Phạm tội lần đầu là từ trước tới nay chưa phạm tội lần nào, nếu các lần phạm tội trước đó đã bị xử lý và đã hết thời hiệu thì lần phạm tội mới này vẫn không được coi là phạm tội lần đầu.
 
Thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trước hết bao gồm các tội ít nghiêm trọng theo quy định ở khoản 1 Điều 9 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn…
 
Cũng theo BLHS năm 2015, tại Điều 11 quy định: Vô ý phạm tội là phạm tội trong trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được;
 
2. Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
 
 
Tai điểm đ, khoản 1, Điều 3 nguyên tắc xử lý trong BLHS năm 2015 nêu rõ “Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục”.
 
Trên cơ sở đó, BLHS năm 2015 đã sửa đổi bổ sung quy định về điều kiện áp dụng hình phạt theo hướng có lợi cho người phạm tội lần đầu; cụ thể như sau:
 
“Điều 38 – Tù có thời hạn
1…
 
2. Không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng.”
 
Quy định mới tại khoản 2, Điều 38 trong BLHS năm 2015 thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo là một nguyên tắc cơ bản của pháp luật xã hội chủ nghĩa nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng; thể hiện tinh thần đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong xử lý người phạm tội.
 
Tuy nhiên, nếu người nào lần đầu phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng mà thiếu một trong các điều kiện không do vô ý hoặc không có nơi cư trú rõ ràng thì cũng không thuộc đối tượng áp dụng tại khoản 2, Điều 38 BLHS năm 2015.
 
Nguyễn Long
 
 
 
 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

_Đảng cộng sản Việt Nam: là thiết chế duy nhất giữ vai trò lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của nhà nước và các tổ chức khác nằm trong hệ thống chính trị.

+Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách để định hướng cho sự phát triển của toàn xã hội trong từng thời kì lịch sử của đất nước trên tất cả các lĩnh vực.

+Đảng vạch ra những phương hướng và nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, củng cố và phát triển hệ thống chính trị, thiết lập chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

+Đảng đề ra những quan điểm và chính sách về công tác cán bộ; phát hiện, lựa chọn, bồi dưỡng những đảng viên ưu tú và những người ngoài Đảng có phẩm chất, năng lực giới thiệu vào các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội thông qua cơ chế bầu cử, tuyển chọn.

+Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình thông qua các Đảng viên và tổ chức Đảng bằng cách giáo dục Đảng viên nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu, qua đó tập hợp, giáo dục và động viên quần chúng tham gia quản lí nhà nước, quản lí xã hội, ủng hộ và tích cực thực hiện đường lối chính sách của Đảng, tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật.

+Đảng thực hiện công tác kiểm tra việc chấp hành và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng đối với các đảng viên, các tổ chức Đảng, các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội, phát triển và uốn nắn kịp thời những sai lầm, lệch lạc.

_Nhà nước CHXHCN Việt Nam: luôn đứng trung tâm của hệ thống chính trị.

+Nhà nước là công cụ để thực hiện quyền lực nhân dân, giữ gìn trật tự và đảm bảo công bằng xã hội.

+Nhà nước là đại diện chính thức của nhân dân, là tổ chức rộng lớn nhất trong xã hội, phạm vi quản lí trên toàn lãnh thổ, đối với mọi công dân; đại diện cho các tầng lớp trong xã hội, nhân dân thực hiện quyền và lợi ích của mình thông qua các cơ quan nhà nước.

+Nhà nước có chủ quyền tối cao trong lĩnh vực đối nội cũng như đối ngoại, có bộ máy quyền lực và có sức mạnh để đảm bảo thực hiện quyền lực chính trị và bảo vệ chế độ chính trị của nhà nước.

+Nhà nước có pháp luật, công cụ có hiệu lực nhất để thiết lập trật tự, quản lí mọi mặt của đời sống xã hội. Nhà nước là chủ sở hữu lớn trong xã hội, có đủ điều kiện và sức mạnh vật chất để tổ chức và thực hiện quyền lực chính trị, quản lí đất nước và xã hội, đồng thời nhà nước còn có thể bảo trợ cho các tổ chức khác trong hệ thống chính trị để thực hiện các hoạt động của mình.

_Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị- xã hội khác: là những tổ chức hợp pháp được tổ chức ra để tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, đại diện cho lợi ích của nhân dân, tham gia vào hệ thống chính trị tuỳ theo tính chất, mục đích nhằm bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân.

+Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị- xã hội có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước; phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của các hội viên, đoàn viên, giữ gìn kỉ cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và nhà nước.

+Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị- xã hội là cơ sở chính trị của nhân dân, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phát huy khả năng tham gia bầu cử Quốc hội và HĐND, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối chính sách của Đảng và nhà nước; thực hiện vai trò giám sát của nhân dân đối với cán bộ, công chức và giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.

+Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị- xã hội giáo dục chính trị tư tưởng, động viên và phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lơp nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị; chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của nhân dân…

+Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị- xã hội được tổ chức theo một hệ thống từ Trung ương đến cơ sở.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

  • Hiệu lực: Chưa có hiệu lực
  • Ngày có hiệu lực: 28/04/2016
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Số: 12/2016/QĐ-TTg
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 11 tháng 3 năm 2016

QUYẾT ĐỊNH

Về việc tiếp tục thực hiện Quyết định số 30/2012/QĐ-TTG ngày 18 tháng 7 năm 2012

Quyết định số 1049/QĐ-TTG ngày 26 tháng 6 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ

____________________

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015;

Theo đề nghị của Bộ trưởng, Chnhiệm Ủy ban Dân tộc,

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định về việc kéo dài thời gian thực hiện Quyết định s30/2012/QĐ-TTg ngày 18 tháng 7 năm 2012 và Quyết định số 1049/QĐ-TTg ngày 26 tháng 6 năm 2014 của Thủ tưng Chính phủ.

Điều 1. Cho phép kéo dài thời gian thực hiện Quyết định số 30/2012/QĐ-TTg ngày 18 tháng 7 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí xác định thôn đặc biệt khó khăn, xã thuộc vùng dân tộc và miền núi giai đoạn 2012 – 2015 và Quyết định số 1049/QĐ-TTg ngày 26 tháng 6 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh Mục các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn cho đến khi quy định mới của Thủ tướng Chính phủ về các vấn đề này có hiệu lực.

Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 28 tháng 4 năm 2016.

Các tiêu chí xác định thôn đặc biệt khó khăn, xã thuộc vùng dân tộc và miền núi tại Quyết định số 30/2012/QĐ-TTg và Danh Mục các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn theo Quyết định số 1049/QĐ-TTg ngày 26 tháng 6 năm 2014 được tiếp tục áp dụng từ ngày 01 tháng 01 năm 2016.

Điều 3. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

KT. THỦ TƯỚNG
Phó Thủ tướng
(Đã ký)
Nguyễn Xuân Phúc

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

+Quyền con người là những đảm bảo pháp lí toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành dộng hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và sự tự do cơ bản của con người.

+Quyền con người là toàn bộ các quyền, tự do và đặc quyền được công nhận dành cho con người, đây là những quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm do tạo hoá ban cho con người như quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, những quyền tối thiểu của con người mà bất cứ nhà nước nào cũng phải bảo vệ.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

  • Hiệu lực: Chưa có hiệu lực
  • Ngày có hiệu lực: 25/04/2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Số: 02/2016/TT-BGDĐT
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 10 tháng 3 năm 2016

THÔNG TƯ

Về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế thi Trung học phổ thông quốc gia

ban hành kèm theo Thông tư số 02/2015/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 02 năm 2015

của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo

__________________

Căn cứ Luật Giáo dục ngày 14 tháng 6 năm 2005; Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Giáo dục ngày 25 tháng 11 năm 2009;

Căn cứ Luật Giáo dục đại học ngày 18 tháng 6 năm 2012;

Căn cứ Nghị định số 36/2012/NĐ-CP ngày 18 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ;

Căn cứ Nghị định số 32/2008/NĐ-CP ngày 19 tháng 3 năm 2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Giáo dục và Đào tạo;

Căn cứ Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật Giáo dục; Nghị định số 31/2011/NĐ-CP ngày 11 tháng 5 năm 2011 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật Giáo dục; Nghị định số 07/2013/NĐ-CP ngày 09 tháng 01 năm 2013 của Chính phủ sửa đổi Điểm b Khoản 13 Điều 1 của Nghị định số 31/2011/NĐ-CP ngày 11 tháng 5 năm 2011 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật Giáo dục;

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam tại Công văn số 743/VPCP-KGVX ngày 01 tháng 02 năm 2016 của Văn phòng Chính phủ về việc tổ chức thi tốt nghiệp trung học phổ thông và sử dụng kết quả để xét tuyển đại học, cao đẳng năm 2016;

Theo đề nghị của Cục trưởng Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục,

Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư sửa đổi, bổ sung một số Điều của Quy chế thi Trung học phổ thông quốc gia ban hành kèm theo Thông tư số 02/2015/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 02 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Quy chế thi Trung học phổ thông quốc gia ban hành kèm theo Thông tư số 02/2015/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 02 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, như sau:

1. Điều 5 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 5. Cụm thi

1. Mỗi tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức:

a) Cụm thi cho thí sinh dự thi để lấy kết quả xét công nhận tốt nghiệp Trung học phổ thông (THPT) và xét tuyển sinh đại học (ĐH), cao đẳng (CĐ) do trường ĐH chủ trì, phối hợp với sở giáo dục và đào tạo (GDĐT) và với trường ĐH, CĐ khác tổ chức (sau đây gọi là cụm thi ĐH);

b) Cụm thi cho thí sinh dự thi để lấy kết quả xét công nhận tốt nghiệp THPT do sở GDĐT chủ trì, phối hợp với trường ĐH, CĐ tổ chức (sau đây gọi là cụm thi tốt nghiệp).

2. Tùy tình hình cụ thể của địa phương, Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định không tổ chức cụm thi tốt nghiệp mà tổ chức cho cả hai đối tượng thí sinh dự thi ở cụm thi ĐH tại địa phương.”

2. Gạch đầu dòng thứ hai Điểm a Khoản 1 Điều 8 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“- Phó Chủ tịch: Lãnh đạo trường ĐH, CĐ chủ trì cụm thi hoặc tham gia cụm thi, lãnh đạo sở GDĐT. Trường hợp không đủ lãnh đạo trường ĐH, CĐ, lãnh đạo sở GDĐT để đảm nhiệm chức danh này thì Phó Chủ tịch có thể là lãnh đạo phòng, ban, khoa, trung tâm của trường ĐH chủ trì cụm thi; lãnh đạo phòng, ban của sở GDĐT.”

3. Bổ sung Khoản 3 và Khoản 4 vào Điều 10 như sau:

“3. Bố trí tại mỗi Điểm thi 01 điện thoại cố định dùng để liên hệ với Hội đồng thi; ở những Điểm thi không thể bố trí được điện thoại cố định thì bố trí 01 điện thoại kéo dài hoặc điện thoại di động đặt cố định tại phòng trực của Điểm thi. Mọi cuộc liên lạc trong thời gian thi đều phải bật loa ngoài và nghe công khai. Trong trường hợp cần thiết, có thể bố trí máy tính tại phòng trực của Điểm thi và đảm bảo máy tính chỉ được nối mạng khi chuyển báo cáo nhanh cho Hội đồng thi.

4. Trong khu vực coi thi, chấm thi, phúc khảo không được mang và sử dụng các thiết bị thu, phát thông tin (trừ quy định tại Khoản 3 Điều này).”

4. Điều 11 được sửa đổi, bổ sung như sau:

Điều 11. Quản lý và sử dụng dữ liệu thi

1. Các Hội đồng thi công bố kết quả thi sau khi chuyển dữ liệu kết quả thi về Bộ GDĐT và hoàn thành việc đối chiếu giữa dữ liệu kết quả thi gửi về Bộ GDĐT với dữ liệu kết quả thi lưu tại Hội đồng thi.

2. Bộ GDĐT chịu trách nhiệm quản lý dữ liệu thi của thí sinh; các sở GDĐT sử dụng dữ liệu thi để xét công nhận tốt nghiệp THPT; các trường ĐH, CĐ, trung cấp sử dụng dữ liệu thi để tuyển sinh.”

5. Khoản 5 Điều 13 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“5. Thời gian nộp Phiếu đăng ký dự thi được quy định trong văn bản hướng dẫn tổ chức thi hằng năm của Bộ GDĐT.

Khi hết hạn nộp Phiếu đăng ký dự thi, nếu phát hiện có nhầm lẫn, sai sót, thí sinh phải thông báo kịp thời cho Hiệu trưởng trường phổ thông hoặc Thủ trưởng đơn vị nơi đăng ký dự thi hoặc cho Hội đồng thi trong ngày làm thủ tục dự thi để sửa chữa, bổ sung.

Các trường hợp đặc biệt được phép bổ sung các loại giấy chứng nhận để được hưởng chế độ ưu tiên, hưởng cộng Điểm khuyến khích phải thực hiện trước ngày thi mới có giá trị.”

6. Điểm đ và Điểm e Khoản 1 Điều 20 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“đ) Cán bộ giám sát, trật tự viên, nhân viên y tế, nhân viên phục vụ, công an (nơi cần thiết có thể thêm một số kiểm soát viên quân sự);

e) Chủ tịch Hội đồng thi căn cứ số lượng thí sinh đăng ký dự thi tại cụm và Điều kiện cơ sở vật chất, đội ngũ để quyết định thành lập các Điểm thi đặt tại trường ĐH, CĐ, trung cấp và các cơ sở giáo dục khác đáp ứng được các yêu cầu tổ chức thi. Mỗi Điểm thi có Trưởng Điểm thi và có thể có các Phó trưởng Điểm thi do Chủ tịch Hội đồng thi quyết định để Điều hành toàn bộ công tác coi thi tại Điểm thi được giao phụ trách.

Cán bộ Ban Coi thi không được làm nhiệm vụ tại Điểm thi có người thân dự thi.”

7. Khoản 3 Điều 20 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“3. Phó trưởng Ban Coi thi, Trưởng Điểm thi thực hiện các công việc theo sự phân công của Trưởng Ban Coi thi; Phó trưởng Điểm thi thực hiện các công việc theo sự phân công của Trưởng Điểm thi.”

8. Điểm a Khoản 2 Điều 22 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“a) Trưởng Điểm thi bố trí cán bộ giám sát phòng thi; đảm bảo mỗi cán bộ giám sát không nhiều hơn 07 phòng thi.”

9. Gạch đầu dòng thứ nhất Điểm c Khoản 2 Điều 22 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“- Giám sát việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của CBCT, các thành viên khác tại khu vực được phân công; giám sát thí sinh được CBCT cho phép ra ngoài phòng thi;”

10. Khoản 2 Điều 23 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“2. Phòng và thiết bị chứa bài thi, tủ và thùng đựng bài thi phải được niêm phong và khóa; chìa khóa do Trưởng Ban Thư ký giữ; khi đóng, mở phải có sự chứng kiến của công an và ủy viên Ban Thư ký Hội đồng thi.”

11. Điểm b và Điểm c Khoản 1 Điều 24 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“b) Phó trưởng Ban: Lãnh đạo trường ĐH, CĐ, lãnh đạo sở GDĐT hoặc lãnh đạo phòng, ban, trung tâm của trường ĐH, CĐ; lãnh đạo các phòng, ban thuộc sở GDĐT và lãnh đạo các trường phổ thông; trong đó, Phó trưởng Ban thường trực là lãnh đạo đơn vị chủ trì cụm thi hoặc trưởng các phòng, ban thuộc trường ĐH và sở GDĐT chủ trì cụm thi;

c) Các ủy viên gồm Trưởng môn chấm thi và cán bộ chấm thi (CBChT) là cán bộ, giảng viên ĐH, CĐ và cán bộ, giáo viên THPT. Mỗi môn thi phải có ít nhất 03 CBChT.

CBChT phải là người đang trực tiếp giảng dạy đúng môn được phân công chấm. Những giảng viên, giáo viên đang trong thời kỳ tập sự và thành viên Ban Thư ký, Ban làm phách của Hội đồng thi không được chấm thi;”

12. Khoản 6 Điều 26 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“6. Tổ chấm tiến hành chấm Điểm và quy đổi Điểm bằng máy tính sang thang Điểm 10, làm tròn đến hai chữ số thập phân cho từng bài thi trắc nghiệm. Thống nhất sử dụng mã môn thi trong các tệp dữ liệu theo quy định của Bộ GDĐT.”

13. Khoản 1 và Khoản 2 Điều 28 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“1. Sau khi chấm thi xong tất cả các môn, Chủ tịch Hội đồng thi duyệt kết quả thi, báo cáo và nộp toàn bộ dữ liệu kết quả thi về Bộ GDĐT (Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục) để lưu giữ và đối chiếu. Dữ liệu kết quả thi phải lưu vào 02 đĩa CD giống nhau, được niêm phong và lập biên bản niêm phong dưới sự giám sát của thanh tra và công an; 01 đĩa giao cho Chủ tịch Hội đồng thi lưu giữ, 01 đĩa bàn giao cho Bộ GDĐT (Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục).

2. Sau khi duyệt kết quả thi và gửi dữ liệu thi về Bộ GDĐT, Chủ tịch Hội đồng thi chỉ đạo Ban Thư ký Hội đồng thi in Giấy chứng nhận kết quả thi cho thí sinh có đăng ký xét tuyển sinh ĐH, CĐ (theo mẫu thống nhất do Bộ GDĐT quy định), ký tên, đóng dấu và gửi cho các sở GDĐT nơi thí sinh đăng ký dự thi.

Mỗi thí sinh được cấp 01 Giấy chứng nhận kết quả thi với mã số xác định duy nhất.”

14. Điểm b Khoản 4 Điều 30 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“b) Kết quả chấm phúc khảo bài thi tự luận do Ban Thư ký Hội đồng thi xử lý như sau:

– Nếu kết quả chấm của hai cán bộ chấm phúc khảo giống nhau thì lấy kết quả đó làm Điểm phúc khảo và giao bài thi cho hai cán bộ chấm phúc khảo ký xác nhận;

– Nếu kết quả chấm của hai cán bộ chấm phúc khảo có sự chênh lệch thì rút bài thi giao cho Trưởng Ban Phúc khảo tổ chức cho cán bộ thứ ba chấm trực tiếp trên bài làm của thí sinh bằng mực màu khác;

– Nếu kết quả chấm của hai trong ba cán bộ chấm phúc khảo giống nhau thì lấy Điểm giống nhau làm Điểm phúc khảo. Nếu kết quả chấm của cả ba cán bộ chấm phúc khảo lệch nhau thì Trưởng Ban Phúc khảo lấy Điểm trung bình cộng của 3 lần chấm làm tròn đến hai chữ số thập phân làm Điểm phúc khảo rồi ký tên xác nhận;

– Bài thi có Điểm phúc khảo lệch so với Điểm chấm đợt đầu (đã công bố) từ 0,25 Điểm trở lên thì được Điều chỉnh Điểm. Trong trường hợp Điểm phúc khảo lệch so với Điểm chấm đợt đầu từ 0,5 Điểm trở lên thì phải tổ chức đối thoại trực tiếp giữa các CBChT đợt đầu và cán bộ chấm phúc khảo (có ghi biên bản). Nếu thấy có biểu hiện tiêu cực thì xử lý theo quy định;

– Điểm chính thức của bài thi sau phúc khảo được Trưởng Ban Phúc khảo trình Chủ tịch Hội đồng thi ký duyệt.”

15. Khoản 6 Điều 30 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“6. Báo cáo kết quả phúc khảo

Điểm các bài thi được Điều chỉnh sau phúc khảo do Trưởng Ban Phúc khảo trình Chủ tịch Hội đồng thi quyết định và cập nhật Điểm của thí sinh sau phúc khảo vào hệ thống phần mềm quản lý thi theo quy định của Bộ GDĐT. Chủ tịch Hội đồng thi báo cáo, gửi dữ liệu cho Bộ GDĐT, đồng thời công bố và trả kết quả phúc khảo cho thí sinh.”

16. Điểm c Khoản 2 Điều 36 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“c) Học sinh giáo dục THPT, học viên GDTX trong diện xếp loại hạnh kiểm, học viên GDTX tham gia học đồng thời chương trình trung cấp kết hợp với chương trình văn hóa theo chương trình GDTX cấp THPT có Giấy chứng nhận nghề do sở GDĐT hoặc các cơ sở giáo dục đào tạo và dạy nghề do ngành Giáo dục cấp trong thời gian học THPT được cộng Điểm khuyến khích căn cứ vào xếp loại ghi trong Giấy chứng nhận nghề như sau:

– Loại giỏi: cộng 2,0 Điểm;

– Loại khá: cộng 1,5 Điểm;

– Loại trung bình: cộng 1,0 Điểm”

17. Tên Chương X được sửa đổi, bổ sung như sau:

“THANH TRA, KIỂM TRA, KHEN THƯỞNG, XỬ LÝ CÁC SỰ CỐ BẤT THƯỜNG VÀ XỬ LÝ VI PHẠM”

18. Điều 44 được sửa đổi, bổ sung như sau:

Điều 44. Thanh tra, kiểm tra

1. Bộ trưởng Bộ GDĐT quyết định thanh tra và thành lập các đoàn thanh tra việc chuẩn bị thi, coi thi, chấm thi, phúc khảo và xét công nhận tốt nghiệp THPT tại tất cả các Hội đồng thi và các sở GDĐT.

2. Thủ trưởng cơ sở giáo dục đại học chủ trì cụm thi quyết định thành lập Đoàn kiểm tra coi thi, chấm thi, phúc khảo bài thi tại cụm thi do mình chủ trì.

3. Giám đốc sở GDĐT chủ trì cụm thi quyết định thành lập Đoàn thanh tra việc chuẩn bị thi, coi thi, chấm thi, phúc khảo tại cụm thi do mình chủ trì và việc xét công nhận tốt nghiệp THPT trên địa bàn.

4. Trình tự, thủ tục tổ chức thanh tra, kiểm tra theo quy định của pháp luật về thanh tra, kiểm tra và hướng dẫn của Bộ GDĐT.

5. Những người có người thân dự thi tại Hội đồng thi trong năm tổ chức Kỳ thi không được tham gia công tác thanh tra, kiểm tra thi.”

19. Điểm d Khoản 4 Điều 49 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“d) Thí sinh bị đình chỉ thi môn thi nào sẽ bị Điểm 0 (không) môn thi đó; không được tiếp tục dự thi các môn thi tiếp theo; không được sử dụng kết quả thi để xét tốt nghiệp THPT và đăng ký xét tuyển vào các trường ĐH, CĐ;”

20. Khoản 5 Điều 51 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“5. Chủ trì hoặc phối hợp với đơn vị chủ trì cụm thi Điều động cán bộ, giáo viên tham gia Ban Chỉ đạo thi, Hội đồng thi, các Ban của Hội đồng thi và các khâu coi thi, chấm thi, phúc khảo, kiểm tra, thanh tra thi.”

Điều 2. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25 tháng 4 năm 2016.

Điều 3. Chánh Văn phòng, Cục trưởng Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục, Thủ trưởng các đơn vị có liên quan thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo; Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Cục trưởng Cục Nhà trường – Bộ Quốc phòng; Giám đốc sở giáo dục và đào tạo; Giám đốc đại học, học viện; Hiệu trưởng trường đại học, cao đẳng; Hiệu trưởng trường phổ thông dân tộc nội trú trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm thi hành Thông tư này./.

KT. BỘ TRƯỞNG

Thứ trưởng

(Đã ký)
Nguyễn Vinh Hiển

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.

_Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam:

+Chính phủ can thiệp về thiết lập hành chính, lãnh thổ bằng cách đề nghị Quốc hội, uỷ ban thường vụ Quốc hội.

+Chính phủ thiết lập bộ máy hành chính nhà nước nhưng do Quốc hội quyết định.

+Chính phủ là cơ quan quản lí nền hành chính quốc gia.

+Chính phủ quản lí các ngành của nền kinh tế quốc dân; đảm bảo và bảo vệ quyền con người và quyền công dân.

+Phạm vi quản lí có hiệu lực trên toàn quốc.

_Chính phủ thực hiện quyền hành pháp:

+Đề xuất, xây dựng chính sách vĩ mô, định hướng phát triển kinh tế- xã hội, dự thảo luật trình Quốc hội.

+Ban hành chính sách, kế hoạch cụ thể thuộc thẩm quyền; ban hành các văn bản dưới luật để thực thi các chủ trương, chính sách, văn bản do Quốc hội ban hành.

+Tổ chức thực hiện pháp luật; chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát việc thực hiện kế hoạch, chính sách bởi các cơ quan hành chính nhà nước nhằm thống nhất quản lí các lĩnh vực của đời sống xã hội.

_Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội:

+Chính phủ do Quốc hội bầu ra, nhiệm kì theo nhiệm kì của Quốc hội, khi Quốc hội hết nhiệm kì, Chính phủ tiếp tục hoạt động cho đến khi bầu ra Chính phủ mới.

+Những văn bản do Quốc hội ban hành, Chính phủ phải chịu trách nhiệm cụ thể hoá và triển khai thành hiện thực.

+Quốc hội giám sát các hoạt động của Chính phủ để đảm bảo Chính phủ thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn của mình 1 cách nghiêm túc…

          Chính phủ do Quốc hội thành lập ra, nhiệm kì theo nhiệm kì của Quốc hội khi Quốc hội hết nhiệm kì, Chính phủ tiếp tục hoạt động cho đến khi bầu ra Chính phủ mới.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Doanh nghiệp kinh doanh bất động sản thành công hay thất bại ngoài yếu tố may mắn còn phụ thuộc những khó khăn, vướng mắc thực tiễn họ gặp phải trong quá trình đầu tư. Việc lường trước những vướng mắc đó và cách giải quyết những vướng mắc đó như thế nào góp phần tạo nên sự thành bại của doanh nghiệp? Trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp gặp rất nhiều vướng mắc đối trong quá trình thi công; trong quá trình thực hiện thủ tục với Cơ quan Nhà nước, thậm chí hoàn thiện dự án rồi nhưng vẫn gặp những vướng mắc đối với khách hàng. Trong phạm vi bài viết này Hanoilaw sẽ phân tích một số vướng mắc thực tiễn doanh nghiệp kinh doanh bất động sản thường gặp phải trong quá trình thi công công trình.

       Rất nhiều nhà đầu tư đã chết tức tưởi khi bước vào giai đoạn thi công dự án vì một số lý do sau:

1.Trong quá trình tiến hành giải phóng mặt bằng. Luật đất đai năm 2013 và Nghị định hướng dẫn thì nhà đầu tư phải có phương án di dân, tái định cư trước khi tiến hành giải phóng mặt bằng. Tuy nhiên, trên thực tế nhà đầu tư lại chủ quan vấn đề này, phương án di dân tái định cư không cụ thể, bồi thường tiền không thỏa đáng, không đúng theo quy định của pháp luật dẫn đến cơ quan nhà nước không đồng ý hoặc người dân đâm đơn khiếu nại nên khâu giải phóng mặt bằng gián đoạn và tiến độ thực hiện bị chậm so với thời gian dự kiến ban đầu. Trong kinh doanh, nếu nhà đầu tư không biết nắm bắt cơ hội, không biết cách “thả con sất xí để bắt con cá rô” thì rất ít nhà đầu tư có thể “sống sót” vượt qua các đối thủ lớn.

