HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ
*******

CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
*******

Số:
281-CP


Nội, ngày 13 tháng 10 năm 1977

 

QUYẾT ĐỊNH

VỀ
VIỆC THÀNH LẬP VIỆN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KỸ THUẬT CHẾ TẠO MÁY TRỰC THUỘC BỘ CƠ
KHÍ VÀ LUYỆN KIM

HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ

Căn cứ vào Luật tổ chức Hội đồng
Chính phủ ngày 14-7-1960;

Căn cứ Nghị định số 147-CP ngày 18-9-1969 của Hội đồng Chính phủ quy định
chức năng về tổ chức bộ máy của Bộ Cơ khí và luyện kim;

Theo đề nghị của đồng chí Bộ trưởng Bộ Cơ khí và luyện kim,

QUYẾT ĐỊNH

Điều 1. Nay thành lập Viện nghiên
cứu khoa học kỹ thuật chế tạo máy (gọi tắt là Viện nghiên cứu máy) thay cho
Viện thiết kế máy công nghiệp hiện nay trực thuộc Bộ Cơ khí và luyện kim.

Điều 2. Viện nghiên cứu khoa
học kỹ thuật chế tạo máy là cơ quan nghiên cứu khoa học có nhiệm vụ nghiên cứu
những vấn đề kỹ thuật chung về chế tạo máy cho cả ngành cơ khí; xây dựng các cơ
sở khoa học cho việc thống nhất hóa, tiêu chuẩn hóa về chế tạo máy trong ngành
cơ khí…

Điều 3. Viện nghiên cứu khoa
học kỹ thuật chế tạo máy do một Viện trưởng phụ trách và một hoặc hai Phó viện
trưởng giúp việc.

Đồng chí Bộ trưởng Bộ Cơ khí và
luyện kim quy định nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức cụ thể của Viện nghiên
cứu khoa học kỹ thuật chế tạo máy bảo đảm yêu cầu biên chế gọn, nhẹ và hoạt
động có hiệu quả thiết thực.

Điều 4. Đồng chí Bộ trưởng Bộ
Cơ khí và luyện kim có trách nhiệm thi hành quyết định này.

 

 

TM.
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
KT. THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
 
 
 
 
Phạm Hùng

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
——-

CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
———-

Số:
55/CT-UB

Tp.
Hồ Chí Minh, ngày 14 tháng 10 năm 1977

 

CHỈ THỊ

VỀ
VIỆC XỬ LÝ VẬT TƯ, THIẾT BỊ VÀ KHO BÃI

Đến nay công tác kiểm tra vật
tư, thiết bị, kho bãi theo quyết định 148-CP ngày 9-6-1977 của Hội đồng Chính
phủ và chỉ thị số 41/CT-UB ngày 22-7-1977 của Ủy ban nhân dân Thành phố tiến
hành tại các đơn vị đã phát hiện một số vấn đề cần xử lý gấp để kịp thời thu
gom, bảo quản vật tư, thiết bị, điều động vào phục vụ sản xuất và xây dựng.

Trong khi chờ đợi sự hướng dẫn
của Đoàn Kiểm tra vật tư của Chính phủ, Ủy ban nhân dân Thành phố chỉ thị cho
Ban Kiểm tra vật tư Thành phố cùng với các ngành, các cấp thực hiện những quy
định sau đây :

1.- Huy động ngay những vật tư,
thiết bị trái ngành nghề nằm ở trong kho của các ngành, các cấp, các kho vật tư
thuộc tất cả các nguồn đang chốt giữ quản lý, chưa khui mở xử lý để đưa vào
phục vụ sản xuất và xây dựng.

Trong việc điều động, phân phối
vật tư, thiết bị cho sản xuất và xây dựng, cần đảm bảo đúng nguyên tắc quản lý
tập trung thống nhất vật tư, thiết bị ; tôn trọng đúng chức năng của ngành do
Nhà nước quy định và được Ủy ban nhân dân Thành phố giao nhiệm vụ.

2.- Quá trình điều động, phân
phối cần theo đúng mấy quy định cụ thể như sau :

a) Những đơn vị tiếp nhận vật
tư, thiết bị phải có nhu cầu thực sự, có chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước. Đối với
vật tư, thiết bị kỹ thuật, chỉ được phép đưa vào tồn kho dự trữ theo định mức
hợp lý.

b) Vật tư, thiết bị chuyên dùng
thuộc ngành nào, giao cho ngành ấy tiếp nhận, quản lý ; vật tư thông dụng giao
cho Công ty Vật tư tổng hợp tiếp nhận quản lý. Đối với vật tư, thiết bị chuyên
dùng chưa có ngành nào tiếp nhận, Công ty Vật tư tổng hợp có trách nhiệm tiếp
nhận bảo quản để cung ứng theo nhu cầu của kế hoạch Nhà nước sau này.

c) Đối với các kho vật tư, thiết
bị thuộc loại vắng chủ, tư sản cải tạo … mà các ngành đang chốt giữ, Ban Kiểm
tra vật tư Thành phố cần có sự phối hợp chặt chẽ với Ban cải tạo Thành phố và
các cơ quan có liên quan đề ra phương án xử lý, trình Ủy ban nhân dân Thành phố
quyết định. Cần chú ý loại kho trên đây, hai năm qua cụ thể không được bảo quản
chu đáo, nhiều loại vật tư đã kém phẩm chất, cần khẩn trương đề nghị với Ủy ban
nhân dân Thành phố xử lý sớm.

d) Đối với các kho vật tư, thiết
bị thuộc diện tín chấp, thế chấp, ban Kiểm tra vật tư Thành phố cần kịp thời
báo cáo với Ban Xử lý các ngân hàng tư nhân dưới chế độ cũ của Chính phủ để
giải quyết.

3.- Việc thu gom vật tư, thiết
bị, tài sản trong thành phố là một nhiệm vụ rất lớn, cần được tổ chức thực hiện
khẩn trương và chu đáo :

a) Đối với các thiết bị dây
chuyền sản xuất chưa lắp đặt, còn để trong kho, đối với các cơ sở xí nghiệp
đang ngừng sản xuất, các loại xe, máy, … cần được khôi phục, lắp đặt và đưa vào
sản xuất. Ban Kiểm tra vật tư Thành phố phối hợp với các ngành, các cấp đề ra
những phương án sử dụng cụ thể và trình Ủy ban nhân dân Thành phố quyết định.
Trong trường hợp chưa khôi phục được sản xuất, phải tổ chức bảo quản cẩn thận,
nghiêm cấm việc tùy tiện tháo gỡ phụ tùng, xé lẻ các dây chuyền sản xuất đồng
bộ, tháo gỡ máy di chuyển đi nơi khác hoặc dồn vào một chỗ để lấy nhà làm kho
hoặc làm việc khác.

b) Đối với vật tư, thiết bị lẻ,
phụ tùng… đang rải rác, Ban Kiểm tra vật tư giao cho các ngành phải thu gom lại
; các loại chuyên dùng giao cho các ngành chịu trách nhiệm quản lý ; loại thông
dụng do Công ty Vật tư tổng hợp chịu trách nhiệm. Ngành nào thu gom những thứ
không còn khả năng khôi phục, ngành đó có trách nhiệm phải làm thủ tục thanh lý
hoặc làm phế liệu. Những vướng mắc trong xử lý, Ban Kiểm tra vật tư cần bàn bạc
với các bên hữu quan, nếu cần, báo cáo với Ủy ban nhân dân Thành phố quyết định.

c) Đối với những tư liệu sinh
hoạt và phục vụ công tác được phát hiện qua kiểm tra cũng phải tổ chức thu gom
; Sở Tài chánh phải dành một lực lượng thích đáng để kiểm tra việc thu gom và
quản lý thường xuyên, nhất là những thứ qúy, đắt tiền như : tủ lạnh, máy lạnh,
ti vi, máy thu thanh, quạt, máh tính, máy chữ, xe máy, sa lông loại tốt… Cần tổ
chức đăng ký theo dõi chặt chẽ cả số tài sản sẵn có ở các cơ quan, khu tập thể,
gia đình cán bộ mượn, đồng thời có kế hoạch tân trang, bảo quản để có điều kiện
trang bị cho các cơ sở khách sạn, cơ sở du lịch và có lực lượng dự trữ cho
những năm sau. Các cơ quan, xí nghiệp không được tùy tiện nhượng bán cho cán
bộ, công nhân viên không theo sự hướng dẫn của Sở Tài chánh Thành phố.

4.- Về kho hàng, bến bãi trong
khi chờ xử lý toàn diện, Ủy ban nhân dân Thành phố sẽ quyết định cụ thể từng
kho trong những trường hợp cần thiết.

Trên đây là mấy vấn đề cấp bách,
cần thực hiện và cần tranh thủ sự giúp đỡ của các ngành ở Trung ương để giải
quyết các vấn đề khác như giá cả, thanh toán, vốn…, Trong quá trình thực hiện
sẽ được sự hướng dẫn thêm của Đoàn Kiểm tra vật tư của Chính phủ.

 

 

 

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH/THƯỜNG TRỰC

Lê Đình Nhơn

 

 

 

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH/THƯỜNG TRỰC

Lê Đình Nhơn

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

BỘ LÂM NGHIỆP
******

Số: 3984-LN/KL

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

*******

Hà Nội, ngày 15
tháng 10 năm 1977

 

THÔNG TƯ

HƯỚNG
DẪN VIỆC XỬ PHẠT HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC VI PHẠM LUẬT LỆ VỀ BẢO VỆ RỪNG

Quyền hạn của kiểm lâm nhân dân trong việc
khám xét, bắt giữ tang vật, lập biên bản và xử lý đối với các vi phạm luật lệ về
bảo vệ rừng đã được quy định tại các điều 16, 21và 23 của Pháp lệnh quy định việc
bảo vệ rừng, và được quy định cụ thể trong nghị định số 101-CP ngày 21-5-1973 của
Hội đồng Chính phủ quy định hệ thống tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng
kiểm lâm nhân dân.

Căn cứ vào điều 9 và điều 14 của nghị định
số 101-CP, Bộ Lâm nghiệp hướng dẫn cụ thể và quy định thủ tục tiến hành việc xử
phạt hành chính thuộc quyền của kiểm lâm nhân dân.

Phần
I

MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU CỦA VIỆC XỬ PHẠT HÀNH CHÍNH

I. Mục đích:  

1. Đề cao trách nhiệm của các ngành, các cấp
trong việc thi hành pháp luật; tuyên truyền giáo dục mọi người nâng cao ý thức
tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành luật lệ bảo vệ rừng, nâng cao ý thức bảo vệ
rừng;

2. Xử lý nghiêm minh, ngăn chặn kịp thời và
có hiệu quả các hành động phá hại rừng và tàng trữ, mua bán, vận chuyển và sử dụng
trái phép lâm sản;

3. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,
góp phần tăng cường quản lý vật tư lâm sản, quản lý thị trường, quản lý trận tự
trị an.

II. Yêu cầu:  

1. Xử phạt phải theo đúng các quy định
chung của pháp luật, của luật lệ bảo vệ rừng, theo đúng quyền hạn và thủ tục xử
phạt hành chính.

2. Xử phạt đúng người vi phạm. Phải xác định
rõ ai là người vi phạm, trách nhiệm của từng cá nhân, người ra lệnh và người thừa
hành, kẻ chủ mưu và tòng phạm; nhân thân, thái độ của người vi phạm, các chính
sách có liên quan đến người vi phạm, v.v… để việc xử lý được hợp lý, hợp tình.

3. Xử phạt đúng hành động vi phạm. Xét, xử
phạt một vụ vi phạm phải kết hợp nhiều mặt, xét mức độ tác hại thực tế đã gây
ra đồng thời xét các mặt khác như tính chất, động cơ hành động vi phạm, nguồn gốc
và hoàn cảnh vi phạm.

4. Tất cả các hành động vi phạm đã phát hiện
đều phải được xem xét, nếu không cần thiết phải xử phạt thì cũng phải phê bình,
giáo dục, nhất thiết không được bỏ qua.

5.  Phải tôn trọng quyền tự do dân chủ
của nhân dân, không được gây trở ngại cho việc làm ăn, sinh sống hợp pháp của
nhân dân.

Phần
II

NỘI DUNG CỦA VIỆC XỬ PHẠT HÀNH CHÍNH

I. NỘI DUNG VIỆC XÉT, XỬ PHẠT

1. Một hành động bị coi là vi phạm, có
thể bị xử phạt hành chính,
phải là hành động đã vi phạm một trong những điều
ghi ở chương II của Pháp lệnh hoặc tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép lâm
sản mà không gây thiệt hại lớn đến tài nguyên rừng, cụ thể là thuộc những hành
động vi phạm quy định ở phần III trong thông tư này. Đối tượng rừng, lâm sản bị
gây thiệt hại được xem xét để áp dụng xử phạt theo thông tư này bao gồm: các loại
rừng tự nhiên, rừng trồng do Nhà nước quản lý; các loại lâm sản trong rừng Nhà
nước, các loại chim, thú hoang dã, các loại cây trồng trên đất công cộng: lâm sản
và các đồ vật bằng gỗ có nguồn gốc sử dụng hoặc mua bán không đúng chế độ quy định
của Nhà nước.

2. Về hình thức xử phạt hành chính,
theo điều 21 và 23 của Pháp lệnh, tùy theo tính chất và mức độ tác hại của hành
động vi phạm, người vi phạm có thể bị xử phạt như sau:

a) Cảnh cáo, thu hồi giấy phép và tịch thu
tang vật, hoặc một, hai trong ba hình thức xử phạt đó.

b) Phạt tiền từ 1 đồng đến 200 đồng, thu hồi
giấy phép và tịch thu tang vật, hoặc một, hai trong ba hình thức xử phạt đó.

Trong biện pháp xử lý đối với người vi phạm,
đồng thời với việc thi hành các hình thức xử phạt trên đây, còn áp dụng việc bồi
thường, theo nguyên tắc là người vi phạm có gây thiệt hại đến tài nguyên rừng
thì phải bồi thường thiệt hại đã gây ra. Căn cứ vào thiệt hại cụ thể, cơ quan xử
lý có thể buộc người vi phạm bồi thường toàn bộ hoặc một phần theo giá trị lâm
sản hoặc giá trị về công sức lao động phải bỏ ra để phục hồi lại rừng đã bị phá
hại. Cụ thể là bồi thường bằng tiền hoặc tự bỏ công sức tu bổ, gây trồng lại rừng
cho Nhà nước.

3. Về quyền hạn xử phạt hành chính.

a) Cán bộ, nhân viên kiểm lâm nhân dân
trong khi thi hành nhiệm vụ, được quyền cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1 đồng đến
10 đồng và có thể tạm giữ giấy phép, tịch thu tang vật của người vi phạm. Về việc
thực hiện quyền hạn xử phạt này, để bảo đảm việc xử phạt được thận trọng, đúng
pháp luật, tránh gây phiền hà cho nhân dân, các chi cục, hạt kiểm lâm nhân dân
cấp tỉnh phải tổ chức chỉ đạo thí điểm, trước mắt có thể chỉ giao quyền hạn xử
phạt có giới hạn cho một số đối tượng là trạm trưởng kiểm lâm nhân dân hoặc phải
là tập thể một nhóm, tổ cán bộ, nhân viên kiểm lâm nhân dân được giao nhiệm vụ
tuần tra, kiểm soát, mới được xử phạt. Trên cơ sở đó, từng địa phương tổ chức
rút kinh nghiệm chung, để tiến tới thực hiện đúng quyền hạn xử phạt của cán bộ,
nhân viên kiểm lâm nhân dân theo như quy định của pháp luật trên đây.

b) Hạt trưởng, phó hạt trưởng kiểm lâm nhân
dân được quyền cảnh cáo hoặc quyết định phạt tiền từ 1 đồng đến 100 đồng và có
thể thu hồi giấy phép, tịch thu tang vật, buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại
đã gây ra.

c) Chi cục trưởng, phó chi cục trưởng kiểm
lâm nhân dân được quyền cảnh cáo hoặc quyết định phạt tiền từ 1 đồng đến 200 đồng
và có thể thu hồi giấy phép, tịch thu tang vật, buộc người vi phạm bồi thường
thiệt hại đã gây ra.

4. Người bị xử phạt có quyền khiếu nại đối
với quyết định xử lý của cơ quan kiểm lâm nhân dân, việc giải quyết khiếu nại
do Ủy ban nhân dân cùng cấp xét và quyết định (điều 21 của Pháp lệnh).

5. Người nào lạm dụng chức vụ, quyền hạn
ra lệnh cho người thuộc quyền mình chặt, phá rừng hoặc làm những việc khác
gây thiệt hại đến tài nguyên rừng, thì việc làm đó là phạm pháp và người đã ra
lệnh đó cũng bị xử phạt như người thuộc quyền đã trực tiếp gây thiệt hại đến
tài nguyên rừng. Cơ quan xử lý phải xác định để phân biệt người ra lệnh và người
thừa hành lệnh đó.

II.
VIỆC THU HỒI GIẤY PHÉP VÀ TỊCH THU TANG VẬT

Ngoài việc cảnh cáo hoặc phạt tiền, việc
thu hồi giấy phép và tịch thu tang vật giải quyết như sau:

A. Thu hồi giấy phép.

Giấy phép, theo như quy định trong điều 8 của
nghị định số 101-CP, bao gồm các loại giấy phép chặt cây, giấy phép khai thác rừng,
giấy phép vận chuyển lâm sản, giấy phép săn bắt chim, muông, thú rừng và các loại
giấy phép khác quy định trong luật lệ bảo vệ rừng.

Trong các trường hợp phát hiện sau đây, nhất
thiết phải thu hồi giấy phép: giấy phép đã quá hạn, giấy phép được cấp không
đúng với quy định trong luật lệ bảo vệ rừng, giấy phép do người vi phạm thuê,
mượn, lấy của người khác, hoặc khi người vi phạm cố ý lợi dụng giấy phép để vi
phạm, hoặc có hành động gian lậu hay là đã bị xử phạt mà còn vi phạm. Mức độ
thu hồi giấy phép gồm thu hồi vĩnh viễn và thu hồi có kỳ hạn; thu hồi có kỳ hạn
áp dụng đối với những trường hợp mà sau khi xử lý đối với hành động vi phạm vẫn
có thể chấp nhận quyền được sử dụng giấy phép đó, để khỏi phải cấp lại.

Việc thu hồi giấy phép phải do cơ quan kiểm
lâm nhân dân từ cấp hạt trở lên xét và quyết định. Cán bộ, nhân viên kiểm lâm
nhân dân khi xử phạt, cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1 đồng đến 10 đồng, nếu phát
hiện người vi phạm có giấy phép bất hợp pháp, thì phải tạm giữ để báo cáo hạt,
chi cục xét, quyết định.

B. Tịch thu tan vật.

Tang vật là những lâm sản trái phép, những
dụng cụ và phương tiện dùng để phạm pháp (điều 10 nghị định số 101-CP).

1. Tịch thu lâm sản trái phép.

Nguyên tắc chung là những lâm sản lấy, sử dụng,
mua bán trái phép thì phải thu hồi về cho Nhà nước để phân phối theo kế hoạch.

Khi xét, xử lý các hành động vi phạm đối với
lâm sản trái phép, cơ quan xử lý có thể tịch thu lâm sản trong những trường hợp
sau đây:

a) Lâm sản do chặt, phá rừng trái phép và
chim thú rừng do săn bắt trái phép (không có giấy phép, giấy phép không hợp lệ,
lợi dụng giấy phép để vi phạm, hoặc vi phạm những quy định trong luật lệ bảo vệ
rừng).

b) Lâm sản do tàng trữ, mua bán, sử dụng
trái với những quy định trong luật lệ bảo vệ rừng.

c) Lâm sản do người vi phạm đã bỏ chạy để lại.
Khi xét, cần chú ý xử lý tịch thu đối với những hành động cố ý, chặt phá rừng
gian lậu, tái phạm và đối với các loại lâm sản, chim, thú quý, hiếm, có giá trị
kinh tế cao. Ngoài ra, có thể áp dụng hình thức xử lý trưng mua, cho sử dụng một
phần hoặc toàn bộ đối với lâm sản trái phép.

Đối với lâm sản xử lý tịch thu và trưng
mua, thì không truy thu tiền nuôi rừng. Đối với phần lâm sản cho người vi phạm
được đem về sử dụng, nếu trước đó chưa nộp tiền nuôi rừng, thì phải nộp tiền
nuôi rừng cho Nhà nước.

2. Tịch thu những dụng cụ và phương tiện
dùng để phạm pháp.

Dụng cụ và phương tiện dùng để phạm pháp có
nhiều loại, mối liên quan đến hành động vi phạm cũng rất phức tạp. Cho nên việc
tịch thu đối với loại tang vật này phải thận trọng, chỉ tịch thu trong những
trường hợp cần thiết để ngăn chặn kịp thời hành động vi phạm, như kẻ vi phạm có
hành vi gian lậu, tái phạm nhiều lần hoặc có hành động chống đối. Dụng cụ và
phương tiện dùng để phạm pháp có thể tịch thu chủ yếu là những loại có liên
quan trực tiếp đến hành động vi phạm và tương xứng với thiệt hại đã gây ra,
tránh gây những ảnh hưởng không có lợi đến đời sống của nhân dân và đến hoạt động
sản xuất của các cơ quan, xí nghiệp, đơn vị. Chú ý tránh việc xử lý tịch thu đối
với các loại phương tiện thuộc loại tài sản có giá trị kinh tế cao, việc bảo quản
cũng phức tạp, như xe có động cơ, xe đạp, gia súc, v.v… Các dụng cụ và phương
tiện đã xử lý tịch thu, phải được bảo quản chu đáo và giải quyết theo đúng chế
độ Nhà nước quy định.

Phần
III.

CÁC HÀNH ĐỘNG VI PHẠM VÀ MỨC ĐỘ XỬ PHẠT HÀNH CHÍNH

I. PHÁ RỪNG TRÁI PHÉP

Bao gồm các hành động vi phạm điều 3 Pháp lệnh
và các văn bản quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh.

Đối với các hành động phá rừng trái phép kể
dưới đây, có thể phạt tiền từ 11 đồng đến 200 đồng và tịch thu lâm sản trái
phép:

1. Được phép phá rừng nhưng đã tùy tiện
sử dụng trái phép lâm sản hoặc bỏ lâm sản bị hư hỏng tại rừng (dễ mục nát, cầy ủi,
đốt):

a) Gỗ tròn: từ 20 m3 trở xuống.

b) Củi: từ 40 xít-te trở xuống.

c) Các loại bương, tre, luồng, vầu, nứa dại:
từ 2000 cây trở xuống.

d) Các loại xe, kích cỡ nhỏ và các loại nứa
khác: từ 5000 cây trở xuống.

2. Phá trái phép vào rừng kinh tế, hoặc
phá vượt diện tích được phép:

a) Rừng gỗ: từ 0,7 hécta trở xuống; rừng
tre nứa: từ 1,5 hécta trở xuống.

b) Nếu là rừng có nhiều gỗ quý hoặc có trữ
lượng cao (sau dây gọi tắt là rừng tốt), thì rừng gỗ: từ 0,5 hécta trở xuống; rừng
tre, nứa: từ 1 hécta trở xuống.

3. Phá trái phép vào rừng khoanh nuôi bảo
vệ:

a) Rừng gỗ: từ 0,7 hécta trở xuống; rừng
tre, nứa: từ 1,5 hécta trở xuống.

b) Nếu là rừng tốt hoặc có yêu cầu bảo vệ
cao, thì rừng gỗ: từ 0,5 hécta trở xuống; rừng tre, nứa: từ 1 hécta trở xuống.

4. Phá trái phép vào rừng cấm (theo điều 5
Pháp lệnh) hoặc rừng có các loại quý hiếm mọc tập trung (theo điều 10
Pháp lệnh); với diện tích từ 0,1 hécta trở xuống.

II.
KHAI THÁC, CHẶT CÂY RỪNG TRÁI PHÉP

Bao gồm các hành động vi phạm điều 4 và các
điều 5, 10, 12 của Pháp lệnh.

1. Vi phạm quy trình kỹ thuật khai thác
rừng.

Đối với các hành động vi phạm kể dưới đây,
có thể phạt tiền từ 11 đồng đến 200 đồng và đơn vị khai thác phải có biện pháp
sửa chữa theo quy trình:

a) Khai thác không chuẩn bị rừng, vượt sản
lượng thiết kế, không bảo đảm các quy định về bảo vệ rừng trong chặt hạ, không
dọn vệ sinh rừng, v.v…trên diện tích từ 10 đến 20 hécta trở xuống, tùy theo mức
độ tác hại đến rừng.

b) Khai thác làm cho rừng bị tàn lụi, rừng
gần như bị chặt trắng:

– Rừng gỗ: 2 hécta trở xuống; rừng tre, nứa:
từ 3 hécta trở xuống;

– Nếu là rừng tốt hoặc mức độ rừng bị phá
nghiệm trọng, thì rừng gỗ: từ 1 hécta trở xuống; rừng tre, nứa: từ 2 hécta trở
xuống.

2. Được phép chặt cây, khai thác rừng,
nhưng đã vi phạm chế độ nộp tiền nuôi rừng
(trước đây gọi là tiền bán khoán
lâm sản), ngoài việc truy thu tiền nuôi rừng, có thể xử phạt như sau:

a) Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1 đồng đến
10 đồng
, nếu số tiền nuôi rừng phải nộp từ 50 đồng trở xuống;

b) Phạt tiền từ 11 đồng đến 200 đồng,
nếu số tiền nuôi rừng phải nộp từ 1000 đồng trở xuống.

3. Chặt cây, lấy lâm sản không có giấy
phép, giấy phép không hợp lệ, hoặc lấy vượt khối lượng, sai chủng loại cho phép
hay là vi phạm vào nhóm gỗ không được khai thác sử dụng:

a) Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1 đồng đến
10 đồng
và có thể tịch thu lâm sản trái phép, nếu lâm sản trái phép trị giá
từ 50 đồng trở xuống, tính theo giá thị trường địa phương nơi bắt giữ. Giá thị
trường ở đây bao gồm giá thu mua lâm sản của các cơ quan Nhà nước tại địa phương;
đối với loại lâm sản Nhà nước không thu mua thì lấy giá thị trường tự do thông
thường ở từng vùng tại địa phương.

b) Phạt tiền từ 11 đồng đến 200 đồng
có thể tịch thu lâm sản trái pháp, tịch thu dụng cụ, phương tiện dùng để phạm
pháp:

– Gỗ tròn nhóm I, II: từ 5m3 trở
xuống.

nhóm III, IV: từ 7 m3 trở xuống.

nhóm V đến VIII: từ 10m3 trở xuống.

– Củi: từ 20 xít-te trở xuống.

– Các loại bương, tre, luồng, vầu, nứa dại:
từ 1000 cây trở xuống.

– Các loại tre nhỏ, nứa khác: từ 3000 cây
trở xuống.

– Các lâm sản khác: trị giá theo giá thị
trường từ 1000 đồng trở xuống.

4. Chặt cây lấy lâm sản trái phép trong
rừng đang khoanh nuôi bảo vệ:

a) Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1 đồng đến
10 đồng
và có thể tịch thu lâm sản trái phép, nếu lâm sản trái phép trị giá
theo giá thị trường từ 30 đồng trở xuống.

b) Phạt tiền từ 11 đồng đến 200 đồng và có
thể tịch thu lâm sản trái phép, tịch thu dụng cụ, phương tiện dùng để phạm
pháp:

– Gỗ tròn; từ 7m3 trở xuống, hoặc 0,5 hécta
trở xuống nếu là rừng cây còn non chưa tính được khối lượng;

– Củi: từ 15 xít-te trở xuống.

– Các loại bương, tre, luồng, vừa, nứa dại:
từ 500 cây trở xuống.

– Các loại tre nhỏ và nứa khác; từ 2000 cây
trở xuống.

– Các lâm sản khác: trị giá theo giá thị
trường từ 500 đồng trở xuống.

5. Chặt cây lấy lâm sản trái phép thuộc
các loại thực vật quý, hiếm
(điều 10 Pháp lệnh):

a) Phạt tiền từ 1 đồng đến 10 đồng,
tịch thu lâm sản trái phép, nếu lâm sản trái phép trị giá theo giá thị trường từ
20 đồng trở xuống.

b) Phạt tiền từ 11 đồng đến 200 đồng,
tịch thu lâm sản trái phép và có thể tịch thu dụng cụ, phương tiện dùng để phạm
pháp:

– Gỗ tròn: từ 3m3 trở xuống.

– Lâm sản khác; trị giá theo giá trị trường
từ 300 đồng trở xuống

6. Chặt cây, lấy lâm sản trái phép trong rừng
cấm:

a) Phạt tiền từ 1 đồng đến 10 đồng,
nếu phát hiện người vi phạm đã có hành động vi phạm nhưng chưa gây thiệt hại
đáng kể đến rừng.

b) Phạt tiền từ 11 đồng đến 200 đồng,
tịch thu lâm sản trái phép và có thể tịch thu dụng cụ, phương tiện dùng để phạm
pháp:

– Gỗ tròn: từ 3m3 trở xuống.

– Củi: từ 5 xít-te trở xuống.

– Tre, nứa các loại: tre, nứa lớn: từ 200
cây trở xuống; tre, nứa nhỏ: từ 500 cây trở xuống.

– Lâm sản khác; trị giá theo giá thị trường
từ 300 đồng trở xuống.

Nếu vi phạm vào các loại thực vật quý, hiếm:

– Gỗ tròn: từ 2m3 trở xuống.

– Lâm sản khác: trị giá theo giá thị trường
từ 200 đồng trở xuống.

III. PHÁT, ĐỐT RỪNG ĐỂ LÀM NƯƠNG RẪY

Bao gồm các hành động vi phạm điều 6 và các
điều 5 và 10 của Pháp lệnh.

Đối với các hành động vi phạm kể dưới đây,
có thể phạt tiền từ 11 đồng đến 200 đồng và tịch thu lâm sản đã phát trái phép.

1. Phát, đốt rừng kinh tế:

a) Rừng gỗ: từ 0,7 hécta trở xuống; rừng
tre, nứa: từ 1,5 hécta trở xuống;

b) Nếu là rừng tốt, thì rừng gỗ: từ 0,5
hécta trở xuống; rừng tre, nứa: từ 1 hécta trở xuống.

2. Phát, đống rừng khoanh nuôi bảo vệ:

a) Rừng gỗ: từ 0,7 hécta trở xuống; rừng
tre, nứa: từ 1,5 hécta trở xuống;

b) Nếu là rừng tốt hoặc có yêu cầu bảo vệ
cao thì rừng gỗ: từ 0,5 hécta trở xuống; rừng tre, nứa: từ 1 hécta trở xuống.

3. Phát, đốt rừng cấm hoặc rừng có các
loại thực vật quý hiếm mọc tập trung
: với diện tích từ 0,1 hécta trở xuống.

IV.
GÂY CHÁY RỪNG

Bao gồm các hành động vi phạm điều 7 và các
điều 5 và 10 của Pháp lệnh.

1. Được phép đốt lửa trong rừng nhưng đã
vi phạm các quy định về phòng cháy và chữa cháy rừng:

a) Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1 đồng đến
10 đồng
: gây cháy rừng nhưng đã kịp thời dập tắt, thiệt hại không đáng kể;

b) Phạt tiền từ 11 đồng đến 200 đồng,
nếu gây cháy rừng:

– Rừng gỗ: từ 0,7 hécta trở xuống; rừng
tre, nứa: từ 1,5 hécta trở xuống;

– Nếu là rừng tốt hoặc rừng đã bị cháy
nghiêm trọng, thì rừng gỗ: từ 0,5 hécta trở xuống; rừng tre, nứa: từ 1 hécta trở
xuống.

2. Đốt lửa trái phép gây cháy rừng kinh
tế:

Đốt lửa trái phép nói ở đây là những trường
hợp đốt lửa không được phép của các cơ quan có thẩm quyền mà luật lệ bảo vệ rừng
đã quy định (điều 7 Pháp lệnh, nghị định số 221-CP); đốt lửa ở các khu rừng cấm
đốt lửa: các khu rừng dễ cháy, rừng có than, rừng trồng (nghị định số 221-CP).

a) Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1 đồng đến
10 đồng
: gây cháy rừng nhưng đã kịp thời dập tắt, thiệt hại không đáng kể.

b) Phạt tiền từ 11 đồng đến 200 đồng,
nếu gây cháy rừng:

– Rừng gỗ: từ 0,5 hécta trở xuống;

– Rừng tre, nứa: từ 1 hécta trở xuống.

3. Gây cháy rừng khoanh nuôi bảo vệ:
xử phạt như điểm 2 trên đây.

4. Vi phạm các quy định cấm đốt lửa (đoạn
1, điều 7 Pháp lệnh).

a) Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1 đồng đến
10 đồng
: khi phát hiện có hành động đốt lửa nhưng chưa gây cháy rừng.

b) Phạt tiền từ 11 đồng đến 200 đồng nếu
gây cháy rừng:

– Rừng gỗ: từ 0,3 hécta trở xuống;

– Rừng tre, nứa: từ 0,7 hécta trở xuống.

5. Gây cháy rừng cấm hoặc rừng có các loại
thực vật quý, hiếm mọc tập trung
: phạt tiền từ 11 đồng đến 200 đồng với diện
tích bị cháy từ 0,1 hécta trở xuống.

V.
CHĂN THẢ GIA SÚC TRÁI PHÉP VÀO RỪNG

Bao gồm các hành động vi phạm điều 8 của
Pháp lệnh.

1. Chăn thả tự do gia súc vào rừng:

a) Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1 đồng đến
10 đồng
: nếu gây thiệt hại không đáng kể đến rừng.

b) Phạt tiền từ 11 đồng đến 200 đồng:
gia súc đã phá hại cây rừng với diện tích từ 5 hécta trở xuống; nếu rừng bị phá
hại nghiêm trọng, thì với diện tích từ 3 hécta trở xuống.

2. Thả rông gia súc vào những khu rừng
non, rừng mới trồng hoặc mới dặm cây con:

a) Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1 đồng đến
10 đồng
: nếu gây thiệt hại không đáng kể đến rừng.

b) Phạt tiền từ 11 đồng đến 200 đồng:
gia súc đã phá hại cây rừng với diện tích từ 2 hécta trở xuống; nếu rừng bị phá
hại nghiêm trọng, thì với diện tích từ 1 hécta trở xuống.

VI.
SĂN BẮT TRÁI PHÉP CHIM, MUÔNG, THÚ HOANG DÃ

Đối với các hành động vi phạm kể dưới đây,
ngoài việc có thể tịch thu chim, thú hoang dã đã săn bắt trái phép, tịch thu dụng
cụ, phương tiện dùng để phạm pháp, xử phạt như sau:

1. Săn bắt không có giấy phép hoặc buôn
bán, vận chuyển chim, thú đã săn bắt trái phép:

a) Các loài chim, thú cỡ vừa, như ngỗng,
bồ nông, nhím, khỉ…: phạt tiền tính theo đầu con chim, thú đã săn bắt trái
phép, mỗi con (sau đây gọi tắt là phạt tiền mỗi con) từ 5 đồng đến 20 đồng, tùy
theo loại chim, thú.

b) Các loài thú cỡ lớn, như nai, hoẵng,
sơn dương, lợn rừng…: phạt tiền mỗi con từ 50 đồng đến 100 đồng, tùy theo loại
thú.

c) Các loài thú dữ, như hổ, báo, gấu:
phạt tiền mỗi con từ 100 đồng đến 200 đồng, tùy theo loại thú.

2. Săn bắt trái phép trong mùa cấm, hoặc
khu vực cấm săn, hoặc dùng những phương pháp, phương tiện cấm dùng để săn bắt
chim, thú hoang dã.

a) Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1 đồng đến
10 đồng
: đã có hành động săn bắt rõ ràng, nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây
thiệt hại không đáng kể.

b) Săn bắt các loại chim, thú cỡ nhỏ,
như chim gáy, sóc…: phạt tiền mỗi con từ 1 đồng đến 5 đồng.

c) Săn bắt các loài chim, thứ cỡ vừa:
phạt tiền mỗi con từ 10 đồng đến 30 đồng.

d) Săn bắt các loài thú lớn: phạt tiền
mỗi con từ 100 đồng đến 200 đồng.

e) Săn bắt các loại thú dữ: phạt tiền
mỗi con từ 100 đồng đến 200 đồng, hoặc có thể khởi tố về hình sự.

3. Săn bắt trái phép các loài chim, thú
qúy hiếm cắm săn
(điều 1, Điều lệ tạm thời về săn bắt chim, thú rừng ban
hành kèm theo nghị định số 39-CP ngày 5-4-1963);

a) Thú nhỏ: cầy bay, sóc bay, cheo
cheo, cu ly, tê tê: phạt tiền mỗi con từ 10 đồng đến 30 đồng.

b) Chim, thú vừa: công, trĩ, gà sao,
gà lôi, chồn mực, vượn, vẹt: phạt tiền mỗi con từ 20 đồng đến 50 đồng.

c) Thú lớn: voi, tê giác, trâu rừng,
bò tót, bò rừng, hươu sao, hươu sạ: sẽ khởi tố về hình sự.

4. Săn bắt trái phép trong rừng cấm.

a) Phạt tiền từ 1 đồng đến 10 đồng:
đã có hành động săn bắt rõ ràng, nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại
không đáng kể.

b) Săn bắt các loài chim thú cỡ nhỏ:
phạt tiền mỗi con từ 5 đồng đến 20 đồng.

c) Săn bắt các laòi chim, thú cỡ vừa:
phạt tiền mỗi con từ 20 đồng đến 50 đồng.

d) Săn bắt các loài thú lớn: phạt tiền
mỗi con từ 100 đồng đến 200 đồng.

e) Săn bắt các loài thú dữ: sẽ khởi
tố về hình sự.

g) Nếu vi phạm vào các loài “chim, thú,
quý, hiếm cấm săn”:

– Thú nhỏ: phạt tiền mỗi con từ 20 đồng đến
50 đồng;

– Chim, thú vừa: phạt tiền mỗi con từ 50 đồng
đến 100 đồng;

– Các loại thú lớn: sẽ khởi tố về hình sự.

