_Uỷ ban thường vụ Quốc hội:

+Gồm Chủ tịch Quốc hội làm Chủ tịch uỷ ban thường vụ Quốc hội, các phó chủ tịch Quốc hội làm các phó chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội và các uỷ viên. Số lượng, cơ cấu thành viên do Quốc hội quyết định. Thành viên của uỷ ban thường vụ Quốc hội không đồng thời làm thành viên Chính phủ, làm việc theo chế độ chuyên trách.

+Uỷ ban thường vụ Quốc hội có các cơ quan chuyên môn gồm Ban công tác đại biểu, ban dân nguyện và viện nghiên cứu lập pháp.

_Hội đồng dân tộc:

+Gồm có Chủ tịch, các phó chủ tịch và uỷ viên hội đồng dân tộc do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội.

+Để nâng cao hoạt động, thành viên của Hội đồng dân tộc có một số thành viên làm việc theo chế độc chuyên trách do Quốc hội quyết định.

_Các ban của Quốc hội:

+Thành lập 2 uỷ ban là uỷ ban thường trực và uỷ ban lâm thời. Việc thành lập, giải thể uỷ ban do Quốc hội quyết định.

+Có 9 uỷ ban thường trực gồm: uỷ ban pháp luật; uỷ ban tư pháp; uỷ ban kinh tế; uỷ ban tài chính, ngân sách; uỷ ban quốc phòng và an ninh; uỷ ban văn hoá, giáo dục, thanh niên, thiếu niên, nhi đồng; uỷ ban về các vấn đề xã hội; uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường; uỷ ban đối ngoại.

+Uỷ ban lâm thời là những uỷ ban do Quốc hội thành lập ra khi xét thấy cần thiết để nghiên cứu thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định, sau khi hoàn thành nhiệm vụ, uỷ ban này sẽ giải thể. Ví dụ như uỷ ban sửa đổi Hiến pháp, uỷ ban thẩm tra tư cách đại biểu Quốc hội…

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Chính sách tiền tệ là chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với sự phát triển của kinh tế, thì những vấn đề như sự lạm phát, thất nghiệp, giá cả mất ổn định cũng gia tăng. Đòi hỏi các nhà quản lí phải đưa ra những giải pháp tối ưu để giải quyết những vấn đề trên. Việc lựa chon chính sách tiền tệ phù hợp sẽ giúp giảm thiểu các vấn đề, đồng thời hạn chế được những rủi ro, bất cập mà mỗi chính sách có thể đem đến. Trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế như hiện nay thì việc nghiên cứu về chính sách tiền tệ cụ thể là các công cụ của chính sách tiền tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao. Dựa trên cơ sở đó em đã chọn tìm hiểu về đề tài số 5: “Nội dung và tác động của chính sách tiền tệ trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô ở Việt Nam hiện nay”.

I.Cơ sở lý thuyết

1.  Khái niệm

        Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô được đề ra và thực hiện bởi ngân hàng trung ương nhằm mục tiêu ổn định giá cả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm trong xã hội. Thực chất chính sách tiền tệ là sự cụ thể hóa những biện pháp nhằm tác động vào mức cung tiền trong nền kinh tế, từ đó ảnh hưởng đến lãi suất trên thị trường.

        Chính sách tiền tệ có hai loại: chính sách tiền tệ mở rộng ( tăng cung tiền, giảm lãi suất để thúc đẩy kinh doanh, giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng – chính sách tiền tệ chống thất nghiệp) và chính sách tiền tệ thắt chặt (giảm cung tiền, tăng lãi suất làm giảm đầu tư vào sản xuất từ đó làm giảm lạm phát  nhưng thất nghiệp tăng – chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng tiền).

2.  Mục tiêu

        – Ổn định giá cả: NHTW thông qua CSTT có thể tách động đến sự tăng hay giảm giá trị đồng tiền của nước mình. Giá trị đồng tiền ổn định được xem xét trên hai mặt: sức mua đối nội cuả đồng tiền (chỉ số giá cả hàng hóa và dịch vụ trong nước) và sức mua đối ngoại (tỉ giá đồng tiền nước mình so với ngoại tệ). Tuy vậy, CSTT hướng tới ổn định giá trị đồng tiền không có nghĩa là tỉ lệ làm phát bằng 0 vì như vậy nền kinh tế không thể phát triển được, để có được một tỉ ệ lạm phát giảm phải chấp nhận một tỉ lệ thất nghiệp tăng lên.

        – Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi chính phủ trong việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp độ tăng trưởng đó ổn định.

        – Tạo công ăn việc làm trong xã hội: CSTT mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỉ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỉ lệ thất nghiệp giảm thì phải chấp nhận một tỉ lệ làm phát tăng lên. Mặt khác, khi tăng trưởng kinh tế đạt được do kết quả của cuộc cải tiến kĩ thuật thì việc làm có thể không tăng mà còn giảm.

3.  Các công cụ của CSTT

        – Nghiệp vụ thị trường mở: là những hoạt động mua bán chứng khoán do NHTW thực hiện trên thị trường mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua đó điều tiết lượng tiền cung ứng.

        – Tỉ lệ dự trữ bắt buộc: số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các ngân hàng phải giữ lại, do NHTW quy định, gửi tại NHTW, không hưởng lãi, không được dùng để đầu tư, cho vay và thông thường được tính theo một tỉ lệ nhất định trên tổng số tiền gưỉ của khác hàng để đảm bảo khả năng thanh toán sự ổn định của hệ thống ngân hàng.

        – Lãi suất chiết khấu: tức mức lãi suất mà ngân hang thương mại phải trả cho các khoản tiền vay từ ngân hàng trung ương để bù đắp thiếu hụt dự trữ. Lãi suất chiết khấu tăng lên sẽ làm cho ngân hang thương mại dự trữ nhiều hơn và do đó số nhân tiền giảm, kết quả là mức cung tiền giảm xuống. trái lại, khi lãi suất chiết khấu thấp sẽ làm giảm tỉ lệ dự trữ thực tế của ngân hàng thương mại và do đó làm cho mức cung tiền tăng.

II. Nội dung của chính sách tiền tệ trong việc thực hiện mục tiêu kinh tế vĩ mô của việt nam hiện nay

  1. Xây dựng hệ thống các mục tiêu của chính sách tiền tệ

        Trong năm 2014, việc điều hành chính sách tiền tệ không chỉ thực hiện được mục tiêu ổn định tiền tệ trên cả 3 góc độ: kiềm chế tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trên thị trường xã hội; ổn định giá trị đối ngoại của đồng Việt Nam (tức tỷ giá); người dân hạn chế việc mua vàng để tìm nơi trú ẩn tài sản; mà còn thúc đẩy tăng trưởng GDP và góp phần giải quyết an sinh xã hội. Bên cạnh đó, còn có sự phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa, hỗ trợ cân đối ngân sách nhà nước trong quá trình điều hành. Việc nhận định chính sách tiền tệ tại Việt Nam phải thực hiện đa mục tiêu cần được nhìn nhận rộng hơn với thực tế rõ ràng là, trong điều hành tỷ giá và quản lý ngoại hối, bao gồm cả quản lý thị trường vàng, chính sách này còn phải thực hiện mục tiêu giảm thâm hụt cán cân thương mại, hạn chế nhập siêu.

2. Sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để đạt được các mục tiêu đề ra

2.1 Nghiệp vụ thị trường mở

        Trong thời gian qua, nghiệp vụ thị trường mở phát triển nhanh, quy mô ngày càng được mở rộng, góp phần giải quyết khó khăn về nguồn vốn thanh toán và kinh doanh cho các Tổ chức tín dụng, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc tác động đến tổng lượng tiền cung ứng (M2) trong nền kinh tế, theo mục tiêu của chính sách tiền tệ.

        Thực tế, bám sát mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, bảo đảm thanh khoản của các tổ chức tín dụng (TCTD) và nền kinh tế; tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại hệ thống các TCTD và xử lý nợ xấu nhằm nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả hoạt động của các TCTD. Định hướng chỉ tiêu tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 16-18%, tín dụng tăng khoảng 12-14%… Đến ngày 31/7/2014, tổng phương tiện thanh toán tăng 7,36%, huy động vốn tăng 6,98% (huy động bằng VND tăng 7,92%, huy động bằng ngoại tệ tăng 1,31%) so với cuối năm 2013; thanh khoản của các TCTD tiếp tục được đảm bảo và dư thừa, thị trường liên ngân hàng hoạt động thông suốt, lãi suất thị trường liên ngân hàng tăng nhẹ nhưng vẫn có xu hướng ổn định ở mức thấp.

        NHNN cũng giữ ổn định các mức lãi suất điều hành, lãi suất huy động tối đa bằng VND và USD, lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với một số lĩnh vực ưu tiên; tiếp tục yêu cầu các TCTD giảm lãi suất cho vay (kể cả các khoản cho vay cũ). Trong tháng 7/2014, lãi suất huy động và cho vay VND của các TCTD tương đối ổn định sau khi đã giảm nhẹ trong tháng 6/2014. Đến nay mặt bằng lãi suất huy động và cho vay bằng VND đã giảm 0,5-1,5%/năm so với cuối năm 2013, lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên giảm 1%/năm so với cuối năm 2013.

        Lãi suất của các khoản vay cũ tiếp tục được các TCTD tích cực điều chỉnh giảm; đến ngày 24/7/2014, dư nợ cho vay bằng VND có lãi suất trên 15%/năm chiếm 4,5% tổng dư nợ cho vay VND, dư nợ có lãi suất trên 13%/năm chiếm 12,9% tổng dư nợ cho vay bằng VND.

  2.2. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc

 Trong giai đoạn 2012 – 2014, tùy thuộc vào sự biến động của nền kinh tế mà tỷ lệ dự trữ bắt buộc có sự thay đổi với một số tổ chức tín dụng trong toàn hệ thống.

        Ngân hành nhà nước đã tiến hành giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc cho 7 tổ chức tín dụng và tái cấp vốn để khuyến khích các tổ chức tín dụng để các tổ chức tín dụng khuyến khích vốn cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. NHTM sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để tác động đến lượng tiền cung ứng ra qua việc tác động đến cơ chế tạo tiền gửi của các NHTM và tác động đến lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng. Trong thời gian qua, tỷ lệ dự trữ bắt buộc với tiền gửi nội tệ vẫn được giữ nguyên ở mức thấp trong hơn hai năm qua, 2% với NHNN và NH phát triển nông thôn Việt Nam, 3% với các tổ chức tín dụng đô thị khác.

  2.3. Lãi suất chiết khấu

       Để hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm và các vấn đề an sinh xã hội khác, trong năm 2014, Ngân hàng Nhà nước điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ theo hướng tập trung tháo gỡ các khó khăn về mở rộng tín dụng an toàn, đáp ứng nhu cầu vốn vay hợp lý cho các đối tượng khách hàng, giảm các loại lãi suất,… Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện 2 lần cắt giảm lãi suất điều hành như sau:

        Lần thứ nhất, thực hiện vào ngày 17­/3/­2014: lãi suất tái cấp vốn từ 7%/năm xuống 6,5%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 5%/năm xuống 4,5%/năm; lãi suất cho vay qua đêm từ 8%/năm xuống 7,5%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng giảm từ 1,2%/năm xuống 1%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng giảm từ 7%/năm xuống 6%/năm. Từ thời điểm này, Ngân hàng Nhà nước không khống chế lãi suất tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên như trước đó mà các tổ chức tín dụng chủ động ấn định trên cơ sở cung ­ cầu vốn thị trường. Lãi suất cho vay ngắn hạn 5 lĩnh vực ưu tiên giảm từ 9%/năm xuống 8%/năm.

         Lần thứ hai, thực hiện vào ngày 29/­10/­2014: Lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND từ mức 6%/năm xuống 5,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng;  giảm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa  các lĩnh vực ưu tiên từ mức 8%/năm xuống còn 7%/năm giảm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa đối với tiền gửi bằng USD từ mức 1%/năm xuống 0,75%/năm.

III. Tác động của chính sách tiền tệ trong việc thực hiện mục tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế Việt Nam

  1. Tác động tích cực

        Trong năm 2014, việc điều hành chính sách tiền tệ không chỉ thực hiện được mục tiêu ổn định tiền tệ trên cả 3 góc độ: kiềm chế tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trên thị trường xã hội; ổn định giá trị đối ngoại của đồng Việt Nam (tức tỷ giá); người dân hạn chế việc mua vàng để tìm nơi trú ẩn tài sản; mà còn thúc đẩy tăng trưởng GDP và góp phần giải quyết an sinh xã hội. Bên cạnh đó, còn có sự phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa, hỗ trợ cân đối ngân sách nhà nước trong quá trình điều hành. Việc nhận định chính sách tiền tệ tại Việt Nam phải thực hiện đa mục tiêu cần được nhìn nhận rộng hơn với thực tế rõ ràng là, trong điều hành tỷ giá và quản lý ngoại hối, bao gồm cả quản lý thị trường vàng, chính sách này còn phải thực hiện mục tiêu giảm thâm hụt cán cân thương mại, hạn chế nhập siêu. Cùng với sự điều chỉnh các chính sách kinh tế vĩ mô, Chính phủ đã đổi mới quan điểm, điều chỉnh mục tiêu chính sách tiền tệ, xác định giai đoạn 2011-2015, ưu tiên hàng đầu của kinh tế Việt Nam là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội đi đôi với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, thể hiện rõ trong Nghị quyết Hội nghị Trung Ương 3 (khóa XI):

        “Việc điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và nhất quán đã đóng góp quan trọng cho sự ổn định tình hình kinh tế vĩ mô, thể hiện qua những kết quả như: Việt Nam đã kiểm soát lạm phát hiệu quả với tỉ lệ lạm phát giảm mạnh. Năm 2014, chỉ số giá tiêu dùng chỉ tăng 4,09%, góp phần giúp thị trường ngoại hối và giá trị tiền đồng ổn định. Điều hành chính sách tiền tệ của NHNN cũng góp phần đáng kể vào tăng trưởng GDP dự kiến đạt khoảng 5,80%. Ngoài sự điều chỉnh cung tiền cho phù hợp, NHNN đã chỉ đạo các ngân hàng tăng cường hoạt động tín dụng để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, hỗ trợ tăng trưởng ở mức hợp lý”.

  1. Hạn chế

        Những yếu kém nội tại của nền kinh tế trong nước và đặc biệt là hậu quả của một thời kỳ phát triển “bong bóng” bất động sản, chứng khoán và tín dụng vào những năm 2005 – 2007 đã để lại rủi ro tín dụng tiềm ẩn cao, nợ xấu liên quan đến bất động sản tăng nhanh, cùng với hệ thống ngân hàng thương mại phát triển và mở rộng quá nhanh cả về quy mô và các loại hình nghiệp vụ nên sự bất cập là khó tránh.

        Mặt khác, các ngân hàng thương mại năng lực quản trị có nhiều yếu kém so với thực tiễn đặt ra, năng lực tài chính không tương xứng với quy mô, tốc độ gia tăng tài sản; Tình trạng sở hữu, đầu tư chéo, cho vay vượt quá khả năng nguồn vốn cả về khối lượng và cơ cấu thời hạn; Nhiều doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào vốn tín dụng ngân hàng, hiệu quả kinh doanh thấp, tài chính kém lành mạnh, kinh doanh đa ngành nghề thiếu sự quản lý; Khuôn khổ pháp lý cho hoạt động tiền tệ không theo kịp, thiếu đồng bộ; Hệ thống thanh tra, giám sát chuyên ngành cũng còn yếu kém… Quá trình tích tụ những yếu kém, nếu vượt quá sức chịu đựng của nó, thì tất yếu sẽ “bùng nổ”, sự đổ vỡ có thể bao trùm lên toàn bộ hệ thống tài chính và nền kinh tế.

  1. Một số phương hướng giải pháp

        Thị trường liên ngân hàng và thị tường tiền tệ cần phải được củng cố và phát triển theo hướng cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, ninh bạch hóa các thông tin, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh sôi động để đạt hiệu quả tối đa của chính sách tiền tệ.

        Hoàn thiện hành lang pháp lý về hệ thống ngân hành, tài chính để có cơ chế thực thi chính sách tiền tệ nói chung và công cụ CSTT được ninh bạch và có hiệu quả.

        Nâng cao hơn nữa vai trò và trách nhiệm của NHNN: NHNN là lực lượng nòng cốt điều hành CSTT nên cần phải không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn để có những quyết định đúng đắn, vận hành CSTT một cách hiệu quả.

        Để CSTT thực sự hiệu qủa thì phải đặt nó trong một tổng thể với các chính sách khác, đặc biệt là chính sách tài khóa. Cần có sự kết hợp đồng thcaafncar hai chính sách này với nhau để bổ sung, hỗ trợ cho nhau khắc phục những nhược điểm, hạn chế mà khi thực hiện rời hai chính sách này có thể xảy ra. Đây là hai chính sách cơ bản trong CSTC mà Nhà nước ta cần áp dụng nhằm tăng cường sự phát triển và giữ vững sự ổn định nền kinh tế.

