanh điệu, tự thân thanh điệu đã tạo nên tính nhạc cho lời văn rồi. Từ những bài văn xuôi viết theo lối biền ngẫu như Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn; hoặc những lời văn Nôm bình dân… khắp nơi đều gặp một lối cấu trúc cân đối, nhịp nhàng, chặt chẽ và có tiết tấu, vần điệu.

            +) Thứ hai, ngôn từ Việt Nam rất giàu chất biểu cảm – sản phẩm tất yếu của một nền văn hóa trọng tình.

            Về mặt từ ngữ, chất biểu cảm này thể hiện ở chỗ các từ, bên cạnh yếu tố gốc mang sắc thái nghĩa trung hòa, thường có rất nhiều biến thể với những sắc thái nghĩa biểu cảm: Bên cạnh màu xanh trung tính, có đủ thứ xanh rì, xanh rờn, xanh rợn, xanh ngắt, xanh um, xanh lè… Bên cạnh màu đỏ trung tính có đỏ rực, đỏ au, đỏ lòm, đỏ loét, đỏ hoe… Các từ láy mang sắc thái biểu cảm mạnh cũng rất phổ biến lòng tiếng Việt (ở các ngôn ngữ khác, kể cả tiếng Hán, đều hầu như không có): không phải ngẫu nhiên mà trong thơ ca của ta có thể gặp rất nhiều từ láy. Ở trên vừa nói Tiếng Việt thiên về thơ, mà thơ là mang đậm chất tình cảm rồi, cho nên từ láy với bản chất biểu cảm rất phù hợp với nó.

            Về ngữ pháp, tiếng Việt dùng nhiều hư từ biểu cảm: à, ư, nhỉ, nhé, chăng, chớ, hả, hở, phỏng, sao, chứ… Cấu trúc “iếc hóa” có nghĩa đánh giá (sánh siếc, bàn biếc…) cũng góp phần làm tăng cường hệ thống phương tiện biểu cảm cho tiếng Việt. Khuynh hướng biểu cảm còn thể hiện ở chỗ trong lịch sử văn chương truyền thống, không có những tác phẩm anh hùng ca đề cao chiến tranh; có nói đến chiến tranh chăng thì cũng chỉ là nói đến nỗi buồn của nó (Ví dụ như bài thơ Chinh phụ ngâm).

            +) Thứ ba, ngôn từ Việt Nam còn có tính động và linh hoạt.Tính động, linh hoạt này trước hết bộc lộ ở hệ thống ngữ pháp. Trong khi ngữ pháp biến hình của các ngôn ngữ châu Âu là một thứ pháp chặt chẽ tới mức máy móc thì ngữ pháp tiếng Việt tổ chức chủ yếu theo lối dùng các từ hư để biểu hiện các ý nghĩa và quan hệ ngữ pháp, khiến cho người sử dụng được quyền linh hoạt tối đa. Ngữ pháp của các ngôn ngữ phương Tây là ngữ pháp hình thức, còn ngữ pháp Việt Nam là ngữ pháp ngữ nghĩa. Nói bằng một ngôn ngữ châu Âu, ta bắt buộc phải chia động từ theo các thể, các ngôi…; phải đặt danh từ vào các giống, các số, các cách…; phải đặt tính từ vào những hình thái phù hợp với danh từ…; Chính vì linh hoạt như vậy mà tiếng Việt có khả năng diễn đạt khái quát rất cao.

2. NGÔN TỪ CỦA GIỚI TRẺ HIỆN NAY

            Trong bối cảnh hội nhập và phát triển hiện nay, tiếng Việt đang có biến đổi sâu sắc, tạo ra nhiều phương ngữ xã hội khác nhau cùng hoạt động. Trong đó, ngôn từ giới trẻ là một kiểu phương ngữ xã hội nổi bật, thổi luồng mới lạ vào đời sống tiếng Việt, tạo ra nhiều luồng dư luận khen chê trái chiều.

2.1. Một số định nghĩa:

            – Tiếng lóng giới trẻ là sản phẩm ngôn ngữ đặc thù do giới trẻ tạo ra, có phạm vi sử dụng chủ yếu trong nội bộ giới trẻ, mang màu sắc ngữ nghĩa độc đáo, vui tươi, dí dỏm, thể hiện bản sắc nhóm giới trẻ. Xét về đặc điểm, nguồn gốc, tuyệt đại đa số tiếng lóng giới trẻ được hình thành trên cơ sở của vốn từ tiếng Việt, chỉ một số rất hiếm có nguồn gốc nước ngoài. Tiếng lóng giới trẻ được tạo ra bằng những con đường chủ yếu là vay mượn ngoại lai, tạo từ mới và biến đổi những đơn vị sẵn có của tiếng Việt. Tiếng lóng giới trẻ chỉ có tính nội bộ mà không có tính bí mật.

            – Ngôn ngữ giới trẻ là phương ngữ xã hội của nhóm xã hội thanh niên trong tiếng Việt với những biểu hiện đặc thù.

2.2. Ngôn từ của giới trẻ hiện nay trong giao tiếp:

            Dạng thức sử dụng ngôn ngữ giao tiếp trong trường học, nơi công cộng của giới trẻ, do đặc tính riêng của phong cách khẩu ngữ khi người nói trực tiếp tương tác với người nghe, nên thường theo kiểu lối nói vần và theo kiểu mã hóa ngôn từ ở những bối cảnh phù hợp. Ngôn ngữ đời thường mà giới trẻ hay nói chuyện với nhau nhiều khi làm tăng tính biểu cảm, sinh động. Ví dụ: tiền thành xiền, tình yêu thành tình iu, ghét như con bọ chét, nhỏ như con thỏ, tin vịt, chạy mất dép, bó tay. com, bốc hơi (biến mất), đít chai (kính)…

            Ví dụ như để ca ngợi cái đẹp thì giới trẻ nói “đẹp dã man”, còn “vụ này có vẻ lục tốn đấy nhỉ” là để nói về một vụ chi tiêu tiền bạc, để khen một người nhiều tiền thì “thầu giầu nhỉ”. Đó là một vài trong khá nhiều ví dụ về sử dụng ngôn ngữ hiện nay. Việc sử dụng tiếng lóng trong giao tiếp hàng ngày trở nên phổ biến, nhất là trong giới học sinh.

            Từ khía cạnh tâm lý học, tuổi teen là độ tuổi có đặc trưng tâm lý thích cái mới, ưa sự khám phá, thường hành động theo trào lưu. Vì vậy như một “làn sóng” dây chuyền, chỉ trong vài năm, cách nói, viết trên ngày càng lan rộng trong giới trẻ. Nhiều teen xem đó như là một “phát minh”, một thứ ngôn ngữ riêng giúp giới trẻ có thể trao đổi, bày tỏ mọi thứ.
            Giao tiếp bằng ngôn ngữ không chỉ là cách truyền đạt thông tin giữa người với người mà còn là một phương diện để thể hiện văn hóa, đạo đức. Việc sử dụng ngôn ngữ teen trong nhiều trường hợp hình thành một thái độ giao tiếp, một hình thức ứng xử tạo sự thoải mái, vui vẻ, hài hước, làm tăng thêm tính hiệu quả của mục đích giao tiếp. Từ góc độ giáo dục, việc lạm dụng các ngôn từ thiếu thẩm mỹ của giới trẻ trong giao tiếp cũng là những vấn đề mà xã hội, các bậc cha mẹ và nhà trường nên quan tâm.

2.3. Ngôn từ giới trẻ qua phương tiện truyền thông và ngôn ngữ chat của giới trẻ hiện nay:

            Việt Nam đang dần hòa nhịp cùng với sự phát triển của thế giới. Bên cạnh sự hòa nhập về kinh tế thì sự giao thoa về văn hóa và ngôn ngữ là không thể tránh khỏi. Hơn thế nữa, hòa trong xu hướng hội nhập đó, việc phát triển của các trang mạng xã hội cũng như việc tìm kiếm và trao đổi thông tin trên internet đã trở thành phổ biến, ngôn ngữ “chat”, trò chuyện qua mạng ra đời đáp ứng nhu cầu “sống nhanh” đặc biệt là nhu cầu viết cũng nhanh trong giới trẻ hiện nay. Xu hướng này không chỉ diễn ra đơn thuần ở những ngôn ngữ phổ biến như tiếng Anh mà còn lan rộng ở nhiều ngôn ngữ khác, trong đó có tiếng Việt. Thực tế cho thấy, ngôn ngữ “chat” không chỉ có mặt trong những văn bản “chat”, những trang blog, những tin nhắn trong điện thoại di động,… mà còn xuất hiện trong những tác phẩm văn học dành cho tuổi mới lớn hay các diễn đàn trên mạng internet, bài thi, bài luận của học sinh, sinh viên; Việc ngôn ngữ “chat” xâm nhập vào giới trẻ không đơn thuần là chỉ tạo thêm nét vui tươi dí dỏm trong giao tiếp như một số ý kiến đánh giá mà thực chất, nó cũng tạo ra những hạn chế nhất định trong tư duy ngôn ngữ của giới trẻ hiện nay. Cách nghĩ tắt, viết tắt lâu dần sẽ trở thành thói quen không chỉ khiến cho giới trẻ mất dần vốn tiếng Việt mà nó còn đánh mất sự trong sáng của tiếng Việt, làm mất bản sắc văn hóa của dân tộc.

            Sự sáng tạo chính là động lực phát triển của xã hội. Tuy nhiên, cái mới lạ không phải bao giờ cũng đồng nghĩa với cái tích cực, cái hay. Bên cạnh yếu tố tích cực, sự tăng trưởng “nóng” của từ vựng tiếng Việt trong thời gian gần đây cũng thể hiện không ít các yếu tố tiêu cực. Hiện trạng đó dễ dẫn đến nguy cơ khủng hoảng về vốn từ của tiếng Việt.

            Ở Việt Nam, trong vòng những năm gần đây nền kinh tế có những tiến bộ vượt bậc. Đặc biệt là trong lĩnh vực thông tin, truyền thông có nhiều thành tựu lớn. Xu thế hội nhập đã làm thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế – xã hội đất nước. Từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi lên miền ngược đều có sự thay đổi lớn. Giới trẻ luôn là đối tượng có sự bắt nhịp nhanh nhất với những thay đổi này. Cùng với tâm lý lứa tuổi, giới trẻ đã tạo cho mình những thay đổi. Những thay đổi lớn đến mức người ta dễ dàng nhận ra và đặt cho một cái tên riêng.

            Ngôn ngữ “lai căng” được cấu thành không dựa trên một nguyên tắc khoa học nào. Tất cả được tự tạo ngẫu hứng và tự phát. Ngôn ngữ ấy đang được sử dụng trên phổ biến các trang điện tử hiện nay. Nó hình thành thói quen sử dụng ngôn ngữ tùy tiện trong các bạn trẻ. Tiếng Việt hiện đang có sự lai căng, nhí nhố, đánh mất đi trí tuệ, linh hồn và bản sắc dân tộc Việt.

            Lướt qua một vài trang mạng xã hội ta dễ bắt gặp những cách trình bày khác lạ của các bạn trẻ. Ta cũng dễ dàng nhận ra quy luật của kiểu ngôn ngữ này. Trước hết là sự đơn giản hóa ngôn từ giao tiếp: “yêu” viết thành “iu”, “biết” viết thành “bít”, ,…

  • Kiểu viết tắt tùy tiện, cẩu thả cũng là một xu thế hiện nay: “không” viết thành “ko”, “với” viết thành “vs”, “cũng” viết thành “cg”, “quá” viết thành “wá”, “scd” (sao cũng được), )…
  • Kiểu biến âm theo lối đơn giản hóa từ ngữ: “không biết” viết thành “hẻm biết”, “tình yêu” viết thành “tềnh iu”, ..
  • Kiểu biến nghĩa vụng về, dung tục: “cùng nhau đi trốn”, “cùi bắp”, “tin vịt”, “báo lá cải”, “chạy mất dép”, “bốc hơi”, “bó tay.com”,….

            Hiện nay, ngôn ngữ chat là một công cụ, phương tiện không thể thiếu của các bạn trẻ. Theo như một kết quả khảo sát thì nhắn tin qua điện thoại và mạng bằng ngôn ngữ chat cũng là trường hợp được teen sử dụng nhiều nhất, trong 100 bạn được hỏi thì có tới hơn 96 bạn trả lời: “mình chỉ sử dụng ngôn ngữ chat qua mạng và điện thoại”

            Từ một vài trường hợp đơn lẻ, ngôn ngữ “chat” đã gây nên một làn sóng mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu rộng trong giới trẻ. Hiện nay, ngôn ngữ “chat” đang phần nào khiến cho tiếng Việt biến dạng, méo mó, mất đi sự trong sáng và chuẩn mực vốn có. Việc sử dụng ký hiệu tràn lan, “tây, ta” lẫn lộn gây ảnh hưởng lớn đến chuẩn mực trong sáng của tiếng Việt.

3. HẬU QUẢ CỦA VIỆC SỬ DỤNG NHỮNG NGÔN TỪ “CHAT” CỦA GIỚI TRẺ HIỆN NAY

            Trước hết, loại ngôn ngữ này làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự trong sáng của tiếng Việt. Đồng thời có tác đông sâu sắc đến văn hóa giao tiếp trong xã hội. Những từ ngữ chuẩn mực với đầy đủ hàm nghĩa và sự biểu đạt của nó không còn được sử dụng. Thay vào đó là lớp ngôn ngữ “lai căng”, cẩu thả, tối nghĩa, dung tục lại được phổ biến. Điều đó rất nguy hại, có thể làm biến dạng ngôn ngữ và nền văn hóa dân tộc.

            Lệch lạc trong ngôn ngữ là nguyên nhân dẫn đến sự tha hóa về nhân cách. Không những thế nó còn gây nên lối sống buông thả. Sự lệch chuẩn của ngôn ngữ giao tiếp làm nảy sinh những suy nghĩ sai lầm. Lệch lạc, thiếu chuẩn mực trong giao tiếp là nguyên nhân gây ra mâu thuẫn, xung đột.

            Giao tiếp kém tế nhị khiến cho con người xấu xí hơn trong mắt người khác. Người có lời nói thô tục, thiếu chân thực thường không được mọi người yêu thương, hợp tác hay giúp đỡ. Họ còn bị xa lánh, bị xua đuổi trong cộng đồng. Từ việc lệch lạc trong ngôn ngữ, thái độ sống của con người cũng lệch lạc theo đó.

4. NGUYÊN NHÂN LÀM NẢY SINH HIỆN TƯỢNG NGÔN NGỮ “CHAT” CỦA GIỚI TRẺ HIỆN NAY

            Việc hình thành các mạng xã hội đã tạo điều kiện cho các bạn trẻ tự xây dựng một thế giới riêng mình. Họ được thỏa sức làm điều họ muốn trong một thế giới ảo. Trong thế giới đó, nhiều chuẩn mực, lễ nghi trong giao tiếp ngoài đời đã không còn nữa. Vì thế, những phong cách “thời thượng” và cá tính “chính hiệu” đã ra đời.

            Cùng với đó là sự lạm dụng các yếu tố ngoại ngữ, khẩu ngữ, cách diễn đạt để gây “ấn tượng”, “giật gân”. Thậm chí những sáng tạo này còn được các phương tiện truyền thông “tiếp sức” mạnh mẽ. Nhiều nhà quảng cáo đã sáng tạo ra những kết hợp kiểu biến danh từ thành tính từ chưa có trong từ điển.

            Ý thức, trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt của một bộ phận nhân dân đang xuống cấp. Xu hướng lai căng, vọng ngoại đang sôi nổi. Một số bạn trẻ thích “hiện đại”, thích “thể hiện cá tính, đẳng cấp” khoa trương một cách quá đáng. Một số doanh nghiệp nắm bắt tâm lý sính ngoại của người dân nên triệt để khai thác. Từ tên thương hiệu, vỏ bao bì, cách quảng cáo… đến việc ăn theo những từ mới. Một số người thường thể hiện sự “uyên bác” bằng cách diễn đạt pha trộn nhiều tiếng nước ngoài. Hay cách diễn đạt cầu kì, khó hiểu. Hoặc dùng các từ nước ngoài một cách không cần thiết…

            Giới trẻ hiện nay thiếu hụt tri thức cơ bản về ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng. Đời sống hiện đại khiến cho con người thiếu quan tâm đến ngôn ngữ giao tiếp. Họ thích nói ngắn gọn. Họ ngại dùng từ hán Việt. Từ đó dẫn đến việc dùng sai tiếng Việt cả về từ ngữ lẫn ngữ pháp. Một thực trạng dễ thấy là lời nói của giới trẻ ngày càng khô khan do vốn từ nghèo nàn. Việc sáng tạo ngôn ngữ không dựa trên các nguyên tắc khoa học và hoàn cảnh giao tiếp khiến cho ngôn ngữ tuổi “teen” rắc rối, khó hiểu, hoặc vô nghĩa.

            Sự thiếu tích cực và“chậm chân” của công tác nghiên cứu, phản biện về ngôn ngữ của các chuyên gia trước thực trạng xã hội khiến cho hiện tượng này leo thang. Chữ viết vốn là một công cụ để ghi lại ngôn ngữ. Vì thế những biểu hiện lệch lạc trong ngôn ngữ nói lâu dần sẽ được phản ánh trong ngôn ngữ viết. Với những thực tế như trên hẳn sẽ không còn là điều ngạc nhiên nữa.

5. GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC VIỆC SỬ DỤNG NGÔN NGỮ “CHAT” CỦA GIỚI TRẺ HIỆN NAY.

            Ngôn ngữ vốn là một hiện tượng xã hội. Sự phát triển hay tụt lùi của ngôn ngữ có ảnh hưởng rất lớn đến toàn xã hội. Vì vậy, những điều chỉnh dù nhỏ nhất cũng cần có sự tham gia của xã hội cộng đồng. Một xu hướng xấu có thể nảy sinh trong vòng vài năm. Nhưng phải mất rất nhiều năm để chấn chỉnh, điều hướng và khắc phục hậu quả của nó. Các bạn trẻ cần tích cực tham gia trau dồi vốn hiểu biết về ngôn ngữ, văn hóa của dân tộc. Tiếp thu những yếu tố mới trên cơ sở có xem xét chọn lọc. Không cổ xúy, chạy theo những xu hướng mà ngay chính bản thân cũng chưa hiểu chưa rõ.

            Các diễn đàn và các trang mạng xã hội cần xây dựng quy chế rõ ràng và phù hợp. Hướng diễn đàn đến những nội dung giao tiếp lành mạnh. Cần xây dựng những hạt nhân tiêu biểu nhằm thu hút thành viên của diễn đàn học hỏi, noi theo. Một biểu tượng đẹp trong ngôn ngữ rất dễ thu hút người xem làm theo.

            Gia đình cần sự quan tâm chia sẻ từ các bậc phụ huynh. Nên xem con em mình như những “người bạn” để hiểu được tâm tư nguyện vọng của giới trẻ hiện nay. Từ đó, đưa ra những lời khuyên một cách thiết thực nhất. Hãy giúp các em có nhiều cơ hội được tiếp xúc giao lưu học hỏi lẫn nhau nhiều hơn. Đồng thời, trạng bị những hiểu biết văn hóa, ứng xử ngay từ chính những hoạt động, sinh hoạt trong gia đình.

            Thầy cô là những người có ảnh hưởng trực tiếp đến các bạn trẻ. Thầy cô chính là những người định hướng, giúp các em hoàn thiện vốn ngôn ngữ của mình. Bởi vậy, mỗi thầy cô cần phải là những tấm gương về sử dụng ngôn ngữ, kiến thức ngôn ngữ. Thường xuyên thiết lập các kênh đối thoại để từ đó khích lệ, nhắc nhở hay chấn chỉnh hoạt động ngôn ngôn ngữ của học sinh. Đặc biệt, là xây dựng cho mình một ngôn phong trong sáng, chuẩn mực.

            Nhà trường cần định hướng cho các em những giá trị tốt đẹp của tiếng Việt. Từ đó, nâng cáo ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Tạo thêm nhiều cơ hội, cũng như khích lệ tinh thần học hỏi nói và làm theo lời hay ý đẹp. Bên cạnh đó cũng cần có những biện pháp để chấn chỉnh những em đi ngược lại xu thế đó.

            Cơ quan chức năng cần xây dựng một chương trình học tiếng Việt phù hợp và khoa học. Trên tinh thần giảm tải những kiến thức về ngôn ngữ học tiếng Việt. Coi trọng kỹ năng giao tiếp và phát triển kỹ năng sống cho học sinh. Từ đó, giúp giới trẻ có được định hướng đúng đắn.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Phân tích các căn cứ chấm dứt quyền sở hữu theo quy định của BLDS năm 2015 – Sưu tầm 01 bản án của Tòa án về vấn đề này và nêu quan điểm cá nhân về nội dung được giải quyết.

I. Cơ sở lý luận về quyền sở hữu

1.1 Khái niệm quyền sở hữu và các quan hệ pháp luật về sở hữu:

Khái niệm

Từ thời xa xưa, con người khi ý thức về xã hội, cộng đồng còn rất nhiều hạn chế thì đã biết chiếm giữ những thứ đem lại lợi ích cho bản thân mình như: thức ăn, nơi ở…

Sở hữu là gì?

Sở hữu là việc chiếm hữu những sản vật tự nhiên, những thành quả lao động (tư liệu sản xuất) của xã hội loài người [1]. Sở hữu cũng là một phạm trù kinh tế mang yếu tố khách quan và phát triển song song với sự xuất hiện và phát triển của xã hội loài người. Bởi con người muốn tồn tại phải thông qua các mối quan hệ xã hội. Trong quá trình chiếm hữu và tạo ra nhiều của cải vật chất thì các mối quan hệ sở hữu xuất hiện. Mối quan hệ này phản ảnh sự chiếm hữu giữa người với người, giữa người với vật..C.Mac đã chỉ ra rằng trong bất cứ hoạt động sản xuất nào thì việc con người chiếm hữu cũng xảy ra trong một hình thái kinh tế nhất định. Chính vì vậy, sở hữu là một phạm trù hình thái kinh tế [1].

Quyền sở hữu là gì?

Khi nhắc đến ‘quyền’ thì chúng ta có thể hiểu là những quyền lợi được Nhà nước ghi nhận và quy định. Trong xã hội, khi :

căn cứ chấm dứt quyền sở hữu theo BLDS 2015

Quan sát biểu đồ trên ta có thể hiểu là khi chế độ công hữu về sản xuất kết thúc, mở ra kỉ nguyên mới cho chế độ sản xuất tư hữu thì trong xã hội có sự phân chia giai cấp rõ dệt. Những người sở hữu của cải là người giàu trong xã hội bóc lột những người nghèo để nhằm gia tăng của cải của họ. Mâu thuẫn đạt đến đỉnh điểm và Nhà nước ra đời để điều hòa mâu thuẫn này phục vụ cho ý chí của giai cấp thống trị. Và một trong những điều cốt lõi của kinh tế-xã hội chính là sở hữu, Nhà nước phải đặt ra các quy định (quy phạm pháp luật) và một số quyền lợi cho nhân dân.

  Ta phải thừa nhận rằng : Quyền sở hữu là một phạm trù pháp lí phản ánh các quan hệ sở hữu trong một chế độ sở hữu nhất định, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh những quan hệ sở hữu trong xã hội. Các quy phạm pháp luật về sở hữu các nhận, quy định và bảo về các quyền lợi của các chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản [1].

1.2 Các quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu :

Cũng như mọi mối quan hệ pháp luật khác, quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu bao gồm : Chủ thể, khách thể và nội dung.

1.2.1. Chủ thể của quan hệ sở hữu :

– Là những cá nhân, pháp nhân tham gia quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu.

+ Đối với tài sản hữu hình : Chủ thể là  những người có trong tay tài sản.

+ Đối với tài sản vô hình : Chủ thể là những người được pháp luật dân sự công nhận.

1.2.2. Khách thể của quan hệ sở hữu

Khách thể của quan hệ sở hữu chính là tài sản. Theo điều 105 BLDS 2015[2] :

1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.

2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.

Khách thể của quan hệ sở hữu

Nguồn : Điều 107 BLDS 2015.

1.2.3. Nội dung quyền sở hữu

Theo điều 158 về quyền sở hữu của BLDS 2015 : Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật [3].

1.2.3.1 Quyền chiếm hữu

Theo điều 186. Quyền chiếm hữu của chủ sở hữu của BLDS 2015

  Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, chi phối tài sản của mình nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Quyền chiếm hữu của chủ sở hữu chỉ bị chấm dứt khi chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình hoặc chuyển giao quyền sở hữu của mình cho chủ thể khác[1].

– Căn cứ vào chủ thể chiếm hữu có thể chia làm 2 loại chiếm hữu: Chiếm hữu của chủ sở hữu và chiếm hữu không phải của chủ sở hữu.

– Căn cứ vào nhận thức của con người có thể chia thành 2 loại:

+ Chiếm hữu ngay tình: Chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu (điều 180 BLDS 2015). Trong thực tế, chiếm hữu ngay tình thường có biểu hiện là không có căn cứ pháp lý và chủ thể chiếm hữu không biết hoặc không thể biết việc mình chiếm hữu tài sản là không có căn cứ pháp lý.

  → Chiếm hữu ngay tình sẽ xảy ra ở giao dịch thứ 2 vì khi đó chủ thể chiếm hữu mới khó có thể xác định được căn cứ pháp lý của tài sản và bản thân chủ thể chiếm hữu sẽ khó biết rằng tài sản của mình được chuyển giao thông qua giao dịch là hợp pháp hay không.

+ Chiếm hữu không ngay tình: Chiếm hữu không ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu biết hoặc phải biết rằng mình không có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu ( điều 181 BLDS 2015).

– Ngoài ra còn chiếm hữu liên tục (điều 182 BLDS 2015) và chiếm hữu công khai (điều 183 BLDS 2015). Những tình trạng này căn cứ để suy đoán về tình trạng và quyền của người chiếm hữu được quy định tại điều 184 bộ luật này, cũng là căn cứ để xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu cho chủ thể chiếm hữu[1].

1.2.3.2 Quyền sử dụng:

  Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản (khoản 1 điều 189 BLDS 2015).

  – Quyền sử dụng có thể được chuyển giao cho người khác theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật[2]. Có 2 hình thức để chuyển giao quyền sử dụng: Thứ nhất là chuyển giao quyền sử dụng cùng chuyển giao luôn quyền chiếm hữu bởi trước hết muốn sử dụng tài sản thì đầu tiên phải thực hiện hành vi chiếm hữu. Hai là chuyển giao quyền sử dụng nhưng không chuyển giao quyền chiếm hữu (vd: cho văn phòng thì chủ thể cho thuê đã chuyển giao quyền sử dụng văn phòng đó cho người thuê nhưng người chiếm hữu văn phòng đó vẫn là người chủ).

1.2.3.3 Quyền định đoạt

– Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản (điều 192 BLDS 2015).

– 2 hình thức biểu hiện của quyền định đoạt:

+ Thực hiện quyền quyết định số phận của tài sản đó: Số phận ở đây có nghĩa là  tiêu dùng hết, hủy bỏ hoặc từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản. Tức là chủ sở hữu bằng hành vi tác động trực tiếp đến tài sản.

+ Thực hiện quyền chuyển giao quyền định đoạt cho 1 chủ thể khác thông qua 1 quan hệ pháp luật dân sự. Muốn thông qua mối quan hệ pháp luật dân sự chủ thể phải có năng lực hành vi dân sự, nếu trong trường hợp chủ thể mất năng lực hành vi thì được ủy quyền cho 1 chủ thể khác theo luật định (điều 195 BLDS 2015).

– Trong 1 số trường hợp mà chủ sở hữu sẽ bị hạn chế về quyền định đoạt theo điều 196 của bộ luật này.

1.3 Hình thức sở hữu

Bảng phân tích hình thức sở hữu theo Bộ Luật Dân Sự Việt Nam 2015.

Đặc điểmSở hữu toàn dânSở hữu riêngSở hữu chung
Khái niệmQuyền sở hữu toàn dân là tổng hợp các quy phạm pháp luật về quan hệ sở hữu của toàn nhân mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữuQuyền sở hữu riêng là tổng hợp các quy phạm pháp luật về các quan hệ sở hữu của một cá nhân, pháp nhân.Quyền sở hữu chung là tổng hợp các quy phạm pháp luật về mối quan hệ sở hữu của nhiều chủ thể đối với tài sản.
Chủ thể sở hữuToàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.Cá nhân, pháp nhânCá nhân, pháp nhân (đồng sở hữu).
Khách thểĐất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tưTài sản thuộc sở hữu cá nhân: tư liệu sản xuất hoặc tư liệu tiêu dùng1 tài sản hoặc một tập hợp tài sản không thể đem chia tách ra nếu không sẽ mất đi giá trị vốn có của tài sản đó.
Nội dung quyền sở hữuXác lập quyền sở hữu toàn dân tức là: Xác nhận việc chiếm hữu toàn dân đối với những TLSX trọng yếu, quy định nội dung và trình tự thực hiện quyền sở hữu toàn dân, xác định quyền hạn phạm vi của Nhà nước trong việc đại diện nhân dân thực hiện quyền sở hữu.Chủ sở hữu có quyền sở hữu đối với tài sản nhằm phục vụ nhu cầu của mình không trái pháp luật và việc sở hữu riêng không gây ảnh hưởng tới lợi ích quốc gia, cộng đồng (điều 2016 BLDS 2015).Việc định đoạt, sử dụng tài sản phải dựa trên thỏa thuận của 2 chủ thể đồng sở hữu khối tài sản đó (điều 216-218 BLDS 2015).

(Nguồn: Giáo trình LDS 1 và BLDS 2015).

II. Căn cứ chấm dứt quyền sở hữu theo quy định BLDS 2015 (điều 237-244 BLDS 2015)

  Theo nguyên tắc chung, căn cứ xác lập quyền sở hữu cũng đồng thời là căn cứ chấm dứt quyền sở hữu cũng có thể theo ý chí của chủ sở hữu hoặc do luật định[1].

2.1 Chấm dứt quyền sở hữu theo ý chí của chủ sở hữu

Theo điều 237 BLDS 2015

1. Chủ sở hữu chuyển quyền sở hữu của mình cho người khác.

Việc chấm dứt quyền sở hữu thông qua các hợp đồng chuyển giao hoặc thừa kế cũng giống như các lập quyền sở hữu đối với tài sản. Khi thông qua hợp đồng hoặc thừa kế, chủ sở hữu theo ý chí nguyện vọng của mình cuyển giao các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt cho một chủ thể khác và quyền sở hữu của chủ thể cũ với tài sản chấm dứt từ thời điểm phát sinh quyền sở hữu với chủ thể được chuyển giao (điều 238 BLDS 2015).

2. Chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình (điều 239 BLDS 2015).

Theo ý chí của bản thân, chủ sở hữu cũng có thể từ bỏ quyền sở hữu của mình. Và trong một số tình huống hành vi đó phải được pháp luật quy định vì nó có thể để lại hậu quả ảnh hưởng tới cộng đồng, môi trường và xã hội.

3. Tài sản đã được tiêu dùng hoặc bị tiêu hủy (điều 242 BLDS 2015).

Khi tài sản đã được sử dụng hết (tức là tài sản đó không còn là tài sản nữa) thì chủ sở hữu cũng đã chấm dứt quyền sở hữu của mình theo ý chí bản thân đó là thực hiện hành vi tiêu dùng hoặc tự tiêu hủy.

2.2 Chấm dứt quyền sở hữu của chủ sở hữu theo pháp luật quy định

  Đó là việc mà khi việc chấm dứt quyền sở hữu không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu mà việc chấm dứt quyền này phải căn cứ theo luật định.

Theo điều 237 BLDS 2015

4. Tài sản bị xử lý để thực hiện nghĩa vụ của chủ sở hữu (điều 241 BLDS 2015).

  Quyền thì luôn đi cùng với nghĩa vụ và việc thực hiện nghĩa vụ cũng chính là cơ sở để công dân được thực hiện quyền của mình.

  Nghĩa vụ ở đây có thể hiểu theo 2 hướng:

– Nghĩa vụ bản thân chủ thể không gắn liền với tài sản: Khi chủ thể không thực hiện nghĩa vụ của bản thân với vai trò là công dân thì chủ thể theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền phải chịu trách nhiệm với hành vi của mình bằng việc bị cơ quan có thẩm quyền chấm dứt quyền sở hữu tài sản.

– Nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với tài sản: Khi chủ sở hữu chỉ biết thực hiện quyền sở hữu của mình đối với tài sản mà không thực hiện nghĩa vụ của mình đối với tài sản thì cơ quan có thẩm quyền sẽ có thể chấm dứt quyền sở hữu của họ đối với tài sản đó.

5. Tài sản bị trưng mua.

Trong trường hợp tài sản được Nhà nước trưng mua:

+ Với bất động sản thì do quy hoạch

+ Với động sản thì do phục vụ mục đích phát triển đất nước thì chủ sở hữu phải chấm dứt quyền sở hữu của mình đối với tài sản được quy định tại điều 243 của bộ luật này.

Vd: Đất nhà ông A nằm trong dự án quy hoạch đường giao thông của tỉnh X. Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định trưng mua đất nhà ông A theo thẩm định giá thị trường do luật định.

6. Tài sản bị tịch thu.

Là việc chủ sở hữu buộc phải chấm dứt quyền sở hữu của mình đối với tài sản do chủ sở hữu phạm tội. Tài sản đó sẽ được sung công quỹ theo quy định tại điều 244 BLDS 2015.

7. Tài sản đã được xác lập quyền sở hữu cho người khác theo quy định của Bộ luật này (điều 240 BLDS 2015).

Tài sản không xác định được chủ sở hữu; tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy; tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên; gia súc, gia cầm bị thất lạc; vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên đã được xác lập quyền sở hữu cho người khác theo quy định tại các điều từ Điều 228 đến Điều 233 của Bộ luật này thì quyền sở hữu của những người có tài sản đó chấm dứt[2].

Khi quyền sở hữu của người chiếm hữu, người được lợi về tài sản đã được xác lập theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này hoặc quy định khác của luật có liên quan thì chấm dứt quyền sở hữu của người có tài sản bị chiếm hữu[2].

8. Trường hợp khác do luật quy định.

III. Bản án tranh chấp về quyền sở hữu

3.1 Nội dung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 51/2017/DS-ST NGÀY 18/08/2017 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỞ HỮU

1. Nguyên đơn: Ông Lục Văn B, sinh năm 1960 (có mặt). Địa chỉ: Khóm A, thị trấn ĐD, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau.