Theo mức độ xử phạt quy định ở các điểm 1,
2, 3 và 4 trên đây, các địa phương căn cứ vào tình hình các loài chim, thú và
yêu cầu bảo vệ đối với từng loài ở địa phương mình, mà hướng dẫn cụ thể mức tiền
phạt cho mỗi đầu con chim, thú.

VII. VI PHẠM CHẾ ĐỘ PHÒNG, TRỪ SÂU, BỆNH
PHÁ HẠI RỪNG

Các lâm trường, hợp tác xã và cơ quan, đoàn
thể được phép kinh doanh rừng, vì thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra, phát
hiện dịch sâu, bệnh, hoặc khi đã phát hiện nhưng không có những biện pháp tích
cực diệt trừ, để sâu, bệnh phá hại rừng, vi phạm điều 11 của Pháp lệnh, thì thủ
trưởng đơn vị, chủ nhiệm hợp tác xã có thể bị phạt tiền từ 11 đồng đến 200 đồng
nếu để rừng bị phá hại với diện tích từ 20 hécta trở xuống; nếu rừng bị phá hại
nghiêm trọng, thì với diện tích từ 10 hécta trở xuống.

VIII. TÀNG TRỮ, MUA BÁN, VẬN CHUYỂN
VÀ SỬ DỤNG TRÁI PHÉP LÂM SẢN

1. Vi phạm chế độ nộp tiền nuôi rừng.

Trong trường hợp kiểm tra, phát hiện lâm sản
qua việc tàng trữ, mua bán, vận chuyển có vi phạm chế độ nộp tiền nuôi rừng,
còn nguồn gốc lâm sản là hợp pháp, thì xử lý theo điểm 2, mục II trong phần III
này.

2. Mua bán, vận chuyển, sử dụng trái
phép lâm sản
(nguồn gốc lâm sản là hợp pháp).

a) Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1 đồng đến
10 đồng
và có thể tịch thu lâm sản trái phép, nếu lâm sản trái phép trị giá
theo giá thị trường từ 50 đồng trở xuống; nếu lâm sản thuộc loại quý, hiếm thì
trị giá từ 20 đồng trở xuống.

b) Phạt tiền từ 11 đồng đến 200 đồng
có thể tịch thu lâm sản trái phép, tịch thu dụng cụ, phương tiện dùng để phạm
pháp:

– Gỗ tròn: nhóm I, II từ 5m3 trở
xuống.

nhóm III, IV từ 7m3 trở xuống.

nhóm V – VIII từ 10m3 trở xuống.

– Củi: từ 20 xít-te trở xuống.

– Các loại bương, tre, luồng, vầu, nứa dại:
từ 1000 cây trở xuống.

– Các loại trẻ nhỏ và nứa khác: từ 3000 cây
trở xuống.

– Các loại lâm sản khác: trị giá theo giá
thị trường từ 1000 đồng trở xuống.

Nếu vi phạm vào các loại thực vật quý, hiếm:

– Gỗ tròn: từ 3m3 trở xuống.

– Lâm sản khác: trị giá từ 300 đồng trở xuống.

3. Tàng trữ, mua bán, vận chuyển và sử dụng
những lâm sản đã khai thác trái phép
(nguồn gốc lâm sản là trái phép).

a) Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1 đồng đến
10 đồng
và có thể tịch thu lâm sản trái phép, nếu lâm sản trái phép trị giá
theo giá thị trường từ 30 đồng trở xuống; nếu lâm sản thuộc loại quý, hiếm, thì
trị giá từ 20 đồng trở xuống.

b) Phạt tiền từ 11 đồng đến 200 đồng
có thể tịch thu lâm sản trái phép, tịch thu dụng cụ, phương tiện dùng để phạm
pháp:

– Gỗ tròn: nhóm I, II; từ 3m3 trở
xuống.

nhóm III – IV: từ 5m3 trở xuống.

nhóm V – VIII: từ 7m3 trở xuống.

– Củi: từ 15 xít-te trở xuống:

– Các loại bương, tre, luồng, vầu, núa dại:
từ 1000 cây trở xuống.

– Các loại tre nhỏ và nứa khác: từ 3000 cây
trở xuống.

– Các lâm sản khác: trị giá theo giá thị
trường từ 500 đồng trở xuống.

Nếu vi phạm vào các loại thực vật quý, hiếm:

– Gỗ tròn: từ 2m3 trở xuống:

– Lâm sản khác: trị giá từ 300 đồng trở xuống.

IX. VỀ VIỆC VẬN DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ
HÀNH ĐỘNG VI PHẠM VÀ MỨC ĐỘ XỬ PHẠT

Trong việc vận dụng các điều quy định trong
phần III này, cần chú ý những điểm sau đây:

1. Khi xét, xử phạt một hành động vi
phạm, trước hết phải xác định mức độ tác hại đã gây ra, đồng thời xét, cân nhắc
các tình tiết khác của hành động vi phạm và đối với người vi phạm, mà quyết định
mức độ xử phạt cụ thể.

2. Khi xét và quyết định mức độ xử
phạt cụ thể, trong trường hợp cần tăng nặng hay giảm nhẹ, thì theo hướng sau
đây: (mức độ xử phạt hành chính đã chia thành 3 khung xử phạt từ nhẹ đến nặng
là: cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1 đồng đến 10 đồng; phạt tiền từ 11 đồng đến 100
đồng; phạt tiền từ 101 đồng đến 200 đồng, và có thể thu hồi giấy phép, tịch thu
tang vật).

a) Nếu là trường hợp cần nâng mức độ xử phạt,
như người vi phạm có hành động cố ý, gian lậu, vi phạm nhiều lần, thì hành động
vi phạm xét về tác hại đã gây ra nằm trong khung xử phạt nào, có thể phạt đến mức
tối đa trong khung xử phạt đó.

b) Nếu là trường hợp cần giảm mức độ xử phạt,
thì hành động vi phạm xét về tác hại đã gây ra nằm trong khung xử phạt nào, có
thể phạt đến mức thấp nhất trong khung xử phạt đó, hoặc chỉ cảnh cáo, giáo dục.

3. Đối với các hành động vi phạm có
mức độ tác hại đã gây ra vượt quá mức độ xử phạt hành chính đã hướng dẫn trên
đây, thì sẽ khởi tố về hình sự.

Đối với một số vụ vi phạm, tùy mức độ tác hại
đã gây ra thuộc mức độ xử phạt hành chính, nhưng xét các yếu tố khác thấy cần
phải xử lý nghiêm khắc, thì cơ quan kiểm lâm nhân dân phối hợp với viện kiểm
sát nhân dân cùng cấp để xét và có biện pháp xử lý thích đáng.

4. Đối với trường hợp đã bị xử phạt
mà còn vi phạm (điều 22 của Pháp lệnh) nếu lần vi phạm sau có mức độ tác hại đã
gây ra thuộc mức độ xử phạt hành chính, thì chỉ trong những trường hợp sau đây
mới khởi tố về hình sự:

a) Kẻ phạm pháp nhiều lần, trước đây đã được
giáo dục hoặc đã bị xử phạt hành chính mà vẫn chưa chịu tiếp thu, sửa chữa.

b) Kẻ phạm pháp có hành động chống đối hoặc
là phần tử xấu.

5. Trường hợp kẻ phạm pháp có hành động
hành hung cán bộ, nhân viên kiêm lâm nhân dân trong khi thi hành nhiệm vụ, thì
ngoài việc lập biên bản về vi phạm luật lệ bảo vệ rừng, còn lập biên bản về
hành động hành hung đó để chuyển sang cơ quan công an đề nghị xử lý; nếu xét cần
phải xử lý nghiêm khắc, thì đề nghị viện kiểm sát nhân dân khởi tố về hình sự.

Phần
IV

VỀ
VIỆC THI HÀNH XỬ PHẠT HÀNH CHÍNH

Trong việc thực hiện quyền hạn kiểm tra, lập
biên bản, xét, xử lý các hành động vi phạm luật lệ bảo vệ rừng, cơ quan kiểm
lâm nhân dân các cấp và cán bộ, nhân viên kiểm lâm nhân dân phải chấp hành đúng
các nguyên tắc, thủ tục sau đây.

I. VỀ CẢNH CÁO HOẶC PHẠT TIỀN TỪ 1 ĐỒNG ĐẾN
10 ĐỒNG

Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1 đồng đến 10 đồng
và có thể tạm giữ giấy phép, tịch thu tang vật là hình thức xử phạt đối với những
vi phạm nhỏ, tại chỗ, rõ ràng, nhằm kịp thời ngăn ngừa các hành động vi phạm luật
lệ bảo vệ rừng.

Trong việc thi hành xử phạt,  phải
theo đúng những quy định sau đây:

1. Chỉ những cán bộ kiểm lâm nhân dân từ cấp
trạm trưởng kiểm lâm nhân dân trở lên và trong khi thi hành nhiệm vụ, hoặc những
cán bộ, nhân viên kiểm lâm nhân dân được thủ trưởng cơ quan kiểm lâm nhân dân
giao quyền hạn và trong khi thi hành nhiệm vụ, mới được xử phạt.

2. Trong khi thi hành nhiệm vụ, cán bộ,
nhân viên kiểm lâm nhân dân phải mang theo giấy tờ xác nhận quyền hạn được
giao; nếu đương sự đề nghị được xem giấy tờ, thì cán bộ, nhân viên kiểm lâm
nhân dân phải xuất trình giấy tờ đó trước đương sự.

3. Khi khám xét, chỉ khám xét tang vật có
liên quan đến hành động vi phạm luật lệ bảo vệ rừng.

4. Khi quyết định xử phạt tiền, tịch thu
tang vật, cán bộ, nhân viên kiểm lâm nhân dân phải tuyên bố quyết định xử phạt
cho người vi phạm rõ, phải làm biên lai thu tiền phạt. Biên lai phải làm tại chỗ
và giao cho người vi phạm sau khi họ đã nộp tiền phạt, nộp tang vật bị tịch
thu.

5. Sau mỗi ngày, cán bộ, nhân viên kiểm lâm
nhân dân phải ghi chép cập nhật vào sổ nhật ký vi phạm của đơn vị về các vụ vi
phạm đã xử lý trong ngày và nộp tổng số tiền phạt đã thu, tang vật đã tịch thu
tại đơn vị nơi công tác.

6. Trong trường hợp phạt tiền nhưng người
vi phạm chưa có tiền để nộp phạt, thì giải quyết như sau:

a) Đối với người vi phạm đã xác minh được địa
chỉ rõ ràng, thì cho người vi phạm ký nhận vào biên lai là sẽ nộp phạt sau,
trong thời gian không quá 5 ngày, tại đơn vị công tác của cán bộ, nhân viên kiểm
lâm nhân dân đã thi hành xử phạt.

b) Đối với người vi phạm chưa xác minh được
địa chỉ, thì cán bộ, nhân viên kiểm lâm nhân dân đưa người đó về cơ quan kiểm
lâm nhân dân hoặc cơ quan chính quyền địa phương nơi gần nhất để xác minh địa
chỉ, sau đó giải quyết như trường hợp a trên đây.

Cả hai trường hợp a và b, cán bộ, nhân viên
kiểm lâm nhân dân đều phải bắt người vi phạm ký chịu tang vật cần thiết, để buộc
người vi phạm phải chấp hành quyết định xử phạt.

7. Ngay sau khi tuyết bố quyết định xử phạt,
nếu đương sự yêu cầu được khiếu nại, thì cán bộ, nhân viên kiểm lâm nhân dân phải
lập biên bản về việc khiếu nại và chuyển biên bản đó về cơ quan kiểm lâm nhân
dân (huyện hoặc tỉnh) để xét, giải quyết. Nếu có tang vật cần tạm giữ, thì phải
lập biên bản tạm giữ tang vật.

8. Trong trưòng hợp người vi phạm không có
khiếu nại mà cũng không chịu chấp hành quyết định xử phạt, thì cơ quan kiểm lâm
nhân dân báo cho chính quyền hoặc cơ quan, đơn vị nơi người vi phạm cư trú hoặc
công tác để buộc người đó phải chấp hành quyết định xử phạt.

II. VỀ PHẠT TIỀN TỪ 11 ĐỒNG ĐẾN 200 ĐỒNG

A. Quyền hạn xử phạt:

1. Pháp lệnh và nghị định số 101-CP đã quy
định quyền hạn xử phạt hành chính của cấp hạt và cấp chi cục. Trong thực tế xét
xử phạt, đối với các vụ vi phạm thuộc thẩm quyền xử phạt của hạt, sau khi hạt
đã có quyết định xử lý, hạt có thể giao trách nhiệm cho trạm thi hành quyết định
đó theo đúng thủ tục quy định. Đối với các vụ vi phạm mà khi hạt xét, thấy mức
độ xử phạt vượt quá quyền hạn của hạt, thì hạt báo cáo lên chi cục để xét, quyết
định xử lý, không cần phải gửi kèm theo tang vật tạm giữ nếu có. Sau khi chi cục
đã có quyết định xử lý, thì hạt có trách nhiệm thi hành quyết định đó theo đúng
thủ tục quy định.

2. Đối với các hạt kiểm lâm nhân dân ở tỉnh,
thành phố nơi không thành lập chi cục, nếu mức độ xử phạt vượt quá quyền hạn của
hạt, Bộ Lâm nghiệp giao cho hạt xét, quyết định xử lý, sau khi đã xin ý kiến Ủy
ban nhan dân tỉnh, thành phố.

3. Đối với các hạt kiểm lâm nhân dân và hạt
kiểm soát lâm sản trực thuộc Cục kiểm lâm nhân dân, nếu mức độ xử phạt vượt quá
quyền hạn của hạt, thì hạt phải báo cáo Cục và do Cục trưởng, Phó cục trưởng Cục
kiểm lâm nhân dân xét, quyết định xử lý. Sau khi Cục có quyết định xử lý, thì hạt
có trách nhiệm thi hành quyết định đó theo đúng thủ tục quy định.

B. Trình tự và nội dung các bước tiến hành
xét, xử phạt:

1. Phát hiện hành động vi phạm, lập biên
bản.

Cán bộ, nhân viên kiểm lâm nhân dân trong
khi thi hành nhiệm vụ tuần tra, kiểm tra, kiểm soát, khám xét, hoặc được nhân
dân tố giác, nếu phát hiện có hành động vi phạm hoặc có dấu hiệu vi phạm luật lệ
bảo vệ rừng, thì phải kịp thời xem xét, lập biên bản để làm căn cứ gốc cho các
bước điều tra, xác minh và kết luận biện pháp xử lý.

Đối với những vụ mà khi lập biên bản chưa
xác định được hành động vi phạm và mức độ vi phạm, thì cơ quan kiểm lâm nhân
dân phải tiến hành điều tra, xác minh cụ thể tại hiện trường, thu thập đầy đủ
chứng cứ, các tình tiết cần thiết để xác định một cách khách quan hành động vi
phạm, và lập biên bản xác minh bổ sung.

Yêu cầu cụ thể trong việc phát hiện, lập
biên bản, điều tra, xác minh là phải kịp thời, chính xác, đúng pháp luật và
không để lọt các hành động vi phạm. Việc lập biên bản phải bảo đảm những quy định
sau đây:

– Lập biên bản tại chỗ hoặc tại địa điểm gần
nhất nơi đã xảy ra vi phạm.

– Có mặt người vi phạm hoặc đại diện cơ
quan, đơn vị đã có vi phạm.

– Xác định hoặc sơ bộ xác định được hành động
vi phạm, tạm giữ các tang vật cần thiết.

2. Tạm giữ tang vật.

Khi phát hiện có hành động vi phạm hoặc có
dấu hiệu vi phạm và lập biên bản, thì phải đồng thời tiến hành tạm giữ các tang
vật cần thiết có liên quan đến hành động vi phạm. Khi tạm giữ, phải ghi rõ vào
biên bản kiểm tra ban đầu và trong một số trường hợp có thể lập biên bản tạm giữ
tang vật riêng.

Đối với tang vật tạm giữ, cán bộ, nhân viên
kiểm lâm nhân dân có thể chuyển tang vật về cơ quan kiểm lâm nhân dân, gửi tại
trụ sở địa phương hoặc có thể giao cho cán bộ, nhân dân ở địa phương canh giữ,
nhưng phải bảo đảm quản lý chặt chẽ, không được để mất mát, hư hỏng. Chú ý là
tránh giao cho chính đương sự tạm giữ, để đề phòng hiện tượng phân tán tang vật.
Tang vật do đơn vị kiểm lâm nhân dân nào tạm giữ, thì đơn vị đó có trách nhiệm
quản lý cho đến khi có quyết định xử lý.

Nếu tang vật có hướng là xử lý tịch thu và
thuộc loại hàng hóa mau hư hỏng, như thịt chim, thú rừng, măng tươi, v.v…, thì
cơ quan kiểm lâm nhân dân phải có biện pháp giải quyết kịp thời theo đúng chế độ
của Nhà nước, để tránh hư hỏng.

Trong quá trình điều tra, xác minh, nếu
hành động đã lập biên bản không phải là vi phạm, hoặc tuy có vi phạm nhưng
trong những thứ đã tạm giữ có một số không phải là tang vật, thì cơ quan kiểm
lâm nhân dân phải ra quyết định trả lại những thứ đã tạm giữ đó cho đương sự.

3. Xét hỏi người vi phạm và lấy lời khai
của nhân chứng.

Trong quá trình lập biên bản, điều tra vụ
vi phạm, cơ quan kiểm lâm nhân dân phải tiến hành xét hỏi người vi phạm về những
tình tiết của hành động vi phạm; nếu có những người làm chứng, những người hiểu
biết sự việc có liên quan đến vụ vi phạm, thì phải lấy lời khai của những người
này, ghi thành biên bản.

Trong trường hợp cơ quan kiểm lâm nhân dân
cần lấy bản viết lời tự khai của người vi phạm, hoặc người vi phạm yêu cầu được
làm bản tự khai để trình bày rõ sự việc và những kiến nghị của họ, thì cơ quan
kiểm lâm nhân dân có trách nhiệm hướng dẫn người đó làm bản tự khai, không được
có thái độ gò ép.

4. Thẩm tra vụ vi phạm.

Đối với một số vụ vi phạm mà việc điều tra,
xác minh tại chỗ, trực tiếp chưa đủ chứng cứ cho việc xét, xử lý, thì cơ quan
kiểm lâm nhân dân phải tiến hành thẩm tra những sự việc có liên quan đến vụ vi
phạm tại địa phương đó hoặc tại địa phương khác. Sau khi thẩm tra, phải lập
biên bản, có xác nhận của chính quyền địa phương nơi tiến hành thẩm tra.

Đối với vụ vi phạm mà xét thấy sự việc vi
phạm đó xảy ra ở địa phương khác là chính, hoặc là nhiều sự việc của vụ vi phạm
xảy ra tập trung ở địa phương khác, thì cơ quan kiểm lâm nhân dân có thể chuyển
hồ sơ vụ vi phạm sang cho cơ quan kiểm lâm nhân dân ở địa phương ấy xét, xử lý;
trong trường hợp này, đối với tang vật cồng kềnh di chuyển có khó khăn, thì có
thể tạm giữ lại và phải bảo quản chu đáo, chờ giải quyết theo quyết định xử lý.

5. Khám xét.

Tại điểm b, điều 8 nghị định số 101-CP, đã quy
định quyền hạn của kiểm lâm nhân dân về việc khám xét trong nhà ga, trên toa xe
lửa, trong nhà tư nhân và trong xí nghiệp, cơ quan, đơn vị. Nhưng việc vận dụng
các quyền hạn đó trong thực tế, cần tiến hành thận trọng, chỉ khám xét trong những
trường hợp thật cần thiết, không khám tràn lan, để bảo đảm việc khám xét có hiệu
quả chắc chắn, đúng pháp luật; chú ý phối hợp với viện kiểm sát nhân dân trong
những vụ khám xét có tính chất phức tạp.

Khi tiến hành khám xét, phải theo đúng các
quy định sau đây:

a) Cán bộ kiểm lâm nhân dân tiến hành khám
xét, phải theo đúng quyền hạn đã quy định tại điểm b, điều 8 nghị định số
101-CP.

b) Chỉ được tiến hành khám xét các tang vật
có liên quan trực tiếp đến vụ vi phạm luật lệ bảo vệ rừng. Trong khi tiến hành
khám xét, nếu phát hiện thấy hàng phạm pháp thuộc ngành khác quản lý, thì phải
lập biên bản và kịp thời báo cho cơ quan có liên quan xét, giải quyết.

c) Cán bộ kiểm lâm nhân dân tiến hành khám
xét, phải xuất trình giấy tờ, hoặc lệnh khám xét và báo cho thủ trưởng hoặc người
đại diện cơ quan, xí nghiệp, đơn vị, người chủ hộ hoặc người thay mặt chủ hộ biết
nội dung việc khám xét trước khi tiến hành khám xét.

d) Khi khám xét, phải có mặt người đại diện
cơ quan, xí nghiệp, đơn vị, người chủ hộ hoặc người thay mặt chủ hộ. Riêng đối
với việc khám xét nhà tư nhân, thì ngoài chủ hộ hoặc người thay mặt, phải có một
ủy viên Ủy ban nhân dân địa phương và một người láng giềng chứng kiến; nếu
không có một ủy viên Ủy ban nhân dân cùng đi, thì nhất thiết phải có người láng
giềng, sau đó báo cho chính quyền địa phương biết.

Đối với trường hợp khám xét cơ quan và đơn
vị quân đội, ngoài các quy định như đối với cơ quan, xí nghiệp trên đây, phải
có sự tham gia của đại diện cơ quan quân sự địa phương.

e) Phải bảo đảm không làm ảnh hưởng đến hoạt
động hợp pháp của cơ quan, xí nghiệp, đơn vị; bảo đảm quyền tự do dân chủ và
sinh hoạt hợp pháp của nhân dân.

g) Phải lập biên bản ngay sau khi hoàn
thành việc khám xét và tạm giữ tang vật nếu có.

Để việc khám xét đạt kết quả, phải tiến
hành khẩn trương, nhưng phải hết sức thận trọng, có điều tra, nắm chắc tình
hình, theo dõi sát hiện trường, để bảo đảm đã khám xét là trúng.

6. Xét và quyết định xử lý.

Căn cứ vào hồ sơ của vụ vi phạm, cơ quan kiểm
lâm nhân dân xét và ra quyết định xử lý hoặc báo cáo lên cơ quan kiểm lâm nhân
dân cấp trên xét và ra quyết định xử lý, theo đúng quyền hạn đã quy định.

Khi quyết định xử phạt, cơ quan kiểm lâm
nhân dân phải tuyên bố quyết định xử phạt cho người vi phạm rõ. Nếu ngay sau
khi tuyên bố quyết định xử phạt mà đương sự khiếu nại ngay tại chỗ, thì cơ quan
kiểm lâm nhân dân phải lập biên bản về việc khiếu nại và chuyển hồ sơ báo cáo Ủy
ban nhân dân cùng cấp xét, quyết định.

Ngoài việc giao bản quyết định xử lý cho
người vi phạm để thi hành, trong những trường hợp cần thiết, cơ quan kiểm lâm
nhân dân cần sao gửi quyết định xử lý đó cho chính quyền hoặc cơ quan, đơn vị
nơi người vi phạm cư trú hoặc công tác biết để giáo dục thêm.

Hàng tháng, cơ quan kiểm lâm nhân dân phải
tổng hợp tình hình xử lý để báo cáo Ủy ban nhân dân cùng cấp, cơ quan kiểm lâm
nhân dân cấp trên, và thông báo cho các cơ quan có liên quan biết nếu các cơ
quan này có yêu cầu.

7. Thi hành quyết định xử lý.

Cơ quan kiểm lâm nhân dân được giao thi
hành quyết định xử lý, phải căn cứ vào quyết định đó để tiến hành các việc: thu
tiền phạt, tiền nuôi rừng; tịch thu, trưng mua và giao nộp tang vât; thực hiện
các chế độ hiện hành về tiền thưởng và trả thù lao canh giữ lâm sản phạm pháp.

Cơ quan kiểm lâm nhân dân phải lưu trữ đầy
đủ hồ sơ của các vụ vi phạm đã xử lý xong.

Trong trường hợp đương sự không có khiếu nại
mà không chấp hành quyết định xử phạt, thì cơ quan kiểm lâm nhân dân chuyển hồ
sơ sang tòa án nhân dân; nếu là cố tình không chấp hành, thì chuyển hồ sơ báo
cáo Ủy ban nhân dân cùng cấp, để buộc người vi phạm phải thi hành quyết định xử
phạt đó. Chỉ những trường hợp không chấp hành nhưng mang dấu hiệu phạm tội, thì
mới chuyển hồ sơ sang viện kiểm sát nhân dân cùng cấp để đề nghị khởi tố về
hình sự.

III. GIẢI QUYẾT CÁC VỤ KHIẾU NẠI

Điều 21 của Pháp lệnh đã quy định: “Nếu
đương sự khiếu nại, thì Ủy ban hành chính cùng cấp xét và quyết định”.

Trong trường hợp người bị xử phạt hành
chính có khiếu nại đối với quyết định xử lý của cơ quan kiểm lâm nhân dân, thì
cơ quan kiểm lâm nhân dân có trách hiệm chuyển đầy đủ hồ sơ của vụ vi phạm vào
báo cáo với Ủy ban nhân dân cùng cấp để xét, quyết định, và sau đó có trách nhiệm
thi hành nghiêm chỉnh quyết định của Ủy ban nhân dân giải quyết việc khiếu nại.
Nếu cơ quan kiểm lâm nhân dân không nhất trí với quyết định của Ủy ban nhân
dân, thì phải báo cáo trình bày rõ ý kiến không nhất trí đó để Ủy ban nhân dân
xét thêm, đồng thời có thể báo cáo lên cơ quan kiểm lâm nhân dân cấp trên về sự
việc đó.

Đối với các hạt kiểm lâm nhân dân ở tỉnh,
thành phố nơi không thành lập chi cục, việc giải quyết khiếu nại do Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố xét và quyết định. Đối với các hạt kiểm lâm nhân dân và hạt
kiểm soát lâm sản trực thuộc Cục kiểm lâm nhân dân, việc giải quyết khiếu nại do
Cục kiểm lâm nhân dân xét và quyết định.

Từ nay, về căn cứ pháp lý việc xử phạt hành
chính đối với các vi phạm luật lệ bảo vệ rừng sẽ thống nhất thi hành theo các
điều quy định của Pháp lệnh và sự hướng dẫn của thông tư này; các quy định về xử
phạt hành chính đối với các hành động vi phạm luật lệ bảo vệ rừng trong các văn
bản đã ban hành trước đây, thì nay không áp dụng nữa. Việc vận dụng thông tư để
xử phạt cụ thể, sẽ áp dụng đối với những vi phạm hiện hành, những vi phạm đã được
lập biên bản, hồ sơ đang trong quá trình xét, xử lý, và trong việc xử lý cần vận
dụng các hình thức xử lý một cách đồng bộ giữa xử phạt hành chính (cảnh cáo hoặc
phạt tiền, thu hồi giấy phép, tịch thu tang vật) với việc bắt bồi thường thiệt
hại đã gây ra, để tích cực ngăn chặn các hành động phá hại rừng. Còn đối với những
vi phạm trước đây, sẽ có văn bản hướng dẫn xử lý riêng.

Đối với các vi phạm cần phải khởi tố về
hình sự, sẽ có văn bản hướng dẫn riêng.

Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố nơi có
rừng cần nắm vững tinh thần và nội dung thông tư này, có kế hoạch tổ chức thực
hiện tốt ở địa phương mình để bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Pháp lệnh bảo vệ rừng.
Cơ quan kiểm lâm nhân dân các cấp phải tranh thủ sự phối hợp chặt chẽ của các
cơ quan có liên quan như công an, kiểm sát, tòa án ở địa phương trong phát hiện,
điều tra, xử lý nhằm tích cực đấu tranh chống các hành động vi phạm luật lệ bảo
vệ rừng.

Cơ quan lâm nghiệp, kiểm lâm nhân dân các cấp
phải tổ chức cho toàn thể cán bộ, công nhân viên trong đơn vị nghiên cứu học tập
thông tư này; đồng thời tổ chức phổ biến, học tập sâu rộng trong nhân dân địa
phương, nhất là nhân dân ở trung du và miền núi.

Cơ quan kiểm lâm nhân dân các cấp, các cán
bộ, nhân viên kiểm lâm nhân dân phải thi hành việc xử phạt theo đúng pháp luật,
phải chí công vô tư và phải tôn trọng quyền tự do dân chủ của nhân dân. Cán bộ,
nhân viên kiểm lâm nhân dân nào không thi hành đẩy đủ nhiệm vụ của mình, hoặc
không tuân theo pháp luật, thì sẽ bị thi hành kỷ luật; nếu phạm tội, sẽ bị truy
tố trước pháp luật. Cán bộ, nhân viên kiểm lâm nhân dân nào thi hành tốt nhiệm
vụ sẽ được khen thưởng.

Ông Cục trưởng Cục kiểm lâm nhân dân có
trách nhiệm theo dõi, đôn đốc việc thi hành thông tư này và từng thời gian báo
cáo kết quả thực hiện lên Bộ.

 

K.T. BỘ TRƯỞNG BỘ
LÂM NGHIỆP
THỨ TRƯỞNG

TRẦN VĂN QUẾ

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
——-

CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
———-

Số:
56/CT-UB

Tp.
Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 10 năm 1977

 

CHỈ THỊ

VỀ
VIỆC XỬ TIẾT KIỆM ĐIỆN VÀ THANH TOÁN TIỀN ĐIỆN

Thực hiện chủ trương tiết kiệm
điện của Trung ương và chỉ thị
885/CT của Thành phố, thời gian vừa qua việc sử dụng điện trong nhân dân và cơ
quan, xí nghiệp đã có nhiều tiến bộ : điện ánh sáng sinh hoạt giảm 11,7% ; tỷ
trọng điện sinh hoạt, từ 60% trong tổng số điện thương phẩm, đã giảm xuống còn
44% đến 45%.

Các nhà máy, xí nghiệp đã chấp
hành chế độ nghỉ luân phiên hàng tuần và sản xuất vào ngày chủ nhựt 75% làm cho
công suất ngày chủ nhựt nâng lên 44% và gần bằng công xuất ngày thường. Một số
xí nghiệp lớn đã tránh sản xuất vào cao điểm tối.

90% cơ quan, xí nghiệp và đơn vị
quân đội đăng ký dùng điện và thanh toán kịp thời hàng tháng.

Tuy đã được những tiến bộ nói
trên, nhưng trước yêu cầu triệt để tiết kiệm điện và thanh toán sòng phẳng, kịp
thời tiền điện để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, đòi
hỏi chúng ta phải phấn đấu nhiều hơn nữa, nhưng việc sử dụng điện còn rất lãng
phí :

– Nhiều đơn vị quân đội, cơ
quan, xí nghiệp vẫn còn sử dụng máy lạnh (máy điều hoà nhiệt độ).

– Các cư xá còn sử dụng bếp
điện, có nơi dùng quá công suất gây cháy máy biến điện.

– Nhiều xí nghiệp còn sản xuất
trong ngày nghỉ qui định để nghỉ vào chủ nhựt.

– Nhiều đơn vị quân đội và các
công an phường, phường đội không chịu ký hợp đồng dùng điện, ngoặc thẳng vào
đường dây để dùng, không thanh toán tiền điện sòng phẳng, kịp thời, thiếu giúp
đỡ công nhân viên điện lực đi ghi chỉ số điện và thu tiền hàng tháng, v.v…

Để thực hiện nghiêm chỉnh chỉ
thị 252/TTg ngày 15-6-1977 của Thủ tướng Chính phủ, thông tư 26/ĐT của Bộ Điện
và than và tiếp tục thực hiện tốt chỉ thị 885/CT của Thành phố về tiết kiệm
điện, chống ăn cắp điện và thanh toán tiền điện sòng phẳng, kịp thời, Ủy ban
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh chỉ thị cho Ủy ban nhân dân các cấp, cho các thủ
trưởng các ngành, thủ trưởng các đơn vị quân đội, cơ quan, xí nghiệp nghiêm
chỉnh thực hiện các quy định sau đây :

1.- Kiểm tra nghiêm ngặt việc
dùng điện trong đơn vị, cơ quan, xí nghiệp và nhân dân, chống lãng phí điện,
cấm dùng máy lạnh, bếp điện cho sinh hoạt, mỗi đơn vị quân đội, cơ quan, văn
phòng xí nghiệp đều phải tiết kiệm 10% so với mức bình quân sử dụng 3 tháng
trước (tháng 6, 7, 8 năm 1977), nơi nào dùng quá quy định ngành điện sẽ cắt
điện để trừ phần sử dụng quá mức vào tháng sau.

2.- Nghiêm cấm các đơn vị quân
đội, công an hoặc cán bộ, nhân dân tự ý ngoặc điện của Nhà nước để dùng và
nghiêm cấm các trường hợp mua bán lại điện, mua chuộc hối lộ cán bộ, công nhân
ngành điện… nếu vi phạm sẽ bị xử phạt, ngừng cấp điện, phạt tiền từ 1 đến 3 lần
so với số điện dùng trong 1 năm hoặc truy tố trước toà án xử phạt theo luật
pháp hiện hành.

3.- Các xí nghiệp nào chưa nghỉ
phiên theo quy định (tránh nghỉ vào chủ nhựt) phải bố trí nghỉ đúng theo thông
báo của Sở Quản lý phân phối điện Thành phố. Nếu còn vi phạm sẽ bị phê bình,
cảnh cáo hoặc ngừng cấp điện để bù vào số điện đã sử dụng vi phạm.

4.- Các xí nghiệp 2 ca phải sản
xuất tránh giờ cao điểm tối từ 18 giờ đến 22 giờ, xí nghiệp 3 ca phải giảm công
suất có thể giảm trong giờ cao điểm tối. Nếu vi phạm sẽ xử phạt như điều 3 của
chỉ thị này.

5.- MỗI nhà máy, xí nghiệp phải
tự xây dựng định mức Kwh điện cho 1 sản phẩm của cơ sở mình và được Sở Quản lý
phân phối điện Thành phố thống nhất để làm cơ sở lập kế hoạch và phân phối điện
hằng năm sau khi được Ủy ban nhân dân Thành phố, Bộ chủ quản và Bộ Điện và than
duyệt.

6.- Sở Quản lý phân phối điện có
nhiệm vụ nắm lại các máy đi-ê-den của các đơn vị quân đội, cơ quan, xí nghiệp
để có kế hoạch huy động khi cần thiết.

7.- Đơn vị quân đội, cơ quan nào
chưa đăng ký hoặc chưa ký hợp đồng sử dụng điện phải ký hợp đồng sử dụng điện
ngay và thanh toán theo hình thức “nhờ thu không chờ chấp nhận”.

Nếu không ký hợp đồng hoặc không
thanh toán thì ngành điện sẽ ngưng cung cấp điện đến khi ký hợp đồng hoặc thanh
toán xong tiền điện.

8.- Các đơn vị quân đội, cơ
quan, xí nghiệp, cán bộ, công nhân viên Nhà nước cần giúp đỡ cán bộ, công nhân
viên ngành điện trong việc kiểm tra sử dụng điện, chống ăn cắp điện, biên chỉ
số tiêu thụ điện và thu tiền điện.

9.- Các ngành công an, viện kiểm
sát và toà án tham gia và giải quyết kịp thời các trường hợp vi phạm mà địa
phương hoặc ngành điện yêu cầu xử lý.

10.- Các ngành báo chí, phát
thanh, truyền hình cần thường xuyên vận động tuyên truyền tiết kiệm điện, sử
dụng và thanh toán tiền điện đúng quy định của Nhà nước.

Triệt để tiết kiệm điện, sử dụng
hợp lý nguồn năng lượng điện và thanh toán tiền điện đúng chế độ hợp đồng kinh
tế của Nhà nước là một yêu cầu rất cấp thiết để xây dựng và phát triển ngành
điện lực đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Vì vậy Ủy ban nhân
dân các cấp, các đơn vị quân đội, cơ quan, đoàn thể, xí nghiệp cần nhận thức
cho đúng và nghiêm chỉnh chấp hành.

Chỉ thị này thi hành kể từ ngày
1 tháng 11 năm 1977.

 

 

 

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH/THƯỜNG TRỰC

Lê Đình Nhơn

 

 

 

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH/THƯỜNG TRỰC

Lê Đình Nhơn

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
——-

CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
———

Số:
57/CT-UB

Tp.
Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 10 năm 1977

 

CHỈ THỊ

VỀ
VIỆC LẬP KẾ HOẠCH GIÁ THÀNH VÀ PHÍ LƯU THÔNG NĂM 1978

Ủy ban Nhân dân đã có C hỉ thị
số 25/CT-UB ngày 26 tháng 5 năm 1977 cho các nghành, các quận, huyện về việc
xây dựng kế hoạch kinh tế văn hóa năm 1978.

Để tăng cường một bước công tác
hạch toán kinh tế ở đơn vị sản xuất, đưa mọi hoạt động kinh tế đi dần vào nề
nếp, để các xí nghiệp quốc doanh và đơn vị kinh doanh Nhà nước có cơ sở phấn
đấu hạ chi phí sản xuất và phí lưu thông, nâng cao hiệu quả kinh tế, phát huy
đến mức cao mọi khả năng về lao động, thiết bị, tiền vốn, với mức hao phí như
nhau về lao động sống và lao động vật hóa mà giá trị thành phẩm thu được nhiều
hơn. Đi đôi với việc hoàn thành các chỉ tiêu số lượng còn yêu cầu các xí nghiệp
và đơn vị kinh doanh phải hết sức coi trọng và tập trung sức hoàn thành thật
tốt các chỉ tiêu chất lượng, đồng thời đảm bảo tính cân đối và sự đồng bộ của
kế hoạch từ sản xuất đến lưu thông phân phối tiêu dùng và tích lũy. Ủy ban Nhân
dân chỉ đạo các cấp, các ngành, các đơn vị sản xuất và kinh doanh của Thành phố
phải lập kế hoạch giá thành và phí lưu thông năm 1978.