        Như vậy, chính sách tiền tệ, đặc biệt là các công cụ của nó có vài trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Việc sử dụng các công cụ đó như thế nào sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của nền kinh tế ở từng thời điểm cụ thể. Hiểu rõ về CSTT và vận dụng nó trong nền kinh tế hiện nay đòi hỏi cần phải có tầm nhìn rộng và kiến thức về nó. Để nền kinh tế Việt Nam có thể đi lên đạt được những mục tiêu tăng trưởng mà Nhà nước ta đã đề ra thì cần vận dụng một cách triệt để và có hiệu quả chính sách này.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

I. KỸ NĂNG TIẾP XÚC KHÁCH HÀNG

1. Mục đích và tầm quan trọng của hoạt động tiếp xúc khách hàng

Tiếp xúc khách hàng là một bước quan trọng trong hoạt động tư vấn pháp luật, để việc tư vấn pháp luật diễn ra thuận lợi thì trước hết việc tiếp xúc khách hàng của người tư vấn viên cũng diễn ra thuận lợi, không gặp sai sót. Bởi mục đích của việc tư vấn khách hàng là định hướng cho sự phát triển mối quan hệ hợp tác với khách hàng, tạo ấn tượng đầu tiên để khách hàng có quyết định cuối cùng là có ký kết hợp đồng tư vấn pháp luật hay không, cũng như nắm bắt được sự việc, thu thập thông tin bước đầu của khách hàng để đảm bảo việc tư vấn pháp luật được thuận lợi.

2. Các bước khi tiếp xúc khách hàng

Với bất kì một khách hàng nào khi tìm đến người tư vấn họ đều mong muốn thông qua quá trình tư vấn với người tư vấn quyền và lợi ích của họ được bảo vệ một cách hợp pháp. Để nắm bắt những yêu cầu của khách hàng, giai đoạn đầu tiên của người tư vấn là tiếp xúc khách hàng. Khi tiếp xúc với khách hàng, người tư vấn cần phải xác định rõ được mục đích mình cần đạt được trong buổi trao đổi đó là những gì, để từ đó dự tính trước được cho mình cách làm việc hiệu quả nhất. Có nhiều cách để lấy thông tin từ khách hàng, trước khi có một buổi gặp trực tiếp để làm việc với khách hàng, người tư vấn cần hướng dẫn khách hàng chuẩn bị các tài liệu cần thiết liên quan đến công việc để khách hàng có thể chuẩn bị trước những tài liệu này, tránh mất thời gian cho cả người tư vấn và khách hàng.

a)Chuẩn bị

Việc chuẩn bị cho một buổi tiếp xúc khách hàng có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của buổi tiếp xúc khách hàng. Một buổi làm việc được chuẩn bị tốt không những tạo được cho người tư vấn tâm lý tự tin khi làm việc mà còn tạo ấn tượng tốt đối với khách hàng. Để chuẩn bị cho một buổi tiếp xúc khách hàng người tư vấn cần: chuẩn bị về văn phòng; tài liệu thông tin liên quan đến người tư vấn và tổ chức nơi  người tư vẫn đang làm việc; xác định mục đích của khách hàng khi đến làm việc với người tư vấn; tra cứu, đọc lại, cập nhật và tra cứu hiệu lực các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản, tài liệu khác liên quan đến yêu cầu của khách hàng, kiểm tra thông tin về vụ việc và khách hàng; chuẩn bị bảng hỏi dự kiến sẽ áp dụng với khách hàng; chuẩn bị các biểu mẫu, hợp đồng dịch vụ pháp lý, chuẩn bị một số chủ đề tạo mỗi trường giao tiếp, chuẩn bị về nhân sự; chuẩn bị về trang phục…

b)Tiếp xúc khách hàng

Trong buổi tiếp xúc khách hàng lần đầu tiên, không dễ gì khách hàng có thể ngay lập tức cởi mở, ngay lập tức đi thẳng vào trình bày vụ việc với người tư vấn. Vì vậy, người tư vấn cần tạo ra một không khí giao tiếp hợp lý đủ để khách hàng có thể thấy phần nào đó thoải mái để trao đổi về vụ việc của mình. Người tư vấn có thể giới thiệu với khách hàng một số thông tin về cá nhân, các đồng nghiệp và đề nghị khách hàng cung cấp thông tin; có thể nói về những chủ đề về thời tiết, giao thông và những câu hỏi về sức khỏe, lộ trình chuyến đi của khách hàng để tạo môi trường giao tiếp. Trong bước này người tư vấn cần giải thích với khách hàng trách nhiệm bảo mật thông tin về vụ việc và bảo mật thông tin về khách hàng khi người tư vấn tiếp nhận thông tin, khiến cho người tư vấn khách hàng có thể yên tâm nói ra những thông tin mà có thể  khách hàng không chia sẻ với những người thân thiết của mình.Đồng thời thông báo cho khách hàng diễn biến của buổi tiếp xúc khách hàng, tổng thời gian dự kiến làm việc với khách hàng sẽ giúp khách hàng hình dung ra kế hoạch của buổi làm việc và sử dụng thời gian một cách hiệu quả nhất.Sau khi tìm hiểu được các thông tin từ phía  khách hàng, người tư vấn chốt lại các yêu cầu của khách hàng mong muốn được tư vấn, có thể đưa ra những nhận định khái quát về vấn đề của khách hàng nhằm tiến tới kí kết hợp đồng tư vấn với khách hàng.

II. NHỮNG SAI SÓT THƯỜNG GẶP CỦA NGƯỜI THỰC HIỆN TƯ VẤN PHÁP LUẬT KHI TIẾP XÚC KHÁCH HÀNG, GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC VÀ VÍ DỤ MINH HỌA.

 1. Những sai sót thường gặp phải của người thực hiện tư vấn pháp luật khi tiếp xúc khách hàng

Khi tiếp xúc khách hàng, người tư vấn có thể có những sai sót khi tiếp xúc khách hàng như : có trường hợp người tư vấn chứng tỏ mình là người hiểu biết pháp luật, giải đáp thắc mắc của khách hàng cụ thể, chi tiết. Có người tư vấn trong giai đoạn này lại đưa ngay ra giải pháp trả lời vì như vậy rất có thể sẽ làm sai lệch nội dung vụ việc theo chiều hướng khác hoặc khi khách hàng mới đưa ra vấn đề đã vội kết luận mà chưa xem xét hết tất cả tài liệu mà khách hàng đưa đến.

Việc người tư vấn phải  giữ gìn bí mật đối với các thông tin của khách hàng, đây không chỉ là trách nhiệm mà còn chính là đạo đức của người tư vấn nhưng một số trường hợp vì lợi ích cá nhân mà người tư vấn đã không làm được điều đó.Khi tiếp xúc với khách hàng khó tính, người tư vấn phải có thái độ thô lỗ, không kiềm chế cảm xúc và đặc biệt không biết trấn an cho khách hàng trong trường hợp khách hàng có dấu hiệu mất bình tĩnh.

Người tư vấn chưa nắm bắt được những bất an của khách hàng, chưa thể hiện được sự nhiệt tình, lịch sự của người tư vấn và quá vồ vập với yêu cầu của khách hàng, làm cho cuôc tư vấn không đươc thành công ngay ở giai đoạn đầu tiên này.

Có trường hợp người tư vấn tỏ thái độ không bằng lòng đối với những khách hàng có thái độ nóng tính. Không tìm hiểu kĩ vấn đề mà khách hàng đang vướng mắc. Chưa đưa ra được những câu hỏi để tìm hiểu vụ việc khai thác các thông tin từ khách hàng để giải quyết vấn đề mà khách hàng cần tư vấn. Chưa tìm được hết các tài liệu thông tin từ phía khách hàng.

Có trường hợp người tư vấn ngay ở giai đoạn đầu này khi tư vấn khi tìm hiểu nắm bắt vụ việc tư vấn và yêu cầu của khách hàng đã nêu hết tất cả các cách thức và phương pháp cho khách hàng nên đã làm cho lợi ích của mình bị thiệt.

2. Giải pháp khắc phục và ví dụ minh họa

Khi tiếp xúc với khách hàng, người tư vấn phải có thái độ điềm tĩnh, cởi mở, chân tình và đặc biệt biết trấn an cho khách hàng trong trường hợp khách hàng có dấu hiệu mất bình tĩnh. Kỹ năng này đòi hỏi ở người tư vấn nhiều đức tính, tố chất đặc biệt trong việc đặt ra các câu hỏi để tìm hiểu sự việc và sắp xếp các câu trả lời của khách hàng theo một trình tự logic. Người tư vấn cần phải biết khách hàng của mình đến yêu cầu mình giúp đỡ vấn đề gì? nội dung vụ việc ra sao? các vấn đề vướng mắc….Qua giai đoạn này, người tư vấn có thể tìm hiều và sàng lọc các thông tin liên quan đến vụ việc một cách công bằng và khách quan, đồng thời loại bỏ các yếu tố chứa đựng sự đánh giá chủ quan của khách hàng. Ví dụ như khi khách hàng đến tư vấn về một vụ tranh chấp đất đai với người hàng xóm của mình, người hàng xóm đã có những hành vi khiến cho hai nhà to tiếng, khi kể lại sự việc khiến cho khách hàng vô cùng bức bối, điều đó làm cho khách hàng cáu gắt với cả người tư vấn. Lúc này, người tư vấn nên giữ thái độ điềm tĩnh, trấn an khách hàng, nói những lời khiến cho khách hàng yên tâm, hoặc có thể tạm thời dừng lại để khách hàng có thể trấn án lại tâm lí của mình trước khi tiếp tục.

Hoạt động kế tiếp của người tư vấn là hướng dẫn, đề nghị khách hàng cung cấp các chứng cứ, hồ sơ, tài liệu về những vấn đề có liên quan đến vụ việc  để tìm hiểu nghiên cứu. Trong giai đoạn này, điều mà người tư vấn  nên tránh là đưa ngay ra giải pháp trả lời vì như vậy rất có thể sẽ làm sai lệch nội dung vụ việc theo chiều hướng khác. Ví dụ, khi người khách hàng đến tư vấn vụ tranh chấp đất đai trên, sau khi nghe người khách hàng kể lại, người tư vấn không nên đưa ra những nhận định vội vàng về vụ việc đó, vì khi kể lại, khách hàng có thể đưa ra những thông tin có lợi cho mình, điều này có thể ảnh hưởng đến kết quả sau này, do đó, người tư vấn chỉ nên đưa ra những thông tin khái quát từ những gì khách hàng đã đưa ra. Hoặc trong trường hợp khách hàng đưa đúng thông tin, và yêu cầu người tư vấn đưa ra cách giải quyết, thì người tư vấn cũng không nên tư vấn quá chi tiết cụ thể, mà chỉ nên tư vấn khái quát về vấn đề đó.

Một số vấn đề khác trong hoạt động tư vấn: Đối với khách hàng, người tư vấn nên:

– Tỏ ra là người có đầu óc kinh doanh và thực tế, trả lời các câu hỏi cụ thể chứ không phải những câu hỏi mà luật sư thích trả lời cho khách hàng;

– Đưa ra lời tư vấn tích cực, chủ động, nắm bắt đúng thời cơ và vì lợi ích của khách hàng;

– Cư xử lịch thiệp và tỏ ra có hứng thú khi thực hiện tư vấn giúp khách hàng;

– Luôn là người tận tụy với công việc, phúc đáp kịp thời các bức thư, bức điện, fax và bảo đảm rằng khách hàng lúc nào cũng có thể tìm đến luật sư nếu cần;

– Một trong những điểm khách hàng nước ngoài hay để ý là tên và địa chỉ của họ có được sử dụng đúng hay không, đừng bao giờ viết sai tên của khách hàng mình. Việc soạn thảo các thư từ giao dịch cũng phải được chú trọng đến truyền thống và văn hóa của nước mà khách hàng của bạn mang quốc tịch.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

_Gíam sát tối cao được coi là chức năng của Quốc hội. Quốc hội thực hiện quyền giám sát của mình chủ yếu tại kì họp Quốc hội, tuy nhiên do Quốc hội chỉ họp 2 kì/ năm nên để đảm bảo tính liên tục và thường xuyên của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội được Quốc hội giao thực hiện quyền giám sát trong thời gian giữa 2 kì họp của Quốc hội.

_Uỷ ban thường vụ Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao của mình thông qua:

+Hoạt động giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua việc xét báo cáo công tác của Chính phủ, TAND tối cao, VKSND tối cao giữa 2 kì họp của Quốc hội.

+Hoạt động giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua việc tổ chức các đoàn giám sát ở địa phương, các cơ quan nhà nước.

+Hoạt động giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua việc xem xét chất vấn và trả lời chất vấn.

+Hoạt động giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua việc xem xét, giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân.

+Hoạt động giám sát việc ban hành các văn bản của các cơ quan nhà nước ở trung ương và HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương…

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Việc bầu cử đại biểu cơ quan quyền lực ở nước ta được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín.

Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội,tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, HĐND theo quy định của pháp luật.

Các nguyên tắc bầu cử thống nhất với nhau, đảm bảo cho cuộc bầu cử khách quan, dân chủ, thể hiện đúng nguyện vọng của cử tri khi lựa chọn; quy định quyền và trách nhiệm của cử tri trong bầu cử, trách nhiệm của Nhà nước phải đảm bảo những quy định về bầu cử.

Nguyên tắc phổ thông:

_Thể hiện tính công khai, dân chủ rộng rãi, đòi hỏi sự đảm bảo để công dân thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử.

_Thể hiện ở tính toàn dân và toàn diện của bầu cử.

_Các nước chuẩn bị và tiến hành bầu cử cũng phải yêu cầu nguyên tắc phổ thông:

+Các tổ chức bầu cử được thành lập công khai, có sự tham gia của đại diện các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và đoàn thể nhân dân.

+Danh sách cử tri được niệm yết công khai nơi công cộng để nhân dân theo dõi.

+Danh sách những người ứng cử cũng được lập và niêm yết công khai để cử tri tìm hiểu và lựa chọn.

+Ngày bầu cử, nơi bỏ phiếu phải được ấn định và công bố trước để nhân dân biết.

+Việc kiểm phiếu cũng phải được tiến hành công khai có sự tham gia chứng kiến của đại diện cử tri; đại diện các cơ quan thông tin đại chúng được vào chứng kiến kiểm phiếu.

Nguyên tắc bình đẳng:

_Đảm bảo cho mọi công dân có khả năng như nhau, tham gia bầu cử, nghiêm cấm mọi sự phân biệt dưới bất kì hình thức nào; đảm bảo sự khách quan trong bầu cử, không thiên vị.

_Nguyên tắc thể hiện trong quy định của pháp luật về quyền bầu cử và quyền ứng cử của nhân dân; quy định số lượng dân như nhau thì được số đại biểu bằng nhau; mỗi cử tri được ghi tên ứng cử ở một đơn vị bầu cử, mỗi cử tri chỉ được bỏ một đầu phiếu.

_Để đảm bảo nguyên bình đẳng, Nhà nước có các biện pháp đảm bảo đồng bào dân tộc thiểu số và phụ nữ chiếm tỉ lệ thích đáng của mình.

Nguyên tắc trực tiếp:

_Đảm bảo để cử tri lựa chọn ngừoi đủ tín nhiệm vào cơ quan quyền lực nhà nước bằng phiếu bầu của mình không qua khâu trung gian; đảm bảo tính khách quan của bầu cử.

_Cử tri tự đi bầu, tự tay mình bỏ phiếu vào thùng phiếu; không bầu bằng cách gửi thư.

Nguyên tắc bỏ phiếu kín:

_Đảm bảo cho cử tri tự do lựa chọn, không bị ảnh hưởng bởi những điều kiện và yếu tố bên ngoài.

_Không ai được đến gần cử tri đang viết phiếu bầu.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

_Bản chất nhà nước ta theo Hiến pháp hiện hành là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

_Thể hiện ở chỗ:

+Nhà nước CHXHCN Việt Nam là một nhà nước XHCN, nền tảng của quyền lực nhà nước là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông nhân và đội ngũ trí thức, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

+Nhà nước CHXHCN Việt Nam là một nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, do nhân dân tổ chức ra vì lợi ích nhân dân.

+Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thực hiện theo nguyên tắc: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, hoạt động quản lí xã hội tuân theo Hiến pháp và pháp luật, nhà nước thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.

+Nhà nước CHXHCN Việt Nam có tính dân chủ. Nhà nước đảm bảo và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia đông đảo vào các công việc của nhà nước và xã hội.