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Kim M, sinh năm 1973 (có mặt). Địa chỉ: Khóm A, thị trấn ĐD, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 03/5/2017, quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn ông Lục Văn B trình bày:

Gia đình ông được cơ quan có thẩm quyền cấp phép xây dựng nhà ở vào năm 1999 và sử dụng ổn định cho đến nay. Giáp ranh hướng Nam có hộ kế cận là đất của ông Hứa Tấn C sang nhượng cho ông Võ Thành K. Năm 2001 ông K xây dựng nhà tiền chế để ở và thỏa thuận mượn bức tường nhà của ông để xây dựng nhà tiền chế. Năm 2015 ông K sang nhượng nhà đất lại cho gia đình bà Nguyễn Thị Kim M để kinh doanh lò bánh mì. Quá trình kinh doanh của gia đình bà M làm nóng bức tường, nóng gạch tại vị trí để vận hành lò bánh làm hư hỏng một phần tường và gạch nhà ông. Do đó nay ông khởi kiện yêu cầu hộ gia đình bà M ngưng sử dụng bức tường nhà của ông và yêu cầu gia đình bà M xây dựng bức tường riêng như đã cam kết tại buổi hòa giải tại UBND thị trấn ĐD.

* Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn bà Nguyễn Thị Kim M trình bày: Năm 2015 bà mua đất và nhà tiền chế của ông Võ Thành K. Khi mua nhà tiền chế thì có sử dụng chung bức tường nhà của ông B. Khi xảy ra tranh chấp gia đình bà đã tự tháo dỡ không còn sử dụng bức tường nhà của ông B. Ông B cho rằng khi vận hành lò bánh gây nóng nhà ông B là không đúng. Hơn nữa, quá trình kinh doanh không lấn ranh đất của ông B và việc bà xây dựng bức tường hay không là quyền của bà.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Ông B, bà M xác định bức tường trên được ông B xây dựng hợp pháp trên đất của ông B và thuộc quyền sở hữu của gia đình ông B. Do đó, ông B có quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt bức tường nhà của mình. Ông B cho rằng quá trình kinh doanh lò bánh mì gây nóng tường dẫn đến hư hỏng và gia đình bà M tự ý sử dụng bức tường trái với ý muốn của mình, nên có quyền yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu của mình. Hộ gia đình bà M có sử dụng bức tường nhà của ông B, nay ông B là chủ sở hữu không đồng ý cho gia đình bà M tiếp tục sử dụng bức tường của ông. Hội đồng xét xử tiến hành xem xét thực tế hiện trạng bức tường phía tiếp giáp đất của bà M thì đúng như bà M trình bày tại phiên tòa cho đến nay không xây dựng vách ngăn cách riêng. Ngoài ra, trước khi Tòa án đưa vụ án ra xét xử thì hộ gia đình bà M có sử dụng bức tường như nội dung biên bản thẩm định, việc sử dụng này là trái với ý muốn của chủ sở hữu.

Đối với yêu cầu khởi kiện của ông B yêu cầu gia đình bà M xây dựng bức tường riêng. Tuy nhiên, bà M xác định hiện chưa có điều kiện để xây dựng vách ngăn riêng và không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của ông B. Xét thấy, việc gia đình bà M có xây dựng vách ngăn riêng trên phần đất do mình làm chủ sở hữu hay không thì đây là quyền định đoạt của chủ sở hữu, ông B không phải chủ sở hữu nên không có quyền định đoạt thay cho chủ sở hữu. Do đó, yêu cầu này của ông B là không có căn cứ nên không được chấp nhận. Đối với việc ông B cho rằng hộ gia đình bà M vận hành lò bánh làm hư hỏng tường nhưng ông không khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không đặt ra xem xét, giải  quyết. Nếu ông B xác định quá trình kinh doanh của gia đình bà M làm thiệt hại đến tài sản của ông B thì có quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại bằng vụ kiện dân sự khác là có cơ sở.

QUYẾT ĐỊNH

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lục Văn B: Buộc bà Nguyễn Thị Kim M chấm dứt ngay các hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu bức tường nhà của ông Lục Văn B.

2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông B yêu cầu hộ gia đình bà Nguyễn Thị Kim M xây dựng bức tường sử dụng riêng.

7. Đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./. 

3.2 Quan điểm cá nhân và căn cứ pháp lí:

  Theo em, TA đã có những nhận định vô cùng rõ ràng lập luận sâu sắc về vụ việc ông B và bà M.

  Việc chấp nhận 1 phần yêu cầu khởi kiện của ông B về buộc bà M thôi sử dụng tường thuộc sở hữu của ông B là hoàn toàn có căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự, Quy định tại khoản 2 Điều 164 Bộ luật dân sự năm 2015, nên cần buộc hộ gia đình bà M chấm dứt ngay các hành vi sử dụng bức tường trái với ý muốn của ông B và bà N là đúng quy định pháp luật.

 TA không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông B yêu cầu bà M phải xây dựng tường riêng là hợp lí vì đó là quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạn của bà M với miếng đất đã mua lại của ông K theo quy định của BLDS 2015.

  Bản án trên là một bản án sơ thẩm có tình tiết liên quan về quyền sở hữu tài sản của 2 cá nhân đó là ông B, bà M. Việc tranh chấp quyền sở hữu là vụ việc xảy ra nhiều trong tình huống. Vì tài sản là thứ gắn liền với lợi ích của cá nhân, tổ chức chính vì vậy việc bảo về quyền sở hữu tài sản của mình là điều nên làm.

Khi xã hội ngày càng phát triển, các quan hệ dân sự và giao dịch dân sự ngày càng được mở rộng thì chế định về tài sản và quyền sở hữu lại là chế định cơ bản, quan trọng nhất trong Bộ luật Dân sự nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu tài sản, bảo đảm trật tự trong giao dịch dân sự.

Trước yêu cầu thể chế hoá đầy đủ, đồng thời tăng cường các biện pháp để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực của đời sống dân sự, cũng như các tư tưởng, nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa về quyền sở hữu trong đó có quyền sở hữu về tài sản. Cùng với đó là biết bao nhiêu nhu cầu chính đáng được đặt ra. Thiết nghĩ rằng nhà làm luật cần phải dẹp bỏ các định kiến ý thức hệ viển vông, lắng nghe chân thành tiếng nói của xã hội, và đầu tư nhiều tâm huyết để xây dựng một bộ luật dân sự khoa học và chất lượng [6].

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hiểu thế nào là trích dẫn hợp lý tác phẩm nhằm mục đích bình luận và nghiên cứu?.

Tình huống: Ông Nam là tác giả hai bài báo phân tích về tính “thanh thanh tục tục” trong thơ Hồ Xuân Hương được đăng trên Tạp chí Văn Nghệ số ngày 03/06/2015 và ngày 03/08/2015. Ông Quân là tác giả cuốn sách “Bình luận Thơ Hồ Xuân Hương” xuất bản ngày 20/11/2017. Trong cuốn sách của mình, Ông Quân đã tự ý trích dẫn nguyên văn hai bài báo của Ông Nam, có đề tên tác giả và nguồn gốc tác phẩm rõ ràng, sau đó phân tích và chỉ ra 20 điểm không hợp lý của Ông Nam khi phân tích về thơ Hồ Xuân Hương. Ông Nam cho rằng Ông Quân có hành vi xâm phạm quyền tác giả của mình khi sử dụng tác phẩm mà không xin phép, không trả tiền cho Ông Nam. Tuy nhiên, Ông Quân cho rằng ông trích dẫn hợp lý tác phẩm nên không cần phải xin phép và trả tiền cho Ông Nam. Anh chị hãy phân tích và đưa ra quan điểm cá nhân trong vụ việc nói trên?

1. Phân tích vụ việc có dấu hiệu xâm phạm quyền tác giả:

* Đối tượng được bảo hộ:

            +) Đối tượng được bảo hộ trong tình huống trên là tác phẩm báo chí, quy định tại điều 9 Nghị định 22/2018 NĐ-CP

            +) Điều kiện bảo hộ tác phẩm:

  • Tác phẩm là kết quả sáng tạo của ông Nam trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật;
    • Tác phẩm được thể hiện dưới dạng vật chất nhất định, và được đăng trên Tạp chí Văn Nghệ số ngày 03/06/2015 và ngày 03/08/2015;
    • Tác phẩm không thuộc các đối tượng không được bảo hộ quyền tác giả, quy định tại điều 15 Luật sở hữu trí tuệ;

* Căn cứ phát sinh quyền tác giả: quy định tại Khoản 1 Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ

            +) Chủ thể quyền tác giả: Ông Nam là tác giả đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả theo quy định theo Khoản 1 Điều 6 Nghị định 22/2018 NĐ-CP và điều 37 Luật Sở hữu trí tuệ; vì ông Nam là người trực tiếp sáng tạo ra hai bài báo phân tích về tính “thanh thanh tục tục” trong thơ Hồ Xuân Hương và ông đã sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất –  kỹ thuật của mình để có thể sáng tác hoàn thiện hai bài báo và đăng trên Tạp chí Văn Nghệ số ngày 03/06/2015 và ngày 03/08/2015.

            +) Nội dung quyền tác giả: vì ông Nam là tác giả đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả nên ông Nam có các quyền nhân thân quy định tại điều 19 và các quyền tài sản quy định tại điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ.

            +) Xác định thời hạn bảo hộ quyền tác giả:

  • Quyền nhân thân trừ quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm được bảo hộ vô thời hạn ( Khoản 1 Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ).
    • Quyền tài sản và quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm đối với hai tác phẩm báo chí trên được bảo hộ suốt cuộc đời tác giả và năm mưới năm tiếp theo năm tác giả mất ( Điểm b Khoản 2 Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ).

* Hành vi trong vụ việc trên là xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam.

2. Quan điểm về trích dẫn hợp lý tác phẩm nhằm mục đích bình luận và nghiên cứu:

            Theo em ông Quân không có hành vi xâm phạm quyền tác giả của ông Nam, ông Quân chỉ trích dẫn hợp lý tác phẩm để đưa ra bình luận và nghiên cứu:

   +) “Công bố tác phẩm” là đưa ra công khai tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học để cho mọi người biết dưới các hình thức như xuất bản, trưng bày, biểu diễn, thuyết trình… hoặc đăng kí tác phẩm đó tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Theo đó, hai bài báo phân tích về tính “thanh thanh tục tục” trong thơ Hồ Xuân Hương của ông Quân là hai tác phẩm đã được công bố, công khai cho công chúng và được đăng trên Tạp chí Văn Nghệ số ngày 03/06/2015 và ngày 03/08/2015.

   +) Theo điểm b, khoản 1 điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ có quy định trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố mà không phải xin phép, không phải trả nhuận bút, thù lao: “Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình”. Như đã chứng minh ở trên hai bài báo của ông Nam đã được công bố nên hoàn toàn áp dụng quy định của luật trong trường hợp này.

            – Theo Khoản 1 Điều 23 Nghị định 22/2018 NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật sở hữu trí tuệ đã quy định: “Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình quy định tại điểm b khoản 1 Điều 25 của Luật sở hữu trí tuệ phải đáp ứng đủ các điều kiện sau: 1. Phần trích dẫn chỉ nhằm mục đích giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn đề được đề cập trong tác phẩm của mình.”

            – Trong cuốn sách của mình, Ông Quân đã trích dẫn nguyên văn hai bài báo của Ông Nam, có đề tên tác giả và nguồn gốc tác phẩm rõ ràng. Khi trích dẫn ông Quân vẫn thể hiện rõ ràng nguồn gốc của tác phẩm để người đọc biết đó là tác phẩm của ông Nam. Ông Quân vẫn để nguyên tên ông Nam, không hề sửa chữa bất kỳ câu chữ nào của ông Nam, cũng không hề mạo danh. Như vậy, đó không thể là hành vi sao chép, ông Nam chỉ trích dẫn tác phẩm ra để người đọc dễ dàng theo dõi.

            – Khi ông Quân trích dẫn nguyên văn hai bài báo của ông Nam để nghiên cứu và thảo luận nhằm mục đích giúp người đọc có cái nhìn khách quan và toàn diện nhất về hai bài báo. Bên cạnh đó, khi ông Quân trích dẫn nguyên văn nên là bài báo của ông Nam sẽ không bị cắt xén, nối ghép, xuyên tạc, và được dựng lại trung thực toàn bộ giúp cho người đọc dễ dàng theo dõi, hiểu hơn về sự phân tích, thảo luận và chỉ ra những lỗi sai của ông Quân. Mặt khác, khi ông Quân trích dẫn toàn bộ hai bài báo hay trích dẫn một phần vẫn được coi là trích dẫn hợp lý. Với cách làm như này, người đọc sẽ thấy từng vấn đề được tác giả đưa ra và tranh luận với nhà nghiên cứu khác như thế nào.

            Và tuy là “in toàn văn” nhưng thực chất ông Quân trích dẫn hợp lý, bởi ông Quân đã xen vào các đoạn trong các bài viết của ông Nam những lời bình luận của mình, mục đích là để người đọc dễ đối chiếu và nhận ra những sai sót trong các bài của ông Nam. Như vậy, cần phải khẳng định đây là một tác phẩm nghiên cứu khoa học, một chỉnh thể sáng tạo của ông Quân, chứ ông Quân không phải đơn thuần chỉ là hợp tuyển các bài của nhiều tác giả để in thành sách với mục đích thương mại.

            – Trong quá trình nghiên cứu, ông Quân đã chỉ ra 20 điểm không hợp lý của Ông Nam khi phân tích về thơ Hồ Xuân Hương. Điều này cho thấy, ông Quân đã bỏ rất nhiều thời gian và công sức để tìm hiểu, phân tích bài ông Nam mới có thể nhận ra những điểm chưa hợp lý đó. Mỗi người nghiên cứu có một cách đi, cách nhìn, chính vì thế nên khi đọc bài ông Nam bằng lý lẽ và hiểu biết của mình, ông Quân đã có cách nhìn nhận khác, chỉ ra những điểm chưa hợp lý để mọi người cùng thảo luận. Vì bài viết của ông Nam chỉ là ý kiến chủ quan của ông, khi được chỉ ra những lỗi sai đó, sẽ có thể giúp ông Nam nhìn nhận về thơ Hồ Xuân Hương một cách khách quan hơn.

   +) Theo Khoản 2 điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “Tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.”

            – Khi ông Quân trích dẫn hai bài báo của ông Nam trong cuốn sách của mình không làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm vì: đây không phải người đọc chỉ muốn xem bài báo của ông Nam mà bỏ ra số tiền lớn hơn để mua cuốn sách của ông Quân, vì thế nếu người đọc muốn đọc báo của ông Nam thì vẫn mua báo của ông, nên việc ông Quân trích dẫn hợp lý không ảnh hưởng gì đến ông Nam. Bên cạnh đó, tờ báo sẽ rẻ hơn cuốn sách, nếu yêu thích ông Nam người đọc vẫn sẽ chọn mua báo của ông

            – Trong cuốn sách của ông Quân không chỉ có mỗi sự phân tích, thảo luận, nghiên cứu bài báo của ông Nam mà còn rất nhiều nội dung khác.

            – Như vậy, tuy trích dẫn nguyên vẹn hai bài báo của ông Nam chiếm một lượng trang in, nhưng đó chỉ là nguyên liệu để ông Quân chỉ ra 20 điều chưa hợp lý một cách khách quan nhất và rõ ràng phần bình luận của ông Quân mới là nội dung chính và phù hợp với tiêu đề cuốn sách “Bình luận thơ Hồ Xuân Hương”. Hơn nữa, mục đích trích dẫn hợp lý hai bài báo của ông Nam chỉ để phục vụ tranh luận khoa học. Nếu đặt hai bài báo của ông Nam trong tương quan với cuốn sách “Bình luận thơ Hồ Xuân Hương” và với 20 lời bình chú của ông Quân thì có thể thấy rõ “tính sáng tạo” của ông Quân…

            – Mặt khác, khi ông Quân trích dẫn bài báo của ông Nam vào cuốn sách của mình để nghiên cứu còn giúp bài báo của ông Nam được nhiều người biết đến rộng rãi hơn. Và có thể ông Nam sẽ bán được nhiều báo hơn vì người đọc sẽ thích thú và mua về để tìm hiểu thêm.

            – Việc ông Quân trích dẫn tác phẩm của ông Nam không hề gây phương hại đến các quyền của các giả vì: ông đang chỉ ra những điều chưa hợp lý trong bài báo của ông Nam, giúp ông có cái nhìn toàn diện hơn, nhận ra những lỗi sai của mình và giúp ông Nam phát triển hơn trong lối viết văn của những tác phẩm sau này. Khi đưa một tác phẩm ra thảo luận và phân tích đó là điều hoàn toàn hợp lý trong lĩnh vực văn học, giúp nghiên cứu mà không hề gây phương hại gì đến các quyền tác giả.

            – Việc ông Quân trích dẫn hợp lý là phù hợp với tính chất, đặc điểm của loại hình tác phẩm được sử dụng để trích dẫn, không gây phương hại đến quyền tác giả.

            – Cuối cùng, khi trích dẫn nguyên văn hai bài báo của ông Nam, ông tôn đã có đề tên tác giả và nguồn gốc tác phẩm rõ ràng, như vậy là hoàn toàn đúng theo quy định pháp luật tại khoản 2 điều 25 Luật sở hữu trí tuệ

=> Kết luận: Ông Quân không có hành vi xâm phạm quyền tác giả, nên không cần phải xin phép và không cần phải trả tiền cho ông Nam; Việc làm của ông Quân là trích dẫn hợp lý tác phẩm nhằm mục đích bình luận và nghiên cứu.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự theo Luật Thi hành án dân sự năm 2014.

Trong quá trình tổ chức thi hành án dân sự, để ngăn chặn các hành vi nhằm trốn tránh, tẩu tán, hủy hoại tài sản dẫn đến không còn điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, kể từ khi Luật Thi hành án dân sự năm 2008 ra đời, qua lần sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã dành không ít điều khoản quy định về các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự và những nội dung có liên quan. Những quy định này đã kịp thời khắc phục những bất cập và tạo hành lang pháp lý cho Chấp hành viên thực thi nhiệm vụ, bào đảm các bản án, quyết định của Tòa án và cơ quan có thẩm quyền được thi hành một cách triệt để và hiệu quả. Để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này, em chọn đề bài số 6: “Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự” làm bài tập học kỳ của mình.

1. Một số vấn đề khái quát về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự

  • Khái niệm

Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự là biện pháp pháp lí đặt tài sản của người phải thi hành án trong tình trạng bị hạn chế hoặc cấm sử dụng, định đoạt nhằm ngăn chặn việc người phải thi hành án tẩu tán, định đoạt tài sản trốn tránh việc thi hành án và đôn đốc họ tự nguyện thực hiện nghĩa vụ thi hành án của mình do chấp hành viên áp dụng trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự[1]”.

  • Ý nghĩa của biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự

Thứ nhất, ngăn chặn người phải thi hành án tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án nên bảo đảm được hiệu lực của bản án, quyết định, quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi hành án và bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật.

Thứ hai, đốc thúc người phải thi hành tự nguyện thi hành nghĩa vụ của mình.

Thứ ba, việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự là tiền đề, cơ sở cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự sau này, bảo đảm hiệu quả của việc thi hành án dân sự.

2. Các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự theo pháp luật thi hành án dân sự hiện hành

Căn cứ vào nội dung bản án, quyết định; quyết định thi hành án; tính chất, mức độ, nghĩa vụ thi hành án; điều kiện của người phải thi hành án; yêu cầu bằng văn bản của đương sự và tình hình thực tế của địa phương, Chấp hành viên được lựa chọn việc áp dụng biện pháp bảo đảm thích hợp theo Điều 13 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/07/2015 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự (Nghị định số 62/2015/NĐ-CP). Theo đó, các biện pháp bảo đảm mà Chấp hành viên có thể lựa chọn bao gồm:

2.1. Biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ

  • Bản chất của biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ

Biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản tại ở gửi giữ là biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự được Chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ trả tiền và họ có tiền gửi trong tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác hoặc người thứ ba khác. Với góc nhìn này, biện pháp này không thể áp dụng đối với việc thi hành nghĩa vụ phải làm một công việc.

Việc áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ nhằm cô lập, đặt tài khoản, tài sản của người phải thi hành án trong tình trạng bị phong tỏa, không thể sử dụng được, ngăn chặn việc tẩu tán tiền trong tài khoản. Thông thường, biện pháp bảo đảm này có thể được chuyển tiếp thành biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành án để thi hành nghĩa vụ trả tiền của người phải thi hành án nếu người phải thi hành án không tự nguyện áp dụng.

Biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ được quy định tại Điều 67 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 và được hướng dẫn chi tiết tại Nghị định số 62/2015/NĐ-CP. Trước đây, theo quy định tại Điều 67 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và Điều 11 Nghị định số 58/2008/NĐ-CP ngày 13/07/2008 của Chính phủ quy định biện pháp bảo đảm là “phong tỏa tài sản” mà không quy định là biện pháp “phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ”. Sự thay đổi này xuất phát từ thực tế hoạt động thi hành án dân sự trong thời gian qua cho thấy nhiều trường hợp người phải thi hành án có tài sản không phải là tiền mà còn là các loại tài ản khác như kim khí quý, đá quý…đang gửi người khác giữ (ngân hàng, các tổ chức tín dụng, người thứ ba…) nhưng Luật Thi hành án dân sự năm 2008 không quy định Chấp hành viên được quyền áp dụng biện pháp bảo đảm phong tỏa đối với trường hợp này dẫn đến người phải thi hành án dễ dàng tẩu thoát, trốn tránh nghĩa vụ. Sự thay đổi này nhằm tạo điều kiện tốt hơn để bảo vệ quyền lợi của người được thi hành án.

  • Điều kiện áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ

Chấp hành viên áp dụng biện pháp này trong trường hợp có căn cứ khẳng định người phải thi hành án đang có tiền trong tài khoản nhất định (thông tin về tài khoản, về số tiền trong tài khoản có thể do đương sự cung cấp hoặc do Chấp hành viên xác định). Với mục đích nhằm ngăn chặn việc tẩu tán tiền trong tài khoản của người phải thi hành án thì Chấp hành viên có thể quyết định áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ của người phải thi hành án ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình thi hành án. Khi ra quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ, Chấp hành viên cần thông báo trước cho đương sự để tránh việc đương sự rút hết tiền trong tài khoản nhằm trốn tránh việc thi hành án. Khi tiến hành phong tỏa tài khoản, Chấp hành viên phải giao quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ cho cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản của người phải thi hành án (khoản 2 Điều 67 Luật thi hành án năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014). Cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản của người phải thi hành án phải thực hiện ngay quyết định của Chấp hành viên về phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ.

Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ, Chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng chế hoặc ra quyết định chấm dứt việc phong tỏa theo quy định (khoản 3 Điều 67 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014). Đây là một quy định mới so với Luật Thi hành án dân sự năm 2008, nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người phải thi hành án tự nguyện thi hành án và tương thích với quy định về thời hạn tự nguyện thi hành án là 10 ngày, kể từ ngày đương sự nhận được quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án theo Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014.

  • Thủ tục áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ

Căn cứ Điều 20 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, thủ tục phong tỏa tiền trong tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ được thực hiện như sau:

Quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ phải xác định rõ số tiền, tài sản bị phong tỏa. Chấp hành viên giao quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ cho người đại diện theo pháp luật của Kho bạc Nhà nước, tổ chức tín dụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ hoặc người có trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức đó và lập biên bản về việc giao quyết định. Biên bản phải có chữ ký của Chấp hành viên, người nhận quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ. Trường hợp người nhận quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ không ký thì phải có chữ ký của người chứng kiến. Quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ được ban hành sau khi Chấp hành viên lập biên bản phong tỏa phải được gửi ngay cho cơ quan, tổ chức, cá nhân nơi có tài khoản, tài sản bị phong tỏa.

Trường hợp người đại diện theo pháp luật hoặc người có trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức không nhận quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ thì Chấp hành viên lập biên bản về việc không nhận quyết định, có chữ ký của người làm chứng hoặc chứng kiến và tiến hành niêm yết quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ của người phải thi hành án tại trụ sở, cơ quan, tổ chức đó. Người đại diện theo pháp luật hoặc người có trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức không nhận quyết định phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật và phải bồi thường nếu có thiệt hại xảy ra.

Chấp hành viên có trách nhiệm bảo mật các thông tin về tài khoản, tài sản của người phải thi hành án bị áp dụng biện pháp bảo đảm được Kho bạc Nhà nước, tổ chức tín dụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân nơi có tài khoản cung cấp.

2.2. Biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự

  • Bản chất và điều kiện áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự

Biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự là biện pháp bảo đảm thi hành án được tiến hành trên các động sản, các động sản phải đăng ký quyền sở hữu, giấy tờ có giá hoặc bất động sản của người phải thi hành án; đặt những động sản, giấy tờ đăng ký của động sản trong tình trạng hạn chế quyền sử dụng nhằm ngăn chặn việc người phải thi hành án tẩu tán, hủy hoại tài sản để trốn tránh việc phải thi hành án[2]. Biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự được quy định tại Điều 68 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014. Theo Điều luật này, Chấp hành viên có thể áp dụng một cách độc lập hoặc đồng thời áp dụng cả hai biện pháp: tạm giữ tài sản của đương sự và tạm giữ giấy tờ của đương sự.

Biện pháp này khác biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ ở chỗ: Đối tượng để bảo đảm thi hành án không phải là tiền mà là tài sản hoặc giấy tờ có liên quan đến việc thi hành án như giấy đăng ký xe mô tô, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… hoặc các tài sản có thể xử lý được để thi hành án. Nếu như biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ chỉ được áp dụng khi Chấp hành viên đã xác định được số dư trong tài khoản của người phải thi hành án hoặc khi đương sự yêu cầu thì biện pháp này được áp dụng ngay cả trong trường hợp chưa xác định được chủ sở hữu của tài sản, giấy tờ bị tạm giữ.

  • Thủ tục áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự

Theo quy định tại Điều 68 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014, Chấp hành viên đang thực hiện nhiệm vụ thi hành án có quyền tạm giữ tài sản, giấy tờ liên quan đến việc thi hành án mà đương sự, tổ chức, cá nhân khác đang quản lý, sử dụng. Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ, thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên trong việc tạm giữ tài sản, giấy tờ. (Đây là quy định mới theo Luật sửa đổi, bổ sung nhằm nhấn mạnh trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan mà không chỉ là việc tham gia hỗ trợ).

Quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ phải xác định rõ loại tài sản, giấy tờ bị tạm giữ và Chấp hành viên phải giao quyết định này cho đương sự hoặc tổ chức, cá nhân đang quản lý, sử dụng.

Trường hợp cần tạm giữ ngay tài sản, giấy tờ mà chưa ban hành quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ thì Chấp hành viên yêu cầu giao tài sản, giấy tờ và lập biên bản về việc tạm giữ. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi lập biên bản, Chấp hành viên phải ban hành quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ. Biên bản, quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.

Khi tạm giữ tài sản, giấy tờ phải lập biên bản có chữ ký của Chấp hành viên và người đang quản lý, sử dụng tài sản, giấy tờ. Trường hợp người đang quản lý, sử dụng tài sản, giấy tờ không ký thì phải có chữ ký của người làm chứng. Biên bản tạm giữ tài sản, giấy tờ phải được giao cho người quản lý, sử dụng tài sản, giấy tờ.

Chấp hành viên yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp các giấy tờ, tài liệu cần thiết để chứng minh quyền sở hữu, sử dụng; thông báo cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan về quyền khởi kiện yêu cầu xác định quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản, giấy tờ tạm giữ. Trường hợp cần thiết, Chấp hành viên phải xác minh, làm rõ hoặc yêu cầu Tòa án, cơ quan có thẩm quyền xác định người có quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản, giấy tờ tạm giữ. Quy định này tạo thêm điều kiện cho Chấp hành viên xác định đúng đắn hơn quyền sở hữu, sử dụng tài sản, giấy tờ để xử lý theo đúng quy định.

Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có căn cứ xác định tài sản, giấy tờ tạm giữ thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án, Chấp hành viên phải ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định; trường hợp có căn cứ xác định tài sản, giấy tờ không thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án hoặc thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án nhưng đã thực hiện xong nghĩa vụ của mình thì Chấp hành viên phải ra quyết định trả lại tài sản, giấy tờ cho người co quyền sở hữu, sử dụng. (Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định thời hạn này là 15 ngày).

2.3. Biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản

  • Bản chất và điều kiện áp dụng biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản

Ngoài biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ, tạm giữ giấy tờ, tài sản mà đương sự, tổ chức, cá nhân khác đang quản lý, sử dụng thì biện pháp bảo đảm thi hành án cũng có thể được tiến hành trên các động sản, bất động sản của người phải thi hành án thông qua việc quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản của người phải thi hành án nhằm ngăn chặn hoặc tạm dừng các hành vi của người phải thi hành án như chuyển quyền sở hữu, sử dụng, tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng tài sản. Biện pháp này được áp dụng đối với các động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản của người phải thi hành án và là tiền đề cho việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án như kê biên, xử lý tài sản (quyền sở hữu trí tuệ, động sản, bất động sản) của người phải thi hành án; cưỡng chế trả vật, chuyển quyền sử dụng đất.

Hiện nay, có rất nhiều tài sản, quyền tài sản mà việc chuyển dịch quyền sở hữu, sử dụng phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền như vốn góp của tổ chức, cá nhân tại doanh nghiệp; quyền sử dụng đất; phương tiện cơ giới… Đối với những tài sản này, để thực hiện mua bán, chuyển nhượng, các bên tham gia quan hệ mua bán, chuyển nhượng phải thực hiện thông quan việc đăng ký tại phòng đăng ký kinh doanh, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, nhưng trong trường hợp nhất định quyền sở hữu, sử dụng của bên mua, bên nhận chuyển nhượng chỉ được xác lập khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký.

  • Thủ tục áp dụng biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản

Theo quy định Điều 69 Luật Thi hành án năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 và Điều 19 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP thì trường hợp cần ngăn chặn hoặc phát hiện đương sự có hành vi chuyển quyền sở hữu, sử dụng, tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng tài sản, trốn tránh việc thi hành án, Chấp hành viên ra quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản của người phải thi hành án, tài sản chung của người phải thi hành án với người khác.

Quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản phải được gửi ngay cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan (như Phòng đăng ký kinh doanh, Văn phòng đăng ký quyền sở hữu nhà và sử dụng đất, một số cơ quan khác và người phải thi hành án) để tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản đó.

Chấp hành viên yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ chức, cả nhân có liên quan cung cấp các giấy tờ, tài liệu cần thiết để chứng minh quyền sở hữu, sử dụng; thông báo cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan về quyền khởi kiện yêu cầu xác định quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản. Trường hợp cần thiết, Chấp hành viên phải xác minh, làm rõ hoặc yêu cầu Tòa án, cơ quan có thẩm quyền xác định quyền sở hữu, sử dụng tài sản để thi hành án, giải quyết tranh chấp tài sản, yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch có liên quan đến tài sản theo quy định của pháp luật. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho Chấp hành viên có cơ sở chắc chắn trong việc ra các quyết định tiếp theo để thi hành án. Đây cũng là một điểm mới trong Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có căn cứ xác định tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án, Chấp hành viên phải ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định; trường hợp có căn cứ xác định tài sản không thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án thì Chấp hành viên phải ra quyết định chấm dứt việc tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản. Điều 69 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày ra quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản, Chấp hành viên phải thực hiện việc kê biên tài sản hoặc chấm dứt việc tạm dừng, việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản. Tuy nhiên, đối với những tài sản có giá trị lớn, phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì thời gian để xác minh theo Luật Thi hành án dân sự năm 2008 là quá ngắn, không khả thi. Do vậy, Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã có sự thay đổi hợp lý hơn về thời hạn tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản là 10 ngày, kể từ ngày có căn cứ xác định tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án.

3. Thực trạng áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự và một số kiến nghị

3.1. Thực trạng áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự

Quy chế số 01/QCLN/NHNNVN-BTP ngày 18/03/2015 về phối hợp giữa Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tư pháp trong công tác thi hành án dân sự đã phát huy vai trò quan trọng trong công tác phối hợp, góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, bảo đảm sự thống nhất trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của từng ngành, tạo chuyển biến tích cực trong công tác thi hành án dân sự liên quan đến tín dụng, ngân hàng. Tuy nhiên, còn một số tồn tại, hạn chế như: việc phối hợp có lúc, có nơi còn chưa đáp ứng yêu cầu, thể hiện ở việc cơ quan thi hành án dân sự còn chậm thụ lý vụ việc thi hành án của các tổ chức tín dụng; các tổ chức tín dụng không thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên và cơ quan thi hành án dân sự trong việc phong tỏa hoặc khấu trừ tiền trong tài khoản…[3]

Cơ chế quản lý tài sản ở nước ta hiện nay còn thiếu minh bạch, các giao dịch kinh tế, dân sự hiện nay vẫn chủ yếu được thực hiện bằng hình thức thanh toán tiền mặt, do đó kiểm soát được thu nhập, tài sản của tổ chức, cá nhân và cũng gây khó khăn cho việc áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ.

Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành ở một số địa phương, đơn vị có lúc, có việc còn chưa quyết liệt, thiếu sâu sát; việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự chưa sâu, nên khi áp dụng còn lúng túng, sai sót; một số Chấp hành viên chưa kiên quyết áp dụng biện pháp bảo đảm và cưỡng chế để tổ chức thi hành dứt điểm việc thi hành án[4].

3.2. Một số kiến nghị

– Về pháp lý, theo ý kiến cá nhân, không nên quy định Chấp hành viên phải thông báo trước cho đương sự về việc phong tỏa tài khoản, việc thông báo có thể diễn ra sau khi đã tiến hành phong tỏa. Bởi hiện nay, việc thực hiện các giao dịch thông qua Ngân hàng, các tổ chức tín dụng diễn ra rất nhanh chóng, chẳng hạn như giao dịch rút tiền trong tài khoản tại ATM chỉ diễn ra trong thời gian rất ngắn.

– Về tổ chức

+ Cơ quan thi hành án cần phối hợp chặt chẽ hơn với các cơ quan công an, Tòa án, Viện kiểm sát, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng các biện pháp thi hành án dân sự cũng như trong toàn bộ quá trình thi hành án dân sự.

+ Tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, hướng dẫn xây dựng chương trình công tác, tổ chức rút kinh nghiệm. Việc rút kinh nghiệm cần được xây dựng dựa trên báo cáo, đánh giá của từng chấp hành viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình và phải được tổ chức hàng năm. Trong đó, các chấp hành viên cần chỉ rõ những khó khăn, bất cập tại sao không thể thi hành được để có hướng dẫn cụ thể trong từng trường hợp. Thường xuyên tổ chức các buổi gặp gỡ, trao đổi, rút kinh nghiệm về công tác phối hợp với các cơ quan, ban, ngành hữu quan đã tham gia quá trình hỗ trợ thi hành án.

Các biện pháp bảo đảm thi hành án có vai trò quan trọng, làm cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án trong những trường hợp cần thiết. Các biện pháp này hỗ trợ cho việc thi hành các bản án, quyết định, góp phần đảm bảo hiệu lực thi hành bản án, quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, bảo vệ quyền và nghĩa vụ dân sự được ghi nhận trong bản án, quyết định cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể, cá nhân.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Luật Thi hành án dân sự năm 2008;
  2. Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014;
  3. Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/07/2015 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự;
  4. Nghị định số 58/2008/NĐ-CP ngày 13/07/2008 của Chính phủ;
  5. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt Nam, Hà Nội – 2011;
  6. Phạm Thi Minh Hằng, Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội – 2012;
  7. TS. Trần Anh Tuấn, Một số điểm mới của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự (Trường Đại học Luật Hà Nội, Những điểm mới của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Chủ nhiệm đề tài: TS. Bùi Thị Huyền, Hà Nội – 2011);

[1] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt Nam,  Hà Nội – 2011, trang 187

[2] Phạm Thi Minh Hằng, Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội – 2012, trang 25

[3] http://thads.moj.gov.vn/noidung/tintuc/Lists/TuThucTien/View_Detail.aspx?ItemID=295

[4] http://www.noichinh.vn/tin-tuc-su-kien/tin-dia-phuong/201512/lai-chau-ket-qua-cong-tac-thi-hanh-an-dan-su-nam-2015-299447/

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Trách nhiệm củа Nhà nước đối với quyền cоn người, quyền công dân trоng bối cảnh đại dịch Cоvid-19 ở Việt Nаm

Bằng kiến thức môn học Luật Hiến pháp, аnh/chị hãy chо biết quаn điểm về trách nhiệm củа Nhà nước đối với quyền cоn người, quyền công dân trоng bối cảnh đại dịch Cоvid-19 ở Việt Nаm.

Quyền cоn người – “quyền củа cоn người” – “rights оf humаn persоn”  hình thành cùng với sự xuất hiện củа những nền văn minh cổ đại, quyền cоn người xuất phát từ các quyền thiêng liêng, tự nhiên, vốn có củа cоn người, không dо chủ thể nàо bаn phát. Quyền cоn người là khái niệm rộng hơn quyền công dân. Ví dụ, về tính chất, quyền cоn người không bị bó hẹp trоng mối quаn hệ giữа cá nhân với nhà nước như quyền công dân, mà thể hiện mối quаn hệ giữа cá nhân với tоàn thể cộng đồng nhân lоại, về phạm vi áp dụng, dо không bị giới hạn bởi chế định quốc tịch, nên chủ thể củа quyền cоn người là tất cả các thành viên củа “giа đình nhân lоại”, bất kể vị thế, hоа̀n cа̉nh, quốc tịch,…

Quyền cоn người được diễn đạt dưới nhiều giác độ khác nhаu, tùy thuộc vàо bối cảnh xã hội, văn hóа tín ngưỡng – tôn giáо; mục tiêu và định hướng củа mỗi thể chế chính trị, mỗi kiểu nhà nước, quаn điểm củа từng giаi cấp cầm quyền; hоàn cảnh và nhu cầu củа mỗi cá nhân và củа từng ngành khоа học như; triết học, chính trị học, luật học, xã hội học…

I. Quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp 2013

1.1. Khái niệm

Hiến pháp là một đạо luật cơ bản dо cơ quаn quyền lực nhà nước cơ bản nhất bаn hành, là một hệ thống cао nhất củа pháp luật quy định tổ chức nhà nước, cơ cấu, thẩm quyền các cơ quаn nhà nước trung ương và quyền cơ bản củа cоn người. Mọi cơ quаn và tổ chức phải có nghĩа vụ tuân thủ Hiến pháp.

– Từ Hiến Pháp năm 1946-1992 các bản Hiến Pháp cũng chỉ nói về “ Quyền và nghĩа vụ cơ bản củа công dân.

– Nhưng từ Hiếp Pháp 2013 đã trở thành “ Quyền cоn người, quyền và nghĩа vụ cơ bản củа công dân” và được chuyển lên chương 2 củа Hiến Pháp.

→ Có thể thấy được vấn đề quyền cоn người, quyền công dân được Nhà nước tа cũng như xã hội rất quаn tâm. Bởi thực chất mọi người sinh rа аi cũng đều có những quyền cơ bản cá nhân nhất như quyền tự dо, bình đẳng, công bằng…mà quyền đấy được gọi là quyền cоn người, quyền công dân.

1.2. Đặc Điểm

Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định các quyền cơ bản, như quyền bầu cử và quyền ứng cử vàо Quốc hội, Hội đồng nhân dân; quyền tự dо ngôn luận, tự dо báо chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình, quyền và cơ hội bình đẳng giới…

Đồng thời, có nhiều bổ sung quаn trọng về quyền cоn người trоng Chương II như là một điểm nhấn và bước tiến đáng kể về tư duy nhà nước pháp quyền và thực hiện quyền cоn người ở Việt Nаm; làm rõ hơn quyền hưởng thụ các giá trị văn hóа, nghiên cứu và thụ hưởng các kết quả khоа học; quyền xác định dân tộc củа mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, tự dо lựа chọn ngôn ngữ giао tiếp; quyền được sống trоng môi trường trоng lành….

Điều 14 quy định: Ở nước Cộng hòа xã hội chủ nghĩа Việt Nаm, các quyền cоn người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóа, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảо vệ, bảо đảm theо Hiến pháp và pháp luật. Quyền cоn người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theо quy định củа luật trоng trường hợp cần thiết vì lý dо quốc phòng, аn ninh quốc giа, trật tự, аn tоàn xã hội, đạо đức xã hội, sức khỏe củа cộng đồng.

Hiến pháp còn khẳng định mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không bị phân biệt đối xử trоng đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóа, xã hội; được nhà nước bảо hộ, không thể bị trục xuất, giао nộp chо nhà nước khác. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảо hộ về sức khоẻ, dаnh dự và nhân phẩm; không bị trа tấn, bạо lực, truy bức, nhục hình hаy bất kỳ hình thức đối xử nàо khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm dаnh dự, nhân phẩm. Không аi bị bắt nếu không có quyết định củа Tоà án nhân dân, quyết định hоặc phê chuẩn củа Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tаng. Việc bắt, giаm giữ người dо luật định.

Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theо quy định củа luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khоа học hаy bất kỳ hình thức thử nghiệm nàо khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý củа người được thử nghiệm.

Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật giа đình; có quyền bảо vệ dаnh dự, uy tín củа mình. Mọi công dân có quyền có nơi ở hợp pháp, có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở và việc khám xét chỗ ở dо luật định; có quyền tự dо đi lại và cư trú ở trоng nước, có quyền rа nước ngоài và từ nước ngоài về nước theо quy định pháp luật; có quyền tự dо tín ngưỡng, tôn giáо; không аi được xâm phạm tự dо tín ngưỡng, tôn giáо hоặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáо để vi phạm pháp luật.

Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáо với cơ quаn, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật củа cơ quаn, tổ chức, cá nhân. Cơ quаn, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáо. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi dаnh dự theо quy định củа pháp luật. Người bị buộc tội phải được Tòа án xét xử kịp thời trоng thời hạn luật định, công bằng, công khаi và được cоi là không có tội chо đến khi được chứng minh theо trình tự luật định và có bản án kết tội củа Tòа án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giаm, khởi tố, điều trа, truy tố, xét xử có quyền tự bàо chữа, nhờ luật sư hоặc người khác bàо chữа.

II. Quan điểm về Trách nhiệm củа Nhà nước đối với quyền cоn người, quyền công dân trоng bối cảnh đại dịch Cоvid-19 ở Việt Nаm

Dịch bệnh Cоvid xuất hiện vàо tháng 12/2019 chỉ xuất hiện chưа đầy một năm nhưng tốc độ lây nhiễm củа nó thì khiến cả thế giới chао đảо  

Trоng nửа năm đầu, có hàng triệu cа nhiễm và hàng trăm nghìn cа tử vоng. Nền kinh tế thế giới đã xây dựng hàng thế kỉ quа bị suy giảm nghiêm trọng, đời sống xã hội thì khó khăn. Hàng trăm nghìn người phải sống trоng cảnh thất nghiệp, quаn trọng là dịch bệnh này rất dễ gây ảnh hưởng đến tính mạng.

Mặc dù Việt Nаm đã có công tác rất tốt trоng việc phòng dịch từ Trung Quốc lаn sаng nhưng dо từ nhiều phíа mà cuối cùng dịch Cоvid cũng đã xuất hiện trоng nước:

+ Nhiều địа phương đã bị cách ly xã hội trоng đó có Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng…

+ Một số cá nhân bị đem đi cách ly tại khu cách ly tập trung.

+ Người dân được Nhà nước khuyến cáо hạn chế đi lại và tiếp xúc nơi đông người.

+ Việc đeо thực hiện 5K tại thời điểm tâm dịch cũng bị bắt buộc.

* Trách nhiệm củа Nhà nước đối với quyền cоn người, quyền công dân trоng bối cảnh đại dịch Cоvid-19 ở Việt Nаm.

Đại dịch CОVID-19 ảnh hưởng rộng khắp thế giới nói chung và tới Việt Nаm nói riêng. Vì vậy, việc xác định rõ trách nhiệm củа nhà nước và bổn phận củа công dân trоng việc phòng, chống đại dịch này là hết sức cần thiết nhằm ngăn chặn, đẩy lùi đại dịch hiệu quả

Tạо khuôn khổ hành lаng pháp lý và thể chế đối phó với dịch bệnh, đồng thời nhấn mạnh bảо vệ quyền cоn người 

Để đối phó với dịch bệnh, Việt Nаm đã có khung pháp lý và thể chế đầy đủ, rõ ràng, minh bạch và hiệu quả. Về pháp lý, có thể khẳng định, sự chỉ đạо, lãnh đạо củа Đảng và Chính phủ đều dựа trên cơ sở đánh giá thực tiễn và pháp luật – trоng đó lấy tinh thần củа Hiến pháp 2013. Về thể chế, Bаn Chỉ đạо quốc giа được thành lập và được xem là cơ quаn chỉ đạо cао nhất chо chiến dịch phòng chống CОVID-19 với phương châm “4 tại chỗ” gồm chỉ đạо tại chỗ, lực lượng tại chỗ, phương tiện tại chỗ và hậu cần tại chỗ.

Nhà nước đã đưа rа nhiều văn bản cấp thiết đối với tình hình đồng thời bắt buộc thực hiện các quy định trоng các văn bản, chỉ thị củа Thủ tướng. Các văn bản này được xác định là văn bản quy phạm pháp luật, bắt buộc mọi người phải tuân theо, áp dụng trên phạm vi cả nước, người nàо vi phạm các quy định thì phải chịu chế tài theо quy định củа pháp luật. Bên cạnh đó, các cấp địа phương theо thẩm quyền củа mình cũng đưа rа những quyết định để người dân nghiêm chỉnh thực hiện .

Có thể thấy rằng, những khuôn khổ được đưа rа cùng với những hình thức xử lý vi phạm phù hợp với pháp luật và yêu cầu chống dịch đã tạо nên thói quen tốt chо người dân trоng nước để đối phó với tình hình dịch bệnh. Trên thực tế, việc thi hành củа người dân luôn được theо sát chặt chẽ, và đа số người dân luôn tuân thủ đúng quy định.

Đồng thời, với mục tiêu vì sức khỏe, tính mạng nhân dân, thực hiện trách nhiệm đảm quyền “quyền được sống” củа công dân Việt Nаm, Chính phủ đã bố trí nhiều chuyến bаy để đưа người Việt ở nước ngоài về Tổ quốc; người lао động, dоаnh nghiệp trоng nước được hỗ trợ giải quyết việc làm, cắt giảm chi phí, lệ phí… Nhiều biện pháp hỗ trợ được bаn hành và nhаnh chóng đi vàо cuộc sống, trоng đó có những sáng kiến hаy, cử chỉ đẹp như máy АTM phát gạо từ thiện dành chо người nghèо được đặt ở nhiều nơi thuận lợi chо người dân nghèо cần hỗ trợ.

Trоng Hiếp Pháp 2013 tại chương 2: Quyền cоn người, quyền và nghĩа vụ cơ bản củа công dân trоng điều đầu tiên đã nêu rõ:

1. Ở nước Cộng hòа Xã hội Chủ nghĩа Việt Nаm, các quyền cоn người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóа, xã hội được công nhân, tôn trọng, bảо vệ, bảо đảm theо Hiến pháp và phsp luật.

2. Quyền cоn người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theо quy định củа luật trоng trường hớp cần thiết vì lí dо quốc phòng, аn ninh quốc giа, trật tự аn tоàn xã hội, đạо đức xã hội, sức khỏe cộng đồng.

Trường hợp khẩn cấp như tình hình dịch bệnh Cоvid ảnh hưởng tới tоàn xã hội thì quyền cоn người, quyền công dân phải bị hạn chế một số quyền để phục vụ lợi ích chung, sức khỏe chung củа cả cộng đồng và tоàn xã hội. Nếu để mọi người được thực hiện quyền củа mình tự dо đi lại khi dịch bệnh có thể tiềm tàng ở bất cứ đâu, những phát ngôn gây hоаng mаng dư luận và đưа những thông tin sаi lệch tới người dân sẽ dẫn đến hậu quả vô cùng nghiêm trọng: lòng dân hоаng mаng,kinh tế suy giảm, y tế không đủ phục vụ nhu cầu người bệnh, giáо dục thì bị đình trệ, đời sống văn hóа củа người dân bị kìm hãm trоng một khоảng thời giаn chо đến khi dịch bệnh kết thúc và không аi biết được khi nàо dịch bệnh sẽ kết thúc. Chúng tа chỉ có thể phòng ngừа, Nhà nước chỉ có thể đưа rа những biện pháp mаng tính đảm bảо аn tоàn xã hội tốt nhất. Một trоng những biện pháp đó chính là nơi có tình hình dịch bệnh phức tạp, các cа nhiễm tăng mạnh thì nên được cách ly xã hội từ 15-30 ngày tùy theо điều kiện hоàn cảnh cụ thể.

Trоng lịch sử lập hiến củа Việt Nаm, quyền củа cоn người luôn được cụ thể hóа bằng những quyền cơ bản củа công dân (dо được ghi nhận trоng hiến pháp) và bао giờ cũng được xem là một chế định pháp luật rất quаn trọng – đây là một trоng những chế định thể hiện bản chất dân chủ, tiến bộ củа một nhà nước, thể hiện mối quаn hệ giữа Nhà nước với công dân cùng với các cá nhân trоng xã hội. Thông quа đó, có thể xác định được mức độ dân chủ củа một nhà nước, một xã hội.

Vì vậy, những nhà lập pháp Việt Nаm luôn hоàn thiện chế định pháp luật về quyền cơ bản củа công dân trоng đạо luật cơ bản củа Nhà nước là Hiến pháp và luôn gắn liền với nghĩа vụ củа công dân. Bởi xét chо cùng, Nhà nước được lập lên cũng để phục vụ nguyện vọng, ý chí củа giаi cấp cầm quyền và tоàn dân. Mọi người dân đều được đối xử “ Công bằng-bình đẳng” thì họ mới có thể yên tâm sản xuất từ đó chất lượng cuộc sống mọi người đi lên, xã hội mới có thể phát triển và ổn định.

TÀI LIỆU THАM KHẢО

1. Giáо trình Luật Hiến pháp năm 2019;

2. Hiến pháp nước Cộng hòа Xã hộ Chủ nghĩа Việt Nаm 2013;

3. Hiến pháp nước Cộng hòа Xã hộ Chủ nghĩа Việt Nаm 1992;

4. Hiến pháp nước Cộng hòа Xã hộ Chủ nghĩа Việt Nаm 1980;

5. https://pbgdpl.mоj.gоv.vn/qt/tintuc/Pаges/trао-dоi-kinh-nghiem.аspx?ItemID=112 trách nhiệm củа Nhà nước về quyền cоn người, quyền công dân trоng Đại dịch Cоvid;

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Phân tích các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ về quyền sao chép tác phẩm và giới hạn quyền sao chép tác phẩm. Đánh giá thực trạng xâm phạm quyền sao chép tác phẩm và đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế hành vi xâm phạm quyền sao chép trong thực tiễn?

1. Phân tích các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ về quyền sao chép tác phẩm:

            Quyền sao chép tác phẩm thuộc nội dung quyền tài sản quyền tác giả. Quyền tác giả được quy định tại khoản 2 điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ: “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”.  Chủ sở hữu quyền tác giả có những quyền tài sản nhất định đối với tác phẩm thuộc sở hữu của mình, trong đó có quyền sao chép tác phẩm. Quyền sao chép tác phẩm được quy định tại điểm c khoản 1 điều 20 Luật sở hữu trí tuệ.

            Quyền sao chép tác phẩm thuộc nội dung quyền tải sản của quyền tác giả. Quyền tác giả được quy định tại khoản 2 điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ: “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”.  Chủ sở hữu quyền tác giả có những quyền tài sản nhất định đối với tác phẩm thuộc sở hữu của mình, trong đó có quyền sao chép tác phẩm. Quyền sao chép tác phẩm được quy định tại điểm c khoản 1 điều 20 Luật sở hữu trí tuệ.

            Tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào. Tác phẩm có còn thể thể hiện bằng các ký hiệu thay cho chữ viết như chữ nổi cho người khiếm thị, ký hiệu tốc ký và các ký hiệu tương tự thay cho chữ viết mà các đối tượng tiếp cận có thể sao chép được bằng nhiều hình thức khác nhau. (Điều 7 Nghị định 22/2018/NĐ-CP quy định chi tiết Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan)

            Sao chép tác phẩm là việc tái tạo lại hình thức của tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc lưu trữ thường xuyên hay tạm thời tác phẩm dưới hình thức điện tử. Ví dụ: Quán photocopy có hành vi photo giáo trình, tài liệu thành rất nhiều bản để bán là hành vi xâm phạm quyền tác giả. Quán photocopy đã sao chép tác phẩm với mục đích thương mại, mà không xin phép hay trả tiền thù lao cho tác giả, gây phương hại đến các quyền tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.

            Pháp luật Việt Nam định nghĩa quyền sao chép tác phẩm là “quyền của chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc tạo ra bản sao của tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc lưu trữ thường xuyên hoặc tạm thời tác phẩm dưới hình thức điện tử” 

            Đối với tác phẩm chưa được công bố thì sao chép tác phẩm là độc quyền thuộc về chủ sở hữu quyền tác giả. Trong trường hợp này chỉ có chủ sở hữu quyền tác giả hoặc người được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép mới được sao chép tác phẩm. Đối với tác phẩm đã được công bố, các tổ chức, cá nhân khác muốn sao chép thì phải xin phép, trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả, quy định tại khoản 3 Điều 20 Luật SHTT.

2. Giới hạn quyền sao chép tác phẩm:

            Giới hạn quyền sở hữu trí tuệ là việc chủ thể quyền sở hữu trí tuệ chỉ được thực hiện quyền của mình trong phạm vi và thời hạn bảo hộ theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, việc thực hiện quyền không được xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác và không được vi phạm các quy định khác của pháp luật có liên quan. Trong trường hợp nhằm bảo đảm mục tiêu quốc phòng, an ninh, dân sinh và các lợi ích khác của Nhà nước, xã hội quy định tại pháp luật sở hữu trí tuệ, Nhà nước có quyền cấm hoặc hạn chế chủ thể quyền sở hữu trí tuệ thực hiện quyền của mình hoặc buộc chủ thể quyền sở hữu trí tuệ phải cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng một hoặc một số quyền của mình với những điều kiện phù hợp.

            Nhằm hài hòa lợi ích quyền tác giả và lợi ích chung của cộng đồng, pháp luật quy định các trường hợp hạn chế của quyền tác giả đối với một số hành vi sử dụng, khai thác quyền tác giả. Việc giới hạn quyền quy định trong những trường hợp nhất định, cá nhân, tổ chức khác có quyền sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao; sử dụng tác phẩm sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao.

            Để áp dụng được giới hạn quyền sao chép tác phẩm điều kiện quan trọng nhất trong quy định pháp luật Việt Nam là việc tác phẩm đó đã được công bố. Điều này cũng đã minh chứng cho việc dù pháp luật đặt ra giới hạn quyền nhưng ở một góc độ nào đó, pháp luật vẫn đang cố gắng bảo vệ quyền lợi cho người sáng tạo hoặc đầu tư tạo ra tác phẩm. Điều này cũng đang hỗ trợ cho tác giả đem đến tác phẩm thật sự có giá trị cho xã hội, như vậy chỉ khi nào tác phẩm được công bố thì các giới hạn quyền mới được đặt ra. Tại Khoản 2 Điều 20 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP quy định quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm là việc phát hành tác phẩm đến công chúng với số lượng bản sao hợp lý để đáp ứng nhu cầu của công chúng tùy theo bản chất của tác phẩm và công bố tác phẩm không bao gồm việc trình diễn một tác phẩm sân khấu, điện ảnh, âm nhạc; đọc trước công chúng một tác phẩm văn học; phát sóng tác phẩm văn học, nghệ thuật; trưng bày tác phẩm tạo hình; xây dựng công trình từ tác phẩm kiến trúc. 

            Pháp luật có những quy định trong việc hạn chế quyền của chủ sở hữu trong vấn đề sao chép tác phẩm. Các tổ chức, cá nhân có quyền sao chép tác phẩm mà không phải xin phép và không phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho tác giả hoặc cho chủ sở hữu quyền tác giả trong hai trường hợp sau:

               +) Tự sao chép một bản để nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân (quy định tại điểm a, khoản 1, điều 25 Luật SHTT).

               +) Sao chép một tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu. (quy định tại điểm đ, khoản 1, điều 25 Luật SHTT)

            Để giải thích rõ hơn hai trường hợp trên, Nghị định 22/2018/NĐ – CP đã giải thích rõ:

               +) Tự sao chép một bản áp dụng đối với các trường hợp nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân không nhằm mục đích thương mại (Quy định tại khoản 1 Điều 22 Nghị định của Chính phủ số 22/2018/NĐ-CP).

               +) Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 25 của Luật Sở hữu trí tuệ là việc sao chép không quá một bản. Thư viện không được sao chép và phân phối bản sao tác phẩm tới công chúng, kể cả bản sao kỹ thuật số (Quy định tại khoản 2 Điều 22 Nghị định của Chính phủ số 22/2018/NĐ-CP). Theo đó, trong trường hợp này, thư viện chỉ được phép sao chép không quá một bản và không được phân phối bản sao tác phẩm tới công chúng, kể cả bản sao kỹ thuật số.

            Như vậy, chỉ khi “sao chép một bản” đối với trường hợp nghiên cứu khoa học, giảng dạy hoặc lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu như ở hai trường hợp trên, mà không nhằm mục đích thương mại thì mới không cần xin phép tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả. Còn lại những trường hợp khác nếu không xin phép, trả tiền nhuận bút, thù lao đều là hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật.

            Tuy nhiên, tổ chức, cá nhân sao chép tác phẩm quy định tại khoản 1 điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm, quy định tại khoản 2 điều 25, Luật SHTT. Sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, hoặc không thuộc các trường hợp ngoại lên trên sẽ bị coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả. Tùy tính chất, mức độ hành vi xâm phạm mà các chủ thể thực hiện hành vi có thể sẽ bị xử lý bằng các biện pháp hành chính, dân sự, hình sự theo quy định của pháp luật.

* Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật:

            +) Thứ nhất, trong giới hạn quyền tác giả nói chung được ghi nhận tại Điều 25 của Luật Sở hữu trí tuệ đều hướng đến điều kiện tiên quyết đó là chỉ áp dụng cho tác phẩm đã công bố. Tuy nhiên vẫn có một số tác phẩm được loại trừ không áp dụng như tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính và tác phẩm điện ảnh. Như vậy quan trọng nhất là việc xác định tác phẩm như thế nào thì ở trạng thái đã được công bố? và ai sẽ là người xem xét và quyết định nó. Giả thuyết đặt ra nếu có tranh chấp phát sinh thì sẽ được kiểm chứng thế nào? Chính vì vậy xem xét thực tế và quy định pháp luật có thể thấy rằng việc xác định theo như quy định hiện nay cũng chưa được rõ ràng và có vẻ nằm trong khuôn khổ khá hẹp về các quyền sẽ trao cho người sử dụng. Theo tác giả, có thể ghi nhận việc công bố tác phẩm thông qua việc thể hiện tác phẩm trước công chúng và người sử dụng có thể tiếp cận một cách công khai và hợp pháp theo ý của tác giả chẳng hạn như việc tác giả phát hành tác phẩm đến công chúng với số lượng bản sao hợp lý hoặc trình diễn một tác phẩm sân khấu, điện ảnh, âm nhạc hoặc đọc trước công chúng một tác phẩm văn học hay phát sóng tác phẩm văn học, nghệ thuật và cả việc trưng bày tác phẩm tạo hình, xây dựng công trình từ tác phẩm kiến trúc. Về điều này một số quốc gia trên thế giới cũng thừa nhận. Bên cạnh đó, việc ghi nhận mở rộng phạm vi “công bố” sẽ tạo kênh pháp lý và căn cứ rõ ràng để xác định hành vi sử dụng ấy có xâm phạm quyền sao chép hay trích dẫn hay không.

            +) Thứ hai, đối với trường hợp sao chép tác phẩm đã công bố nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy, lưu trữ thư viện như hiện nay quy định là được một bản thì có vẻ máy móc và hạn hẹp quyền lợi của người sử dụng trong trường hợp này. Có vẻ như nhà làm luật cảm thấy không kiểm soát được việc sử dụng trong môi trường giáo dục này sẽ như thế nào, họ sử dụng ra sao việc sao chép để làm gì… Tuy nhiên, một điều dĩ nhiên là hầu như họ là những thầy cô giáo, học trò, họ cần học tập, cần nghiên cứu và bản thân họ rất cần tiếp cận những sáng tạo mới, những tri thức mới để có thể trang bị kiến thức được tốt hơn. Như vậy, trong môi trường giáo dục thì chỉ cần không vì mục đích thương mại sẽ được sao chép tác phẩm đã công bố theo mức độ cần thiết. Đối với số lượng không nên giới hạn một bản sao trong trường hợp này. Tuy nhiên chúng ta có thể rào cản bằng việc sử dụng không làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường của tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả. Điều đáng nói thêm là, việc ghi nhận theo Điều 25, khoản 1, điểm a chỉ giới hạn trong việc giảng dạy, nghiên cứu khoa học, vậy thì còn học tập cũng nên được thừa nhận trong trường hợp này, bởi trong môi trường giáo dục, việc học tập là một hoạt động thường xuyên và cần thiết. Thế nên về mặt từ ngữ, điểm a khoản 1 Điều 25 Luật SHTT, sau khi sửa đổi, bổ sung được viết thành: “Tự sao chép một bản nhằm mục đích học tập, nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân”. Điều này cũng tương thích với quy định trong Luật Bản quyền của Hoa Kỳ, mà theo đó cũng cho phép giáo viên hoặc học sinh sao chép một phần nhỏ của các tác phẩm để minh họa cho bài học. Bên cạnh đó, đối với việc lưu trữ thư viện thì số lượng bản sao không nên giới hạn là một, chỉ cần nhằm mục đích phục vụ cho công chúng và lưu trữ.

3. Đánh giá thực trạng xâm phạm quyền sao chép tác phẩm:

Thực trạng xâm phạm quyền sao chép tác phẩm hiện nay đang là một vấn đề hết sức nhức nhối:

            +) Hiện nay, mặc dù pháp luật Việt Nam đã có các bộ luật để bảo vệ quyền lợi cho tác giả, tuy nhiên hiện tượng các cá nhân, tập thể vô tình hoặc cố ý lợi dụng những kẽ hở trong luật để chuộc lợi vẫn diễn ra phổ biến.Trong lĩnh vực in ấn, xuất bản, dễ nhận thấy nhất là hiện tượng photocopy các ấn phẩm, tác phẩm, sách in một cách tràn lan mà không được sự đồng ý của tác giả, rồi sử dụng vào mục đích kinh doanh. Từ trước đến nay, chúng ta hầu như chỉ để tâm đến người sao chép tác phẩm để sử dụng mà quên đi rằng chính những cửa hàng kinh doanh dịch vụ photocopy cũng là những người vi phạm bản quyền tác giả một cách chuyên nghiệp.

            +) Bên cạnh đó, xâm phạm quyền sao chép tác phẩm còn được thấy trong việc đạo văn, sao chép luận văn thạc sĩ, tiến sĩ, của các học sinh, sinh viên và mọi người sử dụng internet. Hiện nay, phần lớn học sinh có thể hoàn thành bài tập của mình trong thời gian ngắn, nhờ vào việc học sinh có thể lên mạng, sao chép các tác phẩm có săn trên mạng. Thực trạng này diễn ra rất phổ biến và sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng.

            +) Nhìn trên bình diện cả nước, Việt Nam đang đối mặt với tình trạng xâm phạm quyền tác giả tràn lan mà trong đó hành vi xâm phạm phổ biến nhất là sao chép tác phẩm bằng công nghệ số (sao chép số) và sử dụng trái phép tác phẩm trên mạng. Tham khảo số liệu thống kê của liên minh quốc tế về sở hữu trí tuệ, mức độ vi phạm tác phẩm ngôn ngữ (sách, báo) và băng đĩa ở nước ta chiếm tới 85-90% và Việt Nam được xếp vào một trong những nước có mức vi phạm cao nhất thế giới.

            +) Tình trạng xâm phạm quyền tác giả trực tuyến gây ra một số hệ lụy khiến các tác giả, nhà sản xuất, nhà xuất bản và những người hoạt động trong lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật nói chung phải chịu thiệt thòi, vì không được đền đáp xứng đáng. Nền công nghiệp văn hóa, giải trí của chúng ta theo đó cũng bị kìm hãm. Mặt khác, những vi phạm này sẽ khiến Việt Nam mất đi nhiều cơ hội hợp tác với các đối tác nước ngoài để mang đến những sản phẩm tinh thần giá trị cho người dân.

4. Đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế hành vi xâm phạm quyền sao chép trong thực tiễn:

            – Tăng cường kiểm tra, kiểm soát và xử lý nghiêm các hành vi xâm phạm quyền sao chéo, đặc biệt là hành vi xâm phạm quyền sao chép trí tuệ trong môi trường kỹ thuật số;

            – Để nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ quyền sao chép cần thiết phải thực hiện rà soát, đánh giá hiệu lực, hiệu quả và sự phù hợp của hệ thống tổ chức và cơ cấu bộ máy bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hiện có để làm căn cứ xây dựng và thực hiện phương án sắp xếp, phân công lại trong bộ máy. Việc sắp xếp, phân công lại bộ máy các cơ quan có thẩm quyền xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính cần đảm bảo theo hướng thu gọn đầu mối, phù hợp với tính chất dân sự của quyền sở hữu trí tuệ, xóa bỏ tình trạng hành chính hóa các quan hệ dân sự về sở hữu trí tuệ. Việc thu gọn đầu mối cơ quan có thẩm quyền xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính cần được thực hiện đồng thời với việc phân định rõ thẩm quyền của mỗi cơ quan và tăng cường chất lượng hoạt động trên cơ sở thực hiện chuyên môn hóa về tổ chức và nhân sự trong các cơ quan này;

            – Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau và với các cơ quan tư pháp trong việc bảo vệ quyền sao chép và rộng hơn là quyền sở hữu trí tuệ; phối hợp nghiên cứu về việc tăng cường vai trò của tòa án trong giải quyết các vụ việc về sở hữu trí tuệ;

            – Tích cực và chủ động phát hiện, phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm về sao chép tác phẩm; nâng cao hiệu quả công tác điều tra các vụ án hình sự về sở hữu trí tuệ;

            – Khuyến khích giải quyết các tranh chấp về sở hữu trí tuệ bằng hình thức trọng tài, hòa giải;

            – Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ về quyền sao chép và các quyền sở hữu cho đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ;

            – Tăng cường giáo dục, phổ biến pháp luật cho học sinh, sinh viên về lĩnh vực sở hữu trí tuệ và quyền sao chép; giúp học sinh, sinh viên hiểu biết pháp luật và tuân thủ pháp luật;

            – Mở rộng xã hội hóa đi đôi với nâng cao chất lượng hoạt động bổ trợ tư pháp về quyền sao chép; thúc đẩy phát triển dịch vụ giám định sở hữu trí tuệ và dịch vụ tư vấn pháp luật về bảo vệ quyền sao chép và các quyền sở hữu trí tuệ.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Tranh chấp về xác định quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng.

Nội dung vụ việc

Vụ việc dựa trên Bản án số 44/DSST ngày 15/11/2004 Tòa án nhân dân thành phố TN; Bản án dân sự phúc thẩm số 07/DSPT ngày 09/03/2005 Tòa án nhân dân thành phố TN và Quyết định số 102/2008/DS-GĐT ngày 27/05/2008 của Tòa án nhân dân tối cao (có thay đổi một số tình tiết để phù hợp với yêu cầu của đề bài). Vụ việc như sau:

Theo đơn khởi kiện và lời khai của bà Đỗ Thị Trông (sinh năm 1937), khu đất hiện gia đình bà đang quản lý, sử dụng là do bà và chồng là ông Bùi Văn Đăng (hai ông bà kết hôn năm 1961) mua từ năm 1968 (trong thời kỳ hôn nhân) với diện tích khoảng 1000 m². Do kinh tế khó khăn nên bà đã bán bớt. Năm 2008, ông Đăng chết, bà bán căn nhà hai tầng trên diện tích 115, 5 m² để lấy tiền trả nợ và xây một căn nhà cấp 4 trên phần còn lại để ở từ đó đến nay. Đầu năm 2010, anh Trí (sinh năm 1976, con trai của ông Đăng và bà Trông) mời bà ra khỏi nhà vì anh Trí đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 146 m² đất trên phần đất mà bà đang sử dụng. Bà cho biết việc ông Đăng tặng cho vợ chồng anh Trí diện tích đất trên là không có ý kiến của bà.