        2. Chọn nhà thầu không có đủ năng lực.

Thật đáng buồn khi doanh nghiệp lại lựa chọn phải nhà thầu yếu kém về mọi mặt, nhất là về chuyên môn, lựa chọn một nhà thầu không đủ năng lực thi công chẳng khác nào doanh nghiệp đang tự giết mình. Với những nhà thầu xây dựng kém thì khi đã trúng thầu, họ thường không tuân thủ các quy định trong hợp đồng. Nhưng, do họ bỏ giá rất thấp nên luôn thắng thầu và trong quá trình triển khai các nhà thầu này thường thi công chậm tiến độ, phải hiệu chỉnh nhiều lần hay cố tình tìm cách yêu cầu chủ đầu tư điều chỉnh, nâng giá của gói thầu, làm tăng tổng mức đầu tư, và rõ ràng là hiệu quả đầu tư giảm.

        3. Cách thức huy động vốn.

Nhà đầu tư cần huy động nguồn tiền, gia tăng tiềm lực tài chính để trả bớt nợ vay và dự án thực hiện theo đúng tiến độ. Vậy doanh nghiệp huy động vốn như thế nào? Đối với doanh nghiệp là công ty cổ phần thì doanh nghiệp nên kết hợp những giải pháp phát hành cổ phiếu để thu tiền mặt, chuyển nợ thành vốn cổ phần, đối với các công ty TNHH hoặc hợp danh thì nên kết nạp thêm thành viên để huy động thêm vốn hoặc tăng vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, kết nạp thêm thành viên nào thì doanh nghiệp khi đó cần cân nhắc, tránh trường hợp có thêm thành viên trong nội bộ công ty lại có vấn đề. Đồng thời, các doanh nghiệp nên năng động trong việc tìm kiếm những nguồn vốn mới thông qua việc triển khai tách công ty như Công ty CP Đầu tư Hạ tầng Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, Tập đoàn Vingroup, Công ty CP Hoàng Anh Gia Lai. Spin-off  là kỹ thuật tách một bộ phận của công ty ra để tiến hành thành lập một công ty mới, nó thường gắn với mục đích là huy động vốn.

Ngoài ra còn một số vướng mắc, khó khăn khác khiến doanh nghiệp không có tiềm lực tài chính, kinh nghiệm và không chiếm được lòng tin của khách hàng, sẽ tiếp tục gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng dẫn đến không kinh doanh được và có thể sẽ bị loại khỏi cuộc chơi. Rủi ro cao một phần cũng nằm ở nhiều dự án đã được lập với ý chí chủ quan của chủ đầu tư, không nghiên cứu kỹ thị trường do đó sẽ khó để doanh nghiệp sống sót. Qua bài viết trên đây có thể doanh nghiệp sẽ rút ra kinh nghiệm và cẩn thận trọng hơn trong quá trình kinh doanh.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

_Về trật tự hình thành:

+Quốc hội thành lập nên Toà án nhân dân tối cao. Chánh án toà án nhân dân tối cao do Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước, nhiệm kì của Chánh án TAND tối cao theo nhiệm kì của Quốc hội.

+Quốc hội có quyền quy định tổ chức và hoạt động của TAND tối cao.

+Quốc hội phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán TAND tối cao.

_Về quá trình hoạt động:

+Chánh án TAND tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội.

+Quốc hội có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với Chánh án TAND tối cao. Ngược lại TAND tối cao có thẩm quyền xét xử các đại biểu Quốc hội.

+Quốc hội có quyền bãi bỏ văn bản của TAND tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Uỷ ban thường vụ Quốc hội có quyền đình chỉ thi hành đối với các văn bản của TAND tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; bãi bỏ văn bản của TAND tối cao khi trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

+Toà án nhân dân tối cao có quyền trình dự án luật trước Quốc hội, trình dự án pháp lệnh trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

_Về hoạt động kiểm tra, giám sát:

+Quốc hội có quyền giám sát hoạt độngvà  xét báo cáo của TAND tối cao. Uỷ ban thường vụ Quốc hội có quyền giám sát hoạt động của TAND tối cao.

+Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chánh án TAND tối cao. Chánh án TAND tối cao phải trả lời chất vấn trước Quốc hội tại kì họp, trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội cho trả lời trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc trả lời tại phiên họp sau của kì họp hoặc gửi văn bản trả lời.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quyền con người là những đảm bảo pháp lí toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành dộng hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và sự tự do cơ bản của con người.

Theo Hiến pháp 2013, quyền con người được phân loại thành:

_Các quyền con người về dân sự, chính trị theo Hiến pháp năm 2013:

+Mọi người có quyền bình đẳng trước pháp luật.

+Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.

+ Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam.

+Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước.

+Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật…

_Các quyền con người về kinh tế, xã hội và văn hoá theo Hiến pháp 2013:

+Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác.

+Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ.

+ Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường.

+Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.

+Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau…

          Ngoài ra có một số quyền được Hiến pháp 2013 mới ghi nhận như “ Mọi người được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường” và “Người nước ngoài đấu tranh vì tự do độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, dân chủ và hoà bình hoặc vì sự nghiệp khoa học mà bị bức hại thì được Nhà nước CHXHCN Việt Nam cho phép cư trú”.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước; nhiệm kì theo nhiệm kì của Quốc hội, khi Quốc hội hết nhiệm kì thì Chủ tịch nước tiếp tục làm việc cho đến khi Quốc hội khoá mới bàu ra Chủ tịch nước mới; sau khi được bầu, chủ tịch nước phải tuyên thệ trung thành với tổ quốc, nhân dân và hiến pháp.

          Quốc hội quy định tổ chức và hoạt động của Chủ tịch nước. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội. Quốc hội có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với chủ tịch nước.

Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch nước phải trả lời chất vấn trước Quốc hội tại kì họp, trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc tại kì họp sau của Quốc hội hoặc gửi văn bản trả lời.

Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản của chủ tịch nước trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Chủ tịch nước công bố hiến pháp, luật, pháp lệnh; trình dự án luật ra trước Quốc hội về luật thông qua việc ban hành luật mới hoặc sửa đổi bổ sung luật hiện hành.

Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên họp của uỷ ban thường vụ Quốc hội, đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày pháp lệnh được thông qua, nếu pháp lệnh đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kì họp gần nhất.

Chủ tịch nước trình Quốc hội danh sách các thành viên Hội đồng Quốc phòng và an ninh. Trong đó, Chủ tịch nước là Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh, trình Quốc hội quyết định tình trạng chiến tranh, trong trường hợp Quốc hội không họp thì trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định.

Chủ tịch nước căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội, công bố, bãi bỏ, quyết định tình trạng chiến tranh; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội để công bố quyết định ân xá; căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, quyết định cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước CHXHCN Việt Nam.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

  • Hiệu lực: Chưa có hiệu lực
  • Ngày có hiệu lực: 02/05/2016
CHÍNH PHỦ
Số: 17/2016/NĐ-CP
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 17 tháng 3 năm 2016

NGHỊ ĐỊNH

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 112/2013/NĐ-CP

ngày 02 tháng 10 năm 2013 quy định hình thức xử phạt trục xuất,

biện pháp tạm giữ người, áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính

và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam

trong thời gian làm thủ tục trục xuất

________________

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015;

Căn cứ Luật Phòng, chống bạo lực gia đình ngày 21 tháng 11 năm 2007;

Căn cứ Luật Xử lý vi phạm hành chính ngày 20 tháng 6 năm 2012;

Căn cứ Luật Hải quan ngày 23 tháng 6 năm 2014;

Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công an;

Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung một sĐiều của Nghị định số 112/2013/NĐ-CP ngày 02 tháng 10 năm 2013 quy định hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ người, áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất.

Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 112/2013/NĐ-CP ngày 02 tháng 10 năm 2013 quy định hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ người, áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất (viết gọn là Nghị định số 112/2013/NĐ-CP)

1. Sửa đổi, bổ sung Khoản 1 Điều 3 như sau:

“1. Việc tạm giữ, áp giải người theo thủ tục hành chính và áp dụng hình thức xử phạt trục xuất phải bảo đảm đúng đối tượng, đúng thủ tục, thẩm quyền và thời hạn quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính, Điều 102 Luật Hải quan, Nghị định này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.

2. Sửa đổi, bổ sung Điều 11 như sau:

“Điều 11. Tạm giữ người theo thủ tục hành chính

Việc tạm giữ người theo thủ tục hành chính chỉ được áp dụng trong các trường hợp sau:

1. Khi cần ngăn chặn, đình chỉ ngay các hành vi sau:

a) Gây rối trật tự công cộng;

b) Gây thương tích cho người khác.

2. Khi cần ngăn chặn, đình chỉ ngay hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới trong các trường hợp sau mà người vi phạm có dấu hiệu bỏ trốn, tiêu hủy tang vật, phương tiện vi phạm, gây cản trở việc xử lý vi phạm:

a) Xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa cấm xuất khẩu, nhập khẩu hoặc tạm ngừng xuất khẩu, nhập khẩu theo quy định của pháp luật;

b) Xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa thuộc danh Mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có Điều kiện mà không có giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu hoặc giấy tờ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp theo quy định kèm theo hàng hóa;

c) Xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa không đi qua cửa khẩu quy định, không làm thủ tục hải quan theo quy định của pháp luật hoặc gian lận số lượng, chủng loại hàng hóa khi làm thủ tục hải quan;

d) Xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa không có hóa đơn, chứng từ kèm theo theo quy định của pháp luật hoặc có hóa đơn, chứng từ nhưng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp theo quy định của pháp luật;

đ) Nhập khẩu hàng hóa theo quy định của pháp luật phải dán tem nhập khẩu nhưng không có tem dán vào hàng hóa theo quy định của pháp luật hoặc có tem dán nhưng là tem giả, tem đã qua sử dụng;

e) Buôn bán qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại trái quy định của pháp luật mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;

g) Vận chuyển hàng hóa qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại trái quy định của pháp luật;

h) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

3. Khi cần ngăn chặn, đình chỉ ngay hành vi vi phạm quy định tại Khoản 5 Điều 20 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình và Khoản 1 Điều 12 Nghị định số 08/2009/NĐ-CP ngày 04 tháng 02 năm 2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình”.

3. Sửa đổi, bổ sung Điều 12 như sau:

“Điều 12. Thẩm quyền tạm giữ người theo thủ tục hành chính

1. Những người sau đây có thẩm quyền quyết định tạm giữ người theo thủ tục hành chính:

a) Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, Trưởng Công an phường;

b) Trưởng Công an cấp huyện;

c) Trưởng phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Trưởng phòng Cảnh sát trật tự, Trưởng phòng Cảnh sát giao thông đường bộ, đường sắt, Trưởng phòng Cảnh sát đường thủy, Trưởng phòng Cảnh sát Điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ, Trưởng phòng Cảnh sát Điều tra tội phạm về trật tự xã hội, Trưởng phòng Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy, Trưởng phòng Quản lý xuất nhập cảnh của Công an cấp tỉnh; Trưởng phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp, Trưởng phòng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường;

d) Thủ trưởng đơn vị Cảnh sát cơ động từ cấp đại đội trở lên, Trạm trưởng Trạm Công an cửa khẩu;

đ) Hạt trưởng Hạt kiểm lâm, Đội trưởng Đội kiểm lâm cơ động;

e) Chi cục trưởng Chi cục Hải quan, Đội trưởng Đội kiểm soát thuộc Cục Hải quan, Đội trưởng Đội kiểm soát chống buôn lậu và Hải đội trưởng Hải đội kiểm soát trên biển thuộc Cục Điều tra chống buôn lậu Tổng cục hải quan;

g) Đội trưởng Đội quản lý thị trường;

h) Chỉ huy trưởng Tiểu khu biên phòng, Chỉ huy trưởng biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Hải đoàn biên phòng, Chỉ huy trưởng Hải đội biên phòng, Trưởng đồn biên phòng và Thủ trưởng đơn vị bộ đội biên phòng đóng ở biên giới, hải đảo;

i) Hải đội trưởng Hải đội Cảnh sát biển, Hải đoàn trưởng Hải đoàn Cảnh sát biển, Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển;

k) Người chỉ huy tàu bay, thuyền trưởng, trưởng tàu khi tàu bay, tàu biển, tàu hỏa đã rời sân bay, bến cảng, nhà ga;

l) Thẩm phán chủ tọa phiên tòa.

2. Người có thẩm quyền tạm giữ người quy định tại các Điểm từ a đến i Khoản 1 Điều này có thể giao quyền cho cấp phó. Việc giao quyền chỉ được thực hiện khi cấp trưởng vắng mặt và phải được thể hiện bằng văn bản, trong đó xác định rõ phạm vi, nội dung, thời hạn được giao quyền. Cấp phó được giao quyền phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình trước cấp trưởng và trước pháp luật. Người được giao quyền không được giao quyền, ủy quyền cho bất kỳ cá nhân nào khác”.

Điều 2. Bãi bỏ các quy định hiện hành

Bãi bỏ các quy định tại Khoản 1 Điều 3, Điều 11, Điều 12 của Nghị định số 112/2013/NĐ-CP.

Điều 3. Hiệu lực thi hành

Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 02 tháng 5 năm 2016.

Điều 4. Trách nhiệm thi hành

Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này./.

TM. CHÍNH PHỦ
Thủ tướng
(Đã ký)
Nguyễn Tấn Dũng

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

  1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ

Trong ba loại biện pháp được áp dụng để giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, ranh giới giữa biện pháp hình sự và hai biện pháp còn lại là biện pháp dân sự và biện pháp hành chính tương đối rõ ràng.[1] Thông thường, hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp bị xử lý hình sự nếu trước đó đã bị xử lý hành chính. Trong khi đó, ranh giới giữa biện pháp dân sự và biện pháp hành chính lại chưa thật sự rõ ràng, đặc biệt vấn đề những tranh chấp nào được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự và những tranh chấp nào được giải quyết bằng “con đường” hành chính. Hệ quả là, nhiều tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ lẽ ra phải được giải quyết theo thủ tụng tố tụng dân sự nhưng lại giải quyết theo thủ tục hành chính. Theo thống kê, trong những năm qua, hầu hết các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ được giải quyết bằng biện pháp hành chính. Không ít người lo ngại rằng, việc giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ đang bị hành chính hoá. Quy định không rõ ràng về thẩm quyền dẫn đến sự chồng chéo trong hoạt động của các cơ quan, các cơ quan đôi khi thực hiện công việc không thuộc thẩm quyền của mình, ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi quyền sở hữu trí tuệ.

Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1989 lần đầu tiên quy định cho Toà án thẩm quyền xét xử các tranh chấp về quyền trí tuệ mà cụ thể là quyền sở hữu công nghiệp tại Điều 29. Theo quy định của Pháp lệnh, thẩm quyền xét xử các tranh chấp sở hữu công nghiệp của Toà án rất hẹp. Cụ thể, Toà án chỉ có thẩm quyền xét xử bốn loại tranh chấp và vi phạm sau: hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của chủ văn bằng bảo hộ; tranh chấp liên quan đến việc tổ chức, cá nhân được chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp phải trả khoản tiền cho chủ văn bằng bảo hộ trong trường hợp bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hưũ công nghiệp; tranh chấp liên quan đến việc cấp văn bằng bảo hộ cho tổ chức, cá nhân không có quyền nộp đơn; tranh chấp liên quan đến việc trả thù lao cho tác giả và người thừa kế của tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp[2].

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 chỉ quy định tranh chấp về quyền sở hữu trí tụê, chuyển giao công nghệ thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án (khoản 40-Điều 25, khoản 2-Điều 29). Bộ luật dân sự năm 1995 và các văn bản hướng dẫn thi hành về quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp trong Bộ luật[3] cũng chỉ quy định: tác giả, chủ sở hữu tác phẩm, tác giả, chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp có quyền khởi kiện yêu cầu cơ quan nhà nước thẩm quyền bảo vệ quyền của mình khi bị xâm hại; tranh chấp về quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự[4]. Ngày 21/8/1997, Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Công văn số 97/KHXX xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp về quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp. Tiếp đó, ngày 5/12/2001, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ văn hoá-thông tin đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BVHTT về giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền tác giả tại Toà án nhân dân. Tuy nhiên, tất cả những văn bản pháp luật này cũng chưa quy định rõ, đầy đủ các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ cụ thể nào thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo thủ tục tố tụng dân sự.

Trên cơ sở các quy định rải rác trong các văn bản pháp luật kể trên về thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và thực tế phát sinh, giải quyết các tranh chấp này, thẩm quyền theo vụ việc có thể được xác định như sau:

Những tranh chấp về quyền tác giả thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án

  • Tranh chấp giữa các cá nhân, tổ chức nhằm xác định tác giả, đồng tác giả, chủ sở hữu tác phẩm;

     

  • Tranh chấp giữa tác giả, đồng tác giả không phải là chủ sở hữu tác phẩm và chủ sở hữu tác phẩm về các quyền nhân thân, quyền tài sản của các chủ thể này;

  • Tranh chấp về thừa kế quyền tác giả;

  • Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng sử dụng tác phẩm;

  • Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng dịch vụ bản quyền tác giả;

  • Tranh chấp giữa tác giả, chủ sở hữu tác phẩm gốc với tác giả, chủ sở hữu tác phẩm phái sinh (tác phẩm dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn);

  • Tranh chấp giữa tác giả, chủ sở hữu tác phẩm với những người có quyền kề cận (quyền liên quan đến quyền tác giả) là người biểu diễn, tổ chức sản xuất băng ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng;

  • Tranh chấp giữa những tổ chức, cá nhân có quyền liên quan đến quyền tác giả, bao gồm: người biểu diễn, tổ chức sản xuất băng ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng và những người khác có hành vi vi phạm quyền của họ;

  • Tranh chấp giữa tác giả, đồng tác giả với những người có liên quan nhưng không phải là tác giả, bao gồm: người sưu tầm tài liệu cho tác giả, người cung cấp tài chính và phương tiện vật chất khác.

Tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án

  • Tranh chấp nhằm xác định ai là tác giả, chủ sở hữu, người sử dụng hợp pháp đối tượng sở hữu công nghiệp;

     

  • Tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng khởi kiện cá nhân, tổ chức (trong đó bao gồm cả chủ sở hữu các đối tượng này) xâm phạm quyền tác giả của mình;

  • Chủ sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp: sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng, tên thương mại, bí mật kinh doanh; người có quyền sử dụng hợp pháp tên gọi xuất xứ hàng hoá, chỉ dẫn địa lý có khởi kiện cá nhân, tổ chức xâm phạm quyền sở hữu, quyền sử dụng của mình;

  • Chủ sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp khởi kiện người sử dụng trước các đối tượng sở hữu công nghiệp này trong trường hợp người sử dụng trước chuyển giao quyền sử dụng cho người khác hoặc mở rộng khối lượng, phạm vi so với ngày công bố trong đơn;

  • Cá nhân, tổ chức khởi kiện cá nhân, tổ chức khác cản trở, hạn chế quyền tự do sáng tạo, quyền sở hữu các sản phẩm trí tuệ của mình;

  • Tranh chấp về thừa kế quyền sở hữu công nghiệp;

  • Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng sở hưũ công nghiệp (còn gọi là hợp đồng li-xăng);

  • Tranh chấp về hợp đồng dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp;

  • Tranh chấp về quyền nộp đơn xin cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Bằng độc quyền hoặc Giấy chứng nhận);

  • Tranh chấp về việc trả thù lao và các khoản phí khác giữa Cục sở hữu trí tuệ và các chủ thể khác.

Rõ ràng, nếu so sánh với quy định của Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1989, pháp luật hiện hành đã giành cho Toà án thẩm quyền rộng hơn rất nhiều trong việc xét xử các tranh chấp về quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp.

Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (Điều 25, Điều 27, Điều 33, Điều 34), thẩm quyền giải quyết các tranh chấp sở hữu trí tuệ của Toà án được xác định như sau: 1.Nếu tranh chấp sở hữu trí tuệ thuần tuý là tranh chấp dân sự, thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện; 2.Nếu tranh chấp sở hữu trí tuệ thuần tuý là tranh chấp dân sự nhưng có đương sự hoặc đối tượng sở hữu trí tuệ ở nước ngoài, thuộc quyền của Toà án cấp tỉnh; 3.Nếu tranh chấp sở hữu trí tuệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận được coi là tranh chấp thương mại, kinh doanh và thuộc thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh.

  1. Người có quyền khởi kiện tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ

Bên cạnh vấn đề thẩm quyền, cần phải quy định rõ ai có quyền khởi kiện tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ trước Toà án theo thủ tụng tố tụng dân sự. Vấn đề nguyên đơn trong vụ kiện về quyền sở hữu trí tuệ cũng chưa được quy định trong bất kỳ văn bản pháp luật nào. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 chỉ quy định “Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cá nhân, cơ quan, tổ chức khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm. Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn”. Nguyên đơn có các quyền, nghĩa vụ được quy định tại khoản 1, Điều 59-Bộ luật tố tụng dân sự.

Do pháp luật không quy định ai có quyền khởi kiện tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, dẫn đến trong thực tế người có quyền khởi kiện đôi khi bỏ mất quyền khởi kiện hoặc người không có quyền khởi kiện lại khởi kiện nên không được Toà án giải quyết.

Nguyên đơn trong vụ án về quyền sở hữu trí tuệ có thể là tác giả, chủ sở hữu đối tượng sở hữu trí tuệ hoặc một số người có quyền liên quan khác. Cụ thể như sau:

Đối với những tranh chấp về quyền tác giả, những người sau đây có quyền khởi kiện:

  • Tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm;

     

  • Tác giả không đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm;

  • Chủ sở hữu tác phẩm không đồng thời là tác giả;

  • Người được thừa kế của tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm;

  • Người có quyền liên quan đến quyền tác giả, bao gồm: người biểu diễn; tổ chức sản xuất băng âm thanh, băng hình; tổ chức phát sóng;

  • Người có quyền sử dụng hợp pháp tác phẩm thông qua hợp đồng sử dụng tác phẩm;

  • Tổ chức, cá nhân được các chủ thể trên uỷ quyền theo quy định của pháp luật.

Đối với tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp, những người sau đây có quyền khởi kiện:

  • Tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng.

     

  • Chủ sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng, nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí mật kinh doanh.

  • Người sử dụng hợp pháp tên gọi xuất xứ hàng hoá, chỉ dẫn địa lý.

  • Người được thừa kế quyền sở hữu công nghiệp.

  • Người có quyền sử dụng hợp pháp các đối tượng sở hữu công nghiệp thông qua hợp đồng li-xăng.

  • Người biểu diễn; tổ chức, cá nhân sản xuất băng ghi âm, ghi hình; tổ chức phát thanh, truyền hình.

  • Tổ chức, cá nhân được các chủ thể trên uỷ quyền theo quy định của pháp luật.

Khi xác định nguyên đơn trong trong chấp về quyền sở hữu trí tuệ, cần lưu ý: Đối với quyền tác giả, quyền khởi kiện yêu cầu bảo hộ quyền tác giả phát sinh từ thời điểm cá nhân sáng tạo ra tác phẩm và thể hiện sự sáng tạo đó dưới một hình thức vật chất nhất định. Tức là, nếu một người có ý tưởng sáng tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, nhưng chưa thể hiện ý tưởng này dưới bất kỳ hình thức nào như: giấy, gỗ, vải… thì không thể khởi kiện yêu cầu Nhà nước bảo vệ quyền của mình đối với ý tưởng. Hơn nữa, trong trường hợp tác giả, chủ sở hữu tác phẩm khởi kiện cá nhân, tổ chức xâm phạm quyền của họ (trừ các quyền nhân thân quy định tại điểm a, b, đ-khoản 1-Điều 751-Bộ luật dân sự), việc khởi kiện chỉ được chấp nhận trong thời hạn tác phẩm được bảo hộ. Thời hạn đó là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả chết. Đối với quyền sở hữu công nghiệp, nếu tác giả, chủ sở hữu, người sử dụng hợp pháp đối tượng sở hữu công nghiệp khởi kiện tổ chức, cá nhân khác xâm phạm quyền của mình phải là người đã được cấp Văn bằng bảo hộ cho đối tượng sở hữu công nghiệp đó; và hành vi vi phạm xảy ra trong thời hạn bảo hộ.

  1. Chứng cứ

Khi giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, cũng như đối với các vụ án dân sự khác, “đương sự có yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh” (Điều 79-Bộ luật tố tụng dân sự). Tuy nhiên, việc chứng minh trong vụ án về quyền sở hữu trí tuệ thường khó khăn hơn rất nhiều so với các vụ án dân sự khác.

Theo quy định tại Điều 82-Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, pháp luật thừa nhận chín nguồn chứng cứ mà đương sự được sử dụng để đảm bảo nghĩa vụ chứng minh của mình. Ngoài quy định chung này trong Bộ luật tố tụng dân sự, không có bất kỳ một văn bản pháp luật nào quy định về chứng cứ trong quá trình giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ[5].

Trong các loại chứng cứ được quy định tại Điều 82-Bộ luật tố tụng dân sự, các nguồn sau đây có thể được sử dụng khi giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ: các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; các vật chứng; lời khai của đương sự; lời khai của ngừoi làm chứng; kết luận giám định; kết quả định giá tài sản. Tuỳ từng loại tranh chấp cụ thể mà chứng cứ được sử dụng khác nhau, đương sự có thể đưa ra một hoặc một số loại chứng cứ.

Đối với tranh chấp về quyền tác giả, các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được có giá trị là chứng cứ bao gồm:

  • Giấy chứng nhận bản quyền tác giả do Cục bản quyền thuộc Bộ Văn hoá-thông tin cấp. Giấy chứng nhận bản quyền tác giả là chứng cứ để chứng minh người có tên trong Giấy này là tác giả của tác phẩm. Trong trường hợp đương sự không làm thủ tục đăng ký tại Cục bản quyền tác giả, nếu muốn chứng minh là tác giả, đương sự phải chứng minh mình đã sáng tạo ra tác phẩm và sự sáng tạo đó đã được định hình dưới một hình thức vật chất;

     

  • Các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học thể hiện dưới hình thức: bài báo, sách, tạp chí, băng, đĩa âm thanh, băng, đĩa hình… có nội dung vi phạm tác phẩm đã được bảo hộ;

  • Hợp đồng thuê sáng tạo; hợp đồng lao đồng và văn bản giao việc trong trường hợp chứng minh cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu tác phẩm;

  • Di chúc hợp pháp, bản án, quyết định của Toà án về việc chia di sản thừa kế trong trường hợp giải quyết tranh chấp phát sinh từ thừa kế quyền tác giả;

  • Hợp đồng sử dụng tác phẩm trong trường hợp giải quyết tranh chấp về hợp đồng sử dụng tác phẩm;

  • Hợp đồng dịch vụ bản quyền tác giả trong trường hợp giải quyết tranh chấp về hợp đồng dịch vụ bản quyền tác giả;

  • Hợp đồng thuê biểu diễn nghệ thuật, hợp đồng tổ chức sản xuất chương trình văn hoá, nghệ thuật; hợp đồng sản xuất, phát hành băng ghi âm, ghi hình; hợp đồng trong lĩnh vực phát thanh, truyền hình trong trường hợp giải quyết tranh chấp phát sinh từ những quan hệ này;

  • Hoá đơn thanh toán thù lao, nhuận bút trong trường hợp giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền hưởng các khoản này của tác giả.