+Nhà nước CHXHCN Việt Nam là một nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam, Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kì thị, chia rẽ dân tộc.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

_Nước CHXHCN Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, hội nhập, hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

_Nền kinh tế Việt Nam là nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kiểu hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, nhà nước tạo điều kiện để doanh nhân doanh nghiệp, cá nhân tổ chức khác đầu tư, sản xuất kinh doanh phát triển kinh tế, góp phần xây dựng đất nước.

_Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường; thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lí nhà nước; thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân.

_Ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính công khác do nhà nước thống nhất quản lí và phải được sử dụng hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch, đúng pháp luật. Ngân sách nhà nước gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, trong đó ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm nhiệm vụ chi quốc gia, các khoản thu, thi ngân nhà nước phải được dự toán và do luật định.

_Cơ quan, tổ chức và cá nhân phải thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng, chống tham nhũng trong hoạt động kinh tế- xã hội và quản lí nhà nước.

_Hiến pháp 2013 đặc biệt quan tâm đến chính sách đất đai, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do nhà nước đầu tư.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

_Quyền dân tộc cơ bản là quyền của một quốc gia, dân tộc, được độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, có quyền tự quyết định vận mệnh của dân tộc mình mà không bị lệ thuộc bởi quốc gia, dân tộc khác.

_Quyền dân tộc gồm 4 yếu tố có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, trong đó yếu tố độc lập là yếu tố quan trọng nhất vì nó là cơ sở, nền tảng, quyết định các yếu tố còn lại, có độc lập thì mới có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

+Độc lập: quốc gia, dân tộc đó không bị quốc gia, dân tộc khác xâm chiếm, đô hộ cai trị.

+Chủ quyền: Nhà nước có chủ quyền là nhà nước có quyền tự quyết riêng về vấn đề đối nội, đối ngoại, chiến tranh- hoà bình của quốc gia mình.

+Thống nhất: Thống nhất về tổ chức chính quyền nhân dân từ trung ương đến địa phương, về hệ thống pháp luật, về lãnh thổ.

+Toàn vẹn lãnh thổ: Không bị chia cắt về lãnh thổ.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Đối tượng điều chỉnh của ngành luật Hiến pháp là các quan hệ xã hội cơ bản và quan trọng nhất gắn liền với việc xác định chế độ chính trị, kinh tế, chính sách văn hoá- xã hội, quốc phòng an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam.

+Trong lĩnh vực chính trị: Nhà nước- nhân dân, nhà nước- chính trị, chính trị- xã hội, nhà nước- nhà nước…

+Trong lĩnh vực kinh tế: Chính sách của nhà nước, chế độ sở hữu, thành phần kinh tế, vai trò của nhà nước…

+Trong lĩnh vực văn hoá- xã hội: mục đích chính sách…

+Trong lĩnh vực nhà nước- nhân dân: quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức bộ máy nhà nước…

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

_Đặc điểm chung:

+Đều là các quan hệ xã hội.

+Có các chủ thể tham gia.

+Thể hiện ý chí của chủ thể tham gia.

_Đặc điểm riêng:

+Các quan hệ điều chỉnh của ngành luật Hiến pháp có nội dung pháp lí quan trọng, làm cơ sở cho các ngành luật khác cụ thể hoá, chi tiết hoá. Ví dụ như: Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.

+Trong các quan hệ điều chỉnh của ngành luật Hiến pháp có phạm vi chủ thể đặc biệt gồm: nhân dân, nhà nước, cơ quan nhà nước, đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, dân tộc, cử tri…

+Gắn liền với quyền lực nhà nước.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

_Phương pháp duy vật biện chứng:

+Khi nghiên cứu về Luật Hiến pháp phải thấy các quy phạm, chế định, quan hệ của ngành Luật Hiến pháp là những bộ phận cấu thành của luật Hiến pháp; giữa chúng có sự thống nhất, hỗ trợ nhau, không được mâu thuẫn và đối lập nhau.

+Phép biện chứng được sử dụng để nghiên cứu sự vận động và phát triển của Luật Hiến pháp: quy phạm, chế định, quan hệ của Luật Hiến pháp và đặt chúng trong bối cảnh của sự vận động và phát triển không ngừng, từ đó rút ra những kết luận, chỉ ra sự kế thừa, phát triển của chúng.

_Phương pháp lịch sử:

+Phải nắm được các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử mà các quy phạm, chế định, quan hệ đó ra đời và tồn tại, từ đó sẽ hiểu được đầy đủ nội dung của mỗi quy phạm, chế định, quan hệ luật Hiến pháp khi được nghiên cứu trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể.

_Phương pháp so sánh:

+Khi nghiên cứu Luật Hiến pháp hiện hành thì phải so sánh, đối chiếu với những vấn đề của Luật Hiến pháp trước đó để thấy được sự kế thừa và phát triển của Luật Hiến pháp.

+Khi nghiên cứu Luật Hiến pháp hiện hành thì phải so sánh với Luật Hiến pháp nước ngoài để thấy được đặc điểm của luật hiến pháp Việt Nam và học hỏi kinh nghiệm luật Hiến pháp nước ngoài.

+Khi nghiên cứu Luật Hiến pháp hiện hành thì phải so sánh, đối chiếu với các ngành luật khác để thấy được tính thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam và vai trò của Hiến pháp trong hệ thống đó.

_Phương pháp phân tích theo hệ thống chức năng: Cho phép làm sáng tỏ vị trí, vai trò của từng quy phạm, chế định, quan hệ trong hệ thống ngành Luật.

_Phương pháp thống kê: Được sử dụng rộng rãi trong khoa học Luật Hiến pháp, đặc biệt khi nghiên cứu về tổ chức bộ máy nhà nước; bằng phân tích các số liệu thống kê cụ thể trong các thời điểm khác nhau, sẽ rút ra được các kết luận cần thiết.

_Phương pháp khảo sát thực tế.

_Phương pháp thực nghiệm.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hiến pháp Hoàn cảnh ra đời Tính chất Nhiệm vụ
1946 _Nước VNDCCH non trẻ mới ra đời, đòi hỏi cần một bản Hiến pháp dân chủ.

_20/9/1945: Ban sắc lệnh thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 7 người.

_2/3/1946: Tại kì họp thứ nhất, Quốc hội khoá I thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 11 người.

_9/11/1946: Tại kì họp thứ 2, Quốc hội khoá I thông qua Hiến pháp với 240 phiếu thuận và 2 phiếu chống.

_19/12/1946: Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, do hoàn cảnh nên Hiến pháp 1946 không được công bố chính thức.

_Mang tính chất dân chủ nhân dân.

_Về chính trị: Hiến pháp trao quyền lực nhà nước vào tay nhân dân, quy định nhiều quyền quan trọng như quyền bầu cử, quyền tự do…

_Về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước: Hiến pháp quy định việc tổ chức Nghị viện nhân dân do nhân dân bầu ra nhằm đảm bảo quyền lợi cho nhân dân.

_Mang lại quyền tự do, dân chủ cho nhân dân.

_Xác lập những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính quyền.

_Phục vụ việc chuẩn bị cho kháng chiến trường kì.

1959 _Sau thắng lợi ở chiến dịch Điện Biên Phủ, miền bắc được giải phóng hoàn toàn, đất nước bị chia cắt thành 2 miền. Tình hình kinh tế- văn hoá- xã hội ở miền Bắc có nhiều thay đổi, bắt đầu phát triển và cải tạo nền kinh tế theo CNXH, liên minh giữa giai cấp công nhân và nông dân được củng cố. Tình hình đòi hỏi cần có Hiến pháp mới cho thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc, kháng chiến chống Mỹ miền Nam.

_Tại kì họp thứ 6, Quốc hội khoá I quyết định sửa đổi Hiến pháp.

_7/1958: Hiến pháp được đưa ra thảo luận trong các cán bộ trung và cao cấp.

_1/4/1959: Hiến pháp được công bố để toàn dân thảo luận và đóng góp ý kiến.

_31/12/1959: Kì họp thứ 11, Quốc hội khoá I thông qua Hiến pháp sửa đổi.

_1/1/1960: Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh công bố Hiến pháp 1959.

_Mang tính chất XHCN.

_Về chính trị: Duy trì nguyên tắc quyền lực nhà nước tập trung dân chủ, đảm bảo quyền tự do cho công dân, quy định thêm nhiều quyền và nghĩa vụ cho công dân.

_Về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước: Hoàn thiện và phát triển theo mô hình Liên Xô và các nước XHCN, thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và hệ thống chính trị.

_Về kinh tế: Xác định kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân giữ vai trò lãnh đạo nền kinh tế quốc dân và được ưu tiên phát triển.

_Đảm bảo quyền tự do, dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân.

_Đảm bảo những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

_Phục vụ xây dựng CNXH ở miền Băc, kháng chiến chống Mỹ giải phóng miền Nam.

1980 _Chiến dịch Hồ Chí Minh dành thắng lợi, đất nước thống nhất, đòi hỏi cần phải tổng tuyển cử thống nhất cơ quan quyền lực nhà nước ở 2 miền Nam- Bắc, xây dựng một bản Hiến pháp mới cho thời kì xây dựng CNXH trên cả nước.

_18/12/1980: Tại kì họp thứ 7, Quốc hội khoá VI thông qua Hiến pháp mới.

_Mang đậm tính chất XHCN.

_Về chính trị: Xác định bản chất chuyên chính vô sản của nhà nước, thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng trong lãnh đạo nhà nước, cũng như vai trò của các tổ chức chính trị- xã hội quan trọng.

_Về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước: Hiến pháp xác định quyền làm chủ tập thể, với tổ chức bộ máy nhà nước giống như Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu.

_Về kinh tế: Tiến hành cách mạng cải cách quan hệ sản xuất, cải tạo các thành phần kinh tế phi XHCN, thực hiện nên kinh tế quốc dân 2 thành phần: kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu tư nhân và kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể.

_Đảm bảo quyền tự do, dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân.

_Thống nhất tổ chức bộ máy nhà nước ở 2 miền Nam – Bắc, đảm bảo những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

_Phục vụ quá trình đi lên CNXH.

1992 _Sau một thời gian, nhiều quy định của hiến pháp 1980 không còn phù họp với tình hình đất nước, cần phải có một bản Hiến pháp mới cho thời kì quá độ lên CNXH.

_15/4/1992: Kì họp thứ 11, Quốc hội khá VIII thông qua Hiến pháp mới.

_Mang tính chất XHCN.

_Về chính trị: Đề cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trịc ho nhân dân.

_Về tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước: Tiếp tục thực hiện nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tập trung dân chủ.

_Về kinh tế: Thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, với nhiều thành phần kinh tế, khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.

_Đảm bảo quyền tự do, dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân.

_Hoàn thiện các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

_Phục vụ việc đổi mới kinh tế trong tiến trình quá độ lên CNXH.

2013 _Trong bối cảnh nền kinh tế đang có nhiều thay đổi, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập quốc tế, cần có một bản Hiến pháp mới phù hợp hơn.

 

_Mang tính chất XHCN.

_Về chính trị: Củng cố quyền làm chủ của nhân dân.

_Về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước: Hiến pháp tiếp thu những hạt nhân hợp lí của học thuyết phân chia quyền lực.

_Về kinh tế: Tiếp tục phát triển nền kinh tế định hướng XHCN.

_Đảm bảo quyền tự do, dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân, quyền con người và quyền công dân.

_Hoàn thiện các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

_Phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong quá trình quá độ lên CNXH.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hội đồng nhân dân có 3 chức năng chủ yếu sau đây:

_Quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương, như quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế- xã hội, củng cố quốc phòng an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.

_Bảo đảm thực hiện các quy định và quyết định của các cơ quan nhà nước cấp trên và trung ương ở địa phương.

_Giám sát hoạt động của thường trực hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân, toàn án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Giám sát của Hội đồng nhân dân bao gồm: giám sát của Hội đồng nhân dân tại kỳ họp; giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân; giám sát của các Ban của Hội đồng nhân dân và giám sát của đại biểu Hội đồng nhân dân.

 

          Hội đồng nhân dân giám sát thông qua các hoạt động sau đây:

_Xem xét báo cáo công tác của Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp;

_ Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân cùng cấp;

_Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp khi phát hiện có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp;

_Thành lập Đoàn giám sát khi xét thấy cần thiết;

_Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu.

Thường trực Hội đồng nhân dâncó quyền giám sát hoạt động của Uỷ ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, hoạt động của Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân địa phương trong việc thi hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và các nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.

Thường trực Hội đồng nhân dân quyết định chương trình giám sát hàng quý, hàng năm của mình căn cứ vào chương trình giám sát của Hội đồng nhân dân và ý kiến của các thành viên Thường trực Hội đồng nhân dân, đề nghị của các Ban của Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và ý kiến, kiến nghị của cử tri ở địa phương.

Căn cứ vào chương trình giám sát đã được thông qua, Thường trực Hội đồng nhân dânphân công thành viên Thường trực Hội đồng nhân dânthực hiện các nội dung trong chương trình; có thể giao các Ban của Hội đồng nhân dân thực hiện một số nội dung thuộc chương trình và báo cáo kết quả với Thường trực Hội đồng nhân dân khi cần thiết.

Các Ban của Hội đồng nhân dân giúp Hội đồng nhân dân giám sát thông qua các hoạt động sau đây:

_Thẩm tra các báo cáo, đề án do Hội đồng nhân dân hoặc Thường trực Hội đồng nhân dân phân công;

_Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp trong trường hợp có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, các văn bản quy phạm pháp luậtcủa cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp;

_Trong trường hợp cần thiết, yêu cầu Uỷ ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp báo cáo về những vấn đề thuộc lĩnh vực Ban phụ trách;

_Tổ chức Đoàn giám sát;

_Cử thành viên đến cơ quan, tổ chức hữu quan để xem xét, xác minh về vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Ban;

_Tổ chức nghiên cứu, xử lý và xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Trong quá trình thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình, nhà đầu tư thường gặp rất nhiều khó khăn, trong đó có khó khăn từ từ chính, nhân sự, kỹ thuật, thậm chí cả những khó khăn về pháp lý. Trong phạm vi bài viết này, Chúng tôi sẽ phân tích một số lưu ý rút ra từ thực tiễn trong quá trình hoạt động dự án đầu tư xây dựng công trình.

      Thực tiễn cho thấy trong quá trình hoạt động, nhà đầu tư gặp phải rất nhiều vấn đề khó khăn về mặt pháp lý nhưng không thể tự mình giải quyết như: Soạn thảo và chuẩn bị các tài liệu và hoàn tất các thủ tục hành chính theo quy định để thuê đất, thuê văn phòng, liên quan đến luật lao động và tuyển dụng, các vấn đề pháp lý khác liên quan đến hoạt động đầu tư tại Việt Nam và nước ngoài như: Chuyển nhượng vốn, chuyển đổi hình thức đầu tư, tăng/giảm vốn, mở rộng chức năng; soạn thảo nội qui, quy chế, thảo ước lao động tập thể, chuyển giao công nghệ… và nhà đầu tư phải gắn bó với tổ chức tư vấn hoặc chuyên gia pháp lý để “an toàn” trong toàn bộ quá trình hoạt động.

Theo Luật xây dựng năm 2014 và Nghị định số 59/2015 của Chính phủ về Quản lý dự án đầu tư xây dựng và xuất phát từ kinh nghiệm thực tiễn cho thấy trong quá trình thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình thì công tác quản lý dự án đầu tư xây dựng là một trong những khâu khó khăn nhất với nhà đầu tư. Bởi khâu này vừa đòi hỏi nhà đầu tư am hiểu để vận dụng đúng pháp luật và hiệu quả, vừa phải có sự phát triển sâu rộng, và mang tính chuyên nghiệp hơn mới có thể đáp ứng nhu cầu xây dựng các công trình dân dụng. Thực tiễn đó đã thúc đẩy ra đời một “nghề” mới mang tính chuyên nghiệp thực sự: Quản lý dự án, một nghề đòi hỏi tính tổng hợp và chuyên nghiệp từ các tổ chức và cá nhân.

Quản lý dự án là một quá trình phức tạp, bao gồm công tác hoạch định, theo dõi và kiểm soát tất cả những khía cạnh của một dự án và kích thích mọi thành phần tham gia vào dự án đó nhằm đạt được những mục tiêu của dự án đúng thời hạn với các chi phí, chất lượng và khả năng thực hiện chuyên biệt. Nói một cách khác, Quản lý dự án (QLDA) là công việc áp dụng các chức năng và hoạt động của quản lý vào suốt vòng đời của Dự án nhằm đạt được những mục tiêu đặt ra.