Việc lập kế hoạch giá thành và
phí lưu thông năm 1978 được quy định như

1- Đối với xí nghiệp quốc đi đôi với kế hoạch sản xuất kỹ thuật tài chánh tất
cả các xí nghiệp đều phải lập kế hoạch giá thành bao gồm :

 + Giá thành toàn bộ sản
phẩm hàng hóa

 + Giá thành một số sản
phẩm chủ yếu

2- Công ty chuyên doanh thương
nghiệp (kể cả Ngoại thương), phải xây dựng được kế hoạch phí lưu thông, tỷ lệ
phí lưu thông so với doanh

Nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch hóa
giá thành và phí lưu thông là phát hiện và lợi dụng mọi khả năng tiết kiệm lao
động xã hội trong sản xuất, ngừng hạ xuống để tăng tích lũy cho nhà nước, tạo
điều kiện nâng cao đời sống nhân dân, và lưu thông, trên cơ sở đó mà bảo đảm
giá thành và phí lưu thông không.

Dựa vào chỉ thị này, Ủy ban Kế
hoạch Thành phố; Sở Tài chánh cùng với các ngành có liên quan, đề ra nội dung
và biện pháp cụ thể, hướng dẫn các xí nghiệp và đơn vị kinh doanh quốc doanh về
cách lập kế hoạch giá thành và phí lưu thông, quy định thời gian gởi để Ủy ban
kế hoạch kịp tổng hợp trình Ủy ban Nhân dân duyệt.

 

 

Nơi gửi :
-Các Sở, Ban, Ngành
– UBND các quận, huyện
– Tổng hợp (anh 6 Thành)
– Lưu
 

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH/THƯỜNG TRỰC
PHÓ CHỦ TỊCH

Lê Đình Nhơn

 

 

Nơi gửi :
-Các Sở, Ban, Ngành
– UBND các quận, huyện
– Tổng hợp (anh 6 Thành)
– Lưu
 

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH/THƯỜNG TRỰC
PHÓ CHỦ TỊCH

Lê Đình Nhơn

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
——

CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
——–

Số:
58/CT-UB

Tp.
Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 10 năm 1977

 

CHỈ THỊ

VỀ
VIỆC LẬP DANH MỤC THIẾT BỊ PHỤ TÙNG THAY THẾ NHẬP KHẨU 1978

Kính
gởi :

– Ông Giám đốc các Sở, các
Ngành
– Ông Giám đốc, Chủ nhiệm các công ty thuộc các Sở
– Ông Giám đốc Công ty vật tư tổng hợp và các ông Giám đốc c ác công ty vật
tư TP.

 

Trong hai năm 1976 và 1977, các
cơ sở sản xuất tại thành phố Hồ chí Minh đều có lập danh mục các loại thiết bị
phụ tùng thay thế xin nhập khẩu và các cơ quan tổng hợp của Thành phố cũng đã
báo cáo xin Trung ương cũng như đề nghị ngành dọc nhập cho thành phố, nhưng kết
quả đến nay hầu như không có loại nào về đến các cơ sở để xử dụng thay thế cho
các loại phụ tùng bị hao mòn, hư hỏng. Tình trạng này làm ảnh hưởng không ít
đến sản xuất, đến việc xử dụng đến mức tối đa và có hiệu quả các thiết bị, máy
móc và gây không ít khó khăn trong việc huy động năng lực sản xuất nhằm hoàn
thành chỉ tiêu kế hoạch đã được giao.

Để khắc phục tình trạng nêu trên
và giúp cho Thành phố có căn cứ kiến nghị với Trung ương xin cho Thành phố ta
được sử dụng kim ngạch nhập khẩu một số loại thiết bị, phụ tùng thay thế, ngoài
số thiết bị, phụ tùng thay thế mà các ngành dọc đã hứa nhập cho các cơ sở tại
Thành phố Hồ Chí Minh(chỉ tính riêng cho phần xí nghiệp, cơ sở sản xuất do
thành phố quản lý, không tính các cơ sở sản xuất, xí nghiệp do Trung ương quản
lý nằm tại Thành phố), trong năm 1978 và các năm sau của nhiệm vụ kế hoạch
1978-1980. Sau khi đã làm việc nhiều lần và có sự thống nhất với Ủy ban kế
hoạch nhà nước, Bộ Ngoại thương, vật tư về thể thức và cách làm danh mục các
loại thiết bị, phụ tùng thay thế nhập khẩu cho Thành phố năm 1978 và căn cứ vào
ý kiến cuộc họp giữa các Sở, Ngành và các cơ sở sản xuất do Ủy ban kế hoạch
Thành phố chủ trì ngày 7 tháng 10 năm 1977. Ủy ban nhân dân Thành phố yêu cầu
tất cả các Sở, các Ngành có yêu cầu nhập khẩu thiết bị, phụ tùng thay thế phục
vụ cho yêu cầu sản xuất 1978, hoàn thành ngay một số việc sau đây:

1/- Năm 1978 Nhà nước chưa thông
báo sẽ dành cho Thành phố ta được sử dụng kim ngạch nhập khẩu dành nhập thiết
bị và phụ tùng thay thế theo yêu cầu kế hoạch sản xuất 1978, vì chưa biết các
cơ sở sản xuất tại Thành phố có yêu cầu đến mức độ nào và yêu cầu nhập đó các
ngành quản lý dọc của Trung ương đã giải quyết được bao nhiêu.

Để Ủy ban nhân dân Thành phố có
căn cứ trình Trung ương xin được sử dụng một khoản kim ngạch sử dụng cho yêu
cầu nhập khẩu nêu trên, Ủy ban đề nghị các xí nghiệp và cơ sở sản xuất các
ngành, các sở sản xuất lập ngay danh mục hàng nhập khẩu dựa theo những nguyên
tắc nêu sau :

a) Đây chỉ là danh mục hàng nhập
khẩu những loại thiết bị, phụ tùng thay thế chuyên dùng, đặc biệt, không bao
gồm những loại vật tư nguyên nhiên vật liệu thông thường như xăng, dầu, mỡ, sắt
thép; các loại hóa chất thông dụng và cơ bản như các loại acid, soude…; các
loại thiết bị bổ sung trang bị mới có tính chất thiết bị toàn bộ.

b/ Danh mục hàng nhập khẩu 1978
của các cơ sở, các ngành sản xuất có sự quản lý của ngành dọc (quản lý của Tổng
công ty hoặc Bộ) đều cần có sự liên hệ, làm việc với các cơ quan đó và có sự
xác nhận của ngành dọc là những loại danh mục xin kim ngạch Trung ương nhập ở
Thành phố không nằm trong đơn hàng nhập khẩu của ngành dọc đã tổng hợp trong
đơn hàng của ngành, để tránh tình trạng tổng hợp 2 lần cùng 1 loại mặt hàng,
mặt khác thành phố cũng không có quyền xin nhập những thứ gì do các ngành quản
lý và lo việc nhập khẩu

Thí dụ: Đơn đặt hàng của công ty
dệt Hồng Gấm thuộc Sở Công nghiệp trước tiên cần có ý kiến của tổng công ty dệt
hoặc Công ty vật tư Bộ công nghiệp nhẹ xác nhận mấy trăm danh mục, đã có những
loại danh mục nào do ngành nhập, số danh mục khác còn lại vì lý do nào đó, hoặc
do số lượng ít quá, hoặc do loại mặt hàng chỉ do địa phương sản xuất không có
tính chất của cả nước không nằm trong danh mục quản lý của ngành dọc, hoặc do
nhiệm vụ mở rộng sản xuất cần bổ sung một vài loại thiết bị lẻ mà ngành dọc
không đảm trách nhập thì các ngành, sở đề nghị các cơ quan hữu quan đó xác nhận
và lập lại thành một bản danh mục để Ủy ban kế hoạch thành phố tổng hợp xin kim
ngạch nhập chung cho Thành phố.

2/- Để có được ý kiến của ngành
dọc và sự xác nhận cần thiết nhằm tránh xin nhập có thứ 2 lần, có thứ lại không
có ai lo nhập, đề nghị các Ban Giám đốc Sở chịu trách nhiệm tổng hợp danh mục
hàng xin nhập khẩu của đơn vị mình, cử các đồng chí có trách nhiệm của Sở làm
việc trực tiếp với ngành hữu quan một cách cụ thể và có trách nhiệm với từng
danh mục, có sự thống nhất loại mặt hàng nào đó do ngành dọc quản lý và lo
nhập, loại nào đó địa phương xin Trung ương nhập (tự lo lấy), mức các cơ quan
quản lý ngành dọc, làm việc với ý thức và tinh thần trách nhiệm cao với nhiệm
vụ sản xuất theo chỉ tiêu kế hoạch để sau này tránh việc đổ lỗi cho nhau khi
nhiệm vụ sản xuất không hoàn thành do thiếu phụ tùng thay thế.

3/- Sau khi có ý kiến và xác
nhận của các cơ quan hữu quan ngành dọc, đề nghị các Sở, các ngành tập hợp lại
những danh mục mà ngành dọc không quản lý được hoặc vì lý do nào đó không chịu
trách nhiệm nhập thành bản danh mục hàng nhập khẩu của đơn vị mình gởi đến Ủy
ban kế hoạch thành phố 3 bản (Phòng thương nghiệp). Ủy ban kế hoạch Thành phố
có trách nhiệm căn cứ vào nhiệm vụ sản xuất của năm 1978, tổng hợp, cân đối lập
thành danh mục hàng xin nhập khẩu 1978 của thành phố trình Ủy ban nhân dân xét
duyệt trước khi báo cáo cho Thủ tướng Chính phủ và các Bộ ngành hữu quan ở
Trung ương.

Chú ý:Yêu cầu các ngành khi gởi
phần danh mục hàng của ngành mình xin Thành phố nhập khẩu cho 1978, gởi kèm
theo cả ý kiến và bản xác nhận của ngành dọc về danh mục hàng nhập khẩu để Ủy
ban kế hoạch Thành phố trình Ủy ban kế hoạch nhà nước, Bộ Ngoại thương nhằm
tránh việc trùng lắp trong việc nhập khẩu.

4/- Danh mục hàng nhập khẩu 1978
gởi về Ủy ban kế hoạch Thành phố đề nghị làm đúng như biểu mẫu đã phổ biến
trong cuộc họp ngày 7/10/1977 cho các ngành, sở.

Thời gian gởi về Ủy ban kế hoạch
chậm nhất hết ngày 31/10/77 để kịp tổng hợp trình Trung ương.

Việc lập danh mục hàng nhập khẩu
hàng năm là một công tác khó khăn, khá phức tạp, vất vả lại đòi hỏi có sự chính
xác kịp thời, đặt biệt năm 1978, năm mà Thành phố ta phải vươn lên, mạnh dạn
cải tiến cách lập danh mục hàng nhập khẩu theo kiểu cách củ, nên chắc chắn các
Sở, các ngành sẽ lại gặp không ít khó khăn, mất nhiều thì giờ, nhưng không có
cách nào khác là chúng ta phải chịu khó khắc phục những điều ấy để cố gắng
trong năm 1978 này Thành phố ta có căn cứ xin kim ngạch nhập của Trung ương.

Vì tính chất cần thiết và yêu
cầu khẩn trương chính xác của công ty nhập khẩu và cũng vì lợi ích thiết thực
của các ngành sản xuất tại Thành phố, Ủy ban nhân dân yêu cầu các đồng chí Giám
đốc các Sở, các đồng chí đứng đầu các ngành trong Thành phố cố gắng thực hiện
đúng những điểm nêu trong bản chỉ thị này và gởi bản tổng hợp đúng thời gian về
Ủy ban kế hoạch Thành phố.

 

 

Nơi gửi :
– Như trên
– TVTU để biết

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH/THƯỜNG TRỰC

Lê Đình Nhơn

 

 

Nơi gửi :
– Như trên
– TVTU để biết

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH/THƯỜNG TRỰC

Lê Đình Nhơn

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
——-

CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
———

Số:
59/CT-UB

Tp.
Hồ Chí Minh, ngày 24 tháng 10 năm 1977

 

CHỈ THỊ

VỀ
VIỆC TỔ CHỨC BỘ PHẬN CÔNG TÁC PHÁP CHẾ CỦA CÁC BAN, NGÀNH, SỞ VÀ ỦY BAN NHÂN
DÂN CÁC QUẬN, HUYỆN

Tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa là mối quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta từ trước tới nay.

Các nghị quyết của Ban Chấp hành
trung ương Đảng, và gần đây Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ IV và tiếp theo
đó Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ Thành phố, đã nói nhiều về vấn đề này, đã
nhấn mạnh đến sự cần thiết phải phát huy chức năng và tác dụng của pháp chế xã
hội chủ nghĩa để tăng cường quyền lực của chuyên chính vô sản, phát huy hiệu
lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động,
bảo đảm khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế.

Nhằm mục đích đó, Chính phủ đã
đặt ra nhiều pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật.

Tuy nhiên, nhìn chung, và ngay
trong thành phố, pháp chế chưa phải đã gắn chặt với toàn bộ việc quản lý của
Nhà nước. Trong các lĩnh vực hoạt động, những quy định cụ thể còn thiếu nhiều.
Về mặt thi hành luật pháp còn tình trạng tùy tiện, vi phạm, tác hại nghiêm
trọng đến quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động và đến lợi ích của Nhà
nước.

Do đó, việc xây dựng thêm những
pháp quy trong các lĩnh vực quản lý và nhất là việc bảo đảm cho những pháp quy
đó được thi hành nghiêm chỉnh, phải được xúc tiến một cách mạnh mẽ và khẩn
trương.

Để làm việc này, theo tinh thần
của nghị định số 190/CP ngày 9-10-1972 của Hội đồng Chính phủ, Ủy ban nhân dân
Thành phố đã thành lập Ban Pháp chế, để giúp Ủy ban quản lý thống nhất việc xây
dựng và ban hành văn bản pháp quy trong thành phố, quản lý việc thi hành thống
nhất luật pháp và thực hiện những công tác pháp chế cần thiết khác.

Tuy nhiên muốn phát huy được đầy
đủ tác dụng tích cực của pháp chế xã hội chủ nghĩa, làm cho pháp chế trở thành
công cụ có hiệu lực trong toàn bộ việc quản lý Nhà nước và trong việc quản lý
nền kinh tế quốc dân, cần phải có cán bộ pháp chế ở các sở, ngành và các quận,
huyện, phường, xã cũng như ở xí nghiệp để giúp giám đốc sở, ngành, ủy ban nhân
dân địa phương thực hiện các mặt công tác pháp chế, theo yêu cầu của Đảng,
Chính phủ và tình hình thành phố.

Trên tinh thần đó, căn cứ và
nghị định 190-CP nói trên và nghị quyết của kỳ họp thứ hai của Hội đồng nhân
dân Thành phố (khoá I), Ủy ban nhân dân Thành phố đề nghị các sở, ban, ngành và
các Ủy ban nhân dân quận, huyện tổ chức bộ phận công tác pháp chế ở ngành và
địa phương mình theo hướng sau đây :

I.- VỀ TỔ CHỨC PHÁP CHẾ

1- Ở các quận, huyện và các sở,
ban, ngành thành phố, thành lập tổ pháp chế có từ 1 đến 3 cán bộ chuyên trách.

Trước mắt nếu chưa đủ cán bộ thì
bố trí một cán bộ có năng lực đảm nhận và sẽ bổ sung dần.

Nơi nào đã thành lập phòng pháp
chế thì tổ chức lại theo tinh thần của chị thị này.

2- Ở cơ sở (phường, xã, xí
nghiệp), trước mắt bố trí cán bộ kiêm nhiệm công tác pháp chế để giúp phó chủ
tịch Ủy ban nhân dân phường, xã phụ trách Ban tư pháp phường, xã hoặc đồng chí
phó giám đốc xí nhgiệp được phân công phụ trách công tác này.

3- Tổ pháp chế của sở, ngành,
quận, huyện là đơn vị trực thuộc ban giám đốc sở hoặc Ủy ban nhân dân Quận,
huyện, chịu sự chỉ đạo của giám đốc hoặc Ủy ban nhân dân và sự hướng dẫn về
nghiệp vụ của Ban pháp chế Thành phố.

II.- CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA
TỔ PHÁP CHẾ Ở CÁC SỞ, NGÀNH, QUẬN, HUYỆN

Đối với các sở, ngành

1- Nắm các luật lệ, quy định… về
hoạt động của ngành, nghiên cứu, đề đạt với giám đốc, phân công nghiên cứu kế
hoạch và biện pháp thi hành các văn bản mới đến.

2- Tham gia với các bộ phận
chuyên môn dự thảo các loại văn bản pháp quy có tính chất chung thuộc trách
nhiệm của sở, ngành xây dựng để thực hiện luật pháp Nhà nước và quyết định, chỉ
thị của cấp trên, để giám đốc ban hành hoặc trình Ủy ban nhân dân Thành phố ban
hành.

3- Đặt kế hoạch và tổ chức thực
hiện việc tập hợp các văn bản pháp quy liên quan đến ngành mình và trong phạm
vi cơ quan mình để báo cáo cho lãnh đạo nắm.

4- Nắm tình hình thi hành pháp
chế trong ngành mình và kiến nghị với giám đốc những sửa đổi hoặc bổ sung cần
thiết.

5- Đặt kế hoạch phổ biến và giải
thích trong cơ quan và ngoài nhân dân luật pháp hiện hành liên quan đến ngành
mình.

6- Hướng dẫn cán bộ pháp chế ở
các đơn vị cơ sở thực hiện công tác pháp chế.

7- Đề xuất ý kiến với giám đốc
về các vấn đề có liên quan tới pháp chế trong hoạt động của ngành mình.

Đối với các quận, huyện

1- Nắm các luật lệ và những quy
định, chỉ thị cấp trên phải thi hành ở địa phương và nghiên cứu đề đạt với Ủy
ban nhân dân quận, huyện sự phân công, nghiên cứu kế hoạch, biện pháp thi hành
ở địa phương.

2- Tham gia với phòng chuyên môn
dự thảo các văn bản pháp quy của Ủy ban nhân dân quận, huyện để thực hiện luật
pháp Nhà nước và quyết định, chỉ thị… của cấp trên.

3- Đặt kế hoạch phổ biến và giải
thích luật pháp hiện hành ở quận, huyện.

4- Hướng dẫn và theo dõi việc
thi hành luật pháp và pháp quy áp dụng ở quận, huyện mình.

5- Nắm tình hình thi hành pháp
chế trong địa phương mình, kiến nghị với Ủy ban nhân dân quận, huyện những sửa
đổi hoặc bổ sung cần thiết cho sát với tình hình cụ thể của địa phương.

6- Đặt kế hoạch và tổ chức thực
hiện việc tập hợp các văn bản có tính chất pháp quy của Ủy ban nhân dân quận,
huyện trong phạm vi địa phương mình.

III. TIÊU CHUẨN CÁN BỘ PHÁP
CHẾ

Cán bộ làm công tác pháp chế
phải nắm đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ, đồng thời am hiểu về luật
pháp ; Cần chọn trong số cán bộ có tư cách đạo đức tốt, có trình độ chính trị
và văn hoá khác (tốt nghiệp cấp 2 phổ thông), có kinh nghiệm về công tác quản
lý Nhà nước, quản lý kinh tế và công tác đoàn thể. Nếu chưa biết về pháp lý sẽ
được bồi dưỡng, đào tạo về pháp chế khi được giao làm công tác pháp chế.

******

Vì yêu cầu của tình hình hiện
nay, các Ủy ban nhân dân quận, huyện, các đồng chí giám đốc sở, ngành cần khẩn
trương tiến hành xây dựng tổ chức pháp chế theo hướng quy định trên đây và báo
cáo danh sách về Ủy ban nhân dân Thành phố và Ban Pháp chế Thành phố.

Ban Pháp chế Thành phố có trách
nhiệm theo dõi và có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công
tác pháp chế.

 

 

 

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH/THƯỜNG TRỰC

Lê Đình Nhơn

 

 

 

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH/THƯỜNG TRỰC

Lê Đình Nhơn

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ
*******

CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
*******

Số:
285-CP


Nội, ngày 24 tháng 10 năm 1977

 

QUYẾT ĐỊNH

VỀ
VIỆC BỔ SUNG NHIỆM VỤ VÀ THÀNH VIÊN CỦA BAN ĐIỀU HÒA KẾ HOẠCH VÀ VẬT TƯ

HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ

Căn cứ vào Luật Tổ chức Hội đồng
Chính phủ ngày 14-7-1960;

Căn cứ vào quyết định số 89-CP ngày 4-4-1977 của Hội đồng Chính phủ về việc
thành lập Ban điều hòa kế hoạch và vật tư của Chính phủ;

Xét nhu cầu công tác,

QUYẾT ĐỊNH

1. Bổ sung vào nhiệm vụ của Ban
điều hòa kế hoạch và vật tư của Chính phủ: giúp Chính phủ chỉ đạo triển khai
việc thực hiện Điều lệ xí nghiệp công nghiệp quốc doanh (ban hành kèm theo Nghị
định của Hội đồng Chính phủ số 93-CP ngày 8-4-1977).

2. Cử đồng chí Đoàn Trọng Truyến,
Phó Viện trưởng viện nghiên cứu quản lý kinh tế của trung ương Đảng và Chính
phủ tham gia Ban điều hòa kế hoạch và vật tư của Chính phủ.

3. Ban điều hòa kế hoạch và vật tư,
Viện nghiên cứu quản lý kinh tế và đồng chí Đoàn Trọng Truyến có trách nhiệm
thi hành quyết định này.

 

 

TM.
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
KT. THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
 
 
 
 
Lê Thanh Nghị

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
——–

CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
—————

Số:
60/CT-UB

 Tp.
Hồ Chí Minh, ngày 24 tháng 10 năm 1977

 

CHỈ THỊ

VỀ
VIỆC HỆ THỐNG HÓA PHÁP LUẬT CỦA CÁC NGÀNH CÔNG NGHIỆP, THƯƠNG NGHIỆP, QUẢN LÝ
NHÀ ĐẤT, CÔNG AN, LƯƠNG THỰC, GIAO THÔNG VẬN TẢI VÀ THUẾ

Để bảo đảm việc quản lý các lĩnh
vực hoạt động của Nhà nước, về mặt pháp chế, chúng ta đã có nhiều luật lệ,
chánh sách. Tuy chưa phải đầy đủ, nhưng về cơ bản đã có những quy định cần
thiết.

Tuy nhiên, thời gian qua, đối
với những quy định hiện có, việc thi hành chưa được sát đúng, từng nơi từng lúc
còn có thiếu sót, có những trường hợp vi phạm tác hại nghiêm trọng đến quyền
làm chủ tập thể của nhân dân lao động và lợi ích của Nhà nước.

Một trong những nguyên nhân của
tình trạng đó là việc một số cán bộ, nhân viên chưa biết luật lệ của ngành
mình, chưa nắm vững hoặc chưa hiểu đúng nội dung các văn bản. Mặt khác, về phía
nhân dân, nhiều người cũng chưa biết, chưa quen với luật lệ mới, nên có trường
hợp chưa tuân thủ đầy đủ và không có điều kiện để giám sát việc thi hành của cơ
quan Nhà nước.

Để có cơ sở góp phần tích cực
chấn chỉnh lại tình hình, từng bước đưa công tác quản lý Nhà nước, quản lý sản
xuất và đời sống của nhân dân đi vào nề nếp, phát huy quyền làm chủ tập thể của
nhân dân lao động đúng với tinh thần nghị quyết của Đại hội đại biểu lần thứ
nhất của Đảng bộ Thành phố và 3 nghị quyết của kỳ họp thứ hai của Hội đồng nhân
dân Thành phố.

Ủy ban nhân dân Thành phố chủ
trương tiến hành việc hệ thống hóa luật lệ ở các sở, ban, ngành và ủy ban nhân
dân các cấp, trước hết, ở các ngành trọng điểm sau đây, thường xuyên có quan hệ
với nhân dân và phải vận dụng nhiều luật lệ để thừa hành nhiệm vụ mình :

1. Sở Công an,

2. Sở Thương nghiệp,

3. Sở Lương thực,

4. Sở Giao thông vận tải,

5. Sở Quản lý nhà đất và công
trình công cộng,

6. Sở Thuế,

7. Sở Công nghiệp.

Nội dung luật lệ cần hệ thống
hóa gồm những văn bản pháp quy của Trung ương, của Ủy ban nhân dân Thành phố và
những quy định, thể lệ đã ban hành của ngành về hoạt động của ngành.

Yêu cầu là :

– Để cho cán bộ nhân viên trong
ngành nắm được hệ thống luật lệ mà ngành phải thi hành, đưa hoạt động của cơ
quan Nhà nước đi vào khuôn phép.

– Phát hiện những điểm không phù
hợp và có những đề nghị sửa đổi bổ sung cần thiết.

– Công bố cho nhân dân biết.

Mỗi ngành cần tiến hành các bước
như sau :

1. Làm cho cán bộ nhân viên làm
việc nầy thông suốt ý nghĩa của công tác hệ thống hóa.

2. Tổ chức xúc tiến việc hệ
thống hóa các pháp luật hiện hành của ngành, theo từng loại quan hệ, từng vấn
đề, và từng mặt hoạt động chủ yếu.

3. Tập hợp, sắp xếp có trật tự
và có hệ thống các loại văn bản pháp quy hiện hành.

4. Soát xét để phát hiện và đề nghị
cấp có thẩm quyền có những sửa đổi, bổ sung cần thiết nếu có những quy định
không phù hợp với tình hình, nhiệm vụ của địa phương, hoặc hướng dẫn thi hành
những quy phạm chưa được rõ ràng.

5. Phổ biến cho cán bộ và công
bố cho nhân dân biết để thi hành.

Đây là một công tác quan trọng,
khẩn trương nhằm góp phần vào việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phát
huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, cần phải được thực hiện càng
sớm càng tốt. Đề nghị các đồng chí giám đốc các ngành nêu trên chú ý vấn đề này
và có kế hoạch tiến hành trong các tháng tới.

Ban Pháp chế Thành phố có trách
nhiệm :

– Phối hợp với các ngành liên
quan trong công tác hệ thống hóa này và hướng dẫn phương pháp cần thiết cho cán
bộ pháp chế của các ngành trên.

– Theo dõi và báo cáo với thường
trực Ủy ban nhân dân Thành phố về tình hình thực hiện kế hoạch của các ngành
nói trên.

– Đồng thời, nghiên cứu để trình
với Ủy ban nhân dân Thành phố đề án kế hoạch chung về việc hệ thống hóa pháp
luật hiện hành của tất cả các ngành trong thành phố.

 

 

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH/THƯỜNG TRỰC

Lê Đình Nhơn

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

ỦY BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

——-

CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
———-

Số:
61/CT-UB

Tp.
Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 10 năm 1977

 

CHỈ THỊ

VỀ
VIỆC THỰC HIỆN NGHỊ ĐỊNH 186-CP CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ VỀ KÝ KẾT HỢP ĐỒNG SẢN
XUẤT VÀ GIA CÔNG CHẾ BIẾN VỚI CHỦ TƯ NHÂN

Để chấp hành nghiêm chỉnh Nghị
định 186-CP ngày 25-9-1976 của Hội đồng Chính phủ ban hành bản quy định tạm
thời về trách nhiệm và quyền lợi của người làm công và chủ tư nhân Việt Nam
trong các cơ sở sản xuấkt công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam.

Căn cứ thông tư của Bộ Lao động
số 05/LĐ-TT ngày 12-3-1977 hướng dẫn thực hiện Nghị định 186-CP và thông tư
09/LĐ-TT ngày 14-4-1977 hướng dẫn thi hành Luật Công đoàn trong các xí
nghiệp tư bản tư doanh ;

Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh chỉ thị cho các ngành và các quận, huyện thuộc Thành phố như sau :

1/. Cần phải nắm vững mục đích
yêu cầu của nghị định 186-CP, có kế hoạch và biện pháp cụ thể chỉ đạo chặt chẽ
từng bước công tác và cần có chỉ đạo điểm.

2/. Khi ký kết hợp đồng sản xuất
và gia công chế biến với chủ tư nhân Việt Nam, nhất thiết phải có công đoàn xí
nghiệp tham gia nhằm thực hiện quyền giám sát của công đoàn và của người làm
công.

3/. Các đồng chí Chủ tịch Ủy ban
nhân dân quận, huyện và các cấp có trách nhiệm thi hành tốt chỉ thị này.

4/. Các đồng chí giám đốc Sở Tài
chính, Thuế, Ngân hàng, Ủy ban Kế hoạch Thành phố và Sở Lao động cần phối hợp
chặt chẽ với Liên hiệp công đoàn Thành phố, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành
phố, Ban Công thương và Ban Cải tạo của Thành phố để hướng dẫn đôn đốc kiểm tra
việc thực hiện.

Sở Lao động Thành phố có trách
nhiệm tổng hợp tình hình và báo cáo lên Ủy ban nhân dân Thành phố để giải quyết
được kịp thời những mắc mứu khó khăn trong quá trình thực hiện nghị định của
Hội đồng Chính phủ.

 

 

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH/THƯỜNG TRỰC

Lê Đình Nhơn

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
——-

CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
———

Số:
16/UB

Tp.
Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 10 năm 1977

 

THÔNG TRI

HƯỚNG
DẪN VIỆC VẬN ĐỘNG TỔ CHỨC PHONG TRÀO SẢN XUẤT CHO XUẤT KHẨU QUY MÔ LỚN

Trong tháng 10 ở thành phố ta,
các quận, huyện và các ngành sản xuất công nghiệp – thủ công nghiệp – nông
nghiệp đã phấn đấu giao nộp cho xuất khẩu một khối lượng hàng đáng kể : đạt
83,5% kim ngạch và 86,2% chỉ tiêu sử dụng lao động cả năm. Tuy nhiên so với yêu
cầu và tiềm năng của thành phố thì kết quả còn thấp.

Để phát huy tinh thần cách mạng
tiến công và nỗ lực xây dựng thành phố, tinh thần phụ trách đầy đủ trước nhân
dân lao động của thành phố và chỉ thị của đồng chí Bí thư Thành ủy, Thường vụ
Ủy ban nhân dân thành phố xin hướng dẫn cụ thể sau đây :

I.- VẬN ĐỘNG TỔ CHỨC NGUỒN
HÀNG Ở KHU VỰC SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP

Về mặt tạo ra nguồn nông sản
xuất khẩu, Sở Nông ngihệp và Sở Ngoại thuơng có trách nhiệm xây dựng và trình
với Ủy ban nhân dân Thành phố những phương án vận động tổ chức sản xuất, thu
mua và chế biến cho xuất khẩu thật cụ thể, thiết thực, có tính toán hiệu quả
kinh tế. Các huyện ngoại thành, căn cứ vào tình hình địa phương, xây dựng kế
hoạch xuất khẩu một cách tích cực và vững chắc theo hướng xây dựng cơ sở sản
xuất và chế biến, kể cả gây trồng chủ động, tạo nguồn nguyên liệu tại chỗ về
lâu dài như may, trúc, cói, v.v.. Chậm nhất là cuối tháng 11/77 phải trình được
phương án về :

1- Cây cói lác.

2- Cây trúc và mây vườn.

3- Các loại quả : dứa, chuối, đu
đủ, xoài, mãng cầu xiêm, với chỉ tiêu phấn đấu tích cực nhất.

4- Các loại nông sản khác : mè
đen, đậu đen, ớt, gừng, dưa hấu, đậu đũa, đậu cô ve….

Trong các phương án đó, cần nói
rõ số diện tích cho từng loại, khả năng giống, lao động cá thể và tập thể, vốn
đầu tư, hiệu quả kinh tế, giá thu mua…

* Về chăn nuôi cho xuất khẩu,
cần có các phương án sản phẩm sau đây :

– Vịt, gà (và trứng vịt, gà),
ngỗng,

– Heo thịt, heo sữa,

– Một số loại thủy sản nước ngọt
và nước lợ.

Trong phưong án này gồm có hai
phần : phần phát triển theo chỉ tiêu kế hoạch vừa cung cấp cho thành phố, vừa
dành phần cho xuất khẩu ; phần khác do cơ sở quốc doanh vay vốn phát triển chăn
nuôi ngoài kế hoạch. Có thể vay ngoại tệ nhập thức ăn gia súc, thuốc men, xong
bán sản phẩm trả lại vốn và lãi cho Nhà nước.

II.-VẬN ĐỘNG TỔ CHỨC NGUỒN
HÀNG Ở KHU VỰC SẢN XUẤT TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP

Trong hội nghị ngoại thương vừa
qua, đã có sự đánh giá cao về vị trí quan trọng của khu vực sản xuất này đối
với kinh tế địa phương nói chung và với kinh tế xuất khẩu nói riêng. Để tạo
điều kiện thuận lợi cho khu vực này hoạt động, cần giải quyết mấy vấn đề sau
đây :

1/ Trước hết là vấn đề tổ chức
hậu cần thật chủ động để bảo đảm sản xuất được liên tục, người sản xuất được
yên tâm theo hướng như sau :

– Hợp tác chặt chẽ và bình đẳng
với các tỉnh để được cung cấp liên tục với giá cả ổn định một số vật tư mà
Thành phố chưa có đủ như lá buông, mây, tre, trúc, mua, cói, lác, bàng, vỏ trái
bắp, sơ dừa, bẹ dừa nước… Ủy ban Kế hoạch Thành phố cùng với Sở Ngoại thương
có trách nhiệm xây dựng kế hoạch và biện pháp ký kết hợp đồng kinh tế với các
tỉnh, mua vật tư hoặc hợp tác khai thác vật tư.

– Ủy ban Kế hoạch Thành phố cùng
với các quận, huyện và Sở Ngoại thương tập hợp chính xác các nhu cầu vật tư cần
đề nghị với Ủy ban Kế hoạch Nhà nước phân bổ.

– Các quận, huyện, Sở Ngoại
thương và Công ty Vật tư tổng hợp phải làm việc với Ngân hàng Thành phố, Ban
Cải tạo của Thành phố để có chính sách huy động được nhiều nhất số vật tư còn
nằm trong tay nhân dân để làm hàng xuất khẩu lấy ngoại tệ cho Nhà nước.

– Sở Ngoại thương phải làm việc
với Bộ Ngoại thương và các Tổng Công ty ngoại thương về kế hoạch cung cấp vật
tư đều đặn đối với những mặt hàng gia công với nước ngoài như thảm len, thêu mỹ
thuật…

Với tinh thần nỗ lực cao, nhưng
phải thực tế, khả năng tới đâu tổ chức tới đó, không hứa hẹn suông, vận động ồ
ạt đến khi có khó khăn lại lẫn tránh, hoặc tạo ra nhiều thủ tục phiền hà, nhiều
khâu trung gian ăn lãi.

2/ Hướng chung là phải đưa dần
những người sản xuất cá thể đi lên con đường sản xuất tập thể dưới nhiều hình
thức từ thấp đến cao. Nhưng phải nghiên cứu kỹ năng lực sản xuất của từng lại
lao động để có tổ chức thích hợp.

Các thủ tục đăng ký hành nghề
làm hàng xuất khẩu, xét duyệt tư cách các tổ hợp mở tài khoản Ngân hàng, không
được máy móc, có quá nhiều ràng buộc và giới hạn hành chính, địa dư… làm cho
việc tập hợp và huy động lực lượng cho sản xuất bị trở ngại không cần thiết.
Cần chủ ý lời dặn của đồng chí Bí thư Thành ủy về quyền làm chủ cơ bản của quần
chúng là “quyền được lao động, quyền được có thu nhập chính đáng khi lao động
và quyền được phân phối công bằng sản phẩm xã hội, phúc lợi xã hội của tất cả
những người lao động, kể các những người chưa được phục hồi quyền công dân”.

3/ Trên tinh thần đó, các quận,
huyện và các ngành có liên quan như lương thực, nội thương, ngoại thương, thuế,
ngân hàng, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, Ủy ban Vật giá cần đặc biệt
quan tâm đến lực lượng sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở các quận, huyện, phường,
xã sao cho đời sống của họ được ổn định., thu nhập của họ không bị cắt xén vô
lý bất kỳ dưới hình thức nào (kể các sự cắt xén của cai đầu dài). Việc dành
kinh phí dạy nghề cho họ cũng cần được chú ý.

Từng ngành có liên quan đến vấn
đề trên phải đề xuất với Ủy ban nhân dân Thành phố các chính sách và chế độ
nhằm thúc đẩy sản xuầt tiểu thủ công nghiệp phát triển.

4/ Xây dựng được chế độ hợp đồng
kinh tế chặt chẽ, bình đẳng giữa các bên ký hợp đồng. Các đơn vị nhận gia công
đặt hàng của Nhà nước phải thực hiện các điều khoản của hợp đồng đã được ký kết
một cách bình đẳng với khu vực tập thể và cá thể và, trong bất kỳ tình huống
nào, cũng không được tự ý xóa bỏ sửa đổi hợp đồng mà không có sự bàn bạc thương
lượng trước. Ngay khi giửa các đơn vị kinh tế của Nhà nước với nhau, đặc biệt
là giữa cấp I và cấp II có khó khăn trong việc duy trì các điều khoản của hợp
đồng kinh tế, cũng không được vì thế mà trút hết khó khăn cho các đơn vị sản
xuất ở khu vực tập thể và cá thể.