Anh Trí, chị Nguyễn Thị Hằng (vợ anh Trí) thừa nhận diện tích bà Trông đang quản lý, sử dụng là tài sản của bà Trông và ông Đăng. Việc anh đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là do ông Đăng làm hợp đồng tặng cho cho vợ chồng anh chị từ tháng 12/2005 (có xác nhận đồng ý của phòng xây dựng nhà đất thành phố TN). Anh chị hoàn tất thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2007. Khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà Trông cũng biết nên không chấp nhận việc bà Trông đòi quyền sử dụng đất. Anh Trí, chị Hằng đồng ý vẫn để bà Trông ở nhưng không đồng ý trả quyền sử dụng đất cho bà Trông vì sợ bà sẽ bán đất.

GIẢI QUYẾT YÊU CẦU ĐỀ BÀI

1. Phân tích vụ việc tranh chấp về xác định quyền sử dụng đất là tài sản chung

(Vụ việc được phân tích theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 (BLDS năm 2015) và các văn bản pháp luật khác phù hợp với vụ việc).

  • Hình thức sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng

Hình thức sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia. “Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia” (khoản 1 Điều 213 BLDS năm 2015), “Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung” (khoản 2 Điều 210 BLDS năm 2015). Do đó, trong vụ việc này, đối với mọi tài sản thuộc sở hữu chung của ông Đăng và bà Trông, hai ông bà đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình phát sinh từ các giao dịch dân sự.

  • Xác định quyền sử dụng đất đối với phần đất mà bà Trông đang quản lý, sử dụng là tài sản chung của bà Trông và ông Đăng

Trước hết, tại thời điểm ông Đăng và bà Trông kết hôn, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 được áp dụng, do hai ông bà kết hôn năm 1961, căn cứ theo khoản 1 Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập trước ngày Luật này có hiệu lực thì áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình tại thời điểm xác lập để giải quyết”. Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ cộng đồng toàn sản, tức mọi tài sản vợ chồng có trước và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu chung của vợ chồng: “Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới” (Điều 15). Do vậy, mọi tài sản mà ông Đăng và bà Trông có được từ trước và trong thời kỳ hôn nhân của ông bà là tài sản chung của ông bà. Trong đó, “tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản” (Điều 105 BLDS năm 2015),

Đối với quyền sử dụng đất mảnh đất mà bà Trông đang quản lý, sử dụng được bà Trông và ông Đăng mua trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp, cho nên, xác định đây là tài sản chung của hai ông bà. Trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, “vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung” (khoản 3 Điều 213 BLDS năm 2015). Theo khoản 2 Điều 218 BLDS năm 2015: “việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thỏa thuận của các sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật.” Do đó, trong mọi giao dịch thực hiện việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với mọi tài sản thuộc sở hữu chung của ông Đăng và bà Trông, nhất thiết phải có sự thỏa thuận của hai ông bà, nếu một trong hai bên không có điều kiện trực tiếp thực hiện giao dịch thì phải ủy quyền cho nhau.

Tuy nhiên, theo lời trình bày của bà Trông, việc ông Đăng tặng cho anh Trí diện tích đất 146 m² mà không có ý kiến của bà. Phía vợ chồng anh Trí cũng không có bằng chứng về sự đồng ý của bà Trông về việc tặng cho này, bản thân anh Trí cũng cho hay, anh Trí có được quyền sử dụng đất này là do ông Đăng thực hiện hợp đồng tặng cho (không có sự tham gia của bà Trông). Như vậy, việc ông Đăng tặng cho vợ chồng anh Trí diện tích đất nói trên là không có sự thỏa thuận bằng văn bản giữa bà Trông và ông Đăng, hay nói một cách khác ông Đăng không có quyền tự định đoạt đối với 146 m² đất mà anh Trí đang đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Căn cứ khoản 1 Điều 142 BLDS năm 2015: “Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây: a) Người được đại diện đã công nhận giao dịch; b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong thời hạn hợp lý; c) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình không có quyền đại diện”, theo đó, dù ông Đăng có thực hiện hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất mà không có sự ủy quyền của bà Trông nhưng nếu thuộc một trong các trường hợp trên thì vẫn phát sinh quyền và nghĩa vụ của bà Trông trong giao dịch này. Dẫn đến việc hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất trong vụ việc này sẽ không vi phạm điều kiện về chủ thể giao kết hợp đồng.

  • Về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng 146 m² đất của ông Đăng cho anh Trí

Trước hết, việc tặng cho quyền sử dụng đất là một giao dịch dân sự, trong đó giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự (Điều 116 BLDS năm 2015).“Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận” (Điều 457 BLDS năm 2015). Việc tặng cho tài sản giữa ông Đăng và anh Trí là quyền sử dụng 146 m² đất, dẫn chiếu tới Mục 7 Hợp đồng về quyền sử dụng đất BLDS năm 2015. “Hợp đồng về quyền sử dụng đất là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó người sử dụng đất chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất hoặc thực hiện quyền khác theo quy định của Luật đất đai cho bên kia; bên kia thực hiện quyền, nghĩa vụ theo hợp đồng với người sử dụng đất” (Điều 500 BLDS năm 2015).

Tuy nhiên, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Đăng và anh Trí được xác lập tại thời điểm Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực. Theo đó, “Hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân phải có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất hoặc chứng nhận của công chứng nhà nước” (khoản 1 Điều 126 Luật Đất đai năm 2003). Từ những quy định trên, có thể thấy rằng hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Đăng và anh Trí không những vi phạm điều kiện về chủ thể của hợp đồng (ông Đăng không có quyền định đoạt đối với quyền sử dụng mảnh đất) mà còn vi phạm về hình thức của hợp đồng là phải có chứng thực hoặc công chứng theo quy định (mà không phải là xác nhận đồng ý của phòng xây dựng nhà đất thành phố TN). Do vậy, dẫn đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng 146 m² đất cũng không hợp pháp và sẽ bị thu hồi theo quy định của pháp luật.

2. Yêu cầu tư vấn của khách hàng và văn bản tư vấn cho khách hàng

  • Yêu cầu tư vấn của khách hàng

Anh Trí (khách hàng) yêu cầu giải đáp về việc bà Trông đòi lại 146 m² đất mà anh đang đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có cơ sở pháp lý không? Nếu có, anh Trí cần làm gì để được tiếp tục sử dụng diện tích đó phù hợp với quy định của pháp luật?

  • Văn bản tư vấn cho khách hàng

Trước hết, cảm ơn anh đã tin tưởng và gửi câu hỏi tư vấn cho chúng tôi.

Trước khi trả lời các câu hỏi của anh, chúng tôi làm rõ các vấn đề sau:

Thứ nhất, đối với mảnh đất mà bà Trông (mẹ anh) đang quản lý, sử dụng là tài sản thuộc sở hữu chung của bà Trông và ông Đăng. Do hai ông bà kết hôn năm 1961, thời điểm này Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 đang có hiệu lực nên các vấn đề phát sinh trong quan hệ hôn nhân giữa ông Đăng và bà Trông được giải quyết theo quy định của luật này. Theo đó, “Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới” (Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959), có nghĩa là mọi tài sản (gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản) đều thuộc sở hữu chung của hai ông bà. Ông bà có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc thực hiện các giao dịch.

Thứ hai, theo quy định tại Điều 213 BLDS năm 2015, “Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia” (khoản 1), “vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung” (khoản 3). Theo đó, trong các giao dịch dân sự về chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tài sản thuộc sở hữu chung của hai vợ chồng, nhất thiết phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng. Sự đồng ý này thể hiện ở việc có sự thỏa thuận của cả hai vợ chồng, nếu một trong hai bên không có điều kiện trực tiếp tham gia giao dịch thì phải có ủy quyền cho người còn lại.

Đối với vụ việc của anh, bản thân anh cũng thừa nhận hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đối với 146 m² đất được thực hiện giữa ông Đăng (bố anh) và anh, mà không có sự tham gia của bà Trông, trong khi đó, pháp luật quy định phải có sự thỏa thuận đồng ý việc tặng cho này của bà Trông.

Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 142 BLDS năm 2015: “Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây:

a) Người được đại diện đã công nhận giao dịch;

b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong thời hạn hợp lý;

c) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình không có quyền đại diện”.

Trong vụ việc của anh, nếu anh chứng minh được bà Trông đã công nhận hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Đăng và anh hoặc bà Trông đã biết nhưng không phản đối trong thời hạn hợp lý thì vẫn phát sinh quyền và nghĩa vụ của bà Trông trong hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất với anh.

Hơn nữa, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất phải được công chứng hoặc chứng thực, căn cứ theo khoản 1 Điều 126 Luật Đất đai năm 2003: “Hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân phải có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất hoặc chứng nhận của công chứng nhà nước” (tại thời điểm xác lập hợp đồng Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực), mà không phải là có xác nhận đồng ý của phòng xây dựng nhà đất thành phố. Do vậy, theo quy định của pháp luật, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất này không đúng về mặt hình thức của văn bản và nội dung xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Đăng và anh Trí bị vô hiệu theo quy định tại Điều 129 BLDS năm 2015: “Giao dịch dân sự vi phạm điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu”. Theo đó, “Khi giao dịch vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả” (khoản 2 Điều 131 BLDS năm 2015).  

Dựa trên những phân tích trên, chúng tôi tư vấn cho anh như sau:

+ Việc bà Trông đòi lại quyền sử dụng 146 m² đất mà anh đang đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là có cơ sở pháp lý, bởi lẽ trước khi ông Đăng chuyển quyền sử dụng đất cho anh, mảnh đất mà bà Trông đang sử dụng, quản lý bao gồm diện tích đất trên là tài sản chung của ông Đăng và bà Trông. Cho nên, trong mọi giao dịch đối với mảnh đất đó, phải có sự đồng ý của cả ông Đăng và bà Trông.

+ Để anh được tiếp tục được đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 146 m² đất thì trước hết, anh nên thỏa thuận, thuyết phục bà Trông đồng ý với hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất mà ông Đăng và anh đã xác lập. Dựa trên tình cảm yêu thương, gắn bó nên việc thỏa thuận này là một giải pháp tích cực để giữ gìn mối quan hệ trong gia đình. Nếu anh không muốn hoặc không thỏa thuận được với bà Trông, anh có thể chứng minh bà Trông đã công nhận hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Đăng và anh hoặc bà Trông đã biết nhưng không phản đối trong thời hạn hợp lý.

Còn về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, rõ ràng hợp đồng này là không hợp pháp do vi phạm điều kiện về hình thức của hợp đồng. Sau khi thuyết phục được bà Trông hoặc đã chứng minh được như trên, anh cần thực hiện thủ tục công chứng hoặc chứng thực đối với hợp đồng này theo đúng quy định của pháp luật.

Hi vọng sự tư vấn của chúng tôi sẽ giúp anh lựa chọn được phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của anh. Tư vấn nêu trên chỉ là tài liệu tham khảo. Chúng tôi rất mong nhận được mọi ý kiến phản hồi của quý khách hàng. Trân trọng!

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Bộ luật dân sự năm 2015;
  2. Luật Đất đai năm 2003;
  3. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959;
  4. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
  5. TS. Đỗ Văn Đại, Tuyển tập các bản án, quyết định của Tòa án Việt Nam về quyền sử dụng đất, Nxb. Lao động, trang 259

DS1HK06: Sưu tầm một vụ việc có tranh chấp về xác định quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng (phân tích vụ việc, nêu yêu cầu tư vấn của khách hàng và viết văn bản tư vấn cho khách hàng)

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Đăng ký nhãn hiệu bị trùng, tranh chấp và cách giải quyết.

TÌNH HUỐNG

Đề 23:

Công ty cổ phần du lịch lữ hành KATA đã được thành lập và đăng ký kinh doanh dịch vụ du lịch từ tháng 5/2007. Từ khi thành lập, công ty đã sử dụng liên tục nhãn hiệu KATA trong hoạt động kinh doanh của mình (sử dụng nhãn hiệu trên bảng hiệu của các văn phòng giao dịch, trên giấy tờ giao dịch; in nhãn hiệu trên mũ, áo của nhân viên; trên mũ, khăn lạnh, nước uống… phát cho khách; quảng cáo trên báo chí và trên chính website của công ty www.katatravel.com.vn. Ngày 24/05/2009, Công ty muốn nộp đơn đăng ký nhãn hiệu KATA cho dịch vụ du lịch. Qua thông tin trên Công báo Sở hữu công nghiệp, công ty cổ phần du lịch lữ hành KATA được biết đã có công ty khác là Công ty thương mại dịch vụ Vạn Xuân đã nộp đơn đăng ký nhãn hiệu KATA cho các dịch vụ: bán lẻ hàng hóa, dịch vụ nhà hàng, khách sạn… và dịch vụ du lịch ngày 10/03/2009.

Anh (chị) hãy đánh giá khả năng đăng ký nhãn hiệu KATA của Công ty cổ phần du lịch lữ hành KATA và tư vấn cách giải quyết cụ thể tình huống nêu trên (nếu có thể)

GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG

1. Một số vấn đề lý luận về nhãn hiệu

Khái niệm nhãn hiệu theo Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Luật SHTT) được quy định cụ thể tại khoản 16 Điều 4 Giải thích từ ngữ như sau: “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”.

Nhãn hiệu có các chức năng cơ bản sau:

+ Chức năng phân biệt: Chức năng này được hiểu là nhãn hiệu giúp phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ thể này với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác. Có thể nói đây là chức năng cơ bản và quan trọng nhất của nhãn hiệu. Ngay từ khi hình thành, nhãn hiệu đã được coi như một hình thức cô đọng và khái quát truyền đạt các thông tin về hàng hóa, dịch vụ; là dấu hiệu đầu tiên và dễ dàng nhất để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các cơ sở kinh doanh khác nhau.

+ Chức năng quảng cáo hoặc tiếp thị: Nhãn hiệu được coi như một công cụ marketing quan trọng truyền đạt đến người tiêu dùng uy tín của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu. Nhãn hiệu truyền tải thông điệp về hàng hóa, dịch vụ từ nhà sản xuất tới người tiêu dùng, giúp người tiêu dùng giảm chi phí tìm kiếm.

+ Chức năng bảo đảm chất lượng hàng hóa, dịch vụ: Do người tiêu dùng có xu hướng sử dụng nhãn hiệu để nhận biết loại hàng hóa, dịch vụ sẽ thỏa mãn nhu cầu của họ nên đã tạo động lực cho các nhà sản xuất và phân phối nhằm đáp ứng nguyện vọng chính đáng của người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm, Có thể khẳng định rằng, cách thức cổ điển, an toàn và phổ biến nhất để giành được sự trung thành của người tiêu dùng đối với một nhãn hiệu cụ thể thông qua việc duy trì chất lượng ổn định của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu. Do đó, việc sử dụng nhãn hiệu có khuynh hướng khuyến khích chủ sở hữu nhãn hiệu duy trì chất lượng ổn định cho hàng hóa, dịch vụ được chào bán dưới nhãn hiệu của họ.

Để một dấu hiệu được bảo hộ là một nhãn hiệu, Điều 72 Luật SHTT đã quy định cụ thể về điều kiện bảo hộ nhãn hiệu như sau: “Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:

  • Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, cả cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hay nhiều màu sắc;
  • Có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác”.

2. Khả năng đăng ký nhãn hiệu KATA của Công ty cổ phần du lịch lữ hành KATA và tư vấn cách giải quyết

Trước hết, xét về dấu hiệu “KATA”, dấu hiệu này đảm bảo được điều kiện là dấu hiệu phù hợp với quy định của pháp luật để làm nhãn hiệu.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 72 Luật SHTT, “dấu hiệu” phải nhìn thấy được, bao gồm: Từ ngữ, chữ số, chữ cái, hình vẽ, hình ảnh, hình ảnh ba chiều, sự kết hợp của các yếu tố trên được thể hiện bằng một hay nhiều màu sắc. Khoản 1 Điều 74 Luật SHTT quy định: Nhãn hiệu được coi là có khả năng phân biệt khi được thành từ một hoặc một số yếu tố dễ nhận biết, dễ ghi nhớ hoặc từ nhiều yếu tố kết hợp thành một tổng thể dễ nhận biết, dễ ghi nhớ và không thuộc các trường hợp không có khả năng phân biệt quy định tại khoản 2 Điều 74 Luật SHTT.

“KATA” là đối tượng đăng ký bảo hộ trong tình huống trên là một từ ngữ. Từ này được viết bởi ba chữ cái thuộc ngôn ngữ La tinh: A, K, T và kết hợp với nhau tạo thành từ KATA; không phải thuộc ngôn ngữ khó ghi nhớ như chữ Trung Quốc, chữ Phạn…., được thể hiện bằng màu sắc và được nhận biết bằng thị giác của người tiêu dùng.  Sự kết hợp ba chữ cái này được phát âm thành hai tiếng “ca – ta”, rất ngắn gọn nên người tiêu dùng có thể dễ dàng ghi nhớ được. Và dấu hiệu “KATA” không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với: “tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế, nếu không được cơ quan, tổ chức đố cho phép”; “tên thật, biệt hiệu, bút danh, hình ảnh của lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân Việt Nam, của nước ngoài”; “dấu chứng nhận, dấu kiểm tra, dấu bảo hành của tổ chức quốc tế mà tổ chức đó có yêu cầu không được sử dụng, trừ trường hợp chính tổ chức này đăng ký các dấu đó làm nhãn hiệu chứng nhận” (Điều 73 Luật SHTT).

Xét về khả năng phân biệt, dấu hiệu “KATA” không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác (giả sử xét từ trước khi công ty thương mại dịch vụ Vạn Xuân (Công ty Vạn Xuân) nộp đơn đăng ký nhãn hiệu tới Cục Sở hữu trí tuệ).

Từ những phân tích trên, dấu hiệu “KATA” nói chung có thể được đăng ký làm nhãn hiệu.

3. Cách để Công ty cổ phần du lịch lữ hành KATA đăng ký được nhãn hiệu KATA

Công ty cổ phần du lịch lữ hành KATA (Công ty KATA) có khả năng đăng kí được nhãn hiệu KATA cho mình bởi những lý do sau:

Thứ nhất, dấu hiệu “KATA” có thể đăng ký làm nhãn hiệu như đã phân tích ở trên.

Thứ hai, về quyền đăng ký nhãn hiệu, Công ty KATA có quyền đăng ký nhãn hiệu “KATA” cho dịch vụ du lịch của mình dựa trên quy định tại khoản 1 Điều 87 Luật SHTT: “Tổ chức, cá nhân có quyền đăng ký nhãn hiệu cho hàng hóa do mình sản xuất hoặc dịch vụ do mình cung cấp.”

Thứ ba, để Công ty KATA đăng ký được thành công dấu hiệu “KATA” làm nhãn hiệu cho dịch vụ du lịch của mình thì có thể áp dụng một trong các cách sau:

Cách thứ nhất: Công ty KATA nộp đơn đăng ký nhãn hiệu bình thường tới Cục Sở hữu trí tuệ, với những lập luận sau:

Một là, như đã phân tích ở trên, dấu hiệu “KATA” đáp ứng được điều kiện tại khoản 1 Điều 72 Luật SHTT.

Hai là, về khả năng phân biệt: Việc đánh giá khả năng phân biệt của nhãn hiệu trong nghiên cứu dựa trên các tiêu chí: cấu trúc, cách phát âm, cách trình bày và ý nghĩa. Rõ ràng dấu hiệu “KATA” mà Công ty KATA và Công ty Vạn Xuân muốn đăng ký nhãn hiệu đều có cùng cấu trúc (sự sắp xếp các chữ cái giống nhau), cách phát âm giống nhau là hai âm “ca – ta”. Cả hai công ty này đều muốn đăng ký nhãn hiệu này cho các dịch vụ tương tự nhau (đều liên quan đến du lịch). Việc đăng ký nhãn hiệu “KATA” của Công ty KATA rất có thể sẽ bị Cục sở hữu trí tuệ từ chối do Công ty Vạn Xuân đã nộp đơn đăng ký nhãn hiệu trước (ngày 10/03/2009) và đơn đăng ký này là hợp lệ đã được đăng trên Công báo Sở hữu công nghiệp. Hơn nữa, dấu hiệu “KATA” mà Công ty KATA muốn đăng ký có thể trùng hoàn toàn với dấu hiệu mà Công ty Vạn Xuân đã thể hiện trong đơn đăng ký. Do vậy, để tránh trường hợp này có thể xảy ra và việc đăng ký nhãn hiệu của Công ty KATA không ảnh hưởng đến Công ty Vạn Xuân, thì dấu hiệu “KATA” mà công ty KATA muốn đăng ký nhãn hiệu phải có sự khác biệt rõ rệt với dấu hiệu “KATA” của Công ty Vạn Xuân đã nộp đơn đăng ký. Sự khác biệt này phải được thể hiện ở cách trình bày, chẳng hạn, kích cỡ mỗi chữ cái khác nhau, sắp xếp các chữ cái theo cách khác (“KA” ở trên và “TA” ở dưới),…

Với cách làm này, khả năng đăng ký được thành công nhãn hiệu là không cao, bởi dù công ty KATA có thay đổi các yếu tố của dấu hiệu “KATA” vẫn có khả năng gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng, và có thể dẫn đến Cục SHTT sẽ không chấp nhận đơn đăng ký nhãn hiệu của công ty này.

Cách thứ hai: Công ty KATA chứng minh dấu hiệu “KATA” đã được mình sử dụng và thừa nhận rộng rãi cho dịch vụ du lịch của mình.

Dựa trên quy định tại điểm g khoản 2 Điều 74 Luật SHTT về đánh giá khả năng phân biệt của nhãn hiệu, theo đó, nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu nhãn hiệu đó là “dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự từ trước ngày nộp đơn…”.

Công ty KATA có thể ý kiến bằng văn bản tới Cục Sở hữu trí tuệ về dấu hiệu “KATA” mà Công ty Vạn Xuân đã nộp đơn đăng ký bảo hộ để Cục Sở hữu trí tuệ xem xét về việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu cho công ty này (Công ty KATA đóng vai trò là người thứ ba) (Điều 112 Luật SHTT). Các công việc mà Công ty KATA cần làm gồm:

+ Chứng minh dấu hiệu “KATA” mà Công ty Vạn Xuân đăng ký trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với dấu hiệu “KATA” mà Công ty KATA dự định đăng ký, tức chỉ rõ là dấu hiệu “KATA” có cùng cấu tạo, cách trình bày (kể cả màu sắc) hoặc có một số đặc điểm trùn nhau hoặc tương tự đến mức không dễ dàng phân biệt với nhau về cấu tạo, cách phát âm, phiên âm đối với dấu hiệu, chữ, ý nghĩa, cách trình bày, màu sắc và gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng (điểm a khoản 3 Điều 11 Nghị định số 105/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 119/2010/NĐ-CP – Nghị định số 105/2006)

+ Chứng minh dấu hiệu đăng ký cho dịch vụ mà cả hai công ty này cùng kinh doanh trùng hoặc tương tự nhau, tức trùng hoặc tương tự về bản chất hoặc có liên hệ về chức năng, công dụng và có cùng kênh tiêu thụ (điểm b khoản 3 Điều 11 Nghị định số 105/2006)

+ Chứng minh dấu hiệu “KATA” đã được công ty này sử dụng và thừa nhận rộng rãi cho dịch vụ du lịch của mình qua các bằng chứng về việc công ty này đã sử dụng liên tục dấu hiệu “KATA” trên bảng hiệu của các văn phòng giao dịch, trên giấy tờ giao dịch; in nhãn hiệu trên mũ, áo của nhân viên; trên mũ, khăn lạnh, nước uống… phát cho khách; quảng cáo trên báo chí và trên chính website của công ty …từ tháng 5/2007 cho đến nay. Việc chứng minh này là tương đối dễ dàng. Sau khi chứng minh được các vấn đề trên, khả năng cao Cục Sở hữu trí tuệ sẽ không cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu cho Công ty Vạn Xuân. Để đảm bảo quyền lợi cho mình, tránh những tranh chấp có thể xảy ra sau này, Công ty KATA nên đăng ký ngay nhãn hiệu “KATA” cho mình. Cách giải quyết này có khả năng thành công cao nhất.

Cách thứ ba: Công ty KATA chứng minh “KATA” là tên thương mại của mình, và việc sử dụng dấu hiệu này của công ty Vạn Xuân sẽ gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc của dịch vụ du lịch.

Căn cứ của cách giải quyết này là điểm k khoản 2 Điều 74 Luật SHTT, theo đó, nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu nhãn hiệu đó là “dấu hiệu trùng hoặc tượng tự với tên thương mại đang được sử dụng của người khác, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc của hàng hóa, dịch vụ”. Tương tự cách thứ hai, Công ty KATA gửi ý kiến tới Cục Sở hữu trí tuệ về dấu hiệu “KATA” mà Công ty Vạn Xuân đăng ký. Để sử dụng điều khoản này làm căn cứ pháp lý, Công ty KATA phải chứng minh được:

+ Dấu hiệu “KATA” mà Công ty Vạn Xuân đăng ký bảo hộ trùng hoặc tương tự với tên thương mại của Công ty KATA. Trước hết, Công ty KATA phải chứng minh “KATA” là tên thương mại của mình. Theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 6 Luật SHTT: “Quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó”, công ty phải chứng minh dấu hiệu “KATA” được sử dụng trong hoạt động kinh doanh của mình như các giấy tờ giao dịch, quảng cáo trên báo chí…từ khi thành lập từ tháng 5/2007, bởi tên thương mại không bắt buộc phải đăng ký mà quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại được xác lập dựa trên thực tiễn sử dụng. Cũng như cách thứ hai, việc chứng minh này là khá dễ dàng. Tiếp đó, chứng minh dấu hiệu “KATA” mà Công ty Vạn Xuân sử dụng trùng (giống hệt) hay tương tự như đã trình bày ở cách trên.

+ Việc sử dụng dấu hiệu “KATA” có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc của dịch vụ du lịch. Cả hai Công ty KATA và Công ty Vạn Xuân có sự tương tự nhau về lĩnh vực kinh doanh (đều liên quan đến lĩnh vực du lịch). Việc Công ty Vạn Xuân sử dụng dấu hiệu “KATA” trong hoạt động kinh doanh của mình sẽ rất dễ khiến người tiêu dùng nhầm lẫn rằng, Công ty KATA và Công ty Vạn Xuân là một hoặc có liên quan với nhau (công ty mẹ – con, chi nhánh…), mà trên thực tế hai công ty này hoàn toàn độc lập.

Sau khi đã chứng minh được những vấn đề trên, có khả năng Cục Sở hữu trí tuệ sẽ từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đối với dấu hiệu “KATA” cho Công ty Vạn Xuân. Để tránh những vụ việc khác có thể xảy ra sau này, Công ty KATA cũng nên đăng ký ngay dấu hiệu này làm nhãn hiệu cho mình.

Cách này có hiệu quả khá cao, bởi chứng minh tên thương mại của Công ty KATA là khá dễ dàng. Tuy nhiên, việc đánh giá khả năng gây nhầm lẫn lại phụ thuộc nhiều vào người tiêu dùng. Công ty KATA sẽ mất thêm chi phí và thời gian để điều tra, thu thập thông tin, số liệu từ phía khách hàng.

Cách thứ tư: Công ty KATA chứng minh dấu hiệu “KATA” là nhãn hiệu nổi tiếng cho dịch vụ du lịch của mình.

Cơ sở pháp lý của cách này là điểm I khoản 2 Điều 74 Luật SHTT: “Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu nổi tiếng của người khác đăng ký cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự với hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng hoặc đăng ký cho hàng hóa, dịch vụ không tương tự, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm ảnh hưởng đến khả năng phân biệt của nhãn hiệu nổi tiếng hoặc đăng ký nhãn hiệu nhằm lợi dụng uy tín của nhãn hiệu nổi tiếng”.

Để chứng minh “KATA” là nhãn hiệu nổi tiếng, Công ty KATA phải tiến hành đánh giá ít nhất một trong các tiêu chí được quy định tại Điều 75 Luật SHTT như: Số lượng người tiêu dùng liên quan đã biết đến nhãn hiệu thông qua việc sử dụng dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc thông qua quảng cáo; phạm vi lãnh thổ mà dịch vụ mang nhãn hiệu đã được lưu hành; thời gian sử dụng liên tục của nhãn hiệu…

Còn các vấn đề liên quan đến dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn thì chứng minh tương tự như cách thứ hai và thứ ba. Theo quy định của pháp luật SHTT, hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu trùng hay tương tự không xem xét đến, nên theo cách này, không xét đến dịch vụ mà cả hai công ty này đang kinh doanh.

Cách làm này có khả năng thành công rất thấp. Việc chứng minh một nhãn hiệu nổi tiếng là không dễ dàng, hơn nữa có thể lộ các thông tin bí mật của công ty. Cách này chỉ khả thi đối với những công ty được đông đảo người tiêu dùng biết đến, chất lượng và uy tín tốt.   

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009;
  2. Nghị định số 105/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 119/2010/NĐ-CP;
  3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật sở hữu trí tuệ, Nxb.CAND, Hà Nội – 2009;
  4. Đỗ Thị Hồng, Xác định khả năng phân biệt của nhãn hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội – 2008.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bán phá giá – Vận dụng các quy định và thực tiễn giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO.

Bán phá giá hàng xuất khẩu là hiện tượng gắn liền với kỷ nguyên công nghiệp hóa diễn ra ở châu Âu ngay từ thế kỷ 17 và sau đó nhanh chóng trở thành một hiện tượng phổ biến của thế giới. Ngay từ khi xuất hiện, hiện tượng này đã được xem như là mối đe dọa đối với nền kinh tế của nước nhập khẩu. Do vậy, em chọn đề bài số 8 để làm bài tập học kỳ của mình: “Vận dụng các quy định và thực tiễn giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO để phân tích những vấn đề pháp lý sau đây:

  • Khái niệm một sản phẩm bị coi là bán phá giá
  •  Các điều kiện và thủ tục để áp dụng thuế chống bán phá giá

1. Khái niệm một sản phẩm bị coi là bán phá giá

Trước hết, hiểu thế nào là bán phá giá (BPG)? Theo TS.Vũ Thị Phương Lan, “bán phá giá trong thương mại quốc tế là hiện tượng xảy ra khi một hàng hóa được bán ở thị trường nước nhập khẩu với mức giá thấp hơn mức giá bán của hàng hóa đó ở thị trường nước xuất khẩu”[1].

Hiệp định Marakesh thành lập WTO (The World Trade Organization – WTO) với phần Phụ lục bao gồm các Hiệp định thương mại đa biên trong khuôn khổ WTO, trong đó có Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT 1994) và Hiệp định về việc thực thi Điều VI của GATT 1994 (thường được gọi là Hiệp định về chống BPG 1994 hay ADA 1994). Khái niệm BPG được thể hiện rõ nét tại khoản 1 Điều VI GATT 1994: “Các bên ký kết công nhận rằng BPG, theo đó hàng hóa của một nước được đưa vào kinh doanh thương mại ở một nước khác với giá trị thấp hơn giá trị thông thường của hàng hóa đó, phải bị lên án nếu như nó gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại lớn đối với một ngành công nghiệp đã được thiết lập trên lãnh thổ của một nước ký kết hoặc cản trở nghiêm trọng việc thiết lập một ngành sản xuất nội địa”. Hay tại khoản 2.1 Điều 2 ADA 1994 quy định: “Trong phạm vi Hiệp định này, một hàng hóa được coi là BPG (tức là được đưa vào lưu thông thương mại ở một nước khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của hàng hóa đó) nếu như giá xuất khẩu của hàng hóa được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của hàng hóa tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường”.

Như vậy, hiểu theo một cách đơn giản là nếu giá xuất khẩu của một mặt hàng thấp hơn giá nội địa (giá thông thường) của nó thì sản phẩm đó được coi là BPG tại thị trường nước nhập khẩu sản phẩm đó. Ví dụ: Một người sản xuất tivi lâu năm bán một mặt hàng tivi với giá 300USD/chiếc, nếu người đó xuất khẩu tivi cùng loại tới nước khác và bán với giá 230USD/chiếc thì người đó đã thực hiện hành động BPG, hay xảy ra hiện tượng BPG đối với loại tivi đó xuất khẩu sang nước khác.

Trong đó, giá trị thông thường của hàng hóa được xác định là giá của hàng hóa trong điều kiện thương mại thông thường khi đưa ra tiêu thụ tại thị trường. ADA 1994 không đưa ra định nghĩa về điều kiện thương mại thông thường nhưng có nêu trong một trường hợp có thể coi là không được bán trong điều kiện thương mại thông thường. Đó là khi sản phẩm được bán tại thị trường nước nội địa của nước xuất khẩu hoặc bán sang một nước thứ ba với giá thấp hơn giá sản xuất theo đơn vị sản phẩm (Điều 2.2.1 ADA 1994). Còn giá xuất khẩu là giá giao dịch sản phẩm mà người bán ở nước xuất khẩu bán hàng cho nhà nhập khẩu ở nước nhập khẩu.

BPG hàng hóa không đồng nghĩa với hàng hóa bán rẻ. Một nước có thể xuất khẩu hàng hóa sang nước khác, bán với giá rẻ hơn hàng hóa cùng loại đang bán trên thị trường nước nhập khẩu, nếu giá bán không thấp hơn giá bán của hàng hóa đó trên thị trường nước xuất khẩu thì hành động đó không phải là BPG.

2. Các điều kiện và thủ tục áp dụng thuế chống bán phá giá

Thực tiễn chống Bán phá giá (BPG) trong thương mại quốc tế cho thấy, trong số các biện pháp chống BPG, thuế chống BPG, hay còn gọi là thuế chống BPG chính thức là biện pháp được áp dụng phổ biến nhất. Về bản chất, đây là khoản thuế bổ sung (ngoài khoản thuế nhập khẩu thông thường) đánh vào sản phẩm nước ngoài nhập khẩu là đối tượng của quyết định áp dụng biện pháp chống BPG. Trong khi đó, biện pháp tạm thời chưa phải là một biện pháp chống BPG chính thức và cam kết về giá chỉ được áp dụng trong một tỷ lệ rất nhỏ các vụ kiện chống BPG. Thuế chống BPG là biện pháp cuối cùng và có hiệu lực ngay kể từ khi được ban hành.

2.1. Điều kiện áp dụng thuế chống bán phá giá

Không phải cứ có hiện tượng hàng hóa nước ngoài BPG là nước nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp chống BPG đối với hàng hóa đó. Theo quy định của WTO thì việc áp dụng thuế chống BPG chỉ được thực hiện nếu cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu, sau khi đã tiến hành điều tra chống BPG, ra kết luận khẳng định sự tồn tại đồng thời của cả 3 điều kiện sau:

+ Hàng hóa nhập khẩu bị BPG (với biên độ phá giá không thấp hơn 2%);

+ Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu bị thiệt hại đáng kể hoặc bị đe dọa thiệt hại đáng kể hoặc ngăn cản đáng kể sự hình thành của ngành sản xuất trong nước (gọi chung là yếu tố thiệt hại);

+ Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng nhập khẩu BPG và thiệt hại nói trên.

Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu có thể bao gồm các doanh nghiệp có khả năng sản xuất ra các sản phẩm tương tự hoặc chỉ bao gồm các doanh nghiệp chiếm đa phần trên thị trường sản xuất sản phẩm tương tự ở nước nhập khẩu.

Thông thường có ba loại thiệt hại được nhắc đến có khả năng dẫn đến việc bị áp thuế chống BPG: (i) Đã có thiệt hại vật chất xảy ra với ngành công nghiệp liên quan; (ii) Có mối đe dọa gây thiệt hại vật chất với ngành công nghiệp liên quan; (iii) Có sự phá hủy vật chất với ngành công nghiệp liên quan. Tuy không có một tiêu chuẩn cụ thể nào để xác định mức độ thiệt hại nhưng theo các quy định của WTO cũng nhấn mạnh việc xác định thực tế chứ không phải là sự quy kết, suy đoán hoặc khả năng xa.

Nếu có thiệt hại vật chất cho ngành công nghiệp liên quan nhưng không phải do tác động của BPG mà do nhu cầu, thị hiếu hay hoàn cảnh quốc tế chi phối thì không thể áp thuế chống BPG với hàng hóa của nước xuất khẩu đang bị điều tra được. Để xác định được có mối quan hệ nhân quả giữa việc BPG và thiệt hại vật chất cho ngành công nghiệp liên quan, cơ quan điều tra phải xem xét các chứng cứ liên quan. Hiện nay, việc thu thập chứng cứ và xem xét chứng cứ vẫn do các quốc gia tự mình thực hiện theo các phương thức khác nhau nên không tránh được việc cảm tính, chung chung, gây thiệt hại cho các quốc gia bị điều tra phá giá.

Cuộc điều tra phá giá sẽ bị chấm dứt ngay lập tức nếu cơ quan điều tra xác định rằng: (i) Biên độ phá giá nhỏ hơn 2% giá xuất khẩu hoặc (ii) Số lượng nhập khẩu hàng bị nghi ngờ BPG từ một nước nhỏ hơn 3% tổng nhập khẩu sản phẩm tương tự ở nước nhập khẩu, trừ trường hợp từng nước xuất khẩu có lượng hàng nhập khẩu dưới 3% nhưng lượng hàng nhập khẩu của tất cả các nước xuất khẩu chiếm trên 7% tổng nhập khẩu sản phẩm tương tự ở nước nhập khẩu. Ví dụ thực tế về việc mặt hàng của một số nước dù có thị phần nhỏ nhưng do việc cộng dồn cùng với thị trường tương tự của nước khác nên vẫn là đối tượng bị kiện của nước nhập khẩu, đó là vụ kiện bật lửa gas mà EU kiện Việt Nam (2002). EU muốn kiện chống BPG hàng của Trung Quốc lan tràn trên thị trường châu Âu và chiếm đến 80% số lượng hàng trong đơn hàng bị kiện, trong khi đó bật lửa gas của Việt Nam tuy có số lượng rất ít nhưng cũng bị kiện để tránh tiền lệ.

2.2. Thủ tục để áp dụng thuế chống bán phá giá

Theo WTO, việc áp dụng thuế chống BPG phải được tiến hành theo trình tự theo quy định khung của GATT 1994 và ADA 1994. Đây thực chất là tổng hợp các bước điều tra xác minh các yêu cầu trong đơn kiện để kết luận có đủ điều kiện áp dụng các biện pháp chống BPG đối với hàng hóa bị kiện hay không. Có thể tóm tắt thành các bước như sau:

Bước 1: Ngành sản xuất trong nước hoặc đại diện cho ngành sản xuất trong nước của sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu nộp đơn kiện;

Cơ quan điều tra sẽ không tiến hành điều tra phá giá trừ khi xác định được rằng đơn xin điều tra được nộp bởi ngành sản xuất trong nước hoặc đại diện cho ngành sản xuất trong nước của sản phẩm tương tự, tức: (i) Sản phẩm tương tự của các nhà sản xuất trong nước ủng hộ việc nộp đơn phải lớn hơn sản lượng của các nhà sản xuất trong nước phản đối việc nộp đơn và (ii) Sản lượng của các nhà sản xuất trong nước ủng hộ việc nộp đơn phải chiếm ít nhất 25% tổng sản lượng sản phẩm tương tự của ngành sản xuất trong nước.

Bước 2: Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi xướng điều tra hoặc từ chối đơn kiện, không điều tra;

Cơ quan điều tra sẽ xác minh tính chính xác và đầy đủ các bằng chứng nêu trong đơn để xác định xem đã có đủ lý do để tiến hành điều tra chưa. Trong trường hợp không có đơn kiện của các chủ thể trên, cơ quan điều tra có thể tự mình điều tra khi có đầy đủ bằng chứng về việc BPG, thiệt hại và mối quan hệ nhân quả giữa hai yếu tố này.

Bước 3: Tiến hành điều tra;

Các cơ quan điều tra sẽ gửi bằng văn bản thông báo cho tất cả các bên liên quan đề nghị cung cấp bằng văn bản mọi chứng từ liên quan đến cuộc điều tra. Thời hạn trả lời câu hỏi điều tra là 30 ngày và có thể gia hạn thêm 30 ngày hoặc lâu hơn nếu thấy cần thiết, gửi nguyên văn đơn đề nghị điều tra cho các nhà xuất khẩu và cơ quan có liên quan ở nước xuất khẩu và các bên liên quan nếu có yêu cầu.

Sau khi cơ quan điều tra đã thực hiện đúng các thủ tục bắt đầu và quá trình điều tra tiếp theo và kết luận ban đầu nhận thấy rằng có dẫn đến tổn hại cho ngành sản xuất trong nước, cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng các biện pháp tạm thời, bao gồm: thuế tạm thời, đặt cọc các khoản tiền tương đương với khoản thuế chống BPG dự kiến; cho thông quan nhưng bảo lưu quyền đánh thuế và nêu rõ mực thuế nhập khẩu thông thường và mức thuế chống BPG dự kiến (Điều 7 ADA 1994) để ngăn chặn tổn hại đang xảy ra trong quá trình điều tra.

Bước 4: Kết luận cuối cùng;

Bước 5: Quyết định áp dụng biện pháp chống BPG (nếu kết luận cuối cùng khẳng định có việc BPG gây thiệt hại);

Việc quyết định có đánh thuế chống bán phá giá hay không và đánh thuế tương đương hay nhỏ hơn biên độ phá giá sẽ do cơ quan điều tra của nước nhập khẩu quyết định. Đối với một sản phẩm bị bán phá giá, cơ quan chức năng sẽ xác định biên độ phá giá riêng cho từng nhà sản xuất. Thuế chống BPG sẽ được áp dụng cho từng trường hợp, trên cơ sở không phân biệt đối xử đối với hàng nhập khẩu liên quan từ tất cả các nguồn được coi là gây thiệt hại trừ trường hợp đã cam kết giá, mức thuế chống BPG không được cao hơn biên độ phá giá. Mọi mức thuế cao hơn biên độ phá giá là không cần thiết và vượt quá ranh giới chính đáng của thuế này (Điều 9.3, ADA 1994). WTO cũng khuyến nghị rằng mức thuế chống BPG chính thức chỉ nên dừng lại ở một mức vừa đủ để loại trừ được thiệt hại đã gây ra.

Bước 6: Rà soát lại biện pháp chống BPG;

Sau khi áp dụng thuế chống BPG một thời gian, cơ quan chức năng sẽ tự tiến hành rà soát việc tiếp tục đánh thuế hoặc theo đề nghị của bất kỳ bên liên quan nào về vấn đề: có cần tiếp tục đánh thuế không hoặc nếu ngừng đánh thuế hoặc thay đổi mức thuế thì có dẫn đến thiệt hại hay không. Cơ quan có thẩm quyền sẽ quyết định ngừng đánh thuế nếu, sau khi rà soát, xác định được rằng không cần tiếp tục đánh thuế nữa.

Bước 9: Rà soát hoàng hôn.

Về nguyên tắc, thuế chống bán phá giá chỉ được áp dụng tối đa trong 5 năm. Trước khi hết thời hạn trên, cơ quan chức năng sẽ tự tiến hành rà soát hoặc theo đề nghị của đại diện ngành sản xuất trong nước. Nếu như sau khi rà soát (thường trong 12 tháng), cơ quan có thẩm quyền xác định được hiện tượng BPG vẫn còn và tiếp tục gây thiệt hại thì thuế chống BPG vẫn có thể được tiếp tục áp dụng (Điều 11.3 ADA 1994).

Thuế chống BPG chỉ có hiệu lực đối với hàng hóa nhập khẩu sau thời điểm quyết định áp thuế được ban hành. Tuy nhiên, nếu chỉ áp thuế vào thời điểm sau khi nó được ban hành thì sẽ không khắc phục được những thiệt hại mà sản phẩm BPG đã gây ra trong thời gian trước khi có quyết định áp thuế chống BPG. Do đó, WTO cho rằng trong những trường hợp nhất định có thể cho phép quyết định áp thuế chống BPG có hiệu lực hồi tố (Điều 10 ADA 1994).

Pháp luật chống BPG ra đời từ lâu đời và ngày càng khẳng định được chỗ đứng của mình trong hệ thống pháp luật các nước trên thế giới. Và đặc biệt từ khi các quy định về chống BPG nói chung và thuế chống BPG nói riêng được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật của WTO thì nó đã trở thành cơ sở pháp lý giúp các nước giải quyết các vấn đề về chống BPG. Trước hoàn cảng hàng hóa nước ngoài phá giá thô bạo ở thị trường Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam liên  tục bị khởi kiện chống BPG ở các thị trường lớn nhỏ khác nhau. Do vây, Việt Nam cần có các đối sách hợp lý phù hợp với pháp luật của WTO, phù hợp với vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT 1994);
  2. Hiệp định về việc thực thi Điều VI của GATT 1994 (ADA 1994);
  3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội – 2015;
  4. Hà Thị Thu Trang, Quy định mở về chống bán phá giá của WTO – Công cụ bảo hộ mậu dịch, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội – 2010;
  5. Nguyễn Thị Thu Hiền, Giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá trong khuôn khổ WTO và sự tham gia của các nước đang phát triển và Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội – 2014;
  6. Nguyễn Thị Thu Thảo, Pháp luật chống bán phá giá của Tổ chức Thương mại thế giới WTO và những vấn đề đặt ra với Việt Nam trong quá trình hội nhập, Khóa luận tốt nghiệp; Hà Nội – 2011;
  7. Vũ Thị Phương Lan, Pháp luật về chống bán phá giá trong thương mại quốc tế và những vấn đề đặt ra với Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học, Hà Nội – 2011;

[1]  Vũ Thị Phương Lan, Pháp luật về chống bán giá trong thương mại quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội – 2011

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Giải quyết tranh chấp về giao hàng theo Hợp đồng.

PHÁN QUYẾT

TRANH CHẤP VỀ GIAO HÀNG THEO HỢP ĐỒNG

Các bên:

– Nguyên đơn: Người bán – Công ty JICA (Việt Nam)

– Bị đơn: Người mua – Công ty POCA (Hoa Kỳ)

Tóm tắt vụ việc:

Ngày 29/12/2014, nguyên đơn ký Hợp đồng số 01/12/2014 JICA-POCA, sản xuất và bán một container túi nhựa, bao gồm 6 loại hàng hóa khác nhau cho bị đơn.

Ngày 02/02/2015, nguyên đơn gửi các túi mẫu rút từ lô hàng sản xuất theo hợp đồng cho bị đơn bằng EMS, nhưng phía bị đơn không có bất kỳ phản hồi nào.

Ngày 13/02/2015, tàu chở hàng do nguyên đơn thuê chở hàng tới cảng Los Angeles (Hoa Kỳ). Nhưng ngày 16/02/2015, bị đơn gửi email thông báo cho nguyên đơn từ chối nhận 2 trong số 6 loại túi là Túi mua hàng HDPE và Túi T-shirt HDPE với lí do màu in không giống với màu của mẫu túi mà bị đơn đã gửi; đồng thời yêu cầu nguyên đơn chuyển trả về Việt Nam đối với 2 loại hàng này và chuyển bộ chứng từ gốc để bị đơn đi nhận những loại hàng đạt yêu cầu còn lại.

Ngày 23/02/2015, nguyên đơn gửi email tới bị đơn khẳng định chất lượng giao hàng đúng theo hợp đồng và yêu cầu bị đơn nhận hàng và thanh toán theo thỏa thuận, nguyên đơn sẽ chuyển bộ chứng từ sau khi bị đơn thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán. Sau nhiều lần thương lượng không thành, ngày 02/03/2015, bị đơn tuyên bố hủy hợp đồng với lý do nguyên đơn giao hàng không đúng thỏa thuận và yêu cầu nguyên đơn hoàn trả các khoản tiền bị đơn đã thanh toán.

Ngày 05/03/2015, nguyên đơn khởi kiện ra trọng tài yêu cầu bị đơn:

– Thanh toán 100% giá trị lô hàng;

– Thanh toán toàn bộ chi phí lưu kho tại cảng Los Angeles.

1. Quan điểm của trọng tài về thẩm quyền và lựa chọn luật áp dụng để giải quyết vụ việc

1.1. Thẩm quyền giải quyết vụ việc của trọng tài

Căn cứ theo đơn khởi kiện của công ty JICA ngày 05/03/2015,  Điều 6 Hợp đồng số 01/12/2014 JICA-POCA và Điều 5 Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài quốc tế V (tương tự Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam có hiệu lực từ ngày 01/01/2012), Trung tâm trọng tài quốc tế V có thẩm quyền để giải quyết đơn khởi kiện của Công ty JICA.

1.2. Về việc lựa chọn luật áp dụng

Căn cứ khoản 2 Điều 22 Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam[1], do giữa Công ty JICA và Công ty POCA không có thỏa thuận gì về việc lựa chọn luật áp dụng nên luật áp dụng để giải quyết vụ việc này do Hội đồng Trọng tài quyết định. Qua đó, Hội đồng Trọng tài lựa chọn Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) là luật áp dụng.

Lý do chọn CISG là luật áp dụng:

Trong vụ việc này, nguyên đơn và bị đơn dù có trụ sở ở quốc gia đã là thành viên hay chưa là thành viên của CISG đều có quyền lựa chọn CISG làm luật điều chỉnh khi xảy ra tranh chấp, các bên trong hợp đồng lựa chọn CISG là luật áp dụng cho hợp đồng của mình; hoặc cơ quan giải quyết tranh chấp lựa chọn CISG là luật áp dụng hay là nguồn luật bổ sung nhằm bù đắp những thiếu sót của luật quốc gia hay của tập quán thương mại quốc tế.

Hơn nữa, CISG chỉ điều chỉnh các hợp đồng mua bán mà đối tượng là hàng hóa chứ không điều chỉnh những hợp đồng mà đối tượng của hợp đồng là dịch vụ. Đồng thời CISG cũng không điều chỉnh những hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định tại Điều 2 CISG. Trong vụ việc này, đối tượng hợp đồng là túi, bao gồm 6 loại túi khác nhau đã liệt kê rõ trong Hợp đồng số 01/12/2014 JICA-POCA. Loại hàng hóa này không thuộc những hàng hóa quy định tại Điều 2 CISG.

2. Quan điểm của trọng tài giải quyết tranh chấp giữa hai bên

2.1. Về việc Công ty POCA không phản hồi khi Công ty JICA gửi túi mẫu vào ngày 02/02/2015

Trong tình huống có tình tiết “Ngày 02/02/2015, Công ty JICA đã gửi các túi mẫu rút từ lô hàng mà JICA sản xuất theo hợp đồng số 01/12/2014 JICA-POCA cho Công ty POCA bằng EMS và phía Công ty POCA không có bất kì phản hồi nào những mẫu túi này”. Như vậy, việc Công ty POCA không có bất kì phản hồi nào những mẫu túi này có thể tồn tại hai khả năng: một là, công ty đã nhận được nhưng không có bất kỳ phản hồi nào hoặc; hai là, vì một lý do nào đó mà phía công ty không nhận được nên không có bất cứ phản hồi nào.

Tuy nhiên, do Công ty JICA đã gửi hàng mẫu rút từ lô hàng mà JICA sản xuất theo hợp đồng số 01/12/2014 JICA-POCA cho Công ty POCA bằng EMS, và trong quá trình Hội đồng Trọng tài tìm hiểu về EMS thì: “EMS (express mail service) là loại dịch vụ nhận gửi, vận chuyển và phát các loại thư, tài liệu, vật phẩm hàng hoá (bưu gửi) theo chỉ tiêu thời gian được Tổng Công ty Bưu chính – Viễn thông Việt Nam công bố trước[2]”, và gói dịch vụ mà Công ty JICA sử dụng để chuyển phát lô hàng mẫu cho phía Công ty POCA là “Chuyển phát nhanh quốc tế”. Trong khi đó, chuyển phát nhanh luôn kèm với “chuyển phát đảm bảo”, nghĩa là nếu địa chỉ nhận không có gì trục trặc thì bưu phẩm phải đến nơi và có chữ ký, họ tên của người đã nhận hàng và thời gian nhận hàng[3]. Bên cạnh đó, dịch vụ EMS là một trong những dịch vụ bưu chính thuộc sự điều chỉnh của Công ước Bưu chính thế giới, mà tại Khoản 7 Điều 10 Chương 1 Phần thứ 2 Công ước này có quy định: “Theo quy định chung, các bưu kiện sẽ được phát tới người nhận với mức độ nhanh nhất có thể được và tuân thủ theo các quy định hiện hành của nước nhận. Khi bưu kiện không phát được đến địa chỉ người nhận, trừ trường hợp bất khả kháng, thì người nhận sẽ được thông báo ngay là bưu kiện đã tới”, và mức độ nhanh nhất có thể được xác định đối với Hoa Kỳ thuộc vùng 3 (zone 3) theo bảng giá dịch vụ hiện hành thì tối đa là 3-4 ngày[4], kể cả trong mọi trường hợp vì những lý do khác nhau cũng không quá 7-10 ngày[5]. Trong khi đó, suốt khoảng thời gian từ ngày 02/02/2015 từ khi bưu phẩm được Công ty JICA chuyển đi bằng EMS đến ngày 13/02/2015, Công ty POCA cũng không có bất kỳ phản hồi gì.

Do vậy, Hội đồng Trọng tài loại trừ trường hợp Công ty POCA không nhận được hàng mẫu do Công ty JICA gửi vào ngày 02/02/2015 qua EMS. Theo đó, việc “không có bất kỳ phản hồi nào về mẫu túi này” sẽ được hiểu là Công ty POCA đã nhận được bưu kiện hàng mẫu và đã biết về hàng không phù hợp vào lúc ký kết (theo như lý do mà Công ty POCA đưa ra) nhưng không có bất kỳ phản hồi nào. Do đó, chiếu theo quy định tại khoản 3 Điều 35 CISG[6], kể cả trong trường hợp Công ty JICA giao hàng không đúng hợp đồng thì Công ty JICA (người bán) cũng không phải chịu trách nhiệm về việc này.

2.2. Về quyền khiếu nại và tuyên bố hủy hợp đồng của Công ty POCA

Giả sử, việc Công ty JICA giao hàng không đúng hợp đồng là đúng như Công ty POCA đã đưa ra, căn cứ khoản 1 Điều 39 CISG[7], Công ty POCA bị mất quyền khiếu nại về việc hàng hóa không phù hợp với hợp đồng.

Như đã phân tích ở trên và lý do không nhận hai loại Túi mua hàng HDPE, mã sản phẩm JOIA và Túi T-shirt HDPE, mã sản phẩm General Discount mà Công ty POCA đưa ra trong email gửi cho công ty JICA ngày 16/02/2015 thì Công ty POCA phải biết về việc màu các túi mẫu do Công ty JICA gửi ngày 02/02/2015 là không giống với màu các túi mẫu mà Công ty POCA đã gửi cho Công ty JICA như một phần thỏa thuận không thể tách rời của hợp đồng. Tuy nhiên, Công ty POCA không có phản hồi nào về những túi mẫu này kể từ khi phát hiện ra sự không phù hợp đó. Mặt khác, ngày 13/02/2015, tàu chở hàng của công ty vận tải SIMA do Công ty POCA thuê vẫn sang Việt Nam và chở hàng về cảng Los Angeles (Hoa Kỳ).

Như vậy, theo khoản 1 Điều 39 CISG thì Công ty POCA bị mất quyền khiếu nại về việc hàng hóa không phù hợp với hợp đồng do đã không thông báo cho Công ty JICA trong một khoảng thời gian hợp lí và có thể thấy rằng, Công ty POCA đã chấp nhận mẫu túi do Công ty JICA gửi.

Từ những phân tích ở trên và căn cứ khoản 1 Điều 49 CISG[8], việc Công ty POCA tuyên bố hủy hợp đồng với lý do công ty JICA giao hàng không đúng thỏa thuận như trong hợp đồng là không có căn cứ. Công ty POCA (người mua) chỉ có thể tuyên bố hủy hợp đồng nếu thuộc các trường hợp mà điều luật này quy định. Ở đây, Công ty JICA đã làm theo đúng thỏa thuận như trong hợp đồng và không có hành vi nào thuộc một trong các trường hợp đã nêu trong điều luật.

2.3. Về chi phí lưu kho

Theo Điều 1 Hợp đồng số 01/12/2014 JICA-POCA, Công ty JICA và Công ty POCA đã thống nhất sử dụng giá FOB tại cảng Hải Phòng, Việt Nam. Mà giá FOB là một thuật ngữ viết tắt trong tiếng Anh của cụm từ Free On Board, nghĩa là Miễn trách nhiệm trên boong tàu nơi đi còn gọi là “Giao lên tàu”[9]. Các khoản chi phí khác như cước vận tải, phí bảo hiểm thuộc về trách nhiệm của bên mua hàng. Như vậy, kể từ khi hàng hóa chuyển lên tàu vận tải của công ty SIMA do Công ty POCA thuê tại cảng Hải Phòng, trách nhiệm về chi phí phát sinh từ hàng hóa không còn thuộc về Công ty JICA mà chuyển sang cho Công ty POCA, mặc dù lúc này Công ty JICA vẫn là chủ sở hữu đối với lô hàng hóa đó (do chưa chuyển giao chứng từ gốc đối với lô hàng).

Tuy nhiên, tại cảng Los Angeles (Hoa Kỳ), Công ty POCA đã không nhận hai loại túi hàng như đã nói trên. Do trong tình huống đưa ra, một trong những yêu cầu Công ty POCA gửi qua email cho Công ty JICA ngày 16/02/2015 là “chuyển bộ chứng từ gốc để POCA đi nhận những loại hàng đạt yêu cầu còn lại” và trong email Công ty JICA gửi lại cho Công ty POCA ngày 23/02/2015, Công ty JICA yêu cầu Công ty POCA nhận hàng và thanh toán theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng, Công ty JICA chỉ chuyển bộ chứng từ để Công ty POCA đi nhận hàng nếu Công ty POCA thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán. Do vậy, có thể hiểu rằng, Công ty POCA chưa nhận bất cứ loại hàng nào từ Công ty JICA theo hợp đồng và công ty JICA đã lưu kho toàn bộ hàng hóa tại cảng Los Angeles với chi phí 175 đô la Mỹ/ngày. Việc lưu kho này là đúng trách nhiệm bảo quản hàng hóa của Công ty JICA (toàn bộ hàng hóa vẫn thuộc quyền định đoạt của người bán là Công ty JICA), phù hợp với quy định tại Điều 85 CISG[10]. Do vậy, Công ty JICA yêu cầu Công ty POCA thanh toán toàn bộ chi phí lưu kho tại cảng Los Angeles là hợp lý.

2.4. Phán quyết của Hội đồng Trọng tài

Trên cơ sở Công ước Viên năm 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hòa quốc tế (CISG), các quy định, tài liệu khác có liên quan và những phân tích trên, Hội đồng Trọng tài đưa ra phán quyết như sau:

  • Công ty POCA không có phản hồi khi Công ty JICA gửi hàng mẫu rút từ lô hàng mà Công ty JICA sản xuất theo Hợp đồng số 01/12/2014 JICA-POCA cho Công ty POCA ngày 02/02/2015 được hiểu là Công ty POCA đã chấp nhận mẫu hàng này.
  • Lý do Công ty JICA giao hàng không đúng thỏa thuận như hợp đồng mà Công ty POCA đưa ra là không có căn cứ đúng đắn. Công ty POCA không có quyền khiếu nại và tuyên bố hủy hợp đồng về việc hàng hóa không phù hợp với hợp đồng.
  • Công ty POCA phải thanh toán 100% giá trị hàng hóa và chi phí lưu kho tại cảng Los Angeles với chi phí 175 đô la Mỹ/ngày cho Công ty JICA.

Việc giải quyết vụ việc của nhóm hoàn toàn dựa trên các quy định của pháp luật và các thông tin tìm hiểu được. Với vai trò là trọng tài, phán quyết cuối cùng sẽ được đưa ra sau khi nguyên đơn và bị đơn trình bày.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Công ước Viên năm 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG);
  2. Công ước Bưu chính thế giới;
  3. Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam;
  4. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại quốc tế, Nxb.CAND, Hà Nội – 2015;
  5. http://ems.com.vn/products/119-ems-quc-t.aspx

[1] Khoản 2 Điều 22 Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam: “Đối với vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng Trọng tài áp dụng pháp luật do các bên thỏa thuận, trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về pháp luật áp dụng thì Hội đồng Trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng Trọng tài cho là phù hợp nhất.”

[2]https://vi.wikipedia.org/wiki/EMS#Tham_kh.E1.BA.A3o

[3]http://chuyenphatnhanhquocte.biz/

[4]http://chuyenphatnhanhquocte.biz/

[5]http://ems.com.vn/products/119-ems-quc-t.aspx

[6]Khoản 3 Điều 35 CISG: “Người bán không chịu trách nhiệm về việc giao hàng không đúng hợp đồng như đã nêu trong các điểm từ a đến d của khoản trên nếu như người mua đã biết hoặc không thể không biết về việc hàng không phù hợp vào lúc ký kết hợp đồng”

[7] Khoản 1 Điều 39 CISG: “Người mua bị mất quyền khiếu nại về việc hàng hóa không phù hợp hợp đồng nếu người mua không thông báo cho người bán những tin tức về việc không phù hợp đó trong một thời hạn hợp lý kể từ lúc người mua đã phát hiện ra sự không phù hợp đó”

[8] Khoản 1 Điều 49 CISG: “Người mua có thể tuyên bố hủy hợp đồng: a. Nếu việc người bán không thực hiện một nghĩa vụ nào đó của họ phát sinh từ hợp đồng hay từ Công ước này cấu thành một vi phạm chủ yếu đến hợp đồng, hoặc; b. Trong trường hợp không giao hàng: Nếu người bán không giao hàng trong thời gian đã được người mua gia hạn thêm cho họ chiếu theo khoản 1 điều 47 hoặc nếu người bán tuyên bố sẽ không giao hàng trong thời gian được gia hạn này”

[9] https://vi.wikipedia.org/wiki/FOB_(Incoterm)

[10]Ðiều 85CISG: “Khi người mua chậm trễ nhận hàng hay không trả tiền, hoặc trong những trường hợp khi việc trả tiền và việc giao hàng phải được tiến hành cùng một lúc, nếu hàng hóa còn ở dưới quyền định đoạt hay kiểm soát của người bán thì người bán phải thực hiện những biện pháp hợp lý trong những tình huống như vậy để bảo quản hàng hóa. Người bán có quyền giữ lại hàng hóa cho tới khi nào người mua hoàn trả cho họ các chi phí hợp lý.”

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Nêu và phân tích những ưu nhược điểm của các phương thức tư vấn.

Xã hội ngày nay không ngừng vận động và phát triển, phát sinh ngày càng nhiều các quan hệ xã hội phức tạp và đa dạng. Với tư cách là công cụ quản lý của Nhà nước, pháp luật cũng không nằm ngoài vòng quay đó để kịp thời điều chỉnh những quan hệ đó. Bởi lẽ đó, hoạt động tư vấn pháp luật trong những năm gần đây diễn ra khá phổ biến, đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho cả phía Nhà nước cũng như người dân. Để tìm hiểu sâu hơn về hoạt động này, em chọn đề bài tập: “Đề 2: Nêu và phân tích những ưu nhược điểm của các phương thức tư vấn” làm bài tập học kỳ của mình.

1. Khái quát về các phương thức tư vấn

1.1. Phương thức tư vấn bằng miệng

Phương thức tư vấn bằng miệng có thể áp dụng cho một hoặc nhiều đối tượng như tư vấn cộng đồng, trợ giúp pháp lý lưu động, sinh hoạt chuyên đề pháp luật… thông qua điện thoại hoặc mặt đối mặt trực tiếp giữa người tư vấn và khách hàng. Phương thức này thường được áp dụng đối với các vụ việc có tính chất đơn giản. Hoạt động tư vấn pháp luật là một hoạt động đa dạng, phức tạp đòi hỏi một quá trình lao động trí óc. Vì vậy, khi tư vấn trực tiếp bằng miệng, người tư vấn cần thiết phải tôn trọng một quy trình sau đây:

  • Lắng nghe khách hàng trình bày, ghi chép đầy đủ những nội dung chính, trên cơ sở đó đặt thêm câu hỏi để làm rõ yêu cầu tư vấn và tình huống tư vấn.
  • Tóm tắt yêu cầu của khách hàng, các tình tiết liên quan theo cách hiểu của người tư vấn.
  • Yêu cầu khách hàng cung cấp các tài liệu liên quan đến việc cần tư vấn.
  • Tra cứu tài liệu tham khảo.
  • Định hướng cho khách hàng.

Bài luận Nêu và phân tích những ưu nhược điểm của các phương thức tư vấn.

1.2. Phương thức tư vấn bằng văn bản

Thông thường, tư vấn pháp luật bằng văn bản thường được áp dụng trong trường hợp người tư vấn không trả lời cho khách hàng ngay sau khi có yêu cầu do vụ việc phức tạp hoặc chưa có đầy đủ các tài liệu, chứng cứ pháp lý hoặc người tư vấn cần phải xác minh thêm. Việc tư vấn bằng văn bản thường được tiến hành bởi những lý do sau: Khách hàng ở xa, không trực tiếp đến gặp người tư vấn để xin tư vấn bằng miệng được; khách hàng muốn khẳng định độ tin cậy của các giải pháp thông qua việc đề ra các câu hỏi để người tư vấn trả lời bằng văn bản; kết quả tư vấn bằng văn bản có thể được khách hàng sử dụng để phục vụ cho những mục đích riêng của khách hàng.

Cũng như tư vấn bằng miệng, việc tư vấn bằng văn bản yêu cầu phải quán triệt các bước sau đây:

  • Nghiên cứu kỹ yêu cầu của khách hàng.
  • Trao đổi với khách hàng về yêu cầu của họ để tái khẳng định yêu cầu của họ nếu thấy cần thiết.
  • Tra cứu các tài liệu văn bản pháp luật có liên quan để phục vụ cho việc tư vấn.
  • Người tư vấn có thể đề nghị khách hàng gặp người tư vấn khác để xin tư vấn về những vấn đề mà mình đã phát hiện nhưng không thuộc chueyen môn của mình.
  • Soạn văn bản trả lời cho khách hàng.

2. Ưu điểm và nhược điểm của các phương thức tư vấn

2.1. Ưu điểm của các phương thức tư vấn

2.1.1. Đối với phương thức tư vấn bằng miệng

  • Giải quyết các vụ việc nhanh chóng, kịp thời

Khi khách hàng tìm đến người tư vấn, họ luôn mong muốn người tư vấn có thể làm thỏa mãn những yêu cầu tư vấn của mình ngay lập tức. Đây cũng là ưu điểm lớn nhất của phương thức tư vấn bằng miệng. Thông qua việc trao đổi trực tiếp với khách hàng, người tư vấn sẽ trả lời ngay cho khách hàng, những thắc mắc, mâu thuẫn của khách hàng sẽ được giải quyết một cách nhanh chóng, không mất quá nhiều thời gian cho cả người tư vấn và khách hàng. Qua đó, người tư vấn vừa giúp đỡ, có được thêm lòng tin từ khách hàng, bản thân khách hàng cũng hài lòng về sự tư vấn của người tư vấn. Sự nhanh chóng này được thể hiện rõ nét trong quá trình tư vấn, cụ thể:

Bài luận Nêu và phân tích những ưu nhược điểm của các phương thức tư vấn.

+ Trong quá trình lắng nghe khách hàng trình bày, kết hợp với việc ghi chép, người tư vấn có thể đặt những câu hỏi để khách hàng làm rõ thêm. Thông thường, lần đầu tiên tiếp xúc với một vụ việc, người tư vấn chưa thể nắm bắt được một cách chắc chắn bản chất của sự việc đó. Trong lúc đó, người trình bày lại có tâm lý là người nghe đã nắm bắt được nội dung vụ việc như chính bản thân mình, vì vậy, khách hàng thường trình bày theo hướng chủ quan của mình và có thể bỏ qua nhiều chi tiết mà họ cho là không cần thiết. Do đó, khi tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, người tư vấn có thể đặt ngay những câu hỏi có liên quan mà theo người tư vấn, khách hàng chưa cung cấp đầy đủ hoặc đưa những thông tin sai lệch, mâu thuẫn với nhau. Thông qua việc đặt thêm câu hỏi, khách hàng trực tiếp trả lời ngay sẽ giúp cho người tư vấn có thể đưa ra một giải pháp chính xác, đầy đủ và đúng pháp luật.

+ Trong cuộc trao đổi với khách hàng, người tư vấn có thể yêu cầu khách hàng cung cấp các tài liệu liên quan đến việc cần tư vấn ngay. Khách hàng là người trong cuộc, vì vậy phần lớn các việc mà họ yêu cầu tư vấn thường có các tài liệu, văn bản, thư từ giao dịch… liên quan đến vụ việc. Những giấy tờ này phản ánh diễn biến của quá trình tranh chấp hoặc bản chất của vụ việc. Nếu người tư vấn không có những tài liệu này sẽ dẫn đến việc tư vấn có thể không chính xác. Với tâm lý che giấu những điểm bất lợi hoặc sai sót của mình, nhiều khi khách hàng chỉ cung cấp cho người tư vấn những văn bản giấy tờ có lợi cho mình. Người tư vấn có thể động viên họ ngay để họ cung cấp đầy đủ. Sau khi khách hàng đã cung cấp đầy đủ các văn bản giấy tờ, tài liệu có liên quan, người tư vấn cần dành thời gian để đọc các giấy tờ, tài liệu đó. Khi đọc có thể đồng thời hình thành luôn giải pháp trên cơ sở sắp xếp các tài liệu theo tầm quan trọng của nó. Có những tài liệu người tư vấn không hiểu, không đọc được hoặc có nghi ngờ về tính chân thực của nó thì có thể hỏi lại khách hàng để khẳng định ngay.