Mỗi dự án đầu tư xây dựng đều có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc rõ ràng và thông thường, vòng đời của dự án (Project life cycle) gồm 4 giai đoạn: hình thành, phát triển, thực hiện – quản lý và kết thúc dự án

Thực tiễn cho thấy công tác QLDA đang ngày càng được chú trọng và mang tính chuyên nghiệp hơn, nó tỷ lệ thuận với quy mô, chất lượng công trình và năng lực cũng như tham vọng của chính Chủ đầu tư. Thực tiễn cho thấy công trình có yêu cầu cao về chất lượng, hoặc công trình được thiết kế xây dựng theo tiêu chuẩn quốc tế, liên kết với các đơn vị tư vấn quốc tế,… đòi hỏi một ban quản lý dự án có năng lực thực sự, làm việc với cường độ cao, chuyên nghiệp và hiệu quả. Đây là lĩnh vực mới và nhiều tiềm năng ở nước ta, do đó giai đoạn này nhà đầu tư phải lưu ý về vấn đề pháp lý và Ban quản lý dự án được thiết lập.

Ban quản lý dự án là một thành phần quan trọng của dự án xây dựng, đó là một cá nhân hoặc một tổ chức do Chủ đầu tư thành lập, có nhiệm vụ điều hành, quản lý dự án trong suốt quá trình thực hiện dự án. Các thành phần của Ban QLDA có thể thay đổi theo các giai đoạn của dự án. Song song để Ban quản lý dự án cũng như quá trình thực hiện dự án hoạt động hiệu quả, nhà đầu tư cần được tư vấn pháp lý kịp thời và nhanh chóng.

Trong trường hợp dự án có quy mô lớn, tổ chức sử dụng phức tạp hay dự án có yêu cầu cao về chất lượng, kỹ thuật như dự án xây dựng bệnh viện, khách sạn, khu liên hợp thể thao hay công trình hạ tầng kỹ thuật,… thì cần thiết phải huy động các dịch vụ tư vấn quản lý dự án chuyên nghiệp.

Nhà đầu tư cần phải lưu ý rằng, một trong những lý do chủ yếu của việc thất bại, chậm trễ hay vượt ngân sách của các dự án bất động sản là sự yếu kém hoặc thiếu kinh nghiệm của Quản lý dự án, do đó, song song với Ban quản lý nhà đầu tư cần có tổ chức tư vấn pháp lý hoặc Luật sư chuyên về Pháp luật Kinh tế để được tư vấn pháp lý trong toàn bộ quá trình thực hiện dự án.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

“Hồ Chí Minh, con người sinh ra ở thế kỷ XIX, làm nên kì tích ở thế kỷ XX, và là mẫu người của thế kỷ XXI”. Khát vọng cháy bỏng trong cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là giành độc lập cho dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Khát vọng và lý tưởng ấy đã thôi thúc, quán xuyến mọi suy nghĩ, hành động trong suốt cuộc đời cách mạng của Người. Một trong những tư tưởng của Hồ Chí Minh đó là xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Một nhà nước mà đến giờ, chúng ta vẫn đang  từng bước, từng bước hoàn thiện.Để hiểu hơn về quy chế dân chủ của nước ta và nhận thức được tầm quan trọng trong tư tưởng của Người về một nhà nước mới nên em lực chọn đề tài: “phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân”

I. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước:

Việt Nam là một quốc gia hình thành nhà nước từ rất sớm. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, ông cha ta đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu về dựng nước và giữ nước. Những yếu tố tích cực của nhà nước thân dân thời kì phong kiến hưng thịnh trong lịch sử dân tộc có giá trị trường tồn. Đó là những hành trang đầu tiên Người mang theo bên mình để cứu nước và dựng nước.

Cuối thế kỉ XIX, Việt Nam và nhiều dân tộc trên thế giới trở thành thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Hồ Chí Minh đã khởi xướng phong trào đấu tranh vì độc lập, tự do cho dân tộc mình và các dân tộc thuộc địa bằng cách vạch trần bản chất vô nhân đạo của cái gọi là “công lý” mà thực dân thi hành ở các xứ “bảo hộ”. Bản chất ấy là hình thức nhà nước xấu xa cần lật đổ. Từ đó, Người đã tìm hiểu về các mô hình nhà nước trên thế giới để lựa chọn cho Việt Nam một kiểu nhà nước mới.

Người đã khảo sát mô hình nhà nước tư sản ở Mỹ, Pháp, Anh; nghiên cứu Cách mạng thàng Mười và mô hình nhà nước Xô – viết công nông ở Nga. Bằng những khảo sát thực tiễn, với tư duy chính trị nhạy cảm, sắc sảo Hồ Chí Minh đã quyết định lựa chọn con đường Cách mạng tháng Mười, kiểu nhà nước theo học Mác- Lê-nin, theo mô hình Nhà nước Nga Xô-viết. Việc lựa chọn kiểu nhà nước gắn bó chặt chẽ với mục tiêu giải phóng con người và phát triển xã hội.

Người sáng tạo trong việc vận dụng kinh nghiệm Xô-viết để kiến tạo xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Năm 1930, trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, Người chủ trương “Dựng ra chính phủ công nông  binh”. Năm 1941, Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, chủ trì Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành trung ương (5 – 1941) hoàn chỉnh sự chuyển hướng chiến lược cách mạng. Từ mô hình nhà nước công, nông, binh chuyển sang mô hình nhà nước đại biểu cho khối đoàn kết của toàn thể quốc dân là một bước chuyển sáng suốt của Hồ Chí Minh, phản ánh được nét đặc thù của thực tiễn dân tộc.

II. Tư tưởng Hồ CHí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân:

1.Quan điểm về xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân:

Hồ Chí Minh không phải là người đầu tiên nêu lên khái niệm: “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”. Người đã tiếp thu khái niệm này từ Tổng thông Mỹ A. Lincôn (cuối thế kỷ XIX). Song công lao của Người là biến khái niệm này từ sự hô hào thuần túy trên lời nói thành hiện thực trong cách mạng Việt Nam.

Để nhận thức được quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng Nhà nước kiểu mới này cần phải giải đáp được câu hỏi: thế nào là nhà nước của dân? Thế nào là nào là Nhà nước do dân? Thế nào là Nhà nước vì dân?

Theo Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân là Nhà nước được nhân dân ủy quyền cho các đại diện do mình bầu ra và thông qua các đại diện của mình thực hiện quyền bãi miễn những đại diện nào tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm nữa. Trong Nhà nước của dân thì dân làm chủ, người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm những việc pháp luật không cấm và có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời là người chủ cũng phải thể hiện năng lực, trách nhiệm làm chủ của mình. Nhà nước phải bằng mọi nỗ lực, hình thành thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Những vị đại diện do dân cử ra chỉ là thừa uỷ quyền của dân, là “công bộc” của dân; phải làm đúng chức trách và vị thế của mình, không phải đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, “cậy thế” với dân, “quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân”.

Nhà nước do dân là Nhà nước bao gồm những người do dân lựa chọn, bầu ra để đại diện cho quyền lợi của mình. Do vậy, Nhà nước đó luôn  được nhân dân ủng hộ, giúp đỡ và đóng góp, chủ yếu là đóng thuế, để Nhà nước có điều kiện thực hiện những hoạt động của mình; Nhà nước đó cũng do Nhân dân phê bình, xây dựng và kiểm soát làm cho các thành viên của Nhà nước luôn ý thức rõ trách nhiệm đại diện của mình trước nhân dân. Muốn cho Nhà nước trở nên trong sạch, vững mạnh và hoạt động có hiệu quả, Người đã chỉ rõ tất cả các cơ quan nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. “Nếu chính phủ làm hại nhân dân thì dân có quyền đuổi chính phủ”. Điều đó có nghĩa là khi Nhà nước và các cơ quan của nó xa dân, quan liêu, cửa quyền, không đáp ứng được lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì nhân dân sẽ bãi miễn nó đi.

Nhà nước vì dân là nhà nước thực sự của dân, do dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát trên thực tế. nhà nước v dân luôn phục vụ cho lợi ích và nguyện vọng của dân, không có đặc quyền, đặc lợi thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính chí công vô tư. Trong nhà nước vì dân cán bộ luôn là “công bộc” của dân, với ý nghĩa vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ của dân, nên việc gì có lợi cho dân thì dù là việc nhỏ đi chăng nữa cũng phải làm hết trách nhiệm. và, cán bộ phải biết đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân. Quan điểm về nhà nước vì dân của người đã vượt lên trên những chủ trương thân dân của các nhà nước thống trị khi còn đang ở giai đoạn tiến bộ nhất của nó. Thuật ngữ “công bộc “ có nghĩa là người đảm trách c ông việc chung của xã hội phục vụ nhân dân và là sự thống nhất của hai nhân tố: đấy tớ và lãnh đạo. theo Hồ Chí Minh, dân làm chủ thì cán bộ làm “công bộc” cho dân, chứ không phải làm quan cách mạng.

2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước:

2.1. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước:

Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nó chỉ ra đời và tồn tại khi giai cấp và đấu tranh giai cấp xuất hiện, do đó, nhà nước là sản phẩm của một xã hội có giai cấp, nó bao giờ cũng mang bản chất một giai cấp nhất định, không có một nhà nước nào là phi giai cấp, không có nhà nước đứng trên giai cấp. Như vậy không phải lịch sử nhân loại xuất hiện là có nhà nước ngay và nhà nước không phải tồn tại mãi mãi. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước ta được coi là Nhà nước của dân, do dân, vì dân nhưng bản chất giai cấp của Nhà nước ta là bản chất giai cấp công nhân. Vì:

Một là, Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Điều này được thể hiện:

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân. Việc xác định bản chất giai cấp công nhân của nhà nước là một vấn đề rất cơ bản của Hiến pháp. Lời nói đầu của bản Hiến pháp năm 1959 khẳng định: Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Trong quan điểm cơ bản xây dựng một Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, một nhà nước thể hiện tính chất nhân dân rộng rãi, Hồ Chí Minh vẫn nhấn mạnh nòng cốt của nhân dân là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và trí thức do giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

 Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp. Nói đến phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là nói đến cách lãnh đạo cho phù hợp với từng thời kỳ. Trong thời kỳ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước, đất nước ta phải vừa iến hành kháng chiến chống giặc ngoại xâm, giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, vừa lãnh đạo nhân dân xây dựng chế độ mới. Do đó, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ta thời kỳ đó không giống với những thời kỳ sau này. Song, trong tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn có những vấn đề cơ bản về phương thức lãnh đạo của Đảng chung cho các thời kỳ. Đó là: Đảng lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, chính sách, kế hoạch; Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước; Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra.

Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước ta thể hiện ở tính định hướng xã hội chủnghĩa của sự phát triển của đất nước bằng cách cải tạo nền kinh tế cũ và phát triển nền kinh tế mới xã hội chủ nghĩa có công nông nghiệp hiện đại, khoa học kĩ thuật tiên tiến. Điều này đã được thể hiện ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời ngày 2-9-1945 trong bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh.

Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thể hiện ở nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh rất chú ý đến tính dân chủ trong tổ chức và hoạt động của tất cả bộ máy, cơ quan nhà nước, nhấn mạnh đến việc phát huy cao độ dân chủ, đồng thời phát huy cao độ tập trung. Nhà nước phải tập trung thống nhất quyền lực để tất cả mọi quyền lực vào tay nhân dân.

Bốn là, dân chủ cũng cần phải có chuyên chính, chế độ nào cũng có chuyên chính, vấn đề là ai chuyên chính với ai. Nhà nước dân chủ nhân dân sử dụng công cụ chuyên chính của nhân dân nhằm trấn áp những kẻ áp bức, bóc lột để bảo vệ lợi ích của nhân dân.

2.2.Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước:

Hồ Chí Minh là người giải quyết rất thành công mối quan hệ giữa các vấn đề giai cấp – dân tộc trong xây dựng Nhà nước Việt Nam mới. Hồ Chí Minh đã giải quyết hài hòa, thống nhất giữa bản chất giai cấp với tính nhân dân, tính dân tộc và được biểu hiện rõ trong những quan điểm sau:

– Nhà nước ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của rất nhiều thế hệ người Việt Nam từ quá trình dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX dân tộc Việt Nam rơi vào khủng hoảng đường lối cách mạng. Trong cuộc đấu tranh trường kỳ chống thực dân Pháp của dân tộc ta, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của các nhà cách mạng tiền bối rất oanh liệt tô thắm cho truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc nhưng độc lập, tự do cho dân tộc vẫn chưa trở thành hiện thực.

– Tính thống nhất của nó còn biểu hiện ở chỗ Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm cơ bản. Bản chất của vấn đề này là ở chỗ, Hồ Chí Minh khẳng định lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của toàn dân tộc là một. Nhà nước ta không những thể hiện ý chí của giai cấp công nhân mà còn thể hiện ý chí của nhân dân và của toàn dân tộc.

– Trong thực tế, Nhà nước ta đã đứng ra làm nhiệm vụ của cả dân tộc giao phó, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến bộ của thế giới. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội rồi đi tới chủ nghĩa cộng sản là con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định cũng là sự nghiệp của chính Nhà nước ta.

3.Xây dựng nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ:

Theo Hồ Chí Minh, nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, trước hết phải là một nhà nước hợp hiến. Hợp hiến, theo nghĩa rộng, là được nhân dân thừa nhận và ủng hộ, giúp đỡ; theo nghĩa hẹp, là được ghi nhận bằng Hiến pháp.

Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ phải là một nhà nước quản lý, điều hành đất nước bằng pháp luật, chứ không phải bằng mệnh lệnh hành chính, độc đoán chuyên quyền. Điều đó chứng tỏ Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò quan trọng cuả pháp luật đối với việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Quản lý nhà nước và xã hội bằng pháp luật là đòi hỏi tất yếu khách quan của một  xã hội dân chủ, trong đó mọi chủ thể đều phải tuân theo pháp luật, không có một ngoại lệ nào. Tư tưởng đề cao vai trò của pháp luật trong xã hội xuất hiện khá sớm, trong “Yêu sách tám điểm”, Người đói thực dân Pháp phải cải cách nền pháp lý ở Đông Dương, “Bãi bỏ chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”…

Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ phải là một nước luôn quan tâm đến việc đưa pháp luật vào đời sống và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trên thực tế, dân chủ và pháp luật phải luôn đi đôi với nhau. Theo Người, có pháp luật là điều kiện cần, còn việc đưa pháp luật vào đời sống làm cho pháp luật có hiệu lực trên thực tế mới là điều kiện đủ. Muốn pháp luật đi vào đời sống thì không chỉ quan tâm, chăm lo hoàn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật trên giấy, mà quan trọng hơn: trước hết là phải tạo ra cơ chế bảo đảm cho pháp luật được thi hành và cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành đó trong các cơ quan nhà nước; trong nhân dân; thứ hai là phải coi trọng việc nâng cao dân chí, ý thức làm chủ, phát triển văn hóa chính trị và tính tích cực của công dân, khuyến khích nhân dân tham gia vào việc của nhà nước, khắc phục mọi thứ dân chủ hình thức.

4.Quan điểm về xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả:

4.1. Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước:

Xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân không bao giờ tách rời với việc làm cho Nhà nước luôn luôn trong sạch, vững mạnh. Khi nước nhà vừa giành được độc lập, chính quyền cách mạng còn non trẻ cũng như lúc cách mạng chuyển giai đoạn, Hồ Chí Minh càng chú ý hơn bao giờ hết đến việc bảo đảm cho sự trong sạch, vững mạnh của các cấp chính quyền, bởi vì thường những lúc đó cách mạng đứng trước những thử thách rất gay gắt. Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ cần phải kiên quyết chỉ rõ cần phải chống ba thứ “giặc nội xâm” là tham ô, lãng phí, quan lieu, nếu không sẽ dẫn tới hậu quả khó lường. Theo Người những tội lỗi ấy cũng giống như Việt gian, mật thám và việc đấu tranh chống những tội lỗi ấy cũng cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận.

4.2. Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng:

Hồ Chí Minh đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa quản lý xã hội bằng pháp luật với phát huy những truyền thống tốt đẹp trong đời sống cộng đồng người Việt Nam được hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử. Trong việc thực thi quyền hạn và trách nhiệm của mình với cương vị là Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh bao giờ cũng thể hiện là một người sáng suốt, thống nhất hài hòa giữa lý trí và tình cảm, nghiêm khắc, bao dung, nhân ái nhưng không bao che cho những sai lầm, khuyết điểm của bất cứ ai. Kỷ cương, phép nước thời nào cũng cần và đều phải được áp dụng cho bất cứ ai. Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh dùng sức mạnh uy tín của mình để cảm hóa những người có lỗi lầm, kéo họ đi với cách mạng, giáo dục những người mắc khuyết điểm để họ tránh phạm pháp.