III.- TỔ CHỨC HÀNG XUẤT KHẨU
Ở KHU VỰC CÔNG NGHIỆP

Đối với những chỉ tiêu kế hoạch
lớn, đã được ghi vào kế hoạch Nhà nước, Sở Công nghiệp phải bàn bạc với Ủy ban
Kế hoạch Thành phố và Sở Ngoại thương về các điều kiện vươn lên đảm trách toàn
bộ hoặc phần lớn chỉ tiêu đó. Chậm nhất là đến cuối tháng 11/77 cần trình lên
Ủy ban nhân dân Thành phố rõ kết luận của Sở Công nghiệp đối với 3 chỉ tiêu lớn
sau đây :

 – May mặc : 5 triệu sản
phẩm

 – Dệt kim : 10 triệu sản
phẩm

 – Lông vịt : 1.000 tấn

Đối với những chỉ tiêu khác như
áo sợi Acrylic, hàng da cao su, hàng bách hóa,… thì cần xác định rõ tỷ lệ do
xí nghiệp quốc doanh của Sở Công nghiệp đảm trách và phần do Sở Ngoại thương
gia công với các quận, huyện.

Trách nhiệm cân đối vật tư cho
khu vực sản xuất công nghiệp là Ủy ban Kế hoạch Thành phố qua sự phân bổ của
các Bộ chủ quản và sự cung ứng của các đơn vị ngành dọc tại Thành phố, Ủy ban
nhân dân Thành phố yêu cầu các đợn vị ngành dọc ở Thành phố như Công ty Vật tư
tổng hợp, Sở Thương nghiệp, Công ty Lâm sản… nghiêm chỉnh chấp hành việc cung
ứng vật tư đủ và kịp thời theo sự phân bổ của Nhà nước và của Ủy ban Kế hoạch
Thành phố.

IV.- VẤN ĐỀ SỬ DỤNG ĐÒN BẨY
XUẤT KHẨU TIỂU NGẠCH

Chính phủ đã cho phép Thành phố
thành lập Công ty Xuất nhập khẩu hoạt động theo kế hoạch của Ủy ban nhân dân
Thành phố giao cho, thông qua Sở Ngoại thương.

Đây làm một sự chăm sóc đặc biệc
của Chính phủ đối với Thành phố ta nhằm tạo điều kiện cho Thành phố tận dụng
các tiềm năng lớn của Thành phố, thông qua xuất nhập và nhập xuất mà khôi phục
và phát triển các ngành nghề.

Ủy ban nhân dân thành phố đã chỉ
thị cho Sở Ngoại thương lập kế hoạch xuất khẩu năm 1978 của Công ty này với kim
ngạch từ 10 đến 12% kim ngạch giao nộp hàng xuất khẩu theo kế hoạch Nhà nước.
Quyết định sự thực hiện thắng lợi của kim ngạch xuất khẩu cũng là sự cố gắng
của các ngành sản xuất trên 2 mặt :

– Giao nộp đủ và đúng kế hoạch
xuất khẩu đại ngạch.

– Cố gắng làm thêm để có xuất
khẩu tiểu ngạch.

Vì vậy các ngành sản xuất phải
phối hợp chặt chẽ với ngành ngoại thương thành phố, sản xuất và giao nộp đủ cho
cả hai kế hoạch xuất khẩu của Thành phố.

Về quyền được sử dụng ngoại tệ
xuất khẩu theo kế hoạch xuất khẩu tiểu ngạch, Chính phủ đã cho phép Thành phố
nhập khẩu trở lại cho Thành phố 70% số tiền kết hối được.

Ủy ban nhân dân Thành phố dành
ưu tiêu cho :

– Nhập để làm hàng xuất khẩu lớn
hơn.

– Nhập để khuyến khích các đon
vị địa phương và ngành đã giao nộp được nhiều hàng xuất khẩu.

Ủy ban nhân dân Thành phố giao
cho Ủy ban Kế hoạch Thành phố trách nhiệm theo dõi kết quả xuất khẩu và đề nghị
việc phân bổ kim ngạch nhập khẩu tiểu ngạch cho các đơn vị, địa phương và
ngành.

Ngoài ra, Ủy ban nhân dân Thành
phố cũng sẵn sàng giúp đỡ các phương án tốt vay ngoại tệ để nhập trước và thanh
toán sau bằng sản phẩm xuất khẩu của những đơn vị, địa phương và ngành nào xét
thấy có khả năng làm được.

Đồng thời, Sở Ngoại thương
nghiên cứu cùng Ủy ban Kế hoạch Thành phố để trình Ủy ban nhân dân Thành phố
xét duyệt các phương án gia công quốc tế có thể làm được.

V.-TĂNG CƯỜNG TỔ CHỨC VÀ CHỈ
ĐẠO THỰC HỆN

Ủy ban nhân dân Thành phố sẽ
dành thời giờ cần thiết để chỉ đạo kịp thời công tác vận động tổ chức sản xuất
cho xuất khẩu và điều hành phối hợp sự hoạt động của các ngành, các địa phương
trong Thành phố.

Ban Tổ chức chánh quyền, Sở Công
nghiệp và Sở Ngoại thương cần nghiên cứu và trình bày sớm dự kiến tăng cường tổ
chức quản lý và phục vụ sản xuất cho xuất khẩu ở cấp quận, huyện tương ứng với
dân số, kim ngạch và số lao động sử dụng làm hàng xuất khẩu ở từng quận, huyện
và phường, xã.

Sở Ngoại thương và Sở Lao động
cần trình bày với Ủy ban Kế hoạch dự kiến đào tạo tay nghề cho các đối tượng
lao động và ở tuổi lao động của Thành phố để Ủy ban nhân dân Thành phố dành cho
những phương tiện và kinh phí cần thiết cho việc dạy nghề đó.

Sở Ngoại thương và Hội trí thức
yêu nước, Ban Liên lạc công thương và Hội Mỹ thuật của Thành phố cần có kế
hoạch vận động các lực lượng trong các giới tham gia tổ chức sản xuất hàng xuất
khẩu và sáng tác các đề tài mới.

Các đoàn thể quần chúng khác cần
chủ động có kế hoạch vận động thành phong trào rộng rãi tham gia sản xuất cho
xuất khẩu.

 

 

 

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH/THƯỜNG TRỰC

Lê Đình Nhơn

 

 

 

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH/THƯỜNG TRỰC

Lê Đình Nhơn

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
——-

CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
———

Số:
598/QĐ-UB

Tp.
Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 10 năm 1977

 

QUYẾT ĐỊNH

VỀ
VIỆC THÀNH LẬP PHÒNG THUỶ LỢI HUYỆN NHÀ BÈ

ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH

– Căn cứ vào Luật tổ chức Hội
đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp ngày 27 tháng 10 năm 1962 ;
– Xét nhu cầu công tác thủy lợi phục vụ sản xuất và đời sống của Huyện Nhà Bè ;

– Xét đề nghị của các đồng chí Giám đốc Sở Thủy lợi, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
huyện Nhà Bè và Trưởng Ban Tổ chức Chánh quyền Thành phố ;

QUYẾT
ĐỊNH

Điều 1.- Nay thành lập Phòng
Thủy lợi trực thuộc Ủy ban nhân dân Huyện Nhà Bè.

Phòng Thủy lợi huyện là cơ quan chuyên
môn của Ủy ban nhân dân huyện, giúp Ủy ban quản lý thống nhất công tác thủy lợi
của huyện. Phòng chịu sự lãnh đạo toàn diện của UBND huyện, đồng thời chịu sự
chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Thủy lợi.

Phòng được phép sử dụng con dấu để
liên hệ công tác.

Điều 2.- Phòng thủy lợi có
các nhiệm vụ chính như sau :

1- Phối hợp với Sở Thủy lợi lập quy
hoạch và kế hoạch xây dựng phát triển thủy lợi trong huyện.

2- Tổ chức thực hiện khảo sát, thiết
kế, xây dựng những công trình thủy lợi trong huyện được Sở phân cấp.

3- Quản lý khai thác các công trình
thủy lợi của huyện để phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân trong huyện.

4- Chỉ đạo các xã làm thủy lợi nhỏ.

Điều 3.- Biên chế của Phòng
được ấn định trong năm 1977 là 8 (tám) người, gổm : một Trưởng phòng và 7 (bảy)
cán bộ chuyên môn nghiệp vụ.

Điều 4.- Các đồng chí Chánh
Văn phòng Ủy ban nhân dân Thành phố, Trưởng Ban Tổ chức Chánh quyền, Giám đốc
Sở Thủy lợi, Chủ tịch UBND huyệnNhà Bè chịu trách nhiệm thi hành quyết định
này.

 

 

Nơi nhận:
– Như điều 4
– BTC Thành ủy
– Lưu VP.
– Ban TCCQ (4 bản)
 

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH/THƯỜNG TRỰC

Lê Đình Nhơn

 

 

Nơi nhận:
– Như điều 4
– BTC Thành ủy
– Lưu VP.
– Ban TCCQ (4 bản)
 

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH/THƯỜNG TRỰC

Lê Đình Nhơn

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ
******

CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
*******

Số:
286-CP


Nội, ngày 28 tháng 10 năm 1977

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ VIỆC PHÁT ĐỘNG PHONG TRÀO QUẦN CHÚNG TIẾN CÔNG MẠNH MẼ VÀ
LIÊN TỤC VÀO MẶT TRẬN THỦY LỢI NHẰM PHỤC VỤ THẮNG LỢI CÁC MỤC TIÊU CỦA SẢN XUẤT
NÔNG NGHIỆP 5 NĂM 1976 – 1980

I. NHẬN ĐỊNH
VỀ TÌNH HÌNH CÔNG TÁC THỦY LỢI PHỤC VỤ NÔNG NGHIỆP 2 NĂM 1976 – 1977

Từ sau ngày đất nước được hoàn toàn
giải phóng và thống nhất, chúng ta đã có nhiều thành tích phát triển thủy lợi để
giải quyết nước cho sản xuất nông nghiệp, góp phần to lớn vào việc thâm canh,
tăng vụ, mở rộng diện tích và xây dựng vùng kinh tế mới.

Các tỉnh ở đồng bằng Bắc Bộ,
trung du, và Liên khu 4 cũ đã tiếp tục đẩy mạnh công tác hoàn chỉnh thủy nông
và xây dựng mới thêm nhiều công trình để chống úng, chống hạn, bảo đảm có nước
tưới cho 1,1 triệu ha, trong đó có 90 vạn ha chủ động về tưới và 70 vạn ha chủ
động về tiêu. Các tỉnh ở Nam Bộ và Liên khu 5 cũ đã bỏ ra hàng chục triệu ngày
công để tu sửa công trình bị hư hỏng, nạo vét và làm mới nhiều kênh rạch, cống,
đập, trạm bơm, hồ chứa, đắp bờ ngăn mặn giữ ngọt lấy nước tưới cho gần 40 vạn
ha. Phong trào làm thủy lợi đã và đang trở thành phong trào cách mạng sôi nổi ở
hầu khắp các tỉnh; đang tạo nên một khí thế mới và mở ra nhiều triển vọng làm đồng
bộ, dứt điểm nhiều công trình trong một thời gian ngắn.

Nhìn chung, phong trào làm thủy
lợi phục vụ nông nghiệp đang có những bước phát triển mới, đã mang lại hiệu quả
thiết thực đối với sản xuất và đời sống. Tuy nhiên phong trào phát triển chưa đều,
và so với yêu cầu của sản xuất nông nghiệp thì kết quả đạt được còn thấp, ước
tính trong hai năm 1976 – 1977 mới chỉ thực hiện được trên dưới 20% tổng mức đầu
tư của kế hoạch 5 năm, khối lượng còn lại phải làm trong 3 năm rất lớn; công
tác quản lý kỹ thuật, quản lý kinh tế chưa được coi trọng đúng mức:

– Về mặt kỹ thuật, nhiều
công trình xây dựng chưa theo đúng quy hoạch, chưa đồng bộ và ăn khớp với các
quy hoạch sản xuất, giao thông, xây dựng nông thôn mới; một số công trình thiết
kế và thi công không tuân thủ các yêu cầu về kỹ thuật, dẫn đến chỗ chất lượng
kém, phải làm đi làm lại, hoặc ít phát huy tác dụng.

– Về mặt kinh tế, tình trạng
huy động lao động ồ ạt còn khá phổ biến; việc quản lý vật tư, tiền vốn chưa chặt
chẽ; nạn lãng phí, tham ô còn xảy ra ở nhiều nơi, có nơi, có lúc nghiêm trọng.
Một số nơi mới chú trọng công trình đầu mối, chưa chú trọng kênh mương và công
trình trên kênh; chưa bảo vệ tốt công trình đã xây dựng, công trình bị hư hỏng
nhanh, không bảo đảm được yêu cầu tưới tiêu.

Nguyên nhân của các khuyết điểm
và nhược điểm trên đây là do về khách quan, yêu cầu phát triển thủy lợi
rất lớn, rất cấp bách, nhưng cơ sở vật chất kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu đó lại
có hạn, tài liệu điều tra cơ bản nhất là ở các tỉnh miền Nam không đủ, làm cho
công tác quy hoạch, khảo sát, thiết kế các công trình gặp nhiều khó khăn; vật
tư, thiết bị khan hiếm cả về số lượng, chất lượng, quy cách và thời gian; Về
chủ quan,
ngành thủy lợi chưa vươn lên đủ sức làm tham mưu cho các cấp ủy Đảng
và chính quyền về quản lý kỹ thuật và kinh tế; chưa kịp thời đề xuất các yêu cầu
cụ thể với các ngành; chưa phân phối động viên và sử dụng tốt nhất đội ngũ cán
bộ, chưa khai thác cao khả năng thiết bị, vật tư của toàn ngành.

Tại các cấp chính quyền địa
phương, các ngành, yêu cầu tập trung chỉ đạo cho công tác thủy lợi có nơi chưa
đều, chưa liên tục. Việc phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động
và việc tổ chức quản lý lao động của chính quyền các cấp, nhất là cấp huyện và
cơ sở chưa tốt, chưa phát động được phong trào quần chúng làm thủy lợi rộng khắp
và bền bỉ. Một số chính sách, chế độ như chính sách đối với ruộng đất được sử dụng
vào làm thủy lợi, chế độ đối với lao động làm thủy lợi, các định mức và đơn giá
xây dựng ở các tỉnh miền Nam, v.v… chưa được ban hành kịp thời cũng ảnh hưởng đến
tốc độ xây dựng thủy lợi. Việc kiểm tra, hướng dẫn, giúp đỡ cấp dưới và cơ sở
chưa tốt, chưa giải quyết được kịp thời các khó khăn vướng mắc, và cũng chưa uốn
nắn được các lệch lạc, thiếu sót cho cơ sở.

Những khuyết điểm và nhược điểm
trên đây cần được khắc phục một cách kiên quyết và tích cực.

II. NHIỆM VỤ,
MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG CHÂM CHỈ ĐẠO PHONG TRÀO THỦY LỢI 3 NĂM 1978 – 1980

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IV của Đảng đã chỉ rõ phải “tập trung cao độ lực lượng của cả nước,
của các ngành, các cấp tạo ra một bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp”.

Là biện pháp kỹ thuật hàng đầu,
và mũi nhọn quyết định thắng lợi của mặt trận sản xuất nông nghiệp, công tác thủy
lợi trong những năm tới cần được phát triển mạnh mẽ.

Căn cứ vào kế hoạch 5 năm, nhiệm
vụ và mục tiêu của phong trào thủy lợi 3 năm 1978 – 1980 là tận lực phát triển
thủy lợi ở tất cả các vùng của đất nước, hết sức coi trọng các vùng chuyên
canh, nhằm phục vụ tốt yêu cầu thâm canh, tăng vụ, mở rộng diện tích các loại
cây trồng, trước hết là yêu cầu về nước để sản xuất 21 triệu tấn lương thực và
yêu cầu về nước của một số cây công nghiệp, vùng rau trồng tập trung và cây xuất
khẩu quan trọng; tích cực giải quyết yêu cầu về nước để đẩy mạnh khai hoang, phục
hóa, bảo đảm nước sinh hoạt cần thiết cho nhân dân các vùng kinh tế mới; giải
quyết nước uống, nước làm vệ sinh và giữ ẩm cho các cánh đồng có dùng vào việc
chăn nuôi đại gia súc quy mô lớn.

Yêu cầu phát triển thủy lợi
trong những năm tới rất lớn, rất cấp bách, lại phải thực hiện trong điều kiện nền
kinh tế của ta còn có nhiều khó khăn; lương thực, vật tư, thiết bị, giao thông
vận tải chưa đáp ứng được nhu cầu; khả năng nhập khẩu còn bị hạn chế; tài liệu
điều tra cơ bản, đặc biệt là ở các tỉnh miền Nam rất thiếu; quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa ở nông thôn miền Bắc đang trong quá trình củng cố và hoàn thiện,
quan hệ sản xuất ở nông thôn miền Nam mới bắt đầu đi vào cải tạo.

Trong việc chỉ đạo phong trào
làm thủy lợi cần nắm vững các phương châm và chủ trương lớn sau đây:

– Phát huy cao độ tinh thần
làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa
của nhân dân lao động, của chính quyền các
cấp và của các đoàn thể quần chúng, ra sức tận dụng đến mức cao nhất tiềm lực sẵn
có về các mặt, trước hết là tiềm lực rất to lớn về sức lao động của các địa
phương. Trên cơ sở đó, phát động một cao trào toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiến
công mạnh mẽ và liên tục vào mặt trận thủy lợi trong suốt 3 năm. Nêu cao ý thức
tự lực tự cường, chống khuynh hướng trông chờ vào nhập khẩu, ỷ lại vào Nhà nước
và cấp trên.

– Kết hợp thủy lợi hóa và hợp
tác hóa
thông qua phong trào làm thủy lợi, sử dụng hợp lý và tiết kiệm ruộng
đất, tiết kiệm nước và sức lao động mà chứng tỏ tính hơn hẳn của quan hệ sản xuất
mới; thúc đẩy việc cải tạo và xác lập từng bước quan hệ sản xuất mới ở nông
thôn đối với các tỉnh miền Nam và củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất mới ở
nông thôn đối với các tỉnh miền Bắc, thúc đẩy việc tổ chức lại sản xuất trên địa
bàn huyện. Đồng thời, thông qua việc xây dựng và củng cố hoàn thiện quan hệ sản
xuất mới ở nông thôn, đẩy mạnh sản xuất phát triển, đưa phong trào làm thủy lợi
lên những bước cao hơn, sớm thực hiện thủy lợi hóa nông nghiệp, kết hợp chặt chẽ
giữa thủy lợi hóa, cải tạo đất với cơ giới hóa và điện khí hóa một bước ở nông
thôn.

– Gắn chặt thủy lợi với sản
xuất, giao thông vận tải và xây dựng nông thôn mới
trong quy hoạch tổng thể
của từng vùng. Trong việc xây dựng quy hoạch cũng như trong việc tổ chức thực
hiện quy hoạch phải cân nhắc các yêu cầu một cách toàn diện: kết hợp chặt chẽ
yêu cầu phát triển thủy lợi để phát triển sản xuất, với yêu cầu phát triển giao
thông và yêu cầu phân bố lại dân cư, xây dựng nông thôn mới.

– Gắn chặt đất nước, khí hậu
– thời tiết, cây trồng
trong từng vùng, từng vụ và trên từng địa bàn cụ thể.
Triệt để lợi dụng những điều kiện thuận lợi về thiên nhiên, tận dụng đất đai và
khả năng nguồn nước hiện có mà bố trí cây trồng thích hợp nhằm đạt hiệu quả
cao, không chờ đợi có công trình thủy lợi mới tổ chức sản xuất. Mặt khác phải gắn
chặt kế hoạch phát triển thủy lợi với kế hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp,
trên từng địa bàn và từng vụ, từng bước giải quyết yêu cầu về nước cho cây trồng
để thực hiện thâm canh và cải tạo đất.

– Giải quyết đúng đắn các mối
quan hệ:

Nhà nước và nhân dân cùng
làm,
làm cho mọi người hiểu rõ xây dựng công trình thủy lợi là xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật quan trọng nhất của nền nông nghiệp, cả Nhà nước và nhân
dân phải cùng lo. Với tinh thần đó, động viên cao độ sức lao động trong nhân
dân, trước hết là sức lao động trong nông dân để tự lực xây dựng các công trình
ấy để phát triển sản xuất; đồng thời Nhà nước phải đầu tư cho thủy lợi, trước hết
và chủ yếu là đầu tư về kỹ thuật và thiết bị, vật tư kỹ thuật.

Kết hợp các loại công trình lớn,
vừa và nhỏ.
Trong những năm trước mắt, cần khởi công và tích cực chuẩn bị để
khởi công xây dựng các công trình thủy lợi lớn; đồng thời ra sức làm nhiều công
trình vừa và nhỏ, có điều kiện đầu tư ít, xây dựng nhanh mau đưa vào phục vụ.

Kết hợp giữa giữ nước, dẫn nước
và tháo nước trong một quy hoạch thống nhất
; từng bước thực hiện yêu cầu
thâm canh, cải tạo đất, không để công trình nọ làm trở ngại công trình kia, trước
mắt trở ngại cho lâu dài, gây lãng phí và tốn kém.

Kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng
với quản lý:
Xây dựng đến đâu phải tổ chức quản lý, khai thác đến đó; bảo đảm
tưới tiêu cho cây trồng, tiết kiệm nước, tiết kiệm chi phí sản xuất.

– Quán triệt nguyên tắc xây dựng
tập trung, đồng bộ, dứt điểm, sớm đưa công trình vào phục vụ sản xuất.
Hết
sức tránh phân tán, vừa gây căng thẳng về lao động, vật tư, tiền vốn.

– Tăng cường quản lý kỹ thuật,
quản lý kinh tế, chống lãng phí tham ô.
Nắm vững khoa học kỹ thuật thủy lợi
và các tri thức khoa học có liên quan, nhanh chóng xác định quy hoạch cho từng
dòng sông, từng vùng lớn, nhỏ, để làm cơ sở cho việc xây dựng công trình, tránh
tình trạng xây dựng không theo một quy hoạch hợp lý, dẫn đến chỗ phải làm đi
làm lại; nghiên cứu ứng dụng nhanh các tiến bộ kỹ thuật trong việc thiết kế và
thi công, bảo đảm các công trình thủy lợi được xây dựng nhanh, nhiều, tốt, rẻ.
Quản lý chặt chẽ lao động, vật tư, tiền vốn, ngăn chặn tình trạng tham ô tài sản
của Nhà nước và giảm đến mức thấp nhất tình trạng lãng phí sức người, sức của của
nhân dân.

III. TĂNG CƯỜNG
SỰ LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Nhiệm vụ khai thác thủy lợi phục
vụ nông nghiệp trong 3 năm 1978 – 1980 rất to lớn và nặng nề, nhiệm vụ ấy chủ yếu
lại phải thực hiện trong ba mùa khô tới, trong tình hình chúng ta đang còn nhiều
khó khăn. Do đó, chỉ riêng ngành thủy lợi không thể làm được, mà phải có sự chỉ
đạo rất tập trung của Hội đồng Chính phủ và của Ủy ban nhân dân các cấp; phải
phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả nước, của các ngành, các địa phương, kể
cả quân đội; huy động mọi lực lượng có thể huy động để triển khai công tác chuẩn
bị đầu tư và bảo đảm các nhu cầu không thể thiếu về lao động, vật tư, thiết bị,
tiền vốn để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ này. Cụ thể là:

1. Phải ưu
tiên cung cấp vật tư, thiết bị đầy đủ và kịp thời đến tận các công trình thủy lợi.

Các ngành có liên quan phải có kế hoạch và biện pháp, có sự phối hợp, kết hợp
chặt chẽ, đồng bộ, ăn khớp để sản xuất, vận chuyển kịp thời vật tư, thiết bị đến
công trường. Đối với tiền vốn và các vật tư, thiết bị trong nước, trong địa
phương sản xuất phải đáp ứng đầy đủ và kịp thời. Đối với vật tư, thiết bị ngoài
nước phải dành ưu tiên khả năng nhập khẩu; nếu không đáp ứng được, phải mạnh dạn
nghiên cứu tổ chức sản xuất, hoặc nghiên cứu sử dụng các vật tư, vật liệu thay
thế để đưa vào sử dụng. Đi đôi với việc bảo đảm cung ứng, phải rất coi trọng tiết
kiệm vật tư, thiết bị, quản lý chặt chẽ việc sử dụng.

2. Động
viên cao độ mọi lực lượng lao động có thể động viên để xây dựng nhanh, đồng bộ,
dứt điểm các công trình thủy lợi, sớm đưa công trình vào phục vụ sản xuất.

Phải bảo đảm cho mọi người lao động có đủ công cụ, được tổ chức chặt chẽ, có kỹ
thuật và kỷ luật nghiêm minh, để có năng suất cao, chất lượng tốt. Phải sớm ban
hành và bổ sung các chính sách, chế độ đối với lực lượng lao động làm thủy lợi,
nhằm động viên được các tầng lớp nhân dân đi làm thủy lợi, bảo đảm huy động lao
động công bằng hợp lý để thúc đẩy phong trào phát triển được liên tục. Đi đôi với
việc huy động đông đảo nhân dân, phải chuyên môn hóa lực lượng làm thủy lợi, ra
sức củng cố và phát triển các đội xây dựng thủy lợi và quản lý thủy nông ở các
tỉnh miền Bắc; xây dựng và phát triển các đội chuyên làm thủy lợi ở các ấp, xã
thuộc các tỉnh miền Nam; phát triển nhanh các đội làm công trình thủy lợi ở huyện,
các công ty xây dựng thủy lợi ở tỉnh, nhất là ở miền Nam.

3. Huy động
sức mạnh tổng hợp của cả nước để đáp ứng các yêu cầu về kỹ thuật, về thiết bị,
vật tư và vận chuyển thiết bị, vật tư, về lao động, tiền vốn cho việc xây dựng
cơ bản thủy lợi.

Bộ Thủy lợi là cơ quan của
Hội đồng Chính phủ có trách nhiệm quản lý công tác thủy lợi theo đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Trên cơ sở kế hoạch Nhà nước được duyệt, Bộ phải
tập trung lực lượng làm nhanh và tốt công tác chuẩn bị đầu tư, nhất là về mặt kỹ
thuật để triển khai nhanh và bảo đảm hiệu quả của các công trình; phải tăng cường
đôn đốc, kiểm tra, hướng dẫn giúp đỡ các lực lượng của Bộ và các địa phương
hoàn thành nhiệm vụ, và uốn nắn kịp thời các thiếu sót, lệch lạc. Trên cơ sở chỉ
tiêu kế hoạch Nhà nước phân bổ cho ngành thủy lợi, Bộ Thủy lợi được phép điều
chỉnh vốn, vật tư, thiết bị; khi cần thiết được điều chỉnh cán bộ kỹ thuật từ bậc
đại học trở lên trong phạm vi toàn ngành. Bộ phải có kế hoạch và biện pháp động
viên toàn ngành hoàn thành các nhiệm vụ được giao.

Ủy ban Kế hoạch Nhà nước
phải kết hợp chặt chẽ kế hoạch ngành và kế hoạch địa phương, cân đối lại khả
năng và yêu cầu về vật tư, thiết bị, lao động (bao gồm cả cán bộ và công nhân kỹ
thuật), tiền vốn và vận tải của mỗi ngành, mỗi cấp, kể cả quân đội, với tinh thần
dành ưu tiên cung cấp kịp thời cho yêu cầu xây dựng các công trình thủy lợi.

Tổng cục Địa chất
trách nhiệm tham gia khảo sát địa chất, địa chất công trình phục vụ các công
trình thủy lợi. Tìm kiếm thăm dò thêm nguồn nước ngầm để bổ sung cho nguồn nước
mặt.

Cục Đo đạc và bản đồ Nhà nước,
Bộ Quốc phòng
phải dành lực lượng tham gia khảo sát các công trình thủy lợi.

Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và
trung học chuyên nghiệp
huy động học sinh, sinh viên các trường phổ thông,
trường đại học và trung học thủy lợi, bách khoa, giao thông, xây dựng tham gia
các công tác quy hoạch, khảo sát, thiết kế các công trình thủy lợi.

Tổng cục Khí tượng – Thủy văn
cần khẩn trương tập trung sức lập các trạm khảo sát các yếu tố khí tượng,
thủy văn và chỉnh biên tài liệu thủy văn, đặc biệt là ở các tỉnh miền Nam, và
trước hết là ở đồng bằng sông Cửu Long để cung cấp cho ngành thủy lợi làm tài
liệu xây dựng quy hoạch, thiết kế và quản lý công trình.

Bộ Nông nghiệp kết hợp chặt
chẽ với Bộ Thủy lợi trong việc bố trí quy hoạch và kế hoạch sản xuất nông nghiệp,
căn cứ vào khả năng nguồn nước được tăng thêm trong từng năm, từng vụ, và các yếu
tố sản xuất khác mà bố trí cây trồng trên từng địa bàn cụ thể; huy động một phần
lực lượng tham gia khảo sát và thi công công trình thủy lợi; nắm chắc tình hình
thi công các hồ chứa, tổ chức thu dọn lòng hồ, nhanh chóng đi vào kinh doanh
các hồ chứa một cách có hiệu quả.

Bộ Xây dựng với chức năng
quản lý ngành cần quy hoạch, phân cấp, tổ chức sản xuất và cung cấp đầy đủ, kịp
thời xi-măng, cát, đá, sỏi cho các công trình thủy lợi theo sự phân bố của kế
hoạch Nhà nước; huy động một phần lực lượng thi công xây dựng một số công trình
thủy lợi; chủ trì phối hợp với các ngành nghiên cứu bổ sung và ban hành các định
mức, đơn giá xây dựng cơ bản thủy lợi, tạo điều kiện để thúc đẩy việc quản lý
đi vào nề nếp.

Bộ Giao thông vận tải phối
hợp với Bộ Thủy lợi trong việc làm quy hoạch giao thông đường thủy, giao thông
nông thôn, tổ chức nạo vét các kênh rạch vừa có yêu cầu giao thông, vừa có yêu
cầu thủy lợi; tham gia thi công một số công trình thủy lợi theo kế hoạch Nhà nước;
tập trung phương tiện, bảo đảm vận chuyển kịp thời vật tư, thiết bị đến các
công trình thủy lợi trọng điểm và các vùng trọng điểm như Nghị quyết số 19-CP
ngày 29-1-1976 của Hội đồng Chính phủ.

Bộ Cơ khí và luyện kim
huy động lực lượng toàn ngành cơ khí tổ chức sản xuất, bảo đảm cung cấp đủ máy
bơm, tàu hút bùn; các thiết bị cơ, điện dùng vào việc thi công các công trình
thủy lợi, các công cụ lao động cải tiến và công cụ lao động thường đáp ứng yêu
cầu công tác thủy lợi. Phải chú trọng sản xuất phụ tùng thay thế đối với các
thiết bị sản xuất trong nước; đồng thời nghiên cứu sản xuất các phụ tùng thay
thế để sửa chữa các thiết bị nhập khẩu từ nước ngoài.

Bộ Điện và than, với chức
năng quản lý toàn ngành chịu trách nhiệm bố trí mạng lưới điện, thi công hoặc
phân cho các tỉnh thi công mạng lưới điện đến tận các trạm bơm điện; ưu tiên
cung cấp đủ công suất, bảo đảm điện thế cho các trạm bơm hoạt động; nhận thầu
thi công phần điện hạ thế cho các công trình thủy lợi. Phải điều động các cụm
điện diésel chưa sử dụng ở các nơi để bổ sung cho các vùng chưa có khả năng đưa
điện lưới tới.

Bộ Quốc phòng phải huy động
lực lượng bộ đội, phương tiện và thiết bị để thi công các công trình thủy lợi
trong các vùng chuyên canh của quân đội, và các công trình do ngành thủy lợi
giao thầu; chuyên môn hóa lực lượng quân đội làm thủy lợi.

Bộ Lâm nghiệp cùng Bộ Thủy
lợi nghiên cứu quy hoạch bảo vệ rừng đầu nguồn, bảo vệ nguồn nước, tổ chức trồng
rừng đầu nguồn, khai thác gỗ cung cấp cho nhu cầu thủy lợi.

Bộ Vật tư tổ chức sản xuất
và nhập khẩu, ưu tiên cung cấp đầy đủ, kịp thời, đúng quy cách các vật tư, vật
liệu, thiết bị và phụ tùng xe máy cho ngành thủy lợi.

Bộ Lao động nghiên cứu gấp
chính sách lao động và hướng dẫn việc tổ chức, huy động lực lượng lao động làm
thủy lợi trình Thủ tướng Chính phủ ban hành; đồng thời tăng cường kiểm tra việc
thực hiện chính sách, chế độ đối với người lao động làm thủy lợi.

Bộ Tài chính nghiên cứu cải
tiến chế độ cấp phát vốn xây dựng cơ bản thủy lợi thích hợp, nhất là đối với
các tỉnh miền Nam, bảo đảm cấp vốn không bị chậm trễ; đồng thời tăng cường hướng
dẫn, kiểm tra việc sử dụng nguồn vốn, nâng cao hiệu quả của đồng vốn bỏ ra. Đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kế toán tài vụ, bổ sung số cán bộ cần thiết cho
các công trình thủy lợi lớn và các Ty, Sở thủy lợi, giúp ngành thủy lợi đẩy
nhanh tốc độ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ này.

Bộ Ngoại thương phải đảm
bảo nhập khẩu đủ, đúng và kịp thời các thiết bị vật tư và phụ tùng thay thế
theo chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước.

Các ngành lương thực, nội
thương, y tế
…, cần có kế hoạch bảo đảm nhu cầu về đời sống và sức khỏe cho
công nhân, dân công ở các công trường thủy lợi. Riêng ngành nội thương phải tổ
chức kinh doanh, bảo đảm cung cấp đầy đủ các công cụ lao động phổ thông, công cụ
cải tiến với chất lượng tốt cho các công trường thủy lợi.

Các cơ quan tuyên truyền, báo
chí
cần nắm vững mục tiêu, yêu cầu và các chủ trương lớn của phong trào thủy
lợi, tuyên truyền động viên các ngành, các cấp thực hiện nhiệm vụ của phong
trào; biểu dương kịp thời người tốt, việc tốt và phê phán sâu sắc việc làm sai
trái, nhất là những việc gây lãng phí lao động, lãng phí tài sản của Nhà nước
và nhân dân.

Các đoàn thể quần chúng,
nhất là Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh cần có kế hoạch vận động đoàn viên
tham gia phong trào này.

Đồng chí Bộ trưởng Bộ Thủy lợi sẽ
cùng với các ngành bàn bạc và phân công cụ thể những việc cần làm, khối lượng
và thời gian hoàn thành những việc ấy.

4. Tăng cường
sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và chính quyền các cấp đối với công tác thủy lợi
.
Ở mỗi địa phương, mỗi cấp ủy Đảng và chính quyền phải xác định và làm chủ quy
hoạch thủy lợi của địa phương mình, gắn chặt quy hoạch thủy lợi với quy hoạch sản
xuất, quy hoạch giao thông, quy hoạch xây dựng nông thôn mới gắn chặt thủy lợi
hóa với hợp tác hóa, cơ giới hóa, và tổ chức lại sản xuất trên địa bàn huyện.
Phải chỉ đạo chặt chẽ việc lập và tổ chức thực hiện kế hoạch thủy lợi 3 năm và
các kế hoạch hàng năm, trước mắt là kế hoạch 1978, trên tinh thần huy động toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân tiên công mạnh mẽ vào mặt trận thủy lợi. Phải chú trọng
tăng cường và củng cố tổ chức của ngành thủy lợi bao gồm cả cơ quan quản lý Nhà
nước và các đơn vị sản xuất nhất là ở các tỉnh miền Nam, đồng thời có kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng nhanh đội ngũ cán bộ này để bổ sung kịp thời cho các Ty,
phòng thủy lợi. Phải tổ chức tốt phong trào đồng khởi thi đua làm thủy lợi, biểu
dương và khen thưởng kịp thời những ngành, những đơn vị và cá nhân có thành
tích xuất sắc trong công tác thủy lợi.

Thường vụ Hội đồng Chính phủ trực
tiếp chỉ đạo phong trào 3 năm làm thủy lợi phục vụ nông nghiệp và sẽ phân công
một đồng chí Phó Thủ tướng giải quyết các vấn đề do phong trào đặt ra. Ba tháng
một lần, Thường vụ sẽ nghe Bộ Thủy lợi báo cáo về việc thực hiện Nghị quyết
này.

Nghị quyết này cần được phổ biến
nguyên văn trong các cấp, các ngành từ trung ương xuống đến xã, và tuyên truyền
rộng rãi trong nhân dân.

 

 

TM.
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
KT. THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG

Phạm Hùng

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
——

CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
——–

Số:
62/CT-UB

Tp.
Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 10 năm 1977

 

CHỈ THỊ

VỀ
VIỆC TỔ CHỨC DIỆT CHUỘT TOÀN THÀNH

Thời gian qua, phong trào nhân
dân thành phố tham gia công tác vệ sinh phòng dịch đã đạt được những kết quả
đáng kể, một số lớn bệnh dịch giảm đi rõ rệt như: dịch tả, thương hàn giảm hơn
90%, sốt bại liệt giảm hơn 80%…

Tuy nhiên, khác với mọi năm,
dịch hạch năm nay xảy ra sớm hơn và ở nhiều thể bệnh nguy hiểm như thể phổi,
thể nhiễm trùng huyết… gây tỷ lệ tử vong cao, tạo thêm nhiều điểm dịch mới có
tầm lan rộng và kéo dài mà nguyên nhân chính là do số lượng chuột phát triển
quá nhiều và chỉ số bọ chét trên một con chuột rất cao. Có trường hợp một con
chuột chứa 60, 150 con bọ chét (chỉ số cho phép là một con chuột có một con bọ
chét, vượt số này thì con bọ chét mang mầm bệnh nhảy sang cắn người).

Ngoài việc lan truyền dịch hạch,
chuột còn mang các mầm bệnh nguy hiểm khác như sốt vàng da, sốt bụi rậm…, chuột
còn gây tác hại lớn cho kho tàng lương thực, phá hoại hoa màu, mùa màng làm ảnh
hưởng lớn đến sản xuất luơng thực, bảo vệ kho hàng, của cải của Nhà nước cũng
như của tư nhân.