Đối với tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp, các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được có giá trị là chứng cứ bao gồm:

  • Văn bằng bảo hộ đối tượng sở hữu công nghiệp được sử dụng để chứng minh người có tên trong văn bằng là tác giả, chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp. Cụ thể là Bằng độc quyền sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp. Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, Giấy chứng nhận quyền sử dụng tên gọi xuất xứ hàng hoá, Giấy chứng nhận đăng ký thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, Bằng bảo hộ giống cây trồng mới;

     

  • Hợp đồng thuê sáng tạo; hợp đồng lao đồng và văn bản giao việc trong trường hợp chứng minh là chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp trong trường hợp chứng minh ai là tác giả, chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp;

  • Di chúc hợp pháp, bản án, quyết định của Toà án về việc chia di sản thừa kế trong trường hợp giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền sở hữu công nghiệp;

  • Hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp, hợp đồng li-xăng trong trường hợp giải quyết tranh chấp phát sinh từ những hợp đồng này;

  • Hợp đồng dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp trong trường hợp giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này;

  • Đơn và các giấy tờ khác chứng minh đã nộp đơn;

  • Các hợp đồng, giấy tờ khác về việc mua bán, gửi giữ, quảng cáo, xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá/dịch vụ có gắn đối tượng sở hữu công nghiệp đã được bảo hộ trong trường hợp chứng minh hành vi vi phạm quyền sở hữu công nghiệp;

  • Các hoá đơn, chứng từ hợp lệ;

  • Danh mục nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng trong trường hợp chứng minh nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại giống hoặc tương tự với nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng.

Bên cạnh đó, một số vật chứng cũng có thể được sử dụng. Ví dụ: Hàng hoá gắn đối tượng sở hữu công nghiệp đã được bảo hộ; hàng hoá gắn đối tượng sở hữu công nghiệp bị coi là vi phạm; các khoản thu lợi bất chính…

  1. Giám định

Vấn đề giám định thường được đặt ra trong trường hợp đối tượng sở hữu trí tuệ đang tranh chấp là đối tượng phức tạp. Theo Điều 90 – Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định theo sự thoả thuận lựa chọn của các bên đương sự hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự. Kết luận giám định là một nguồn chứng cứ quan trọng. Tuy nhiên, Điều 67 – Bộ luật tố tụng dân sự về người giám định chỉ quy định chung chung “Người giám định là người có kiến thức, kinh nghiệm cần thiết theo quy định của lĩnh vực có đối tượng cần giám định”. Cho đến nay, trong lĩnh vực sở hưũ trí tuệ, chưa có quy định cụ thể cơ quan nào có thẩm quyền giám định, trình tự, thủ tục giám định ra sao. Trong thực tế, thẩm quyền giám định đối tượng sở hữu trí tuệ thuộc về Cục sở hữu trí tuệ, trong khi đó đây lại là một cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu công nghiệp.

Nên quy định một cơ quan độc lập có thẩm quyền giám định đối tượng sở hữu trí tuệ, hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Đối với quyền tác giả, đó là cơ quan độc lập thuộc Bộ văn hoá-thông tin, còn đối với quyền sở hữu công nghiệp, đó là cơ quan thuộc Bộ khoa học-công nghệ.

  1. Xác định mức bồi thường

Thủ tục tố tụng dân sự cho phép tác giả, chủ sở hữu của tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học và tác giả, chủ sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp cũng như các chủ thể có quyền liên quan khác được quyền khởi kiện yêu cầu Toà án công nhận quyền của mình; buộc người có hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp chấm dứt hành vi xâm phạm; yêu cầu người có hành vi xâm phạm; và buộc người có hành vi xâm phạm phải bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa quy định cụ thể về cách thức xác định thiệt hại, mức bồi thường thiệt hại trong trường hợp quyền sở hữu trí tuệ bị xâm hại. Nếu chỉ căn cứ vào các quy định về “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” tại chương 5, phần thứ ba của Bộ luật dân sự sẽ không thoả đáng khi giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại do đối tượng sở hữu trí tuệ bị xâm phạm. Hơn nữa, theo nguyên tắc, nguyên đơn có nghĩa vụ chứng minh mức độ thiệt hại thực tế và thiệt hại tiềm tàng của mình do hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp gây ra. Tuy nhiên, để chứng minh được điều này là điều không đơn giản với nguyên đơn.

Hiện nay, các Toà án rất lúng túng trong việc giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn. Trong hầu hết các vụ việc, việc xác định mức bồi thường cho nguyên đơn là không thoả đáng, bởi vậy không bảo vệ được lợi ích chính đáng của họ. Về vấn đề này cần được xác định rõ trong Luật sở hữu trí tuệ đang được xây dựng, hoặc hướng dẫn xét xử của Toà án nhân dân tối cao.

Theo chúng tôi, nên quy định: Thứ nhất, mức bồi thường được xác định trên cơ sở tổn thất thực tế mà tác giả, chủ sở hữu, người có quyền sử dụng hợp pháp đối tượng sở hữu trí tuệ phải gánh chịu do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Thứ hai, thiệt hại bao gồm: Thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Thiệt hại về vật chất bao gồm: tổn thất về tài sản, mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, chi phí hợp lý để thuê luật sư, tổn thất về cơ hội kinh doanh. Thiệt hại về tinh thần bao gồm: tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng và những tổn thất khác về tinh thần.

  1. Kết luận

Rõ ràng, cơ sở pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ theo thủ tục tố tụng dân sự chưa cụ thể, chưa đầy đủ. Điều này gây khó khăn cho các cơ quan giải quyết tranh chấp và cho cả đương sự, làm cho hiệu quả thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở nước ta không cao. Bởi vậy, việc hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ nói chung và giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ theo thủ tục tố tụng dân sự nói riêng vô cùng cần thiết.

Để bảo đảm giải quyết tốt hơn tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ theo thủ tụng tố tụng dân sự, cần phải quy định cụ thể hơn về các vấn đề: 1. Những tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án; 2. Những tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ trước Toà án; 3. Các chứng cứ đương sự được sử dụng trong quá trình chứng minh; 4. Cơ quan có thẩm quyền giám định và trình tự, thủ tục giám định; 5. Nguyên tắc bồi thường và xác định mức định bồi thường khi quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm.

Nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật tố tụng dân sự về giải quyết tranh chấp quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp, theo chúng tôi: không nên bổ sung các quy định về những vấn đề được phân tích trên đây vào Bộ luật tố tụng dân sự mà nên theo hướng quy định trong các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật tố tụng dân sự và đặc biệt là văn bản hướng dẫn xét xử của Toà án nhân dân tối cao (bên cạnh đó, cũng nên quy định trong văn bản pháp luật nội dung là Luật sở hữu trí tuệ). Bởi vì, Bộ luật tố tụng dân sự là cơ sở pháp lý quan trọng nhất trong việc giải quyết các vụ việc dân sự. Bộ luật chỉ quy định chung về nguyên tắc, trình tự, thủ tục, quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự mà không quy định cụ thể cho từng vụ án, việc dân sự.

Đồng thời với việc hoàn thiện các quy định pháp luật, cần thiết phải nâng cao trình độ của các thẩm phán chuyên trách về lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Điều này góp phần nâng cao quả giải quyết tranh chấp và làm tăng độ tin cậy của các đương sự trong tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ./.

[1] Để bảo vệ quyền tác giả, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hai tội: tội xâm phạm quyền tác giả (Điều 131) và tội vi phạm các quy định về xuất bản, phát hành sách, báo, đĩa âm thanh, băng âm thanh, đĩa hình, băng hình hoặc các ấn phẩm khác (Điều 271). Để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định các tội: 1. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 157); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng vật nuôi (Điều 158); Tội lừa dối khách hàng (Điều 162); Tội xâm phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Điều 170); Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171).

[2] Xem khoản 3-Điều 9; khoản 2-Điều 14; khoản 2 và khoản 3-Điều 28 của Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1989.

[3] Nghị định 76-CP ngày 29/11/1996 của Chính Phủ hướng dẫn thi hành một số quy định về quyền tác giả trong Bộ luật dân sự, Nghị định 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính Phủ quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp chỉ quy định

  1. Xem Điều 759– Bộ luật dân sự; điểm c-khoản 1, Điều 796– Bộ luật dân sự; điểm c-khoản 1-Điều 800–Bộ luật dân sự; Điều 7- Nghị định 76/CP; Điều 54-Nghị định 63/CP.
  2. Dự thảo Luật sở hữu trí tuệ cũng quy định về chứng cứ mà đương sự có quyền sử dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, đây vẫn là quy định sơ sài.

 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

_Trong hoạt động tổ chức Chính phủ:

+Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quyết định.

+Quốc hội có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ theo đề nghị của Chủ tịch nước, có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Chính phủ, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

+Nhiệm kì của Chính phủ theo nhiệm kì của Quốc hội, khi Quốc hội hết nhiệm kì Chính phủ tiếp tục làm việc cho đến khi Quốc hội khoá mới thành lập Chính phủ mới.

+Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội.

_Trong hoạt động xây dựng pháp luật:

+Chính phủ có nhiệm vụ trình dự án luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án khác trước Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

+Chính phủ có nhiệm vụ tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

+Chính phủ có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ văn bản của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, UBND, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên.

+Quốc hội có quyền bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng chính phủ trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Uỷ ban thường vụ Quốc hội có quyền đình chỉ việc thi hành văn bản của Chính phủ, thủ tướng Chính phủ; bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng chính phủ trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

_Trong hoạt động kiểm tra, giám sát:

+Uỷ ban thường vụ Quốc hội có quyền giám sát hoạt động của Chính phủ.

+Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn các thành viên của Chính phủ, người bị chất vấn phải trả lời chất vấn trước Quốc hội tại kì họp, trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội cho trả lời trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc tại kì họp sau hoặc gửi văn bản trả lời.

_Trong hoạt động quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước:

+ Bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ, và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công, phụ trách.

+Về hoạt động đối nội: Chính phủ có quyền trình Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính- kinh tế đặc biệt; trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

+Về hoạt động đối ngoại: Theo sự phê chuẩn của Quốc hội và sự uỷ quyền của Chủ tịch nước, Chính phủ tổ chức đàm phán, kí kết điều ước quốc tế nhân danh nhà nước; quyết định việc kí, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực các điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Phân tích nội dung và ý nghĩa “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”

Hoạt động tư pháp được Đảng và Nhà nước ta chú trọng ngay trong những năm đầu mới giành được chính quyền. Cụ thể, ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 85 về cải cách bộ máy tư pháp, xây dựng nên những nguyên tắc tiến bộ đầu tiên cho nền tư pháp nước nhà. Phát huy tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và xuất phát từ quan điểm của Đảng ta về chiến lược cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, ngày 02/1/2002, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, hiện đại, bảo vệ công lý.

Trên tinh thần Nghị quyết của Bộ Chính trị, thời gian qua, Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng liên quan đến lĩnh vực tư pháp, trong đó có quy định vấn đề tranh tụng trong hoạt động xét xử, đây được coi là những yêu cầu bức thiết, là nền tảng cho hoạt động tư pháp ở nước ta. Hiến pháp năm 2013 được ban hành cũng đã quy định rõ về vấn đề bảo vệ quyền con người, quyền công dân và có thể xem đây là một trong những nguyên tắc cơ bản cho quá trình thực hiện cải cách tư pháp. Điều 14 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, đã có một số luật, bộ luật, pháp lệnh mới được ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các quy định của Hiến pháp nói chung và với nguyên tắc tranh tụng nói riêng nhằm bảo vệ quyền con người, quyền của công dân. Điều 13 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử…”. Từ những quy định của Hiến pháp và pháp luật cho thấy, vấn đề tranh tụng nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân đã được hết sức coi trọng.

  1. Nội dung “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”

Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm là một trong những nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân được Hiến pháp năm 2013 quy định. Có thể hiểu việc áp dụng nguyên tắc này phải được pháp luật ghi nhận, cụ thể hóa trong hoạt động tố tụng xét xử của Tòa án nhân dân ở các lĩnh vực : hình sự, dân sự và hành chính. Muốn hiểu rõ về nguyên tắc này, trước hết cần phải hiểu “ tranh tụng” là gì?

Theo Từ điển tiếng Việt, “ tranh tụng ” có nghĩa là kiện cáo lẫn nhau. Theo nghĩa Hán Việt thì thuật ngữ tranh tụng được ghép từ 2 từ “tranh luận” và “tố tụng”. Tranh tụng là tranh luận trong tố tụng. Trong tố tụng bao giờ cũng có sự tham gia của các bên có quyền và (hoặc) lợi ích trái ngược nhau yêu cầu Tòa án phân xử. Để có cơ sở cho Tòa án có thể phân xử, pháp luật quy định cho các bên tham gia tố tụng quyền khởi kiện vụ việc ra trước Tòa án, chứng minh và tranh luận để bảo vệ yêu cầu của mình. Như vậy, tranh tụng bao giờ cũng gắn liền với hoạt động tài phán của Tòa. Theo đó, tranh tụng là hoạt động của các bên tham gia xét xử đưa ra các quan điểm của mình và tranh luận lại để bác bỏ một phần hoặc toàn bộ quan điểm của phía bên kia; là cơ sở để Tòa án đánh giá toàn bộ nội dung vụ án và đưa ra phán quyết cuối cùng đảm bảo tính khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tuy nhiên, vấn đề tranh tụng vẫn còn có nhiều quan điểm, nhận thức khác nhau. Đến nay, chúng ta chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định cụ thể vấn đề “tranh tụng”. “Tranh tụng” là nguyên tắc hay một thủ tục trong tố tụng cũng chưa được xác định rõ ràng. Thuật ngữ “tranh tụng” chỉ mới được đề cập trong các văn bản của Đảng và trong các tài liệu hội thảo nên hiện còn nhiều cách hiểu, nhận thức về “tranh tụng”, ngay cả Bộ luật tố tụng hình sự cũng chỉ có quy định về tranh luận là một giai đoạn của xét xử mà chưa có quy định thế nào là “tranh tụng”. Bản chất và mục đích yêu cầu của tranh tụng là quá trình xác định sự thật khách quan về vụ án, bảo đảm các phán quyết là đúng đắn và chính xác. Phiên tòa xét xử là cuộc điều tra công khai, thực hiện bằng lời nói gồm có phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, phần xét hỏi, phần tranh luận, nghị án và tuyên án. Tranh luận là giai đoạn các bên trình bày luận điểm của mình về những vấn đề đã được thẩm tra làm rõ ở giai đoạn trước, trên cơ sở đối chiếu với những quy định của pháp luật đề xuất hướng xử lý phù hợp. Kiểm sát viên trình bày quan điểm luận tội, tranh luận đối đáp về những vấn đề mà bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác đưa ra; và ngược lại bị cáo hoặc người bào chữa trình bày lời bào chữa, ý kiến phản bác đối với luận tội, đối đáp các ý kiến của kiểm sát viên và chủ thể khác có liên quan. Hội đồng xét xử là “ trọng tài ” điều hành việc tranh luận, đối đáp theo trình tự tố tụng nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Như vậy, quá trình tranh tụng được tiến hành thông qua hoạt động của các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa và Tòa án với ba chức năng tương ứng: buộc tội, bào chữa và xét xử.

Cụm từ “tranh tụng” được xuất hiện đầu tiên tại văn kiện của Đảng, cụ thể là Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2001 của Bộ Chính trị. Nghị quyết có xác định quan điểm chỉ đạo hoạt động đối với Tòa án nhân dân là: “Khi xét xử các Tòa án phải bảo đảm cho mọi người dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có tính thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định”. Thể chế hóa quan điểm chỉ đạo nêu trên của Đảng, Tố tụng Hình sự, Tố tụng Dân sự, và Tố tụng hành chính đã sửa đổi bổ sung về các nội dung “tranh tụng” theo định hướng mà Nghị quyết số 08 của Bộ chính trị đã xác định.

Như vậy, từ những diễn giải nêu trên, có thể hiểu “Tranh tụng” là hoạt động của các bên tham gia xét xử đưa ra các quan điểm của mình và tranh luận lại để bác bỏ một phần hoặc toàn bộ quan điểm của phía bên kia. Tranh tụng là cơ sở để Tòa án đánh giá toàn bộ nội dung vụ án và đưa ra phán quyết cuối cùng đảm bảo tính khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Vậy, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo, có nội dung:

Hoạt động xét xử phải bảo đảm tranh tụng giữa Kiểm sát viên, bị hại, nguyên đơn dân sự với bị cáo, người bào chữa, bị đơn dân sự, giữa các đương sự với nhau và những người này có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu, đưa ra các luận điểm, luận cứ, luận chứng của mình, bình đẳng trong việc đối đáp, tranh luận, chứng minh bác bỏ quan điểm lẫn nhau. Các hoạt động tranh tụng diễn ra trên tinh thần trách nhiệm, trên cơ sở chứng cứ khách quan và quy định của pháp luật, các bên tôn trọng lẫn nhau. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện theo quy định của pháp luật để họ thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ trong việc tranh tụng. Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả xét hỏi, tranh tụng và những chứng cứ đã được kiểm tra, đánh giá tại phiên tòa, đảm bảo cho việc xét xử là khách quan, minh bạch, công bằng và dựa trên công lý.

  1. Ý nghĩa của “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”

Việc quy định “ nguyên tắc tranh tụng trang xét xử được bảo đảm” trong Hiến pháp năm 2013 mang nhiều ý nghĩa:

Thứ nhất, quy định nguyên tắc tranh tụng trong Hiến pháp đã thể chế hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp.Từ trước tới nay vấn đề tranh tụng và nâng cao chất lượng tranh tụng được quan tâm và đề cập tới nhiều. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương về vấn đề này, cụ thể: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới đã quy định: “… Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác… Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng của phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời gian quy định”. Tiếp đó, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 khẳng định: “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Nghị quyết 37/NQ-QH13 ngày 23/11/2012 yêu cầu: “… Tòa án nhân dân tối cao chỉ đạo các Tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa”.

Thứ hai, quy định nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong Hiến pháp tạo sự chuyển biến mạnh mẽ cả về nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn trong việc xét xử.

Những quy định pháp luật tố tụng hình sự hiện hành đã và đang phát huy hiệu lực trên thực tiễn của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Công tác điều tra, truy tố, xét xử ngày càng hiệu quả, việc tranh luận tại phiên tòa bảo đảm tính dân chủ, khách quan. Tuy nhiên so với tình hình đặt ra thì hoạt động tranh tụng chưa đáp ứng yêu cầu. Nguyên nhân của tình hình trên có nhiều, trong đó có nguyên nhân từ những quy định của pháp luật về tranh tụng và bảo đảm tranh tụng chưa rõ ràng, cụ thể nên hiệu lực chưa cao.

Hiến pháp sửa đổi năm 2013 quy định chính thức về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng như vậy sẽ tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của cán bộ tư pháp, của công dân trong quá trình thực hiện các quyền năng khi tham gia tranh tụng. Đồng thời thực tiễn xét xử sẽ thay đổi, với bước tiến mới trọng tâm là hoạt động tranh tụng được  bảo đảm, phát huy tối đa tính công bằng, dân chủ.

Thứ  ba, việc quy định nguyên tắc tranh tụng trong Hiến pháp là tiền đề để xây dựng và hoàn thiện các quy định về bảo đảm tranh tụng trong các văn bản pháp luật tố tụng.

 Hiến pháp là đạo luật gốc, văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất. Do vậy, khi Hiến pháp quy định về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng như vậy thì những quy định trong bộ luật, luật, các văn bản dưới luật chưa rõ ràng, không thống nhất phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, tạo sự thống nhất trong việc vận dụng pháp luật, đặc biệt đòi hỏi cần xây dựng quy định cụ thể về phương thức bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử.

Bên cạnh đó, nguyên tắc này còn mang những ý nghĩa quan trọng trong hoạt động tố tụng:

Đảm bảo hoạt động tố tụng được diễn ra khách quan, minh bạch, công bằng, quyết định của tòa án được đưa ra trên cơ sở những chứng cứ, sự việc có thật, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Ghi nhận quyền lợi của những người tham gia vào tố tụng có quyền trình bày quan điểm và tranh luận lại những quan điểm mà các bên đưa ra, đảm bảo quyền và lợi ích của các bên. Với bị can, bị cáo thì được quyền bào chữa cho mình trước Hội đồng xét xử. Đảm bảo quyền con người quyền công dân được tôn trọng, quyền bình đẳng của những người tham gia tố tụng với nhau và với cơ quan nhà nước trong tranh tụng. Nguyên tắc này giúp cho việc xét xử khách quan, công bằng, nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án với các việc vụ xảy ra trong xã hội.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Vấn đề Thừa kế theo pháp luật được quy định và hướng dẫn cụ thể từ điều 674 đến điều 680 Bộ luật Dân sự 2005 như sau:

Những trường hợp thừa kế theo pháp luật

  1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây:

a) Không có di chúc;

b) Di chúc không hợp pháp;

c) Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế;

d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản.

  1. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:

a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;

b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;

c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối quyền nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế.

Người thừa kế theo pháp luật

  1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

  1. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

  2. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Thừa kế thế vị

Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.

Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ

Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 676 và Điều 677 của Bộ luật Dân sự 2005.

Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế

Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 676 và Điều 677 của Bộ luật Dân sự 2005.

Việc thừa kế trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung, đang xin ly hôn, đã kết hôn với người khác

  1. Trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản.

  2. Trong trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Toà án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản.

  3. Người đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết thì dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản.

Trân trọng !

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Phân tích những quy định của pháp luật về chuyển nhượng cổ phần của công ty cổ phần

Ngoài cổ phần phổ thông là loại cổ phần bắt buộc phải có của công ty cổ phần, công ty cổ phần có thể có cổ phần ưu đãi. Trong cổ phần ưu đãi bao gồm các loại được quy định tại Khoản 2 Điều 113 Luật Doanh nghiệp năm 2014:

“a) Cổ phần ưu đãi biểu quyết;

b) Cổ phần ưu đãi cổ tức;

c) cổ phần ưu đãi hoàn lại;

d) các loại cổ phần ưu đại khác do Điều lệ công ty quy định.”

Với từng loại cổ phần trên đây, cổ đông năm giữ cổ phần đó lại có những quyền và lợi ích khác nhau, việc chuyển nhượng các loại cổ phần cũng có những điểm không giống nhau.

Điều 126 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: “Cổ phần được tự do chuyển nhượng, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 của Luật này và Điều lệ công ty có quy định hạn chế chuyển nhượng cổ phần. Trường hợp Điều lệ công ty có quy định hạn chế về chuyển nhượng cổ phần thì các quy định này chỉ có hiệu lực khi được nêu rõ trong cổ phiếu của cổ phần tương ứng.”

Bên cạnh đó, căn cứ vào các Khoản 1 Điều 114, Khoản 3 Điều 116, Khoản 2, 3 Điều 117 và Khoản 2, 3 Điều 118 Luật Doanh nghiệp quy định về quyền của các cổ đông nắm giữ cổ phần phổ thông, cổ phần ưu đại biểu quyết, cổ phần ưu đãi cổ tức và cổ phần ưu đại hoàn lại như sau:

Khoản 1 Điều 114 tại điểm d: “…d) Tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 và khoản 1 Điều 126 của Luật này;…”.

Do đó, cổ đông sở hữu cổ phần phổ thông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình trừ trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều 119: “3. Trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ đông sáng lập khác và chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông. Trường hợp này, cổ đông dự định chuyển nhượng cổ phần không có quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng các cổ phần đó.” mà Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định hạn chế với cổ đông sáng lập trong thời hạn 03 năm kể từ nhày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

Khoản 3 Điều 116: “3. Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác.” Có thể hiểu, cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần ưu đãi biểu quyết của mình cho người khác.

Khoản 2, 3 Điều 117: “2. Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức có các quyền sau đây:

a) Nhận cổ tức theo quy định tại khoản 1 Điều này;

b) Nhận phần tài sản còn lại tương ứng với tỷ lệ sở hữu cổ phần tại công ty, sau khi công ty đã thanh toán hết các khoản nợ, cổ phần ưu đãi hoàn lại khi công ty giải thể hoặc phá sản;

c) Các quyền khác như cổ đông phổ thông, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này.

3.Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức không có quyền biểu quyết, dự họp Đại hội đồng cổ đông, đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát.

Dựa vào quy định trên, có thể hiểu quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức như quyền chuyển nhượng nhượng của cổ phần sở hữu cổ phần phổ thông. Do đó, quyền chuyển nhượng cổ phần ưu đãi cổ tức như chuyển nhượng cổ phần phổ thông được nói đến ở trên.

Khoản 2, 3 Điều 118: “2. Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi hoàn lại có các quyền khác như cổ đông phổ thông, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này.

3.Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi hoàn lại không có quyền biểu quyết, dự họp Đại hội đồng cổ đông, đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát.”

Quyền chuyển nhượng cổ phần ưu đãi hoàn lại của cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi hoàn lại cũng tương tự quyền chuyển nhượng cổ phần của cổ đông sở hữu cổ phần ưu đại cổ tức. Do đó, quyền chuyển nhượng cổ phần cổ phần ưu đãi hoàn lại như chuyển nhượng cổ phần phổ thông được nói đến ở trên.

Như vậy căn cứ vào các quy định trên đây, có thể phân chia các cổ phần dựa trên việc chuyển nhượng như sau:

– Cổ phần tự do chuyển nhượng: cổ phần phổ thông, cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đại hoàn lại, cổ phần ưu đãi khác trừ trường hợp cổ phần thuộc sở hữu của cổ đồng sáng lập trong thời hạn 03 năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

-Cổ phần hạn chế chuyển nhượng : Cổ phần do cổ đông sáng lập sở hữu trong thời hạn 03 năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; cổ phần được quy định trong Điều lệ công ty về hạn chế chuyển nhượng.

– Cổ phần cấm chuyển nhượng: Cổ phần ưu đãi biểu quyết.

1. Cổ phần tự do chuyển nhượng

Theo như phân tích ở trên, trừ trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều 119 và Khoản 3 Điều 116 Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Điều lệ công ty quy định hạn chế chuyển nhượng cổ phần, thì các loại cổ phần trong công ty được tự do chuyển nhượng.

Việc thực hiện việc chuyển nhượng cổ phần được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 126 Luật Doanh nghiệp 2014:

2. Việc chuyển nhượng được thực hiện bằng hợp đồng theo cách thông thường hoặc thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán. Trường hợp chuyển nhượng bằng hợp đồng thì giấy tờ chuyển nhượng phải được bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng hoặc đại diện ủy quyền của họ ký. Trường hợp chuyển nhượng thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán, trình tự, thủ tục và việc ghi nhận sở hữu thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng khoán.”

Theo quy định ở trên, thì việc chuyển nhượng hợp đồng của các cổ đông được thực hiện theo hai cách. Thứ nhất, chuyển nhượng theo cách thông thường là thông qua một hợp đồng chuyển nhượng. Các giấy tờ chuyển nhượng phải được cả hai bên, bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng hoặc đại diện ủy quyền của các bên ký. Thứ hai, thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán. Thủ tục chuyển nhượng cổ phần thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán được quy định rõ tại Luật Chứng khoán năm 2006.