+ Khi tư vấn giải quyết cho khách hàng, người tư vấn nhất thiết phải dùng các quy định của pháp luật để làm cơ sở cho các kết luận của mình, đồng thời khẳng định với khách hàng rằng người tư vấn đang tư vấn dựa trên quy định của pháp luật chứ không phải theo cảm tính chủ quan của mình. Khi cần thiết, người tư vấn có thể cung cấp cho khách hàng bản sao văn bản, tài liệu đó cùng với giải pháp mà người tư vấn đưa ra. Trong trường hợp người tư vấn không tìm thấy văn bản cần tìm hoặc nghi ngờ về hiệu lực của văn bản đó (có thể văn bản đã bị hủy bỏ và có một văn bản khác thay thế) thì người tư vấn có thể trực tiếp thông báo ngay với khách hàng và hẹn với khách hàng vào một dịp khác để khẳng định lại giá trị áp dụng của văn bản. Điều này cũng tránh được việc áp dụng sai văn bản pháp luật, dẫn đến việc đưa ra các giải pháp cho khách hàng không chính xác.

  • Dễ dàng nắm bắt được tâm lý, đáp ứng nhu cầu chia sẻ của khách hàng

Những mâu thuẫn phát sinh trong đời sống xã hội nhiều trường hợp có thể được giải quyết thông qua con đường pháp lý, nhưng đôi khi lại chỉ được gỡ bỏ bằng tình cảm, điều này được thể hiện rõ nhất trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Gia đình được tạo nên trên cơ sở của hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng. Ở đó, các thành viên trong gia đình yêu thương, chăm sóc, đùm bọc lẫn nhau dựa trên yếu tố tình cảm. Bởi vậy, không phải lúc nào pháp luật với tư cách là công cụ của giai cấp thống trị cũng len sâu vào trong từng gia đình mà thường là các quy phạm đạo đức, quy phạm xã hội điều chỉnh mối quan hệ vợ chồng, cha mẹ con. Do đó, bên cạnh các vấn đề pháp lý, khách hàng đôi khi tìm đến người tư vấn với mong muốn giải tỏa được nỗi bức xúc, vướng bận trong lòng, giãi bày tâm tư, mong tìm được sự cảm thông, chia sẻ. Những lúc như thế này, người tư vấn không chỉ là một người tư vấn về mặt pháp luật mà đóng vai trò như một nhà tâm lý, thấu hiểu và đồng cảm với tâm tư của khách hàng bằng việc lắng nghe, động viên, khích lệ khách hàng, phân tích mặt phải trái để giúp khách hàng nhận thức được đúng đắn các vấn đề của mình. Bởi, khi khách hàng tìm đến người tư vấn, họ thường trong trạng thái rất dễ bị kích động, mang nặng ý chí chủ quan của mình mà có thể dẫn đến việc suy xét không kỹ lưỡng các vấn đề. Việc giải tỏa tâm trạng cho khách hàng cũng góp phần làm giải quyết nhanh chóng hơn vụ việc, giúp khách hàng thoải mái hơn về mặt tâm lý để có thể trình bày, cung cấp các thông tin, tài liệu chính xác, đầy đủ cho người tư vấn.

  • Dễ dàng hòa giải

Trong quá trình tư vấn, người tư vấn có thể giúp các bên đương sự hòa giải, thỏa thuận với nhau để tìm ra một giải pháp thỏa đáng. Việc này thường dễ thực hiện hơn so với tư vấn bằng văn bản. Thông qua việc tiếp xúc trực tiếp, người tư vấn không chỉ nhận biết được nội dung vụ việc mà còn nắm bắt được trạng thái, tâm lý của khách hàng để đánh giá chính xác hơn mức độ nghiêm trọng của vụ việc, từ đó có thể hòa giải mâu thuẫn giữa các bên mà không cần phải giải quyết trước pháp luật. Chẳng hạn như đối với những vụ việc cần hòa giải như tư vấn ly hôn chẳng hạn. Đối với phương thức tư vấn bằng miệng, người tư vấn có thể nắm bắt được tâm lý khách hàng qua thái độ, cử chỉ, nét mặt, lời nói của khách hàng để nhận biết tình cảm của khách hàng đối với người chồng, người vợ kia như thế nào, mức độ mâu thuẫn giữa hai vợ chồng đến đâu; từ đó định hướng cho khách hàng nên hòa giải hay nên ly hôn; nếu người tư vấn nhận thấy nên hòa giải thì bằng những kỹ năng tiếp xúc khách hàng của mình, việc hòa giải sẽ hiệu quả hơn. Trong trường hợp này, người tư vấn lại đóng vai trò như một hòa giải viên, phân tích vấn đề cho khách hàng, hòa giải mâu thuẫn giữa hai bên. Khách hàng hài lòng với việc tư vấn không chỉ thể hiện ở việc đưa ra các giải pháp về pháp luật mà còn thể hiện ở việc những mâu thuẫn của khách hàng được giải quyết một cách hợp tình hợp lý.

Bài luận Nêu và phân tích những ưu nhược điểm của các phương thức tư vấn.

2.1.2. Đối với phương thức tư vấn bằng văn bản

  • Yêu cầu của khách hàng thường rõ ràng

Khách hàng tìm đến người tư vấn thường trong tâm trạng bức xúc, khó chịu với vấn đề mà mình gặp phải. Khi trình bày trực tiếp với người tư vấn, họ thường bị chi phối bởi những cảm xúc đó mà có thể trình bày vụ việc của mình không rõ ràng, rắc rối, phức tạp. Đã có không ít trường hợp trong các cuộc tư vấn bằng miệng, khách hàng nói hàng giờ đồng hồ về câu chuyện của mình mà người tư vấn không xác định được được yêu cầu của khách hàng là gì. Tuy nhiên, khi khách hàng gửi yêu cầu của mình đến người tư vấn nhờ giải quyết qua đơn, thư, fax… khách hàng thường ghi rõ yêu cầu tư vấn của mình. Bởi khi viết ra dưới dạng văn bản, khách hàng lúc này thường có tâm lý ổn định hơn, cẩn thận hơn trong diễn đạt, trình bày vấn đề của mình. Người tư vấn qua đó cũng dễ dàng hơn trong việc xác định yêu cầu của khách hàng.

  • Cách giải quyết của người tư vấn có độ chính xác cao

Thực hiện tư vấn thông qua văn bản đảm bảo sự tư vấn khách hàng có độ chính xác cao hơn so với tư vấn bằng miệng. Người tư vấn có thêm nhiều hơn thời gian, đầu tư được nhiều công sức hơn trong việc giải quyết vấn đề của khách hàng. Sự chính xác này thể hiện ở việc:

+ Người tư vấn có thể nghiên cứu kỹ yêu cầu của khách hàng. Thông qua việc yêu cầu của khách hàng đã được xác định rõ, người tư vấn sẽ không phải sắp xếp các vấn đề như trong tư vấn bằng lời nói.

+ Người tư vấn có thêm thời gian để tra cứu các văn bản pháp luật có liên quan để phục vụ cho việc tư vấn. Điều này cũng hạn chế trường hợp người tư vấn dùng sai hay sử dụng văn bản đã hết hiệu lực như đối với trường hợp tư vấn bằng miệng. Hơn nữa, nhiều quy định của pháp luật hiện nay còn nhiều mâu thuẫn, có cách hiểu khác nhau. Khi có thêm thời gian tìm hiểu các quy định của pháp luật, người tư vấn sẽ đưa ra được nhiều phương án giải quyết cho khách hàng, phân tích kĩ càng hơn những ưu điểm, hạn chế của từng phương án.

+ Văn bản trả lời cho khách hàng nêu được bản chất của vấn đề mà khách hàng yêu cầu, đáp ứng trực tiếp yêu cầu mà khách hàng nêu ra. Thông qua văn bản này, khách hàng có cơ sở để giải quyết vấn đề của mình, tránh trường hợp khách hàng quên hay nhớ nhầm những lời tư vấn của người tư vấn nếu tư vấn bằng miệng.

2.2. Nhược điểm của các phương thức tư vấn

2.2.1. Đối với phương thức tư vấn bằng miệng

  • Khách hàng không nắm bắt được cách giải quyết

Một trong những kỹ năng thiết yếu của người tư vấn là luôn phải ghi chép lại nội dung của vụ việc dựa trên lời trình bày của khách hàng. Tuy nhiên, việc ghi chép lại không đặt ra đối với khách hàng. Đôi khi khách hàng đến tìm người tư vấn không chỉ với mục đích là tư vấn về mặt pháp luật mà có thể mong muốn có người lắng nghe vấn đề của mình, tìm kiếm sự cảm thông, chia sẻ nơi người tư vấn cùng với những cảm xúc cá nhân và họ thường sẽ không có sự chuẩn bị để ghi lại nội dung mà người tư vấn giải quyết cho họ. Từ đó dẫn đến việc khách hàng quên, nhớ không đầy đủ hoặc không nhớ chính xác những nội dung đó, hỏi lại người tư vấn và người tư vấn sẽ phải trả lời lại. Điều này vừa gây phiền hà cho khách hàng khi họ phải đến tư vấn nhiều lần, tốn thời gian, công sức, tiền của; vừa gây khó khăn cho người tư vấn vì họ cũng sẽ phải giải đáp lại cho khách hàng, có thể dẫn đến việc người tư vấn nhầm lẫn vì họ có nhiều vụ việc phải giải quyết. Để khắc phục vấn đề này, người tư vấn nên nhắc khách hàng ghi lại những thông tin cần thiết, hoặc tự mình ghi chép lại giúp khách hàng. Tuy những điều này là rất nhỏ nhưng góp phần thể hiện sự chuyên nghiệp của người tư vấn, thuận lợi hơn cho khách hàng.

Bài luận Nêu và phân tích những ưu nhược điểm của các phương thức tư vấn.

  • Cách giải quyết của người tư vấn có thể không chính xác, hiệu quả

Việc tư vấn bằng miệng của người tư vấn không chính xác, hiệu quả bởi một số lý do sau:

+ Không xác định được chính xác những yêu cầu của khách hàng. Khi khách hàng bị chi phối bởi tâm trạng, dẫn đến việc trình bày dài dòng, không rõ ràng yêu cầu của mình, người tư vấn bởi lẽ đó mà không xác định được việc mình cần phải làm cho khách hàng. Dẫn đến hiệu quả của việc tư vấn sẽ không cao, không thỏa mãn nhu cầu của khách hàng.

+ Không có nhiều thời gian để nghiên cứu hồ sơ, tra cứu tài liệu. Trong cuộc trao đổi trực tiếp, khách hàng luôn muốn người tư vấn phải giải đáp, đưa ra phương án tư vấn ngay cho họ. Điều này gây nên áp lực không hề nhỏ lên người tư vấn. Người tư vấn sẽ phải nhanh chóng rà soát các tài liệu mà khách hàng cung cấp, tra cứu văn bản pháp luật nào cần phải dùng. Việc làm này tuy có thể nhanh chóng giải quyết vấn đề của khách hàng nhưng cũng sẽ làm gia tăng những sai sót mà người tư vấn có thể gặp phải như giấy tờ, tài liệu có những thông tin mâu thuẫn hay không có giá trị pháp lý mà người tư vấn không phát hiện ra, văn bản pháp luật áp dụng đã hết hiệu lực… Do đó, muốn thực hiện tốt việc tư vấn trực tiếp bằng miệng này, đòi hỏi người tư vấn phải nắm vững kiến thức chuyên môn cũng như kinh nghiệm nghề nghiệp.

Bởi một số lý do trên nên hoạt động tư vấn không đạt được kết quả như mong muốn. Người tư vấn có thể sẽ không đưa ra được nhiều giải pháp hợp lý cho khách hàng, không đáp ứng được yêu cầu của khách hàng và dẫn đến hệ lụy tất yếu là mất lòng tin ở khách hàng. Để đáp ứng được yêu cầu của khách hàng đối với phương thức tư vấn bằng miệng, đòi hỏi người tư vấn phải không ngừng trau dồi kiến thức cũng như các kỹ năng nghề nghiệp của mình.

2.2.2. Đối với phương thức tư vấn bằng văn bản

  • Thường không nhanh chóng, mất nhiều thời gian

Đây là nhược điểm lớn nhất của phương thức tư vấn bằng văn bản. Thay vì mất vài tiếng giải quyết được yêu cầu của khách hàng khi tư vấn bằng miệng thì đối với phương thức tư vấn bằng văn bản, khách hàng khó có thể nhận được phần tư vấn từ người tư vấn trong khoảng thời gian ngắn như vậy. Có rất nhiều hoạt động gây mất thời gian của cả khách hàng và người tư vấn. Đối với khách hàng, để gửi yêu cầu đến người tư vấn, khách hàng sẽ phải viết thư trình bày vấn đề và yêu cầu của mình và gửi theo đường bưu điện, hoặc có thể nhanh hơn là qua các phương tiện điện tử như mail, fax… Còn đối với người tư vấn, tuy rằng họ có thêm nhiều thời gian hơn để tìm hiểu vụ việc nhưng thay vì trả lời ngay cho khách hàng, họ sẽ phải soạn văn bản trả lời đưa ra cách giải quyết của mình, hoặc yêu cầu khách hàng cung cấp thêm thông tin, tài liệu… Lúc này, đòi hỏi người tư vấn không chỉ phải giỏi cả về kiến thức chuyên môn (vì những vụ việc khó, phức tạp thường phải sử dụng phương thức này) thì họ cũng phải thành thạo một số kỹ năng nghề nghiệp khác, đặc biệt là kỹ năng soạn thảo văn bản. Những việc làm này sẽ tốn nhiều thời gian hơn, không kể những rủi ro, khó khăn có thể gặp phải như khách hàng không thông thạo các phương tiện điện tử; thất lạc thư; người tư vấn bỏ sót khách hàng (không kiểm tra hết hộp thư, lỗi đường truyền tín hiệu…).

  • Không dễ dàng nắm bắt tâm lý của khách hàng

Người tư vấn chủ yếu tiếp xúc với khách hàng thông qua văn bản thư từ qua lại, nên việc nắm bắt tâm lý khách hàng là không dễ dàng. Nếu như đối với phương thức tư vấn bằng miệng, người tư vấn có thể quan sát hành vi, thái độ của khách hàng để đánh giá mức độ nghiêm trọng của vụ việc, từ đó đưa ra cách giải quyết mâu thuẫn hợp lý hơn như hòa giải, thỏa thuận. Còn đối với phương thức tư vấn bằng văn bản, người tư vấn chỉ đánh giá được vụ việc qua lời văn, giọng kể của khách hàng, việc xem xét mức độ vụ việc sẽ hạn chế hơn rất nhiều. Xin lấy ví dụ một vấn đề nảy sinh trong quan hệ hôn nhân. Khách hàng là một phụ nữ trung tuổi đến gặp người tư vấn để tư vấn về việc người chồng đang ngoại tình. Qua sự tiếp xúc trực tiếp, người tư vấn nhận thấy khách hàng đang trong tâm trạng rất kích động (la lối, nét mặt căng thẳng), một mực muốn ly hôn. Đối với tư vấn bằng miệng, lúc này người tư vấn bằng lời nói của mình sẽ dễ dàng chia sẻ với khách hàng, xoa dịu bức bối, làm khách hàng bình tĩnh hơn để suy xét vấn đề, nên ly hôn hay dùng phương thức khác để cứu vãn cuộc hôn nhân. Còn đối với phương thức tư vấn bằng văn bản, người tư vấn khó mà biết được nỗi lòng của khách hàng để tư vấn theo hướng ly hôn hay hòa giải.

Các phương thức tư vấn đều có những ưu, khuyết điểm khác nhau. Trong từng trường hợp cụ thể, người tư vấn nên xác định phương thức tư vấn phù hợp để đạt được hiệu quả tốt nhất. Dù áp dụng phương thức tư vấn nào, đích đến cuối cùng vẫn là sự hài lòng của khách hàng và “tâm” của người tư vấn được trọn vẹn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
  2. Học viện tư pháp, Giáo trình Kỹ năng tư vấn pháp luật, Nxb. CAND, Hà Nội – 2012;

Bài luận Nêu và phân tích những ưu nhược điểm của các phương thức tư vấn.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Đề 6: Hội nông dân xã La Bằng – huyện Đại Từ – Tỉnh Thái Nguyên là chủ sở hữu của nhãn hiệu tập thể Chè La Bằng và hình. Nhãn hiệu này có thời hạn bảo hộ đến năm 2020. Hội nông dân xã La Bằng có 20 thành viên, trong đó có gia đình bà Nguyễn Thị A. Gia đình bà A đã sản xuất chè nhiều năm và có danh tiếng trong vùng. Bà A mất năm 2014. Bà A có một người con gái là chị B lấy chồng và sinh sống ở Bắc Cạn. Chị B có trồng chè tại gia đình, đóng gói và dán nhãn Chè La Bằng và hình giống nhãn hiệu tập thể của mẹ chị ở La Bằng – Thái Nguyên để bán ra thị trường.

Theo ý kiến của anh chị, việc sử dụng nhãn hiệu tập thể Chè La Bằng và hình của chị B trên sản phẩm chè của mình có xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ không? Nếu có thì biện pháp xử lý trong trường hợp này là gì.

NỘI DUNG

1. Xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ

Theo quan điểm của người viết, việc sử dụng nhãn hiệu tập thể Chè La Bằng và hình của chị B trên sản phẩm chè của mình là xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

Trước hết, xác định quyền của chủ sở hữu của nhãn hiệu tập thể Chè La Bằng – Hội nông dân xã La Bằng và các thành viên của hội

Căn cứ Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Luật Sở hữu trí tuệ): “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau” (khoản 16 Điều 4), “Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó” (khoản 17 Điều 4) và khoản 1 Điều 121: “Chủ sở hữu nhãn hiệu là tổ chức, cá nhân được cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu hoặc có nhãn hiệu đã đăng ký quốc tế được cơ quan có thẩm quyền công nhận hoặc có nhãn hiệu nổi tiếng”. Như vậy, theo các quy định trên, chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể chè La Bằng là Hội nông dân xã La Bằng (không phải là các thành viên của hội) là tổ chức được Cục sở hữu trí tuệ cấp văn bằng bảo hộ cho nhãn hiệu Chè La Bằng.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 123 Luật Sở hữu trí tuệ, chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp nói chung, cũng như chủ sở hữu nhãn hiệu nói riêng có các quyền sau:

a) Sử dụng, cho phép người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định tại Điều 124 và Chương X của Luật này;

b) Ngăn cấm người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định tại Điều 125 của Luật này;

c) Định đoạt đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định tại Chương X của Luật này.”

Dẫn chiếu tới khoản 5 Điều 125 Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “Sử dụng nhãn hiệu là việc thực hiện các hành vi sau đây:

Gắn nhãn hiệu được bảo hộ lên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh;

Lưu thông, chào bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán hàng hóa mang nhãn hiệu đươc bảo hộ;

Nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu được bảo hộ.

Với tư cách là chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể, Hội nông dân xã La Bằng có các quyền của chủ sở hữu theo quy định tại khoản 1 Điều 123 Luật Sở hữu trí tuệ như đã trích dẫn ở trên. Hội nông dân xã La Bằng có 20 thành viên và các thành viên này có quyền sử dụng nhãn hiệu Chè La Bằng. Việc sử dụng nhãn hiệu này đã được quy định tại khoản 5 Điều 125 Luật Sở hữu trí tuệ và quy chế sử dụng nhãn hiệu Chè La Bằng. Nói một cách rõ ràng hơn, thì các thành viên của Hội nông dân xã La Bằng chỉ có quyền sử dụng nhãn hiệu Chè La Bằng, mà không có đầy đủ các quyền của chủ sở hữu là Hội nông dân xã La Bằng.

Gia đình bà Nguyễn Thị A là thành viên của Hội nông dân xã La Bằng, nên gia đình bà có quyền sử dụng nhãn hiệu Chè La Bằng như gắn nhãn hiệu Chè La Bằng lên các sản phẩm chè do gia đình bà sản xuất, bán các sản phẩm này ra thị trường…

Thứ hai, vấn đề chuyển giao nhãn hiệu tập thể

Việc chị B đóng gói và dãn nhãn hiệu Chè La Bằng và hình giống nhãn hiệu tập thể của mẹ chị là bà A ở La Bằng – Thái Nguyên và bán sản phẩm này ra thị trường rõ ràng là hành vi sử dụng nhãn hiệu tập thể. Vậy hành vi này của chị B có hợp pháp hay không? Nếu hợp pháp thì dựa trên căn cứ nào? Người viết đặt ra hai giả thiết:

Một là, giả thiết về việc chị B được chuyển nhượng quyền sở hữu nhãn hiệu tập thể Chè La Bằng

Theo quy định tại khoản 4 Điều 139 Luật Sở hữu trí tuệ: “Việc chuyển nhượng quyền đối với nhãn hiệu không được gây ra sự nhầm lẫn về đặc tính, nguồn gốc của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu”. Trong khi đó, nhãn hiệu tập thể Chè La Bằng có chứa dấu hiệu “La Bằng” là nơi trồng, sản xuất ra loại chè này. Mặc dù pháp luật cho phép chuyển nhượng nhãn hiệu tập thể, tuy nhiên trong trường hợp này, nếu chuyển nhượng nhãn hiệu tập thể Chè La Bằng thì sẽ gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc của sản phẩm chè La Bằng. Hay nói cách khác, đây thuộc trường hợp hạn chế chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp theo quy định tại Điều 139 Luật Sở hữu trí tuệ. Như vậy, một mặt, bản thân bà A không được chuyển nhượng quyền đối với nhãn hiệu tập thể Chè La Bằng do bà không phải là chủ sở hữu; mặt khác, kể cả đối với Hội nông dân xã La Bằng, họ cũng không được chuyển nhượng quyền sở hữu đối với nhãn hiệu Chè La Bằng. Do vậy, sẽ không xảy ra trường hợp chị B, trồng chè tại Bắc Cạn được chuyển nhượng quyền sở hữu đối với nhãn hiệu Chè La Bằng, do sản phẩm chè mà chị B sản xuất không phải được trồng tại xã La Bằng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.

Hai là, giả thiết chị B được chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể Chè La Bằng

Với quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể, bên cạnh các quyền như đã trích dẫn ở trên thì Hợp tác xã La Bẳng và gia đình bà A có quyền chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể không? Khoản 2 Điều 142 Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “Quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể không được chuyển giao cho tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể đó”. Theo đó, chỉ thành viên của chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể mới được chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể.

Áp dụng vào tình huống, gia đình bà Nguyễn Thị A là thành viên của Hội nông dân xã La Bằng – chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể Chè La Bằng. Theo quy định trên, chỉ cả gia đình bà Nguyễn Thị A được quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể Chè La Bằng, mà không phải là mỗi người trong gia đình bà được chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu này. Do vậy, bà A mất, dù chị B là con gái bà A nhưng đã lập gia đình riêng và bản thân chị B không phải là thành viên của Hội nông dân xã La Bằng nên không có quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể Chè La Bằng cho sản phẩm do mình sản xuất ra. Như vậy, nếu có giả thiết bà A trước khi mất có chuyển quyền thì chị B cũng không có quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể Chè La Bằng cho sản phẩm chè của mình. Hội nông dân xã La Bằng cũng không được chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể Chè La Bằng cho tổ chức, cá nhân khác ngoài thành viên của Hội nông dân xã La Bằng.

Như vậy, chị B không được sử dụng nhãn hiệu tập thể Chè La Bằng thông qua việc chuyển nhượng nhãn hiệu tập thể hay chuyền quyền sử dụng đối với nhãn hiệu này.

Thứ ba, xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của chị B

Việc chị B dán nhãn chè La Bằng và hình giống với nhãn hiệu tập thể Chè La Bằng lên sản phẩm chè do chị trồng và đóng gói, bán các sản phẩm này là hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu. Cụ thể, theo điểm a khoản 1 Điều 129 Luật Sở hữu trí tuệ: “Các hành vi sau đây được thực hiện mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu thì bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu: a) Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ trùng với hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó”. Trong tình huống đưa ra, không có dữ kiện nào cho thấy chị B trước khi sử dụng nhãn hiệu Chè La Bằng trên sản phẩm của mình được sự cho phép của Hội nông dân xã La Bằng. Dấu hiệu mà chị B sử dụng trên sản phẩm của mình giống với nhãn hiệu Chè La Bằng và hình, hay nói cách khác là sử dụng trùng dấu hiệu. Đối tượng hàng hóa mang nhãn hiệu ở đây đều là chè (cùng bản chất, cùng chức năng, mục đích sử dụng). Do vậy, việc sử dụng nhãn hiệu tập thể Chè La Bằng và hình của chị B trên sản phẩm chè của mình là xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

2. Biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong tình huống

Căn cứ Điều 199 Luật Sở hữu trí tuệ: “Tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân khác thì tùy theo tính chất, mức độ xâm phạm, có thể bị xử lý bằng biện pháp dân sự, hành chính hoặc dân sự”, đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của chị B, các biện pháp xử lý trong trường hợp này có thể là:

2.1. Biện pháp dân sự

Khi bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc các chủ thể có quyền liên quan khác có quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền của mình. Theo yêu cầu của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ hoặc tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra, kể cả khi hành vi đó đã hoặc đang bị xử lý bằng biện pháp hành chính, biện pháp dân sự sẽ được áp dụng khi có đủ căn cứ chứng minh hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

Các biện pháp dân sự được áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được quy định tại Điều 202 Luật Sở hữu trí tuệ. Theo quy định này, biện pháp dân sự có thể được áp dụng đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của chị B trong tình huống đưa ra bao gồm:

+ Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm;

+ Buộc xin lỗi, cải chính công khai;

+ Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự;

+ Buộc tiêu hủy hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với sản phẩm chè, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh sản phẩm chè xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu là Hội nông dân xã La Bằng hay các thành viên của hội.

Hội nông dân xã La Bằng có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trước hoặc sau khi khởi kiện.

Biện pháp dân sự được áp dụng trong trường hợp này có một số ưu điểm có thể kể đến như: xử lý triệt để hành vi xâm phạm, đòi được bồi thường thiệt hại, khắc phục được thiệt hại về vật chất và tinh thần; có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ chứng cứ và ngăn ngừa thiệt hại… Tuy nhiên, khi áp dụng biện pháp này có một số nhược điểm như tốn nhiều thời gian, chi phí; trình tự, thủ tục phức tạp; nhiều khó khăn trong quá trình thu thập chứng cứ để chứng minh; tình trạng giải quyết kéo dài, xét xử nhiều lần, nhiều cấp do trình độ của thẩm phán trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ còn hạn chế…

2.2. Biện pháp hành chính

Đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ là Hội nông dân xã La Bằng không có yêu cầu bồi thường thiệt hại mà chỉ muốn ngăn chặn kịp thời hành vi xâm phạm của chị B, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể áp dụng các biện pháp hành chính để xử lý.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 213 Luật Sở hữu trí tuệ: “Hàng hóa giả mạo nhãn hiệu là hàng hóa, bao bì của hàng hóa có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý”, xác định sản phẩm chè do chị B sản xuất có gắn nhãn hiệu Chè La Bằng là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu.

Căn cứ Điều 211, 213, 214, 215 Luật Sở hữu trí tuệ và Nghị định số 99/2013/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp của Chính phủ ngày 29/08/2013, có thể áp dụng một hoặc tất cả các biện pháp hành chính sau để xử lý hành vi xâm phạm của chị B bao gồm: áp dụng các hình thức xử phạt (hình thức xử phạt chính và hình thức phạt bổ sung); áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả; áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính. Mỗi hành vi xâm phạm chỉ phải chịu một hình thức xử phạt chính: cảnh cáo hoặc phạt tiền, không thể áp dụng cả hai hình thức này cho một hành vi. Mức xử phạt tiền được áp dụng tương ứng với giá trị hàng hóa, nhưng tối đa là 250.000.000 đồng đối với cá nhân (chị B). Bên cạnh đó có thể áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung như: tịch thu hàng hóa giả mạo, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện được sử dụng để sản xuất, kinh doanh hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ; đình chỉ có thời hạn hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực đã xảy ra vi phạm.

So với các biện pháp khác, biện pháp hành chính có nhiều ưu điểm hơn như: trình tự, thủ tục đơn giản; tiết kiệm thời gian, chi phí; chấm dứt ngay hành vi xâm phạm để bảo vệ lợi ích người tiêu dùng, lợi ích kinh tế, cạnh tranh lành mạnh trong xã hội. Tuy nhiên, biện pháp này chỉ có tác dụng giáo dục, răn đe; không đòi được bồi thường thiệt hại, không bảo mật được thông tin…

2.3. Biện pháp hình sự

Với những ưu điểm như xử lý triệt để hành vi xâm phạm; có tác dụng giáo dục, răn đe mạnh mẽ nhất, có cơ chế đảm bảo thi hành án thì biện pháp hình sự có thể được áp dụng trong tình huống. Đây là biện pháp xử lý nghiêm khắc nhất đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu, chỉ được áp dụng khi hành vi xâm phạm đã cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự. Biện pháp này cũng có một số hạn chế như trình tự, thủ tục rườm rà, phức tạp, mất nhiều thời gian, chi phí; không bảo mật được thông tin…

Căn cứ Điều 212 Luật Sở hữu trí tuệ và Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009, hành vi xâm phạm của chị B có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Các hình phạt có thể áp dụng là phạt tiền hoặc cải tạo không giam giữ tùy theo mức độ, và còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • Bộ luật Dân sự năm 2015;
  • Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009;
  • Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009;
  • Nghị định số 99/2013/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp của Chính phủ ngày 29/08/2013;
  • Dương Thị Cẩm Vân, Thực tiễn bảo hộ quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội – 2009.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Công chứng viên là người thực hiện hoạt động nghề nghiệp chuyên trách.

Khi đất nước chuyển sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế trong xã hội phát triển mạnh mẽ và kèm theo đó là một số lượng lớn các giao dịch, hợp đồng cũng như bản dịch được thực hiện trên phạm vi quốc gia cũng như quốc tế. Thực tế khách quan trên yêu cầu Nhà nước cần phải có những công cụ hữu hiệu để quản lý, điều phối các mối quan hệ trên, tạo môi trường pháp lý trong sạch nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Các quy định về công chứng là một trong những công cụ đó. Cùng với sự ra đời của hoạt động công chứng là sự xuất hiện của một nghề nghiệp mới, một chức danh tư pháp mới, đó là công chứng viên. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, em chọn đề bài số 4: “Chứng minh rằng: công chứng viên là người thực hiện hoạt động nghề nghiệp chuyên trách” làm bài tập lớn của mình.

1. Một số khái niệm về công chứng viên

Theo quy định tại Điều 2 Luật Công chứng năm 2014 thì “Công chứng viên là người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của Luật này, được Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm để hành nghề công chứng” (khoản 2). Từ khái niệm này, có thể rút ra một số đặc điểm của công chứng viên như sau: Một là, công chứng viên là tên gọi của một chức danh nghề nghiệp của những người hành nghề công chứng. Hai là, công chứng viên phải có đủ tiêu chuẩn do pháp luật quy định về phẩm chất, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Ba là, công chứng viên phải được bổ nhiệm bởi Bộ trưởng Bộ Tư pháp, người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành đối với các dịch vụ pháp lý. Bốn là, công chứng viên phải hoạt động nghề nghiệp trong tổ chức hành nghề công chứng.

Từ quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật Công chứng năm 2014, có thể thấy rằng công chứng viên là người hành nghề công chứng. Theo đó, “Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng , giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng” (khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng năm 2014).

2. Công chứng viên là người thực hiện hoạt động nghề nghiệp chuyên trách

Để chứng minh công chứng viên là người thực hiện hoạt động nghề nghiệp chuyên trách, người viết dựa trên hai vấn đề lớn sau:

2.1. Công chứng viên là người thực hiện hoạt động nghề nghiệp

“Nghề nghiệp”, theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, là “công việc chuyên làm theo sự phân công hoặc theo ý thích của chủ thể”[1]. Hoạt động nghề nghiệp của công chứng viên chính là hoạt động công chứng, đã được ghi nhận rõ tại khoản 2 Điều 2 Luật Công chứng năm 2014. Tính nghề nghiệp này thể hiện ở việc công chứng viên thực hiện hoạt động công chứng một cách chuyên nghiệp, dựa trên những kiến thức, kĩ năng chuyên môn của mình đã được đào tạo, bồi dưỡng một cách bài bản, chuyên sâu. Hiện nay việc đào tạo, bồi dưỡng nghề công chứng do Học viện Tư pháp chủ trì.

Để trở thành công chứng viên, phải đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của pháp luật. Điều 8 Luật Công chứng năm 2014 quy định tiêu chuẩn công chứng viên bao gồm: “Công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt và có các tiêu chuẩn sau đây thì được xem xét, bổ nhiệm công chứng viên:

  1. Có bằng cử nhân luật;
  2. Có thời gian công tác pháp luật từ 05 năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức sau khi đã có bằng cử nhân luật;
  3. Tốt nghiệp khóa đào tạo hành nghề công chứng quy định tại Điều 9 của Luật này hoặc hoàn thành khóa bồi dưỡng hành nghề công chứng theo quy định tại khoản 2 Điều 10 của Luật này;
  4. Đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng;
  5. Bảo đảm sức khỏe để hành nghề công chứng.”

Bên cạnh những tiêu chuẩn về nhân thân, để trở thành công chứng viên cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn về kiến thức và kinh nghiệm. Việc quy định mặt bằng kiến thức pháp lý chung (ví dụ là cử nhân luật) cũng như kiến thức chuyên sâu (ví dụ chứng chỉ tốt nghiệp đào tạo nghề công chứng) cho những công chứng viên tương lai là điều tối cần thiết. Chỉ khi nào được trang bị một lượng kiến thức nhất định thì công chứng viên mới có thể đáp ứng yêu cầu của công việc. Một tiêu chuẩn nữa là tiêu chuẩn về kinh nghiệm công tác. Trước khi được bổ nhiệm làm công chứng viên, các ứng viên phải có thâm niên công tác pháp luật ít nhất 5 năm.