Tình hình đã đến mức cần thiết
phải có những biện pháp tích cực nhứt để diệt chuột trong toàn thành phố.

Thời gian qua, Sở y tế đã phối
hợp với các ban ngành đoàn thể, cơ quan, xí nghiệp tiến hành diệt chuột bằng
hóa chất phosphure kẽm ở 27 tổ dân phố, 16 phường, toàn bộ Quận 4(ngày
23-8-77). Qua tổ chức, thực hiện và rút kinh nghiệm diệt chuột ở các thí điểm
trên cho ta kết luận: Thành phố có khả năng tiến hành diệt chuột toàn thành
bằng hóa chất phosphure kẽm kết hợp với các biện pháp dân gian như săn đuổi,
đào hang, làm bẫy v.v…

Đây là một công tác mang tính
chất quần chúng rộng rãi cần động viên mọi ngành, mọi cấp, mọi người tham gia
tích cực để đợt diệt chuột toàn thành lần đầu tiên tiến hành vào tháng 11-1977
đạt kết quả tốt, làm cơ sở cho các đợt tiếp theo (6 tháng 1 lần) cho tới khi
khống chế được bệnh dịch hạch và giới hạn sự thiệt hại về kinh tế do chuột gây
ra.

Để chỉ đạo mọi công việc diệt
chuột, Ủy ban nhân dân Thành phố quyết định thành lập các Ban chỉ đạo diệt
chuột ở cấp Thành, Quận, Huyện, Phường Xã. Thành phần Ban chỉ đạo gồm:

1- Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân
thành phố, Quận, Huyện, Phường xã : Trưởng ban.

2- Đại diện ngành Công an: phó
Ban chỉ đạo, phụ trách an ninh và an toàn khi diệt chuột như: quản lý hóa chất,
giám sát việc phân phối và pha trộn mồi, thu mồi và xử lý mồi thừa, lập biên
bản xử lý các trưởng hợp lạm dụng hay sử dụng hóa chất vào các mục đích xấu.

3- Đại diện ngành y tế: Phó Ban
chỉ đạo, làm thường trực, phụ trách: chuyên môn, kỹ thuật, huấn luyện v.v…

4- Đại diện Sở Văn hóa thông
tin: Ủy viên: phụ trách công tác tuyên truyền, vận động.

Sở Vệ sinh: Ủy viên, phụ trách
công tác hốt rác, xử lý xác chuột v.v…

Phụ nữ : Ủy viên : Vận động phụ
nữ tham gia thực hiện

Thanh niên : Ủy viên : Vận động
phụ nữ tham gia thực hiện

Liên hiệp CĐ : Ủy viên : Vận
động phụ nữ tham gia thực hiện

Hội chữ thập đỏ : Ủy viên : Vận
động phụ nữ tham gia thực hiện

Sở Giáo dục : Ủy viên : Vận động
học sinh tham gia thực hiện.

Riêng đối với các huyện ngoại
thành thì phải có một đồng chí đại diện nông hội hay phòng Nông nghiệp làm phó
ban chỉ đạo.

Lịch tiến hành được ấn định như
sau :

– Từ lúc có chỉ thị này đến ngày
5 tháng 11 năm 1977: phổ biến chỉ thị, lập kế hoạch, lập các ban chỉ đạo các
cấp, tuyên truyền, phát động trong nhân dân, cơ quan, xí nghiệp, công nông
trường, trường học v.v…, tập huấn kỷ thuật diệt chuột, chuẩn bị vật tư, dụng
cụ, phương tiện diệt chuột v.v…

– Ngày 6,7,8 và 9 tháng 11 :
tổng vệ sinh toàn thành, tuyên truyền cao điểm, chuẩn bị lần chót các điều
kiện, phương tiện v.v…

– Ngày 10, 11. 12 tháng 11 : đặt
mồi, thu lượm, xử lý xác chuột, mồi thừa v.v…

– Ngày 16, 17 tháng 11 : thanh
khiết môi trường, rút kinh nghiệm, sơ kết, khen thưởng v.v…

Công tác vệ sinh phòng dịch nói
chung và công tác diệt chuột toàn thành lần này nói riêng có tầm quan trọng đặc
biệt đối với Thành phố chúng ta trong việc chăm lo đến sức khỏe, đời sống của
nhân dân mà còn để bảo vệ mùa màng, kho tàng của cải tạo điều kiện hoàn thành
kế hoạch.

Nhận được chỉ thị này, đề nghị
các ngành, các cấp có kế hoạch triển khai nhanh chóng, cụ thể theo chức năng,
nhiệm vụ đã được ấn định trong chỉ thị này bảo đảm thực hiện đúng thời gian, và
đạt kết quả thật tốt.

 

 

Nơi gửi :
– VP. Thành ủy
– Anh 6 Dân
– Ban tuyên huấn TU
– Bộ y tế
– Các quận huyện
– Các Ban ngành sở
– Các đoàn thể: Công, Nông,
 Thanh, Phụ
– Lưu.

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH

Lê Quang Chánh

 

 

Nơi gửi :
– VP. Thành ủy
– Anh 6 Dân
– Ban tuyên huấn TU
– Bộ y tế
– Các quận huyện
– Các Ban ngành sở
– Các đoàn thể: Công, Nông,
 Thanh, Phụ
– Lưu.

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH

Lê Quang Chánh

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

BỘ
LÂM NGHIỆP
******

CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
********

Số:
44-LN/KL


Nội, ngày 29 tháng 10 năm 1977 

 

CHỈ THỊ

VỀ VIỆC GIAO NỘP, PHÂN PHỐI NHỮNG LÂM SẢN PHẠM PHÁP SAU KHI
ĐÃ XỬ LÝ.

Trong việc triển khai thực hiện Pháp lệnh quy định
việc bảo vệ rừng, thời gian qua cơ quan kiểm lâm nhân dân các cấp đã kiểm tra,
ngăn chặn và xử lý được nhiều vụ vi phạm luật lệ bảo vệ rừng, thu hồi về cho
Nhà nước được nhiều loại lâm sản với khối lượng khá lớn.

Nhưng đến nay, tình hình quản lý những lâm sản
phạm pháp đó còn có nhiều thiếu sót: chưa có hệ thống kho và thủ kho, thủ tập
nhập, xuất, bảo quản còn tùy tiện, để lâm sản phân tán, ngoài trời dễ hư hỏng,
mất mát; ở một số nơi đã có tình trạng tự ý phân phối, sử dụng trái phép. Đáng
lưu ý một tình hình tồn tại phổ biến ở các hạt, trạm kiểm lâm nhân dân hoặc kiểm
soát lâm sản lâu nay là việc giao nộp lâm sản phạm pháp sau khi đã xử lý thường
có nhiều khó khăn, lâm sản bị tồn kho nhiều, một số loại lâm sản không giao nộp
được, có loại tồn từ mấy năm nay đến nay vẫn chưa được giải quyết …

Tồn tại đó vừa gây lãng phí, vừa gây những ảnh
hưởng không có lợi đối với công tác của cơ quan kiểm lâm nhân dân.

Để kịp thời khắc phục tình hình trên đây, căn cứ
vào các chính sách, chế độ, thể lệ quản lý lâm sản hiện hành của Nhà nước và
tình hình thực tế về các loại lâm sản đã thu hồi được, Bộ Lâm nghiệp yêu cầu
các ông Trưởng Ty lâm nghiệp, chỉ cục trưởng và hạt trưởng kiểm lâm nhân dân cấp
tính thi hành nghiêm chỉnh những việc sau đây:

1.Tăng cường quản lý những lâm sản phạm pháp đã xử lý hoặc mới
tạm giữ theo đúng pháp luận hiện hành, tuyệt đối không tự ý phân phối sử dụng.
Nhanh chóng xây dựng hệ thống kho, thủ kho ở các hạt, trạm kiểm lâm nhân dân hoặc
kiểm soát lâm sản, xây dựng nội quy về thủ tục nhập, xuất, thống kê, vào sổ
sách, bảo quản, chống mọi hiện tượng để mất mát, hư hỏng.

2.Đối với những lâm sản phạm pháp sau khi đã xử lý, cơ quan kiểm
lâm nhân dân có trách nhiệm giao nộp cho cơ quan làm nhiệm vụ phân phối lâm sản
để phân phối theo kế hoạch Nhà nước; cơ quan làm nhiệm vụ phân phối có trách
nhiệm nhận những lâm sản phạm pháp mà cơ quan kiểm lâm nhân dân đã xử lý và
chuyển giao sang. Cơ quan giao và cơ quan nhận lâm sản phải thực hiện đầy đủ
trách nhiệm của mình, bảo đảm việc giao nhận được kịp thời, có chứng từ giao nhận
cụ thể, không để lâm sản bị ứ đọng, hư hỏng, mất mát.

3.Đối với gỗ phạm pháp đã xử lý.

a) Đối với gỗ tròn, gổ xẻ thuộc tất cả
các nhóm gỗ, cơ quan kiểm lâm nhân dân có trách nhiệm giao cho công ty vật tư
lâm sản hoặc giao cho lâm trường đóng tại địa phương, tùy theo địa điểm tập
trung lâm sản phạm pháp ở từng đơn vị kiểm lâm nhân dân. Riêng đối với gỗ nhóm
I (hoặc gỗ thượng hạng ở các tỉnh phía Nam), các công ty vật tư lâm sản phải có
kế hoạch dự trữ và chỉ được phân phối theo lệnh của Nhà nước.

Về giá giao, nếu giao cho lâm trường thì áp dụng
theo giá thu mua lâm sản hiện hành tại địa phương; nếu giao cho công ty vật tư
lâm sản thì áp dụng theo giá bán vật tư lâm sản tại bãi 2, nơi chưa có hoặc
không có giá trị quy định thì giá giao cụ thể sẽ do hai bên cơ quan giao và nhận
thỏa thuận. Trong những trường hợp mà việc thu hồi gỗ phạm pháp phải mất nhiều
công vận chuyển, cơ quan kiểm lâm nhân dân còn được tính thêm phí vận chuyển thực
tế vào giá giao; phí vận chuyển tính thêm này do cơ quan nhận lâm sản thanh
toán trên cơ sở thỏa thuận giữa hai bên.

Đối với số gỗ phạm pháp mà cơ quan kiểm lâm nhân
dân chuyển giao nhưng cả lâm trường và công ty vật tư lâm sản không nhận được
(gỗ không đủ quy cách, phẩm chất giao nhận; gỗ nằm quá phân tác, rải rác và có
khối lượng không lớn mà việc thu hồi đòi hỏi phí vận chuyển chung quá lớn) thì
cơ quan kiểm lâm nhân dân phải lập biên bản về số gỗ đó, có xác nhận của lâm
trường và công ty vật tư lâm sản, sau đó có thể giải quyết như sau :

 – Chi cục, hạt kiểm lâm nhân dân các tỉnh,
trong từng thời gian, tổng hợp tình hình gỗ phạm pháp không giao nộp được ở các
hạt, trạm, báo cáo với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố để có kế hoạch giao cho
công ty vật liệu kiến thiết hoặc phân phối trực tiếp cho nhu cầu của các ngành,
cơ quan, đơn vị đã có kế hoạch được phân phối gỗ tại đị phương. Về giá giao, áp
dụng theo giá bán vật tư lâm sản tại địa phương; về mặt kế hoạch phân phối vật
tư lâm sản, tùy theo khối lượng gỗ đã giao cụ thể, mà có thể trừ hoặc cộng thêm
vào kế hoạch phân phối gỗ trong năm đó của đơn vị đã được nhận số gỗ đó.

– Đối với số gỗ phạm pháp nằm phân tán ở rừng, hạt
kiểm lâm nhân dân có thể cấp gỗ đó cho nhu cầu gia dụng của nhân dân những xã ở
nơi có rừng theo đối tượng và khối lượng đã được xét, cấp phép, để tiết kiệm bớt
gỗ phải chặt ở rừng cho nhu cầu gia dụng; hoặc có thể xét cho cấp xã; hợp tác
xã sở tại để sử dụng vào các nhu cầu phục vụ lợi ích công cộng hoặc tập thể
(làm cầu cống, xây dựng nhà trẻ, lớp mẫu giáo…); nhưng không được cấp gỗ thuộc
các nhóm I,II (hoặc gỗ thượng hạng và gỗ hạng I ở các tỉnh phía Nam). Về giá
giao, cá nhân hoặc đơn vị được nhận gỗ phải trả tiền cho hạt kiểm lâm nhân dân
theo giá thu mua lâm sản hiện hành tại địa phương và phải nộp tiền nuôi rừng
cho Nhà nước.

b) Đối với gỗ mộc và gỗ phạm pháp đã sơ chế:

 – Đối với gỗ mộc như giường, tủ, bàn, ghế…
cơ quan kiểm lâm nhân dân báo cáo với Ủy ban nhân dân cùng cấp để có kế hoạch
phân phối các hàng đó cho nhu cầu của các cơ quan, đơn vị xung quanh tỉnh, huyện;
riêng đối với đồ mộc thuộc gỗ nhóm I (hoặc gỗ thượng hạng ở các tỉnh phía Nam),
chi cục, hạt kiểm lâm nhân dân cấp tỉnh phải tập trung lại để giao Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố sử dụng cho các nhu cầu phục vụ lợi ích công cộng. Về giá
giao, áp dụng theo giá bán lẻ đồ mộc tại địa phương.

– Đối với gỗ mới sơ chế như mặt bàn, mặt ghế, vai
giường…cơ quan kiểm lâm nhân dân có thể giao cho xí nghiệp đồ mộc tại địa
phương, theo giá bán vật tư lâm sản tại địa phương.

– Đối với đồ mộc và gỗ sơ chế mà cơ quan kiểm
lâm nhân dân giao nhưng không có cơ quan đơn vị nào nhận thì cơ quan kiểm lâm
nhân dân được áp dụng chế độ bán hóa giá cho cán bộ, nhân viên xung quanh tỉnh,
huyện kể cả cho nội bộ cơ quan kiểm lâm nhân dân.

4. Đối với củi, tre, nứa phạm
pháp đã xử lý.

a) Đối với củi, tre, nứa các loại, cơ quan kiểm
lâm nhân dân có trách nhiệm giao cho công ty vật tư lâm sản hoặc giao cho lâm
trường đóng tại địa phương, tùy theo địa điểm tập trung lâm sản phạm pháp ở từng
đơn vị kiểm lâm nhân dân.Về giá cao, áp dụng theo giá bán vật tư lâm sản tại
bãi 2 hay theo giá bán hai bên thỏa thuận (đối với công ty vật tư lâm sản), hoặc
theo giá thu mua hiện hành tại địa phương (đối với lâm trường).

b) Đối với số củi, tre, nứa phạm pháp mà cơ quan
kiểm lâm nhân dân chuyển giao nhưng cả lâm trường và công ty vật tư lâm sản
không nhận được (như trường hợp đã nêu đối với gỗ phạm pháp tại điểm a, mục 3
trên đây) thì cơ quan kiểm lâm nhân dân phải lập biên bản về số lâm sản đó, có
xác nhận của lâm trường và Công ty vật tư lâm sản, sau đó có thể giải quyết như
sau:

Cơ quan kiểm lâm nhân dân báo cáo với Ủy ban
nhân dân cùng cấp để có kế hoạch giao cho công ty vật liệu kiến thiết hoặc kiểm
lâm nhân dân phân phối trực tiếp cho nhu cầu của địa phương, cho xã, hợp tác xã
đã tham gia vào việc phát hiện ngăn chặn vụ vi phạm có số lâm sản đã xử lý đó,
để sử dụng cho các nhu cầu phục vụ lợi ích công cộng hoặc tập thể.

Về giá giao, áp dụng theo giá thu mua lâm sản hiện
hành tại địa phương và đơn vị nhận lâm sản phải nộp tiền nuôi rừng cho Nhà nước.

5. Đối với các lâm sản phạm
pháp khác đã xử lý.

a) Các lâm sản thuộc mặt hàng lâm nghiệp thu
mua, thì cơ quan kiểm lâm nhân dân giao cho công ty vật tư lâm sản hoặc cơ quan
trong ngành lâm nghiệp làm nhiệm vụ thu mua tại địa phương, theo giá thu mua
lâm sản hiện hành tại địa phương.

b) Các lâm sản thuộc mặt hàng thu mua của ngành
nội thương, ngoại thương, y tế, thì cơ quan kiểm lâm nhân dân giao cho các cơ
quan làm nhiệm vụ thu mua của các ngành đó tại địa phương, theo giá thu mua hiện
hành tại địa phương.

Các cơ quan nhận lâm sản trong trường hợp a và b
trên đây, ngoài việc trả tiền cho cơ quan kiểm lâm nhân dân theo giá giao đã
quy định, còn phải nộp tiền nuôi rừng cho Nhà nước.

c) Đối với các tang vật thuộc loại thực phẩm
tươi sống như thịt, chim, thú hoang dã, măng tươi…tuy chưa xử lý nhưng hướng là
xử lý tịch thu hoặc trưng mua lại, thì cơ quan kiểm lâm nhân dân phải kịp thời
giao cho cửa hàng thực phẩm hoặc nhà ăn tập thể tại địa phương, và tùy theo hướng
xử lý là tịch thu hoặc trưng mua lại mà đơn vị nhận tang vật đó trả tiền cho cơ
quan kiểm lâm nhân dân hoặc trả trực tiếp cho người vi phạm. Riêng đối với những
loại chim, thú còn sống có giá trị kinh tế cao hoặc thuộc loại quý hiếm, các
chi cục phải báo cáo kịp thời về Cục kiểm lâm nhân dân để có hướng giải quyết
chung một các hợp lý.

 6. Về tổ chức thực hiện
cụ thể:

Các Ty lâm nghiệp, chi cục và hạt kiểm lâm nhân
dân cấp tỉnh phối hợp cùng với các cơ quan làm nhiệm vụ phân phối, thu mua lâm
sản tại địa phương để bàn bạc cụ thể về vấn đề chế độ trách nhiệm giữa cơ quan
giao và cơ quan nhận lâm sản; địa điểm hành chính trong việc giao nhận; địa điểm
giao nhận ở các huyện; việc thực hiện chế độ giá giao, thủ tục thanh quyết
toán, nộp tiền nuôi dưỡng…

Cục kiểm lâm nhân dân, các công ty chế biến cung
ứng lâm sản I, II, III và các Ty lâm nghiệp; chi cục, hạt kiểm lâm nhân dân cấp
tỉnh chịu trách nhiệm phổ biến ngay chỉ thị này cho các đơn vị trong ngành và tổ
chức chỉ đạo thi hành nghiêm chỉnh.

 

 

K.T. BỘ TRƯỞNG BỘ LÂM NGHIỆP

THỨ TRƯỞNG

 

 

 

 

Trần Văn Quế

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ
******

CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
******

Số : 288-CP


Nội, ngày 29 tháng 10  năm 1977

 

NGHỊ ĐỊNH

BAN HÀNH ĐIỀU LỆ CÔNG TÁC KẾ TOÁN – THỐNG KÊ XÍ NGHIỆP CÔNG
NGHIỆP QUỐC DOANH

HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ

Căn cứ vào Điều lệ xí nghiệp
công nghiệp quốc doanh ban hành kèm theo nghị định số 93-CP ngày 8-4-1977 của Hội
đồng Chính phủ;
Căn cứ vào Điều lệ về tổ chức và hoạt động của Bộ Tài chính ban hành kèm theo
nghị định số 61-Chính phủ ngày 29-3-1974 của Hội đồng Chính phủ;
Căn cứ điều lệ về tổ chứ và hoạt động của Tổng cục Thống kê ban hành kèm theo
nghị định số 72-Chính phủ ngày 5-4-1974 của Hội đồng Chính phủ;
Để từng bước đưa công tác kế toán – thống kê và thông tin kinh tế ở xí nghiệp
đi vào nề nếp;
Theo đề nghị của ông Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê và ông Bộ trưởng Bộ Tài
chính.

NGHỊ ĐỊNH:

Điều 1. – Nay ban hành kèm theo nghị định này bản Điều lệ
công tác kế toán – thống kê xí nghiệp công nghiệp quốc doanh áp dụng thống nhất
cho các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh trung ương và địa phương.

Điều 2. – Tổng cục Thống kê và Bộ Tài chính có nhiệm vụ:

– Hướng dẫn,
kiểm tra việc thực hiện bản điều lệ này trong các xí nghiệp công nghiệp quốc
doanh.

– Ra văn bản
hướng dẫn việc áp dụng bản điều lệ này trong các xí nghiệp quốc doanh thuộc các
ngành kinh tế khác.

Điều 3: – Bản điều lệ này thi hành kể từ ngày ký; những
văn bản quy định trước đây trái với bản điều lệ này đều bãi bỏ.

Điều 4: – Các ông Bộ trưởng, Tổng cục trưởng có quản lý
công nghiệp, các ông Chủ tịch Ủy ban nhân dân địa phương có trách nhiệm chỉ đạo
việc thực hiện bản điều lệ này ở các xí nghiệp công nghiệp và vận dụng bản điều
lệ này đối với xí nghiệp ở các ngành khác thuộc phạm vi quản lý của mình theo sự
hướng dẫn của Tổng cục Thống kê và Bộ Tài chính.

 

T.M HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
K.T THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ.
PHÓ THỦ TƯỚNG

Lê Thanh Nghị

 

ĐIỀU LỆ

CÔNG TÁC KẾ TOÁN – THỐNG KÊ XÍ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP QUỐC DOANH
(Ban hành kèm theo nghị định của Hội đồng Chính phủ số 288- CP ngày
29-10-1977)

Chương 1:

NHIỆM VỤ, NỘI DUNG VÀ YÊU CẦU CỦA  CÔNG TÁC KẾ TOÁN –
THỐNG KÊ Ở XÍ NGHIỆP.

Điều 1. – Kế toán và thống kế là hai công tác cần được
thống nhất trong một tổ chức để bảo đảm thống nhất số liệu, tăng cường lãnh đạo,
phục vụ đắc lực cho quản lý xí nghiệp. Kế toán – thống kê xí nghiệp công nghiệp
có nhiệm vụ:

1. Ghi chép,
phản ánh một cách chính xác, kịp thời, liên tục và có hệ thống số hiện có và
tình hình biến động về sản lượng, lao động, tài sản, tiền vốn; tính toán chi
phí sản xuất, giá thành sản phẩm, lãi, lỗ, các khoản thanh toán với ngân sách
theo đúng chế độ kế toán, thống kê và thông tin kinh tế của Nhà nước và yêu cầu
quản lý kinh tế, tài chính của xí nghiệp.

2. Thu nhập,
tổng hợp số liệu về tình hình sản xuất, kinh doanh của xí nghiệp cả về hiện vật
và giá trị, nhằm phục vụ việc lập kế hoạch và kiểm tra việc thực hiện kế hoạch,
phục vụ công tác hoạch toán kinh tế, thông tin kinh tế, phân tích hoạt động
kinh tế và lập báo cáo theo quy định của Nhà nước.

3. Kiểm tra
việc thực hiện các chế độ hạch toán, chế độ quản lý kinh tế – tài chính của Nhà
nước, trong phạm vi xí nghiệp, nhằm phát hiện và ngăn ngừa các hiện tượng vi phạm
chế độ chính sách, các hành động tham ô, lãng phí, xâm phạm tài sản xã hội chủ
nghĩa; giám đốc việc sử dụng lao động, tài sản, tiền vốn, bảo đảm sử dụng chúng
một cách hợp lý, tiết kiệm, đúng mục đích, đạt hiệu quả kinh tế cao; phát hiện
và động viên mọi khả năng tiềm tàng để phát triển sản xuất, kinh doanh.

Điều 2. – Nội dung của công việc kế toán – thống kê ở xí
nghiệp bao gồm:

1. Hạch toán
số lượng lao động, sử dụng thời gian lao động và kết quả lao động; hạch toán tiền
lương và bảo hiểm xã hội.

2. Hạch toán
tài sản cố định: nhà cửa, vật kiến trúc, thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải
và các tài sản cố định khác.

3. Hạch toán
tài sản lưu động : nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, phụ tùng thay thế và các
công cụ lao động thuốc vốn lưu động, phế liệu…(gọi chung là vật liệu).

4. Hạch toán
chi phí sản xuất và tính giá thành các loại sản phẩm, công việc trong và ngoài
sản xuất, kinh doanh cơ bản.

5. Hạch toán
nhập, xuất thành phần, tiêu thụ sản phẩm công việc trong và ngoài sản xuất kinh
doanh cơ bản.

6. Hạch toán
các nghiệp vụ thanh toán, tín dụng.

7. Hạch toán
các loại vốn, các loại quỹ.

8. Hạch toán
lãi, lỗ trong và ngoài sản xuất, kinh doanh cơ bản và phân phối lãi.

9. Hạch toán
xây dựng cơ bản.

Điều 3. – Kế toán, thống kê ở xí nghiệp phải đáp ứng các
yêu cầu :1. Thống nhất khái niệm, nội dung phạm vi và phương pháp tính toán;
cách phân bổ các chỉ tiêu giữa kế toán – thống kê với kế hoạch phải khớp với
nhau; thống nhất giữa hiện vật với giá trị và thời gian của các hiện tượng kinh
tế được phản ánh trên sổ sách và báo cáo kế toán – thống kê.

2. Phản ánh
chính xác, trung thực, kịp thời, rõ ràng, dễ hiểu và toàn diện các mặt hoạt động
sản xuất, kinh doanh của xí nghiệp.

3. Bảo đảm việc
ghi chép không trùng lắp; sử dụng một số nguồn số liệu ban đầu thống nhất; thực
hiện nguyên tắc ai phụ trách phần việc gì, phải ghi chép, thu nhập, tổng hợp, lập
báo cáo phần việc đó, và chịu trách nhiệm về sự chính xác, trung thực của số liệu
do mình phụ trách.

4. Phải tạo
điều kiện cho công nhân, viên chức trong xí nghiệp tham gia kiểm tra, giám sát
việc thực hiện các chế độ hạch toán, chế độ quản lý kinh tế, tài chính của Nhà
nước trong xí nghiệp.

Điều 4.– Để thực hiện những nhiệm vụ, nội dung và
yêu cầu công việc quy định ở điều 1, 2 và 3, xí nghiệp phải:

1. Tổ chức thực
hiện ghi chép ban đầu đến tận từng công nhân, từng tổ sản xuất, từng phân xưởng,
áp dụng đúng hệ thống tài khoản kế toán thống nhất, các hình thức và phương
pháp kế toán, thống kê hiện hành, mở các loại sổ sách cần thiết để thu nhập,
tích lũy số liệu.

2. Quy định việc
luân chuyển chứng từ, quan hệ và trách nhiệm giữa các phòng (ban) trong việc
cung cấp số liệu, lập báo cáo, tổ chức thông tin kinh tế trong nội bộ xí nghiệp.

3. Chấp hình
nghiêm chỉnh chế độ báo cáo kế toán – thống kê theo quy định của Nhà nước.

4. Định kỳ tiến
hành kiểm kê tài sản, tổ chức phân tích hoạt động kinh tế trong xí nghiệp.

5. Thường
xuyên bồi dưỡng và nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ kế toán, thống kê
trong xí nghiệp.

6. Từng bước
cơ giới hóa và hiện đại hóa công tác tính toán và thông tin kinh tế.

Chương 2:

TỔ CHỨC BỘ MÁY KẾ TOÁN – THỐNG KÊ Ở XÍ NGHIỆP

Điều 5. – Tổ chức bộ máy kế toán – thống kê ở xí nghiệp phải bảo
đảm nguyên tắc:

1. Tổ chức bộ
máy kế toán – thống kê một cấp trong xí nghiệp.

2. Bảo đảm sự
chỉ đạo toàn diện, thống nhất và tập trung công tác kế toán – thống kê và hạch
toán nghiệp vụ – kỹ thuật của kế toán trưởng (phần hạch toán nghiệp vụ – kỹ thuật
có liên quan đến kế toán – thống kê, thông tin kinh tế như sử dụng lao động, vật
tư, thiết bị máy móc, chất lượng sản phẩm, công trình…)

3. Gọn nhẹ, hợp
lý, chuyên môn hóa, đủ năng lực, đủ số người để hoàn thành nhiệm vụ được giao.

4. Phù hợp với
tổ chức sản xuất và yêu cầu quản lý của xí nghiệp.

Điều 6. – Công tác kế toán – thống kê ở xí nghiệp do một bộ
máy chuyên trách đảm nhiệm gọi là phòng (hoặc ban) kế toán – thống kê.

1. Phòng
(ban) kế toán – thống kê có nhiệm vụ :

– Tiến hành hạch
toán đúng chế độ, đúng phương pháp các phần hành, phần việc kế toán – thống kê
đã quy định ở điều 2;

– Lập các báo
cáo kế toán – thống kê được phân công và kiểm tra sự chính xác của các báo cáo
thống kê do các phòng (ban) khác lập;

– Giúp giám đốc
xí nghiệp hướng dẫn, chỉ đạo các phòng (ban) và các bộ phận trực thuộc xí nghiệp,
thực hiện ghi chép ban đầu, mở sổ sách hạch toán nghiệp vụ – kỹ thuật (phần
liên quan đến kế toán – thống kê và thông tin kinh tế theo đúng chế độ, phương
pháp;

– Giúp giám đốc
xí nghiệp tổ chức công tác thông tin kinh tế, hạch toán kinh tế và phân tích hoạt
động kinh tế quyết toán việc thực hiện kế hoạch trong xí nghiệp;

– Giúp giám đốc
xí nghiệp phổ biến, hướng dẫn và thường xuyên kiểm tra việc thực hiện các chế độ
hạch toán, chế độ quản lý kinh tế – tài chính trong phạm vi xí nghiệp;

– Lưu trữ, bảo
quản hồ sơ tài liệu và quản lý tập trung thống nhất số liệu kế toán – thống kê
và cung cấp các số liệu đó cho các bộ phận liên quan trong xí nghiệp và cho các
cơ quan quản lý cấp trên theo chế độ quy định.

2. Cơ cấu tổ
chức phòng (hoặc ban kế toán thống kê gồm các bộ phận (tổ, nhóm hoặc cá nhân
chuyên trách) sau đây:

– Bộ phân hạch
toán lao động và tiền lương.

– Bộ phận hạch
toán vật liệu và tài sản cố định,

– Bộ phận hạch
toán xây dựng cơ bản,

– Bộ phận hạch
toán tổng hợp.

Đối với công
tác xây dựng cơ bản, nếu khối lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản không lớn, công
việc không thường xuyên thì không tổ chức bộ phận hạch toán xây dựng cơ bản
riêng mà do bộ phận hạch toán  tổng hợp kiêm nhiệm.

Đối với các
công tác tài chính, nếu xí nghiệp chưa có điều kiện tổ chức thành phòng (ban)
tài chính riêng thì tổ chức một bộ phận tài chính trong phòng kế toán – thống
kê, do một phó phòng (hoặc người được chỉ định) phụ trách gọi là phó phòng (hoặc
cán bộ) phụ trách tài chính. Bộ phận này thực hiện nhiệm vụ của mình theo quy định
ở điều 12.

Đối với tất cả
các xí nghiệp có tổ chức phân xưởng (hoặc tương đương phân xưởng như đội, ngành
sản xuất…) phải bố trí các nhân viên hạch toán phân xưởng. Các nhân viên này
thuộc biên chế của phòng (ban) kế toán – thống kê, được phân công chuyên trách
công tác kế toán – thống kê quy định ở phân xưởng.

Điều 7. -Bộ phận hạch toán lao động và tiền lương có nhiệm vụ:

1. Tổ chức
ghi chép, phản ánh, tổng hợp số liệu về số lượng lao động, thời gian lao động
và kết quả lao động; tính lương, bảo hiểm xã hội và các khoản phụ cấp, trợ cấp;
phân bổ tiền lương và bảo hiểm xã hội vào các đối tượng sử dụng lao động.

2. Hướng dẫn,
kiểm tra các nhân viên hạch toán phân xưởng, các phòng (ban) thực hiện đầy đủ
các chứng từ ghi chép ban đầu về lao động và tiền lương, mở sổ sách cần thiết
và hạch toán nghiệm vụ lao động, tiền lương đúng chế độ, phương pháp.

3. Lập các
báo cáo về lao động và tiền lương thuộc về phần việc do mình phụ trách.

4. Phân tích
tình hình quản lý, sử dụng thời gian lao động, quỹ tiền lương, năng suất lao động.

Điều 8. – Bộ phận hạch toán vật liệu và tài sản cố định có nhiệm
vụ:

1. Tổ chức
ghi chép, phản ánh, tổng hợp số liệu về tình hình thu mua, vận chuyển, nhập, xuất
và tồn kho vật liệu, tính giá thành thực tế của vật liệu thu mua và kiểm tra
tình hình thực hiện kế hoạch cung ứng vật liệu về số lượng, chất lượng, mặt
hàng…

2. Áp dụng
đúng đắn phương pháp hạch toán vật liệu, hướng dẫn, kiểm tra các phân xưởng,
các kho và các phòng (ban) thực hiện các chứng từ ghi chép ban đầu về vật liệu,
mở sổ sách cần thiết và hạch toán vật liệu đúng chế độ, phương pháp.

3. Kiểm tra
việc chấp hành chế độ bảo quản, nhập, xuất vật liệu, các định mức dự trữ và đề
xuất biện pháp xử lý vật liệu thừa, thiếu, ứ đọng, kém , mất phẩm chất; xác định
số lượng và giá trị vật liệu tiêu hao vào các đối tượng sử dụng.

4. Tham gia
công tác kiểm kê, đáng giá vật liệu, lập các báo cáo về vật liệu và tiến hành
phân tích tình hình thu mua, bảo quản, dự trữ và sử dụng vật liệu.

5. Tổ chức
ghi chép, phản ánh, tổng hợp số liệu về số lượng, hiện trạng và giá trị tài sản
cố định hiện có, tình hình tăng, giảm và di chuyển tài sản cố định; kiểm tra việc
bảo quản, bảo dưỡng và sử dụng tài sản cố định hợp lý, có hiệu quả.

6. Tính toán
và phân bố khấu hao tài sản cố định hàng tháng vào giá thành sản phẩm; giám sát
việc trích nộp kịp thời khấu hao cơ bản ngân sách Nhà nước và hoàn trả vốn vay
của ngân hàng.

7. Tham gia lập
dự toán sửa chữa lớn tài sản cố định; tính toán chi phí sửa chữa lớn tài sản cố
định, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch sửa chữa lớn và dự toán chi phí sửa chữa
lớn, việc sử dụng đúng mục đích quỹ khấu hao sửa chữa lớn; phản ánh kịp thời
giá trị phục hồi tài sản cố định, giá trị tài sản cố định xây dựng thêm, trang
bị thêm, hiện đại hóa…phản ánh tình hình, chi phí và kết quả thanh lý tài sản cố
định.

8. Hướng dẫn,
kiểm tra các phân xưởng và các phòng (ban) thực hiện đầy đủ các chứng từ ghi
chép ban đầu về tài sản cố định, mở các sổ sách cần thiết và hạch toán tài sản
cố định đúng chế độ, phương pháp.

9. Tham gia
kiểm kê và đánh giá lại tài sản cố định theo quy định của Nhà nước, lập các báo
cáo về tài sản cố định, tiến hành phân tích tình hình trang bị, huy động, bảo
quản sử dụng nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của tài sản cố định.

Điều 9. – Bộ phận hạch toán chi phí sản xuất và giá thành có
nhiệm vụ:

1. Xác định đối
tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm, vận dụng
các phương pháp hạch toán, phân bổ chi phí và tính giá thành phù hợp với đặc điểm
sản xuất và quy trình công nghệ của xí nghiệp.

2. Tổ chức
ghi chép, phản ánh, tổng hợp chi phí sản xuất theo từng giai đoạn sản xuất, từng
phân xưởng, theo yếu tố chi phí, khoản mục giá thành, theo sản phẩm và công việc.

3. Tham gia
vào việc xây dựng chỉ tiêu hạch toán nội bộ và việc giao chỉ tiêu đó cho phân
xưởng và các bộ phận có liên quan.

4. Xác định sản
lượng và chi phí sản xuất dở dang, tính giá thành thực tế của sản phẩm, công việc
hoàn thành, tổng hợp kết quả hạch toán kinh tế của các phân xưởng, tổ sản xuất,
kiểm tra việc thực hiện dự toán chi phí sản xuất và kế hoạch giá thành sản phẩm.

5. Hướng dẫn,
kiểm tra các bộ phận hạch toán có liên quan tính toán, phân loại các khoản chi
phí nhằm phục vụ việc tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành được nhanh
chóng, khoa học.

6. Lập các
báo cáo về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.

7. Phân tích
tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, phát hiện mọi khả năng tiềm tàng để phấn
đấu không ngừng hạ giá thành.

Điều 10.– Bộ phận hạch toán xây dựng cơ bản có nhiệm
vụ :

1. Tổ chức
ghi chép, phản ánh, tổng hợp số liệu về tình hình vay, cấp phát, sử dụng, thanh
toán, quyết toán vốn đầu tư, công trình hoàn thành và huy động công trình vào sử
dụng.

2. Tính toán
chi phí xây dựng, mua sắm tài sản cố định và giá thành công trình hoàn thành, kết
quả lãi, lỗ về xây dựng cơ bản.

3. Kiểm tra
việc chấp hành dự toán chi phí, kế hoạch hóa giá thành xây lắp, tiến độ và chất
lượng công trình.

4. Lập các
báo cáo về đầu tư xây dựng cơ bản.

5. Phân tích
tình thực hiện kế hoạch và hiệu quả vốn đầu tư.

Điều 11. – Bộ phận hạch toán tổng hợp có nhiệm vụ:

1. Tổ chức ghi chép, phản ánh,
tổng hợp số liệu về nhập, xuất thành phẩm, tiêu thụ sản phẩm, về các loại vốn,
các loại quỹ của xí nghiệp, các khoản cấp phát khác; xác định kết quả lãi, lỗ,
các khoản thanh toán với ngân sách Nhà nước, với ngân hàng, với khách hàng,
trong nội bộ ngành và nội bộ xí nghiệp.