Sau khi tiến hành các thủ tục chuyển nhượng, thì bên nhận chuyển nhượng cổ phần chỉ trở thành cổ đông của công ty khi hoàn tất việc chỉnh sửa, bổ sung thông tin trong sổ đăng ký cổ đông của công ty theo quy định tại khoản 7 Điều 126 Luật Doanh nghiệp năm 2014:

Người nhận cổ phần trong các trường hợp quy định tại Điều này chỉ trở thành cổ đông công ty từ thời điểm các thông tin của họ quy định tại khoản 2 Điều 121 của Luật này được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký cổ đông.”

Với cổ đông sáng lập khi chuyển nhượng cổ phần của mình thì phải thông báo tới cơ quan đăng ký về thay đổi thông tin của cổ đông sáng lập công ty cổ phần theo quy định tại Điều 51 Nghị định 78/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm 2015 về đăng ký doanh nghiệp như sau:

1. Cổ đông sáng lập quy định tại Khoản 2 Điều 4 Luật Doanh nghiệp là cổ đông sáng lập được kê khai trong Danh sách cổ đông sáng lập và nộp cho Phòng Đăng ký kinh doanh tại thời điểm đăng ký thành lập doanh nghiệp.

2.Trường hợp thay đổi thông tin cổ đông sáng lập do cổ đông sáng lập chưa thanh toán hoặc chỉ thanh toán được một phần số cổ phần đã đăng ký mua, công ty gửi Thông báo đến Phòng Đăng ký kinh doanh nơi công ty đã đăng ký. Nội dung Thông báo gồm:

a) Tên, mã số doanh nghiệp, mã số thuế hoặc số Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (trường hợp doanh nghiệp chưa có mã số doanh nghiệp, mã số thuế);

b) Tên, địa chỉ trụ sở chính, mã số doanh nghiệp hoặc số quyết định thành lập đối với cổ đông sáng lập là tổ chức hoặc họ, tên, số Chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác quy định tại Điều 10 Nghị định này đối với cổ đông sáng lập là cá nhân;

c) Họ, tên, số Chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác quy định tại Điều 10 Nghị định này và chữ ký của người đại diện theo pháp luật của công ty.

Khi nhận Thông báo, Phòng Đăng ký kinh doanh trao Giấy biên nhận, kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ, thay đổi thông tin về cổ đông sáng lập của công ty trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp có nhu cầu, Phòng Đăng ký kinh doanh cấp Giấy xác nhận về việc thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp cho doanh nghiệp.

Cổ đông sáng lập chưa thanh toán số cổ phần đã đăng ký mua sẽ đương nhiên không còn là cổđông công ty theo quy định tại Điểm a Khoản 3 Điều 112 Luật Doanh nghiệp và xóa tên khỏi Danh sách cổ đông sáng lập của công ty.

3.Trường hợp thay đổi thông tin cổ đông sáng lập do cổ đông sáng lập chuyển nhượng cổ phần, kèm theo các giấy tờ quy định tại Khoản 2 Điều này, hồ sơ thông báo phải có:

a) Danh sách thông tin của các cổ đông sáng lập khi đã thay đổi;

b) Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần hoặc các giấy tờ chứng minh hoàn tất việc chuyển nhượng;

c) Văn bản của Sở Kế hoạch và Đầu tư chấp thuận về việc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài đối với trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 26 Luật Đầu tư….

Về trách nhiệm phải thông báo khoản 7 Điều 51 Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp cũng quy định rõ như sau: “7. Doanh nghiệp có trách nhiệm thông báo thay đổi cổ đông sáng lập công ty cổ phần với Phòng Đăng ký kinh doanh trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày có thay đổi. Trường hợp có thay đổi mà doanh nghiệp không thông báo thì sẽ bị xử phạt theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư.”. Như vậy, trách nhiệm thông báo cho cơ quan đăng ký kinh doanh khi có cổ đông sáng lập chuyển nhượng cổ phần do Doanh nghiệp đo chịu trách nhiệm thông báo. Hồ sơ thông báo được quy định tại khoản 2,3 Điều 51 của Nghị định như trên.

Các trường hợp chuyển nhượng cổ phần do phát sinh các căn cứ được quy định tại khoản 3,4,5 Điều 126 như sau:

3. Trường hợp cổ đông là cá nhân chết thì người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của cổ đông đó là cổ đông của công ty.

4.Trường hợp cổ phần của cổ đông là cá nhân chết mà không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận thừa kế hoặc bị truất quyền thừa kế thì số cổ phần đó được giải quyết theo quy định của pháp luật về dân sự.

5.Cổ đông có quyền tặng cho một phần hoặc toàn bộ cổ phần của mình tại công ty cho người khác; sử dụng cổ phần để trả nợ. Trường hợp này, người được tặng cho hoặc nhận trả nợ bằng cổ phần sẽ là cổ đông của công ty.”

Theo như quy định trên đây, việc chuyển nhượng cổ phần của công ty cổ phần phát sinh khi cổ đông là cá nhân chết, cổ đông sở hữu cổ phần tặng cho người khác, hoặc dùng cổ phần đó để trả nợ. Khi cổ đông là cá nhân cá nhân chết, có người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật, thì những người thừa kế sẽ sở hữu cổ phần của cổ đông đó, sau khi hoàn tất việc ghi thông tin của họ vào sổ đăng kí cổ đông thì những người thừa kế sẽ trở thành cổ đông của công ty. Nếu cổ đông là cá nhân chết nhưng không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận thừa kế, hoặc bị truất quyền thừa kế thì số cổ phần của cổ đông đó sẽ được xử lý theo quy định của pháp luật dân sự. Trong trường hợp cổ đông đó tặng cho cổ phần của mình, có thể tặng cho một phần hoặc toàn bộ; hoặc cổ đông dùng cổ phần để trả nợ, việc trả nợ cũng có thể sử dụng một phần hoặc toàn bộ số cổ phần của cổ đông; thì người được tặng cho hoặc được nhận cổ phần để trả nợ sẽ sở hữu số cổ phần mà cổ đông tặng cho hoặc dùng để trả nợ. Người được tặng cho hoặc nhận cổ phần để trả nợ sẽ trở thành cổ đông của công ty khi ghi đầy đủ thông tin tại sổ đăng kí cổ đông.

Trong trường hợp cổ đông sáng lập là cá nhân chết, tặng cho cổ phần thì người thừa kế, người được tặng cho cổ phần ghi đầy đủ thông tin vào sổ đăng ký cổ đông thì công ty có trách nhiệm thông báo với cơ quan đăng ký doanh nghiệp theo quy định tại khoản 5 Điều 51 Nghị định 78/2015/NĐCP về đăng ký doanh nghiệp: “5. Việc đăng ký thay đổi cổ đông sáng lập trong trường hợp tặng cho, thừa kế cổ phần được thực hiện như quy định đối với trường hợp thông báo thay đổi thông tin cổ đông sáng lập do chuyển nhượng cổ phần quy định tại Khoản 3 Điều này, trong đó, hợp đồng chuyển nhượng hoặc các giấy tờ chứng minh hoàn tất việc chuyển nhượng được thay bằng hợp đồng tặng cho cổ phần hoặc bản sao hợp lệ văn bản xác nhận quyền thừa kế hợp pháp.”. Hồ sợ chuyển nhượng trong trường hợp thừa kế cổ phần, tặng cho cổ phần được thực hiện giống như trong trường hợp chuyển nhượng đã được nêu ở trên.

Với cổ đông chuyển nhượng một số cổ phần, tặng cho hoặc dùng trả nợ một phần cổ phần của mình, cổ đông phải đăng ký thay đổi số cổ phần còn lại của mình trong sổ đăng ký cổ đông. Nếu một số cổ phần đã chuyển nhượng đó đã được ghi nhận cổ phiếu mà theo quy định tại Điều 120: “Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó…”  thì cổ phiếu cũ bị hủy bỏ và công ty phát hành cổ phiếu mới ghi nhận số cổ phần đã chuyển nhượng và số cổ phần còn lại của cổ đông căn cứ vào Khoản 6 Điều 126 Luật Doanh nghiệp 2014: “Trường hợp cổ đông chuyển nhượng một số cổ phần thì cổ phiếu cũ bị hủy bỏ và công ty phát hành cổ phiếu mới ghi nhận số cổ phần đã chuyển nhượng và số cổ phần còn lại.

Đối với cổ phần phổ thông mà cổ đông sáng lập trong thời hạn 03 năm kể từ ngày được cấp Giấy Chứng nhận đăng ký doanh nghiệp sẽ không có những hạn chế về chuyển nhượng theo quy định tại khoản 4 Điều 119 như sau:

4.Các hạn chế đối với cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập được bãi bỏ sau thời hạn 03 năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Các hạn chế của quy định này không áp dụng đối với cổ phần mà cổ đông sáng lập có thêm sau khi đăng ký thành lập doanh nghiệp và cổ phần mà cổ đông sáng lập chuyển nhượng cho người khác không phải là cổ đông sáng lập của công ty.”

Cổ phần của cổ đông sáng lập có thêm sau khi đăng ký thành lập doanh nghiệp có thể là cổ phần mà cổ đông sáng lập mua thêm, hoặc nhận chuyển nhượng từ người khác không phải cổ đông sáng lập… Như vậy, với cổ phần mà cổ đông sáng lập có thêm sau khi đăng kí thành lập doanh nghiệp và cổ phần mà cổ đông sáng lập chuyển nhượng cho người khác không phải là cổ đông sáng lập của công ty sẽ không phải áp dụng các hạn chế trong đó có hạn chế về việc chuyển nhượng theo quy định tại khoản 3 Điều 119 Luật Doanh nghiệp năm 2014.

2. Cổ phần hạn chế chuyển nhượng

Theo như đã chỉ ra, cổ phần hạn chế chuyển nhượng là cổ phần do cổ đông sáng lập sở hữu trong thời hạn 03 năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cổ phần mà Điều lệ công ty quy định việc hạn chế chuyển nhượng.

Luật Doanh nghiệp 2014 quy định tại khoản 3 Điều 119 như sau:

3. Trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ đông sáng lập khác và chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông. Trường hợp này, cổ đông dự định chuyển nhượng cổ phần không có quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng các cổ phần đó.

Cổ đông sáng lập là cổ đông sở hữu ít nhất một cổ phần phổ thông và ký tên trong danh sách cổ đông sáng lập công ty cổ phần. Luật Doanh nghiệp 2014 quy định: “ Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán tại thời điểm đăng ký doanh nghiệp”. Cổ đông sáng lập có thể sở hữu nhiều loại cổ phần trong công ty.

Theo như quy định trên, trong thời hạn 03 năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cổ phần của cổ phần của cổ đông sáng lập sẽ phải chịu một số hạn chế, trong đó có hạn chế về chuyển nhượng cổ phần. Cổ đông sáng lập có thể tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ đông sáng lập khác cùng công ty, nhưng khi chuyển nhượng cổ phần của mình cho một người khác không phải là cổ đông sáng lập trong công ty, thì việc chuyển nhượng sẽ gặp hạn chế. Nếu việc chuyển nhượng đó được chấp thuận bởi Đại hội đồng cổ đông thì cổ đông sáng lập có thể chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, nếu không được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông thì cổ đông sáng lập không được chuyển nhượng cổ phần cho người khác không phải cổ đông sáng lập đó. Khi biểu quyết về dự định chuyển nhượng cổ phần cho người khác của cổ đông sáng lập, thì cổ đông sáng lập đó không có quyền biểu quyết cho dự định của mình.

Về thủ tục chuyển nhượng cổ phần trong trường hợp này được thực hiện như chuyển nhượng cổ phần ở phần 1. Vấn đề thông báo cho cơ quan đăng ký kinh doanh khi thay đổi cổ đông sáng lập cũng tương tự như đã nêu ở trên.

Việc quy định hạn chế chuyển nhượng cổ phần của cổ đông sáng lập trong thời hạn 03 năm kể từ khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là một biện pháp để cơ quan nhà nước đảm bảo cho sự hoạt động ổn định của doanh nghiệp khi mới thành lập, cổ đông sáng lập là những người đứng ra thành lập công ty, việc chuyển nhượng cổ phần của họ cho người khác không phải cổ đông sáng lập có thể dẫn tới những thiệt hại về uy tín của công ty. Tuy nhiên, nhà làm luật cũng không quy định bó chặt việc chuyển nhượng mà cho công ty đó tự quyết định việc cho hay không cho chuyển nhượng cổ phần của cổ đông sáng lập trong công ty. Điều này giúp vừa đảm bảo tính ổn định, vừa đảm bảo tính tự quyết, quyền tự do cho doanh nghiệp kinh doanh khi mới thành lập.

3. Cổ phần cấm chuyển nhượng

Trường hợp cấm chuyển nhượng cổ phần được quy định đối với cổ phần ưu đãi biểu quyết theo như đã chỉ ra ở phần đầu.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 113 Luật Doanh nghiệp năm 2014 như sau:

3. Chỉ có tổ chức được Chính phủ ủy quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết. Ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chỉ có hiệu lực trong 03 năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Sau thời hạn đó, cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chuyển đổi thành cổ phần phổ thông.”

Theo như quy định trên, thì cổ phần ưu đãi biểu quyết được sở hữu bởi hai đối tượng: một là, tổ chức được Chính phủ ủy quyến; hai là, các cổ đông sáng lập trong công ty. Cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chỉ có hiệu lực trong 03 năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Cũng trong 03 năm kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp, cổ đông sở hữu cổ cổ phần ưu đãi biểu quyết sẽ không được chuyển nhượng cổ phần này cho người khác theo quy định tại khoản 3 Điều 116: “3. Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác.

Tuy nhiên, sau thời hạn 03 năm kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập sẽ chuyển đổi thành cổ phần phổ thông. Do đó, sau thời hạn 03 năm đó, việc chuyển nhượng đối với số cổ phần này của cổ đông sáng lập được chuyển nhượng tự do. Về trình, tự thủ tục cũng tương tự các cổ phần được tự do chuyển nhượng như đã nêu ở phần 1.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Đánh giá các quy định của BLDS năm 2005 về năng lực hành vi dân sự cá nhân

  1. So sánh các quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong BLDS năm 2005 với BLDS năm 1995

Những quy định về NLHVDS của cá nhân được quy định tại BLDS năm 2005 cơ bản kế thừa và phát huy tinh thần của các quy định về NLHVDS cá nhân trong BLDS năm 1995. NLHVDS của cá nhân được quy định từ Điều 19 tới Điều 25 BLDS năm 1995. Trong đó các quy định tại Điều 17, Điều 18, Điều 21, Điều 23 BLDS năm 2005 được giữ nguyên từ các quy định tại Điều 19, Điều 20, Điều 23, Điều 25 BLDS năm 1995, cho thấy, về cơ bản các nhà làm luật vẫn công nhận NLHVDS cúa cá nhân là việc cá nhân đó bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong các quan hệ pháp luật dân sự; và thừa nhận quan điểm về người chưa thành niên và người thành niên.

Điều 22 BLDS năm 1995 quy định về “Năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi” như sau:

“1. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.

2.Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có tài sản riêng đủ để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ, thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không đòi hỏi phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”  So với Điều 20 BLDS năm 2005, thì Điều 20 có sửa đổi bổ sung thêm cụm từ “hoặc pháp luật có quy định khác” tại khoản 1 và về việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự của người từ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi thì “cần phải” thay từ “phải” trong quy định tại Điều 22 BLDS năm 1995. Qua đây ta thấy, BLDS năm 2005 quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn và có phần mở rộng hơn, điều này giúp cho việc áp dụng thực tiễn được thuận lợi và tránh những bất cập do thiếu xót hay luật không quy định. Ngoài ra, BLDS 2005 nhấn mạnh hơn về việc khi người không có NLHVDS từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự mà không đòi hỏi cần phải có sự đồng ý, thông qua của người đại diện theo pháp luật của người đó, trừ những trường hợp pháp luật có quy định khác.

Ngoài ra, khoản 2 Điều 24 BLDS năm 1995 được sửa đổi, bổ sung thành khoản 2 Điều 22 BLDS năm 2005. Theo đó, các nhà làm luật đã thêm từ “phải” khi quy định việc xác lập, thực hiện các giao dịch của người mất NLHVDS, qua đây cũng nhấn mạnh hơn về vai trò của người đại diện theo pháp luật của người mất NLHVDS, cũng như quy định chặt chẽ hơn về vấn đề xác lập thực hiện các GDDS đối với những người này.

  1. Đánh giá các quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong BLDS năm 2005

“Bộ luật dân sự 2005 (được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006) ra đời trong bối cảnh đất nước đổi mới được gần 20 năm, thay thế cho Bộ luật dân sự 1995 đã bị lạc hậu so với sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động kinh tế và các giao lưu trong đời sống xã hội sau khi công cuộc đổi mới được phát động năm 1986 đã thúc đẩy một cách mạnh mẽ đòi hỏi phải có một BLDS mới đáp ứng yêu cầu của thực tiễn”[3]. Nhìn chung, qua 10 năm thi hành, BLDS 2005 đã có tác động rất tích cực vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước nói chung và trong hoạt động của ngành Tòa án nói riêng. Các nội dung quy định về NLHVDS của cá nhân trong BLDS là tiền đề để cá nhân xác lập, thực hiện các GDDS, tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự cũng như làm căn cứ để giải quyết các tranh chấp có liên quan tới NLHVDS của cá nhân trong hoạt động của Tòa án. Bên cạnh đó, các quy định về NLHVDS còn có những ý nghĩa quan trọng liên quan đến cá nhân, gia đình và xã hội. Như trong Điều 23 về hạn chế NLHVDS, quy định này có ý nghĩa to lớn về mặt xã hội, đặc biệt nó có tác dụng sâu sắc trong việc phòng chống các tệ nạn xã hội. Việc áp dụng quy định này, thông qua Toà án sẽ tác động mạnh mẽ đến những người vô trách nhiệm với gia đình và xã hội. Hay Điều 20 BLDS ghi nhận NLHVDS của người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi, quy định tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân khi có tài sản đủ để đảm bảo thực hiện, có thể chủ động, độc lập xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự mà không phụ thuộc vào người đại diện, tạo sự đồng bộ giữa các ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước ta, góp phần thúc đẩy giao lưu dân sự.

Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực nêu trên của BLDS năm 2005 về NLHVDS của cá nhân, trong quá trình áp dụng, BLDS đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập nhất định. Việc nghiên cứu làm rõ một số hạn chế, bất cập, qua đó, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung BLDS có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện nay.

Những bất cập, hạn chế của quy định về NLHVDS của cá nhân hiện nay:

+ Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: Chủ thể cá nhân tham gia quan hệ pháp luật dân sự phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Yếu tố năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là điều đương nhiên, về cơ bản không có vấn đề gì cần phải quan tâm xem xét. Nhưng năng lực hành vi dân sự của cá nhân thì còn rất nhiều điểm bất hợp lý.

Vấn đề bất hợp lý lớn nhất là, Điều 9 về “Điều kiện kết hôn”, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 lại quy định, nữ chỉ cần “từ” 18 tuổi trở lên, tức là chưa thành niên, chưa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, lại đã được phép kết hôn.Ngoài ra, Bộ luật Dân sự còn thiếu hẳn những quy định về các trường hợp người đã thành niên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự do bệnh tật hoặc nhược điểm vể thế chất, tinh thần, nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự. Và còn bỏ ngỏ việc quy định năng lực hành vi của người chưa thành niên từ đủ 9 tuổi trở lên (để làm căn cứ pháp lý cho các trường hợp quy định trong 6 điều tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000) và từ đủ 14 tuổi trở lên (để làm căn cứ pháp lý cho các trường hợp quy định về cấp Chứng minh nhân dân theo Nghị định số 05/1999/NĐ-CP; chịu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự năm 1999; quản lý, định đoạt tài sản riêng của con theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; bị bắt, tạm giữ, tạm giam theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003; khai báo việc lưu trú theo Luật Cư trú năm 2006; xác minh về nhân thân theo Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008; bị xử phạt vi phạm hành chính theo Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012; học nghề, tập nghề theo Bộ luật Lao động năm 2012. Mặc dù trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã có sự sửa đổi trong  những bất cập có liên quan đến lĩnh vực hôn nhân, nhưng có thể thấy, trong một thời gian dài, bất cập này đã xảy ra, và gây ra nhiều tranh cãi khi có những vụ việc pháp lí phát sinh liên quan đến nó. Nhưng những bất cập ảnh hưởng tới các lĩnh vực khác vẫn là bất cập, hạn chế cần khắc phụ.

+ Quy định tại khoản 1 Điều 20 đặt ra một số vấn đề bất cập như sau: Những trường hợp GDDS của người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi chưa được xác lập, thực hiện bằng hành vi của mình, thì các giao dịch đó cần được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật của người đó. Quy định này không rõ ràng, có thể hiểu theo nhiều cách hiểu khác nhau dẫn tới việc áp dụng pháp luật theo các cách không giống nhau, gây ra sự thiếu đồng bộ. Cụ thể như sau: Thứ nhất, có thể hiểu là các giao dịch dân sự chỉ cần có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật còn việc xác lập và thực hiện giao dịch là hành vi của cá nhân từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi. Nếu hiểu theo cách này thì việc xác định người đại diện có đồng ý hay không là rất khó, nhất là đối với các giao dịch được xác lập bằng miệng. Ví dụ như: A mười một tuổi dùng tiền tiết kiệm của mình để đi mua điện thoại di động trị giá 3 triệu đồng. A hỏi bố mẹ, và được sự đồng ý của bố mẹ rồi mới đi mua. Như vậy, trong trường hợp này, nếu xảy ra khúc mắc trong việc mua bán điện thoại, thì rất khó để giải quyết, vì việc xác nhận A có được bố mẹ đồng ý cho thực hiện hành vi hay không là rất khó chứng minh.

Thứ hai, có thể hiểu việc người đại diện đồng ý tức là người đại diện bằng hành vi của mình xác lập và thực hiện giao dịch đó. Cách hiểu này có vẻ hợp lý hơn khi căn cứ vào khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của người đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi, khi những người này chưa đủ điều kiện tham gia vào các giao dịch dân sự trên thực tế. Việc người đại diện tham gia vào giao dịch sẽ đảm bảo quyền lợi cho họ và cho các chủ thể khác trong quan hệ pháp luật dân sự. Tuy nhiên, nếu hiểu theo nghĩa này, thì việc áp dụng thực tế sẽ không phù hợp, vì khi ở độ tuổi từ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi, thời gian cũng như việc xác lập giao dịch diễn ra chủ yếu trong thời gian người đó tới trường học, cho nên cha mẹ sẽ rất khó để xác lập giao dịch thay cho con mình được.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 20 này, có thể hiểu là pháp luật chỉ công nhận những GDDS trong phạm vi tài sản riêng của người từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi xác lập, thực hiện bằng hành vi của mình, còn những giao dịch khác thì người này vẫn phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật ví dụ như học nghề, hay giao kết hợp đồng lao động…

+ Về người không có NLHVDS, trước hết Điều 21 BLDS quy định “người chưa đủ sáu tuổi là người không có NLHVDS”. Về mặt thực tế, thì người dưới sáu tuổi là những người chưa đủ nhận thức và chịu trách nhiệm về hành vi của mình, hành vi của những người này vẫn mang tính bản năng, phản xã chứ không theo ý chí, lý trí. Điều này là do sự chưa phát triển về mặt lí trí và ý chí chứ không phải những người này không có khả năng nhận thức theo ý chí và lí trí. Lứa tuổi dưới sáu tuổi cũng đã có khả năng nhận thức được thế giới xung quanh, khả năng này sẽ dần dần phát triển khi họ lớn lên thông qua tiếp xúc giao tiếp với thế giới xung quanh, từ đó, khả năng nhận thức theo ý chí và lí trí sẽ dần hoàn thiện cũng như NLHVDS của họ cũng dần hoàn thiện hơn. Bên cạnh đó, về mặt pháp lí, pháp luật cũng thừa nhận rằng, NLHVDS hoàn thiện dần theo độ tuổi, khả năng nhận thức của người đó. Do đó, không thể nói người dưới sáu tuổi không có NLHVDS được mà cần phải ghi nhận họ là người chưa có NLHVDS. Thuật ngữ “ chưa có” và “ không có” là hoàn toàn khác nhau, vì “chưa có” là có thể hoàn thiện, nâng cao, phát triển dần theo độ tuổi, khả năng nhận thức sẽ dần tăng lên và hoàn thiện hơn, còn “không có” là tình trạng không có NLHVDS và khả năng sẽ có NLHVDS là không xảy ra. Còn đối với người dưới sáu tuổi, thì ở thời điểm dưới sáu tuổi thì họ không có NLHVDS nhưng có thể sẽ có trong tương lai. Nếu người dưới sáu tuổi bị mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không có năng lực nhận thức thì mới được coi là không có NLHVDS. Qua đây, cho thấy sự hạn chế trong kĩ thuật lập pháp của BLDS năm 2005 khi sử dụng từ ngữ, cần có sự xem xét phân tích kĩ lưỡng trước khi sử dụng từ ngữ luật pháp, vì một từ dùng sai có thể đưa ra nhiều cách hiểu khác nhau.

Bên cạnh đó, cách quy định tại Điều 23 này còn tạo ra hai cách hiểu khác nhau: Cách hiểu thứ nhất: Người dưới sáu tuổi xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự chính là việc xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự, để những giao dịch này có hiệu lực thì cần phải thông qua hành vi của người đại diện theo pháp luật của họ. Cách hiểu này rõ ràng không chính xác, không bao quát được hết các trường hợp phát sinh quyền và nghĩa vụ của người dưới sáu tuổi, nhưng có một câu hỏi được đặt ra là “trong những trường hợp quyền và nghĩa vụ dân sự phát sinh từ những căn cứ không phải là giao dịch dân sự thì những người chưa đủ sáu tuổi sẽ tham gia theo phương thức nào?”[4]. Cách hiểu thứ hai: Người chưa đủ sáu tuổi thì không thể xác lập, thực hiện những quyền và nghĩa vụ dân sự phát sinh từ những căn cứ khác với giao dịch dân sự. Có thể hiểu là họ chỉ có những quyền và nghĩa vụ dân sự này theo năng lực pháp luật dân sự chứ không thể thể xác lập, thực hiện chúng trên thực tế khi chưa đủ sáu tuổi, kể cả thông qua hành vi của người đại diện theo pháp luật. Cách hiểu này hiển nhiên không chính xác và đi ngược lại với ý nghĩa của các quy định về năng lực pháp luật dân sự cá nhân mà BLDS đã quy định. Như vậy, Điều 21 cần sửa đổi để phù hợp với các quy định khác về năng lực pháp luật dân sự và NLHVDS của cá nhân.