Không chỉ phải đáp ứng những tiêu chuẩn trên, sau khi có giấy chứng nhận tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng hoặc giấy chứng nhận bồi dưỡng nghề công chứng, người đó cần phải đăng ký tập sự tại tổ chức hành nghề công chứng theo quy định tại Điều 11 Luật Công chứng năm 2014.

Việc pháp luật xác định chặt chẽ tiêu chuẩn cho chức danh công chứng viên xuất phát từ những nét đặc thù của công chứng, có thể kể đến như:

+ Phạm vi hoạt động chuyên môn công chứng rất rộng lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, do đó đòi hỏi công chứng viên phải có một trình độ pháp luật sâu rộng cũng như kinh nghiệm thực tiễn phong phú, đa dạng. Ví dụ, trong tình huống công chứng viên là người trực tiếp soạn thảo hợp đồng cho người yêu cầu công chứng khi họ đề nghị. Do yêu cầu công chứng loại này rất phong phú và đa dạng về chủng loại, thỏa thuận của các bên đương sự cũng rất phức tạp… nên yếu tố kinh nghiệm và năng lực của công chứng viên được đặt lên hàng đầu. Đặc biệt, việc cho phép nhiều chức danh tư pháp và bổ trợ tư pháp cũng như một số học hàm, học vị nhất định miễn đào tạo nghề công chứng không những tiết kiệm được chi phí đào tạo, giảm thiểu thời gian xây dựng đội ngũ công chứng viên mà còn tận dụng được kiến thức, kinh nghiệm quý báu của những cán bộ từng trải trong lĩnh vực luật pháp nói chung và trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp nói riêng.

+ Do áp lực công việc cao nên công chứng viên phải có một khả năng quyết đoán, có thể xử lý, đưa ra quyết định chính xác đối với các yêu cầu công chứng phức tạp trong một thời gian ngắn. Có thể lấy ví dụ đối với hợp đồng, giao dịch do đương sự tự nguyện yêu cầu công chứng. Sau khi tìm hiểu ý chí chủ quan của người yêu cầu công chứng, công chứng viên căn cứ quy định của pháp luật có liên quan, giấy tờ, tài liệu mà đương sự xuất trình… quyết định có giải quyết hay không yêu cầu công chứng đó.

Để thực hiện được hoạt động nghề nghiệp này, công chứng viên phải hành nghề tại Phòng công chứng hoặc Văn phòng công chứng (Điều 34 Luật Công chứng năm 2014), được tổ chức hành nghề công chứng đăng ký hành nghề tại Sở Tư pháp nơi tổ chức hành nghề tư pháp hoạt động (Điều 35 Luật Công chứng năm 2014) và được cấp Thẻ công chứng viên, “Thẻ công chứng viên là căn cứ chứng minh tư cách hành nghề công chứng của công chứng viên” (Điều 36 Luật Công chứng năm 2014). Các thủ tục đề nghị bổ nhiệm công chứng viên, đăng ký hành nghề công chứng, cấp thẻ công chứng viên được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư số 06/2015/TT-BTP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng của Bộ Tư pháp ngày 15/06/2015.

2.2. Hoạt động nghề nghiệp của công chứng viên là chuyên trách

Dù công chứng viên hoạt động tại Phòng công chứng với tư cách là công chức, viên chức hay Văn phòng công chứng với tư cách là công chứng viên hợp danh hay theo chế độ hợp đồng thì công chứng viên phải hoạt động chuyên trách. “Chuyên trách” có nghĩa là “chuyên chỉ làm và chỉ chịu trách nhiệm một việc nào đó”[2]. Theo cách hiểu như trên, hoạt động nghề nghiệp chuyên trách của công chứng viên được thể hiện ở các mặt sau:

  • Công chứng viên không kiêm nhiệm công việc thường xuyên khác

Một số quốc gia cho phép công chứng viên được kiêm nhiệm, ví dụ như tại Cộng hòa Ba Lan, công chứng viên có thể kiêm nhiệm một số công việc nhất định với sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền, pháp luật công chứng của Cộng hòa Liên bang Đức cho phép công chứng viên chỉ có thể hành nghề công chứng kiêm luật sư thì ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, công chứng viên không những chỉ được phép hành nghề luật sư mà còn có thể kiêm nhiệm rất nhiều công việc khác, thậm chí cả những công việc không có bất kỳ mối liên hệ nào đến lĩnh vực luật pháp.[3]

Tuy nhiên, pháp luật công chứng Việt Nam hiện nay quy định công chứng viên không được kiêm nhiệm công việc thường xuyên khác, được quy định tại điểm k khoản 1 Điều 7 Luật Công chứng năm 2014, cụ thể, nghiêm cấm công chứng viên “…kiêm nhiệm công việc thường xuyên khác”. Quy định này của Luật Công chứng năm 2014 có khác biệt với quy định tại Điều 2 Nghị định số 04/2013/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng năm 2006 của Chính phủ ngày 07/01/2013 (đã hết hiệu lực): “Công chứng viên phải hành nghề chuyên trách; không được đồng thời hành nghề khác, không được kiêm nhiệm các chức danh tư pháp như luật sư, đấu giá viên, trọng tài viên, thừa phát lại hoặc các chức danh tư pháp khác”. Như vậy, pháp luật công chứng hiện nay đã mở rộng hơn phạm vi các công việc mà công chứng viên không được kiêm nhiệm. Theo đó, không chỉ là các ngành nghề khác, các chức danh tư pháp khác như luật sư, đấu giá viên, trọng tài viên, thừa phát lại… mà hiện nay, pháp luật không cho phép công chứng viên kiêm nhiệm các công việc có tính thường xuyên nói chung. Tuy nhiên, cũng theo pháp luật hiện hành có thể hiểu rằng, công chứng viên được kiêm nhiệm các công việc không có tính thường xuyên. Quy định này xuất phát từ tính chất của hoạt động công chứng, đòi hỏi công chứng viên phải chuyên tâm vào hoạt động nghề nghiệp của mình, không bị ảnh hưởng, chi phối bởi các công việc khác, từ đó nâng cao trách nhiệm của công chứng viên đối với hoạt động công chứng.

Mặc dù công chứng viên là người hành nghề công chứng, tuy nhiên, không có nghĩa là hoạt động công chứng chỉ do công chứng viên thực hiện. Theo quy định tại khoản 3 Điều 69 Luật Công chứng năm 2014, viên chức lãnh sự, viên chức ngoại giao cũng được thực hiện công chứng ở nước ngoài, tức những chủ thể này được kiêm nhiệm. Đây là một ngoại lệ của hoạt động công chứng, phù hợp với điều kiện xã hội và tương thích với quy định của pháp luật quốc tế.

  • Tự chịu trách nhiệm về hoạt động nghề nghiệp của mình

Mặc dù pháp luật yêu cầu công chứng viên phải hành nghề tại Phòng công chứng hoặc Văn phòng công chứng, tuy nhiên chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động công chứng không phải là tổ chức hành nghề công chứng mà công chứng viên đang làm việc mà chính là bản thân công chứng viên. Theo điểm g khoản 2 Điều 17 Luật Công chứng năm 2014, một trong những nghĩa vụ của công chứng viên là: “Chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng của mình; chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của Văn phòng công chứng mà mình là công chứng viên hợp danh”. Điều 71 Luật Công chứng năm 2014 quy định: “Công chứng viên vi phạm quy định của Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý ký luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”. Quy định như vậy là hợp lý, bởi lẽ, công chứng viên là người trực tiếp thực hiện hoạt động công chứng, từ khi tiếp nhận yêu cầu công chứng cho tới khi hoàn thành việc công chứng; trong việc đánh giá, kiểm tra năng lực hành vi của người yêu cầu công chứng, hướng dẫn người yêu cầu công chứng thực hiện thủ tục, trong việc ghi lời chứng…

3. Thực tiễn hoạt động nghề nghiệp của công chứng viên hiện nay

Nghề công chứng đã trở thành nghề xã hội hóa từ khi Luật Công chứng năm 2006 ra đời và vẫn được Luật Công chứng năm 2014 giữ nguyên tinh thần. Thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng mà nguồn nhân lực tham gia hoạt động công chứng đã tăng lên nhanh chóng, đáp ứng kịp thời nhu cầu công chứng của người dân, hạn chế tình trạng quá tải, ùn tắc hoặc đi lại xa. Tuy nhiên, nghề công chứng cũng có những mặt trái khi không ít những rủi ro, sai phạm trong khi hành nghề xảy ra, xuất phát từ cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Có thể kể đến như nạn gian dối, lừa đảo, giả mạo giấy tờ, giả mạo người yêu cầu công chứng mà công chứng viên do sơ suất trong nghiệp vụ không phát hiện ra; hay như vụ việc “Dịch vụ người chết sống lại… giá 70 triệu đồng” xuất phát từ sự vi phạm đạo đức nghề nghiệp, vi phạm pháp luật của công chứng viên… Thiết nghĩ, quy định hiện hành của pháp luật nước ta còn nhẹ, chưa có tính răn đe, nghiêm khắc mà còn xảy ra những hiện tượng trên?

Luật Công chứng năm 2014 đã mở rộng phạm vi công chứng so với trước kia, theo đó, bên cạnh hợp đồng, giao dịch, công chứng viên còn được giao nhiệm vụ và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của nội dung bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài và ngược lại. Quy định này không chỉ giúp giảm tải công việc cho các Phòng Tư pháp vốn đang thiếu biên chế mà còn thể hiện tính chuyên nghiệp của công chứng viên. Tuy nhiên, thực tế là các công chứng viên thường e ngại khi chứng nhận nội dung vì không nắm được nội dung bản dịch có chuẩn xác hay không, trong khi theo quy định, công chứng viên không được từ chối yêu cầu công chứng mà không có lý do chính đáng. Trong khi đó, theo quy định, việc dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc ngược lại để công chứng do người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức hành nghề công chứng thực hiện, tức cần phải có một đội ngũ cộng tác viên dịch thuật trình độ cao, nhiều kinh nghiệm. Đây là điều không dễ đáp ứng được.

Từ thực tế hoạt động nghề nghiệp của công chứng viên như đã trình bày, người viết có một số kiến nghị như sau:

+ Tăng cường hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên cho công chứng viên, nhằm nâng cao năng lực, trình độ cho công chứng viên.

+ Siết chặt quy định của pháp luật về xử lý vi phạm trong hoạt động công chứng như tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; tăng mức độ xử lý vi phạm hành chính, hình sự…

+ Nhà nước cần hỗ trợ các văn phòng công chứng trong việc cộng tác với người dịch nhằm phục vụ cho hoạt động công chứng bản dịch, có thể thành lập hoặc cho phép thành lập tổ chức chuyên thực hiện việc dịch văn bản, giấy tờ; hoặc cho phép các tổ chức hành nghề công chứng liên kết với các cơ sở đào tạo về ngôn ngữ…

Cụm từ “công chứng” giờ đã trở nên quen thuộc với người dân. Tuy nhiên, một số bất cập từ hoạt động công chứng đã và đang làm xấu đi hình ảnh của công chứng viên. Do vậy, tăng cường quản lý, thiết chặt các quy định của pháp luật là việc làm rất cần thiết hiện nay.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Luật Công chứng năm 2014;
  2. Thông tư số 06/2015/TT-BTP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng của Bộ Tư pháp ngày 15/06/2015;
  3. Lê Thị Thu Hiền, Hoạt động công chứng ở nước ta hiện nay, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội – 2011;
  4. Tuấn Đạo Thanh, Nghiên cứu so sánh pháp luật về công chứng một số nước trên thế giới nhằm góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội – 2008;

[1] Trường Đại học Luật Hà Nội, Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội – 1999, trang 83

[2] Đại từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý (Chủ biên), Nxb.Văn hóa thông tin, năm 1999, trang 406

[3] Tuấn Đạo Thanh, Nghiên cứu so sánh pháp luật về công chứng một số nước trên thế giới nhằm góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội – 2008, trang 56

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hãy nhận diện các rủi ro trong hoạt động kinh doanh bất động sản? Chỉ rõ các nguyên nhân dẫn đến các rủi ro đó và đề xuất giải pháp khắc phục.

Thị trường bất động sản có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường, bởi lẽ bất động sản là yếu tố “đầu vào” của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi tham gia thị trường này, bên cạnh những lợi ích rất lớn về kinh tế cũng xuất hiện những rủi ro mà các chủ thể trong hoạt động kinh doanh bất động sản khó tránh khỏi. Do vậy, em chọn đề bài tập số 2: “Hãy nhận diện các rủi ro trong hoạt động kinh doanh bất động sản? Chỉ rõ các nguyên nhân dẫn đến các rủi ro đó và đề xuất giải pháp khắc phục” làm bài tập lớn của mình.

1. Một số vấn đề khái quát về hoạt động kinh doanh bất động sản

Khoản 1 Điều 3 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014: “Kinh doanh bất động sản là việc đầu tư vốn để thực hiện hoạt động xây dựng, mua, nhận chuyển nhượng để bán, chuyển nhượng;  cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản; thực hiện dịch vụ môi giới bất động sản; dịch vụ sàn giao dịch bất động sản; dịch vụ tư vấn bất động sản hoặc quản lý bất động sản nhằm mục đích sinh lợi”. So với Luật Kinh doanh bất động sản năm 2006, Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 không còn quy định hoạt động định giá bất động sản, quảng cáo bất động sản là hoạt động kinh doanh bất động sản. Còn phạm vi hoạt động kinh doanh vẫn không thay đổi.

Kinh doanh bất động sản có những đặc điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, đối tượng của hoạt động kinh doanh bất động sản là loại tài sản có đặc trưng không thể tách rời như đất đai, nhà ở, công trình xây dựng, kể cả tài sản gắn liền với đất đai, công trình xây dựng.

Thứ hai, kinh doanh bất động sản là ngành nghề kinh doanh có điều kiện, được quy định tại Luật Đầu tư năm 2014. Không phải mọi tổ chức, cá nhân đều có thể kinh doanh bất động sản mà các chủ thể phải đáp ứng những yêu cầu nhất định của pháp luật như về vốn pháp định, năng lực về tài chính…

Bài luận Nhận diện các rủi ro trong hoạt động kinh doanh bất động sản? Chỉ rõ các nguyên nhân dẫn đến các rủi ro đó và đề xuất giải pháp khắc phục.

Thứ ba, kinh doanh bất động sản là hoạt động đầu tư lớn và lâu dài.

Thứ tư, kinh doanh bất động sản là loại hình kinh doanh mạo hiểm, lợi nhuận lớn nhưng rủi ro cao.

2. Các rủi ro trong hoạt động kinh doanh bất động sản

Thứ nhất, rủi ro từ chính sách pháp luật, hoạt động quản lý của nhà nước.

Hiện nay hệ thống pháp luật của Việt Nam tuy đã có nhiều đổi mới nhưng vẫn chưa đồng bộ: hệ thống đăng ký bất động sản chưa đủ điều kiện để có hệ thống quản lý công khai, minh bạch, chưa huy động được tiền tiết kiệm của dân vào đầu tư bất động sản, quy hoạch, sử dụng đất còn nhiều yếu kém; hệ thống cơ quan quản lý, cán bộ quản lý còn nhiều bất cập, chưa phục vụ tốt nhân dân, còn nhiều sai phạm trong áp dụng pháp luật; các thủ tục hành chính rườm rà đến mức không cần thiết gây tốn kém về thời gian và tiền bạc, làm lỡ cơ hội đầu tư… xuất phát từ hoạt động quản lý quản lý nhà nước, cụ thể là sự phiền hà, phức tạp trong thủ tục hành chính.

Các quy định của pháp luật còn chồng chéo, thiếu hụt dẫn đến khó áp dụng trong thực tế. Chẳng hạn Luật Đất đai năm 2013 quy định cụ thể, chi tiết nội dung về trình tự, thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng giữa Luật, Nghị định và Thông tư chưa nhất quán. Theo đánh giá của nhiều địa phương, giữa Luật và văn bản hướng dẫn thi hành Luật còn đang có độ “vênh”. Cụ thể, cùng một nội dung cấp giấy chứng nhận đối với trường hợp chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất trước ngày 01/07/2014 nhưng Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật đất đai yêu cầu cá nhân phải nộp đơn đề nghị cáp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trong khi đó Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về hồ sơ địa chính lại yêu cầu nộp Đơn đăng ký biến động đất đai, tài sản.

Thủ tục đầu tư, thủ tục giao đất còn nhiều rắc rối, việc đền bù, giải phóng mặt bằng và các vấn đề liên quan đến quy hoạch… còn nhiều khó khăn.

Thứ hai, rủi ro từ năng lực hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư

Rủi ro này phát sinh khi người lãnh đạo không đủ năng lực, trình độ lãnh đạo doanh nghiệp hay không đủ khả năng lãng đạo do phản ứng kém linh hoạt với các biến động của thị trường. Trường hợp khác là người lãnh đạo tuy có năng lực, chuyên môn tốt những không có khả năng đoàn kết nội bộ, việc thiếu sự đồng thuận của các thành viên sẽ khiến cho việc ra các quyết định không chính xác.

Một nguy cơ và cũng là thực trạng của thị trường bất động sản đó là tình trạng đầu tư bất động sản theo “mốt”. Lợi nhuận cao trước mắt là nguyên nhân khiến các doanh nghiệp thi nhau nhảy vào thị trường địa ốc. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng có những nghiên cứu thị trường một cách cụ thể để đưa ra chiến lược kinh doanh thích hợp. Nhiều doanh nghiệp do không am hiểu thị trường đã dẫn đến đầu tư tràn lan, lãng phí, thậm chí đầu cơ, tác động xấu đến thị trường. Điều này có thể gây ra tình trạng hỗn loạn cho thị trường bất động sản và có tác động xấu đến chính các doanh nghiệp.

Bài luận Nhận diện các rủi ro trong hoạt động kinh doanh bất động sản? Chỉ rõ các nguyên nhân dẫn đến các rủi ro đó và đề xuất giải pháp khắc phục.

Trên thực tế lĩnh vực kinh doanh bất động sản chưa hoàn toàn mang tính chuyên nghiệp. Vẫn còn tồn tại một số lượng không nhỏ văn phòng môi giới bất động sản hoạt động tự phát mà không bị pháp luật xử lý. Các trung tâm môi giới ra đời ngày càng nhiều song có một thực tế đáng buồn là trong hàng nghìn trung tâm tư vấn, văn phòng môi giới bất động sản hoạt động chỉ có một vài đơn vị làm ăn theo đúng nghĩa của nó. Thống kê của Sở Xây dựng Hà Nội cho thấy, trong tổng số hơn 500 sàn giao dịch bất động sản, có tới 122 sàn không hoạt động và hơn 200 sàn không có bất kỳ giao dịch thành công. Tuy Luật KDBDS năm 2014 đã có quy định cụ thể về điều kiện của cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản nhưng phần lớn các cá nhân hoạt động môi giới nhà đất riêng lẻ không có nghề nghiệp, không được đào tạo, có kiến thức chuyên môn. Họ hành nghề chủ yếu dựa vào kinh nghiệm bản thân và các mối quan hệ quen biết cá nhân. Do đó, hoạt động của lực lượng này nhiều khi gây tình trạng nhũng nhiễu thông tin, cản trở việc kiểm soát của Chính phủ.

Thứ ba, rủi ro về lãi suất.

Các dự án lớn chủ yếu thường dựa vào sự hỗ trợ tài chính của các ngân hàng. Chủ đầu tư thường phải đi vay vốn và chi phí sử dụng sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư. Khách hàng cá nhân, nhà đầu tư nhỏ lẻ cũng vay khi mua dự án. Song, hiện nay lãi suất ở Việt Nam vẫn còn quá cao, cộng thêm việc điều chỉnh lãi suất thả nổi có thể tăng lên bất cứ lúc nào là một rủi ro khá lơn trong đầu tư kinh doanh bất động sản.

Thứ tư, rủi ro phát sinh từ việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.

Trên thực tế, các chủ thể có rất nhiều chiêu thức để trốn tránh nghĩa vụ của mình, đặc biệt là nghĩa vụ nộp thuế thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất như chuyển khoản cá nhân, để ngoài sổ sách, hợp thức hóa bằng các khoản cho vay. Với thủ đoạn này, có những doanh nghiệp gây thất thu hàng chục tỷ đồng tiền thuế của Nhà nước. Bên cạnh đó, tình trạng các bên thỏa thuận ghi giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong hợp đồng thấp hơn giá thực tế nhằm mục đích trốn thuế đã khiến cho Nhà nước thất thu một khoản ngân sách lớn còn người sử dụng đất do biết tận dụng khoảng trống của Nhà nước nên đã trốn được một khoản thuế khổng lồ. Hiện nay, các cơ quan chức năng không phải không biết hiện tượng này nhưng do giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất là một giao dịch dân sự mà nguyên tắc cơ bản nhất là nguyên tắc thỏa thuận, tự nguyện nên chưa có biện pháp hữu hiệu để xử lý.

Thứ năm, rủi ro từ vi phạm nghĩa vụ của nhà đầu tư.

Hiện nay diễn ra phổ biến tình trạng các nhà đầu tư bàn giao nhà, công trình không đúng theo tiến độ của dự án, lần lữa trong việc giao nhà, công trình gây nhiều khó khăn cho người có nhu cầu mua nhà (thậm chí người mua đã vay tiền ngân hàng, tiếp tục phải trả lãi cao trong thời gian chờ đợi nhận nhà); sử dụng khoản tiền huy động của khách hàng không đúng mục đích. Vấn đề này hiện nay pháp luật chưa có cơ chế kiểm soát chặt chẽ. Nhà đầu tư tìm cách hủy hợp đồng, chấp nhận bồi thường khi giá nhà đất lên cao, lên nhanh (sự bội tín của nhà đầu tư). Có trường hợp bán nhà trên giấy (khi chưa có quy định về móng nhà mới được bán) nếu có tranh chấp thường bị Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu và khách hàng phải nhận tiền về vốn góp từ 2, 3 năm trước và sau đó chủ đầu tư bán với giá hiện tại gấp vài lần giá gốc trước đây (trong các hợp đồng mua bán nhà thường quy định nhà đầu tư trong trường hợp không tiếp tục thực hiện dự án chỉ phải bồi thường cao nhất 8% giá trị hợp đồng hoặc cao nhất là 30% giá gốc trong trường hợp không giao nhà với bất cứ lý do nào). Chất lượng nhà, công trình không đảm bảo như trong cam kết với người mua, nếu người mua không yêu cầu thì cũng được sửa chữa nhưng sự vá víu đó thường không đáp ứng đúng quy chuẩn xây dựng.

Thứ sáu, rủi ro từ các giao dịch liên quan đến nhà ở xã hội.

Đối với chính sách khuyến khích xây dựng nhà ở xã hội cho người có thu nhập thấp mới chỉ dừng lại ở những quy định mang tính chất định hướng. Ngoài quỹ đất, nguồn vốn thì các thủ tục, cơ chế là hai rào cản lớn nhất đối với doanh nghiệp tham gia chương trình này. Các chủ đầu tư thường không mặn mà với việc bỏ vốn xây dựng nhà thu nhập thấp vì khả năng thu hồi vốn chậm. Chưa kể khi tham gia đầu tư xây dựng loại nhà này, các chủ đầu tư phải chủ động bồi thường giải phóng mặt bằng trong khi giá căn hộ thì được nhà nước thẩm định, đối tượng mua lại hạn chế và nhà nước chưa có cơ chế hỗ trợ tài chính trực tiếp.

Thứ bảy, rủi ro về kinh tế vĩ mô và kinh tế ngành.

Khủng hoảng kinh tế trong nước, khu vực hay thế giới sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả đầu tư trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu rộng với bạn bè quốc tế. Những thay đổi tiêu cực của nền kinh tế đều ảnh hưởng có thể đến mức làm thay đổi cả thị trường bất động sản.

Thứ tám, rủi ro môi trường xã hội.

Các yếu tố xã hội cũng tác động rất lớn đến giá trị bất động sản. Các yếu tố mật độ dân cư, chất lượng y tế giáo dục, trình độ dân trí, vấn đề an ninh, tập quán người dân… cũng có ảnh hưởng đến giá trị của bất động sản. Các yếu tố liên quan đến phong thủy cũng được xem xét kỹ lưỡng.

Bài luận Nhận diện các rủi ro trong hoạt động kinh doanh bất động sản? Chỉ rõ các nguyên nhân dẫn đến các rủi ro đó và đề xuất giải pháp khắc phục.

3. Một số đề xuất khắc phục

Thứ nhất, đối với rủi ro từ chính sách pháp luật, hoạt động quản lý của nhà nước.

+ Cần đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật nhằm tạo sự đồng bộ, tránh trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn giữa các quy định của pháp luật, cụ thể Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Kinh doanh bất động sản và các văn bản hướng dẫn.

+ Cải cách trình tự, thủ tục hành chính trong hoạt động kinh doanh bất động sản: Đơn giản hóa thủ tục hành chính nhằm đảm bảo quyền lợi của các chủ thể, đẩy nhanh tiến độ đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất.

+ Nâng cao chất lượng cán bộ thi hành pháp luật bằng việc thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn chuyên môn nghiệp vụ, tổ chức các đoàn thanh tra nhằm phát hiện những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật. Cần xử lý triệt để các hành vi vi phạm của các cán bộ công chức nhà nước quy định thêm thủ tục, hồ sơ chuyền nhượng BĐS, không thực hiện nghiêm túc việc công khai, minh bạch thủ tục hành chính, gây phiền hà, sách nhiễu cho người dân.

Thứ hai, rủi ro từ năng lực hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư.

+ Nhà đầu tư cần chủ động nghiên cứu, xem xét các cơ hội kinh doanh, nâng cao đội ngũ nhân viên có năng lực và kinh nghiệm.

+ Tăng cường công tác kiểm tra các tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản về vốn pháp định, về điều kiện kinh doanh bất động sản của các chủ thể, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật.

Thứ ba, đối với rủi ro về lãi suất.

Cần có những chính sách tài chính, tiền tệ rõ ràng và đầy đủ. Tạo điều kiện thuận lợi về lãi suất nhằm khuyến khích và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nhưng không được sao nhãng quyền lợi của khách hàng. Cân đối sử dụng nguồn vốn có hiệu quả.

Thứ tư, đối với rủi ro từ sự vi phạm nghĩa vụ của nhà đầu tư.

+ Cần nghiên cứu, xây dựng và sớm ban hành bộ quy tắc ứng xử về đạo đức kinh doanh từng ngành nghề trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản. Bộ quy tắc này sẽ định hướng cho việc hoạt động từng ngành nghề đi vào nề nếp, mang tính công khai, minh bạch.

+ Bản thân các chủ thể tham gia các hoạt động kinh doanh bất động sản cũng cần nâng cao kiến thức, chủ động tìm kiếm nguồn thông tin. Chẳng hạn, khi có ý định mua đất, người mua cần chú ý: chọn chủ đầu tư có uy tín để ký kết hợp đồng; trước khi ký kết hợp đồng cần tìm hiểu các vấn đề pháp lý của dự án như quyết định giao đất, thẩm định thiết kế, giấy phép xây dựng; đọc kỹ hợp đồng, nếu không am hiểu thì có thể nhờ người có chuyên môn tư vấn.

Thứ năm, đối với rủi ro từ các giao dịch liên quan đến nhà ở xã hội.

Để thúc đẩy triển khai các dự án nhà ở xã hội, nhà ở giá rẻ thì trước hết, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện từ cả phía nhà đầu tư và người nghèo, người có thu nhập thấp để họ có đủ khả năng để mua nhà về thuế, giải phóng mặt bằng, hạ thấp các điều kiện của người được sở hữu nhà…

Thứ sáu, đối với rủi ro về kinh tế vĩ mô, kinh tế ngành và môi trường xã hội.

Để tránh các rủi ro phát sinh, các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh bất động sản cần thường xuyên cập nhật thông tin về các bất động sản, đánh giá và phân tích kỹ lưỡng giá trị thực của bất động sản và giá trị tương lai của bất động sản. Nếu nắm bắt được tốt quy luật thị trường và đưa ra được những phán đoán chính xác về môi trường xã hội trên bất động sản thì nhà đầu tư sẽ không những không gặp rủi ro mà còn có thể gia tăng lợi nhuận một cách nhanh chóng.

Các rủi ro trong hoạt động kinh doanh bất động sản là dễ phát sinh nhưng không khó để Nhà nước kiểm soát, nhà đầu tư và khách hàng đều đạt được nguyện vọng khi tham gia các giao dịch khi các bên cùng chủ động, hợp tác, tôn trọng nhau và tuân thủ nghiêm túc quy định của pháp luật.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Luật Đất đai năm 2013;
  2. Luật Đầu tư năm 2014;
  3. Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014;
  4. Đỗ Thị Tùng, Những vấn đề phát lý về hoạt động kinh doanh mua bán, chuyển nhượng bất động trả chậm, trả dần, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội – 2011;
  5. Hoàng Thị Hương, Pháp luật về chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong kinh doanh bất động sản, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội – 2016;
  6. Nguyễn Thế Thức, Thực trạng pháp luật về môi giới bất động sản, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội – 2015;

Bài luận Nhận diện các rủi ro trong hoạt động kinh doanh bất động sản? Chỉ rõ các nguyên nhân dẫn đến các rủi ro đó và đề xuất giải pháp khắc phục.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Phân tích cơ sở khi quy định các điều kiện chi ngân sách nhà nước; thực trạng áp dụng các điều kiện chi ngân sách nhà nước trong năm 2015 và ý kiến của nhóm để khắc phục những khó khăn trong quá trình áp dụng.

Chi ngân sách nhà nước là một bộ phận quan trọng của pháp luật về ngân sách nhà nước. Để đảm bảo sử dụng các khoản thu ngân sách nhà nước một cách có hiệu quả, điều tiết vĩ mô nền kinh tế thì trước hết, chi ngân sách nhà nước phải tuân theo các điều kiện được pháp luật quy định chặt chẽ. Do vậy, em chọn đề bài số 6 để làm bài tập học kỳ của mình: “Phân tích cơ sở khi quy định các điều kiện chi ngân sách nhà nước; thực trạng áp dụng các điều kiện chi ngân sách nhà nước trong năm 2015 và ý kiến của nhóm để khắc phục những khó khăn trong quá trình áp dụng”.

1. Một số vấn đề lý luận về các điều kiện chi ngân sách nhà nước

1.1. Chi ngân sách nhà nước

Chi ngân sách nhà nước là hoạt động nhằm sử dụng quỹ ngân sách, là quá trình phân phối nguồn tiền tệ nằm trong quỹ ngân sách nhà nước để chi dùng vào những mục đích khác nhau[1].

Chi ngân sách nhà nước là hoạt động mang những đặc điểm sau:

Một là, chi ngân sách nhà nước (NSNN) chỉ được tiến hành trên cơ sở pháp luật và theo kế hoạch chi ngân sách cũng như phân bổ ngân sách do cơ quan quyền lực nhà nước quy định. Theo Điều 15 Luật NSNN năm 2002, Quốc hội là cơ quan quy nhất có quyền quyết định về tổng số chi, cơ cấu, nội dung, mức độ các khoản chi ngân sách nhà nước và quyết định phân bổ ngân sách trung ương. Điều 25 Luật NSNN năm 2002 giao cho Hội đồng nhân dân các cấp quyền quyết định dự toán chi ngân sách địa phương và quyền quyết định phân bổ ngân sách cấp mình. Quyền hạn này của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp tiếp tục được ghi nhận trong Luật NSNN năm 2015 (có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 2017). Mọi hoạt động chi ngân sách phải được thực hiện trên cơ sở các quyết định của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

Hai là, chi NSNN nhằm vào mục tiêu thỏa mãn nhu cầu về tài chính cho sự vận hành của bộ máy nhà nước, bảo đảm cho nhà nước thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ của mình. Như vậy, bên cạnh việc chịu ảnh hưởng của kết quả thu NSNN, mức độ và phạm vi chi NSNN còn phụ thuộc vào quy mô của bộ máy nhà nước cũng như tùy thuộc vào chức năng, nhiệm vụ mà Nhà nước đảm nhiệm.

Ba là, chi NSNN là hoạt động được tiến hành bởi hai nhóm chủ thể:

Nhóm chủ thể đại diện cho Nhà nước thực hiện việc quản lý, cấp phát, thanh toán các khoản chi NSNN, gồm các cơ quan đại diện cho Nhà nước thực thi quyền hạn có liên quan tới việc xuất quỹ NSNN cho các mục tiêu đã được phê duyệt, gồm Bộ Tài chính, Sở tài chính – vật giá tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, phòng tài chính quận, huyện, thị xã thuộc tỉnh, thành phố (gọi chung là cơ quan tài chính); sở kế hoạch và đầu tư và kho bạc nhà nước;

Nhóm chủ thể sử dụng ngân sách, gồm các cơ quan nhà nước, kể cả các cơ quan hành chính thực hiện khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính; các đơn vị, kể cả đơn vị sự nghiệp có thu; các chủ dự án sử dụng kinh phí NSNN.

1.2. Các điều kiện chi ngân sách nhà nước

Điều kiện chi ngân sách là các điều kiện do pháp luật quy định mà các chủ thể có liên quan đến hoạt động chi ngân sách phải tuân thủ nhằm đảm bảo hiệu quả chi ngân sách[2].

Luật NSNN năm 2002 đã quy định các điều kiện chi NSNN làm căn cứ để xác định tính hợp pháp của một khoản chi NSNN và là cơ sở để kiểm soát chi. Các điều kiện chi ngân sách đã xác lập điều kiện cần và đủ cho các khoản chi ngân sách đảm bảo đúng nguyên tắc quản lý chi đó là các khoản chi phải được thực hiện theo dự toán, có tính hiệu lực (được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy quyền chuẩn chi; đúng chế độ, tiêu chuẩn định mức) và có tính hiệu quả (đối với các khoản chi phải thực hiện đấu thầu hoặc thẩm định giá thì phải tổ chức đấu thầu, thẩm định giá). Tuy nhiên, để các điều kiện chi NSNN được thực hiện trên thực tế, là cơ sở để kiểm soát hữu hiệu các khoản chi tiêu thường xuyên của NSNN thì cần phải có sự phát huy đồng bộ của các chế định tài chính khác như xây dựng, lập và phân bố dự toán NSNN, hệ thống tiêu chuẩn, định mức chi tiêu phù hợp và cả yếu tố mang tính chủ quan là năng lực, trình độ của thủ trưởng các đơn vị sử dụng ngân sách.