Trong điều kiện cạnh tranh quốc tế quyết liệt hiện nay,ta không có con đường nào khác là phải “phát huy cao độ nội lực của dân tộc”, mà một trong những nhân tố cơ bản làm nên nội lực đó là phát huy dân chủ. Chính khát vọng dân chủ đã tạo nên sức mạnh kiên cường đấu tranh cho độc lập tự do.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất có quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến”. Vì vậy, Người nhắc nhở: “Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được lên mặt “quan cách mạng” ra lệnh ra oai. Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn”. Mọi chủ trương, đường lối, thuộc tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… đều được Người xem xét và giải quyết từ địa vị người làm chủ và quyền làm chủ của nhân dân.Phát huy dân chủ phải kết hợp chặt chẽ với tăng cường pháp chế, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật. Đồng thời, phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật, đảm bảo cho mỗi công dân đều được bình đẳng trước pháp luật, đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật đều được xét xử nghiêm minh, đúng người đúng tội, không phân biệt người đó là ai, để đem lại niềm tin cho nhân dân và tính nghiêm minh của nhà nước ta.

Cần phải làm cho đội ngũ cán bộ, viên chức quán triệt nhận thức: Nhà nước là một tổ chức công quyền thể hiện quyền lực của nhân dân, nhân viên nhà nước là công bộc của nhân dân. Cải cách thủ tục hành chính, ban hành và hoàn thiện chế độ công cụ;Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức theo đúng chức danh, tiêu chuẩn thực hiện tinh giảm biên chế, xử lý nghiêm minh kịp thời những người vi phạm pháp luật.

Đảng ta là đảng cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Cuộc đấu tranh để khắc phục những khuyết tật của bộ máy nhà nước không thể tách rời cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Để chỉnh đốn lại bộ máy nhà nước, khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng, Đảng phải tự chỉnh đốn, phải nêu gương về mặt trong sạch, vững mạnh. Đó là nhân tố cơ bản và then chốt. Chỉ có sự lãnh đạo của một Đảng trong sạch, vững mạnh mới đưa cải cách bộ máy nhà nước đi đến thành công.

Một nhà nước của dân, do dân và vì dân là điều tất cả người dân đều mong muốn. Qua đó, cho thấy tư tưởng của Người luôn  hướng tới những điều tốt đẹp nhất cho con dân của mình. Nhận thức được tư tưởng của Người là một điều tất yếu để đưa dất nước phát triển lên một tầm cao mới, xứng đáng với sự kì vọng của Hồ Chí Minh.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gồm có:

_Các bộ gồm:Bộ công an; bộ quốc phòng; bộ ngoại giao; bộ nội vụ; bộ y tế; bộ tài chính; bộ tư pháp; bộ xây dựng; bộ khoa học và công nghệ; bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn; bộ kế hoạch và đầu tư; bộ giao thông vận tải; bộ thông tin và truyển thông; bộ lao động, thương binh và xã hội; bộ công thương;bộ văn hoá, thể thao và du lịch; bộ tài nguyên- môi trường; bộ giáo dục và đào tạo.

_Các cơ quan ngang bộ gồm4 cơ quan ngang bộ gồm: Ủy ban Dân tộc, Ngân hàng Nhà nước, Văn phòng Chính phủ, Thanh tra Chính phủ.

Quốc hội quyết định thành lập hoặc bãi bỏ các bộ và các cơ quan ngang bộ theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Tôn giáo một vấn đề tưởng chừng như vô cùng cũ kĩ, nhưng thực chất nó luôn luôn mới mẻ . Cũng bởi vì tôn giáo nằm trong một bộ phận cấu thành nên xã hội này nên cùng với sự thay đổi của loài người mà tôn giáo cũng có những sự biến đổi dù là về nội dung hay chỉ là về hình thức. Ở Việt Nam tôn giáo là một vấn đề luôn được cập nhật thường xuyên bởi tôn giáo là sự phản ánh sự biến đổi của đất nước, xã hội, nó còn phản ánh trình độ nhận thức của con người Việt Nam. Tôn giáo, tín ngưỡng là hoạt động thường xuyên, liên tục của người dân Việt Nam, nó có tầm vô cùng quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân. Nhận thấy tầm quan trọng của tôn giáo, Đảng và nhà nước đã có những chính sách quan tâm đến vấn đề này, thông qua chính sách ấy mà người dân có thể được tự do hoạt động tôn giáo nhưng lại vẫn có thống nhất theo quy định của pháp luật.

      Trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay, vấn đề tôn giáo hiện nay đã được Đảng và Nhà nước ta xem xét, đánh giá lại trên quan điểm khách quan hơn, không xoá bỏ một cách duy ý chí như trước nữa mà nhìn nhận trên quan điểm phát huy những mặt tích cực, gạt bỏ những mặt tiêu cực trong các tôn giáo. đặc biệt là các chỉ thị về tôn giáo, hay quan điểm của các tôn giáo hiện nay là: sống tốt đời đẹp đạo . Để có thể hiểu được sâu sắc vấn đề này em xin chọn đề tài “Những nguyên tắc cơ bản của Mác – Lê Nin trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo và sự vận dụng những nguyên tắc này của Đảng và Nhà nước ở Việt Nam hiện nay”

I. Quan điểm của Mác – Lê Nin trong giải quyết vấn đề tôn giáo

  1. Khái niệm tôn giáo và nguồn gốc của tôn giáo

  Để có thể hiểu được quan điểm của Mác – Lê nin trước tiên ta phải hiểu như thế nào là tôn giáo?

  Tôn giáo là một hiện tượng xã hội ra đời từ rất sớm trong lịch sử nhân loại và tồn tại phổ biến ở hầu hết các cộng đồng người trong lịch sử hàng ngàn năm qua. Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện tự nhiên và lịch sử cụ thể, xác định. Về bản chất, tôn giáo là hiện tượng xã hội phản ánh sự bế tắc, bất lực của con người trước tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, trong nhận thức tôn giáo cũng chứa đựng nhiều giá trị phù hợp với đạo đức, đạo lý con người.

  Tôn giáo ra đời bởi hiều nguồn gốc khác nhau nhưng cơ bản là từ các nguồn gốc kinh tế- xã hội, nhận thức và tâm lý:

      Trước hết là nguồn gốc nhận thức: tôn giáo đã nảy sinh trong xã hội mà trình độ sản xuất hết sức thấp kém, con người hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, bất lực trước những hiện tượng tự nhiên không thể giải thích được, cho đó là một lực lượng siêu nhiên có sức mạnh ghê gớm ở bên ngoài con người, đang chi phối con người. Vì vậy, tôn giáo lúc đầu là đa thần, gắn liền với đặc điểm nhận thức; ánh sáng khoa học đi đến đâu thì tôn giáo lùi đến đó. Biết và chưa biết còn khoảng cách thì còn tôn giáo và tôn giáo sẽ còn tồn tại lâu dài.

     Thứ hai là nguồn gốc KT-XH: Khi xã hội loài người phân chia thành giai cấp và có đối kháng giai cấp, con người phải chịu sự bóc lột của giai cấp thống trị, xã hội bất bình đẳng, con người không giải thích được, nên tìm đến tôn giáo. Con người tìm đến tôn giáo để được che chở bởi đức chúa trời, đức phật, thượng đế… Giai cấp thống trị luôn luôn sử dụng tôn giáo, lợi dụng triệt để tôn giáo để thống trị nhân dân, khống chế nhân dân.

    Thứ ba là nguồn gốc tâm lý tình cảm: Con người tìm đến tôn giáo như tìm đến niềm an ủi, chỗ dựa tinh thần, tôn giáo đã có tác dụng giữ trạng thái thăng bằng, tâm tư, tình cảm của con người. Nó là quan niệm, lòng tin, tình cảm của con người trước những sức mạnh của tự nhiên, những biến cố của xã hội.

  1. Các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo

Một là, giải quyết những vấn đề phát sinh từ tôn giáo trong đời sống xã hội phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Chủ nghĩa Mác – Lenin và hệ tư tưởng tôn giáo có sự khác nhau về thế giới quan, nhân sinh quan và con đường mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Vì vậy, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.

Hai là,  tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân

Khi tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân thì nhà nước xã hội chủ nghĩa phải tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của mọi công dân. Công dân có tôn giáo hay không có tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau. Bất kỳ ai cũng có quyền theo một tôn giáo mình thích hoặc không theo tôn giáo nào; bỏ đạo, theo đạo, chuyển đạo trong khuôn khổ pháp luật là quyền của mọi người Cần phát huy những giá trị tích cực của tôn giáo, nghiêm cấm mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của công dân.

Ba là, thực hiện đoàn kết những người có tôn giáo với những người không có tôn giáo, đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết những người theo tôn giáo với những người không theo tôn giáo, đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ cộng đồng vì lý do tín ngưỡng tôn giáo.

Bốn là, phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong vấn đề tôn giáo

Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tôn giáo. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa, khắc phục mặt này là việc làm thường xuyên, lâu dài. Mặt chính trị là sự lợi dụng tôn giáo của những phần tử phản động nhằm chống lại sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp chủ nghĩa xã hội. Đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động trong lĩnh vực tôn giáo là nhiệm vụ thường xuyên, vừa phải khẩn trương, kiên quyết, vừa phải thận trọng và phải có sách lược với thực tế.

Năm là, phải có quan điểm lịch sử –  cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo

Phải nhìn nhận vai trò tác động của tôn giáo tới đời sống xã hội trong thời kì lịch sử khác nhau là có thể rất khác. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực, các vấn đề của xã hội có sự khác biệt. Bởi vậy mối quan hệ với tôn giáo cũng cần phải rất linh hoạt và mềm dẻo, có những thời điểm phải biết sử dụng tôn giáo như một thứ vũ khí lợi hại để chống lại kẻ thù chung của cả dân tộc.

II. Sự vận dụng những nguyên tắc của Mác – Lê nin của Đảng và Nhà nước ở Việt Nam hiện nay

  1. Tình hình tôn giáo của nước ta hiện nay

Nước ta có nhiều tôn giáo khác nhau, trong đó có 6 tôn giáo lớn: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hòa Hảo với khoảng 20 triệu tín đồ

Những năm gần đây, sinh hoạt tôn giáo có phát triển hơn trước. Số người tham gia các hoạt động tôn giáo tăng lên, các đình chùa, miếu mạo, nhà thờ… xây cất, tu sửa lại. Các hoạt động lễ hội mang màu sắc tôn giáo nhiều lên, mang nhiều màu sắc khác nhau, tất nhiên cũng xuất hiện nhiều hiện tượng mê tín dị đoan. Thực trạng trên, một mặt phản ánh nhu cầu tinh thần của quần chúng, mặt khác cũng nói lên điều không bình thường vì trong đó không chỉ có sinh hoạt tôn giáo thuần túy, mà còn biểu hiện lợi dụng tôn giáo phục vụ cho mưu đồ chính trị và hoạt động mê tín dị đoan.

  1. Sự vận dụng những nguyên tắc của Mác – Lê nin của Đảng và nhà nước

Có thể thấy vấn đề tôn giáo đã được quan tâm từ lâu và trở thành vấn đề mang tính quốc gia. Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; ngày 03/9/1945 tại phiên họp Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm đến vấn đề tôn giáo, người nói “Tôi đề nghị Chính phủ tuyên bố tín ngưỡng tự do và lương – giáo đoàn kết”. Ngày 14/6/1955, người đã ký Sắc lệnh số 234/SL xác định “Việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là quyền lợi của nhân dân”. Qua đây cho thấy vấn đề tôn giáo thực sự rất quan trọng, đó không chỉ là hoạt động thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc mà nó còn phát huy những giá trị nhân văn sâu sắc của dân tộc. Có thể thấy hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng làm đẹp thêm nền văn hóa dân tộc, giúp văn hóa dân tộc thêm phong phú, đa dạng nhưng vẫn mang những nét đặc trưng của văn hóa đất Việt. Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng và nhà nước Việt Nam đã có những chủ trương, chính sách cụ thể để hoạt động tôn giáo, tin ngưỡng đi đúng hướng, đảm bảo được quyền lợi tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân được thực hiện một cách có hiệu quả. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về công tác tôn giáo như Nghị quyết số 24/ NQ-TW ngày 16/10/1990; Nghị quyết số 25- NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành TW Đảng; Quốc hội khoá 11 đã ban hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (số 21/2004/ PL- UBTVQH 11) quy định về các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị 1940/ CT- TTg ngày 31/12/2008 “ về nhà, đất liên quan đến tôn giáo” và nhiều văn bản hướng dẫn của Nhà nước và các bộ, ban, ngành liên quan, tiếp tục khẳng định rõ  “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hoặc không theo một tôn giáo nào” . Các chính sách, pháp luật đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt, sâu sắc của Đảng, Nhà nước Việt Nam đến nhu cầu tín ngưỡng của tín đồ, làm cho quần chúng nhân dân, tín đồ yên tâm phấn khởi tích cực thực hiện tốt cả “việc đạo, việc đời” tin tưởng vào chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, lao động sản xuất phát triển kinh tế – xã hội, đấu tranh ngăn chặn những hoạt động lợi dụng tôn giáo góp phần bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

       Một quốc gia muốn phát triển bền vững cần phải có sự đoàn kết của toàn thể nhân dân, mỗi người dân trong cùng một quốc gia ấy phải có sự nhất trí, đồng lòng, không được có thái độ bất bình đẳng, gây xung đột, đó chính là động lực to lớn giúp đất nước phát triển phồn thịnh. Việt Nam ta cũng cần phải có những nhân tố ấy thì đất nước mới phát triển, như đã biết Việt Nam là một đất nước có hoạt động tôn giáo rất phát triển vì vậy mỗi tôn giáo lại có những quan điểm khác nhau, điều này có thể dẫn đến những đối kháng tác động tiêu cực tới sự phát triển của đát nước. Vì vậy việc đoàn kết những người theo tôn giáo khác nhau, hoặc giữa những người theo tôn giáo với những người không theo tôn giáo là một việc làm hêt sức quan trọng. Đảng và nhà nước đã thực hiện chính sách nhất quán tôn giáo, kêu gọi sự đoàn kết của tất cả những người theo tôn giáo và những người không theo tôn giáo  Mục tiêu hướng đến các tôn giáo là vì lợi ích chung xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, với khẩu hiệu “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” để phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để tổ chức tôn giáo tham gia nuôi dạy trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; hỗ trợ cơ sở chăm sóc sức khoẻ người nghèo, người tàn tật, người nhiễm HIV – AIDS, bệnh nhân phong, tâm thần; hỗ trợ phát triển các cơ sở giáo dục mầm non và tham gia các hoạt động khác vì mục đích từ thiện nhân đạo phù hợp với hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo và quy định của pháp luật. Nhà nước khuyến khích chức sắc, nhà tu hành với tư cách công dân tổ chức hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo theo quy định của pháp luật.

Pháp lệnh và Nghị định quy định hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo có thể bị đình chỉ nếu vi phạm một trong các trường hợp : xâm phạm an ninh quốc gia, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự công cộng hoặc môi trường; xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác hoặc có những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng khác. Quy định này là cơ sở pháp lý quan trọng cho phép cơ quan  nhà nước có thẩm quyền đình chỉ các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo khi nó diễn ra mà xâm phạm, ảnh hưởng, tác động xấu đến các quan hệ xã hội được Nhà nước bảo vệ.

Về việc chế tài xử phạt các hoạt động vi phạm, ngoài nội dung xử lý đối với những hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo vì mục đích chính trị xấu, lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo vào mục đích mê tín dị đoan như trước đây, Pháp lệnh còn nói đến việc xử lý đối với những ai phân biệt đối xử với lý do tín ngưỡng, tôn giáo; vi phạm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của công dân.

Ngày nay có rất nhiều kẻ lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tuyên truyền xuyên tạc về chế độ chính trị của nước ta, với những mưu đồ xấu xa, chia rẽ nội bộ dân tộc. Chúng ta cần phải nhận thức đúng đắn về những điều cần nghe,những điều nên loại bỏ không để những kẻ xấu lợi dụng. Cần có sự cảnh giác cao độ, cùng kêu gọi cho mọi người xung quanh hiểu và cảnh giác. Không chỉ như vây, cần phải phối hợp với cơ quan nhà nước chống lại những âm mưu phá hoại của các thế lực phản động, kêu gọi tinh thần đoàn kết của tất cả mọi người để có biện pháp ứng biến kịp thời với những hành động tiêu cực của những kẻ xấu. Do đó các cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền từ Trung đến địa phương phải chăm lo và bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân, tín đồ, chức sắc các tôn giáo theo pháp luật; phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm những biểu hiện lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo, cũng như những biểu hiện lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật, kích động nhân dân, tín đồ, chức sắc tôn giáo gây rối trật tự ảnh hưởng đến sự ổn định xã hội chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, tăng cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc

     Để khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, không thể dùng mệnh lệnh hành chính hay tuyên truyền giáo dục đơn thuần mà phải chú trọng đến việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Kết hợp với tuyên truyền, giáo dục, nâng cao trình độ nhận thức, trình độ văn hoá, phát huy tinh thần yêu nước để người dân tự nhận thức được vai trò thực sự của tôn giáo trong đời sống hiện thực của họ và chính họ, để họ chấp hành nghiêm chỉnh chính sách, pháp luật của nhà nước.