+ Tình trạng mất NLHVDS được quy định tại Điều 22 BLDS năm 2005 có điểm bất cập, bất hợp lí ở thủ tục khôi phục NLHVDS sau khi căn cứ tuyên bố cá nhân mất NLHVDS không còn, đó là quy định người có quyền yêu cầu Tòa án hủy quyết định tuyên bố mất NLHVDS có thể chính là người đang bị tuyên bố mất NLHVDS. Tuy nhiên, rõ ràng khi yêu cầu Tòa án hủy quyết định quyết định tuyên bố mất NLHVDS thì quyết định tuyên bố mất NLHVDS của người bị tuyên bố mất NLHVDS đó vẫn còn hiệu lực, người đó không thể xác lập, thực hiện các GDDS nói riêng và các QHPLDS nói chung bằng hành vi của mình một cách độc lập. Do đó, người đó không thể tự mình yêu cầu Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố mất NLHVDS của cá nhân đối với mình được.

Bên cạnh đó, về hậu quả pháp lí của NLHVDS đối với người mất NLHVDS chỉ quy định trong việc xác lập, thực hiện các GDDS được thông qua hành vi của người địa diện theo pháp luật. Như vậy, sẽ không bao trùm hết nội hàm của các căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự. Hay nói cash khác, BLDS năm 2005 chỉ dừng lại ở việc quy định về hạn chế tham gia giao dịch, còn các hành vi khác không quy định đến. Ví dụ như : các quyền về tài sản như quyền quản lí tài sản, quyền đòi tài sản do người khác chiếm giữ không có căn cứ pháp luật,… Do đó, đây là điểm cần sửa đổi khi soạn thảo, ban hành Bộ luật mới.

+ Quy định về hạn chế NLHVDS cũng có một số điểm hạn chế như sau: Điều 23 BLDS ghi nhận, nghiện chất kích thích là điều kiện cơ bản để xác định tình trạng hạn chế NLHVDS của cá nhân. Tuy nhiên, BLDS lại không có bất cứ quy định nào xác định, liệt kê hoặc nêu ra khái niệm về chất kích thích là những chất nào. Điều này làm dẫn tới hậu quả là việc cá nhân bị tuyên bố bị hạn chế NLHVDS mà có thể không có cơ sở pháp lí rõ ràng. Bên cạnh đó, nếu như ở Điều 22 BLDS quy định khi tuyên bố cá nhân bị mất NLHVDS thì Tòa án “ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định” , nhưng với trường hợp hạn chế NLHVDS quy định tại Điều 23 BLDS thì việc tuyên bố chỉ phụ thuộc vào yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan và quyết định của Tòa án. Do đó, việc không quy định rõ thế nào là chất kích thích cũng như việc không cần tới sự kết luận của cơ quan, tổ chức chuyên môn y tế sẽ dẫn tới sự chủ quan, duy ý chí của những người có quyền yêu cầu và của Tòa án. Quyết định của Tòa án sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào nhận định chủ quan của người tiến hành tố tụng, đồng thời quy định này là cơ sở dẫn tới những quyết định khác nhau của các Tòa án khác nhau về những cá nhân có mức độ nghiện và phá tán tài sản trên thực tế tương tự nhau.

  1. Đề xuất sửa đổi các quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân

Qua những phân tích ở trên, có thể thấy, các quy định về NLHVDS của cá nhân có những điểm bất cập, hạn chế cần phải sửa đổi, thay đổi. Trước tiên, cần cải thiện, nâng cao kĩ thuật lập pháp để những quy định được đưa ra phù hợp với thực tiễn đời sống và thể hiện đúng tinh thần của pháp luật Việt Nam. Các từ ngữ được sử dụng cần được phần tích, xem xét kĩ lưỡng. Có thể thay đổi quy định về “không có năng lực hành vi dân sự” thành “  người chưa có năng lưc hành vi dân sự” đối với người dưới sáu tuổi hoặc quy định khác phù hợp và đáp ứng các quyền và nghĩa vụ dân sự mà người dưới sáu tuổi được hưởng.

Bộ luật Dân sự mới cần quy định rõ ràng hơn, nhằm đưa ra các cách hiểu đúng cho các trường hợp năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ, mất và hạn chế NLHVDS của cá nhân. Trong đó, cần quy định rõ ràng về việc người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện các giao dịch cho cá nhân trong những trường hợp đó, đồng thời mở rộng các quy định hơn để tránh thiếu xót khi BLDS năm 2005 chỉ nói đến việc người đại diện theo pháp luật của cá nhân xác lập, thực hiện thay cho cá nhân chỉ trong các GDDS như quy định tại Điều 20, Điều 21, Điều 23 BLDS.

Bên cạnh đó, cần có thêm quy định về nghiện chất kích thích, và thêm quy định về việc giám định tình trạng NLHVDS của cá nhân trước khi tuyên bố người đó bị hạn chế NLHVDS. Có thể quy định rõ chất kích thích là gì, bao gồm những loại nào. Ví dụ như, các loại Amphetamine, thuốc lắc, Cocaine, Một số thuốc chống trầm cảmthuốc chống tiết Acetylcholine,…. Để có sự đồng bộ trong các quyết định của Tòa án đối với các trường hợp tương tự nhau, thì cần có sự quy định rõ ràng, về điều kiện cũng như căn cứ cơ sở để ra các quyết định đối với cá nhân trong tình trạng bị hạn chế NLHVDS. Qua đây, vừa đảm bảo công minh, rõ ràng, vừa thể hiện kĩ thuật lập pháp cũng như để pháp luật được áp dụng một cách có hiệu quả.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

So sánh và đánh giá chế định hợp đồng của Bộ luật Hammurabi và Luật Dân sự La Mã thời kì cộng hòa hậu kì và thời kì quân chủ

I. So sánh chế định hợp đồng của Bộ luật Hammurabi và Luật Dân sự Lã Mã thời kì cộng hòa hậu kì và thời kì quân chủ.

  1. Những điểm tương đồng của hai bộ luật:

Nguồn của hai bộ luật nói chung hay của luật dân sự nói riêng và cụ thể là của các quy định trong chế định hợp đồng của hai bộ luật này bao gồm : các quyết định của vua hay hoàng đế ( ở đây là vua Hammurabi và hoàng đế La Mã ), các tập quán, các bộ luật của thời kì trước hay các quốc gia bị chiếm đóng.

Chế định hợp đồng trong hai bộ luật đều dựa trên sự thỏa thuận, tự nguyện, không dối lừa của các bên, đồng thời nó phải tuân thủ theo quy định của pháp luật.

  1. Những điểm khác biệt trong chế định hợp đồng của hai bộ luật

Ở chế định hợp đồng, hai bộ luật có sự khác nhau cơ bản như sau :

Bộ luật Hammurabi: Luật Dân sự La Mã:
Điều kiện để hợp đồng

có hiệu lực

– Chỉ ghi nhận riêng đối với hợp đồng mua bán.

 

– Có sự thỏa thuận của hai bên.

– Phù hợp với quy định pháp luật.

Cách phân loại hợp đồng –  Chưa có cách phân loại hợp đồng.

–  Phân loại thành các loại hợp đồng cụ thể.

–  Phân chia theo thời điểm: hợp đồng thực tại và hợp đồng thỏa thuận.
Hình thức

hợp đồng

– Hợp đồng được lập thành văn bản, có người làm chứng. – Hợp đồng giao kết theo hình thức thề (thề có đồng và câu).

– Hợp đồng miệng (dưới dạng câu nói: hỏi và trả lời).

– Hợp đồng viết (dạng văn bản).

Biện pháp bảo đảm. – Thường là những chế tài hình sự (tử hình, …).

– Phạt tiền.

– Khi có vi phạm hợp đồng, trái vụ xuất hiện, các biện pháp bảo đảm là: cầm cố, thế chấp vật, sự bảo lãnh của người trung gian.

Bên cạnh đó, giữa một số loại hợp đồng thông dụng của chế định này ở hai bộ luật cũng có sự khác nhau:

  • Hợp đồng mua bán: trong bộ luật Hammurabi ghi nhận 3 điều kiện để hợp đồng có hiệu lực. Đó là: người bán là chủ sở hữu thực sự; tài sản mua bán phải đảm bảo đúng giá trị sử dụng của nó; khi tiến hành hợp đồng phải có người thứ ba làm chứng. Điều này không quy định trong hợp đồng mua bán của luật La Mã.
  • Hợp đồng vay mượn: trong luật La Mã quy định bên cho vay chuyển tài sản thuộc quyền sở hữu của bên cho vay cho bên vay và bên vay có nghĩa vụ trả vật cùng loại hoặc số tiền đã vay khi hết hạn hợp đồng. Còn bộ luật Hammurabi quy định mức lãi tối đa của hợp đồng vay tiền (1/5) và vay thóc (1/3). Chủ nợ có quyền giữ người nợ hay các thành viên trong gia đình người nợ làm con tin (có thể là bất động sản).

II. Đánh giá về chế định hợp đồng của hai bộ luật.

Cả hai bộ luật đều tương đối toàn diện và tiến bộ, mỗi bộ luật đều có những ưu điểm và hạn chế riêng trong quy định các vấn đề trong chế định hợp đồng.

Trong chế định hợp đồng, bộ luật Hammurabi chỉ đưa ra các điều luật điều chỉnh các trường hợp cụ thể, các nhà làm luật chưa đưa ra được khái niệm, định nghĩa về hợp đồng là gì mà đi thẳng luôn vào việc đưa ra các điều luật quy định nội dung của hợp đồng. Về điều kiện để hợp đồng có hiệu lực trên thực tế: Như ta đã biết chế định hợp đồng của Luật Hammurabi quy định những điều kiện cơ bản như tự nguyện, tự do ý chí…Tuy nhiên để hợp đồng có hiệu quả có hiệu lực trên thực tế thì không chỉ dựa vào những điều kiện cơ bản mà chúng ta còn phải tuân theo những điều kiện cụ thể mà trong luật quy định. Bộ luật Hammurabi chỉ tập trung quy định hợp đồng mua bán, còn với các hợp đồng mua bán khác như mua bán nô lệ ,hay hợp đồng lĩnh canh ,hợp đồng vay nợ…thì điều kiện lại hoàn toàn khác biệt hoặc không có.

Bên cạnh đó, Luật Dân sự La Mã đã quy định chung, khái quát cho tất cả các hợp đồng, điều chỉnh rộng hơn, các nhà làm luật La Mã đã đưa ra được khái niệm hợp đồng, trong đó, hợp đồng là sự thỏa thuận của hai bên, hợp đồng thể hiện sự thống nhất ý chí của hai hay nhiều bên bên. Điều kiện đưa ra để  hợp đồng có hiệu lực quy định chung cho tất cả các loại hợp đồng chứ không chỉ riêng với hợp đồng mua, bán. Do vậy, về hiệu lực của hợp đồng trong chế định hợp đồng của luật dân sự La Mã có bước tiến bộ, điều chỉnh rộng hơn, và phù hợp hơn bộ luật Hammurabi.

Về các biện pháp bảo đảm để hợp đồng được thực hiện trên thực tế, bộ luật Hammurabi quy định các biện pháp bảo đảm để hợp đồng được thực hiện trên thực tế thường là các chế tài hình sự và phạt tiền. Chế tài của hợp đồng thường là các chế tài hình sự (hình phạt) khá khắc nghiệt. Bộ luật quy định nếu người bán bị người làm chứng tố cáo vật bán là của người khác thì sẽ bị tử hình. Ngược lại, nếu có người nhận vật bán là của mình bị mất nhưng không có người làm chứng thì người nhận đó cũng bị tử hình và luật cho rằng đấy là tội vu khống (điều 9 và điều 11). Qua đó có thể thấy luật bảo vệ lợi ích cho giai cấp thống trị. Những kẻ giàu có cho vay mượn, thuê mướn luôn luôn được pháp luật bảo vệ, còn nhân dân lao động nghèo khổ là đối tượng trừng trị của pháp luật. Khi thuê mướn thì chủ ruộng và người lĩnh canh bao giờ cũng thỏa thuận thông qua hợp đồng. Chủ ruộng bao giờ cũng thu được tô, phần rủi ro thì người thuê mướn phải chịu.  Cho nên, đời sống của nhân dân ở tất cả các thời kỳ đều khổ cực như nhau. Pháp luật là do giai cấp thống trị đặt ra để bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị, còn nhân dân lao động hầu như không được bảo vệ mà luôn là đối tượng bóc lột chủ yếu của nhà nước. Đây là điểm hạn chế của bộ luật Hammurabi cũng như của tất cả các bộ luật khác trên thế giới khi xã hội vẫn còn sự phân chia giai cấp. Mặt khác, biện pháp đảm bảo hợp đồng có hiệu lực của Luật Dân sự La Mã là cầm cố vật và sự bảo lãnh của người trung gian. Nó là cơ sở các bên khi tham gia giao kết hợp đồng bảo vệ quyền và lợi ích của riêng mình, đồng thời cho thấy sự tiến bộ của các nhà làm luật La Mã, thể hiện sự bình đẳng hơn giữa những người tham gia trong hợp đồng. Bên cạnh đó, khi có sự vi phạm hợp đồng thì trái vụ xuất hiện. Đó là nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của bên vi phạm cho bên còn lại. Cùng với các quy định về trái vụ trong hợp đồng, Luật Dân sự La Mã càng thể hiện sự tiến bộ, thích hợp hơn so với các quy định của bộ luật Hammurabi .

Trong chế định hợp đồng , cả hai bộ luật cũng có điểm tiến bộ chung trong nguyên tắc khi tham gia vào hợp đồng. Bộ luật Hammurabi, các nhà làm luật Lưỡng Hà quy định ,hợp đồng phải là sự thỏa thuận, tự nguyện của các bên khi tham gia hợp đồng và đồng giao kết nó khi có sự trùng hợp ý chí các bên, hình thức bằng văn bản hoặc có người làm chứng. Do đó, tất cả các loại hợp đồng đều tuân theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng, về nội dung của hợp đồng (quyền và nghĩa vụ): các bên tham gia hợp đồng đều phải có được hưởng quyền định đồng thời phải có nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, nó khá đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng. Trong Luật Dân sự La Mã thì thỏa thuận, tự nguyện, theo pháp luật cũng là  điều kiện để hợp đồng có hiệu lực. Đó là những tiến bộ tích cực thể hiện trình độ hiểu biết và kĩ thuật luật pháp của các nhà làm luật trong hai bộ luật.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Chức năng tổ chức và quản lí văn hóa, giáo dục, khoa học – công nghệ của Nhà nước Việt Nam hiện nay

I. Cơ sở lí thuyết

      Chức năng của Nhà nước là hoạt động của nhà nước chủ yếu nhất, quan trọng nhất, mang tính thường xuyên, liên tục ổn định tương đối, trực tiếp xuất phát từ và thể hiện đầy đủ nhất, tập trung nhất bản chất, cơ sở kinh tế – xã hội, nhiệm vụ chiến lược, mục tiêu cơ bản của nhà nước và có ý nghĩa quyết định nhất tới sự tồn tại và phát triển của nhà nước.

      Chức năng của nhà nước phân theo lĩnh vực hoạt động bao gồm hai nhóm chức năng chính, đó là chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Chức năng đối nội được hiểu là những hoạt động chủ yếu nhất, quan trọng nhất mang tính thường xuyên, liên tục, ổn định tương đối của nhà nước, nhằm giải quyết những vấn đề quan trọng liên quan tới quốc kế dân sinh ở trong nước.

II. Chức năng của Nhà nước trong tổ chức và quản lí văn hóa, giáo dục, khoa học – công nghệ trong Nhà nước Việt Nam hiện nay.

      Nhà nước Việt Nam cũng như các nhà nước khác thực hiện 2 nhóm chức năng đối nội và đối ngoại. Trong đó chức năng đối nội bao gồm các chức năng : tổ chức và quản lí nền kinh tế; tổ chức và quản lí văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ, chức năng xã hội và giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

      Chức năng tổ chức và quản lí nền văn hóa, giáo dục, khoa học – công nghệ là một chức năng mang tính tổng hợp cao, gồm những lĩnh vực thuộc phạm trù văn hóa theo nghĩa rộng. Nhà nước ta thực hiện chức năng này nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình ,lối sống văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, công đồng và xã hội.

  1. Chức năng tổ chức và quản lí nền văn hóa

        Văn hoá là những giá trị vật chất, tinh thần được đúc kết, lưu truyền và tồn tại theo suốt chiều dài của lịch sử. Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia trên thế giới đều có bản sắc văn hoá riêng. Đất nước Việt Nam với hơn 4000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước, trải qua bao nhiêu khó khăn, ác liệt của các cuộc chiến tranh chống lại sự xâm lược của phong kiến phương Bắc, chế độ thực dân Pháp và đế quốc Mỹ nhưng vẫn bảo tồn được các giá trị văn hoá truyền thống, các công trình văn hoá có giá trị cao về kiến trúc, là minh chứng của lịch sử hàng nghìn năm tồn tại của dân tộc.

      Ngày nay, khi đất nước ta đang trong thời kỳ mở cửa, hội nhập cùng sự phát triển của thế giới, thì việc giữ gìn bản sắc văn hoá của dân tộc và tiếp thu những tinh hoa văn hoá của các nước bạn trên thế giới là một nhiệm vụ hết sức quan trọng được đặt ra.

      Tư tưởng chỉ đạo của Nhà nước Việt Nam là xây dựng nền văn hóa mới, con người mới, và lối sống mới để nhân dân lao động trở thành người sáng tạo, người chủ, người hưởng thụ mọi giá trị văn hóa tinh thần của nhân loại. Nhà nước bảo tồn và phát triển các di sản văn hóa dân tộc, các giá trị văn học nghệ thuật, ngôn ngữ, chữ viết, thuần phong mỹ tục của dân tộc; tôn tạo lại các di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh; chống xâm phạm các di tích lịch sử, cách mạng, các công trình nghệ thuật và thắng cảnh của đất nước; khai thác các kho tàng văn hóa cổ truyền… kế thừa,  phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm nền văn hóa của nhân loại.

       Nhà nước chống lại các nền văn hóa độc, bài trừ mê tín, hủ tục, đồng thời quản lí hệ thống bảo tàng lịch sử, thư viện, nhà văn hóa, nhà thông tin, câu lạc bộ sức khỏe, sân bãi thể dục thể thao, khu vui chơi giải trí; đầu tư phát triển văn hóa, văn học nghệ thuật, tạo điều kiện để nâng cao trình độ thẩm mỹ và thưởng thức nghệ thuật cho nhân dân, bảo đảm tự do, dân chủ trong sáng tạo nghệ thuật, phát huy mọi tài năng sáng tạo của nhân dân trong lao động nghệ thuật. Nhà nước phát huy vai trò thẩm định tác phẩm, hướng dẫn dư luận của phê bình văn học nghệ thuật, bên cạnh đó chống lại các khuynh hướng sáng tác trái với đường lối, phát triển văn hóa mà Nhà nước đã định hướng.

      Nhà nước có chế độ chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần cho các văn nghệ sĩ, có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với các văn nghệ sĩ có tái năng, đồng thời đào tạo, bồi dưỡng thế hệ văn nghệ sĩ trẻ, bảo vệ quyền tác giả, và quản lí tốt hệ thống phương tiên thông tin đại chúng.

  1. Chức năng tổ chức và quản lí giáo dục

      Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội Nhà nước phải có chính sách phù hợp về giáo dục và đào tạo để tạo ra nguồn nhân lực dồi dào, nâng cao dân trí, phải xây dựng được đội ngũ trí thức mạnh, những nhà kinh doanh người quản lí giỏi, đội ngũ chuyên gia công nghệ và công nhân lành nghề cho trước mắt và lâu dài.

      Trong Nhà nước ta các chính sách giáo dục được ưu tiên hàng đầu, phát triển giáo dục nhằm mục đích nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Nhà nước thống nhất quản lí giáo dục theo mục tiêu và định hướng bằng cách xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển giáo dục, ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật về giáo dục, những quy định mục tiêu, chương trình cụ thể.

      Nhà nước thông qua các tiêu chuẩn đánh giá giáo viên, nội dung giáo dục, tiêu chuẩn trường học nhằm quản lí giáo dục. Bên cạnh đó, Nhà nước quyết định, đề ra, đánh giá thông qua việc biên soạn, xuất bản, in và phát hành sách giáo khoa, giáo trình, các quy chế thi cử, hệ thống văn bằng. Đồng thời, Nhà nước tổ chức bộ máy quản lí giáo dục, đào tạo bồi dưỡng nhà giáo, cán bộ quản lí giáo dục; huy động, quản lí, sử dụng các nguồn lực để phát triển giáo dục, tổ chức, quản lí nghiên cứu khoa học, công nghệ trong ngành giáo dục, hợp tác quốc tế để nâng cao trình độ cũng như chất lượng của giáo dục. Nhà nước quy định việc tặng các danh hiệu vinh dự cho những người có công đối với sự nghiệp giáo dục, thanh tra kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục, giải quyết các khiếu nại tố cáo và xử lí các vi phạm pháp luật về giáo dục.

      Ở Nhà nước ta, giáo dục là quốc sách hàng đầu, do vậy, Nhà nước đảm bảo việc thực hiện các chính sách kế hoạch đề ra nhắm đạt được mục tiêu, đó chính là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đào tạo những người lao động có tay nghề, năng động và sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu nước mạnh, để đáp yêu cầu của sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kì đổi mới và bảo vệ Tổ quốc.

  1. Chức năng quản lí và tổ chức về khoa học – công nghệ

      Khoa học và công nghệ đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc. Đối với đất nước ta trong giai đoạn hiện nay, khoa học và công nghệ còn là động lực đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn tới trình độ tiên tiến của thế giới. Vì vậy, Nhà nước đặc biệt quan tâm chú trọng, có chính sách đúng đắn và quản lý có hiệu quả bảo đảm cho sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ. Nhà nước xây dựng và chỉ đạo thực hiện các chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế hoạch, nhiệm vụ, khoa học và công nghệ; ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật về khoa học, công nghệ; tổ chức bộ máy quản lí khoa học, công nghệ, tổ chức hướng dẫn đăng kí hoạt động của tổ chức khoa học, công nghệ nhằm xây dựng nền khoa học công nghệ tiên tiến và phát triển đồng bộ các ngành khoa học và công nghệ.

      Nhà nước đã có những chính sách phù hợp để phát triển và quản lí cả khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và công nghệ: xây dựng và chỉ đạo thực hiện quỹ phát triển khoa học, công nghệ; ban hành các luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; quy định việc đánh giá, nghiệm thu, ứng dụng và công bố kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Nhà nước ghi nhận công lao về khoa học của các cá nhân, tổ chức bằng các hình thức cụ thể, có các chức vụ khoa học, giải thưởng khoa học và công nghệ…

      Nhà nước tổ chức quản lí công tác thẩm định khoa học, công nghệ; tổ chức và chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ về khoa học công nghệ đảm bảo kiện toàn hệ thống các tổ chức về khoa học – công nghệ, sắp xếp và bố trí cán bộ khoa học và công nghệ một cách hợp lí theo hướng gắn khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo. Nhà nước tổ chức quản lí hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ, đồng thời thanh tra, kiểm tra, việc chấp hành pháp luật về khoa học, công nghệ, giải quyết các tranh chấp, khiếu nại tố cáo trong hoạt động khoa học công nghệ, xử lí các vi phạm pháp luật về khoa học công nghệ.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Phân tích vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành, phát triển nhân cách

KHÁI QUÁT VỀ NHÂN CÁCH

  1. Một số khái niệm liên quan

    Con người là một khái niệm rất rộng. Tuy nhiên, trong khoa học xã hội, một khái niệm đã được thừa nhận rộng rãi là : Con người là một thức thể sinh học – xã hội.

    Cá nhân cũng là một thực thể sinh học – xã hội, nhưng được xem xét cụ thể riêng từng người, với các đặc điểm về sinh lí, tâm lí và xã hội để phân biệt cá nhân này với cá nhân khác với cộng đồng.

    Chủ thể là thuật ngữ được sử dụng khi cá nhân thực hiện một hoạt động nhất định một cách có ý thức và có mục đích (hoạt động trí óc, hoạt động chân tay, hoạt động lý luận hay thực hành), nhận thức và cải tạo thế giớ xung quanh trong quá trình hoạt động đó.

    Cá tính của từng con người cụ thể là sự độc đáo riêng của mỗi cá thể về những đặc điểm thể chất và tâm lí (thể tạng, kiểu thần kinh, khí chất, nhu cầu, năng lực v.v.).

  1. Khái niệm nhân cách

    Có nhiều định nghĩa và quan niệm khác nhau về nhân cách. Nhưng trên cơ sở đó, có thể rút ra định nghĩa khái quát về nhân cách như sau :

    Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lí của một cá nhân biểu hiện ở bản sắc và giá trị xã hội của người ấy. Cụ thể, trong đó :

+ Nói thuộc tính tâm lí là nói hiện tương tâm lí tương đối ổn định – kể cả phần sống động và tiềm phần tàng (nét, thói, tính tình…) có tính quy luật chứ không phải xuất hiện một cách ngẫu nhiên.

+ Dùng chữ “tổ hợp” có nghĩa là những thuộc tính tâm lí hợp thành nhân cách có quan hệ chặc chẽ với nhau, tác động lẫn nhau làm thành một hệ thống, một cấu trúc nhất định.

+ Nói bản sắc là muốn nói trong số những thuộc tính đó, trong hệ thống đó có cái chung từ xã hội, từ giai cấp, tập thể gia đình vào con người nhưng cái chung này ( gọi tắt là kinh nghiệm – xã hội lịch sử) đã trở thành cái riêng, cái khác biệt của từng người có đặc điểm về nội dung và cả hình thức, không giống với các tổ hợp khác của bất cứ một người nào khác.

+ Dùng chữ “giá trị xã hội” là muốn nói những thuộc tính đó thể hiện ra ở những việc làm, những cách ứng xử, hành vi, hành động, hoạt động phổ biến của người ấy và được xã hội đánh giá.

 

VAI TRÒ CỦA CÁC YẾU TỐ ĐỒI VỚI SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH. LIÊN HỆ THỰC TẾ

  1. Yếu tố di truyền

    Theo sinh vật hoc hiện đại, di truyền là mối liên hệ kế thừa của cơ thể sống đảm bảo sự tái tạo ở thế hệ mới những nét giống nhau về mặt sinh vật đối với thế hệ trước và đảm bảo năng lực đáp ứng những đòi hỏi của hoàn cảnh theo một cơ chế đã định sẵn.

    Bẩm sinh – di truyền là những đặc điểm giải phẫu sinh lí của hệ thần kinh và các cơ quan cảm giác, vận động. Đối với mỗi cá thể khi ra đời đã nhận được một số đặc điểm về cấu tạo và chức năng cơ thể từ các thế hệ trước theo con đường di truyền, trong đó có những đặc điểm cấu tạo và chức năng của các giác quan và não. Những đặc điểm của hoạt động thần kinh cấp cao (cường độ , tính cân bằng và linh hoạt của các quá trình thần kinh) được biểu hiện ngay từ những ngày đầu của cá thể. Tuy nhiên, không thể kết luận về vai trò quyết định của di truyền trong sự hình thành và phát triển tâm lí nhân cách.