2. Ghi chép sổ
cái, lập bản tổng kết tài sản và các báo cáo thuộc phần việc do mình phụ trách
và một số báo cáo chung không thuộc nhiệm vụ của các bộ phận trên, kể cả báo
cáo điều tra, ước tính. Kiểm tra lại tính chính xác, trung thực của các báo cáo
kế toán – thống kê của xí nghiệp trước khi giám đốc ký duyệt.

3. Tổ chức
công tác thông tin nội bộ xí nghiệp, hạch toán kinh tế nội bộ và phân tích hoạt
động kinh tế. Hướng dẫn, huấn luyện các phòng (ban), phân xưởng áp dụng các chế
độ ghi chép ban đầu, chế độ kế toán, thống kê của Nhà nước. Giúp kế toán trưởng
dự thảo các văn bản về công tác hạch toán trình giám đốc xí nghiệp ban hành áp
dụng trong xí nghiệp (như quy định việc luân chuyển chứng từ, phân công lập báo
cáo, quan hệ về cung cấp số liệu giữa các phòng, ban…)

4. Kiểm tra
thường xuyên và có hệ thống việc thực hiện các chế độ, phương pháp hạch toán,
các chế độ quản lý kinh tế – tài chính trong xí nghiệp, kiến nghị các biện pháp
xử lý các trường hợp vi phạm các chế độ đó.

5. Giúp kế
toán trưởng làm báo cáo phân tích hoạt động kinh tế của xí nghiệp.

6. Bảo quản,
lưu trữ hồ sơ, tài liệu, số liệu kế toán – thống kê, thông tin kinh tế và cung
cấp các tài liệu, số liệu đó cho các phòng (ban), phân xưởng trong xí nghiệp và
cho bên ngoài.

Điều 12. –
Bộ phận tài chính có nhiệm vụ :

1.  Lập dự thảo kế
hoạch tài chính đồng thời và thống nhất với kế hoạch sản xuất – kỹ thuật của xí
nghiệp.

2. Trên cơ sở kế hoạch đã được duyệt
và trong phạm vi chế độ cho phép, tùy theo tính chất của mỗi hoạt động kinh tế
mà huy động nguồn vốn thích hợp, sử dụng vốn hợp lý và tiết kiệm, bảo đảm cho
các hoạt động sản xuất, kinh doanh được thực hiện với hiệu quả kinh tế cao, nhằm
hoàn thành toàn diện và vượt mức kế hoạch Nhà nước.

3. Tổ chức thanh toán kịp thời,
đầy đủ, đúng hạn, đúng chế độ chính sách các khoản phải thanh toán của xí nghiệp.

4. Trích lập và sử dụng các loại
quỹ đúng chế độ, đúng mục đích.

5. Thường xuyên tiến hành kiểm
tra tài chính đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh định kỳ phân tích tình
hình tài chính xí nghiệp nhằm thúc đẩy xí nghiệp có biện pháp sử dụng triệt để
và có hiệu quả những vật tư, thiết bị vào lao động hiện có; thường xuyên cải tiến
công tác tài chính để không ngừng tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn, thúc đẩy sản
xuất phát triển.

6. Giúp giám đốc xí nghiệp xây dựng
giá bán buôn xí nghiệp và thực hiện nghiêm chỉnh chính sách giá cả của Nhà nước
trong phạm vi xí nghiệp.

7. Tham gia xây dựng hợp đồng
kinh tế với khách hàng, đặc biệt là việc quy định các điều kiện tài chính ghi
trong hợp đồng.

Công tác tài chính dù được tổ chức
riêng thành một phòng (ban) trực thuộc giám đốc hay tổ chức thành một bộ phận
trong phòng kế toán – thống kê, trưởng phòng tài chính (trong trường hợp tổ chức
riêng), phó phòng kế toán – thống kê hoặc người được chỉ định phụ trách tài
chính (trong trường hợp tổ chức thành một bộ phận của phòng kế toán – thống kê)
đều phải ký và chịu trách nhiệm chính về sự chính xác của các chứng từ và văn bản
về tài chính. Chữ ký của kế toán trưởng trong các chứng từ và văn bản này đều
có ý nghĩa là chữ ký của kiểm soát viên Nhà nước về tài chính tại xí nghiệp.

Điều 13.-
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của kế toán trưởng, nhân viên hạch toán phân xưởng có
nhiệm vụ
:

1. Ghi chép, thu nhập, tổng hợp
số liệu về tình hình sử dụng lao động, vật liệu, thiết bị, máy móc, số lượng sản
phẩm, chất lượng sản phẩm trong phạm vi phân xưởng (tùy tình hình cụ thể có thể
được giao tính lương, chi phí sản xuất giá thành của phân xưởng) để phục vụ việc
chỉ đạo sản xuất của quản đốc phân xưởng, tổ trưởng sản xuất và phục vụ sự chỉ
đạo toàn diện thống nhất, tập trung công tác kế toán – thống kê của kế toán trưởng.

Tham gia kiểm kê đánh giá sản phẩm
dở dang và các cuộc điều tra có liên quan.

2. Cung cấp các tài liệu, số liệu
thuộc phần việc mình phụ trách cho quản đốc phân xưởng, tổ trưởng sản xuất, cho
phòng (ban) kế toán-thống kê và cho các phòng (ban) liên quan.

3. Định kỳ lập báo cáo cho quản
đốc phân xưởng về tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất và kết quả hạch toán
kinh tế nội bộ của phân xưởng.

Giúp quản đốc phân xưởng tổ chức
công tác thông tin nội bộ phân xưởng.

Các xí nghiệp cần căn cứ vào quy
mô hoạt động, khối lượng và tính chất phức tạp của công tác hạch toán, điều kiện
địa dư…của các phân xưởng mà bố trí số lượng nhân viên hạch toán thích hợp ở mỗi
nơi, nhằm bảo đảm thực hiện đầy đủ mọi công việc kế toán – thống kê đã quy định
ở các phân xưởng.

Điều 14.– Đối với xí nghiệp liên hợp:

1. Xí nghiệp liên hợp tổ
chức bộ máy kế toán – thống kê một cấp theo cơ cấu quy định ở điều 6. 

2. Đối với các xí nghiệp trực
thuộc có khối lượng công tác hạch toán nhỏ, không phức tạo chỉ bố trí các nhân
viên, hạch toán thực hiện nhiệm vụ như nhân viên hạch toán phân xưởng quy định ở
điều 13.

3. Đối với các xí nghiệp trực
thuộc có khối lượng công tác hạch toán lớn và phức tạp, cần tổ chức một bộ phận
hạch toán gọn, nhẹ trực thuộc phòng kế toán – thống kê xí nghiệp liên hợp, bộ
phận này chịu trách nhiệm về toàn bộ công tác kế toán – thống kê của xí nghiệp
trực thuộc và lập một số báo cáo theo quy định của kế toán trưởng xí nghiệp
liên hợp.

Điều 15.– Nhiệm vụ của phòng (ban) kế toán – thống kê đối với các phòng (ban) khác :

1. Tổ chức tổng hợp, xác
minh, cung cấp các số liệu thực hiện trong xí nghiệp theo quy định để phục vụ
công tác kế hoạch hóa, công tác quản lý của các phòng (ban).

2. Tham gia ý kiến với các phòng
(ban) liên quan trong việc lập các kế hoạch về từng mặt và kế hoạch tổng hợp của
xí nghiệp, bảo đảm sự cân đối và thống nhất giữa hiện vật và giá trị trong kế
hoạch.

3. Hướng dẫn kiểm tra các phòng
(ban) liên quan thực hiện đầy đủ các chứng từ ghi chép ban đầu, mở sổ sách cần
thiết về hạch toán nghiệp vụ – kỹ thuật (phần liên quan đến công tác kế toán –
thống kê và thông tin kinh tế) theo đúng chế độ, phương pháp quy định của Nhà
nước.

4. Thông qua công tác kế toán,
thống kê và phân tích kinh tế mà giúp giám đốc xí nghiệp kiểm tra việc thực hiện
các chế độ quản lý kinh tế – tài chính của các phòng (ban).

Điều 16.– Các phòng (ban) khác có nhiệm vụ :

1. Thu nhập, ghi chép, tổng hợp
số liệu thuộc phần việc do mình phụ trách, lập các báo cáo thống kê được phân
công và gửi cho phòng (ban) kế toán – thống kê và phải chịu trách nhiệm về sự
chính xác, trung thực của số liệu đó.

2. Cung cấp cho phòng (ban) kế
toán – thống kê các kế hoạch, các định mức, tiêu chuẩn kinh tế – kỹ thuật, các
dự toán chi phí, các danh mục vật liệu, sản phẩm…để phòng (ban) này tiến hành hạch
toán và kiểm tra việc thực hiện của kế hoạch, định mức, tiêu chuẩn đó.

3. Cung cấp cho phòng (ban) kế
toán – thống kê và các tài liệu, số liệu cần thiết cho công tác hạch toán và kiểm
tra, cho công tác thông tin kinh tế, phân tích hoạt động kinh tế và phối hợp với
phòng (ban) này tổ chức công tác đó.

 4. Thực hiện đầy đủ các chế
độ hạch toán có liên quan và chịu sự kiểm tra, giám sát của kế toán trưởng về
việc chấp hành các chế độ đó.

Chương 3:

KẾ TOÁN TRƯỞNG XÍ NGHIỆP

Điều 17.
– Kế toán trưởng xí nghiệp là người giúp giám đốc tổ chức và chỉ đạo toàn bộ
công tác kế toán, thống kê, thông tin kinh tế và hạch toán kinh tế ở xí nghiệp,
đồng thời là kiểm soát viên kinh tế – tài chính của Nhà nước tại xí nghiệp.

Điều 18.
– Kế toán trưởng chịu trách nhiệm trước giám đốc xí nghiệp, đồng thời chịu
trách nhiệm trước kế toán trưởng cấp trên trực tiếp và trước Nhà nước về các
công việc thuộc nhiệm vụ và quyền hạn của mình.

Kế toán trưởng chịu sự chỉ đạo
và kiểm tra của Bộ Tài chính, các cơ quan tài chính và thống kê địa phương về
công tác tài chính và kế toán; chịu sự chỉ đạo và kiệm tra của Tổng cục Thống
kê và các cơ quan thống kê địa phương về công tác hạch toán (bao gồm cả hạch
toán kế toán) thống kê và thông tin kinh tế.

 Kế toán trưởng cấp trên trực
tiếp, cơ quan tài chính và thống kê địa phương, có nhiệm vụ kiểm tra, hướng dẫn,
giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho kế toán trưởng xí nghiệp làm tròn
nhiệm vụ; có biện pháp để bồi dưỡng và nâng cao trình độ nghiệp vụ cho kế toán
trưởng xí nghiệp.

Giám đốc xí nghiệp cần tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho kế toán trưởng hoàn thành nhiệm vụ và thường xuyên
kiểm tra công việc của kế toán trưởng, thi hành các chế độ đãi ngộ của Nhà nước
đối với kế toán trưởng.

Kế toán trưởng được dự các buổi
hội nghị của xí nghiệp bàn và quyết định về các vấn đề kế hoạch, cải tiến tổ chức
sản xuất, quản lý kinh tế, tài chính, cải tiến kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật mới,
đầu tư xây dựng cơ bản, mở rộng sản xuất, nâng cao đời sống văn hóa, vật chất
cho công nhân, viên chức xí nghiệp.

Điều 19.
– Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm và thuyên chuyển kế toán trưởng xí nghiệp do Bộ trưởng,
Tổng cục trưởng (đối với xí nghiệp địa phương) quyết định, theo đề nghị của
giám đốc xí nghiệp và sau khi hỏi ý kiến Bộ trưởng Bộ Tài chính, Tổng cục trưởng
Thống kê (đối với xí nghiệp trung ương) hoặc thủ trưởng cơ quan tài chính cơ
quan thống kê địa phương (đối với xí nghiệp địa phương).

Mỗi khi thay đổi kế toán trưởng,
giám đốc xí nghiệp phải tổ chức bàn giao công việc giữa kế toán trưởng cũ và kế
toán trưởng mới; giám đốc xí nghiệp cùng kế toán trưởng cũ và mới phải ký vào
biên bản giao, đồng thời phải thông báo tên, chữ ký của kế toán trưởng mới cho
các cơ quan liên quan.

Điều 20.
– Xí nghiệp loại 1, 2, 3, 4 có một hoặc hai phó phòng kế toán – thống kê để
giúp việc kế toán trưởng (các xí nghiệp loại 5 trở xuống không có phó phòng kế
toán – thống kê) Phó phòng kế toán – thống kê do giám đốc xí nghiệp bổ nhiệm
theo đề nghị của kế toán trưởng xí nghiệp và sau khi tham khảo ý kiến của kế
toán trưởng cấp trên trực tiếp; phó phòng kế toán – thống kê thực hiện nhiệm vụ
của mình theo sự phân công của kế toán trưởng. Khi tạm thời vắng mặt ở xí nghiệp
và trong trường hợp cần thiết, kế toán trưởng phải ủy quyền cho phó phòng kế
toán – thống kê hoặc người có đủ năng lực tạm thay thế. Việc ủy quyền phải được
giám đốc xí nghiệp duyệt y bằng văn bản.

Điều 21.
– Kế toán trưởng xí nghiệp có trách nhiệm tổ chức thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ,
nội dung và yêu cầu của công tác kế toán – thống kê đã quy định ở các điều 1,
2, 3, 4.

Là kiểm soát viên kinh tế
– tài chính của Nhà nước tại xí nghiệp, kế toán trưởng có nhiệm vụ kiểm tra và
giám sát:

– Việc chấp hành các chế độ quản
lý và bảo vệ tài sản như chế độ bảo quản, sử dụng, kiểm kê, đánh giá tài sản,
chế độ xử lý tài sản thiếu hụt, mất mát, hư hỏng, tổn thất, các khoản nợ khó
đòi, chế độ bồi thường vật chất, thu chi tài chính, quản lý tiền mặt, thanh
toán, tín dụng chế độ thanh lý, chuyển giao, nhượng bán tài sản…;

– Việc thực hiện các hợp đồng
kinh tế về mua, bán vật liệu, sản phẩm, về xây dựng cơ bản;

– Việc thực hiện các định mức
lao động, tiền lương, vật liệu, định mức chi tiêu, thanh toán, mua sắm, trang bị,
cấp phát…;

– Việc chấp hành các chế độ báo
cáo kế toán – thống kê, các chế độ hạch toán về lao động, tiền lương, vật liệu,
tài sản cố định, giá thành…bảo đảm tính chính xác trung thực của các số liệu kế
toán, thống kê;

– Việc thực hiện các kế hoạch sản
xuất, xây dựng cơ bản, giá thành, tài chính, tiêu thụ, lãi lỗ…

Kế toán trưởng có trách nhiệm
giúp giám đốc xí nghiệp:

– Định kỳ tổ chức phân tích hoạt
động kinh tế của xí nghiệp, nhằm phát hiện và ngăn ngừa những lãng phí và thiệt
hại những việc làm không có hiệu quả, những sự trì trệ trong sản xuất, kinh
doanh, đề nghị giám đốc quyết định những biện pháp khắc phục, bảo đảm hiệu quả
sản xuất kinh doanh ngày càng tốt hơn;

– Thúc đẩy nghiên cứu cải tiến
quản lý kinh doanh của xí nghiệp nhằm khai thác khả năng tiềm tàng, tiết kiệm vốn
đầu tư và nâng cao hiệu quả đồng vốn;

– Thúc đẩy thi hành và củng cố
chế độ hạch toán kinh tế tại xí nghiệp và các bộ phận trực thuộc xí nghiệp.

Điều 22.
– Tất cả nhân viên kế toán – thống kê trong xí nghiệp bất kỳ làm việc ở bộ phận
nào đều phải phục tùng sự chỉ đạo của kế toán trưởng. Trước khi quyết định việc
thuyên chuyển, nâng cấp, nâng bậc khen thưởng, thi hành kỷ luật các nhân viên kế
toán, thống kê, thủ kho, thủ quỹ trong xí nghiệp, giám đốc xí nghiệp phải tham
khảo ý kiến của kế toán trưởng. Khi thuyên chuyển hoặc thay đổi những người nói
trên, kế toán trưởng hoặc người được kế toán trưởng ủy quyền phải chứng kiến việc
bàn giao của họ.

Điều 23.
– Kế toán trưởng xí nghiệp có quyền yêu cầu các phòng (ban), phân xưởng cung cấp
các tài liệu số liệu cần thiết cho công tác kế toán – thống kê, thông tin kinh
tế và cho việc kiểm tra, giám sát của mình. Người nào không chịu thi hành hoặc
cố ý thi hình sai những quy định của Nhà nước và những điều hướng dẫn của kế
toán trưởng, làm ảnh hưởng đến công tác kế toán – thống kê và thông tin kinh tế,
ngăn cản việc kiểm tra, giám sát của kế toán trưởng, thì tùy trường hợp nặng nhẹ
có thể bị phê bình, cảnh cáo, hạ tiền lương, cách chức, cho thôi việc và trường
hợp nghiêm trọng có thể bị truy tố trước pháp luật.

Điều 24.
– Các báo cáo kế toán – thống kê, hợp đồng kinh tế, các chứng từ tín dụng,
thanh toán, thu chi tiền mặt, trả lương, bảo hiểm xã hội, các chứng từ mua, bán
tài sản, thanh lý chuyển giao tài sản của xí nghiệp đều phải có chữ ký của kế
toán trưởng mới có giá trị.

Điều 25.
– Kế toán trưởng không được ký, lập duyệt các báo các kế toán – thống kê, các hợp
đồng kinh tế, các chứng từ chi tiêu, thanh toán, cấp phát, mua bán tài sản,
thanh lý, chuyển giao tài sản của xí nghiệp, khi xét thấy không đúng với thực tế,
trái với chế độ, chính sách quy định của Nhà nước; trường hợp có lệnh của giám
đốc xí nghiệp thì kế toán trưởng phải trực tiếp trình bày với giám đốc những chỗ
sai phạm của lệnh đó, nếu sau khi trình bày mà giám đốc vẫn giữ ý kiến thì giám
đốc phải ký, giấy ra lệnh, kế toán trưởng phải chấp hành, nhưng có quyền ghi ý
kiến của mình vào lệnh đó, đồng thời báo cáo ngay bằng văn bản cho kế toán trưởng
cấp trên trực tiếp và cho cơ quan tài chính địa phương.

Trường hợp giám đốc ra lệnh (bằng
giấy hoặc bằng miệng) thực hiện một việc bị pháp luật nghiêm cấm (sửa chữa, giả
mạo giấy tờ để tham ô, lấy cắp tài sản của Nhà nước…) thì kế toán trưởng nhất
thiết phải từ chối, không chấp hành, đồng thời phải báo cáo ngay bằng văn vản
cho thủ trưởng và kế toán trưởng cấp trên trực tiếp. Kế toán trưởng không thực
hiện đúng điều quy định trên thì phải chịu trách nhiệm như người giám đốc xí
nghiệp đã ra lệnh.

Trong hạn tối đa hai tuần lễ kể
từ ngày nhận được báo cáo của kế toán trưởng quy định trong điều này, người và
đơn vị nhận được báo cáo của kế toán trưởng xí nghiệp phải có biện pháp giải
quyết và thông báo cho kế toán trưởng xí nghiệp biết kết quả. Thủ trưởng và kế
toán trưởng cấp trên trực tiếp nhận được báo cáo của kế toán trưởng xí nghiệp về
các lệnh và những hành động phi pháp mà không có biện pháp giải quyết thích
đáng và kịp thời thì phải chịu trách nhiệm về những hậu quả có thể xảy ra.

Điều 26.
– Khi phát hiện những hành động của bất cứ người nào trong xí nghiệp vi phạm
tài sản xã hội chủ nghĩa, vi phạm các chế độ, chính sách quản lý kinh tế – tài
chính của Nhà nước thì tùy trường hợp nghiêm trọng thì báo cáo cho Ủy ban thanh
tra hoặc Viện kiểm sát nhân dân địa phương.

Điều 27.
– Ngoài lương cấp bậc theo thang lương quy định của Nhà nước, kế toán trưởng
còn được hưởng phụ cấp chức vụ trong thời gian giữ chức kế toán trưởng, kế toán
trưởng được hưởng tiền thưởng như cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật của xí nghiệp.

Kế toán trưởng có thành tích
trong công tác kế toán – thống kê và thông tin kinh tế, chấp hành đầy đủ chế độ
kế toán – thống kê, phát hiện và ngăn ngừa kịp thời những hành động tham ô,
lãng phí, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa có sáng kiến thúc đẩy sản xuất phát
triển, phát huy hiệu quả đồng vốn…thì được khen thưởng thích đáng về vật chất,
và tinh thần; kế toán trưởng không làm tròn nhiệm vụ thì tùy trường hợp có thể
bị phê bình, cảnh cáo, giảm trừ tiền thưởng, hạ tiền lương, cách chức, trường hợp
nghiêm trọng có thể bị truy tố trước pháp luật.

HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ
******

CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
******

Số : 288-CP


Nội, ngày 29 tháng 10  năm 1977

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
——-

CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
———

Số:
51/CT-UB

Tp.
Hồ Chí Minh, ngày 17 tháng 9 năm 1977

 

CHỈ THỊ

VỀ
VIỆC NGHIÊN CỨU QUY HOẠCH PHÂN CÔNG QUẢN LÝ SỐ XÍ NGHIỆP SẢN XUẤT BAO BÌ VÀ
NƯỚC ĐÁ

Để từng bước cải tiến hợp lý về
tổ chức quản lý sản xuất, trước mắt Ủy ban nhân dân Thành phố chỉ thị Ủy ban kế
hoạch thành phố chủ trì phối hợp với Ban cải tạo, Ban tổ chức chánh quyền và số
ngành có liên quan nghiên cứu đề xuất ý kiến với Thường trực Ủ y ban:

3/ Kiến nghị điều chỉnh các
phương tiện máy móc in ấn do thành phố quản lý sử dụng lâu nay.

Hết sức chú ý nguyên tắc tập
trung thống nhất quản lý phát huy hết công năng của cơ sở, cân đối giữa phục vụ
cho sản xuất và tiêu dùng, giữa sử dụng cho thành phố và chi viện các tỉnh bạn,
giữa nhu cầu thành phố với yêu cầu xuất khẩu về bao bì v.v…

Các kiến nghị trên yêu cầu các
đồng chí hoàn thành vào cuối tháng 9/77 để thông qua Ủy ban vào đầu tháng
10/77.

 

 

Nơi
-UBKH,Ban cải tạo
-Ban tổ chức CQ
-Sở TN.CN. NN
-Ngoại thương
-Thủy sản, TTVH
-VP. Thành ủy
-VP. Anh Sáu Dân
-Anh 5 Xuân, anh 9 Lê
-Lưu.
 

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH

Văn Đại

 

 

 

Nơi
-UBKH,Ban cải tạo
-Ban tổ chức CQ
-Sở TN.CN. NN
-Ngoại thương
-Thủy sản, TTVH
-VP. Thành ủy
-VP. Anh Sáu Dân
-Anh 5 Xuân, anh 9 Lê
-Lưu.
 

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH

Văn Đại

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

HIỆP ĐỊNH

VỀ
THƯƠNG MẠI VÀ HỢP TÁC KINH TẾ, KHOA HỌC KỸ THUẬT GIỮA CHÍNH PHỦ CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HOÀ GHI NÊ XÍCH ĐẠO (1977).

CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ
CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HOÀ GHI NÊ XÍCH ĐẠO,

Với lòng mong muốn phát triển
quan hệ thương mại và hợp tác kinh tế, khoa học và kỹ thuật giữa hai nước trên
cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và hai bên cùng có lợi, nhằm mục
đích củng cố quan hệ hữu nghị giữa nhân dân hai nước,

Đã thoả thuận như sau:

Điều 1.- Hai Bên ký kết
sẽ phát triển quan hệ thương mại và hợp tác kinh tế, khoa học và kỹ thuật giữa
hai nước; sẽ áp dụng mọi biện pháp cần thiết để đạt mục đích đó theo đúng luật
lệ hiện hành của hai nước.

Điều 2.- Hai bên ký kết
dành cho nhau chế độ ưu đãi về thuế quan và các loại thuế khác đánh vào hàng
xuất khẩu, nhập khẩu của bên này đối với bên kia. Nhưng chế độ ấy không liên
quan đến quyền lợi và ưu đãi mà Chính phủ mỗi nước đã dành hoặc sẽ dành cho các
nước láng giềng.

Điều 3.– Mọi khoản thanh
toán thông thường giữa nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà
Ghi nê Xích đạo sẽ được thực hiện bằng ngoại tệ có thể tự do chuyển đổi do hai
bên thoả thuận.

Điều 4.- Mỗi Bên cam kết
rằng hàng hoá nhập khẩu của bên kia không được tái xuất nếu không có sự thoả
thuận trước của bên kia.

Điều 5.- Trong khuôn khổ
luật lệ hiện hành của hai nước, những tàu buôn của bên này cùng với hàng hoá
trên tàu khi ra vào cảng thương mại của bên kia được hưởng những sự ưu đãi về
hàng hải và thuế khoá, thủ tục và về việc sử dụng các phương tiện bốc dỡ hàng
hoá của cảng.

Điều 6.- Hai bên ký kết
cam kết mở rộng quan hệ thương mại giữa hai nước thông qua những kế hoạch hàng
năm do một tổ chức được thành lập theo điều 8 của Hiệp định này xem xét và
quyết định.

Điều 7.- Thông qua các cơ
quan và tổ chức có thẩm quyền của mình, hai bên ký kết cam kết nỗ lực phát
triển sự hợp tác kinh tế, khoa học và kỹ thuật giữa hai nước bằng tất cả các
biện pháp có thể được trong phạm vi luật lệ của mỗi nước.

Điều 8.– Để bảo đảm việc
thi hành Hiệp định này, hai Chính phủ sẽ thành lập một uỷ ban hỗn hợp Việt Nam
– Ghi nê Xích đạo về thương mại và hợp tác kinh tế và kho học kỹ thuật; uỷ ban
hỗn hợp họp theo đề nghị của hai bên và theo nguyên tắc mỗi năm một lần, lần
lượt ở Hà Nội và Malabo.

Điều 9.- Hiệp định được
ký cho một thời hạn là 5 năm và sẽ có hiệu lực từ ngày ký.

Sáu tháng trước khi Hiệp định
hết hiệu lực, hai Chính phủ sẽ thoả thuận những biện pháp cần thiết để bảo đảm
tiếp tục việc phát triển thương mại và hợp tác kinh tế, khoa học và kỹ thuật
giữa hai nước.

Điều 10.- Nếu một bên
muốn thôi không tiếp tục thi hành Hiệp định này phải báo trước ít nhất 6 tháng
trước khi Hiệp định hết hiệu lực.

Làm tại Hà Nội ngày 20 tháng 9
năm 1977 thành hai bản, bằng tiếng Viêt Nam và tiếng Tây Ban Nha, cả hai văn
bản đều cố giá trị như nhau.

 

THAY
MẶT CHÍNH PHỦ

NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
BỘ TRƯỞNG BỘ NGOẠI THƯƠNG

THAY
MẶT CHÍNH PHỦ

NƯỚC CỘNG HOÀ GHI NÊ XÍCH ĐẠO
BỘ TRƯỞNG PHỦ TỔNG THỐNG
KIÊM BỘ TRƯỞNG BỘ NGOẠI GIAO VÀ HỮU NGHỊ VỚI CÁC DÂN TỘC

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

BỘ
VĂN HOÁ VÀ THÔNG TIN
******

CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
********

Số:
150-VHTT/TC


Nội, ngày 21 tháng 09 năm 1977

 

THÔNG TƯ

HƯỚNG DẪN VIỆC THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ SỐ
250-TTG NGÀY 14-6-1977 VỀ MỘT SỐ CHẾ ĐỘ ĐỐI VỚI DIỄN VIÊN

Ngày 14 tháng 6 năm 1977 Thủ tướng Chính phủ đã
ra quyết định số 250-TTg ban hành một số chế độ đối với diễn viên.

Sau khi thống nhất ý kiến với Bộ Lao động và Bộ
Tài chính, nay Bộ Văn hóa và thông tin hướng dẫn việc thi hành như sau.

I. CHẾ ĐỘ BỒI DƯỠNG MỨC ĂN
THƯỜNG XUYÊN

1. Đối tượng được hưởng:

a) Diễn viên các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp ở
trung ương bao gồm diễn viên các nhà hát, các đoàn nghệ thuật và diễn viên điện
ảnh trực thuộc Bộ Văn hóa và thông tin; diễn viên các đoàn nghệ thuật chuyên
nghiệp và quân nhạc thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ Nội vụ, diễn viên nghệ thuật thuộc
Ủy ban phát thanh và truyền hình Việt Nam đều được hưởng chế độ bồi dưỡng mức
ăn thường xuyên hàng ngày là 1,4đ cho mỗi người, trong đó Nhà nước đài thọ
0,80đ, diễn viên đóng 0,60đ.

Diễn viên nhạc (kể cả chỉ huy dàn nhạc và nhạc
trưởng) trong các đơn vị nói trên cũng được hưởng khoản bồi dưỡng này.

b) Trường hợp chuẩn bị đi biểu diễn ở nước ngoài
mà diễn viên phải tranh thủ tập luyện ngoài giờ vất vả, nặng nhọc thì được Nhà
nước đài thọ thêm cho mỗi diễn viên một đồng một ngày trong thời gian không quá
một tháng.

c) Diễn viên đã tốt nghiệp các hệ đào tạo từ
trung cấp trở lên đang trong thời gian tập sự, diễn viên tạm tuyển vào lực lượng
lao động thường xuyên mà nằm trong chỉ tiêu biên chế của các đoàn cũng được hưởng
khoản bồi dưỡng này.

d) Những người được tuyển vào để đào tạo theo lối
kèm cặp hoặc để thử việc, những diễn viên làm hợp đồng hưởng theo mức lương
riêng thì không áp dụng khoản bồi dưỡng này.

2. Điều kiện được hưởng:

a) Diễn viên được hưởng khoản bồi dưỡng này phải
là những người thường xuyên hàng ngày có tham gia tập luyện hoặc biểu diễn theo
sự phân công của đơn vị.

b) Diễn viên bị tai nạn lao động trong tập luyện
hoặc biểu diễn thì trong thời gian điều trị, điều dưỡng ở bệnh viện, viện
điều dưỡng vẫn được hưởng chế độ bồi dưỡng mức ăn thường xuyên của diễn viên và
thôi không hưởng mức bồi dưỡng ốm đau của bệnh viện, viện điều dưỡng nữa – cho
đến khi ra viện. Trường hợp do bệnh lý mà bệnh viện quyết định mức ăn bồi dưỡng
cao hơn chế độ bồi dưỡng mức ăn thường xuyên của diễn viên thì được bệnh viện
đài thọ phần chênh lệch cao hơn đó.

c) Diễn viên ốm đau hoặc bị tai nạn rủi ro thì
trong thời gian điều trị, điều dưỡng ở bệnh viện, viện điều dưỡng hoặc ở gia
đình, được hưởng chế độ bồi dưỡng ốm đau đối với cán bộ, công nhân Nhà nước
theo chế độ hiện hành và không hưởng chế độ bồi dưỡng mức ăn thường xuyên của
diễn viên trong cùng thời gian đó.

d) Thời gian đi công tác tại nước ngoài, những
ngày nghỉ việc không có lý do chính đáng, những ngày bị đình chỉ công tác để kiểm
điểm, để thi hành kỷ luật thì những diễn viên đó không được hưởng bồi dưỡng.

e) Nữ diễn viên trong thời gian nghỉ đẻ theo chế
độ quy định vẫn được hưởng bồi dưỡng.

Nữ diễn viên có thai mà nghỉ sớm trước thời gian
quy định hoặc sau khi hết thời gian nghỉ đẻ mà vẫn chưa tham gia công tác, tập
luyện và biểu diễn được, thì thời gian này không được hưởng bồi dưỡng.

g) Diễn viên được cơ quan có thẩm quyền cho nghỉ
tập luyện và biểu diễn trong tháng để chờ chuyển sang công tác khác vẫn được tiếp
tục hưởng chế độ bồi dưỡng mức ăn thường xuyên cho đến hết tháng đó.

3. Danh sách diễn viên được hưởng chế độ bồi dưỡng
mức ăn thường xuyên do thủ trưởng nhà hát hoặc thủ trưởng đoàn nghệ thuật quyết
định và cấp trên một cấp duyệt y.

4. Diễn viên các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp của
Nhà nước ở các địa phương thì tùy theo tình hình tổ chức, điều kiện hoạt động của
các đoàn và khả năng tài chính của từng nơi, mà Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành
phố quy định chế độ bồi dưỡng mức ăn thường xuyên cho diễn viên địa phương mình
bằng 70%, 80%, 90% hoặc 100% mức quy định đối với diễn viên các đoàn nghệ thuật
ở trung ương; trong đó mức diễn viên tự đóng góp là 0,60đ.

II. CHẾ ĐỘ PHỤ CẤP BIỂU DIỄN
TRONG CÁC ĐOÀN NGHỆ THUẬT CHUYÊN NGHIỆP Ở TRUNG ƯƠNG

1. Đối với diễn viên.

Diễn viên tham gia trong một buổi biểu diễn sẽ
tùy theo công sức lao động và kết quả biểu diễn nghệ thuật mà được hưởng một
trong 4 mức phụ cấp sau đây: 1đ, 1,60đ, 2,20đ và 3đ.

Riêng mức 3 đồng chỉ áp dụng cho một số ít diễn
viên tham gia những vai chủ yếu trong 1 buổi diễn, đòi hỏi có công phu tập luyện,
trình độ kỹ thuật cao.

Những buổi biểu diễn, diễn viên đã hóa trang
nhưng vì lý do khách quan như bị mất điện, trời mưa, rạp bị hỏng, v.v… mà không
diễn được thì diễn viên chỉ hưởng mức đồng loạt là 1 đồng. Trường hợp do chủ
quan diễn viên gây ra thì không được hưởng phụ cấp biểu diễn.

Các nhà hát, các đoàn nghệ thuật căn cứ vào chức
năng, tính chất nghệ thuật của đơn vị mình mà xây dựng bảng tiêu chuẩn về số lượng
và chất lượng biểu diễn của diễn viên theo 4 mức phụ cấp trên đây nhằm khuyến
khích lao động nghệ thuật và nâng cao chất lượng biểu diễn.

Bảng tiêu chuẩn này phải được cấp trên một cấp
duyệt y để làm căn cứ cho việc xét phụ cấp biểu diễn được công bằng hợp lý và
đoàn kết nội bộ.

Việt xét cho diễn viên hưởng các mức phụ cấp biểu
diễn do thủ trưởng nhà hát hoặc thủ trưởng đoàn nghệ thuật căn cứ vào chất lượng
biểu diễn cao hay thấp, thời gian và cường độ lao động nhiều hay ít của từng diễn
viên mà quyết định theo từng chương trình biểu diễn và được cấp trên một cấp
thông qua.

2. Đối với cán bộ, công nhân phục vụ buổi biểu
diễn.

Cán bộ công nhân trực tiếp phục vụ cho một buổi
diễn, mỗi người được hưởng một trong 4 mức phụ cấp là 0,60đ, 0,80đ, 1đ, 1,20đ.

Việc áp dụng các mức phụ cấp này phải căn cứ vào
tính chất lao động phức tạp hay giản đơn, thời gian và cường độ lao động nhiều
hay ít của từng người mà thủ trưởng nhà hát hoặc thủ trưởng đoàn nghệ thuật xét
và quyết định.

Riêng mức phụ cấp 1,20đ chỉ áp dụng cho người chỉ
huy trong đêm diễn.

3. Phụ cấp khi đi biểu diễn lưu động.

– Diễn viên, công nhân, cán bộ trong đoàn nghệ
thuật đi biểu diễn lưu động ra ngoài thành phố, thị xã nơi cơ quan đóng thì mỗi
buổi biểu diễn, mỗi người còn được hưởng thêm 30% của các mức phụ cấp biểu diễn
nói trên.

– Riêng trường hợp phải biểu diễn trên sân khấu
ngoài trời, không có mái che, mà điều kiện biểu diễn có nhiều khó khăn, thì mặc
dù địa điểm diễn nằm trong thành phố, thị xã nơi đoàn nghệ thuật đóng và thuộc
địa bàn hoạt động thường xuyên của đoàn thì mọi người vẫn được hưởng mức phụ cấp
thêm 30% này.

– Những người được hưởng thêm 30% mà thấp hơn phụ
cấp lưu trú thì được hưởng bằng phụ cấp lưu trú.

– Những người được hưởng thêm 30% mà cao hơn phụ
cấp lưu trú thì thôi không hưởng phụ cấp lưu trú.

– Trong những ngày không biểu diễn nhưng cần thiết
phải ở lại nơi biểu diễn thì cán bộ, diễn viên, công nhân được hưởng phụ cấp
lưu trú theo chế độ hiện hành.

4. Phụ cấp biểu diễn đối với các đoàn nghệ thuật
ở địa phương do Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố quy định bằng 70%, 80%, 90%
hoặc 100% mức quy định phụ cấp biểu diễn đối với diễn viên, cán bộ, công nhân
các đoàn nghệ thuật ở trung ương.

5. Phụ cấp biểu diễn đối với các trường hợp thu
thanh, lồng tiếng, đối với các đoàn làm phim truyện sẽ có quy định riêng.

6. Diễn viên các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp
và quân nhạc nói trên được rút ra tổ chức thành từng tốp để biểu diễn phục vụ
nhiệm vụ chính trị hoặc tham gia biểu diễn trong các đội tuyên truyền xung kích
cũng được hưởng khoản bồi dưỡng và phụ cấp biểu diễn nói trên.

III. CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP CHO NỮ DIỄN
VIÊN CÓ CON NHỎ

Công tác của các đoàn nghệ thuật thường phải đi
lưu động và biểu diễn về ban đêm, nên nữ diễn viên gặp nhiều khó khăn trong việc
chăm sóc con cái, một số chị em do cần bảo vệ thanh sắc và sức khỏe nên phải
cai sữa sớm để bảo đảm nghệ thuật, bảo đảm biểu diễn.

Hướng giải quyết khó khăn cho nữ diễn viên chủ yếu
là cơ quan phải chú ý tổ chức việc giữ trẻ phù hợp với điều kiện công tác của
chị em, ở những địa phương có tổ chức được nhà giữ trẻ nhận trông thường xuyên
thì cần ưu tiên cho nữ diễn viên được gửi con vào nhà trẻ đó.

Nữ diễn viên có con nhỏ nếu không có điều kiện gửi
con vào nhà trẻ của cơ quan, xí nghiệp, đường phố thì chị em được hưởng trợ cấp
như sau:

– Con nhỏ dưới 36 tháng, mỗi cháu được trợ cấp 7
đồng 1 tháng;

– Con nhỏ dưới 10 tháng thì ngoài khoản 7 đồng
nói trên còn được hưởng thêm một khoản trợ cấp hàng tháng là 10 đồng. Khoản trợ
cấp 10 đồng này thay thế cho khoản trợ cấp mất sữa.

Nữ diễn viên có con nhỏ dù có mất sữa cũng không
hưởng trợ cấp mất sữa nữa mà chỉ được cấp tem sữa để tự mua.

Nữ diễn viên đã hưởng chế độ trợ cấp này rồi thì
không hưởng các khoản trợ cấp giữ trẻ khác quy định cho nữ cán bộ, viên chức
nói chung.

IV. CHẾ ĐỘ ĐỐI VỚI DIỄN VIÊN
HẾT KHẢ NĂNG BIỂU DIỄN

1. Đối với những diễn viên có trình độ nghệ thuật
khá, nay vì tuổi tác sức khỏe, hơi giọng kém, mà không còn đáp ứng được yêu cầu
biểu diễn thì cơ quan cần sử dụng khả năng sẵn có của anh chị em vào các công
tác khác như: chuyển sang làm công tác giảng dạy, sáng tác, đạo diễn, hướng dẫn
văn nghệ quần chúng, nghiên cứu, v.v… thì những diễn viên này vẫn được giữ
nguyên lương cũ.

2.
Những diễn viên phải chuyển sang các ngành nghề khác, cơ quan sử dụng cần tạo
điều kiện cho anh chị em được học nghề hoặc bổ túc văn hóa để anh chị em có thể
thi vào trường đại học và trung học chuyên nghiệp. Kể từ ngày chuyển sang nghề
khác, diễn viên được hưởng nguyên lương trong thời hạn là 24 tháng, sau đó sẽ xếp
lương theo nghề mới.

Hai khoản trên chỉ áp dụng đối với diễn viên đã
có thời gian biểu diễn được từ 5 năm tròn trở lên.

Trường hợp bị tai nạn lao động không còn khả
năng biểu diễn mà phải chuyển sang nghề khác thì cũng được áp dụng các điều khoản
này.

V. ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Các điều khoản quy định tại quyết định số
250-TTg ngày 14-6-1977 của Thủ tướng Chính phủ và những điều hướng dẫn trong
thông tư này được thi hành kể từ ngày 1 tháng 7 năm 1977 và thay thế cho những
quy định cũ được ban hành theo quyết định số 209-TTg ngày 6-12-1966 của Thủ tướng
Chính phủ.

Đối với các đoàn nghệ thuật ở các địa phương, Ủy
ban nhân dân các tỉnh, thành phố sau khi quy định mức ăn thường xuyên và mức phụ
cấp biểu diễn cho diễn viên, cán bộ, công nhân ở địa phương sẽ ấn định thời
gian thi hành cho địa phương mình nhưng chậm nhất cũng không quá ngày 1 tháng
11 năm 1977.

Ngoài mức ăn bồi dưỡng thường xuyên và mức phụ cấp
biểu diễn do địa phương quy định các chế độ khác được thi hành thống nhất trong
cả nước theo các điều khoản hướng dẫn trong thông tư này.

Để làm tốt chế độ bồi dưỡng mức ăn thường xuyên
và phụ cấp biểu diễn cho diễn viên, các nhà hát, các đoàn nghệ thuật phải thi
hành chế độ chấm công, chấm bồi dưỡng hàng ngày và cố gắng tổ chức tốt bếp ăn tập
thể, bảo đảm cho diễn viên ăn đủ tiêu chuẩn, bảo đảm giữ gìn thanh sắc và sức
khỏe của diễn viên phục vụ biểu diễn được lâu dài.

Cục biểu diễn nghệ thuật phối hợp với các ngành
có sử dụng diễn viên hướng dẫn diễn viên tổ chức tốt đời sống và có trách nhiệm
nghiên cứu chế độ công tác, chế độ sinh hoạt, chế độ bổ túc nghề nghiệp cho diễn
viên và trình Bộ Văn hóa và thông tin ban hành những chế độ đó.

Trong khi thi hành các chế độ đối với diễn viên,
nếu có khó khăn mắc mứu gì các nhà hát, các đoàn nghệ thuật, các Sở, Ty văn hóa
và thông tin cần phản ánh về Bộ Văn hóa và thông tin để nghiên cứu giải quyết.

 

BỘ TRƯỞNG BỘ
VĂN HÓA VÀ THÔNG TIN 


Nguyễn Văn Hiếu

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******

CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
********

Số:
344-TTg


Nội, ngày 24 tháng 09 năm 1977 

 

CHỈ THỊ

VỀ
VIỆC QUẢN LÝ THU HỒI VÀ SỬ DỤNG PHẾ LIỆU KIM LOẠI

Từ trước đến nay, Chính phủ đã
ban hành nhiều văn bản quy định về việc quản lý thu hồi và sử dụng phế liệu kim
khí, nhằm tiết kiệm kim loại, tăng nguồn vật tư đảm bảo cho sản xuất phát triển.

Thực hiện các quy định của Chính
phủ, trong những năm qua, các ngành, các địa phương các đơn vị cơ sở đã có cố gắng
thu hồi phế liệu kim khí để tận dụng vào sản xuất, góp phần giải quyết khó khăn
về vật tư. Tuy vậy, nguồn phế liệu kim khí, nhất là các loại phế liệu kim khí
do chiến tranh để lại, hiện nay chưa được tận dụng triệt để vào sản xuất; nhu cầu
thép vụn cho luyện kim ngày càng lớn và hiện tại chưa được bảo đảm; viện quản
lý phế liệu kim khí còn bị phân tán và để lãng phí.

Để quản lý, thu hồi và sử dụng
phế liệu kim khí hợp lý và tiết kiệm, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị cho các
ngành, các địa phương phải thực hiện nghiêm chỉnh các quy định dưới đây:

1. Tất cả
các loại phế liệu kim khí, bất kể từ nguồn nào, đều là tài sản Nhà nước và là vật
tư do Nhà nước thống nhất quản lý. Việc thu hồi, sử dụng phải theo kế hoạch và
chấp hành đúng các quy định của Nhà nước.

2. Giao
bộ Vật tư thống nhất quản lý việc thu hồi, phân phối các loại phế liệu kim khí
cho các nhu cầu của nền kinh tế, Bộ Vật tư có trách nhiệm quy định chế độ,
phương thức thu hồi và cung ứng phế liệu kim khí cho các nhu cầu của nền kinh tế.

3. Để việc
thu hồi, sử dụng phế liệu kim khí đạt hiệu quả kinh tế cao, Thủ tướng Chính phủ
quy định:

– Những phế liệu kim khí do chiến
tranh để lại trong các căn cứ quân sự thì các đơn vị quân đội có trách nhiệm
thu gom và chọn lọc những thiết bị máy móc còn có thể phục hồi được và những bộ
phận, chi tiết còn sử dụng lại cho nhu cầu của quân đội thì các đơn vị quân đội
có thể thu hồi để tận dụng lại. Số còn lại thì các đơn vị quân đội giao Bộ Vật
tư thu hồi để cung ứng cho các ngành kinh tế.

– Những phế liệu kim loại do chiến
tranh để lại tại các địa phương, ở các cơ quan, đơn vị… thuộc các ngành kinh tế,
hành chính sự nghiệp thì do Bộ Vật tư thống nhất thu hồi phân phối.

– Những phế liệu kim loại do sản
xuất, sử dụng thải loại ra thì các đơn vị cơ sở sản xuất thu hồi, tận dụng lại
cho sản xuất. Số không dùng hết thì do ngành quản lý sản xuất điều hòa sử dụng
trong ngành. Số không điều hòa hết thì giao Bộ Vật tư thu hồi, điều hòa phân phối.

– Những phế liệu kim khí là các
đồ dùng sinh hoạt cũ, hỏng của nhân dân thải bỏ thì do hệ thống thương nghiệp
hoặc Liên hiệp xã thủ công nghiệp ở địa phương thu hồi.

4. Phế
liệu kim loại màu phải được quản lý, thu hồi, sử dụng theo chỉ tiêu kế hoạch
Nhà nước như chỉ thị số 164-TTg ngày 14-9-1970 của Thủ tướng Chính phủ quy định.

5. Bộ Vật tư và Bộ Nội
thương phải kết hợp chặt chẽ với các đoàn thể, nhất là thanh niên và học sinh tổ
chức thành phong trào thu hồi phế liệu của quần chúng.

Những quy định trước đây trái với
văn bản này đều bãi bỏ.

 

 

KT.
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG

 
 
Phạm Hùng

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

BỘ
Y TẾ
******

CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
********

Số:
31-BYT/TT


Nội, ngày 24 tháng 09 năm 1977

 

THÔNG TƯ

QUY ĐỊNH VIỆC KHÁM BỆNH VÀ CHỮA BỆNH TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ
VIỆT – XÔ.

Để phù hợp với tình hình hiện nay và khả năng tiếp
nhận của bệnh viện Hữu nghị Việt Xô, sau khi đã thống nhất ý kiến với Ban tổ chức
trung ương, Bộ Y tế quy định dưới đây đối tượng và thể thức tiếp nhận cán bộ
vào khám bệnh, chữa bệnh, quản lý sức khỏe tại bệnh viện Hữu nghị Việt Xô.

I. ĐỐI TƯỢNG KHÁM BỆNH, CHỮA
BỆNH

Bệnh viện Hữu nghị Việt Xô (Hà Nội) là tuyến cuối
cùng khám bệnh, chữa bệnh cho cán bộ cao cấp và một phần cán bộ trung cấp công
tác ở trung ương và các tỉnh từ Phú Khánh, Đắc Lắc trở ra (cán bộ ở các tỉnh từ
Thuận Hải, Lâm Đồng trở vào, khám bệnh và chữa bệnh tại bệnh viện cán bộ cao
trung cấp tại th Hồ Chí Minh). Cụ thể, gồm các đối tượng sau đây:

1. Ủy viên trung ương Đảng, bộ trưởng, thứ trưởng,
các chức vụ tương đương trở lên, bí thư, chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương;

2. Đại biểu Quốc hội và ủy viên Ủy ban trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đương nhiệm.

3. Anh hùng lao động, anh hùng lực lượng công an
nhân dân;

4. Cục, vụ, viện phó, chuyên viên bậc II trở lên
và các chức vụ tương đương, các cán bộ quản lý kinh tế, chuyên môn nghiệp vụ,
khoa học, kỹ thuật và văn học, nghệ thuật ở trung ương và các địa phương có bậc
lương chính từ 115 đồng trở lên.

5. Cán bộ dân tộc ít người, cán bộ công tác ở miền
núi, hải đảo, và cán bộ nữ có bậc lương chính từ 105 đồng (chuyên viên I) trở
lên.

6. Cán bộ hoạt động cách mạng từ trước tháng 8
năm 1945 (theo thông tư số 32-TT/TC ngày 16-10-1960 của Ban chấp hành trung
ương) có giấy xác nhận của trưởng ban tổ chức các cấp ủy tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, hoặc của Vụ trưởng Vụ tổ chức cán bộ các Bộ và cơ quan ngang
Bộ, có bậc lương chính năm từ 90 đồng, nữ từ 80 đồng trở lên. Riêng các đồng
chí hoạt động từ năm 1935 trở về trước liên tục đến nay thì không phân biệt bậc
lương.

7. Đối với khách quốc tế, Bộ Y tế có văn bản quy
định riêng.

8. Các trường hợp đặc biệt khác sẽ do Ban tổ chức
trung ương và Bộ Y tế giải quyết cụ thể với bệnh viện.

9. Theo quy định chung cho các bệnh viện, đối với
người bệnh cấp cứu được đưa đến bệnh viện mà không thuộc diện trên, bệnh viện Hữu
nghị Việt Xô cũng phải thu nhận ngay để xử lý kịp thời. Hết thời kỳ cấp cứu, mới
được chuyển đến bệnh viện theo tuyến điều trị đã quy định.

II. THỂ THỨC TIẾP NHẬN BỆNH
NHÂN VÀ QUẢN LÝ SỨC KHỎE CÁN BỘ

Bệnh viện Hữu nghị Việt Xô nhận khám bệnh, chữa
bệnh cho các bệnh nhân mà bệnh tình vượt quá khả năng chữa bệnh của các cơ sở y
tế tuyến trước. Do đó việc gửi bệnh nhân đến bệnh viện Hữu nghị Việt – Xô được
quy định như sau:

1. Bệnh nhân thuộc diện nói trên ở các cơ quan
trung ương đóng ở Hà Nội, khi ốm đau thì y tế các cơ quan, các ngành, các xí
nghiệp, có trách nhiệm theo dõi, chăm sóc sức khỏe và chữa những bệnh thông thường
ngay ở trạm y tế hay ở bệnh viện của ngành (trong trường hợp chưa bàn giao sang
ngành y tế theo quyết định số 91-TTg ngày 25-4-1974 của Thủ tướng Chính phủ)
khi bệnh tình vượt quá khả năng của mình, các tổ chức y tế nói trên mới gửi đến
bệnh viện Hữu nghị Việt – Xô.

Bệnh nhân mỗi lần đến bệnh viện Hữu nghị Việt –
Xô khám bệnh cần mang theo thẻ khám bệnh, giấy giới thiệu của y tế cơ sở, ghi
rõ bệnh tình, thuốc men đã dùng và quá trình chăm sóc theo dõi vào sổ y bạ của
bệnh nhân, để giúp bệnh viện tiếp tục theo dõi và điều trị.

2. Bệnh nhân thuộc diện trên ở các địa phương kể
cả cán bộ các cơ quan trung ương đi công tác và đóng ở địa phương và cán bộ hưu
trí về nghỉ ở địa phương (từ Phú Khánh, Đắc Lắc trở ra), khi ốm đau thì được
khám bệnh chữa bệnh ngay ở các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thuộc diện bảo vệ sức
khỏe cán bộ của các tỉnh, thành phố.

Trường hợp quá khả năng chữa bệnh của bệnh viện
tỉnh, thành phố thì gửi bệnh nhân về bệnh viện Hữu nghị Việt Xô.

Riêng đối với các tỉnh thuộc khu 5 (cũ), nếu quá
khả năng của bệnh viện thì tỉnh gửi đến bệnh viện C Đà Nẵng. Một số trường hợp
đặc biệt xét cần phải tranh thủ gấp thời gian để chẩn đoán hoặc điều trị thì có
thể gửi thẳng ra bệnh viện Hữu nghị Việt Xô cho kịp thời.

Khi cần gửi bệnh nhân về chữa bệnh ở bệnh viện Hữu
nghị Việt Xô, các bệnh viện tỉnh, thành và bệnh viện C Đà Nẵng gửi hồ sơ bệnh
án về liên hệ trước. Khi được bệnh viện Hữu nghị Việt Xô đồng ý, mới đưa bệnh
nhân về, để tránh cho bệnh nhân khỏi phải chờ đợi đi lại vất vả. Trường hợp bệnh
cần gửi gấp nếu có điều kiện thì điện báo trước để bệnh viện Hữu nghị Việt Xô
chuẩn bị đón tiếp bệnh nhân được tốt.

Các cơ quan y tế cần nắm vững những quy định ở
trên về đối tượng bệnh nhân cũng như về những thủ tục cần phải làm khi gửi bệnh
nhân về bệnh viện Hữu nghị Việt Xô để tạo điều kiện cho bệnh viện tiếp nhận và
chăm sóc bệnh nhân được thuận lợi.

3. Bệnh viện Hữu nghị Việt Xô có nhiệm vụ phối hợp
với các cơ sở y tế của các cơ quan trung ương, tổ chức hướng dẫn việc kiểm tra
sức khỏe định kỳ và quản lý bệnh tật cho cán bộ thuộc diện trên.

Sau khi kiểm tra sức khỏe định kỳ cho cán bộ, bệnh
viện cần bàn giao tình hình sức khỏe và bệnh tật cho đồng chí phụ trách y tế cơ
quan, để cùng với các đồng chí phụ trách y tế cơ quan đó, tiếp tục theo dõi và
quản lý bệnh tật và bàn biện pháp phòng bệnh, chữa bệnh cho cán bộ.

4. Bộ Y tế đề nghị các đồng chí thủ trưởng các
cơ quan, các ngành, các địa phương cần giao nhiệm vụ cho các đồng chí bảo vệ sức
khỏe và y tế của cơ quan, xí nghiệp, trường học và bệnh viện tổ chức tốt việc
khám bệnh, chữa bệnh và đặt quan hệ chặt chẽ với bệnh viện Hữu nghị Việt Xô để
tổ chức việc quản lý sức khỏe và bệnh tật cho cán bộ được chu đáo.

Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày ban hành và
thay cho thông tư số 40-BYT/TT ngày 22-10-1970.

Đề nghị các cấp, các ngành, các địa phương phổ
biến cho cán bộ biết để thực hiện những điều quy định trên.

(Đối với công nhân, viên chức mới được giải
phóng sẽ có văn bản quy định riêng).

 

BỘ TRƯỞNG BỘ
Y TẾ
BÁC SĨ


Vũ Văn Cẩn

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
******

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
********

Số: 265-CP

Hà Nội, ngày 28 tháng 09 năm 1977

 

QUYẾT ĐỊNH

VỀ VIỆC THÀNH LẬP PHÂN VIỆN KHOA HỌC TRỰC THUỘC VIỆN KHOA HỌC VIỆT NAM ĐẶT TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.

HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ

Căn cứ vào Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ ngày 14-7-1960;
Căn cứ vào nghị định của Hội đồng Chính phủ số 118-CP ngày 20-5-1975 về việc thành lập Viện Khoa học Việt Nam;
Xét đề nghị của đồng chí Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam, 

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. – Nay thành lập Phân viện khoa học Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh.

Điều 2. – Phân viện khoa học Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh là cơ quan nghiên cứu khoa học, thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu khoa học kỹ thuật của Viện khoa học Việt Nam theo sự phân công của Viện trưởng Viện khoa học Việt Nam. Trong những năm trước mắt, tập trung:

– Nghiên cứu áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào những ngành sản xuất có khả năng phát triển mạnh ở các tỉnh phía Nam như nông nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp điện tử, công nghiệp chế biến thực phẩm;

– Góp phần vào việc điều tra, đánh giá, khai thác và sử dụng hợp lý các tài nguyên thiên nhiên, điều kiện tự nhiên và điều kiện địa lý đặc thù của vùng lãnh thổ phía Nam;

– Đặt nền móng cho việc nghiên cứu khoa học kỹ thuật nhiệt đới mà trọng tâm là sinh học nhiệt đới;

– Tiếp tục góp phần tập hợp những trí thức mới được giải phóng và trí thức Việt kiều đã về nước, đóng góp sức lực và trí tuệ của mình vào công cuộc xây dựng tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Điều 3. – Phân viện khoa học Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh do một phân viện trưởng phụ trách và có một số phân viện phó giúp việc.

Nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức cụ thể của Phân viện khoa học Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh do Viện trưởng Viện khoa học Việt Nam quy định trên nguyên tắc tinh giản bộ máy, tổ chức biên chế gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả thiết thực. Biên chế của Phân viện khoa học Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh tính trong tổng số biên chế chung của Viện khoa học Việt Nam.

Điều 4. – Đồng chí Viện trưởng Viện khoa học Việt Nam có trách nhiệm thi hành quyết định này.

 

T.M. HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
K.T. THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG


Phạm Hùng

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
——-

CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
———

Số:
556/QĐ-UB

Tp.
Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 9 năm 1977

 

QUYẾT ĐỊNH

VỀ
VIỆC THÀNH LẬP BAN CẢI TẠO CÔNG THƯƠNG NGHIỆP THUỘC ỦY BAN NHÂN DÂN QUẬN BA

ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH

– Căn cứ vào Luật
tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp ngày 27 tháng 10 năm
1962 ;
– Xét yêu cầu tổ chức để đáp ứng nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa trên các
lĩnh vực kinh tế, đời sống của Thành phố ;
– Xét đề nghị của các đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận Ba, Trưởng Ban Cải
tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và Trưởng Ban Tổ chức Chánh quyền Thành
phố ;

QUYẾT ĐỊNH

Điều 1.– Nay thành lập Ban
Cải tạo công thương nghiệp thuộc Ủy ban nhân dân Quận Ba.

Ban Cải tạo công thương nghiệp Quận
Ba là một Ban chuyên môn của Quận ủy và Ủy ban nhân dân Quận, chịu sự lãnh đạo
toàn diện, trực tiếp của Quận ủy và của Ủy ban nhân dân Quận, đồng thời chịu sự
chỉ đạo, hướng dẫn, giúp đỡ về chuyên môn nghiệp vụ của Ban Cải tạo công thương
nghiệp tư bản tư doanh Thành phố.

Điều 2.– Ban Cải tạo công
thương nghiệp Quận Bacó chức năng nhiệm vụ :

– Giúp cho cấp ủy và Ủy ban nhân
dân Quận, tổ chức chỉ đạo việc phối hợp với Ban Cải tạo các Sở, Ban, Ngành, Ban
Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh Thành phố thực hiện cải tạo công thương
nghiệp tư bản tư doanh và xây dựng hệ thống kinh tế công thương nghiệp xã hội
chủ nghĩa trong địa bàn Quận.

– Nghiên cứu xây dựng kế hoạch và
giúp cấp ủy, Ủy ban nhân dân Quận tổ chức, chỉ đạo thực hiện việc cải tạo xã hội
chủ nghĩa đối với thành phần tiểu thương, tiểu chủ các ngành thương nghiệp, dịch
vụ, tiểu thủ công nghiệp, vận tải, thủy sản, y tế, văn hóa, nghệ thuật, v.v…
trong Quận.

Điều 3.– Thành phần lãnh đạo
của Ban Cải tạo công thương nghiệp gồm các đồng chí sau đây :

1) Đồng chí NGUYỄN VĂN HA, Phó Bí
thư Quận ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận, Trưởng Ban.

2) Đồng chí NGUYỄN ANH TÂN, Quận
ủy viên, Phó Ban Thường trực.

3) Đồng chí NGUYỄN THỊ NGOAN, Thường
vụ Quận ủy, Phó Chủ tịch UBND Quận, Phó Ban.

4) Đồng chí NGUYỄN VŨ BẢO, Quận ủy
viên, Phó Chủ tịch UBND Quận, Phó Ban.

5) Đồng chí NGUYỄN THẾ PHỤNG, Quận
ủy viên, Trưởng phòng Thương nghiệp Quận, Phó Ban.

6) Đồng chí PHẠM VĂN VINH, Ủy viên
Thường trực.

7) Đồng chí NGUYỄN XUÂN TRÚC, Liên
hiệp Công đoàn Quận – Ủy viên Thường trực.

8) Đồng chí NGUYỄN NGỌC TƯỜNG, Ủy
viên.

9) Đồng chí ĐÀO NGỌC KIM, Hội Liên
hiệp PN Quận, Ủy viên.

10) Đồng chí NGUYỄN THỊ THÚY NHỊ,
Quận đoàn, Ủy viên.

11) Đồng chí NGÔ HẢI TIẾC, Mặt trận
Quận, Ủy viên.

12) Đồng chí ĐOÀN VĂN THIỆN, Thường
vụ Quận ủy, Trưởng Công an Quận, Ủy viên.

13) Đồng chí LÊ NGỌC GIAO, Quận ủy
viên, Phó Ban Tổ chức QU, Ủy viên.

14) Đồng chí TRẦN MINH PHỤNG, Quận
ủy viên, Trưởng Phòng Tổ chức Chính quyền, Ủy viên.

Điều 4.– Biên chế của Ban
Cải tạo công thương nghiệp Quận Ba là 20 (hai mươi)người (không kể các cán bộ kiêm
nhiệm của các tổ chức khác cử sang tham gia).

Kinh phí hoạt động của Ban Cải tạo
công thương nghiệp Quận Ba nằm trong kinh phí chung của Quận và Ban Cải tạo Quận
được phép sử dụng con dấu riêng để giao dịch trong công tác.

Điều 5.– Các đồng chí
Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân Thành phố, Trưởng Ban Tổ chức Chánh quyền,
Trưởng Ban Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh Thành phố, Giám đốc Sở
Tài chánh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận Ba và Ban Cải tạo Quận Ba chịu trách
nhiệm thi hành quyết định này.

 

 

Nơi nhận:
– Như điều 5
– BTC Thành ủy
– Ủy Ban Kế hoạch
– Sở Tài chánh
– Sở Công an
– BTC Chánh quyền (4 bản)
– Lưu VP Ủy Ban.
 

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH/THƯỜNG TRỰC

Lê Đình Nhơn

 

 

 

 

Nơi nhận:
– Như điều 5
– BTC Thành ủy
– Ủy Ban Kế hoạch
– Sở Tài chánh
– Sở Công an
– BTC Chánh quyền (4 bản)
– Lưu VP Ủy Ban.
 

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH/THƯỜNG TRỰC

Lê Đình Nhơn

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
——-

CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
———

Số:
1241/QĐ-UB

Tp.
Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 1977

 

QUYẾT ĐỊNH TẠM THỜI

VỀ
VIỆC TRÍCH LÃI HỢP TÁC XÃ MUA BÁN VÀ HỢP TÁC XÃ TIÊU THỤ CỦA PHƯỜHG, XÃ, THỊ
TRẤN

ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH

– Căn cứ vào Luật tổ chức Hội
đồng nhân dân và Ủy ban hành chánh các cấp ngày 27-10-1962 ;
– Để thúc đẩy chánh quyền địa phương quan tâm nhiều hơn đến việc phát triển sản
xuất, quản lý thị trường, quản lý và sử dụng có hiệu quả tài nguyên của địa phương,
khai thác hợp lý đúng chánh sách, sức người, sức của của địa phương phục vụ cho
lợi ích tập thể nhân dân lao động ở các phường, xã, thị trấn ;
Chấp hành nghị định 50/CP ngày 09-4-1968 của Hội đồng Chính phủ về chế độ hợp
tác xã mua bán,

QUYẾT ĐỊNH

Điều 1.- Hàng tháng, hợp
tác xã mua bán hoặc tiêu thụ xã, phường, thị trấn kinh doanh có lời trên 20
đồng thì phảI trích 30% tiền thực lời : 20% nộp thẳng vào ngân sách xã, phường
(qua sự đối chiếu của Phòng tài chánh quận, huyện và chuyển nộp vào tài khoản
tiền gửi ngân sách xã, phường tại ngân hàng Quận, huyện) để xây dựng chung cho
xã, phường, thị trấn. Còn 10% thì nộp vào ngân sách thành phố để điều hoà cho
các địa phương gặp khó khăn.

Điều 2.- Ủy ban nhân dân
các xã, phường, thị trấn phải quan tâm giúp đỡ hợp tác xã mua bán hoặc tiêu
thụ, quản lý, phục vụ ngày càng tốt và tham gia vận động xã viên góp nhiều cổ
phần để hợp tác xã mua bán hoặc tiêu thụ có dồi dào vốn kinh doanh. Ủy ban nhân
dân các xã, phường, thị trấn không được dùng tiền của ngân sách mình để đầu tư
cho các hợp tác xã này.

Điều 3.- Đồng chí Chánh
Văn phòng Ủy ban nhân dân Thành phố, các đồng chí Giám đốc Sở Tài chánh, Sở
Thương nghiệp và các đồng chí Giám đốc các Sở có liên quan, các đồng chí Chủ
tịch Ủy ban nhân dân quận, huyện, xã, phường, thị trấn có trách nhiệm thi hành
và tùy theo chức năng, nhiệm vụ của mình mà hướng dẫn cụ thể việc thi hành
quyết định này cho tốt.

 

 

 

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH/THƯỜNG TRỰC

Lê Đình Nhơn

 

 

 

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH/THƯỜNG TRỰC

Lê Đình Nhơn

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
——-

CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
———

Số:
53/CT-UB

Tp.
Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 1977

 

CHỈ THỊ

VỀ
VIỆC GẤP RÚT ĐÀO TẠO CÔNG NHÂN MỘT SỐ NGÀNH NGHỀ

Được biết số tiền chi phí dùng
cho đào tạo của Thành phố, theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước phân bổ, đến nay còn
đọng lại nhiều, trong khi đó thành phố còn thiếu rất nhiều công nhân cho một số
ngành nghề, thường vụ Thành ủy và Ủy ban nhân dân Thành phố chủ trương gấp rút
lập kế hoạch và xúc tiến việc này trong quý 4/77.

Thường trực Ủy ban nhân dân
Thành phố, ủy nhiệm Ủy ban kế hoạch thành phố chủ trì cùng với Sở Lao động, Sở
Tài chánh, Sở Công nghiệp và một số Sở Ban Ngành, Quận có liên quan (như Tân
Bình, Gò Vấp v.v…) phối hợp lên phương án đào tạo công nhân để trong quý 4/77
này có thể mở lớp được.

Thường trực Ủy ban gợi ý : đào
tạo công nhân dệt từ 500 đến 1.000 người, công nhân cơ điện (nguội, rèn- chính
xác, gia công tiện, phay, bào) từ 1.000 đến 1.500 người… tuyển lựa số thanh
niên con em cán bộ, gia đình cách mạng, số trẻ có lý lịch rõ ràng, lịch sử tốt
v.v…

Cố gắng đến ngày 5/10/1977 Ủy
ban kế hoạch và bộ phận chuẩn bị có thể trình phương

 

 

Nơi
– UBKH Thành phố
– Sở Lao động
– Sở Tài chánh
– Sở Công nghiệp
– A.5 Xuân, A.9 Lê (để biết)
– TH (Khối CN, Lao động)
– Lưu.

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH

Võ Thành Công

 

 

 

Nơi
– UBKH Thành phố
– Sở Lao động
– Sở Tài chánh
– Sở Công nghiệp
– A.5 Xuân, A.9 Lê (để biết)
– TH (Khối CN, Lao động)
– Lưu.

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH

Võ Thành Công

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
******

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
********

Số: 270-CP

Hà Nội, ngày 30 tháng 09 năm 1977

 

QUYẾT ĐỊNH

VỀ VIỆC THÀNH LẬP BAN PHÂN VÙNG KINH TẾ TỈNH VÀ THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG

HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ

Căn cứ vào Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ ngày 14-7-1960;
Căn cứ vào quyết định của Hội đồng Chính phủ số 269-CP ngày 30-9-1977 về việc thành lập Ủy ban phân vùng kinh tế trung ương;
Xét đề nghị của Ủy ban phân vùng kinh tế trung ương.

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. – Nay thành lập Ban phân vùng kinh tế tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (dưới đây gọi tắt là Ban phân vùng kinh tế tỉnh).

Ban phân vùng kinh tế tỉnh là cơ quan giúp Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố chỉ đạo và tổng hợp công tác quy hoạch và phân vùng kinh tế trong địa bàn tỉnh, thành phố theo hướng chỉ đạo chung của Ủy ban phân vùng kinh tế trung ương.

Điều 2. – Ban phân vùng kinh tế tỉnh có nhiệm vụ chủ yếu như sau:

1. Tham gia vào công tác phân vùng kinh tế của trung ương đối với những vấn đề có liên quan đến tỉnh, thành phố mình, đồng thời phát biểu ý kiến của tỉnh, thành phố đối với công tác quy hoạch của các ngành trung ương có liên quan đến tỉnh, thành phố mình.

2. Theo sự hướng dẫn chung của Ủy ban phân vùng kinh tế trung ương, nghiên cứu xây dựng dự án quy hoạch của tỉnh, thành phố và phương án phân vùng kinh tế trên địa bàn tỉnh, thành phố, trình Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố xem xét, đồng thời báo cáo lên Ủy ban phân vùng kinh tế trung ương để trình Chính phủ phê duyệt.

3. Chỉ đạo và hướng dẫn Ủy ban nhân dân huyện xây dựng quy hoạch của cấp huyện theo hướng chỉ đạo chung của Ủy ban phân vùng kinh tế trung ương, trình Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố phê chuẩn; đồng thời giúp cấp huyện trong công tác quy hoạch trên địa bàn huyện.

4. Theo dõi, kiểm tra việc thực hiện các chính sách, chế độ và phương pháp về quy hoạch và phân vùng kinh tế của Nhà nước trong địa bàn tỉnh, thành phố, đồng thời kiến nghị với Ủy ban phân vùng kinh tế trung ương những vấn đề trong quá trình thực hiện các chính sách, chế độ và phương pháp nói trên.

Điều 3. – Thành phần của Ban phân vùng kinh tế tỉnh gồm có:

Trưởng ban: Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh,

Phó trưởng ban: Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, (phụ trách công nghiệp và xây dựng);

Phó trưởng ban thường trực: Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch tỉnh, (trong trường hợp đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh kiêm chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch thì phân công một đồng chí Phó chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch tỉnh làm Phó trưởng ban thường trực);

Các Ủy viên:

– Phó chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch tỉnh ( trong trường hợp đã có một đồng chí Phó chủ nhiệm làm Phó trưởng ban thường trực, thì phân công một đồng chí Ủy viên Ủy ban kế hoạch tỉnh làm ủy viên).

– Phó trưởng Ty nông nghiệp,

– Phó trưởng Ty công nghiệp,

– Phó trưởng Ty xây dựng,

– Phó trưởng Ty thủy lợi,

– Phó trưởng Ty giao thông vận tải,

– Phó trưởng Ty lâm nghiệp (ở các tỉnh có Ty lâm nghiệp),

– Phó trưởng Ty hải sản (ở các tỉnh có Ty hải sản),

– Phó chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh,

– Phó trưởng TY y tế,

– Phó trưởng Ty văn hóa,

– Phó trưởng Ty giáo dục.

Điều 4. – Ban phân vùng kinh tế tỉnh có bộ phận thường trực để giúp việc, bao gồm các chuyên viên, cán bộ nghiên cứu về công tác quy hoạch, phân vùng và phân bố lực lượng sản xuất, đồng thời phối hợp chặt chẽ với Ủy ban kế hoạch tỉnh và các Ty chuyên ngành nhằm bảo đảm cho công tác này được tiến hành có hiệu quả thiết thực. Số cán bộ này sẽ được rút ở các ngành chuyên môn có liên quan trong tỉnh và nằm trong số biên chế chung theo kế hoạch của tỉnh hiện nay.

Điều 5. – Đồng chí Chủ nhiệm Ủy ban phân vùng kinh tế trung ương, các đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và thủ trưởng các ngành trung ương chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.

 

T.M. HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
K.T. THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG


Lê Thanh Nghị

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
******

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
********

Số: 269-CP

Hà Nội, ngày 30 tháng 09 năm 1977

 

QUYẾT ĐỊNH

VỀ VIỆC THÀNH LẬP ỦY BAN PHÂN VÙNG KINH TẾ TRUNG ƯƠNG

HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ

Căn cứ vào Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ ngày 14-7-1960;
Căn cứ vào nghị quyết của hội nghị thường vụ Hội đồng Chính phủ trong phiên họp ngày 7 tháng 9 năm 1977;
Xét yêu cầu của công tác xây dựng quy hoạch, phân vùng kinh tế và phân bố lực lượng sản xuất trong cả nước.

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. – Nay thành lập Ủy ban phân vùng kinh tế trung ương để giúp Hội đồng Chính phủ tổng hợp và chỉ đạo công tác quy hoạch và phân vùng kinh tế, phân bố lực lượng sản xuất trong cả nước.

Điều 2. – Ủy ban phân vùng kinh tế trung ương có nhiệm vụ:

1. Nghiên cứu tổng hợp dự án quy hoạch và phân vùng kinh tế, phân bố lực lượng sản xuất trong cả nước;

2. Hướng dẫn và chỉ đạo các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ, các Ủy ban nhân dân tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương xây dựng các quy hoạch ngành, quy hoạch vùng kinh tế thuộc tỉnh, thành phố và xây dựng quy hoạch của cấp huyện;

3. Nghiên cứu trình Chính phủ ban hành các chính sách, chế độ và phương pháp về quy hoạch và phân vùng kinh tế, phân bố lực lượng sản xuất trong cả nước.

Điều 3. – Thành phần của Ủy ban phân vùng kinh tế trung ương gồm có:

Chủ nhiệm: Phó thủ tướng Lê Thanh Nghị,

Phó chủ nhiệm: Phó thủ tướng Võ Chí Công,

Phó chủ nhiệm thường trực: Phó thủ tướng Đỗ Mười;

Các Ủy viên:

– Đồng chí Trần Quỳnh, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước,

– Đồng chí Nguyễn Chương, Phó chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước,

– Đồng chí Lê Xuân Tại, thứ trưởng Bộ Nông nghiệp,

– Đồng chí Hoàng Bửu Đôn, thứ trưởng Bộ Lâm nghiệp,

– Đồng chí Vũ Khắc Mẫn, thứ trưởng Bộ Thủy lợi,

– Đồng chí Nguyễn Tường Lân, thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải,

– Đồng chí Vương Quốc Mỹ, thứ trưởng Bộ Xây dựng,

– Đồng chí Nguyễn Bá Phát, thứ trưởng Bộ Hải sản,

– Đồng chí Hoàng Văn Thái, thứ trưởng Bộ Quốc phòng,

– Đồng chí Trần Anh Vinh, thứ trưởng Bộ Điện và than.