Những biện pháp đã hạn chế đến mức tối thiểu các hiện tượng tiêu cực trong hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng hiện nay. Nhờ vậy mà hoạt động tôn giáo diễn ra một cách liên tục, ngày càng phát trển hơn, được nâng lên tầng cao hơn. Mọi người dân đã coi hoạt động tôn giáo như một thói quen trong đời sống.

Qua những vấn đề đã trình bày ở trên ta đã phần nào hiểu được những quan điểm của Mác – Lê nin trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo, đó quả là những quan điểm đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh của nước ta hiện nay. Đồng thời qua những quan điểm đó, Đảng và nhà nước ta dễ vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo vào thực tiế đất nước, chính vì vậy mà hoatj động tôn giáo của nước ta thực sự phát triển không ngừng, giải quyết được những vấn đề phát sinh trong hoạt động này, quyền tự do tôn giáo của nhân dân được đảm bảo thực hiện. Không chỉ như vậy mà qua đó còn tạo được sự đoàn kết giữa những người không theo tôn giáo với những người theo tôn giáo, đó chính là sự đoàn kết toàn dân tộc. Tình đoàn kết này có vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo an ninh và trật tự an toàn xã hội. Những chính sách của nhà nước đã có ý nghĩa sâu sắc trong việc giữ gìn những giá trị tốt đẹp của dân tộc, làm đẹp thêm nền văn hóa Việt Nam.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Chế độ phong kiến tồn tại rất lâu trong thế giới của loài người,bản chất của chế độ phong kiến là sự bóc lột giữa giai cáp địa chủ phong kiến người nắm trong tay phần lớn quyền sở hữu ruộng đất bao gồm ( cả sở hữu tư nhân và sở hữu nhà nước ). Bóc lột địa tô với nhiều hình thức đối với những người nông dân không có hay có ít ruộng đất, chính sự bất đó mà trong xã hội đã xuất hiện những giai cấp và đẳng cấp khác nhau. Chế độ phong kiến phương Đông hay chế độ phong kiến Phương Tây cũng đều giống nhau về bản chất hệ thống chính trị có thể là phân quyền các cứ hay theo thể chế quân chủ.  Sau đây chúng ta sẽ đi “so sánh cơ sở kinh tế-xã hội của nhà nước phong kiến Phương Đông và Phương Tây” để tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt của hai nhà nước.

I. Điểm giống nhau về cơ sở kinh tế-xã hội của nhà nước phong kiến Phương Đông và Phương Tây.

Nhà nước phong kiến Phương Đông tiêu biểu là nhà nước phong kiến Trung Quốc còn Phương Tây là nhà nước phong kiến Tây Âu. Chế độ phong kiến có hai cấp cơ bản địa chủ ( phương Tây gọi là lãnh chúa hoặc chú đất ) và nông dân ( ở phương Tây gọi là nông nô ), có phương thức bóc lột đặc trưng là địa tô. Ngoài ra còn tầng lớp thợ thủ công và thị dân. Xã hội lúc này có sự đối kháng rất gay gắt của hai giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Hầu hết nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và xuất hiện một số ngành thủ công nghiệp nhưng còn rất ít. Trong xã hội lúc này vô cùng bất công trong khi tầng lớp địa chủ, lãnh chúa thì giàu có sóng một cuộc sống sa hoa thì người nông dân và nông nô thì vô cúng túng bách ,bần hàn. Chế dộ phong kiến ở hai nhà nước vô cùng khắc nghiệt với giai cấp bị trị họ không có ruộng đất hoặc có ít ruộng đất phải di làm thuê cho địa chủ và lãnh chúa bị đối xử rất tàn bạo. Số ít người nông dân hay nông nô có được ít ruộng đất trong tay thì phải đóng tô thuế vô cùng cao đời sống của họ cũng vô cùng khó khăn. những tầng lớp khác trong xã hội cuốc sống cũng vô cùng bấp bênh. Vì vậy, chế độ phong kiến dù ở Phương Đông hay Phương Tây thì cũng như nhau bóc lột con người một cách thậm tệ để phục vụ cho giai cấp thống trị.

II.Điển khác nhau giữ cơ sở kinh tế-xã hội của nhà nước phong kiến Phương Đông và Phương Tây

Cũng tương tự như thời kì cổ đại, cơ sở kinh tế xã hội của nhà nước phong kiến Phương Đông và Phương Tây nhiều điểm rất khác nhau:

   Ruộng đất là tư liệu sản xuất chính trong chế đọ phong kiến. Ở phương Tây chế độ tư hữu ruộng đất đã phát triển vô cùng triệt để từ thời kì cổ đại. Trong thời kì phong kiến chế độ tư hữu về ruộng đất không những vẫn như vậy mà còn phát triển thanh tư hữu lớn , các lãnh địa hầu hết nông dân mát hết ruộng đất và trở thành nông nô. Ở Phương Đông, chế độ ruộng đất không thuần nhất như vậy. Hiện tượng phổ biến về sở hữu ruộng đất ở phong kiến Phương Đông là tồn tại quyền sở hữu ruộng đất do nhà nước (vua) đồng thời đối với ruộng đất tư nhân, vua cũng có quyền sở hữu tối cao. Tư hữu ruộng đất hầu hết là của đại chủ, chỉ có một phần nhỏ là của nông dân nhưng phát triển chậm . Nói tóm lại, là trong khi ở phương Tây ruộng đất hầu hết thuộc về sở hữu tư nhân ( lãnh chúa ) thì ở phương Đông tồn tại song song sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân (chủ yếu là địa chủ phong kiến).

Đặc điểm của những giai cấp trong xã hội, ở phương Đông địa chủ phong kiến là người  có nhiều ruộng đất riêng và bóc lột bằng điạ tô. Lãnh chúa phong kiến phương Tây là chủ sở hữu ruộng đất lớn, nguồn lợi thu hầu hết bằng đại tô. vì vậy hình ảnh của vị địa chủ phong kiến phương Tây rất nổi hay nói cách khác định tính và định hình của giai cấp địa chủ phong kiến ở phương Tây rõ ràng và đậm nét hơn. Nông nô phương Tây hoàn toàn không có ruộng đất, hoàn toàn phải  lĩnh canh ruộng đất từ lãnh chúa và nộp địa tô cho chủ. Người nông nô là người tá điền phụ thuộc hoàn toàn vào chủ.

 Ở phương Đông ruộng đất thuộc sở hữu của nhà nước, một phần được phong cho quý tộc, quan lại( thường ruộng đất được phong thì không có quyền mua bán), một phần được cấp cho nông dân theo định kì cày cấy để nhà nước thu thuế, như chế độ quân điền ở Trung Quốc, Việt Nam, chế độ ban điền ở Nhật Bản… Địa chủ phong kiến không chỉ bóc lột bằng điạ tô từ số ruộng đất tư của mình mà còn bóc lột bằng thuế dược hưởng bằng phân phong. Người nông đân tuy phải lĩnh canh ruộng đất của địa chủ và nộp tô, những cũng được nhận một phần ruộng đất của nhà nước và phải nộp thuế. Cũng có một số ít nông dân có ruộng đất riêng để cày cấy. Chính vì vậy người nông dân phương Đông còn có tự do thân thể hơn người nông dân phương Tây-người hoàn toàn bị lệ thuộc vào lãnh chúa.

Như vậy, định tính định lượng của các giai cấp ở Phương Đông không sắc nét như ở phương Tây. Trong khi châu Âu cho đến thế kỉ XIV , văn hóa, giáo dục vẫn bị giáo hội kìm hãm, cả xã hội sống trong vòng lạc hậu, tối tăm, thì ở phương Đông như Trung Quốc, Ấn Độ, Ả Rập là những trung tâm văn minh lớn của thế giới với những thành tựu về văn học, triết học, nghệ thuật, khoa học tự nhiên,…với phát minh quan trọng là giấy, nghề in, thuốc súng, la bàn. Khác hẳn với phương Tây, tập đoàn vua quan phong kiến ở phương Đông thường là những nhà tri thức lớn trong xã hội. Trường hợp vua quan không biết chữ hay ít học chỉ là cá biệt, trong dân gian cũng ko ít người có học thức. Từ rất sớm phong cách văn minh, lịch sự, tao nhã đã trở thành nếp sống bình thường của người phương Đông. Chính người phương Tây đã học tập những nếp sống văn minh đó từ những cuộc viễn chinh sang phương đông của thập tự quân cuối thế kỉ XI- XIII.

   Nhìn chung, kinh tế tự cung tự cấp giữ vai trò chủ đạo trong chế đọ phong kiến. Nhưng đến cuối thời kì phong kiến ở phương Tây kinh tế tư bản chủ nghĩa nảy sinh và phát triển đưa phương Tây vượt lên hẳn phương Đông. Các nước phương Đông trừ Nhật Bản đều là thuộc địa của phương Tây.

Về hình thức và chức năng của nhà nước phong kiến Phương Đông và phương Tây trong quản lí kinh tế và xã hội.

Ở phương Tây, hình thức kết hợp của cấu trúc nhà nước, phổ biến và bao trùm là phân quyền các cứ, với những biểu hiện và được quyết định bởi những nguyên nhân khác nhau. Hình thức chế độ chính thể quân chủ chuyên chế chỉ xuất hiện ở thời kì cuối-thời kì suy vong của chế độ phong kiến , tính chuyên chế ở chế độ chuyên chế không cao như ở phương Đông. Ngoài ra còn hình thức chế độ tự trị ở thành phố là chính quyền cục bộ để quản lí đời sống xã hội ở thành phố đó, tồn tại trong thời gian không lâu. Nó là chính quyền cộng hòa phong kiến, nằm trong phạm trù nhà nước phong kiến. Ở phương Đông hình thức kết cấu của nhà nước phổ biến là trung ương tập quyền, phát triển hình thành chính thể quân chủ mang tính chuyên chế cực đoan. Trong chính thể đó vua có quyền tuyệt đối  là đấng chí cao vô thượng và được thần thánh hóa là thiên tử ( con trời ). Quyền sở hữu tối cao ruộng đất thuộc về tay vua và sự tồn tại của công xã nông thôn. sự kết hợp chặt chẽ giữ vương quyền và thần quyền. Cũng như thời kì chiếm hữ nô lệ nhà nước phong kiến ở phương Đông vẫn có chức năng đặc biệt và rất quan trọng chức năng trị thủy, thủy lợi.

Dù phương Đông và phương Tây có những điểm khác nhau, nhưng bản chất của phong kiến dù ở đâu cũng chỉ là một. Nhà nước phong kiến là công cụ của giai cấp phong kiến để đàn áp, bóc lột nhân dân lao động, bảo về quyền vad lợi ích của giai cấp phong kiến thống trị.

Như vậy, nhà nước phong kiến và nhà nước phong kiến phương Tây tuy có nhiều điểm khác nhau và có những đặc trưng riêng về kinh tế-xã hội, những đều là những nhà nước phong kiến, kiểu nhà nước tứ hai trong lịch sử nó đều bảo vệ và củng cố lợi ích của giai cấp phong kiến thống trị  góp phần quản lí đời sống xã hội. Đây là những kiểu nhà nước điển hình trong lịch sử loài người cần được nghiên cứu, đánh giá nhìn nhận đầy đủ và sâu sắc hơn.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Dẫn chứng hàng loạt hệ lụy như tình trạng yêu nhau cũng phạm luật, trẻ xâm hại lẫn nhau, phải sửa đổi Bộ luật hình sự, Luật nghĩa vụ quân sự…, đại biểu đề nghị nên chuyển sự quan tâm đến trẻ dưới 4 tuổi.
Thảo luận về Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em sửa đổi vào chiều 23/3, nhiều đại biểu phản ứng gay gắt với quy định liên quan đến thay đổi độ tuổi trẻ em.

Cho rằng nâng tuổi trẻ em từ 16 lên 18 là “lợi bất cập hại”, đại biểu TP HCM Trương Trọng Nghĩa phân tích, rất nhiều quốc gia trẻ em ngày càng trưởng thành, tuổi chịu trách nhiệm hình sự, dân sự đang trẻ dần. Nếu trước đây là 16, thì bây giờ 14, có quốc gia chỉ 11, 12 tuổi đã phải chịu trách nhiệm hình sự, 7-8 tuổi đã chịu trách nhiệm dân sự.

“Nếu chúng ta quy định từ 16 đến dưới 18 tuổi vẫn là trẻ em thì một loạt hành vi dân sự của các lứa tuổi này là sẽ phải tính toán lại. Chúng ta sẽ phải sửa bộ luật Hình sự: vấn đề kết hôn, giao cấu với trẻ em…”, ông Nghĩa cho hay.

Dẫn chứng công ước Quyền trẻ em có hiệu lực năm 1990 công nhận “trẻ em là người dưới 18 tuổi”, ông Nghĩa cho rằng nếu quy định thấp hơn thì cũng không vi phạm công ước này.

“Hơn nửa thế kỷ qua chúng ta sống trong tinh thần như vậy, sau khi có Công ước 26 năm chúng ta vẫn sống như vậy và không hề vi phạm gì cả. Tôi xin hỏi vì lý do gì vào năm 2016 của thế kỷ 21 chúng ta lại đem khái niệm trẻ em phải là dưới 18 tuổi áp dụng? Để đạt được cái gì? Tôi chưa thấy giải trình thỏa đáng”, ông Nghĩa nêu quan điểm.

Theo ông, người từ 16-18 tuổi ở Việt Nam được ký kết các hợp đồng lao động. Vì vậy, “nói quy định mới không xung đột với quy định hiện hành, tôi không đồng ý. Tôi đề nghị chúng ta phải xử lý và giải trình tất cả các xung đột này trước khi thông qua”, đại biểu TP HCM nhấn mạnh.

Đại biểu Phạm Khánh Phong Lan.

Cũng phản đối gay gắt việc tăng độ tuổi trẻ em từ 16 lên 18, đại biểu Phạm Khánh Phong Lan nêu ý kiến, hiện nay trẻ em trưởng thành sớm hơn trước. “Chúng ta không hạ thì thôi, lại còn tăng độ tuổi lên”, bà nói.

Đại biểu ngành y tế phân tích hai hệ quả nếu áp dụng độ tuổi mới. Một là không tương thích với luật khác, nảy sinh nhiều vấn đề cho xã hội, hai là ảnh hưởng đến ngân sách nhà nước. “Trong báo cáo giải trình, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng không ảnh hưởng gì tới ngân sách, như vậy đồng nghĩa với việc trẻ em cũng không được thêm gì nếu nâng thêm tuổi. Vậy thì tăng làm gì?”, bà thắc mắc.

Bên cạnh đó, theo phong tục vùng miền, nhất là đồng bào dân tộc phía bắc, dưới 16 tuổi đã có nhiều em tảo hôn, nếu tăng tuổi trẻ em thì số người lâm vào trạng thái kết hôn trái luật sẽ tăng.

“Đối với Luật Nghĩa vụ quân sự, nếu đất nước lâm nguy, phải tổng động viên, chẳng lẽ chúng ta tổng động viên cả trẻ em?”, bà Lan đặt câu hỏi.

Ngoài ra, tăng lên 2 tuổi sẽ dẫn đến tình trạng trẻ em xâm hại lẫn nhau, yêu nhau cũng là phạm luật. Và nói một cách hình tượng, ngành y tế phải xây thêm khoa sản trong các bệnh viện Nhi.

“Đề nghị vẫn giữ độ tuổi trẻ em là dưới 16 tuổi. Và đề nghị bỏ phiếu lấy ý kiến riêng về vấn đề này”, Phó giám đốc Sở Y tế TP HCM kiên quyết.

Đại biểu Nguyễn bá Thuyền, thì nhấn mạnh, nếu quan tâm đến trẻ em thì nên quan tâm đến đối tượng từ 16 tháng tuổi đến dưới 4 tuổi. Vì hiện nay nhà nước mới quy định trẻ 5 tuổi thì phải cho đến trường. Còn 16 tháng tuổi đến 4 tuổi thì gửi vào đâu.

“Trường mầm non thiếu nặng nề, đặc biệt là ở các khu công nghiệp. Nhiều công nhân phải bỏ việc để chăm con. Vậy tại sao những cái đáng sửa thì chúng ta không sửa? Chính sách cho vị thành niên tuổi 16-18 hiện nay vẫn có chứ không phải không”, ông Thuyền nói.

Cảm ơn đại biểu vì những đóng góp tâm huyết, Phó chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng cho biết, sau khi hỏi ý kiến Chủ tịch, Quốc hội sẽ lấy ý kiến đại biểu bằng phiếu liên quan đến thay đổi độ tuổi và các vấn đề khác.