    Để nhận thức đúng vai trò của nó, ta cần phải thừa nhận một thực tế là mọi cơ thể bình thường đều có thể phát triển tốt đẹp đời sống tinh thần của mình. Hơn thế, hoạt động tâm – tâm sinh lí của con người lại có khả năng bù trừ (sự thiếu hụt của giác quan này có thể làm tăng tính nhạy cảm của một giác quan khác, một chức năng tâm lí bị hủy hoại có thể được khôi phục bằng cách luyện tập để thiết lập một hệ thống chức năng trên vỏ não ứng với chức năng tâm lí đó). Ngoài ra, sự tác động của yếu tố di truyền đối với từng giai đoạn phát triển lứa tuổi và đối với từng hoạt động cụ thể là khác nhau. Chẳng hạn, khả năng tiềm tàng của bộ máy phân tích âm thanh cần phải được phát triển và bồi dưỡng từ tuổi thơ ấu. Nó là một đặc điểm di truyền, khác với những đặc điểm phát triển khác của cơ thể.

    Tóm lại, bẩm sinh – di truyền đóng vai trò đáng kể trong sự hình thành phát triển tâm lí nhân cách. Chính nó tham gia vào sự tạo thành cơ sở vật chất của các hiện tượng tâm lí – những đặc điểm giải phẫu và sinh lí của cơ thể, trong đó có hệ thần kinh. Từ đó có thể khẳng định vai trò tiền đề vật chất của yếu tố di truyền đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.

Liên hệ thực tiễn : Nhà soạn nhạc thiên tài Moza được sinh ra trong một gia đình có truyền thống âm nhạc. Cùng với sự dạy dỗ của người cha và niềm say mê âm nhạc từ thuở nhỏ đã tạo lên một nghệ sĩ thiên tài. Như vậy, yếu tố di truyền đã giúp tạo tiền đề cho nhân cách con người phát triển.

Hay một đứa trẻ được sinh ra trong một gia đình có bố mẹ làm ca sỹ, nhạc sỹ , thì nó sẽ có cơ hội và khả năng làm trở thành một người hoạt động nghệ thuật sau này, cộng với công việc của bố mẹ nó có thể phát triển và bồi dưỡng từ nhỏ khả năng tiềm tàng của bộ máy phân tích âm thanh, phát triển giọng ca, tài năng….

  1. Hoàn cảnh sống

Hoàn cảnh tự nhiên :

    Như ta đã biết, mỗi dân tộc sống trên một lãnh thổ nhất định, có cái sự độc đáo của hoàn cảnh địa là: ruộng đồng, khoáng sản, núi sông, trời biển, mưa gió, hoa cỏ và âm thanh… Những điều kiện ấy quy định đặc điểm của các dạng, các ngành sản xuất, đặc tính của nghề nghiệp ( tức những phương thức hoạt động của con người trong tự nhiên) và một số nét riêng trong phạm vi sáng tạo nghệ thuật. Qua đó, quy định các giá trị vật chất và tinh thần ở một mức độ nhất định. Cho nên có thể nói rằng, tâm lí dân tộc mang dấu ấn của hoàn cảnh tự nhiên thông qua khâu trung gian là phương thức sống.

    Xét cho cùng, nhiều phong tục tập quán đều có nguồn gốc từ điều kiện và hoàn cảnh sống tự nhiên. Một số nét tâm lí nào đó của bản địa, của nghề nghiệp cũng có thể hiểu theo logic ấy. Nhân cách như một thành viên xã hội, chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên thông qua những giá trị vật chất tinh thần, qua phong tục tập quán của dân tộc, của địa phương, của nghề nghiệp – những cái vốn có liên hệ với điều kiện tự nhiên ấy và qua phương thức sống của chính bản thân nó.

   Liên hệ thực tiễn : Người dân vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng và đồng bằng châu thổ sông Cửu Long nước ta có truyền thống trồng lúa nước lâu đời, cây lúa nước không chỉ đơn thuần là cây nông nghiệp, mà nó đã trở thành biểu tượng cho nền nông nghiệp nước ta nói chung và hai vùng đồng bằng này nói riêng. Ở đây, người dân không chỉ có kinh nghiệm lâu đời về trồng lúa nước, tâm lí gắn bó với cây lúa, mà còn có những phong tục, tập quán, hoạt động văn hóa, nghệ thuật gắn liền với nền văn minh lúa nước. Sở dĩ như vậy là bởi vì nơi đấy có địa hình bằng phẳng, có hai con sông lớn chảy qua, bồi đắp phù sa, có các điều kiện phù hợp cho việc canh tác cây lúa nước.

Một ví dụ nữa cho thấy nhân cách con người chịu sự ảnh hưởng của tự nhiên thời tiết : Khi thời tiết nắng nóng vào khoảng 40, 41 độ C, chúng ta có cảm giác khó chịu trong người và hay cáu gắt hơn bình thường, những khi thời tiết mát mẻ mùa thu, thì tinh thần con người cũng thoải mái hơn, khi đó con người thấy vui vẻ hơn, thấy mọi thứ nhẹ nhàng, bâng khuâng như tiết trời mùa thu….

Hoàn cảnh xã hội :

    Trước hết, cần nhận thức về ảnh hưởng nói chung của xã hội đối với sự phát triển tâm lí nhân cách. Rõ ràng là không có sự tiếp xúc của con người thì cá thể lớn lên và phát triển trong trạng thái động vật, nó không thể trở thành một con người, một nhân cách. Nhân cách đó phải là sản phẩm của xã hội. Có nghĩa là, đứa trẻ muốn trở thành nhân cách phải có sự tiếp xúc với người lớn để nắm vững kiến thức, kinh nghiệm lịch sử xã hội, để được chuẩn bị bước vào cuộc sống và lao động trong văn hóa của thời đại. Ví dụ như, trong trường hợp một em bé được chó sói nuôi, sống trong rừng, không có sự tác động hay tiếp xúc của con người thì sẽ sống như một động vật, cụ thể: đi bằng bốn chân, không biết nói mà chỉ rú được như sói, không biết ăn thịt chín, không mặc quần áo….

    Trong tất cả các mối quan hệ xã hội, nhân cách không chỉ là một khách thể mà còn là một chủ thể. Cá nhân là một tồn tại có ý thức, nó có thể lựa chọn phương thức sống của mình và do đó nó lựa chọn những phản ứng khác nhau trước tác động của hoàn cảnh xã hội.

    Trong môi trường xã hội ta còn thấy những hiện tượng tâm lí xã hội quần chúng khác ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lí nhân cách. Dư luận và tâm trạng chung, đó là sự phán xét đánh giá của sự đông người về sự kiện đời sống xã hội của hoạt động tập thể của hành vi cá nhân. Dư luận được hình thành âm thầm hoặc có ý thức. Có thể đóng vai trò tích cực hay tiêu cực trong đời sống được bắt nguồn từ sự kiện thực hay bịa đặt. Nó nảy sinh, phát sinh trên tâm trạng xã hội và có ảnh hưởng trở lại tâm trạng đó.

   Tâm trạng chung bao trùm bầu không khí lạc quan hay bi quan – sức phấn đấu chung của nhóm hay cá nhân đều chịu ảnh hưởng của tâm trạng chung đó.

   Thi đua là phương thức tác động qua lại giữa các cá nhân, nhóm và tập thể làm tăng cho kết quả hoạt động của nhau nhiều phẩm chất nhân cách, tập thể được phát triển qua thi đua.

    Bắt chước thể hiện ra mọi lĩnh vực của đời sống (vui chơi, học tập, lao động, giao tiếp), bắt chước diễn ra một cách có ý thức hay không có ý thức, bắt chước trong cách giao tiếp, ngôn ngữ ăn mặc.v.v.

  1. Nhân tố giáo dục

    Theo quan điểm của tâm lí học và giáo dục học hiện đại thì giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong sự phát triển nhân cách. Giáo dục là hoạt động chuyên môn của xã hội nhằm hình thành và phát triển nhân cách con người theo những yêu cầu của xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất định.

   Trong tâm lí học, giáo dục thường được hiểu như là quá trình tác động có ý thức, có mục đích và có kế hoạch về mặt tư tưởng, đạo đức và hành vi trong tập thể trẻ em và học sinh, trong gia đình và cơ quan giáo dục ngoài nhà trường. Nhưng thực ra giáo dục còn có nghĩa rộng hơn giáo dục bao gồm cả việc dạy học cùng với hệ thống các tác động sư phạm khác, trực tiếp hoặc gián tiếp trong lớp và ngoài lớp, trong trường và ngoài trường, trong gia đình và ngoài xã hội. Vai trò chủ đạo của giáo dục được thể hiên qua những điều sau đây:

-Giáo dục nhằm vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh và dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh theo chiều hướng đó.

-Giáo dục có thể mang lại những cái mà các yếu tố bẩm sinh – di truyền hay môi trường tự nhiên không thể đem lại được. Chẳng hạn, một đứa trẻ sinh ra không bị khuyết tật thì theo sự tăng trưởng và phát triển của cơ thể, đến một giai đoạn nhất định, bé sẽ biết nói. Nhưng nếu muốn biết đọc sách báo thì nhất thiết phải đi học.

-Giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật đem lại cho con người. Ví dụ : bằng những phương pháp giáo dục đặc biệt cho những người bị khuyết tật (câm, mù, điếc…) có thể phục được những chức năng đã mất, hoặc có thể phát triển tài năng một cách bình thường. Chẳng hạn, như thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký, thầy bị tật nguyền từ nhỏ, nhưng nhờ giáo dục, rèn luyện học tập, thầy đã tập viết được bằng chân và đã viết lên “một huyền thoại số phận” nhờ đôi bàn chân của mình.

-Giáo dục có thể uốn nắn nhứng phẩm chất tâm lí xấu, do tác động tự phát của môi trường xã hội gây nên và làm cho nó phát triển theo chiều hướng mong muốn của xã hội. Ví dụ như những người phạm tội bị kết án phạt tù, thì họ tham gia vào các hoạt động lao động để cải tạo bản thân.

-Giáo dục có thể đi trước hiện thực, trong khi tác động tự phát của xã hội chỉ ảnh hưởng đến cá nhân ở mức độ hiện có của nó.

    Như vậy, giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong sựu phát triển nhân cách, vì giáo dục một mặt cung cấp cho con người những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, mặt khác hình thành trong nhân cách họ những phẩm chất tâm lý cần thiết theo yêu cầu phát triển của xã hội. Sản phẩm văn hóa của loài người có thể biến thành tài sản tinh thần của nhân cách nhờ hoạt động giáo dục.

  1. Nhân tố hoạt động

Khái niệm:

   Hoạt động là sự tác động qua lại có định hướng giữa con người với thế giới xung quanh, hướng tới biến đổi nó nhắm thỏa mãn yêu cầu của mình.

Vai trò của hoạt động:

    Hoạt động là phương thức tồn tại của con người, là nhân tố  quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển của nhân cách. Hoạt động của con người là hoạt động có mục đích, mang tính xã hội, cộng đồng, được thực hiện bằng những thao tác nhất định, với những cộng cụ nhất định. Thông qua hai quá trình đối tượng hóa và chủ thể hóa trong hoạt động mà nhân cách được bộc lộ và hình thành. Con người lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sử bằng hoạt động của bản thân để hình thành nhân cách. Mặt khác cũng thông qua hoạt động, con người đóng góp lực lượng bản chất của mình vào việc cải tạo thế giới khách quan.

    Sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người phụ thuộc vào hoạt động chủ đạo ở mỗi thời kì nhất định. Muốn hình thành nhân cách con người phải tham gia vào các dạng hoạt động khác, nhất là vai trò của hoạt động chủ đạo. Hoạt động có vai trò quyết định trực tiếp đến sự hình thành vè phát triển nhân cách cá nhân. Con đường tác động có mục đích, tự giác của xã hội bằng giáo dục sẽ không có hiệu quả, nếu như bản thân không tiếp nhân, không hưởng ứng những tác động đó, không trực tiếp tham gia vào các hoạt động nhằm phát triển tâm lí, hình thành nhân cách.

    Như vậy, khác với động vật, hoạt động của con người là hoạt động có mục đích, có ý thức. Hoạt động của con người được hình thành và phát triển cùng với sự hình thành và phát triển ý thức, là nguồn góc và nội dung của ý thức. Hoạt động của con người được thực hiện không chỉ trong mối quan hệ của con người với sự vật mà cả trong mối quan hệ với người khác.

Liên hệ thực tiễn : Trong hoạt động học tập của sinh viên nói chung và sinh viên Luật nói riêng, việc tiếp thu một cách thụ động từ sách vở, từ thầy cô, trong khi bản thân không tự thân vận động, chủ động tìm kiếm, mày mò, học hỏi từ nhiều phía thì có nghĩa là con đường tác động có mục đích là giáo dục sẽ không có hiệu quả, bản thân chúng ta sẽ không năng động, việc áp dụng ý thức và phát huy vai trò của giáo dục trong việc hình thành và phát triển nhân cách sẽ chậm chạp đi rất nhiều. Thực tế cho thấy, những ai học tập có yếu tố tích cực, sáng tạo, có độc lập nghiên cứu…thì tích lũy, lĩnh hội được nhiều kinh nghiệm hơn, để phát triển hoàn thiện nhân cách. Như sinh viên luật, thì việc đọc nhiều sách, báo pháp luật, sẽ giúp sinh viên luật tích lũy được những kiến thức về pháp luật, những vụ án thực tiễn, giúp chúng ta tích hoàn thiện hơn khả năng tư duy, nhìn nhận tình huống trong quá trình học tập cũng như sau này. Đối với sinh viên, thì hoạt động học tập là chủ đạo, và nó cũng đóng vai trò chủ đạo tong việc hình thành nhân cách, nhưng để phát triển và hoàn thiện dần nhân cách của bản thân thì cần phải tham gia các hoạt động khác ngoài xã hội như : tình nguyện, thể dục thể thao, tham gia sinh hoạt câu lạc bộ, làm thêm… Với sinh viên luật thì yêu tố giáo hoạt động là yếu tố đặc biết quan trọng trong việc trau dồi kĩ năng nghề nghiệp, tích lũy kinh nghiệm, tính năng động, độc lập làm việc… ngay từ khi còn đang học trong trường.

  1. Yếu tố giao tiếp

    Giao tiếp là quá trình thiết lập và phát triển sự tiếp xúc giữa các cá nhân xuất phát từ nhu cầu phối hợp hành động. Đối tượng của giao tiếp là những chỉnh thể tâm lí sống động, những nhân cách hoàn chỉnh. Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người. Nhu cầu giao tiếp là một trong những nhu cầu xã hội cơ bản, xuất hiện sớm nhất ở con người. Sự phát triển của một cá nhân được quy định bởi sự phát triển của các cá nhân khác mà nó giao tiếp trực tiếp hoặc gián tiếp với họ. Chính con người làm xuất hiện, duy trì, phát triển giao tiếp và trở thành sản phẩm của giao tiếp.

    Nhờ giao tiếp, con người tham gia vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hóa xã hội, chuẩn mực xã hội, đống thời thông qua giao tiếp, con người đóng góp năng lực của mình vào kho tàng chung của nhân loại.

   Trong giao tiếp, con người không chỉ nhận thức người khác, nhận thức các mối quan hệ, nhận thức các quan hệ xã hội, mà còn nhận thức được chính bản thân mình, tự đối chiếu so sánh mình với người khác, với chuẩn mực xã hội, tự đánh giá bản thân như một nhân cách.

    Liên hệ thực tiễn : Sinh viên trong qua trình học tập nghiên cứu, nhờ giao tiếp, tiếp xúc, trao đổi với bạn bè mà học hỏi được thêm nhiều kiến thức, cũng qua đó mà mỗi sinh viên có được những đánh giá thái độ với những người bạn của mình (ngưỡng mộ, khâm phục học hỏi từ họ…) đồng thời cũng hình thành sự đánh giá, xem xét lại bản thân, còn những gì cần khắc phục ở bản thân, những gì cần hoàn thiện… Giao tiếp với thầy cô, giảng viên, các anh chị khóa trên giúp ta học tập được thêm nhiều thứ như : kiến thức chuyên môn, thái độ làm việc, kinh nghiệm trong nghiên cứu, học tập… từ đó vận dụng để phục vụ cho việc học của bản thân mình.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Lí luận về hàng hóa sức lao động của CMác với thị trường sức lao động (thị trường lao động) ở Việt Nam hiện nay

I. Lí luận về hàng hóa sức lao động của C.Mác

  1. Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa

    Theo C.Mác: “ Sức lao động , đó là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong thân thể một con người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà con người phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích”.

    Trong bất kì xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản để sản xuất. Nhưng không phải trong bất kì điều kiện nào, sức lao động cũng trở thành hàng hóa. Sức lao động chỉ trở thành hàng hóa khi có đủ các điều kiện sau:

-Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ sức lao động của mình và có quyền bán sức lao động của mình như một hàng hóa.

-Thứ hai, người lao động không còn có tư liệu sản xuấtcần thiết để tự mình thực hiện lao động và cũng không có của cải gì khác, để tồn tại thì buộc phải bán sức lao động của mình để sống.

  1. Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động

    Cũng giống như các hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính, đó là: giá trị và giá trị sử dụng.

  • Giá trị hàng hóa sức lao động:

    Giá trị của hàng hóa sức lao động, cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất hàng hóa sức lao động quyết định. Nhưng sức lao động chỉ tồn tại như năng lực sống của con người. Muốn tái sản xuất ra năng lực đó, người công nhân phải tiêu thụ một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định về ăn, mặc, ở, học nghề… Ngoài ra người lao động còn phải thỏa mãn những nhu cầu của gia đình và con cái họ. Vì vậy, thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất hàng hóa sức lao động sẽ được quy thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt ấy, hay nói cách khác, giá trị của hàng hóa sức lao động được đo gián tiếp thông qua giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động.

    Hàng hóa sức lao động là hàng hóa đặc biệt, giá trị của nó bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử. Lượng giá trị hàng hóa sức lao động được hợp thành từ những bộ phận :

Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái tạo sức lao động, duy trì đời sống của bản thân người công nhân.

Hai là, phí tổn đào tạo người công nhân.

Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái người công nhân.

    Để biết sự biến đổi của giá trị hàng hóa sức lao động trong một thời kì nhất định cần nghiên cứu hai loại nhân tố tác động, đối lập nhau đến sự biến đổi giá trị sức lao động.

  • Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động:

    Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động là công dụng của nó làm thỏa mãn nhu cầu sản xuất kinh doanh của nhà tư bản. Giá trị sử dụng được thể hiện trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân. Quá trình này khác với hàng hóa thông thường ở chỗ, đó là, trong quá trình sử dụng hay tiêu dùng hàng hóa thông thường, thì cả giá trị và giá trị sử dụng của nó sẽ giảm dần và tiêu biến mất dần theo thời gian. Trong khi, quá trình tiêu dùng hàng hóa sức lao động lại là quá trình sản xuất ra một loạt hàng hóa nào đó, sáng tạo ra lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân sức lao động.

    Từ quá trình tiêu dùng sức lao động, tạo ra một lượng giá trị hàng hóa dôi ra so với giá trị sức lao động, đó là giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt. Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có tính chất đặc biệt, nó là nguồn gốc sinh ra giá trị, tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đó chính là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn của công thức chung của tư bản. Chính đặc điểm này đã làm cho sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động trở thành điều kiện để tiền tệ chuyển hóa thành tư bản.

II. Lí luận về hàng hóa sức lao động của C.Mác với thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay

  1. Khái niệm thị trường lao động

    Thị trường lao động là nơi thực hiện các quan hệ xã hội giữa người bán sức lao động (người công nhân làm thuê) và người mua sức lao động (người sử dụng sức lao động), thông qua các hình thức thỏa thuận về giá cả ( tiền công, tiền lương) và các điều kiện làm việc khác trên cơ sở một hợp đồng lao động bằng văn bản, bằng miệng, hoặc thông qua các dạng hợp đồng hay thỏa thuận khác.

  1. Thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay

  • Thực trạng thị trường lao động nước ta:

    Hiện nay nước ta mới bước vào những năm đầu của thời kì mới – thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì vật, lao động nước ta mang những sắc thái, đặc thù gắn chặt với trình độ phát triển của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Việc phát triển thị trường lao động nước ta trong thời gian qua đã thu được những thành quả nhất định, làm cơ sở cho việc hoàn thiện quan hệ lao động, phát triển kinh tế –  xã hội.

    Nền kinh tế thị trường nước ta vận động và phát triển gắn liền với quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, vì vậy, vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động vào thị trường lao động nước ta chính là giải quyết vấn đề nguồn lao động chất lượng cao trong thời kì mới. Mặt khác, theo xu thế hội nhập quốc tế phát triển nề kinh tế tri thức, đòi hỏi người lao động phải biết nắm bắt, xử lí nhanh nhạy, tức là, cần nâng cao giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động. Tuy nhiên quá trình nhận thức và vận dụng lí luận về hàng hóa sức lao động của C.Mác vẫn còn những giới hạn nhất định, chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cụ thể là:

  Về  giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động còn thấp hạn chế phần nào sự cạnh tranh của nước ta trên thị trường thế giới, giá trị hàng hóa sức lao động còn bất cập, chưa bao quát hết những yếu tố đáp ứng yêu cầu tái sản xuất mở rộng sức lao động cho một bộ phận lớn những người làm công ăn lương, hệ thống thông tin lao động việc làm chưa được quản lí chặt chẽ, hệ thống giáo dục – đào tạo chưa đủ khả năng cung ứng nguồn lao động chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.

  Theo quan điểm của C.Mác cần phải chăm lo cho công nhân và người thân của họ, về việc này thì nước ta cũng đã làm được: đời sống công nhân ngày càng được nâng lên nhất là về đời sống tinh thần công nhân được Công Đoàn tổ chức các hoạt động giao lưu văn nghệ, trao đổi kinh nghiệm lao động, khuyến khích, khen thưởng các công nhân có thành tích tốt trong lao động, có nhiều sáng kiến trong việc sản xuất…Đời sống của người thân công nhân cũng được chú trọng hơn. Trong các khu công nghiệp, đã xây dựng các trường học cho con em các công nhân như các trường mầm non, nhà giữ trẻ, khu vui chơi dành cho thiếu nhi…Đời sống của công nhân và người thân của họ được đáp ứng đầy đủ hơn về các dịch vụ khác. Việc làm này giúp cho công nhân có thể yên tâm làm việc, cống hiến hết mình cho công việc.

   Nhà nước ta cũng nhận thức rõ tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực, trình độ cho người công nhân. Ngày càng có nhiều trường đào tạo nghề được thành lập nhằn phục vụ cho việc học nghề của nhân dân và nâng cao tay nghề của công nhân. Các nhà máy, xí nghiệp cũng tạo điều kiện cho công nhân nâng cao trình độ của mình như cử một số công nhân đi học tiếp thu khoa học kĩ thuật tiên tiến, tổ chức các lớp tập huấn cho công nhân, nhằm nâng cao tay nghề từ đó tăng năng suất lao động.

  Tuy nhiên, thị trường lao động nước ta vẫn còn nhiều điểm hạn chế. Lực lượng công nhân Việt Nam dù là dồi dào nhưng tay nghề chưa cao lao động chủ yếu bằng cơ bắp, ít lao động trí óc. Mặc dù các trung tâm, các trường đào tạo nghề được thành lập nhiều nhưng có một số cơ sở vẫn hoạt động không có hiệu quả công nhân học xong không thể làm việc có hiệu quả, hơn nữa chi phí học tập còn cao nên không phải ai cũng có điều kiện để có thể theo học được. Công nhân và gia đình họ cũng còn gặp khó khăn trong việc thỏa mãn các nhu cầu cá nhân chính đáng của mình như khó tiếp cận với các dịch vụ, việc đăng kí học cho con cái. Bên cạnh đó, mức tiền công, tiền lương người công nhân được trả chưa phù hợp với mức lao động của họ. Ngoài ra, lao động nước ta tập trung chủ yếu chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, tác phong công nghiệp thấp.

  • Nguyên nhân của những hạn chế :

     Nguyên nhân của những hạn chế trên là do nền kinh tế nước ta còn lạc hậu nên công nhân cũng hạn chế về tay nghề, có xuất thân từ nông dân nên tính kỉ luật chưa cao, manh mún, nhỏ lẻ. Các cơ sở đào tạo nghề hoat động chưa có hiệu quả và chi phí học nghề còn cao. Chúng ta chưa vận dụng được các phương tiện thông tin đại chúng để giới thiệu việc làm, trở thành trung gian giữa người sử dụng lao động và người lao động, là nơi phản ánh những hạn chế và ưu điểm của thị trường hàng hóa sức lao động. Những quy định của nhà nước về thi trường lao động vẫn còn những hạn chế nhất định. Việc chi trả tiền lương còn thiếu sự công bằng, bình đẳng giữa các công nhân. Nhiều cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp chưa đủ điều kiện để xây dựng các khu vui chơi, giải trí cho công nhân và người thân của họ do thiếu vốn đầu tư.

  • Giải pháp khắc phục hạn chế :

    Để khắc phục tình trạng trên và đưa thị trường lao động Việt Nam phát triển ổn định thì cần phải thực hiện một số biện pháp, đó là :

  Vận dụng lí luận hàng hóa sức lao động phù hợp với quá trình hội nhập và xu hướng phát triển của nền kinh tế tri thức và việc vận dụng đó phải gắn liền với việc hình thành đội ngũ lao động có trình độ cơ cấu hợp lí, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao về mọi trình độ tay nghề về mọi mặt cho người lao động, tạo cho họ tính tự giác, sáng tạo trong lao động. Đồng thời tổ chức tốt việc đào tạo, bồi dưỡng đó với nhiều hình thức khác nhau.

  Cần giáo dục cho mọi người thái độ yêu quý, tự giác, kỉ luật lao động, loại bỏ thói lười biếng ỷ lại và khuyến khích mọi người chủ động tìm tòi việc làm cho mình. Cần chú trọng đến công tác chăm lo các nhu cầu về vật chất và tinh thần cho người lao động, chú trọng đến chính sách tiền lương và các hoạt động của các tổ chức đoàn thể. Thúc đẩy giao dịch trên thị trường lao động bằng việc phát triển hệ thống thông tin, giớ thiệu việc làm, tăng cường, củng cố nâng cao quản lí nhà nước trong hoạt động xuất khẩu lao động. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và bộ máy quản lí có hiệu quả hơn, thay đổi cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế, cụ thể, giảm tỉ trọng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

_Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, vì:

+Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra tại kì họp thứ nhất của mỗi khoá Hội đồng nhân dân dưới hình thức bỏ phiếu kín.Kết quả bầu cử các thành viên của uỷ ban nhân dân được sự phê chuẩn của chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp. Đối với kết quả bầu cử các thành viên của uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn.

+Uỷ ban nhân dân là cơ quan chịu trách nhiệm chủ yếu trong việc triển khai, tổ chức thực hiện các nghị quyết của HĐND, biến những quy định trong các nghị quyết đó thành hiện thực.

+Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và trước cơ quan hành chính nhà nước cấp trên trực tiếp.

_Uỷ ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương:

+Quản lí hành chính nhà nước là hoạt động chủ yếu, quan trọng nhất, được coi là chức năng của Uỷ ban nhân dân.

+Hoạt động quản lí của uỷ ban nhân dân mang tính toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội về chính trị, kinh tế, văn hoá- xã hội…đối với mọi đối tượng.

+Hoạt động quản lí của uỷ ban nhân dân mang tính thống nhất; chỉ giới hạn trong phạm vi địa phương đó.