Cụ thể, khoản 2 Điều 51 Luật NSNN năm 2002 quy định: “Chi ngân sách nhà nước chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau đây:

  1. Đã có trong dự toán ngân sách được giao, trừ trường hợp quy định tại Điều 52 và Điều 59 của Luật này;
  2. Đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định;
  3. Đã được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy quyền quyết định chi.

Ngoài các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều này, đối với những khoản chi cho công việc cần phải đấu thầu thì còn phải tổ chức đấu thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu.”

Theo Nghị định số 60/2003/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật NSNN năm 2002 của Chính phủ ngày 06/06/2003 thì: “Chi ngân sách nhà nước chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau đây:

  1. Đã có trong dự toán ngân sách nhà nước được giao, trừ các trường hợp sau:
  2. Dự toán ngân sách và phân bổ dự toán ngân sách chưa được cơ quan có thẩm quyền quyết định theo quy định tại Điều 4 của Nghị định này;
  3. Chi từ nguồn tăng thu so với dự toán được giao và từ nguồn dự phòng ngân sách theo quyết định của cấp có thẩm quyền;
  4. Đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp có thẩm quyền quy định;
  5. Đã được Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy quyền quyết định chi;
  6. Ngoài các điều kiện quy định tại khoản 1, 2 và 3 Điều này; trường hợp sử dụng vốn, kinh phí ngân sách nhà nước để đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc và các công việc khác phải qua đấu thầu hoặc thẩm định giá thì còn phải tổ chức đấu thầu hoặc thẩm định giá theo quy định của pháp luật;
  7. Các khoản chi có tính chất thường xuyên đươc chia đều trong năm để chi; các khoản chi có tính chất thời vụ hoặc chỉ phát sinh vào một số thời điểm như đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm, sửa chữa lớn và các khoản chi có tính chất không thường xuyên khác phải được thực hiện theo dự toán quý được đơn vị dự toán cấp I giao cùng với giao dự toán năm”.

Còn khoản 2 Điều 12 Luật NSNN năm 2015 quy định: “Chi ngân sách nhà nước chỉ được thực hiện khi đã có trong dự toán ngân sách nhà nước được giao, trừ trường hợp quy định tại Điều 51[3] của Luật này; đã được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách, chủ đầu tư hoặc người được ủy quyền quyết định chi và đáp ứng các điều kiện trong từng trường hợp sau đây:

  1. Đối với chi đầu tư xây dựng cơ bản phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật về đầu tư công và xây dựng;
  2. Đối với chi thường xuyên phải đảm bảo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định; trường hợp các cơ quan, đơn vị đã được cấp có thẩm quyền cho phép thực hiện theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí thì thực hiện theo quy chế chi tiêu nội bộ và phù hợp với dự toán được giao tự chủ;
  3. Đối với chi dự trữ quốc gia phải đảm bảo các điều kiện theo quy định của pháp luật về dự trữ quốc gia;
  4. Đối với những gói thầu thuộc các nhiệm vụ, chương trình, dự án cần phải đấu thầu để lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp phải tổ chức đấu thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu;
  5. Đối với những khoản chi cho công việc thực hiện theo phương thức Nhà nước đặt hàng, giao kế hoạch phải theo quy định về giá hoặc phí và lệ phí do cơ quan có thẩm quyền ban hành”.

2. Cơ sở của các điều kiện chi ngân sách nhà nước

2.1. Việc chi NSNN đã có trong dự toán ngân sách được giao

Lập dự toán NSNN là quá trình xây dựng và quyết toán dự toán thu, chi ngân sách của Nhà nước trong thời hạn 1 năm. Thực chất bản dự toán NSNN là những chương trình, kế hoạch hay chính sách của nhà nước trong một tài khóa xác định. Dự toán NSNN rất quan trọng và khá phức tạp, trong đó đảm bảo tính thống nhất, tính toàn diện và tính cân đối: các khoản chi là mục tiêu phải thực hiện, các khoản thu là phương tiện để thực hiện các mục tiêu đó. Mỗi một khoản chi NSNN đều hết sức quan trọng và nó tác động, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội… Việc pháp luật quy định các khoản chi NSNN muốn được thanh toán, chi trả phải có trong dự toán ngân sách được giao là do mọi nhu cầu chi dự kiến cho năm kế hoạch phải được xác định trong dự toán kinh phí từ cơ sở thông qua các bước xét duyệt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ thấp đến cao.

Quốc hội quyết định chi tiết một số nội dung quan trọng trong dự toán NSNN như tổng số chi NSNN trong đó có chi ngân sách trung ương và chi ngân sách địa phương, quyết định chi tiết theo các lĩnh vực chi đầu tư phát triển, chi trả nợ… Có thể thấy rằng, đây là điều kiện ở cấp trung ương đối với các khoản chi. Bởi nó quy định khoản chi đó phải nằm trong dự toán ngân sách – đạo luật ngân sách thường niên mà chỉ cơ quan lập pháp cao nhất là Quốc hội có quyền thông qua. Đối với Hội đồng nhân dân, căn cứ vào nhiệm vụ thu, chi ngân sách được cấp trên giao và tình hình thực tế tại địa phương, quyết định dự toán chi ngân sách địa phương, quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết.

Khoản kinh phí đã được ghi trong dự toán ngân sách thể hiện cam kết thanh toán của Nhà nước đối với các đơn vị sử dụng ngân sách. Dựa trên điều này, các đơn vị sử dụng ngân sách có quyền đòi hỏi Nhà nước phải cấp đủ cho mình số kinh phí mà Nhà nước đã cam kết với điều kiện đơn vị sử dụng ngân sách phải chứng minh được rằng họ có đủ những điều kiện được cấp phát theo quy định của pháp luật. Quy định này dựa trên cơ sở đảm bảo các khoản dự định cho sẽ phù hợp với tổng thể các khoản chi khác, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế – xã hội mà Nhà nước đề ra trong năm ngân sách.

Việc quy định chi NSNN phải có trong dự toán ngân sách được giao tạo ra sự công khai cho việc thực hiện chi ngân sách, tránh xảy ra những khoản chi bất minh, chi không rõ mục đích, chi quá mức, gây ra những thất thoát lớn. Tuy nhiên, nếu chỉ đúng như các khoản được chi trong dự toán được giao thì có khi lại gây ra những thiếu sót bởi không thể dự liệu được hết trước mọi vấn đề có thể xảy ra. Do vậy, nhà làm luật đã dự liệu thêm trường hợp ngoại lệ Tạm ứng ngân sách tại Điều 51 Luật NSNN năm 2015. Đây là quy định thể hiện sự linh hoạt của các nhà làm luật, tạo điều kiện để việc thực hiện nhiệm vụ của các đối tượng thụ hưởng ngân sách không bị gián đoạn, khắc phục kịp thời những trường hợp cần phải giải quyết ngay như thiên tai, bão lụt…

Đây là điều kiện đầu tiên, quan trọng và cơ bản nhất để thực hiện chi NSNN.

2.2. Đáp ứng các điều kiện trong từng trường hợp theo quy định của hệ thống pháp luật có liên quan

Điểm b khoản 2 Điều 5 Luật NSNN năm 2002 quy định: “Đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định” là một trong những điều kiện bắt buộc để thực hiện việc chi NSNN. Các khoản chi NSNN phải được tiến hành trên cơ sở pháp luật và kế hoạch chi đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Điều này xuất phát từ chế độ phân phối đặc thù của các nguồn lực tài chính mà nhà nước đóng vai trò là chủ sở hữu, nhà nước thực hiện cấp phát không hoàn lại nguồn tài chính đó cho các đơn vị sử dụng ngân sách theo nguyên tắc các khoản chi phải được cân đối, sắp xếp hợp lý, khoa học, đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm. Do hạn chế của bản thân cơ chế quản lý chi NSNN là chỉ quản lý những vấn đề chung nhất mang tính nguyên tắc dẫn tới không thể bao quát được tất cả các hiện tượng phát sinh trong quá trình thực hiện quản lý. Trong khi đó, cùng với sự phát triển không ngừng của các hoạt động kinh tế xã hội, các nhiệm vụ chi NSNN ngày càng phức tạp hơn. Do vậy, quy định của pháp luật về chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi NSNN là cần thiết. Vì nếu không sẽ tạo khe hở trong cơ chế quản lý chi NSNN. Một số đơn vị, cá nhân tìm cách lợi dụng, khai thác những khe hở của cơ chế quản lý để tham ô, trục lợi, gây lãng phí tài sản và công quỹ của nhà nước. Từ thực tế trên, đòi hỏi phải có các quy định về điều kiện chi NSNN nhằm ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, phát hiện những điểm chưa phù hợp trong cơ chế chi NSNN.

Ngoài ra, khi quy định điều kiện này còn giúp tạo ra sự công bằng, chống thất thoát, lãng phí và tạo ra tính cụ thể cho các khoản chi phí có định lượng rõ ràng, không mơ hồ, đảm bảo được việc chi đúng, chi đủ; hạn chế việc chi quá mức rồi lại xin cấp thêm mà không quan tâm đến hiệu quả của khoản chi; tăng cường tính tự chủ và năng động trong việc thực hiện các khoản chi. Thêm vào đó, việc xác định các định mức tiêu chuẩn, chế độ sao cho phù hợp là một vấn đề cần phải được quan tâm theo dõi và có những thay đổi sao cho phù hợp với từng giai đoạn, thời kì nhất định.

Đến Luật NSNN năm 2015, về cơ bản, tinh thần của điều kiện này vẫn được giữ nguyên nhưng đã được quy định một cách cụ thể, chi tiết, chặt chẽ hơn. Cụ thể, tại khoản 2 Điều 12 Luật NSNN năm 2015, trong từng trường hợp cụ thể, chi NSNN phải đáp ứng các điều kiện tương ứng với từng hệ thống pháp luật:

  • Đối với chi đầu tư xây dựng cơ bản phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật về đầu tư công và xây dựng;
  • Đối với chi thường xuyên phải đảm bảo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định; trường hợp các cơ quan, đơn vị đã được cấp có thẩm quyền cho phép thực hiện theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí thù thực hiện theo quy chế chi tiêu nội bộ và phù hợp với dự toán được giao tự chủ;
  • Đối với dự trữ quốc gia phải đảm bảo các điều kiện theo quy định của pháp luật về dự trữ quốc gia;
  • Đối với những gói thầu thuộc các nhiệm vụ, chương trình, dự án cần phải đấu thầu để lựa chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp phải tổ chức đấu thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu;
  • Đối với những khoản chi cho công việc thực hiện theo phương thức Nhà nước đặt hàng, giao kế hoạch phải theo quy định về giá hoặc phí và lệ phí do cơ quan có thẩm quyền ban hành.

Sự thay đổi này xuất phát từ yêu cầu của hệ thống pháp luật nói chung là phải đảm bảo tính đồng bộ. Tính đồng bộ của pháp luật thường nhằm đạt được sự thống nhất, hỗ trợ lẫn nhau để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Bên cạnh đó, tính đồng bộ còn cần được hiểu bao gồm cả tính toàn diện, trong đó pháp luật về tài chính nói chung và về chi NSNN nói riêng phải có khả năng bao quát các mối quan hệ pháp luật phát sinh trong lĩnh vực tài chính, tránh việc bỏ sót không điều chỉnh hoặc không có quy định điều chỉnh một cách đầy đủ.

2.3. Đã được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách, chủ đầu tư hoặc người được ủy quyền quyết định chi

Đây là điều kiện đủ để một khoản chi có thể được thực hiện. Xuất phát từ cơ sở được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách, chủ đầu tư hoặc người được ủy quyền là những người trực tiếp quản lý, điều hành đơn vị đó; vì vậy mà họ nắm rõ những nhu cầu chi của đơn vị mình quản lý, từ đó ra quyết định có chi hay không một khoản chi nào đó. Quy định này sẽ góp phần tăng cường hơn tính sáng tạo, tự chủ trong thực hiện ra những quyết định sao cho đạt được hiệu quả cao. Bởi nếu như quyết định chi sai, chi không đúng mục đích làm thất thoát thì người chịu trách nhiệm ở đây chính và trước tiên là thủ trưởng cơ quan hoặc có thể là người được ủy quyền quyết định chi.

Tóm lại, việc pháp luật quy định các điều kiện chi NSNN là bởi các lẽ sau:

Chi NSNN luôn được xem là một lĩnh vực chứa đựng nhiều nguy cơ tham nhũng và lãng phí nhất. Quan niệm “tiền công” là tiền không của riêng ai khiến cho các đối tượng thụ hưởng NSNN đều có xu hướng chi tiêu thoải mái, lãng phí, không tính đến hiệu quả của nguồn vốn mà Nhà nước đầu tư. Điều này khiến cho Nhà nước luôn phải tính đến khả năng kiểm soát việc chi tiêu ngân sách như thế nào cho hiệu quả và tiết kiệm, trong đó việc sử dụng công cụ pháp luật để điều chỉnh hoạt động chi NSNN là vấn đề then chốt, góp phần đảm bảo tính minh bạch, ngăn chặn tệ tham nhũng, lãng phí trong quá trình sử dụng công quỹ.

Thêm vào đó, quỹ NSNN hình thành chủ yếu từ sự đóng góp của đông đảo quần chúng nhân dân, Nhà nước là chủ thể đại diện thay mặt nhân dân quyết định việc sử dụng cụ thể như thế nào. Vì vậy, Nhà nước phải đảm bảo sử dụng cho thật hiệu quả nguồn vốn đó, tránh để mất lòng tin của nhân dân đối với nhà nước. Công cụ hữu hiệu để đảm bảo cho hoạt động sử dụng nguồn vốn tài chính đó là pháp luật. Nhà nước đã quy định những điều kiện cụ thể mà chỉ khi đáp ứng đủ những điều kiện đó, hoạt động chi NSNN mới được thực hiện. Những quy định này đã tạo nên một giới hạn pháp lý đối với các đối tượng sử dụng NSNN, đảm bảo các chủ thể sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả nguồn tài chính do Nhà nước đầu tư.

Quy định về các điều kiện chi NSNN cụ thể góp phần nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành luật của các đơn vị sử dụng kinh phí NSNN, đồng thời tạo điều kiện cho các đơn vị sử dụng ngân sách, cơ quan tài chính, cơ quan kho bạc có đủ căn cứ pháp lý để chấp hành.

Do tính đặc thù của các khoản chi NSNN mang tính chất không hoàn trả trực tiếp nên đối tượng thụ hưởng ngân sách thường có xu hướng sử dụng thiếu cân nhắc, không tính toán đến hiệu quả sử dụng nguốn vốn. Vì vậy, nhà nước phải đưa ra các điều kiện chi để đảm bảo chi đúng, chi đủ, chi hợp pháp.

3. Thực trạng áp dụng các điều kiện chi ngân sách nhà nước trong năm 2015

3.1. Những kết quả đạt được

Năm 2015 có nhiều sự thay đổi trong cơ chế chính sách về ngân sách nhà nước. Nhiều luật mới được ban hành và có hiệu lực như Luật Đầu tư công, Luật Xây dựng, Luật Đấu thầu, Luật Ngân sách Nhà nước…

Với công tác quản lý chi NSNN, các hoạt động được tăng cường, bảo đảm tiết kiệm, chặt chẽ và hiệu quả. Nhờ tích cực, chủ động trong điều hành chi NSNN năm 2015 đã bảo đảm vừa phù hợp với khả năng thu NSNN trong điều kiện khó khăn, vừa đáp ứng nhiệm vụ chi ngân sách theo dự toán và tiến độ triển khai nhiệm vụ của đơn vị sử dụng ngân sách, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, hoạt động của bộ máy nhà nước, xử lý kịp thời các nhu cầu đảm bảo an sinh xã hội và khắc phục hậu quả thiên tai.

Các khoản chi NSNN được quản lý chặt chẽ trong phạm vi dự toán đã được phê duyệt, theo đúng chế độ quy định, bảo đảm triệt để tiết kiệm chi thường xuyên, tập trung vốn trả nợ khối lượng xây dựng cơ bản hoàn thành và thực hiện các công trình có khả năng hoàn thành trong năm 2015 để bảo đảm hiệu quả đầu tư. Thông qua kiểm soát, đã từ chối thanh toán các khoản chi do chủ đầu tư đề nghị thanh toán cao hơn giá trúng thầu, sai số học hoặc không có trong hợp đồng, dự toán…

Ngay từ đầu năm, Bộ Tài chính đã hướng dẫn các cơ quan trung ương và địa phương triệt để tiết kiệm chi tiêu trong phạm vi dự toán được giao; chống lãng phí; rà soát cắt, giảm tối đa các khoản chi tổ chức lễ hội, khánh tiết, hội nghị, hội thảo, tiết giảm chi phí công tác trong nước và ngoài nước…; chủ động sắp xếp chi thường xuyên, ưu tiên các nhiệm vụ quan trọng, bảo đảm nguồn lực thực hiện các chính sách an sinh xã hội và điều chỉnh tiền lương. Cơ quan tài chính các cấp và KBNN thực hiện kiểm soát chi chặt chẽ, đảm bảo đúng mục đích, đối tượng và hiệu quả.

Theo ông Vũ Đức Hiệp, Vụ trưởng Vụ Kiểm soát chi NSNN, đối với chi thường xuyên, Kho bạc Nhà nước (KBNN) đã chỉ đạo các đơn vị phối hợp chặt chẽ với các đơn vị sử dụng ngân sách để thực hiện kiểm soát chi theo phương án rà soát, cắt giảm của các Bộ, ngành và địa phương theo Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ. Cụ thể, thực hiện tiết kiệm triệt để các khoản chi thường xuyên, chi cho bộ máy quản lý nhà nước, đơn vị sự nghiệp công; cắt giảm tối đa các khoản chi chưa thực sự cấp thiết, chi hội nghị, hội thảo và đi công tác nước ngoài từ NSNN; không thanh toán tiền mua xe công, trừ xe chuyên dụng. Bên cạnh đó, để thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội của Chính phủ, đảm bảo người có công với cách mạng nhận được các khoản trợ cấp sớm hơn để chuẩn bị đón Tết nguyên đán cổ truyền của dân tộc, nên ngay từ tháng đầu năm 2015, KBNN đã chủ động phối hợp với các đơn vị trực thuộc Bộ Tài chính thực hiện tạm cấp kinh phí cho một số đơn vị chưa giao kịp dự toán năm 2015 nhưng có nhu cầu chi trả lương cho người lao động, chi cho người có công với cách mạng và kinh phí phục vụ Tết nguyên đán. Tính đến hết tháng 6/2015, Kho bạc Nhà nước đã từ chối trên 6 tỷ đồng của chi thường xuyên và 14 tỷ đồng của chi xây dựng cơ bản[4]. Đối với chi thường xuyên, trường hợp phát hiện đề nghị thanh toán của đơn vị đối với các khoản kinh phí mua sắm, sửa chữa đã bố trí trong dự toán ngân sách giao đầu năm nhưng đến ngày 30/06/2015 chưa được phê duyệt dự toán, chưa thực hiện bất kỳ công việc nào của công tác lựa chọn nhà thầu theo quy định của Luật Đấu thầu thì tạm dừng thanh toán, đồng thời có văn bản báo cáo về KBNN để tổng hợp báo cáo Bộ Tài chính, trình Chính phủ.

Bên cạnh đó, nhằm chủ động và đảm bảo việc quản lý, sử dụng ngân sách có hiệu quả, đúng chế độ, Bộ Công thương đã đồng thời triển khai một số nội dung như ban hành văn bản số 3946/BTC-TC ngày 22/04/2015 về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ chi thường xuyên năm 2015 theo Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ; Phê duyệt kế hoạch sử dụng kinh phí, kế hoạch đấu thầu cho các đơn vị dự toán; phê duyệt dự toán kinh phí cho các nhiệm vụ thuộc kinh phí nghiên cứu khoa học, môi trường và năng lượng tiết kiệm. Về công tác chỉ đạo điều hành thực hiện tiết kiệm chống lãng phí, năm 2015 là năm mà Chính phủ quyết liệt đẩy mạnh công tác thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí. Thực hiện chủ trương của Chính phủ, Bộ Công thương tiếp tục chỉ đạo các đơn vị tăng cường công tác thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí và yêu cầu các đơn vị chấp hành nghiêm túc.

Nhà nước đã nỗ lực trong việc cải thiện tổ chức bộ máy nhà nước, giảm sự cồng kềnh, tránh lãng phí, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, đồng thời qua đó giảm khoản chi thường xuyên. Cụ thể, tại Hội nghị triển khai kế hoạch của Chính phủ về tinh giản biên chế ngày 12/01/2016, ông Thái Quang Toản, Vụ trưởng Tổ chức biên chế (Bộ Nội vụ) cho hay, năm 2015 đã có 15 bộ, ngành và 39 địa phương tinh giản biên chế với trên 5.300 người, trong đó hơn 4.500 người hưởng chính sách về hưu trước tuổi, trên 800 người hưởng chính sách thôi việc ngay, 4 người hưởng chính sách thôi việc sau khi học và 10 người hưởng chính sách chuyển sang tổ chức không hưởng lương thường xuyên từ NSNN[5].

Nhìn chung, hoạt động chi NSNN tương đối đảm bảo được các điều kiện cơ bản của chi NSNN. Quán triệt tinh thần chỉ đạo của các cơ quan, có thẩm quyền, tuân thủ những điều kiện luật định về chi NSNN, công tác điều hành chi NSNN năm 2015 đã đảm bảo theo đúng chủ trương thắt chặt chi tiêu để kiềm chế lạm phát, tập trung nguồn lực của NSNN để chủ động phòng, chống, khắc phục những hậu quả thiên tai, dịch bệnh, đảm bảo các chính sách hỗ trợ người nghèo đối tượng trợ cấp xã hội khắc phục được một phần khó khăn do ảnh hưởng của tăng giá…

3.2. Những điểm bất cập

Thực tế cho thấy việc lập, duyệt và phân bổ dự toán cho các đơn vị sử dụng kinh phí còn khá nhiều bất cập. Trong quá trình dự toán, các đơn vị thường không có đủ căn cứ khoa học cần thiết do các định mức, tiêu chuẩn, chế độ chi chưa đủ và luôn bị lạc hậu. Đồng thời các đơn vị dự toán cũng không quan tâm đúng mức tới thực tiễn nhiệm vụ được giao và luôn tìm cách nâng cao dự toán chi để có thể sử dụng kinh phí một cách thoải mái.

Cơ chế tự chủ tài chính chưa hoàn thiện như hiện nay đang bị nhiều đơn vị sử dụng ngân sách lợi dụng vì việc phân tách hoạt động công và tư chưa rõ ràng. Đối với cơ quan nhà nước, đặc biệt là ở một số cơ quan trung ương thực hiện giao kinh phí tự chủ đối với các nội dung chi nghiệp vụ đặc thù, nhưng do chưa xác định rõ khối lượng công việc đặc thù nên việc thẩm định cơ sở để lập dự toán là không dễ dàng. Việc quy định các tiêu chuẩn, định mức chi tiêu “cứng” song hành với việc giới hạn khả năng xây dựng định mức trong quy chế chi tiêu nội bộ đã triệt tiêu ý nghĩa của việc tự chủ tài chính. Theo các quy định hiện hành, ngoại trừ một số ít các đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo kinh phí một phần hoặc hoàn toàn, còn hầu hết các đơn vị sự nghiệp công lập còn lại đều không thể đảm bảo nguồn thu phát sinh trên 10% tổng số chi. Những đơn vị sự nghiệp này, cùng với cơ quan nhà nước, chỉ được xây dựng định mức chi trong quy chế chi tiêu nội bộ theo nguyên tắc không vượt quá tiêu chuẩn, định mức do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Trường hợp quy chế chi tiêu nội bộ của cơ quan xây dựng vượt quá chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành thì cơ quan quản lý cấp trên hoặc cơ quan tài chính có trách nhiệm yêu cầu cơ quan ban hành quy chế chi tiêu nội bộ điều chỉnh lại cho phù hợp. Từ đó, có thể kết luận, quyết định tự chủ tài chính chỉ làm cho cơ quan, đơn vị sử dụng ngân sách được chi ít hơn so với quy định chứ không được chi nhiều hơn (trừ chi lương, nhưng cũng có giới hạn tùy thuộc vào từng loại hình), cho nên hầu hết các đơn vị sử dụng ngân sách khi xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ đều sao chép các tiêu chuẩn chi tiêu để mở rộng tối đa mức độ chi, chứ không quy định đặc thù cho cơ quan, đơn vị mình. Rõ ràng, những yếu tố đầu vào vẫn gắn chặt với quyền tự chủ nên cơ chế tự chủ không thể phát huy được hiệu quả như kì vọng.

Mặc dù đã có nhiều chuyển biến tích cực, song tình trạng lãng phí, chưa tiết kiệm vẫn còn tồn tại trên thực tế trên nhiều lĩnh vực với mức độ khác nhau. Tình trạng phổ biến là: quả lý biên chế hành chính và nợ lỏng lẻo, hiệu quả đầu tư và sử dụng vốn chưa cao; sử dụng ngân sách sai mục đích, vượt định mức, tiêu chuẩn, phê duyệt dự án vượt quá khả năng cân đối vốn, khởi công mới, bố trí vốn dàn trải, thi công kéo dài dẫn đến nợ đọng xây dựng cơ bản lớn…

Đánh giá tổng quan, theo VEPR (Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách) cho rằng, cơ quan điều hành không có những quyết tâm cần thiết trong việc cắt giảm chi tiêu, đặc biệt là chi thường xuyên và khôi phục lại cân đối ngân sách. Trong khi, chi tiếp tục vượt dự toán, thì nguồn thu đang gặp rất nhiều khó khăn. Tổng thu ngân sách năm 2015 ước đạt 927,5 nghìn tỷ đồng, vượt 1,8% so với dự toán. Nhiều nguồn thu đạt thấp hơn nhiều so với dự toán đầu năm như: thu từ dầu thô (62,4 nghìn tỷ; 61,1% dự toán); thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (128 nghìn tỷ; 89,8% dự toán); thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước (204,2 nghìn tỷ đồng; 92,5 % dự toán); thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu (160 nghìn tỷ đồng; 91,4% dự toán). Nguồn thu mang tính chất ngắn hạn được đẩy mạnh để bù đắp ngân sách: thu từ sử dụng đất (54,2 nghìn tỷ đồng; 139,1% dự toán). Thế nhưng, với việc tham gia các hiệp định thương mại tự do như Hiệp định Đối tác Thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP), Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) và Hiệp định Thương mại Tự do với Liên minh Châu Âu (EVFTA), nguồn thu từ hoạt động này dự kiến sẽ giảm dần theo lộ trình cảm kết trong thời gian tới. Đã vậy, thu ngân sách từ xuất khẩu dầu nhiều khả năng vẫn thấp hơn dự toán 2016 khi xu hướng biến động giá dầu thế giới đang thấp hơn nhiều so với mức giá kỳ vọng 60 USD/thùng của cơ quan lập dự toán.

Theo ước tính của nhóm nghiên cứu này, tổng chi ngân sách năm 2015 có thể vượt so với dự toán khoảng 70 nghìn tỷ đồng. “Kết hợp với GDP danh nghĩa năm 2015 tăng chậm hơn dự báo, dẫn tới thâm hụt ngân sách năm có thể ở mức 7%, cao nhất kể từ năm 2000 trở lại đây”, báo cáo nêu rõ. Các chuyên gia của VEPR cũng lưu ý là, trong 4 năm gần đây, thâm hụt ngân sách luôn cao hơn mức mục tiêu 5%, phản ánh chính sách tài khóa rất thiếu kỷ luật. “Chúng tôi cho rằng, nếu Chính phủ không có các biện pháp hiệu quả chi ngân sách, đặc biệt trong việc sử dụng vốn vay ưu đãi ODA, triển vọng cán cân ngân sách sẽ tiếp tục xấu đi năm 2016”, các chuyên gia của VEPR cảnh báo[6]. Như vậy tình trạng bội chi là vấn đề đáng lo ngại.

Chế độ, tiêu chuẩn định mức giảm NSNN còn thiếu, chưa tương xứng với tình hình thực tế gây khó khăn trong việc cấp phát, kiểm tra, kiểm soát trong chi NSNN.

Nguyên nhân của những bất cập:

Trước hết, tính tuân thủ pháp luật của các đơn vị sử dụng NSNN là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc đảm bảo điều kiện chi; từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động chi NSNN. Các đơn vị sử dụng ngân sách khi nhận được nguồn kinh phí thường không quan tâm đến thực tiễn nhiệm vụ được giao và luôn tìm cách nâng cao dự toán để sử dụng kinh phí thoải mái.

Thứ hai, nguyên tắc lập dự toán từ dưới lên không được đảm bảo. Để có một bản dự toán trình lên Quốc hội, quá trình lập dự toán phải đi từ dưới lên, từ đơn vị lập dự toán nhỏ nhất. Nhưng nhiều khi dự toán trên địa bàn không do các cơ quan tại đó lập mà được lập bởi cấp trên. Điều này dẫn đến tình trạng dự toán lập ra không chính xác, không sát với nhu cầu thực tiễn chi trên địa bàn.

Thứ ba, việc phê chuẩn của các cơ quan có thẩm quyền thường mang tính hình thức và thiếu chi tiết.

3.3. Một số giải pháp khắc phục những khó khăn trong quá trình áp dụng các điều kiện chi ngân sách nhà nước trong năm 2015

Thứ nhất, ngành tài chính cần tập trung xây dựng các đề án, cơ chế chính sách; tăng cường kiểm soát thị trường, quản lý giá cả; tiếp tục đổi mới cơ chế tài chính đối với lĩnh vực sự nghiệp công; tăng cường công tác quản lý, giám sát thị trường tài chính và hoạt động của các định chế tài chính, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra tài chính, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Ngoài ra, cần có cơ chế giám sát việc quyết định chi NSNN của thủ trưởng, chủ đầu tư hay người được ủy quyền, đòi hỏi họ phải có năng lực làm việc tốt.

Thứ hai, các đơn vị phải xây dựng dự toán một cách chi tiết, khoa học, phù hợp với tình hình thực tế và đảm bảo sự thống nhất giữa cơ quan quản lý ngân sách với đơn vị dự toán. Dự toán ngân sách đã được phê duyệt là căn cứ pháp lý quan trọng để KBNN tiến hành kiểm tra, kiểm soát quá trình chấp hành và quyết toán ngân sách của các đơn vị thụ hưởng. Có như vậy mới hạn chế được những tiêu cực hay sử dụng công quỹ lãng phí ngay từ khi bắt đầu chu trình ngân sách và nâng cao chất lượng kiểm soát chi của KBNN. Việc sử dụng các số liệu, thông tin trong xây dựng dự toán NSNN cần được kiểm chứng, không thể là sự ước lượng thiếu căn cứ. Cần hoàn thiện các kênh thông tin chính thức và bộ phận phân tích thông tin trong các đơn vị có trách nhiệm soạn lập ngân sách sẽ có ý nghĩa quyết định đối với việc xây dựng NSNN sát thực tế và có hiệu quả. Bên cạnh đó, các cơ quan, đơn vị soạn lập ngân sách khi đưa ra các định mức thu, chi không sát thực tế, đặc biệt việc không sát thực tế đó nhằm mục đích có lợi riêng cho mình.

Thứ ba, hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan đến điều kiện chi NSNN để đảm bảo tính đồng bộ của pháp luật. Ngoài ra, phải tổ chức bộ máy nhà nước một cách hợp lý, đối với những công việc không quan trọng thì có thể giảm bớt các cán bộ, công chức trong cơ quan đó góp phần tiết kiệm việc chi trả lượng từ quỹ NSNN.

Trong tình hình kinh tế hiện nay, vấn đề thu NSNN đã gặp không ít khó khăn thì việc sử dụng các khoản thu đó như thế nào, tức chi NSNN lại càng phức tạp, đòi hỏi cần phải dựa trên những điều kiện hết sức chặt chẽ, linh hoạt. Các căn cứ của những điều kiện này phải hợp lý, khoa học, từ đó đảm bảo chi NSNN hiệu quả, tiết kiệm, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002;
  2. Luật Ngân sách Nhà nước năm 2015;
  3. Nghị định số 60/2003/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật NSNN năm 2002 của Chính phủ ngày 06/06/2003;
  4. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Ngân sách nhà nước, Nxb.CAND, Hà Nội – 2014;
  5. ThS. Trần Vũ Hải, Tìm hiểu thuật ngữ pháp luật tài chính công, Nxb. Tư pháp, Hà Nội – 2009;
  6. TS. Phạm Thị Giang Thu (chủ nhiệm đề tài), Pháp luật tài chính công Việt Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội – 2013;

[1] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Ngân sách nhà nước, Nxb.CAND, Hà Nội – 2014, trang 79

[2] ThS. Trần Vũ Hải, Tìm hiểu thuật ngữ pháp luật tài chính công, Nxb. Tư pháp, Hà Nội – 2009, trang 80

[3] Điều 51 Luật NSNN năm 2015 quy định về trường hợp Tạm cấp ngân sách: “1. Trong trường hợp vào đầu năm ngân sách, dự toán ngân sách và phương án phân bố ngân sách chưa được Quốc hội, Hội đồng nhân dân quyết định, cơ quan tài chính và cơ quan Kho bạc Nhà nước các cấp theo chức năng thực hiện tạm cấp ngân sách cho các nhiệm vụ chi không thể trì hoãn được cho đến khi dự toán ngân sách được cấp có thẩm quyền quyết định: a) Chi lương và các khoản chi có tính chất tiền lương; b)Chi nghiệp vụ phí và công cụ phí; c)Chi bổ sung cân đối cho ngân sách cấp dưới; d) Một số khoản chi cần thiết khác để đảm bảo hoạt động của bộ máy nhà nước, trừ các khoản mua sắm trang thiết bị, sửa chữa; đ) Chi cho dự án chuyển tiếp thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án quan trọng quốc gia; các dự án đầu tư chuyển tiếp quan trọng, cấp bách khác để khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, dịch bệnh. 2. Mức tạm cấp hàng tháng tối đa cho các nhiệm vụ quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này không quá mức chi bình quân 01 tháng của năm trước. 3. Chi đầu tư các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi từ nhà tài trợ chưa được dự toán hoặc vượt so với dự toán được giao, Chính phủ báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến trước khi thực hiện và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất”.

[4] http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/nhip-song-tai-chinh/2015-07-31/kho-bac-nha-nuoc-kiem-soat-chat-che-nguon-chi-nsnn-23177.aspx

[5] http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/tren-9-000-cong-chuc-vien-chuc-bi-tinh-gian-bien-che-3341609.html

[6]http://kinhtevadubao.vn/chi-tiet/91-5144-vepr—nam-2015-tham-hut-ngan-sach-co-the-o-muc-cao-nhat-ke-tu-nam-2000-.html

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com