Hoàng Thuỳ

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

 

Việt Nam được Liên Hợp Quốc công nhận là quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong vòng 20 năm qua tại khu vực Đông Nam Á, là nước đứng đầu trong khu vực về xóa bỏ khoảng cách giới. Phụ nữ chiếm 48% trong số tổng lao động có việc làm; trẻ em gái được đi học ngày càng nhiều hơn… Tuy nhiên, để người phụ nữ nông thôn tự khẳng định mình và bình đẳng với nam giới là cả một chặng đường dài.

Thực tế cho thấy phụ nữ là lao động chính ở nông thôn hiện nay. Theo số liệu điều tra, ở nước ta hiện nay trong gần 80% phụ nữ của khu vực nông thôn thì có đến 58% hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Phụ nữ nông thôn Việt Nam là một chủ thể quan trọng mang lại thu nhập chính cho gia đình. Họ không chỉ là người lao động chính mà còn là người góp phần sản xuất ra phần lớn nông phẩm.

Công ước CEDAW (Công ước của Liên Hợp Quốc về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ” (Convention on the Elimination of all forms of Discrimination against Women) mà Việt Nam là quốc gia tham gia Công ước. Trong công ước này đã có những điều khoản nhất định bảo vệ quyền của người phụ nữ nông thôn, tiêu biểu là điều 14:

  1. Các nước tham gia Công ước phải quan tâm đến các vấn đề đặc biệt đặt ra đối với phụ nữ nông thôn và vai trò quan trọng của phụ nữ nông thôn trong đời sống kinh tế gia đình, kể cả công việc của họ trong những việc làm không được không được trả công và phải áp dụng mọi biện pháp thích hợp để đảm bảo thực hiện các điều khoản của Công ước này đối với phụ nữ nông thôn.
  2. Các nước tham gia Công ước phải áp dụng mọi biện pháp thích hợp để xóa bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ nông thôn để đảm bảo cho phụ nữ, trên cơ sở bình đẳng nam nữ, được tham gia và hưởng lợi từ quá trình phát triển nông thôn, đặc biệt các nước tham gia Công ước phải đảm bảo cho phụ nữ nông thôn các quyền:
  3. Tham gia xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển ở tất cả các cấp;
  4. Được tiếp cận các phương tiện chăm sóc sức khoẻ thích hợp kể cả thông tin, tư vấn và dịch vụ kế hoạch hoá gia đình;
  5. Được hưởng lợi trực tiếp từ các chương trình bảo hiểm xã hội;

Quyền của người phụ nữ nông thôn về kinh tế đã được nâng lên thông qua việc pháp luật quy định phụ nữ cùng đứng tên với nam giới trong giấy chứng nhận quyền sở hữu đất đai, nhà ở, và tài sản. Việt Nam cũng là một trong số ít các quốc gia đã hoàn thành báo cáo về tình hình thực hiện Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW).

Nhằm mục đích đảm bảo quyền lợi cho người phụ nữ nói chung và phụ nữ nông thôn nói riêng và nội luật hoá các cam kết đã được ghi nhận trong Công ước CEDAW, nhà nước ta đã thể chế hoá những quy định cụ thể trong Hiến pháp 2013, văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Điều 26 Hiến pháp quy định:

  1. Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới.
  2. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội.
  3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.

Luật Bình đẳng giới 2006 cũng có những quy định:

“Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm,

khuyến ngư theo quy định của pháp luật.” (Điểm b Khoản 2 Điều 12 Luật BĐG).

Phần lớn phụ nữ nông thôn gắn liền các hoạt động nông nghiệp ở nông thôn – nơi mà người phụ nữ nông thôn còn chưa nắm bắt được quyền lợi của mình là rất nhiều. Chính vì thế, quyền và lợi ích của họ trong tìm kiếm, tạo việc làm vẫn chưa được đảm bảo một cách tuyệt đối.

Trên thực tế, khả năng lao động của phụ nữ nông thôn không hề thua kém nam giới, năng suất lao động để kiếm thu nhập của họ còn cao hơn nam giới. Bởi lẽ, ở nông thôn phụ nữ tham gia vào sản xuất nông nghiệp nhiều hơn nam giới, đồng thời phụ nữ còn phải gánh vác các công việc đồng áng, gia đình, con cái dẫn đến thiếu thời gian ngủ, hưởng thụ thành quả. Từ những thực trạng đó, không ít quyền của người phụ nữ nông thôn đã bị ảnh hưởng, không được đảm bảo trên thực tế.

Dưới góc độ pháp lý, “ Bình đẳng giới là việc nam nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó” (khoản 3 Điều năm Luật Bình đẳng giới).

Quyền của phụ nữ nông thôn trong nông lâm ngư nghiệp dưới góc độ bình đẳng giới  bao gồm những nội dung sau đây:

Về điều kiện và cơ hội để phát huy năng lực, trong điều kiện kinh tế phát triển mạnh mẽ như hiện nay, vấn đề đào tạo nghề, tạo việc làm cho phụ nữ nông thôn hết sức cần thiết. Bởi chỉ khi được đào tạo nghề, biết cách áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chăn nuôi thì chị em mới có thể cải thiện đời sống kinh tế, tăng thu nhập cho gia đình, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Khi ấy, chị em sẽ có tiếng nói trong gia đình, có cơ hội để được bình đẳng với chồng về kinh tế, hạn chế xảy ra tình trạng bạo lực gia đình, vai trò, vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội sẽ được nâng lên.[2]

Về tiếp cận và kiểm soát nguồn lực, phụ nữ nông thôn thường bị hạn chế hơn nam giới trong tiếp cận đất đai, vốn hay các nguồn lực khác. Điều này ảnh hưởng đến việc đảm bảo và duy trì cuộc sống hàng ngày của họ, làm họ phải lệ thuộc nhiều hơn vào nam giới. Sự bất bình đẳng giới trong tiếp cận đến các nguồn lực và quyền lực ảnh hưởng đến tính tự chủ của phụ nữ trong việc ra quyết định cho sự phát triển của bản thân cũng như gia đình. Sự hạn chế về giáo dục, sức khoẻ và việc thiếu quyền tự chủ của người mẹ đã gây bất lợi trực tiếp cho con cái của họ, gây suy dinh dưỡng của trẻ em, làm tăng chi phí chống suy dinh dưỡng trong tiến trình phát triển nông thôn.

Về mặt tiếp cận nguồn nước sạch và các công trình thủy lợi: Phụ nữ và nam giới ở nông thôn có những vai trò khác nhau trong việc quản lý cung cấp nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường cũng như quản lý khai thác và bảo vệ các hệ thống thủy nông.

Về mặt tiếp cận các dịch vụ tín dụng: Mặc dù pháp luật và chính sách của Nhà nước đều khẳng định phụ nữ và nam giới phải được bình đẳng trong việc tiếp cận tín dụng, song vẫn có những chênh lệch đáng kể trong việc áp dụng các điều luật và chính sách trong lĩnh vực này. Thêm vào đó, phần lớn phụ nữ khó đáp ứng đầy đủ các điều kiện vay vốn tín dụng chính thức vì họ không phải là chủ hộ và không đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hiện nay, các ngân hàng đã nhận thức được sự bất bình đẳng đối với phụ nữ nông dân và nữ chủ doanh nghiệp khi tiếp cận tín dụng.

Về việc thụ hưởng các thành quả của sự phát triển, mặc dù các hoạt động nông lâm ngư nghiệp thường mang tính chất nặng nhọc nhưng vì đời sống khó khăn nên người phụ nữ nông thôn thường không có thời gian nghỉ ngơi.

Về phân công lao động, việc phân bổ thời gian làm việc nhà và các công việc gia đình liên quan giữa phụ nữ và nam giới khác nhau cũng là một nhân tố gây nên tình trạng phân tách giới và kéo theo đó là khoảng cách về thu nhập. Phụ nữ nông thôn thường phải gánh phần lớn công việc nhà và chăm sóc gia đình, trong khi nam giới chủ yếu chịu trách nhiệm làm kinh tế. Khi tất cá các hoạt động này gia tăng, phụ nữ thường phải làm việc nhiều giờ hơn nam giới, và điều này ảnh hưởng đến thời gian giải trí và hạnh phúc của họ.

Về sức khỏe lao động nữ trong sản xuất nông nghiệp nông thôn, theo ước tính của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2007 có gần 4 triệu tấn phân bón các loại bị sử dụng lãng phí do cây trồng không hấp thụ được ( chiếm 55% ) cộng với việc lạm dụng sử dụng tới 75.000 tấn thuốc bảo vệ thực vật mà không tuân thủ các quy trình kỹ thuật đã gây mất cân bằng sinh thái, ô nhiễm nghiêm trọng đất, nguồn nước tại nhiều vùng nông thôn. Cùng với trồng trọt, hàng năm, ngành chăn nuôi cũng “đóng góp” khoảng 73 triệu tấn chất thải, trong đó chỉ có 30% đến 60%  chất thải được xử lý, còn lại xả thẳng ra môi trường. Ngay cả mô hình chăn nuôi trang trại cũng chỉ có 10% trong số 16.700 trang trại có hệ thống xử lý chất thải. Ô nhiễm môi trường sản xuất nông nghiệp nông thôn tác động xấu đến sức khỏe của phụ nữ nhiều hơn nam giới, bởi phụ nữ là người đảm nhận chính các hoạt động sản xuất, trồng trọt và chăn nuôi.

Ở Việt Nam, phụ nữ nông thôn là lực lượng to lớn và quan trọng của quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn. Theo số liệu từ Tổng điều tra dân số năm 2009, trong sản xuất nông lâm ngư nghiệp phụ nữ chiếm 49,9% lực lượng lao động. Trong sản xuất nông nghiệp, vai trò của phụ nữ ngày càng trở nên quan trọng hơn trong quá trình chuyển đổi kinh tế, với sự tham gia của lao động nữ vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng trong khi lao động nam giảm dần. Thời kì 1993-1998, số nam giới tham gia hoạt động nông nghiệp giảm 0,9%. Trong giai đoạn này, 92% số người mới gia nhập lĩnh vực nông nghiệp là phụ nữ, vì nam giới chuyển sang các hoạt động phi nông nghiệp. Hiện tượng này cũng diễn ra tương tự trong nông lâm ngư nghiệp, phụ nữ đã tham gia ngày càng nhiều hơn.

Sống ở vùng nông thôn, với nền kinh tế tự cung tự cấp, phụ nữ phải làm rất nhiều việc nội trợ, nuôi con, tham gia các hoạt động sản xuất nông lâm ngư nghiệp như trồng lúa, trồng rừng, chăn nuôi trâu bò, lợn, gà, nuôi trồng thủy sản…chăm lo phát triển kinh tế gia đình trong điều kiện kinh tế thị trường. Công cuộc đổi mới kinh tế ở nông thôn Việt Nam đã tạo ra mức tăng trưởng rất đáng khích lệ về lĩnh vực sản xuất nông lâm ngư nghiệp. Trong sự thay đổi đó, phụ nữ nông thôn đã có những đóng góp hết sức quan trọng bởi vì họ là lực lượng lao động cơ bản trong sản xuất nông lâm ngư nghiệp. Tuy nhiên, vị thế của phụ nữ trong nền kinh tế thị trường, trong các quan hệ xã hội và trong đời sống gia đình chưa tương xứng với mức độ đóng góp của họ.

Thường xuyên làm việc trực tiếp dưới ánh nắng mặt trời, trong điều kiện tiếng ồn vượt 46,5% mức cho phép và khói bụi quá tiêu chuẩn 10%, phụ nữ nông thôn là đối tượng lao động thiệt hại về sức khoẻ nhiều nhất nhưng ít được chăm sóc y tế nhất.

Theo kết quả khám lâm sàng cho 1.111 nữ lao động nông nghiệp do Vụ Y tế dự phòng (Bộ Y tế) tiến hành năm 2002 tại 7 tỉnh trọng điểm nông nghiệp Yên Bái, Hưng Yên, Nam Định, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Đăk Lăk, Tiền Giang, có đến 39,4% chị em mắc bệnh phụ khoa và răng hàm mặt, 18% có vấn đề về đường tiêu hoá, thần kinh, gần 10% bị các bệnh về cơ xương, đường hô hấp. Đây đều là những bệnh phụ thuộc vào yếu tố môi trường, dinh dưỡng không được phát hiện do người mắc chưa từng đến cơ sở y tế nào để kiểm tra sức khoẻ.

Điều tra trước đó về điều kiện làm việc và thực trạng sức khoẻ của lao động ngành nông nghiệp do Vụ Y tế Dự phòng thực hiện năm 2000 tại 8 tỉnh Thái Bình, Hà Tây, Hà Nội, Khánh Hoà, Đăk Lăk, Tiền Giang, Long An, Kiên Giang cũng cho thấy, hầu hết phụ nữ nông thôn không được khám sức khoẻ (tỷ lệ này lên đến 86,9%). Chị em thường phải làm việc kéo dài 8-17 giờ/ngày với phương tiện sản xuất chủ yếu là thủ công.

Điều đáng chú ý trong điều tra này là có đến 26,2% phụ nữ nông thôn đi phun hoá chất bảo vệ thực vật và vẫn dùng những hoá chất bị cấm như Monitor, Wolfatox. Nhiều chị còn đi phun cả khi mang thai, đang có kinh nguyệt hoặc cho con bú. Vụ Y tế dự phòng cũng thống kê được con số 68,8% phụ nữ phun hoá chất bảo vệ thực vật bị các biểu hiện nhiễm độc; 10,6% chị bị sảy thai. Theo điều tra này, phụ nữ nông thôn là đối tượng lao động bị tai nạn nhiều; ước tính 130 trường hợp/10.000 người (trong đó 58,3% là tai nạn lao động).

Vì sao có thực trạng đó?

Quan niệm và cách ứng xử của xã hội:Tư tưởng trọng nam khinh nữ còn phổ biến trong xã hội, quan niệm và cách ứng xử của xã hội vẫn còn ảnh hưởng khá rõ rệt của chế độ phụ hệ.

Nếp gia trưởng vẫn còn giữ vai trò chủ đạo trong các quan hệ gia đình, đặc biệt là ở nông thôn. Nói chung đa số phụ nữ giữ một vai trò thứ yếu so với nam giới trong gia đình suốt cuộc đời của họ. Do chưa có những nghiên cứu sâu về các biến động của hộ gia đình nông thôn, đặc biệt là các hộ gia đình thuộc các dân tộc thiểu số nên những cố gắng nhằm tăng cường bình đẳng giới trong quá trình ra quyết định và củng cố vị thế của phụ nữ còn bị hạn chế.

Nhận thức các vấn đề về giới còn thấp và chưa đầy đủ

Trong một cuộc điều tra nhận thức và kiến thức về giới, hầu như tất cả (97%) cán bộ được điều tra đều không biết hoặc biết rất ít về các khái niệm cơ bản về giới. Cấp Bộ vẫn chưa có tổ chức chuyên trách về giới để giải quyết một cách đầy đủ các vấn đề giới trong quá trình lập kế hoạch tại các đơn vị, thiếu hệ thống giám sát và đánh giá mang tính nhạy cảm giới. Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ hoạt động nhưng chỉ là kiêm nhiệm.

Công tác cán bộ nữ còn nhiều khó khăn, bất cập

Hiện có quá ít cán bộ chủ chốt là nữ trong toàn ngành nông nghiệp. Mặc dù các chính sách và các văn bản quy định trong quản lý và phát triển nguồn nhân lực được coi là “bình đẳng” hoặc đôi khi còn được coi là ưu tiên phụ nữ, song trên thực tế vẫn còn biểu hiện tư tưởng trọng nam khinh nữ trong công tác tuyển dụng, quy hoạch và đề bạt cán bộ, đồng thời một số chính sách như tuổi về hưu, quy định tuổi đề bạt làm hạn chế sự tham gia của phụ nữ ở các cấp ra quyết định.

Thiếu năng lực và hệ thống thể chế để hòa nhập giới trong việc lập kế hoạch và xây dựng thể chế

Các vấn đề về giới chưa được xem xét một cách hệ thống trong quá trình lập kế hoạch và cải cách hành chính cũng như trong một hệ thống báo cáo và các chỉ số thực hiện của các đơn vị. Số liệu thống kê có phân tách nam nữ rất ít khi được thu thập, phân tích và sử dụng để cải tiến hoạt động. Năng lực hoạt động vì bình đẳng giới của các đơn vị chỉ giới hạn ở một số thành viên đã được đào tạo về kỹ năng phân tích và hòa nhập giới.