          Chức năng của uỷ ban nhân dân: Quản lí nhà nước, vì quản lí nhà nước là hoạt động chủ yếu, bao trùm lên toàn bộ hoạt động của uỷ ban nhân dân.

          Trật tự hình thành cuả uỷ ban nhân dân: Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra tại kì họp thứ nhất của mỗi khoá Hội đồng nhân dân dưới hình thức bỏ phiếu kín.Kết quả bầu cử các thành viên của uỷ ban nhân dân được sự phê chuẩn của chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp. Đối với kết quả bầu cử các thành viên của uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Mức độ xác định, tình trạng năng lực hành vi dân sự của cá nhân

  1. Năng lực hành vi dân sự đầy đủ

Điều 18 BLDS 2005 quy định: “ Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên”. Điều 19 quy định : “ Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại Điều 22 và Điều 23 của Bộ luật này”. Theo như phân tích ở mục 3 phần I cũng như quy định tại Điều 18 BLDS, người thành niên là người có độ tuổi từ đủ 18 tuổi. Từ đủ 18 tuổi tâm sinh lí cũng như thể chất của con người đã phát triển và hoàn thiện về mọi mặt, có thể tự mình tham gia vào các giao dịch và tự mình chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Đây là trường hợp duy nhất có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.

Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, theo quy định tại Điều 19 BLDS là người đã thành niên nhưng không thuộc vào các trường hợp mất năng lực hành vi dân sự được quy định tại Điều 22 BLDS hoặc trường hợp hạn chế năng lực hành vi dân sự được quy định tại Điều 23 BLDS. Như vậy, người thành niên không mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có đủ năng lực tham gia và tự chịu trách nhiệm về hành vi cũng như tự mình xác lập, thực hiện tất cả các quyền và nghĩa vụ dân sự của mình một cách độc lập.

Ví dụ như: A mười tám tuổi, không thuộc vào trường hợp bị mất năng lực hành vi dân sự theo quy định tại Điều 22 BLDS, cũng như hạn chế năng lực hành vi dân sự quy định tại Điều 23 BLDS. A được nhận một chiếc xe máy do B tặng cho trị giá 30 triệu đồng. A có thể bán, cho thuê hoặc thực hiện các giao dịch khác theo ý chí của mình không trái với các quy định của pháp luật đối với chiếc xe máy mà không cần phải có sự tham gia của bố mẹ mình.

  1. Năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ

Như phân tích ở trên, thì người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ phải từ đủ 18 tuổi trở lên, thế nhưng, trong một số giao dịch cũng như để đảm bảo cho mỗi cá nhân thực hiện những quyền cơ bản của mình, Bộ luật Dân sự đã ghi nhận năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên từ đủ 6 đến dưới 18 tuổi. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi là năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ. Ở lứa tuổi này, con người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tâm sinh lí, chưa có khả năng nhận thức đầy đủ tính nguy hiểm, tính cần thiết cho xã hội của hành vi do mình thực hiện. Vì vậy họ chỉ có thể bằng hành vi của mình tham gia vào các giao dịch để đáp ứng nhu cầu hằng ngày của mình và phù hợp với lứa tuổi. Điều 20 BLDS quy định như sau:

1. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện thoe pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác.

2.Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có tài sản riêng đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không cần có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”

Từ quy định tại Điều 20 BLDS thì NLHVDS của người chưa thành niên được phân chia ở các mức độ:

+ NLHVDS của người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi.

+ NLHVDS của người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi.

+ NLHVDS của người chưa thành niên dưới 6 tuổi.

Từ quy định trên, nhận thấy những cá nhân từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi có sự phát triển bình thường của tâm sinh lí là cá nhân có NLHVDS chưa đầy đủ. Cá nhân ở độ tuổi này là đã bắt đầu có sự nhận thức về hành vi của mình nhưng chưa đủ làm chủ và kiểm soát mọi hành vi của mình. Họ chỉ có thể nhận thức và điều khiển những hành vi trong quan hệ xã hội thông thường, nhưng lại không nhận thức và hiểu được hậu quả pháp lí do hành vi đó tạo ra. Vì vậy, trong quan hệ pháp luật dân sự, chỉ thừa nhận họ có tư cách chủ thể khi xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự phù hợp với nhận thức và lứa tuổi hoặc những trường hợp khác do pháp luật quy định người này có thể tự mình xác lập thực hiện bằng hành vi của mình. Ví dụ như các giao dịch liên quan đến sách vở, mua quà tặng sinh nhật… mà giá trị của những thứ đó không lớn.

Đối với người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi mà có tài sản riêng đủ để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thì họ có thể tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch không cần sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Ở độ tuổi từ đủ 15 đến dưới 18 là độ tuổi mà cá nhân đã hoàn thành chương trình trung học cơ sở, đã tích lũy được những kiến thức nhất định về kĩ năng sống, về mặt thể chất thì những người này đã có đủ sức khỏe để có thể tham gia vào những công việc phù hợp và trở thành chủ thể của một số quan hệ pháp luật. Vì thế, pháp luật quy định cho những người này có quyền tham gia vào các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của mình. Ví dụ như: H mười sáu tuổi được thừa kế 100 triệu đồng từ ông nội mình. H sử dụng một phần tiền đó để mua điện thoại di động trị giá 15 triệu đồng mà không cần sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật là bố mẹ H nhưng giao dịch này vẫn có hiệu lực.

  1. Không có năng lực hành vi dân sự

BLDS năm 2005 quy định về người không có NLHVDS tại Điều 21 như sau: “Người chưa đủ sáu tuổi không có năng lực hành vi dân sự. Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện”.

Quy định trên xác định mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân chưa đủ 6 tuổi. Theo đó, với người chưa đủ 6 tuổi thì không có năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Tức là, cá nhân có độ tuổi chưa đủ 6 tuổi thì không thể tự mình xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự bằng hành vi của chính mình. Tuy nhiên, cần hiểu rằng họ không có năng lực hành vi dân sự, còn họ vẫn hoàn toàn có năng lực pháp luật dân sự. Nghĩa là họ vẫn hoàn toàn có các quyền và nghĩa vụ dân sự được quy định trong nội dung năng lực cá nhân. Do đó, đối với các giao dịch dân sự của người dưới 6 tuổi không có năng lực hành vi dân sự thì cần phải được xác lập thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của cá nhân đó. Ví dụ như: A năm tuổi, dùng tiền lì xì của mình đi mua sách. Nhưng khi mua sách, thì bố mẹ của A là người thay A xác lập thực hiện giao dịch này, tức là thay A trả tiền cho cửa hàng bán cuốn sách đó, vì A không có năng lực hành vi dân sự để tham gia vào các quan hệ pháp luật theo quy định tại Điều 21 BLDS.

  1. Mất năng lực hành vi dân sự

Mất NLHVDS là một người nào đó đã có NLHVDS nhưng vì một lí do nào đó mà NLHVDS của người đó không còn nữa. Người bị mất NLHVDS là người không thể bằng nhận thức của mình làm chủ, kiểm soát hành vi của mình. Rơi vào tình trạng này bao gồm những người không có khả năng nhận thức khi chưa thành niên và những người thành niên đã có NLHVDS nhưng bị Tòa án tuyên bố là mất NLHVDS được quy định tại Điều 22 BLDS như sau :

1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định.

Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.

2. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.”

Cũng như người không có NLHVDS, người bị mất NLHVDS cũng không có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình. Theo quy định trên, cá nhân được xác định là mất NLHVDS khi có các yếu tố : người đó mắc bệnh liên quan đến tâm thần (bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ hành vi của mình); có yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan; có kết luận của của tổ chức giám định về tình trạng bệnh của cá nhân; và có quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án (Tòa án ra quyết định tuyên bố cá nhân mất NLHVDS trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định về tình trạng bệnh của cá nhân đó). Khi cá nhân bị tuyên bố mất NLHVDS thì hậu quả pháp lí cũng giống như người không có NLHVDS, họ không thể tự mình xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự trong các quan hệ pháp luật dân sự. Mất NLHVDS không phải là một mức độ NLHVDS mà là một tình trạng của NLHVDS của cá nhân trong một khoảng thờ gian nhất định, khi cá nhân bị mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm ảnh hưởng đến khả năng nhận thức và làm chủ hành vi. Do đó, những người rơi vào tình trạng này không thể tự mình xác lập, thực hiện bất kỳ GDDS nào. Mọi GDDS liên quan đến nhu cầu của họ đều phải do người đại diện theo pháp luật của họ thực hiện. Ví dụ như: A năm nay 19 tuổi bị mắc bệnh tâm thần. Bệnh tâm thần khiến A mất đi khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, bố mẹ A yêu cầu Tòa án tuyên bố A mất NLHVDS, sau khi có giám định của tổ chức giám định, Tòa án tuyên bố A mất NLHVDS. Mọi giao dịch liên quan đến nhu cầu của A như ăn uống, chữa bệnh,.. đều do bố mẹ A thực hiện.

  1. Hạn chế năng lực hành vi dân sự

Trước hết, cần phân định sự khác biệt giữa hai cụm từ “NLHVDS hạn chế” và “ NLHVDS bị hạn chế”. Cụm từ “NLHVDS hạn chế” dùng để chỉ những người đã có NLHVDS nhưng chưa đầy đủ đối với trường hợp người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi có sự phát triển bình thường về nhận thức. Còn “NLHVDS bị hạn chế” dùng để chỉ những người đã thành niên đã có NLHVDS đầy đủ nhưng vì một lí do nào đó bị Tòa án ra quyết định tuyên bố là người có NLHVDS bị hạn chế. Các trường hợp NLHVDS bị hạn chế và các quy định khác về người có NLHVDS bị hạn chế được quy định tại Điều 23 của BLDS như sau:

1. Người nghiện ma tuý, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, Toà án có thể ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

2. Người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện do Toà án quyết định. Giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.

3. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự”.

Theo quy định trên, thì người có NLHVDS bị hạn chế phải là người nghiện ma túy, hoặc nghiện các chất kích thích khác ảnh hưởng tới khả năng nhận thức và khả năng làm chủ hành vi của mình. Nhưng việc nghiện ma túy hay các chất kích thích đó phải dẫn tới hậu quả về tài sản là phá tán tài sản gia đình. Do đó, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho những người có liên quan, thì Tòa án ra quyết định có hiệu lực tuyên bố người đó bị hạn chế NLHVDS theo yêu cầu của những người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan.

Kể từ thời điểm Tòa án ra quyết định tuyên bố cá nhân bị hạn chế NLHVDS có hiệu lực cho đến có quyết định hủy bỏ tuyên bố đó theo quy định tại khoản 3 Điều 23 BLDS thì cá nhân được xác định là hạn chế NLHVDS sẽ có người đại diện theo pháp luật, và cá nhân đó không thể tự mình xác lập, thực hiện các GDDS, ngoại trừ các giao dịch nhỏ nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt của bản thân. Khi muốn tham gia vào các giao dịch khác, thì người bị hạn chế NLHVDS phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật của mình. Quy định này có ý nghĩa quan trọng về mặt xã hội, đảm bảo trật tự xã hội được duy trì, giúp những người thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 23 BLDS có trách nhiệm với gia đình, xã hội hơn.

Ví dụ như: K hai mươi tuổi, do bạn bè rủ rê, K đã nghiện ma túy. Để có tiền mua thuốc, K đã bán đồ đạc trong nhà trong đó có chiếc xe máy của mình do bố mẹ mua cho để thỏa mãn cơn nghiện. Theo yêu cầu của bố mẹ K, Tòa án ra quyết định tuyên bố K bị hạn chế NLHVDS. Do đó, theo quy định tại Điều 23 BLDS thì K không thể tự mình xác lập, thực hiện các GDDS, mà phải thông qua sự đồng ý của bố mẹ, trừ những giao dịch phục vụ nhu cầu của bạn thân như ăn uống, học tập….

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quy định về Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ

  1. Quy định về Thủ tướng Chính phủ

Hiến pháp năm 2013 đã kế thừa quy định Hiến pháp năm 1992, đồng thời khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò, trách nhiệm của Thủ tướng với tư cách là người đứng đầu Chính phủ, đồng thời là một thiết chế độc lập có quyền hạn và nhiệm vụ riêng và đứng đầu hệ thống hành chính nhà nước.Cụ thể:

* Vị trí pháp lý, vai trò được xác định rõ:

Lần đầu tiên Hiến pháp khẳng định: “Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ…”(Khoản 2 Điều 95 ). Hiến pháp đã bổ sung quy định: “Phó Thủ tướng,… chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về nhiệm vụ được phân công.” (Khoản 3 Điều 95); “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ” (Khoản 4 Điều 95); “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Thủ tướng Chính phủ” … (Khoản 2 Điều 99)

* Nhiệm vụ, quyền hạn tăng cường hơn

Hiến pháp sắp xếp, cơ cấu lại nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ một cách khoa học và hợp lý hơn, bảo đảm tương thích với nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ.

Hiến pháp đã phân biệt và quy định rõ 2 loại nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng: nhiệm vụ, quyền hạn với tư cách là người đứng đầu Chính phủ và nhiệm vụ, quyền hạn với tư cách là một thiết chế độc lập tương đối.

Điều này được thể hiện rõ nét khi chúng ta so sánh một số nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ trong hai bản Hiến pháp.Cụ thể:

– Hiến pháp đã làm rõ hơn thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ trong việc lãnh đạo, điều hành Chính phủ và hệ thống hành chính Nhà nước. Khoản 1 Điều114 Hiến pháp năm 1992: “ Lãnh đạo công tác của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp; chủ toạ các phiên họp của Chính phủ;”
Quy định trên được sửa đổi, bổ sung lại tại Điều 98 Hiến pháp năm 2013:
“1. Lãnh đạo công tác của Chính phủ; lãnh đạo việc xây dựng chính sách và tổ chức thi hành pháp luật;

2.Lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành chính quốc gia;”

– Hiến pháp đã bổ sung thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ trong việc “quyết định và chỉ đạo việc đàm phán, chỉ đạo việc ký, gia nhập điều ước quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;” (khoản 5 Điều 98).
– Hiến pháp quy định đầy đủ hơn nhiệm vụ báo cáo công tác của Thủ tướng Chính phủ.

Theo Khoản 6 Điều 114 Hiến pháp năm 1992, Thủ tướng Chính phủ phải“Thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng mà Chính phủ phải giải quyết”.

Khoản 6 Điều 98 Hiến pháp năm 2013 sửa lại là: “Thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền giải quyết của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ”.
* Chế độ chịu trách nhiệm rõ hơn, toàn diện hơn

Điều 110 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước ”.

Quy định trên được sửa lại tại khoản 2 Điều 95 Hiến pháp năm 2013 là: “Thủ tướng Chính phủ…, chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao; báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước” .

Với các sửa đổi, bổ sung đã được đề cập, vị thế, vai trò, trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ đã được nâng cao hơn, rõ ràng hơn, thể hiện đúng vai trò là “nhạc trưởng” trong điều hành vĩ mô đối với toàn bộ hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành chính Nhà nước từ Trung ương tới địa phương, Qua đó năng lực của cá nhân Thủ tướng Chính phủ được thể hiện một cách rõ ràng, không bị khuất bởi hai chữ “tập thể”.

  1. Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ

Các quy định của Hiến pháp năm 2013 đề cao, nhấn mạnh hơn trách nhiệm cá nhân của Bộ trưởng trên các mặt công tác: trách nhiệm trước Quốc hội (được Quốc hội phê chuẩn), trách nhiệm trước Chính phủ với tư cách là thành viên của tập thể, trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ với tư cách là người được Thủ tướng Chính phủ tín nhiệm, lựa chọn và đề nghị Quốc hội phê chuẩn, trách nhiệm trước Bộ ngành với tư cách là người đứng đầu ngành, lĩnh vực, trách nhiệm chính trị trước nhân dân(với tư cách là chủ thể được nhân dân ủy quyền).Cụ thể:

* Về vị trí, vai trò:

Hiến pháp hiện hành quy định “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên Chính phủ và là người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ, lãnh đạo công tác của bộ, cơ quan ngang bộ; chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân công” (Khoản 1 Điều 99 Hiến pháp năm 2013).Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến của nước ta, Hiến pháp khẳng định rõ vị trí, vai trò của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

* Về nhiệm vụ, quyền hạn:

Hiến pháp đã bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cụ thể:

-“…; tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc” (Khoản 1 Điều 99 Hiến pháp năm 2013);
-“…, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật” (Điều 100 Hiến pháp năm 2013).

* Về chế độ chịu trách nhiệm:

– Điều 116 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về lĩnh vực, ngành mình phụ trách trong phạm vi cả nước, bảo đảm quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các cơ sở theo quy định của pháp luật”.

Quy định trên được sửa đổi, bổ sung tại Điều 99 Hiến pháp năm 2013:
“1. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên Chính phủ và là người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ, lãnh đạo công tác của bộ, cơ quan ngang bộ; chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân công; tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc.

2.Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ báo cáo công tác trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý”.

Như vậy, cụm từ “bảo đảm quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các cơ sở theo quy định của pháp luật” đã không còn được quy định trong Hiến pháp. Điều này có nghĩa là Chính phủ, các Bộ và cơ quan ngang bộ chỉ tập trung vào quản lý nhà nước vĩ mô và sử dụng các công cụ điều tiết vĩ mô toàn xã hội, tách bạch rõ ràng giữa hoạt động quản lý nhà nước đối với ngành, lãnh thổ và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, xóa bỏ cơ chế Bộ chủ quản.
– Theo Điều 117 Hiến pháp năm 1992: “Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc hội về lĩnh vực, ngành mình phụ trách”.

Khoản 4 Điều 95 Hiến pháp năm 2013 sửa lại là: “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách, cùng các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ”.
Có thể thấy, Hiến pháp hiện hành đã bổ sung trách nhiệm cá nhân của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ trước Chính phủ với tư cách là một thiết chế có trách nhiệm quản lý Nhà nước đối với ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả nước; và trách nhiệm tập thể với tư cách là thành viên Chính phủ về hoạt động của Chính phủ. Mặt khác, Hiến pháp làm rõ hơn mối quan hệ giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ.

– Hiến pháp đã bổ sung quy định về trách nhiệm giải trình (khoản 2 Điều 99 Hiến pháp 2013: “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ báo cáo công tác trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý”.

Như vậy, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ còn phải chịu trách nhiệm giải trình trước Nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Vai trò của quyết định hành chính trong quản lí hành chính nhà nước

Để thực hiện quản lý hành chính nhà nước, các cơ quan, tổ chức nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó đều phải ban hành quyết định hành chính nhà nước và thực hiện các quyết định đó. chính vì thế, mà việc ban hành và thực hiện các quyết định hành chính trong việc quản lí hành chính nhà nước của các cơ quan, chủ thể quản lí hành chính nhà nước có vai trò rất quan trọng. Có thể nói, trong hoạt động quản lí hành chính nhà nước, không thể thiếu quyết định hành chính.

1. Vai trò của quyết định hành chính trong việc bảo đảm sự chấp hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước

Quản lí hành chính nhà nước là loại hoạt động được thực hiện chủ yếu bởi cơ quan hành chính nhà nước. Các cơ quan hành chính, sử dụng quyền lực nhà nước để đảm bảo quản lí tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Vai trò quản lí của cơ quan nhà nước là thể chế hóa các quy định của pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước ban hành ra, đưa nó vào thực tiễn đời sống. Để làm được việc đó, thì cơ quan quản lí hành chính nhà nước phải thực hiện thông qua các biện pháp, hoạt động quản lí khác nhau, trong đó, việc ban hành quyết định hành chính đóng vai trò hết sức quan trọng.

Như đã nói ở trên, quyết định hành chính là một dạng của quyết định pháp luật nên nó có tính quyền lực và tính pháp lí. Nó là kết quả của sự thể hiện ý chí nhà nước, thể hiện tính mệnh lệnh cao, có tính chất bắt buộc thi hành đối với các đối tượng có liên quan, nếu cần thiết có thể sử dụng biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. Quyết định hành chính có tính dưới luật. Xuất phát từ vị trí là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước (chấp hành các quy định của Hiến pháp và luật), nên các quyết định hành chính do các chủ thể có thẩm quyền trong hệ thống hành chính nhà nước ban hành là những văn bản dưới luật nhằm thi hành luật. Vì thế, nên quyết định hành chính phải phù hợp với luật về nội dung cũng như mục đích. Các quyết định hành chính không được trái với quyết định của Quốc hội cũng như quyết định của Hội đồng nhân dân và quyết định của cơ quan hành chính cấp trên. Hơn nữa, quyết định hành chính đảm bảo về tính hợp lí, nó xuất phát từ yêu cầu khách quan của việc thực hiện nhiệm vụ quản lí hành chính nhà nước, tuyệt đối không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của chủ thể ra quyết định. Chính vì thế, quyết định hành chính góp phần vào việc bảo đảm sự chấp hành luật, pháp luật, nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước.

Ví dụ : Nghị định của Chính phủ được ban hành để quy định chi tiết thi hành luật, Nghị quyết của Quốc hội; Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước như : Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 5 năm 2014 về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai; Nghị định số 104/2003/NĐ-CP của Chính phủ : Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Dân số;……

2. Vai trò của quyết định hành chính trong việc thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nước

Hoạt động quản lí hành chính nhà nước được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nó có vai trò to lớn trong việc quản lí xã hội, đảm bảo trật tự xã hội được phát triển theo hướng tiến bộ và phù hợp với ý chí của nhà nước.Quản lí hành chính nhà nước nhằm chỉ đạo một cách trực tiếp và thường xuyên công cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa – xã hội và hành chính – chính trị. Chính vì thế, quyết định hành chính sẽ là những văn bản được ban hành để quy định những vấn đề đó và buộc các chủ thể có liên quan phải thực hiện dưới sự đảm bảo của các biện pháp cưỡng chế hành chính. Quyết định hành chính xuất hiện tác động đến cơ chế điều chỉnh pháp luật, đưa ra những chủ trương, biện pháp về các lĩnh vực trong đời sống xã hội.

Nghị định của Chính phủ quy định các biện pháp cụ thể để thực hiện chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, quyền, nghĩa vụ của công dân và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền quản lí, điều hành của Chính phủ. Quyết định hành chính đặt ra các quy tắc xử sự hoặc áp dụng các quy tắc đó để giải quyết một công việc trong đời sống xã hội, xác định các quyền và nghĩa vụ cho các đối tượng liên quan, tạo ra một khuôn khổ pháp lí, trong đó các chủ thể hành chính sẽ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Vậy, từ những phân tích ở trên, ta có thể thấy vai trò to lớn của quyết định hành chính trong quản lí hành chính nhà nước. Nó góp phần hoàn thiện công việc thực hiện chức năng của quản lí hành chính nhà nước. Đồng thời, đưa ra các chủ trương, biện pháp quản lí các vấn đề xã hội trong quản lí hành chính nhà nước. Qua đó, hoạt động quản lí hành chính nhà nước sẽ được hoàn thiện, hiệu quả và phát huy đúng vai trò của mình.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

  1. Khái niệm năng lực hành vi dân sự

Trước hết, cần hiểu năng lực hành vi là khả năng của các cá nhân hay tổ chức do pháp luật quy định, bằng các hành vi của chính mình thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý và tự chịu trách nhiệm về những hành vi ấy. Năng lực hành vi dân sự là một bộ phận cấu thành của năng lực chủ thể của cá nhân trong quan hệ pháp luật dân sự . Như vậy, năng lực hành vi dân sự là khả năng của chủ thể do pháp luật quy định, bằng hành vi và theo ý chí của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Năng lực hành vi dân sự của chủ thể bao gồm khả năng bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền dân sự và thực hiện nghĩa vụ dân sự cụ thể; khả năng tự chịu trách nhiệm bằng tài sản về hành vi của mình, bao gồm cả hành vi hợp pháp và hành vi bất hợp pháp.

  1. Khái niệm năng lực hành vi dân sự của cá nhân

Để tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự, mỗi cá nhân đều phải có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi cần thiết cho quan hệ đó. Pháp luật dân sự quy định, ngay từ khi một cá nhân được sinh ra thì họ đã có khả năng có các quyền và nghĩa vụ dân sự.

Các quyền và nghĩa vụ này của mỗi cá nhân là như nhau và chỉ chấm dứt khi người đó chết. Đây chính là năng lực pháp luật dân sự của cá nhân. Trong khi đó, năng lực hành vi dân sự là khả năng cá nhân bằng hành vi của mình để tự mình xác lập các quan hệ dân sự và thực hiện các quyền, nghĩa vụ trong quan hệ đó lại được quy định tương đối phức tạp hơn, tùy vào từng trường hợp nhất định mà năng lực hành vi dân sự của mỗi cá nhân không giống nhau. BLDS năm 2005 đưa ra khái niệm năng lực hành vi thông qua qui định: “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.”[1]. Với qui định này ta có thể nhận thấy năng lực pháp luật chính là tiền đề, điều kiện để cá nhân có năng lực hành vi, còn năng lực hành vi dân sự thực chất là năng lực về ý chí, năng lực phán đoán, năng lực hành động và năng lực chịu trách nhiệm về các hành vi pháp lý của mình.

“Xét trên hai phương diện ngôn ngữ tâm, sinh lí thì năng lực hành vi lại được hiểu theo hai cách như sau: Về ngôn ngữ thì “năng lực” là điều kiện chủ quan và tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó, “hành vi” là cách xử sự, biểu hiện ra bên ngoài của một người trong một hoàn cảnh cụ thể. ở phương diện này, năng lực hành vi dân sự là khả năng nhận thể hiện xử sự và kiểm soát, làm chủ các xử sự đó của cá nhân. Về tâm, sinh lí thì năng lực hành vi dân sự cá nhân có hai yếu tố là lý trí và mong muốn chủ quan. Trong đó, lý trí là khả năng nhận thức bằng suy luận, biểu hiện khả năng làm chủ các xử sự của mình, mong muốn chủ quan là sự theo đuổi một mục đích nhất định mà bản thân muốn hướng tới và thiên về cảm giá, tình cảm của cá nhân. Ở đây, năng lực hành vi dân sự cá nhân là sự hòa hợp giữa lý trí và mong muốn chủ quan của cá nhân khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự.”[2]

Xuất phát từ quan niệm chung như vậy nên BLDS Việt Nam cũng như BLDS các nước đều qui định về chế độ năng lực hành vi dựa trên cơ sở năng lực phán đoán và được xem xét dưới hai khía cạnh: năng lực xác lập giao dịch và năng lực gánh chịu trách nhiệm về hành vi của mình.

Trên cơ sở đó, BLDS Việt Nam chia năng lực hành vi dân sự của cá nhân thành các mức:

  • Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
  • Người có năng lực hành vi dân sự không đầy đủ
  • Người không có năng lực hành vi dân sự
  • Người bị mất năng lực hành vi dân sự
  • Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự

Bên cạnh đó, NLHVDS của cá nhân có những đặc điểm:

Năng lực hành vi dân sự của cá nhân do nhà nước quy định dựa trên sự phát triển về độ tuổi, khả năng nhận và làm chủ hành vi của cá nhân. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân do nhà nước quy định dựa trên sự phát triển về độ tuổi, khả năng nhận và làm chủ hành vi của cá nhân. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân chỉ có khi cá nhân đạt một độ tuổi nhất định và có thể bị mất hoặc bị hạn chế khi cá nhân còn sống. Ngoài việc căn cứ vào độ tuổi phát triển về thể chất, sự phát triển về tinh thần cũng được pháp luật chú trọng khi quy định về mức độ của năng lực hành vi dân sự. Bởi nếu là khả năng của cá nhân thì cá nhân đó phải có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình.