Ngoài ra, tùy theo tính chất của công việc, đồng chí Chủ nghiệm Ủy ban phân vùng kinh tế trung ương sẽ mời đại diện các Bộ, Tổng cục khác tham dự các cuộc họp cần thiết để bàn những công việc có liên quan đến các ngành đó.

Điều 4. – Bộ phận làm việc thường trực của Ủy ban phân vùng kinh tế trung ương là Viện phân vùng và quy hoạch thuộc Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.

Điều 5. – Đồng chí Chủ nhiệm Ủy ban phân vùng kinh tế trung ương nghiên cứu và trình Thường vụ Hội đồng Chính phủ những quy định về chế độ, phương pháp làm việc của Ủy ban và hệ thống tổ chức làm công tác này ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Điều 6. – Các đồng chí có tên trong quyết định này, các đồng chí Bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ, các đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.

 

T.M. HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ


Phạm Văn Đồng

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

BỘ
LAO ĐỘNG
******

CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
********

Số:
18-LĐ/TT


Nội, ngày 03 tháng 10 năm 1977 

 

THÔNG TƯ

VỀ VIỆC THI HÀNH KHOẢN TRỢ CẤP MỘT LẦN CHO CÁN BỘ, CÔNG
NHÂN, VIÊN CHỨC KHI ĐƯỢC ĐIỀU ĐỘNG CÔNG TÁC DÀI HẠN

Để tạo điều kiện cho cán bộ, công nhân, viên chức
được điều động hẳn đến công tác ở nơi khác, Chính phủ đã đặt khoản trợ cấp một
lần để giúp anh chị em có thể mua sắm thêm những đồ dùng cần thiết cho sinh hoạt
khi chuẩn bị đi nhận công tác mới. Do yêu cầu điều động khác nhau và do nơi đến
công tác có những thuận lợi , khó khăn khác nhau nên mức trợ cấp một lần cũng
khác nhau.

Sau khi thống nhất ý kiến với Bộ Tài chính Bộ
Lao động  hướng dẫn cụ thể như sau.

I. ĐỐI TƯỢNG ĐƯỢC HƯỞNG TRỢ CẤP MỘT LẦN VÀ MỨC TRỢ CẤP

Cán bộ, công nhân, viên chức Nhà
nước bao gồm cả bộ đội chuyển ngành sang các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước; học
sinh tốt nghiệp đại học, trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật đang tập
sự, được điều động hẳn ( tức là cắt khỏi biên chế và quỹ lương ở cơ quan cũ) đến
các vùng dưới đây thì được trợ cấp :

1. Từ các bộ, các cơ quan trung
ương, các tỉnh, thành phố phía Bắc ( Bình Trị Thiên trở ra) được điều động hẳn
đến các tỉnh, thành phố, huyện, xã và cơ sở đồng bằng phía Nam, thì được trợ cấp
một lần 100 đồng ( một trăm đồng).

2. Từ các huyện, tỉnh, thành phố
đồng bằng nói chung trong cả nước được điều động hẳn đến các huyện, tỉnh, thị
xã ở miền núi, biên giới, hải đảo thì được trợ cấp một lần 150 đồng (một trăm
năm mươi đồng); nếu điều động hẳn lên rẻo cao hoặc đến hải đảo xa, thì được trợ
cấp một lần 200 đồng (hai trăm đồng).

Trong phạm vi một tỉnh, nếu điều
động hẳn từ huyện, thị xã ở đồng bằng đến huyện, thị xã ở miền núi, biên giới,
hải đảo cũng được trợ cấp 150 đồng.

3. Trường hợp đã được điều động
đến nơi mới mà sau đó lại được điều động tiếp đến nơi mới có mức trợ cấp cao
hơn thì được hưởng thêm phần chênh lệch.

4. Những trường hợp điều động
khác và những đối tượng không được quy định trên đây (điều 1, 2, 3) thì không
thuộc đối tượng áp dụng khoản trợ cấp một lần này.

II. ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

1. Việc xác định miền núi, biên
giới, hải đảo ở các tỉnh phía Bắc vẫn áp dụng như đã quy định trong Thông tư số
04-TT/LB ngày 23-2-1962 của liên bộ Nội vụ- Lao động và Thông tư bổ sung số
15-LĐ/TT ngày 12-11-1963 của Bộ Lao động.

Đối với các tỉnh từ quảng trị cũ
trở vào, Ủy ban nhân dân các tỉnh sẽ tạm quy định các vùng núi, biên giới, rẻo
cao để áp dụng các mức trợ cấp một lần và báo cáo cho Bộ Lao động biết.

– Hải đảo xa ở phía Nam: trước mắt
quy định là quần đảo Trường Sa và đảo Thổ Chu;

– Rẻo cao : là những vùng núi
cao 150m trở lên so với mặt biển, trình độ canh tác đang ở trạng thái du mục,
đường giao thông rất khó khăn;

– Vùng núi : không kể những cao
nguyên bằng phẳng đang phát triển nông nghiệp theo quy mô lớn.

2. Các mức trợ cấp một lần 30 đồng
và 50 đồng và các đối tượng được hưởng đã được quy định trong các điểm 5, 6, 7
của Quyết định số 292-CP ngày 31-12-1974 của Hội đồng chính phủ và các mức phụ
cấp di chuyển khi điều động công tác đến miền núi, biên giới, hải đảo đã quy định
tại Thông tư số 04-TT/LB ngày 23-2-1962 của liên Bộ Nội vụ – Lao động (mục II,
điểm 1) không áp dụng nữa.

3. Khoản trợ cấp này được thi
hành từ ngày 12 tháng 9 năm 1977. Những trường hợp đã điều động từ ngày
12-9-1977 mà chưa được hưởng, thì được truy lĩnh,nếu đã hưởng các mức 30 đồng
hoặc 50 đồng thì cũng được hưởng phần chênh lệch.

4. Khoản trợ cấp này (đối với
các tỉnh phía Nam vẫn tính theo tỷ giá 1/0,8 ) do các cơ quan, xí nghiệp có cán
bộ, công nhân, viên chức được điều động trả và ghi vào giấy thôi trả lương.

Đối với cơ quan hành chính, sự
nghiệp do ngân sách đài thọ (ghi vào một tiết riêng trong mục II của loại , khoản,
hạng chi trong bảng dự, quyết toán).

Đối với các đơn vị sản xuất,
kinh doanh thì được coi như khoản chi ngoài giá thành, phí lưu thông và do kinh
phí sự nghiệp của cơ quan chủ quản đài thọ (ghi thành một tiết riêng trong mục
II của loại, khoản, hạng chi trong bảng dự, quyết toán chi ngoài giá thành, phí
lưu thông).

Trường hợp lúc điều động đi mà
cán bộ, công nhân viên chưa được trợ cấp một lần thì cơ quan, xí nghiệp mới nơi
đương sự đến công tác sẽ xét và cấp phát.

 

BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
 


 
Nguyễn Thọ Chân

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ

 

CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

 

Số:
272-CP


Nội, Ngày 03 Tháng 10 Năm 1977

 

QUYẾT ĐỊNH

BAN HÀNH CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ MỞ RỘNG DIỆN TÍCH SẢN
XUẤT NÔNG, LÂM NGHIỆP, XÂY DỰNG VỪNG KINH TẾ MỚI, THỰC HIỆN ĐỊNH CANH, ĐỊNH CƯ.

HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ

Căn cứ vào Luật tổ chức Hội đồng
Chính phủ ngày 14-7-1960;
Căn cứ vào nghị quyết của Hội đồng Chính phủ trong hội nghị Thường vụ của Hội đồng
Chính phủ ngày 27-8-1977 về việc Nhà nước đầu tư, hỗ trợ hợp tác xã mở rộng diện
tích sản xuất nông, lâm nghiệp.

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1.
– Nay ban hành kèm theo quyết định này bản quy định về
chính sách đối với hợp tác xã mở rộng diện tích sản xuất, nông, lâm nghiệp, xây
dựng vùng kinh tế mới, thực hiện định canh, định cư.

Điều 2.
– Những quy định đã ban hành trước đây trái với chính
sách ban hành kèm theo quyết định này đều bãi bỏ.

Điều 3.
– Các ông Bộ trưởng các Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Tài
chính, Lương thực và thực phẩm, Giao thông vận tải, Thủy lợi, Nội thương, Lao động,
Y tế, Giáo dục, Văn hóa, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước, Chủ nhiệm Ủy ban Vật
giá Nhà nước, Tổng giám đốc ngân hàng Nhà nước và thủ trưởng các ngành có liên
quan khác ra thông tư riêng hoặc thông tư liên bộ hướng dẫn việc thi hành chính
sách này.

Điều 4.
– Các ông Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan
trực thuộc Hội đồng Chính phủ, các ông Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.

 

T.M.
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
K.T. THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG

Phạm Hùng

 

QUY ĐỊNH

VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁC HỢP TÁC XÃ MỞ RỘNG DIỆN TÍCH SẢN
XUẤT NÔNG, LÂM NGHIỆP, XÂY DỰNG VÙNG KINH TẾ MỚI,THỰC HIỆN ĐỊNH CANH, ĐỊNH CƯ.
(Ban hành kèm theo quyết định số 272-CP ngày 3-10-1977)

Để thực hiện nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ IV và nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của Ban chấp hành trung ương
Đảng khóa IV, cần phải đẩy mạnh việc mở rộng diện tích sản xuất nông, lâm nghiệp
nhằm:

– Phân bố và sử
dụng hợp lý sức lao động thừa với sức lao động chưa được sử dụng tốt ở các tỉnh,
thành phố.

– Phát huy thế mạnh kinh tế nông
nghiệp, lâm nghiệp của cả nước, xây dựng các vùng kinh tế mới, góp phần củng cố
quốc phòng, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội;

– Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp
và lâm nghiệp nhằm đáp ứng công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và cải
thiện đời sống nhân dân.

Được sự giúp đỡ của Nhà nước,
các hợp tác xã trong việc khai hoang mở rộng diện tích sản xuất nông lâm nghiệp
phải phấn đấu theo những yêu cầu và phương hướng sau đây:

1. Phát huy đến mức cao
nhất nhiệt tình cách mạng, tinh thần làm chủ tập thể, ý thức tự lực tự cường,
không ỷ lại vào Nhà nước, quyết tâm phấn đấu, không sợ khó khăn gian khổ, làm
cho cuộc vận động mở rộng diện tích sản xuất nông, lâm nghiệp, xây dựng vùng
kinh tế mới, thực hiện định canh định cư, trở thành một phong trào cách mạng của
quần chúng hăng hái làm nghĩa vụ với Tổ quốc.

2. Phải làm theo đúng quy
hoạch, quy trình kỹ thuật, đi vào thâm canh, chuyên canh, sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa, kết hợp chặt chẽ nông nghiệp, lâm nghiệp và công nghiệp. Chấp hành
nghiêm chỉnh pháp lệnh bảo vệ rừng, khắc phục tệ phá rừng, bảo vệ đất, xóa hẳn
việc du canh du cư, đảm bảo hiệu quả kinh tế vững chắc và lâu dài.

3. Hợp tác xã phải tận dụng
sức lao động, tiền vốn của mình nhanh chóng tạo ra nguồn tích lũy nội bộ để
không ngừng phát triển sản xuất, thực hiện lấy ngắn nuôi dài, tận dụng khả năng
đất đai để sản xuất lương thực, thực phẩm, đồng thời đẩy mạnh phát triển cây
công nghiệp, chăn nuôi, nghề rừng, chế biến nông, lâm sản.

4. Thúc đẩy việc cải tạo
quan hệ sản xuất cũ, xây dựng, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, kết
hợp định canh định cư với hợp tác hóa, thực hiện đúng đắn chính sách dân tộc của
Đảng, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Sau đây là nội dung chính sách.

I. GIAO ĐẤT
GIAO RỪNG ĐỂ HỢP TÁC XÃ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VÀ LÂM NGHIỆP

Đất đồi núi, rừng và đất đai
chưa khai phá đều thuộc quốc gia công thổ, không ai được chiếm làm của riêng. Để
các hợp tác xã có điều kiện phát triển sản xuất, mở rộng kinh doanh, Nhà nước
giao cho mỗi hợp tác xã một diện tích đất đai để trồng trọt, chăn nuôi, trồng
cây gây rừng. Mỗi hộ xã viên được cấp một số đất theo điểm 2 dưới đây.

1. Mỗi hợp tác xã được
giao một diện tích đất hoặc diện tích rừng ở gần hợp tác xã để phát triển nông
nghiệp và lâm nghiệp tương ứng với số lao động có trong thời gian 5 năm kể từ
ngày đăng ký xin đất dùng vào việc sản xuất, theo tiêu chuẩn một lao động nông,
lâm nghiệp từ 1 ha đến 4 ha, tùy theo từng loại cây trồng và sản phẩm làm ra
đòi hỏi nhiều hay ít công lao động để sản xuất thâm canh và chế biến.

Căn cứ vào bản đồ phân vùng sản
xuất nông, lâm nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản của tỉnh do Hội đồng
Chính phủ thông qua và phương hướng sản xuất của từng vùng đã được Ủy ban nhân
dân tỉnh xác định, Ủy ban nhân dân huyện,tùy theo điều kiện đất đai và khả năng
lao động của từng hợp tác xã, giao đất và giao rừng cho hợp tác xã sản xuất
kinh doanh. Ủy ban nhân dân tỉnh phải tổ chức phúc tra để kịp thời điều chỉnh,
bảo đảm thực hiện tốt chính sách của Đảng và Nhà nước.

2. Mỗi hộ gia đình được cấp
đất thổ cư từ 200 m2 đến 300 m2 và đất làm kinh tế phụ từ
500 m2 đến 700 m2 tùy theo tình hình đất đai ở mỗi địa
phương; đất kinh tế phụ có thể ở gần khu vực đất thổ cư và cũng có thể ở ngoài
khu vực đất thổ cư.

3. Các hợp tác xã phải sử
dụng tốt đất và rừng được giao.

Sau khi được giao đất, giao rừng
trong thời gian từ 3 đến 7 năm, tùy theo đất và loại cây trồng, các hợp tác xã
phải đưa hết đất và rừng vào sản xuất theo quy hoạch, không được bỏ hoang hóa,
Các Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm đôn đốc
kiểm tra các cơ sở được giao đất, giao rừng thực hiện nghiêm chỉnh những quy định
về sử dụng đất đai, về quản lý bồi dưỡng rừng, khai thác rừng hợp lý và bảo vệ
rừng, nhất là rừng đầu nguồn, tuyệt đối cấm khai thác bừa bãi và phá rừng. Nếu
đơn vị hoặc cá nhân được giao đất, giao rừng, không làm đúng quy hoạch, quy
trình kỹ thuật, hoặc quá thời hạn đã quy định mà không dùng hết đất thì Nhà nước
sẽ lấy lại và phân phối cho đơn vị khác, người khác làm.

II. CHÍNH
SÁCH ĐẦU TƯ CHO HỢP TÁC XÃ

1. Nhà nước đầu tư vốn cho
công tác khai hoang mở rộng diện tích theo phương châm Nhà nước và nhân dân
cùng làm.

Nhà nước có chính sách hỗ trợ vốn
cho hợp tác xã khai hoang mở rộng diện tích để kinh doanh nông, lâm nghiệp như
sau:

a) Đối với diện tích được mở rộng
để sản xuất nông nghiệp, Nhà nước đầu tư hỗ trợ vốn cho hợp tác xã để khai
hoang, xây dựng thành đồng ruộng, còn sản xuất kinh doanh thì hợp tác xã dùng vốn
tự có của mình, và được ngân hàng cho vay thêm nếu cần để trồng và chăm sóc.

Để vận dụng cho sát với điều kiện
đất đai của mỗi vùng và quy trình kỹ thuật của cây trồng, bảo đảm thâm canh lâu
dài, Nhà nước quy định mức chỉ đạo đầu tư hỗ trợ vốn để khai hoang và xây dựng
thành đồng ruộng cho 1 ha đối với các loại cây trồng như sau:

Loại cây trồng

Cây lương thực, thực phẩm, cây
công nghiệp ngắn ngày, đồng cỏ thâm canh

Cây công nghiệp dài ngày, cây
ăn quả

Loại đất khai hoang

– Đất bằng hoặc đất tương đối
bằng, chỉ

có cỏ rác hoặc xim mua, lau
lách.

– Đất có độ dốc khoảng 50
– 70 trở

xuống, mật độ gốc cây không nhiều.

– Đất có độ dốc khoảng trên dưới
10,

 mật độ gốc cây trung
bình.

– Đất có độ dốc trên dưới 15 độ,
có nhiều

gốc cây lớn.

30 – 600đ

600 – 1000đ

1000 – 1400đ

1400 – 1800đ

 

300 – 700đ

700 – 1000đ

1000 – 1400đ

Đối với một số trường hợp cụ thể
như đất thì bằng nhưng có nhiều gốc cây to hay ngược lại và đối với những nơi đất
lầy thụt, đất có nhiều sỏi, đá… thì tùy theo điều kiện cụ thể tính toán công sức,
phí tổn cần thiết bỏ ra mà vận dụng vào các định mức của các loại đất được quy
định trên cho thích hợp.

Về cây trồng: đối với cây lương
thực, nếu là cây trồng cạn, xây dựng đồng ruộng ít tốn kém hơn so với làm ruộng
nước, thì vận dụng ở mức thấp, đồng cỏ thâm canh, vận dụng như đối với cây
lương thực trồng cạn; đối với cây công nghiệp những loại như trẩu, sở… thì vận
dụng mức thấp hơn so với các loại cây như chè, dâu tằm… đòi hỏi quy trình thâm
canh cao phải xây dựng đồng ruộng tốn kém hơn.

b) Đối với diện tích mở rộng để
trồng rừng, Nhà nước đầu tư hỗ trợ vốn cho hợp tác xã để khai hoang trồng và chăm
sóc trong 3 năm, bảo đảm mật độ quy định và cây trồng xanh tốt; đối với rừng tự
nhiên là để tu bổ một lần, đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật.

Mức chỉ đạo đầu tư hỗ trợ vốn
cho hợp tác xã để khai hoang, trồng và chăm sóc trong 3 năm một số cây trồng
chính như sau:

Loại cây trồng

Mật độ cây trồng cho 1 ha

Mức đầu tư hỗ trợ cho 1 ha

Thông và sa mộc

Mỡ, bạch đàn, bồ đề, quế

Phi lao

Tre luồng

Câu chủ cánh kiến

(cọ khiết) (cọ phèn)

Tu bổ rừng

3300 cây

3300 cây

5000 cây

300 – 400 gốc

1000 cây

 

600 – 900đ

500 – 800đ

300 – 500đ

400 – 600đ

400 – 700đ

60 – 100đ

Đối với những cây khác chưa có
trong danh mục trên đây, Ủy ban nhân dân tỉnh đề nghị mức đầu tư hỗ trợ về Bộ
Lâm nghiệp xét trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.

Căn cứ vào mức chỉ đạo đối với
các loại cây trồng như đã nêu trên, Bộ Nông nghiệp và Bộ Lâm nghiệp sau khi
trao đổi với Bộ Tài chính sẽ có hướng dẫn mức cụ thể từng vùng cho tỉnh để vận
dụng. Dựa vào mức chỉ đạo của trung ương và mức hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và
Bộ Lâm nghiệp, Ủy ban nhân dân tỉnh phải xét duyệt mức cụ thể cho từng tiểu
vùng trong tỉnh và hướng dẫn các huyện để làm căn cứ lập tự toán và tổ chức chỉ
đạo thực hiện. Ủy ban nhân dân huyện duyệt mức cho các hợp tác xã và Ủy ban
nhân dân tỉnh phúc tra để bảo đảm thực hiện tốt chính sách.

2. Ở những vùng được Nhà nước
đầu tư hỗ trợ vốn khai hoang mở rộng diện tích sản xuất,
để đảm bảo những
yêu cầu hợp lý về sản xuất và đời sống chung trong vùng, Nhà nước đầu tư vốn
xây dựng những công trình phục vụ sản xuất như thủy lợi dẫn nước đến khoảnh, đường
giao thông nối liền đường trục chính với khu sản xuất, khu dân cư, đường vận xuất
và bãi bến lâm sản, những công trình phục vụ đời sống và phúc lợi công cộng như
các cửa hàng, cơ sở y tế, trường học…

Những công trình này phải phù hợp
với quy hoạch chung của huyện.

3. Về việc các hợp tác xã được
vay vốn của ngân hàng, quy định như sau:

– Khi tiến hành sản xuất, hợp
tác xã được vay vốn tín dụng dài hạn với lãi suất nhẹ để xây dựng sân phơi, nhà
kho, chuồng trại chăn nuôi, mua sắm tài sản cố định như trâu, bò cày kéo, đàn
gia súc cơ bản để chăn nuôi, máy bơm và các công cụ sản xuất khác, chi phí trồng
và chăm sóc các cây công nghiệp dài ngày trong thời kỳ xây dựng cơ bản; chi phí
về nuôi rừng (sau thời gian 3 năm trồng và chăm sóc) cho đến khi thu hoạch sản
phẩm.

– Được vay vốn tín dụng ngắn hạn
để chi phí sản xuất đối với cây ngắn ngày và cây dài ngày khi đi vào sản xuất
kinh doanh; chi phí chăn nuôi vỗ lớn, vỗ béo, chăn nuôi gia cầm, nuôi cá; chi
phí kinh doanh lâm sản và đặc sản dưới tán rừng, khai thác rừng tự nhiên, chế
biến tận dụng lâm sản, đặc sản; chi phí sản xuất kinh doanh các ngành, nghề
khác…

4. Các khoản trợ cấp khác.

a) Các hợp tác xã đến vùng kinh
tế mới ngoài việc được Nhà nước đầu tư hỗ trợ và cho vay vốn như đã nêu trên
còn được Nhà nước hỗ trợ thêm một số vốn để xây dựng những cơ sở cần thiết như:

– Trợ cấp cho mỗi gia đình từ
300 đến 500 đồng tùy theo điều kiện vật liệu ở từng nơi để xây dựng nhà ở. Trường
hợp những nơi có điều kiện chuyển nhà ở từ nơi đi đến nơi mới thuận lợi hoặc
nơi đã có sẵn nhà do địa phương đã xây dựng bước đầu thì Nhà nước trợ cấp cho mỗi
hộ từ 100 đến 300 đồng để di chuyển và củng cố những cơ sở đã có sẵn.

– Tùy theo tình hình cụ thể ở mỗi
vùng được Nhà nước hỗ trợ vốn để đào giếng hoặc xây dựng giếng khoan, bể chứa
nước… đảm bảo đủ nước sinh hoạt cho dân.

Ở miền tây Nam Bộ, cần kết hợp
xây dựng khu thổ cư với xây dựng thủy lợi; nơi nào xét cần thiết sẽ được trợ cấp
để vượt thổ làm nền nhà và trang bị xuồng, thuyền đi lại.

– Trợ cấp cho hợp tác xã từ 100
đồng đến 150 đồng trên mỗi hecta trồng mới để xây dựng một số công trình phúc lợi
công cộng như nhà trẻ, mẫu giáo, trụ sở làm việc… vốn trợ cấp được cấp phát
theo kế hoạch xây dựng của hợp tác xã.

b) Nhà nước đài thọ những chi
phí khác phục vụ cho cuộc vận động mở rộng diện tích sản xuất nông, lâm nghiệp
như trợ cấp chi phí làm quy hoạch, thiết kế cho hợp tác xã mới, chi phí để tổ
chức trạm ăn nghỉ dọc đường cho dân khi di chuyển.

c) Nhân dân di chuyển đến cơ sở
mới được trợ cấp để chi cho việc vận chuyển người, hành lý, lương thực, thực phẩm
mang theo, được chăm sóc về y tế, khi đi đường không phải trả tiền, khi ra đi
được mua áo rét (nếu ở vùng rừng núi), chăn, màn không phải phiếu vải nếu chưa
có. Khi đến nơi ở mới được hưởng các quyền lợi về chính trị, kinh tế, về phúc lợi
công cộng (y tế, giáo dục, văn hóa…) và có nghĩa vụ như nhân dân ở địa phương.
Trong 3 năm đầu được cấp thuốc phòng bệnh, được miễn bệnh viện phí (nếu ốm phải
nằm bệnh viện), được miễn nghĩa vụ dân công đi làm ở nơi khác (vẫn làm nghĩa vụ
dân công ở xã), được tạm hoãn nghĩa vụ quân sự (trừ trường hợp khẩn cấp có lệnh
động viên).

Đối với những gia đình đi xây dựng
cơ sở mới có nhiều khó khăn, khi ra đi có thể được xét trợ cấp thêm một số tiền
để mua sắm một số dụng cụ sản xuất và đồ dùng sinh hoạt. Riêng đối với đồng bào
ở thành phố, thị xã mới giải phóng được trợ cấp một số công cụ để sản xuất lần
đầu khi đến cơ sở mới. Những đồng bào này vì chưa quen với sản xuất nông nghiệp,
năng suất lao động lúc đầu còn thấp do đó thu nhập không đủ, có nhiều khó khăn
trong đời sống thì có thể được xét trợ cấp thêm trong thời gian không quá một
năm.

5. Các hợp tác xã được Nhà nước
đầu tư hỗ trợ và cho vay vốn để khai hoang phát triển sản xuất nông nghiệp và
lâm nghiệp, phải sản xuất kinh doanh theo đúng phương hướng sản xuất của vùng
và đúng với quy định về sử dụng đất, rừng được Nhà nước giao.

Những sản phẩm hàng hóa nông,
lâm nghiệp do các hợp tác xã sản xuất ra theo quy hoạch và kế hoạch phải bán
cho Nhà nước và được Nhà nước thu mua theo giá cả chung đã được Nhà nước quy định.

6. Những chính sách trên đây
áp dụng cho các hợp tác xã, và nhân dân ở các thành phố, thị xã, Việt kiều ở nước
ngoài về nước, chuyển đến vùng đất hoang, vùng quai đê lấn biển để xây dựng vùng
kinh tế mới theo quy hoạch được duyệt, đồng bào các dân tộc tiến hành định canh
định cư.

Những hợp tác xã ở miền núi,
trung du, ven biển mở rộng diện tích tại chỗ để sản xuất nông nghiệp hoặc được
giao thêm đất, thêm rừng để trồng tập trung và tu bổ theo quy hoạch cung cấp
nguyên liệu cho Nhà nước, quy hoạch phòng hộ các đầu nguồn xung yếu thì áp dụng
toàn bộ mục I và các điểm 1, 2, 3 mục II của chính sách (nếu trồng cây phân tán
thì áp dụng chính sách trợ cấp trồng cây nhân dân).

Riêng đối với đồng bào du canh
du cư, do đặc điểm tự nhiên, kinh tế và xã hội có nhiều khó khăn cho nên ngoài
những khoản trợ cấp nói trên còn được cấp thêm một lần các khoản sau đây:

– Chi phí trồng cây dài ngày,
cây đặc sản, và một phần chi phí trong thời kỳ chăm sóc;

– Chi phí lần đầu về giống và
phân bón hóa học để trồng cây ngắn ngày.

Những hộ đang du canh du cư, những
hộ ở vùng mới giải phóng đi khai hoang mở rộng diện tích ở các vùng kinh tế mới,
chính quyền huyện và xã, chính quyền khu phố phải đứng ra tổ chức thành các tổ,
hoặc đội sản xuất tập thể, từng bước tiến lên xây dựng thành hợp tác xã.

III. VIỆC TỔ
CHỨC DI CHUYỂN DÂN ĐI KHAI HOANG, XÂY DỰNG VÙNG KINH TẾ MỚI

1. Các hợp tác xã ở đồng
bằng phía Bắc có diện tích canh tác bình quân thấp, không có điều kiện phát triển
ngành nghề, thừa lao động, các thành phố, thị xã, thị trấn đông dân ở phía Nam
nhiều người có khả năng lao động, chưa có việc làm, có nhiệm vụ điều chuyển bớt
dân số đi xây dựng các vùng kinh tế mới.

Trong thời gian đầu, chỉ đưa những
lao động trẻ khỏe, có tinh thần hăng hái của những gia đình có nhiều lao động đến
cơ sở mới để chuẩn bị trước; khi ở nơi mới đã xây dựng được những cơ sở ban đầu
cần thiết và sản xuất được một phần lương thực, thực phẩm rồi mới đón gia đình
đến.

Những lao động đi trước cần được
tổ chức thành khung hợp tác xã, để đến cơ sở mới có điều kiện nhận đất, nhận rừng,
nhận vốn để tiến hành sản xuất.

Hợp tác xã ở nơi đi có trách nhiệm
bảo đảm công ăn việc làm, lương thực, thực phẩm cho những gia đình có người đi
trước cho đến khi họ đi hẳn đến cơ sở mới.

Các tỉnh, huyện có dân đi cần vận
động lao động lúc công nhân đi hỗ trợ xây dựng cơ sở ban đầu cho hợp tác xã ở
quê hương mới, (nếu hai địa phương có điều kiện tổ chức đi giúp đỡ cho nhau). Đối
với những nơi hai tỉnh ở xa nhau thì tỉnh đưa dân đi cần tuyển lựa những lao động
biết ngành nghề về xây dựng cơ bản, tổ chức thành đơn vị thi công đến vùng kinh
tế mới tham gia cùng tỉnh đón dân đi xây dựng cơ sở ban đầu của vùng. Riêng đối
với các tỉnh ở phía Nam có thể tổ chức theo hình thức thanh niên xung phong để
xây dựng vùng kinh tế mới.

2. Những người đi xây dựng
cơ sở mới phải đem theo lương thực đủ ăn trong khi đi đường. Cơ quan lương thực
phải bố trí mạng lưới bán lương thực phải bố trí mạng lưới bán lương thực thuận
tiện và bán kịp thời ngay cho dân chuyển đến vùng kinh tế mới. Hợp tác xã ở nơi
cũ phải chuyển phần lương thực của những người đi xây dựng cơ sở mới vào nghĩa
vụ bán lương thực cho Nhà nước.

Các hợp tác xã được giao đất,
giao rừng để sản xuất nông, lâm nghiệp kể cả các hợp tác xã định canh định cư,
bất kỳ phương hướng sản xuất lấy cây công nghiệp, chăn nuôi hay nghề rừng là
chính, đều phải tận dụng đất đai để sản xuất các loại lương thực, thực phẩm đến
mức tối đa tùy theo điều kiện thực tế của từng nơi.

Phần còn thiếu, trong từng thời
gian sẽ được Nhà nước cân đối bán thêm đảm bảo mức ăn cho lao động theo ngành
nghề sản xuất và khối lượng sản phẩm làm ra và những người ăn theo trong gia
đình.

Những hợp tác xã thiếu lương thực
được Nhà nước bán thêm, thì 3 năm đầu được ghi vào kế hoạch lương thực của kinh
tế mới, hoặc kế hoạch lương thực cho các ngành nghề trồng cây công nghiệp, trồng
rừng…

3. Khi cơ sở mới đã được
chuẩn bị có điều kiện đưa cả hộ gia đình cùng đi theo, thì việc thanh lý tài sản
phải được giải quyết thỏa đáng theo tinh thần đoàn kết tương trợ trong nội bộ
nhân dân, người ở lại chia sẻ giúp đỡ với người ra đi.

Trường hợp trong nhân dân không
thể giải quyết được, thì hợp tác xã có trách nhiệm đứng ra thu xếp, nếu hợp tác
xã đã cố gắng bằng mọi cách để giải quyết (kể cả bỏ vốn của hợp tác xã ra), mà
vẫn không đủ vốn thanh lý cho người đi, thì được ngân hàng xét cho vay với mức
thật cần thiết.

Khi thanh lý tài sản phải lập hội
đồng hóa giá có đại diện của Ủy ban nhân dân xã, hợp tác xã, hộ đi, ngân hàng, tài
chính để tránh tình trạng nâng giá quá cao hoặc ép giá. Chỉ giải quyết những
tài sản cố định như nhà cửa, chuồng trại chăn nuôi, sân gạch, giếng nước,v.v…
còn đồ đạc, dụng cụ trong gia đình, cây cối trong vườn, hoa màu trên đất 5% thì
nhân dân tự giải quyết.

4. Những người đi xây dựng
vùng kinh tế mới, nếu vào làm công nhân của nông trường, lâm trường, thì được
tuyển dụng theo chế độ hiện hành; khi nông trường, lâm trường đã tương đối ổn định,
những người trong gia đình cũng đi theo thì sẽ tổ chức thành những khu dân cư
theo quy hoạch của nông trường, lâm trường để làm hợp đồng thường xuyên, hợp đồng
thời vụ hay làm gia công cho nông trường, lâm trường, làm các ngành nghề thủ
công, dịch vụ, phục vụ cho nhu cầu trong vùng.

Nhân dân sẵn có ở vùng thì tùy
điều kiện cụ thể có thể tổ chức thành hợp tác xã sản xuất theo phương hướng
chung của vùng, hoặc thu hút vào làm công nhân của nông trường, lâm trường những
lao động đủ tiêu chuẩn, số còn lại tham gia vào khu dân cư.

IV. TRÁCH NHIỆM
CỦA CÁC TỈNH ĐỐI VỚI VIỆC CHUYỂN DÂN ĐI KHAI HOANG, MỞ RỘNG DIỆN TÍCH SẢN XUẤT

Các tỉnh, thành phố có trách nhiệm
trực tiếp trong việc vận động nhân dân đi khai hoang, xây dựng vùng kinh tế mới.

Theo kế hoạch mà tỉnh có dân đi và
tỉnh đón dân đến đã thỏa thuận với nhau và được trung ương duyệt, hai tỉnh đều
chịu trách nhiệm trước trung ương từ khi bắt đầu cho đến khi hoàn thành kế hoạch
chuyển dân đi, tổ chức việc tiếp nhận, xây dựng được cơ sở mới cho sản xuất và
đời sống. Cần chú ý sự phối hợp rất chặt chẽ giữa hai tỉnh có người đi và có
người đến với các ngành có liên quan, có lịch di chuyển và đón tiếp cho thật ăn
khớp. Cụ thể là:

a) Tỉnh có dân đi có nhiệm vụ:

– Cử cán bộ tham gia với tỉnh
đón dân trong việc quy hoạch vùng và quy hoạch thiết kế hợp tác xã, chuẩn bị điều
kiện để đưa dân đến;

– Tổ chức đưa dân đi, có đủ bộ
khung cho bộ máy tổ chức lãnh đạo và quản lý hợp tác xã (đối với các tỉnh phía
Bắc).

– Tách một số cán bộ lãnh đạo,
cán bộ kinh tế kỹ thuật, văn hóa, giáo dục, cán bộ xã, cán bộ các đoàn thể
(nông hội, thanh niên, phụ nữ…) tăng cường cho tình bạn;

– Tổ chức lao động hỗ trợ và lao
động chuyên trách đi xây dựng cơ sở ban đầu ở vùng kinh tế mới;

– Thường xuyên liên hệ chặt chẽ
và tham gia góp sức cùng tỉnh bạn kịp thời giải quyết những vấn đề nẩy sinh
trong quá trình đưa đón dân và xây dựng cơ sở mới.

b) Tỉnh đón dân đến có nhiệm
vụ:

– Tiến hành quy hoạch vùng và
quy hoạch xí nghiệp và có kế hoạch từng bước xây dựng vùng kinh tế mới; tập
trung sức xây dựng những cơ sở hạ tầng cần thiết phục vụ cho sản xuất và đời sống
của nhân dân trong vùng, trước hết là thủy lợi;

– Chuẩn bị những điều kiện ban đầu
cho việc đón dân và tổ chức đón nhận dân; tiến hành xây dựng hợp tác xã và quản
lý tốt hợp tác xã ở vùng kinh tế mới.

– Vận động nhân dân địa phương
tích cực giúp đỡ người mới đến trong việc xây dựng cơ sở vật chất ban đầu;

– Tập trung lãnh đạo, xác định
rõ trách nhiệm của các ngành, các cấp trong việc xây dựng vùng kinh tế mới,
kiên quyết điều động một số cán bộ có đủ năng lực cần thiết và sử dụng tốt số
cán bộ của các tỉnh bạn tăng cường để phục vụ cho công tác này.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
——-

CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
———

Số:
54/CT-UB

Tp.
Hồ Chí Minh, ngày 04 tháng 10 năm 1977

 

CHỈ THỊ

VỀ
NGUYÊN TẮC ĐIỀU ĐỘNG CÁN BỘ PHỤ TRÁCH CÁC PHÒNG CHUYÊN MÔN TRỰC THUỘC ỦY BAN
NHÂN DÂN QUẬN, HUYỆN

Để đảm bảo điều hành công tác
các ngành chuyên môn ở quận, huyện được thuận lợi xuyên suốt từ Thành phố đến
cấp quận, huyện và cơ sở, trong khi chờ ban hành bản quy định phân cấp cụ thể
về quản lý cán bộ, Ủy ban nhân dân thành phố chỉ thị :

1.- Kể từ nay Ủy ban nhân dân
quận, huyện không được tự ý ra quyết định điều động trưởng và phó các phòng
chuyên môn trực thuộc Ủy ban nhân dân quận, huyện.

2.- Muốn điều động cất nhắc đề
bạt trưởng, phó phòng chuyên môn trực thuộc, Ủy ban nhân dân quận, huyện phải
trao đổi nhứt trí với Giám đốc các sở, ban, ngành chủ quản của Thành phố và báo
cáo Ủy ban nhân dân Thành phố xét quyết định.

Các Ủy ban nhân dân quận, huuện
phải nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị này.

 

 

 

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH/THƯỜNG TRỰC

Lê Đình Nhơn

 

 

 

TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH/THƯỜNG TRỰC

Lê Đình Nhơn

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com