Để bảo đảm quyền của phụ nữ nông thôn trong các hoạt động nông lâm ngư nghiệp thì:

Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho chị em về quyền lợi của mình trên góc độ bình đẳng giới. Trong tuyên truyền, các chi hội lồng ghép việc phổ biến, giáo dục pháp luật và ngoài ra hướng dẫn hội viên phụ nữ cách xây dựng một số mô hình chăn nuôi, trồng trọt. Ngoài ra, cần đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền nhằm phổ biến sâu rộng pháp luật để mọi người nhận thức và tự giác thực hiện. Trong quá trình thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước cần khẳng định vai trò và vị trí quan trọng của phụ nữ nông thôn đối với sự ổn định của xã hội và hành phúc gia đình.

Thứ hai, có chính sách nâng cao trình độ dân trí nói chung, trình độ văn hóa và hiểu biết xã hội của người phụ nữ nông thôn nói riêng để họ có cơ hội và điều kiện thực hiện tốt chức năng của mình đồng thời tích cực chủ động tham gia vào xây dựng nông thôn mới. Các cấp Hội cần vận động, hỗ trợ giúp đỡ hội viên nghèo phát triển kinh tế để tăng thu nhập cải thiện đời sống và thoát nghèo; khai thác các nguồn vốn vay và dạy nghề, tạo việc làm cho phụ nữ.

Thứ ba, các cấp hội cùng với các ngành chức năng mở các lớp tập huấn hướng dẫn kiến thức và kỹ năng nuôi dạy con em; góp phần hạn chế tỷ lệ suy dinh dưỡng, tạo điều kiện để trẻ em phát triển toàn diện. Hướng dẫn chị em quản lý, giáo dục con em trong gia đình không phạm tội, mắc các tệ nạn xã hội, phòng chống ma tuý, mại dâm, HIV/AIDS, bạo lực gia đình…gắn với giáo dục truyền thống, đạo đức lối sống. Bên cạnh đó, cần phổ biến kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, kinh doanh, kiến thức vệ sinh an toàn thực phẩm…cho chị em.

Thứ tư, Cải thiện môi trường lao động và sinh hoạt ở nông thôn: Hiện nay môi trường sống ở nông thôn và môi trường sản xuất nông nghiệp đã và đang bị ô nhiễm đến mức báo động. Theo đó, việc phát triển nuôi trồng và đánh bắt thủy sản có thể sẽ tác động tiêu cực đến môi trường nếu các biện pháp phòng ngừa thích hợp không được áp dụng. Do vậy, các chương trình phát triển kinh tế, xã hội ở nông thôn, quá trình công nghiệp hóa cần chú trọng đến việc giữ gìn, bảo vệ môi trường nông lâm ngư nghiệp. Có như thế thì phụ nữ nông thôn mới có thể duy trì được các nguồn thu nhập từ các hoạt động nông lâm ngư nghiệp của mình.

Cuối cùng là phải thay đổi nhận thức xã hội đối với vị trí của người phụ nữ trong gia đình, xã hội. Đặc biệt, cần có những chính sách tích cực nhằm tạo điều kiện và cơ hội cho phụ nữ nông thôn có cơ hội và tiếng nói hơn trong xã hội.

Trên đây là một số vấn đề về quyền của người phụ nữ nông thôn trong các hoạt động nông lâm ngư nghiệp dưới góc độ bình đẳng giới. Qua phân tích thực trạng đồng thời đề ra những giải pháp chúng ta có thể hy vọng rằng quyền của người phụ nữ nông thôn trong các hoạt động nông lâm ngư nghiệp sẽ có nhiều thay đổi theo hướng tích cực và tiến đến bình đẳng thực chất trong xã hội Việt Nam hiện nay.

 

 

 

[1] theo molisa.gov.vn

[2] Bà Phạm Thị Tương Lai Phó giám đốc Sở LĐTBXH Phú Yên

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra, gồm: Chủ tịch, phó chủ tịch và các uỷ viên uỷ ban nhân dân.

_Chủ tịch uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra trong số các đại biểu HĐND tại kì họp thứ nhất của mỗi khoá theo sự giới thiệu của chủ tịch Hội đồng nhân dân theo thể thức bỏ phiếu kín, phải được quá ½ tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân có mặt biểu quyết tán thành.

_Phó chủ tịch uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra tại kì họp thứ nhất của mỗi khoá theo sự giới thiệu của chủ tịch uỷ ban nhân dân, theo thể thức bỏ phiếu kín. Số phó chủ tịch uỷ ban nhân dân mỗi cấp do chính phủ quy định, các phó chủ tịch uỷ ban nhân dân không nhất thiết phải là đại biểu HĐND.

_Các thành viên khác của uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra tại kì họp thứ nhất của mỗi khoá theo sự giới thiệu của chủ tịch uỷ ban nhân dân, theo thể thức bỏ phiếu kín. Kết quả bầu các thành viên của uỷ ban nhân dân phải được chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn; kết quả bầu các thành viên của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn. Số lượng các thành viên của uỷ ban nhân dân được quy định trong Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân hiện hành.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

_Hội đồng dân tộc được thành lập bởi Quốc hội, gồm Chủ tịch, các phó chủ tịch và các uỷ viên Hội đồng. Số lượng thành viên Hội đồng do Quốc hội quyết định, bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội, để nâng cao hoạt động Hội đồng dân tộc có một số thành viên hoạt động theo chế độ chuyên trách.

_Hội đồng tham mưu cho Quốc hội về vấn đề dân tộc.

_Chủ tịch Hội đồng dân tộc được tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ bàn việc thực hiện chính sách dân tộc.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

_Quốc hội thực hiện việc lập hiến ( cần ít nhất 2/3 số phiếu), lập pháp (cần ít nhất ½ số phiếu).

_Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước về đối nội, đối ngoại như kinh tế, xã hội, chính trị, an ninh quốc phòng,…

_Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với việc thực hiện Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; giám sát hoạt động của nhà nước.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

_Uỷ ban thường vụ Quốc hội gồm Chủ tịch và phó Chủ tịch Quốc hội làm Chủ tịch và phó Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội và các uỷ viên. Số thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội do Quốc hội quyết định. Thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội không đồng thời là thành viên chính phủ, hoạt động theo chế độ chuyên trách. _Uỷ ban thường vụ Quốc hội gồm có các ban chuyên môn như Ban công tác đại biểu, ban dân nguyện và viện nghiên cứu lập pháp…

_Quyền hạn, nhiệm vụ:

+Công bố và chủ trì việc bầu cử Quốc hội.

+Tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kì họp Quốc hội.

+Giải thích Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.

+Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, nghị quyết, pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, TAND tối cao, VKSND tối cao; đình chỉ thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, TAND tối cao, VKSND tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và đề nghị Quốc hội bãi bỏ; bãi bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, TAND tối cao, VKSND tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

+Giám sát hoạt động của HĐND; đình chỉ thi hành các văn bản của HĐND tỉnh,thành phố trực thuộc trung ương trái Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và đề nghị Quốc hội bãi bỏ, bãi bỏ các văn bản của  HĐND tỉnh,thành phố trực thuộc trung ương trái pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giải tán HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nếu cần thiết.

+Quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc địa phương…

+Tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội…

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

_Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ giữa các dân tộc.

_Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước.

_Nhân dân không thể thực hiện trực tiếp quyền lực nhà nước.

_Nhân dân uỷ quyền và trao quyền lực cho nhà nước để thực hiện quản lí xã hội.

_Nhà nước chịu trách nhiệm quản lí xã hội bằng quyền lực nhà nước vì lợi ích của nhân dân.

_Nhà nước chịu trách nhiệm và chịu sự giám sát của nhân dân.

_Nhân dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp và gián tiếp.

_Nguyên tắc lãnh đạo của Đảng.

_Nguyên tắc tập trung dân chủ.

_Nguyên tắc bình đẳng và đoàn kết dân tộc.

_Nguyên tắc quyền lực thống nhất, có sự phân công, kiểm soát giữa cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hiến pháp 1946 Hiến pháp 1959 Hiến pháp 1980 Hiến pháp 1992 Hiến pháp 2013
_Mang tính chất của Hiến pháp tư sản.

_Có 5 cấp hành chính gồm: Trung ương, bộ, tỉnh, huyện, xã.

_Có 3 hệ thống cơ quan gồm: Cơ quan quyền lực nhà nước; cơ quan hành chính; cơ quan tư pháp   (chưa có viện kiểm sát)

_Có 4 cấp hành chính gồm: trung ương, tỉnh, huyện, xã.

_Có 4 hệ thống cơ quan gồm: Cơ quan quyền lực nhà nước; cơ quan hành chính; cơ quan xét xử; cơ quan kiểm sát.

 

_Bộ máy nhà nước thể hiện rõ nguyên tắc trách nhiệm tập thể.

_Có 4 cấp hành chính gồm: trung ương, tỉnh, huyện, xã.

_Có 4 hệ thống cơ quan gồm: Cơ quan quyền lực nhà nước; cơ quan hành chính; cơ quan xét xử; cơ quan kiểm sát.

 

_Có 4 cấp hành chính gồm: trung ương, tỉnh, huyện, xã.

_Có 4 hệ thống cơ quan gồm: Cơ quan quyền lực nhà nước; cơ quan hành chính; cơ quan xét xử; cơ quan kiểm sát.

_Có 4 cấp hành chính gồm: trung ương, tỉnh, huyện, xã.

_Có 4 hệ thống cơ quan gồm: Cơ quan quyền lực nhà nước; cơ quan hành chính; cơ quan xét xử; cơ quan kiểm sát.

 

Hệ thống cơ quan quyền lực gồm:

_Nghị viện là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở trung ương được thành lập bằng con đường bầu cử theo nguyên tắc tự do, dân chủ, bỏ phiếu kín. Nhiệm kì 3 năm.

_HĐND: là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương (không có ở cấp huyện và bộ) có nhiệm kì 3 năm.

Hệ thống cơ quan quyền lực gồm:

_Quốc hội: là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp được hình thành bằng con đường bầu cử. Nhiệm kì 4 năm

_HĐND: là cơ quan quyền lực  nhà nước ở địa phương do nhân dân địa phương bầu ra và chịu  trách nhiệm trước nhân dân địa phương.

Hệ thống cơ quan quyền lực gồm:

_Quốc hội: là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp, thực hiện giám sát tối cao HĐND, do nhân dân bầu ra.

_HĐND: là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương do nhân dân địa phương bầu ra chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cấp trên.

Hệ thống cơ quan quyền lực gồm:

_Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp, thực hiện giám sát tối cao HĐND, do nhân dân bầu ra. Nhiệm kì 5 năm.

_HĐND: là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương do nhân dân địa phương bầu ra chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cấp trên.

Hệ thống cơ quan quyền lực gồm:

_Quốc hội; là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, thực hiện giám sát tối cao HĐND, do nhân dân bầu ra. Nhiệm kì 5 năm.

_HĐND: là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương do nhân dân địa phương bầu ra chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cấp trên.

Hệ thống cơ quan hành chính gồm: _Chủ tịch nước nằm trong cơ cấu của Chính phủ.

_Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của nước VNDCCH, do Nghị viện thành lập và chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Chính phủ gồm có: Chủ tịch nước, phó chủ tịch và nội các. Nội các có Thủ tướng, các bộ trưởng, thứ trưởng và có thể có phó thủ tướng.

_Các UBHC ở địa phương: là các UBHC cấp bộ, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Do cấp bộ không có HĐND nên UBHC bộ do HĐND các tỉnh và thành phố bầu ra.

Hệ thống cơ quan hành chính bao gồm:

_Hội đồng Chính phủ do Quốc hội thành lập.

_Các UBHC do HĐND cung cấp thành lập.

Hệ thống cơ quan hành chính bao gồm:

_Hội đồng Bộ trưởng.

_UBND các cấp.

Hệ thống cơ quan hành chính bao gồm:

_Chính phủ.

_UBND các cấp.

Hệ thống cơ quan hành chính bao gồm:

_Chính phủ.

_UBND các cấp.

Hệ thống cơ quan tư pháp gồm:

+TAND tối cao

+Toà phúc thẩm.

+Toà đệ nhị cấp.

+Toà sơ cấp.

_Chánh án TAND tối cao do Chính phủ bổ nhiệm.

_Tổ chức hệ thống toà án theo nguyên tắc xét xử, có sự tham gia của hội thẩm nhưng không được ngang với thẩm phán.

_Toà án thực hiện chức năng xét xử và công tố.

Hệ thống cơ quan tư pháp gồm:

+TAND tối cao.

+Toà án nhân dân các cấp ( trừ cấp xã)

+Toà án quân sự.

_Hội thẩm ngang quyền với thẩm phán.

_Chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.

Hệ thống cơ quan tư pháp gồm:

+TAND tối cao.

+Toà án nhân dân các cấp.

+Toà án quân sự.

_Chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.

Hệ thống cơ quan tư pháp gồm:

+TAND tối cao.

+Toà án nhân dân các cấp.

+Toà án quân sự.

_Chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.

Hệ thống cơ quan tư pháp gồm:

+TAND tối cao.

+Toà án nhân dân các cấp.

+Toà án quân sự.

_Chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.

  Hệ thống cơ quan kiểm sát gồm:

+VKSND tối cao.

+VKSND địa phương.

+VKS quân sự.

_VKS chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.

Hệ thống cơ quan kiểm sát gồm:

+VKSND tối cao.

+VKSND địa phương.

+VKS quân sự.

_VKS chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.

Hệ thống cơ quan kiểm sát gồm:

+VKSND tối cao.

+VKSND địa phương.

+VKS quân sự.

_VKS chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.

Hệ thống cơ quan kiểm sát gồm:

+VKSND tối cao.

+VKSND địa phương.

+VKS quân sự.

_VKS chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

_Đại biểu HĐND phải chịu trách nhiệm trước cử tri, phải liên hệ chặt chẽ với cử tri. Tuy nhiên trong kì hoạt động của mình, đại biểu HĐND phải thể hiện ý chí của đại đa số cử tri. Trong trường hợp mất tín nhiệm sẽ bị cử tri bãi nhiệm vào bất kì thời gian nào.

_Nhân dân có quyền bãi nhiệm các đại biểu mình đã bầu ra, ngoài ra đại biểu HĐND bị cử tri hoặc HĐND bãi nhiệm khi đại biểu đó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.

_Thủ tục cử tri bãi nhiệm đại biểu gần tương tự như thủ tục bầu cử.

_Đại biểu Quốc hội bị bãi nhiệm khi có quá nửa tổng số cử tri đơn vị bầu cử bỏ phiếu bãi nhiệm hoặc khi có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu bỏ phiếu bãi nhiệm.

_Thường trực HĐND và UBND quyết định việc đưa ra HĐND hoặc cử tri bãi nhiệm đại biểu HĐNDtheo đề nghị của Uỷ ban Mặt trận tổ quốc cùng cấp.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc có đóng góp to lớn trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, vai trò của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc từ trung ương đến địa phương, thể hiện qua những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

_Tổ chức các hội nghị hiệp thương để thoả thuận về cơ cấu, thành phần và số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị được bầu làm đại biểu Quốc hội; lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội; lập danh sách sơ bộ và danh sách chính thức những người được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội; lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cử tri nơi cư trú và nơi công tác (nếu có) về những người ứng cử đại biểu Quốc hội;

_Tổ chức để những người ứng cử gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri và vận động bầu cử;

_Tham gia giám sát việc bầu cử đại biểu Quốc hội;

_Tham gia ý kiến với Ủy ban thường vụ Quốc hội trong việc dự kiến cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu Quốc hội được bầu của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương;

_Tham gia vào các tổ chức phụ trách bầu cử ở các cấp như Hội đồng bầu cử, Uỷ ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Ban bầu cử, Tổ bầu cử để chỉ đạo và tổ chức công tác bầu cử.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

_Đại biểu Quốc hội phải chịu trách nhiệm trước cử tri, phải liên hệ chặt chẽ với cử tri. Tuy nhiên trong kì hoạt động của mình, đại biểu Quốc hội phải thể hiện ý chí của đại đa số cử tri. Trong trường hợp mất tín nhiệm sẽ bị cử tri bãi nhiệm vào bất kì thời gian nào.

_Nhân dân có quyền bãi nhiệm các đại biểu mình đã bầu ra, ngoài ra đại biểu Quốc hội bị cử tri hoặc Quốc hội bãi nhiệm khi đại biểu đó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.

_Thủ tục cử tri bãi nhiệm đại biểu gần tương tự như thủ tục bầu cử.

_Để phụ trách công việc bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, pháp luật quy định thành lập Uỷ ban công tác bãi nhiệm, ban công tác, tổ công tác bãi nhiệm.

_Đại biểu Quốc hội bị bãi nhiệm khi có quá nửa tổng số cử tri đơn vị bầu cử bỏ phiếu bãi nhiệm hoặc khi có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu bỏ phiếu bãi nhiệm.

_Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định việc đưa ra Quốc hội bãi nhiệm hoặc đưa ra cử tri bãi nhiệm đại biểu Quốc hội theo đề nghị của Uỷ ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Uỷ ban Mặt trận tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com