 Năng lực hành vi dân sự của cá nhân không bình đẳng, cá nhân khác nhau có năng lực hành vi dân sự khác nhau. Pháp luật phân chia năng lực hành vi dân sự của cá nhân thành các mức độ khác nhau căn cứ vào nhiều yếu tố dựa trên sự phát triển tâm sinh lí, khả năng nhận thức vào điều kiện hành vi thể hiện qua độ tuổi.

  1. Người thành niên, chưa thành niên

Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự, việc xác định năng lực hành vi dân sự của cá nhân là rất quan trọng, mà trước tiên, căn cứ để xác định đó là độ tuổi. Dựa vào độ tuổi, các nhà làm luật phân chia thành từng nhóm người khác nhau, cũng là để dựa vào đó, cho thấy họ có năng lực hành vi dân sự mà chưa cần xem xét đến vấn đề nhận thức. Điều 18 BLDS quy định : “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên”. Theo đó, người thành niên là người có độ tuổi từ đủ mười tám tuổi trở lên và người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi. Khái niệm trên, là cơ sở để áp dụng các thuật ngữ “người thành niên” , “ người chưa thành niên” trong các quy định được ghi nhận trong các văn bản khác nhau, điều chỉnh các mối quan hệ pháp luật dân sự. Ví dụ như: Điều 107 – Đại diện của hộ gia đình; Điều 647 – Người lập di chúc; Điều 58 – Giám hộ…..

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Cơ cấu tổ chức Chính phủ

Điều 110 Hiến pháp năm 1992: “Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác. Ngoài Thủ tướng, các thành viên khác của Chính phủ không nhất thiết là đại biểu Quốc hội…”.Quy định trên được sửa lại tại khoản 1 Điều 95 Hiến pháp năm 2013:“ Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quyết định…”
Có thể thấy, Hiến pháp năm 2013 đã bỏ cụm từ “các thành viên khác” của Hiến pháp 1992, bổ sung quy định “cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quy định” để trên cơ sở đó quy định trong luật về cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ. Như vậy, Chính phủ mới có cơ cấu gọn nhẹ, hợp lý và thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ trong thời kỳ mới.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Mối quan hệ giữa chuẩn mực pháp luật và chuẩn mực thẩm mỹ

Chuẩn mực thẩm mỹ và pháp luật có sự tác động qua lại lẫn nhau. Chuẩn mực thẩm mĩ tác động trong hầu hết các lĩnh vực quan hệ xã hội, trong đó có quan hệ pháp luật, điều chỉnh hành vi thẩm mỹ của con người phù hợp với các quan điểm, quan niệm trong xã hội về cái đẹp, cái xấu, cái cao cả… Chuẩn mực thẩm mỹ đòi hỏi các bộ luật, đạo luật được ban hành phải phù hợp với các giá trị, chuẩn mực thẩm mỹ đang phổ biến trong xã hội thì mới dễ dàng được nhân dân tuân thủ và thực hiện. Khi đó bản thân các bộ luật, đạo luật cũng mang giá trị thẩm mỹ, là một “tác phẩm nghệ thuật”. Nhiều quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực thẩm mỹ, do phù hợp và đáp ứng được nhu cầu, lợi ích của nhà nước về tổ chức, quản lí xã hội, đã được nhà nước thừa nhận và vận dụng trong các đạo luật. Các văn bản của nhà nước điều chỉnh các lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, trật tự công cộng, ứng xử nơi công sở, kiến trúc ,… là những minh chứng sống động cho mối liên hệ này. Như vậy, chuẩn mực thẩm mỹ là cơ sở lý luận và thực tiễn để nhà nước xây dựng và ban hành các quy phạm pháp luật điều chỉnh các lĩnh vực xây dựng, quy hoạch đô thị, văn hóa nghệ thuật, quảng cáo, du lịch, bảo tồn di sản văn hóa, thời trang…

Ví dụ như, trong  Quyết định số 47/2004/QĐ-BVHTT ngày 02/7/2004 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin về Quy chế hoạt động biểu diễn và tổ chức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp có quy định về các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động biểu diễn và tổ chức biểu diễn như sau:

Điều 3. Các hành vi bị nghiêm cấm 

1.Biểu diễn và tổ chức biểu diễn chương trình, tiết mục, vở diễn có nội dung: 

1.1. Chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; 

1.2. Kích động bạo lực, chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các dân tộc; 

1.3. Truyền bá tư tưởng phản động, văn hóa đồi trụy, hành vi tàn ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong mỹ tục Việt Nam; 

1.4. Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng; 

1.5. Xúc phạm vĩ nhân, anh hùng dân tộc; 

1.6. Xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự nhân phẩm của cá nhân. 

2. Biểu diễn và tổ chức biểu diễn chương trình, tiết mục, vở diễn chưa được cơ quan có thẩm quyền cấp phép. 

3.Quảng cáo mạo danh đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp; quảng cáo, giới thiệu không đúng chương trình, tiết mục, vở diễn không đúng người, đúng tên diễn viên hoặc thành tích nghệ thuật, danh hiệu nghệ thuật được Nhà nước phong tặng; để người không có trách nhiệm lên sân khấu trong khi diễn viên đang biểu diễn. 

4. Thực hiện trong khi biểu diễn: 

4.1. Tự tiện thay đổi động tác diễn xuất, phong cách biểu diễn nghệ thuật, thêm, bớt lời ca, lời thoại khác với nội dung và hình thức thể hiện đã được cơ quan có thẩm quyền cấp phép công diễn mà gây hậu quả xấu; 

4.2. Lợi dụng giao lưu với khán giả để có những hành vi hoặc phát ngôn không đúng với chương trình, tiết mục, vở diễn đã được duyệt, cấp phép; 

4.3. Dùng các phương tiện kỹ thuật để thay thế giọng hát thật của mình; 

4.4. Đối với loại hình nghệ thuật sân khấu, ca múa nhạc truyền thống, dân gian, xiếc, nghệ thuật cổ điển châu Âu: phục trang, hóa trang trái với thuần phong, mỹ tục, không phù hợp với đặc trưng loại hình nghệ thuật, không đúng với tính cách nhân vật và nội dung thể hiện giai đoạn lịch sử trong tác phẩm nghệ thuật; 

4.5. Đối với loại hình nghệ thuật ca, múa, nhạc hiện đại: hóa trang tạo ra kiểu đầu tóc kinh dị, sơn, nhuộm tóc lòe loẹt, cạo trọc hoặc để tóc quá dài bù xù; trang phục hở hang, lộ liễu. 

5. Quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật: 

5.1. Cấp các loại giấy phép không đúng thẩm quyền; 

5.2. Thanh tra, kiểm tra, xử lý không đúng chức năng, quyền hạn được pháp luật quy định.”

Từ quy định trên, cho thấy Nhà nước ta đã ghi nhận những chuẩn mực thẩm mỹ chung của xã hội về cách ăn mặc, giao tiếp của con người với nhau, từ đó đặt ra những quy định về cách biểu diễn, giao lưu, nội dung cũng như trang phục biểu diễn của chương trình và diễn viên, nghệ sĩ tham gia. Các chuẩn mực thẩm mỹ gắn với người Việt Nam được nhà nước ghi nhận, thừa nhận, bên cạnh đó, các nội dung trên của các chuẩn mực thẩm mỹ phù hợp với ý chí, đáp ứng nhu cầu quản lí xã hội văn minh của nhà nước. Do đó, nó được ghi nhận trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước và có giá trị pháp lý buộc mọi người phải tuân theo, cụ thể ở đây là những nghệ sĩ, diễn viên.

Đối với pháp luật, vấn đề không dừng lại ở chỗ cứ ban hành thật nhiều văn bản luật có chất lượng cao, điều quan trọng hơn là làm thế nào để các văn bản luật đó đi vào thực tiễn cuộc sống, trở thành pháp luật thường trực trong hành vi của mỗi người. Nhìn trên phương diện này, chuẩn mực thẩm mỹ có tác dụng định hướng, điều chỉnh hành vi pháp luật của các cá nhân phù hợp với các quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực thẩm mỹ. Trong nhiều trường hợp, vì những lí do nhất định, các cá nhân không biết đến các quy định của pháp luật, nhưng do các quy tắc pháp luật phù hợp với các chuẩn mực thẩm mỹ, nên các hành vi pháp luật cũng trùng với hành vi thẩm mỹ; các cá nhân thực hiện hành vi pháp luật dựa trên các quan điểm, quan niệm thẩm mỹ của họ.

Ví dụ như trong cách ăn mặc của các nghệ sĩ, ca sĩ, diễn viên, chúng ta có thể không biết đến luật, không biết đến những quy định của nhà nước về vấn đề này, thì khi trông thấy họ ăn mặc hở hang, cũn cỡn hoặc đi quá xa là không phù hợp với phong tục của người Việt Nam. Hoặc bên cạnh đó là những kiểu tóc cắt tóc cắt trụi hay nhuộm màu với những kiểu tóc quá lố của một số nghệ sĩ, thanh niên hiện nay. Họ cho đó là phong cách, kiểu cách cá tình, nhưng dưới con mắt của xã hội thì đó là trái với thuần phong mỹ tục. Dù người dân không biết đến rằng nó được quy định trong luật, nhưng do vi phạm chuẩn mực thẩm mỹ mà họ lên án, chê trách, phê phán, phản đối.

Hay những học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, không biết đến pháp luật điều chỉnh về cách ăn mặc hay không, hoặc là có những quy định như thế nào, nhưng vì nó là chuẩn mực chung và cũng được người bề trên nhắc nhở chỉ bảo, mà các em luôn thực hiện đúng, ăn mặc phù hợp với lứa tuổi của mình, không lố lăng, cũn cỡn, phù hợp với lứa tuổi.

Chuẩn mực thẩm mỹ, cũng như các chuẩn mực xã hội khác, luôn vận động, biến đổi và thay đổi, có những quy tắc thẩm mỹ mất đi và có những chuẩn mực thẩm mỹ mới ra đời, đáp ứng yêu cầu của quan hệ thẩm mỹ trong xã hội. Pháp luật, do đặc trưng về sức mạnh cưỡng chế của nó, góp phần củng cố, bảo vệ các chuẩn mực thẩm mỹ tiến bộ, phù hợp, đồng thời, loại bỏ những quy tắc thẩm mỹ đã lạc hậu và xây dựng nhưng chuẩn mực mới tương ứng với lối sống văn minh, hiện đại.

Thật vậy, so sánh thời kì bây giờ với thời kì trước đây ở Việt Nam, về chuẩn mực thẩm mỹ của người phụ nữ đã có sự thay đổi. Từ vẻ đẹp kín đáo xưa trong áo bà ba, áo dài với những nét đẹp thùy mị làm khuôn mẫu, thì nay nét đẹp của người phụ nữ phóng khoáng hơn, hiện đại, pha với phong cách phương Tây. Từ đó, cách trang điểm, trang phục của diễn viên, nghệ sĩ nữ cũng thay đổi theo. Phim truyền hình xưa chủ yếu là phim nhựa, đen trắng, hoặc có màu, nhưng kĩ thuật chưa cao, người phụ nữ trong phim khi đó rất giản dị, phù hợp với thời kì, và quan điểm về vẻ đẹp khi đó. Đến nay, đã có nhiều thay đổi, theo hướng hiện đại hơn, đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của xã hội, nhưng vẫn giữ được những nét riêng không xóa bỏ hoàn toàn. Điều này được pháp luật ghi nhận lại, và được đảm bảo bằng các biện pháp cưỡng chế. Thực tế, nhiều nữ diễn viên đã bị phạt vì ăn mặc quá hở hang, không phù hợp với chuẩn mực thẩm mỹ Việt Nam, gây phản cảm, nhức nhối trong dư luận như Thu Minh… với những biện pháp xử phạt nghiêm trị. Nhờ đó, mà chuẩn mực về cái đẹp về người phụ nữ Việt Nam vẫn được giữ gìn, hòa nhập cùng những nét hiện đại, hòa nhập tạo nên những chuẩn mực mới nhưng vẫn giữ được lối sống văn minh, hiện đại.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Khái niệm quyết định hành chính

  1. Định nghĩa quyết định hành chính

Thuật ngữ quyết định hành chính có rất nhiều khái niệm, nó xuất hiện không chỉ ở trong khoa học mà còn xuất hiện cả trong những quy định của pháp luật thực định như: Luật khiếu nại, tố cáo; Pháp lệnh thủ tực giải quyết các vụ án hành chính;… Do đó, việc làm rõ khái niệm quyết định hành chính cũng như việc giới hạn nội hàm của khái niệm là điều rất cần thiết cho việc nghiên cứu và thực tiến hoạt động quản lí hành chính Nhà nước. Có quan điểm cho rằng, quyết định hành chính bao gồm cả hành vi vật chất của chủ thể ra quyết định và văn bản thể hiện hành vi đó. Về chủ thể ban hành quyết định, theo học có nhiều chủ thể có những chức năng khác nhau được trao quyền ban hành ra những quyết định này.

Theo từ điển Tiếng việt “quyết định” là: định một cách chắc chắn với ý nhất định phải thực hiện. Theo giáo trình Luật hành chính Khoa Luật trường Đại Học Quốc Gia Hà Nội thì quyết định bắt nguồn từ thuật ngữ La tinh “actus” có nghĩa là hành động, hành vi. Bởi vậy, sách báo tập chí nước ngoài thường gọi quyết định là hành động, một hành động dẫn đến một hậu quả pháp lí được gọi là quyết định pháp luật.

Người ta còn gọi quyết định pháp lý là mệnh lệnh, là sự thể hiện ý chí quyền lực, là văn bản, là kết quả và hình thức thể hiện của hoạt động Nhà nước. Trong sách báo pháp lí nước ta người ta thường đồng nhất khái niệm văn bản và quyết định pháp luật với văn bản. Cách hiểu này chưa thực sự đúng đắn bởi vì thực chất văn bản chỉ là một trong những hình thức thể hiện, hình thức bên ngoài của quyết định pháp luật, ngoai ra nó còn có cả ký hiệu, tín hiệu hoặc hình thức nói. Văn bản thể hiện tính ưu việt hơn so với các hình thức khác bởi nó phản ánh tính khuôn mẫu, có căn cứ chắc chắn tạo nên sự ổn định của hoạt động quản lý hành chính. Có thể do tính ưu việt đó nên nhiều người đã mắc sai lầm khi đồng ý với khẳng định trên. Mục đích của những văn bản này chính là nhằm chuyển tải những nội dung về chủ trương, chính sách lớn, xây dựng quy tắc xử sự hoặc áp dụng pháp luật cho một công việc cụ thể.

Trong khoa học Luật hành chính, khoa học Hành chính Việt Nam, các nhà khoa học sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau “quyết định quản lý nhà nước”, “quyết định quản lý hành chính Nhà nước”, “quyết định hành chính”, “quyết định hành chính Nhà nước” để chỉ những quyết định do các cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác, hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành khi thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước.

 Theo PGS.TS. Nguyễn Cửu Việt, “Quyết định hành chính là kết quả sự thể hiện quyền lực đơn phương của các cơ quan nhà nước và những người có thẩm quyền, các cơ quan của tổ chức xã hội khi được nhà nước trao quyền để thực hiện các nhiệm vụ và chức năng hành chính nhà nước, được thực hiện trên cơ sở và để thi hành luật, theo trình tự và hình thức do luật định, nhằm định ra chủ trương, đường lối, nhiệm vụ lớn có tính chất định hướng; hoặc đặt ra, đình chỉ, sửa đổi, áp dụng, bãi bỏ các quy phạm pháp luật hành chính hay làm thay đổi phạm vi hiệu lực của chúng; hoặc làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính cụ thể”

Tuy nhiên, quan niệm này, thực chất là nói về quyết định hành chính nhà nước nói chung, nhưng chưa khái quát đầy đủ các chủ thể có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính. Vì hoạt động hành chính nhà nước rất đa dạng, không chỉ do cơ quan nhà nước thực hiện, mà còn do cả “bộ máy hành chính” của các đơn vị sự nghiệp công lập, các công ty, tập đoàn kinh tế của Nhà nước thực hiện. Những chủ thể này cũng có quyền ban hành quyết định hành chính mang tính quy phạm, quyết định hành chính cá biệt có tính chất nội bộ, tùy thuộc vào sự ủy quyền của Nhà nước. Thêm vào đó, nếu quan niệm quyết định hành chính cá biệt chỉ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính là chưa thật đầy đủ vì quyết định hành chính cá biệt cụ thể có thể làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt cả các quan hệ pháp luật khác như quan hệ lao động, quan hệ đất đai, quan hệ tài chính, quan hệ tài sản. v.v…

 Người ta còn gọi quyết định pháp lý là mệnh lệnh, là sự thể hiện ý chí quyền lực, là văn bản, là kết quả và hình thức thể hiện của hoạt động Nhà nước. Trong sách báo pháp lí nước ta người ta thường đồng nhất khái niệm văn bản và quyết định pháp luật với văn bản. Cách hiểu này chưa thực sự đúng đắn bởi vì thực chất văn bản chỉ là một trong những hình thức thể hiện, hình thức bên ngoài của quyết định pháp luật, ngoai ra nó còn có cả ký hiệu, tín hiệu hoặc hình thức nói. Văn bản thể hiện tính ưu việt hơn so với các hình thức khác bởi nó phản ánh tính khuôn mẫu, có căn cứ chắc chắn tạo nên sự ổn định của hoạt động quản lý hành chính. Có thể do tính ưu việt đó nên nhiều người đã mắc sai lầm khi đồng ý với khẳng định trên. Mục đích của những văn bản này chính là nhằm chuyển tải những nội dung về chủ trương, chính sách lớn, xây dựng quy tắc xử sự hoặc áp dụng pháp luật cho một công việc cụ thể.

Mặt khác, quyết định hành chính do nhiều chủ thể khác nhau ban hành với những nội dung phong phú và đa dạng tác động đến các lĩnh vực khác nhau của quản lý hành chính. Như cơ quan quyền lực, cơ quan xét xử cơ quan kiểm sát. Tuy nhiên những quyết định đó chỉ nhằm xây dựng ổn định chế độ công tác nội bộ cơ quan và khả năng trực tiếp tác động đến xã hội rất hạn chế. Vì vậy, trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, chủ thể có thẩm quyền ban hành các quyết định hành chính là các chủ thể trong hệ thống các cơ quan hành chính thực hiện quyền lực nhà nước để quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Từ đó ta có định nghĩa như sau: “ Quyết định hành chính là một dạng của quyết định pháp luật nó là kết quả sự thể hiện ý chí quyền lực của Nhà nước thông qua hành vi của các chủ thể được thực hiện quyền hành pháp trong hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nước tiến hành theo một trình tự, dưới những hình thức nhất định theo quy định của pháp luật nhằm đưa ra các chủ trương, biện pháp, đặt ra các quy tắc xử sự hoặc áp dụng các nguyên tắc đó giải quyết một công việc cụ thể trong đời sống xã hội nhằm thực hiện chức năng quản lý hành chính Nhà nước”.

Ví dụ như: Quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Quyết định xử phạt hành chính, Quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính,…. hoặc là Quyết định số 47/2004/QĐ-BVHTT ngày 02/7/2004 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin, Quyết định 48/2006/QĐ-BTC về chế độ kế toán doanh nghiệp vừa và nhỏ,….

  1. Đặc điểm của quyết định hành chính

Quyết định hành chính là một dạng của quyết định pháp luật. Chính vì vậy, quyết định hành chính có những đặc điểm chung của của quyết định pháp luật, đồng thời có đặc điểm riêng của chính nó.

Quyết định pháp luật bao gồm những quyết định của cơ quan lập pháp, cơ quan tư pháp và cơ quan hành pháp. Quyết định hành chính là quyết định của cơ quan hành pháp. Quyết định hành chính là một dạng của quyết định pháp luật thể hiện ở tính quyền lực, tính pháp lý.

Trước tiên là tính quyền lực, việc thực hiện quyền lực nhà nước thường thể hiện dưới hình thức là những quyết định bằng văn bản, trong số những quyết định thành văn đó thì những quyết định do các chủ thể quản lí hành chính ban hành rất nhiều. Tính quyền lực nhà nước trước hết thể hiện ở ngay hình thức của những quyết định, bởi lẽ theo quy định của pháp luật thì chỉ cơ quan nhà nước mới được đơn phương ra quyết định pháp luật xuất phát từ những lợi ích chung (theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì các tổ chức xã hội chỉ được phép kết hợp với cơ quan nhà nước để ra một số quyết định cần thiết).

Tính quyền lực, đơn phương của quyết định hành chính còn thể hiện rõ ở nội dung và mục đích của quyết định. Để thực thi quyền hành pháp trên cơ sở luật và để thi hành luật, quyết định hành chính luôn thể hiện tính mệnh lệnh rất cao, chính vì vậy tính quyền lực nhà nước còn thể hiện ở tính đảm bảo thi hành của quyết định. Về nguyên tắc, mọi quyết định đều phải được thi hành, kể cả những quyết định có sự phản kháng từ phía đối tượng quản lí, có nghĩa là quyết định sẽ được đảm bảo thi hành bằng những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước khi cần thiết.

Thứ hai, quyết định hành chính có tính pháp lí của quyết định. Quyết định hành chính như trên đã trình bày là kết quả của sự thể hiện ý chí Nhà nước. Do vậy, các quyết định do nhà nước ban hành đều có những giá trị về mặt pháp lí. Trước tiên, quyết định hành chính xuất hiện đã tác động ngay đến cơ chế điều chỉnh pháp luật, quyết định hành chính có thể đưa ra những biện pháp hoặc những chủ trương lớn trong lĩnh vực quản lí hành chính. Mặt khác, tính pháp lí của quyết định hành chính còn thể hiện ở việc làm xuất hiện quy phạm pháp luật, thay thế hoặc hủy bỏ quy phạm pháp luật hoặc làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật cụ thể (quyết định áp dụng pháp luật).

Bên cạnh đó, quyết định hành chính nhà nước có những đặc điểm riêng làm cho nó khác với các quyết định pháp luật khác, cụ thể như sau:

Một là, quyết định hành chính nhà nước được ban hành để thực hiện nhiệm vụ, chức năng quản lý hành chính mà nhà nước đã trao cho các cơ quan, tổ chức nhà nước – có nghĩa các cơ quan, tổ chức nhà nước ban hành quyết định hành chính là để thực hiện quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đời sống nhà nước. Đây là tính chất đặc thù của quyết định hành chính nhà nước. Như vậy, quyết định hành chính Nhà nước chỉ có giới hạn trong lĩnh vực quản lý hành chính Nhà nước, lĩnh vực chấp hành và điều hành.

Hai là, các quyết định hành chính mang tính dưới luật, chúng phải phù hợp với Hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, quyết định của cơ quan quyền lực nhà nước ở cùng cấp. Tính dưới luật thể hiện thứ bậc các quyết định hành chính nhà nước. Tính thứ bậc của quyết định hành chính nhà nước tùy thuộc vào địa vị pháp lý của cơ quan ban hành, trong mối quan hệ của nó với các cơ quan, tổ chức khác của nhà nước. Trong một số trường hợp, quyết định hành chính phải phù hợp với quyết định của Tòa án, các hợp đồng đã được ký kết giữa cơ quan ban hành quyết định hành chính với các đối tác. Tính chất này xuất phát từ nguyên tắc pháp chế trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước đã được ghi nhận trong Hiến pháp. Tính chất này đòi hỏi nội dung, hình thức, thủ tục ban hành quyết định hành chính nhà nước phải phù hợp với pháp luật. Đây là tính chất chung của mọi quyết định pháp luật, nhưng là tính chất rất quan trọng của quyết định hành chính nhà nước, thể hiện tính chấp hành của hoạt động hành chính nhà nước.

Ba là, trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, cũng như trong mọi hoạt động nhà nước khác, mỗi cơ quan nhà nước, mỗi chức vụ trong cơ quan nhà nước đều có một lượng nhiệm vụ, quyền hạn, chức năng nhất định tạo nên thẩm quyền của cơ quan, chức vụ, do đó mọi quyết định hành chính nhà nước chỉ được ban hành trong khuôn khổ thẩm quyền của cơ quan, chức vụ đã được pháp luật ấn định.

Bốn là, quyết định hành chính nhà nước được ban hành theo một thủ tục hành chính nhất định, tùy theo nội dung, tính chất, thẩm quyền của các chủ thể ban hành. Do tính đa dạng của hoạt động hành chính nhà nước, nên có rất nhiều thủ tục hành chính khác nhau (thủ tục cấp phép, thủ tục cưỡng chế hành chính, thủ tục đáp ứng các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, thủ tục khiếu nại, giải quyết khiếu nại v.v…). Do đó, một quyết định của chủ thể hành chính chỉ trở thành quyết định hành chính khi nó được ban hành theo một thủ tục hành chính nhất định (sáng kiến ban hành, dự thảo quyết định, lấy ý kiến, thảo luận, thông qua) và các yêu cầu về thể thức quyết định, văn phong trong quyết định (ngày tháng, ban hành, tác giả, số quyết định…).

Năm là, hình thức, cấu trúc của quyết định hành chính chủ yếu do luật hành chính điều chỉnh, gồm phần viện dẫn đưa ra những căn cứ pháp lý của quyết định, các điều khoản, người thực hiện v.v…Một quyết định không thể trở thành quyết định hành chính khi không đáp ứng được các yêu cầu hợp pháp, hợp lý về nội dung, hình thức, thủ tục xây dựng và ban hành.

Sáu là, các quyết định hành chính nhà nước của quyền lực hành chính nhà nước đều dẫn đến một hệ quả pháp lý nhất định. Chúng có thể điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quản lý hành chính nhà nước, làm thay đổi cơ chế điều chỉnh của pháp luật, cơ chế quản lý hành chính nhà nước, hay làm phát sinh quan hệ pháp luật hành chính, quan hệ dân sự, quan hệ hôn nhân, gia đình, quan hệ đất đai và các quan hệ pháp luật cụ thể khác. Điều này phải được tính đến khi xây dựng và ban hành quyết định hành chính nhà nước.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Về vị trí,tính chất, chức năng của chính phủ

Vị trí,tính chất, chức năng của Chính phủ đã được quy định trong Điều 109 Hiến pháp năm 1992 . Theo đó: “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.Hiến pháp năm 1992 mới chỉ đề cập đến Chính phủ với tư cách là cơ quan chấp hành, cơ quan hành chính Nhà nước còn Chính phủ với tư cách là cơ quan thực hiện quyền hành pháp chưa được làm rõ.Hiến pháp năm 2013 kế thừa đồng thời bổ sung để thể hiện một cách toàn diện tính chất, vị trí, chức năng của Chính phủ. Điều 94 Hiến pháp năm 2013: “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”.Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp chính thức khẳng định vị trí, tính chất của Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, nhấn mạnh và đề cao hơn tính chất, vị trí Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng giúp xác định cụ thể, rõ ràng, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, vai trò của Chính phủ trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com