Cha bán nhà trong trường hợp 1 người con không đồng ý

 

 

Ngôi nhà hiện tại của chúng tôi đang ở là đứng tên cả ba và mẹ tôi, do ba mẹ tôi tạo dựng nên. Nhưng mẹ tôi đã mất, bây giờ ba tôi muốn bán căn nhà, nhưng duy nhất chỉ có anh cả tôi không đồng ý ( nhà tôi có 4 anh chị em ). Vậy xin hỏi ba tôi có thể bán được nhà mà không cần sự đồng ý của anh tôi không?

 

Gửi bởi: ngô gia bảo

Trả lời có tính chất tham khảo

Vì ngôi nhà trên là tài sản chung của của bố mẹ bạn nên về nguyên tắc được chia đôi, tức là bố mẹ bạn mỗi người có ½ giá trị ngôi nhà trên. Do mẹ bạn đã mất và không để lại di chúc nên phần giá trị ½ ngôi nhà trên sẽ là di sản thừa kế của mẹ bạn được chia cho các đồng thừa kế theo quy định của pháp luật.

Theo điểm a, khoản 1 Điều 676 Bộ luật dân sự, về người thừa kế theo pháp luật thì: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;”. Do đó hàng thừa kế thứ nhất của mẹ bạn gồm: ông bà ngoại của bạn, (nếu ông bà ngoại mất trước mẹ bạn thì không có quyền thừa kế), bố bạn và 4 anh chị em bạn.

Từ những nhận định trên có căn cứ cho rằng ngôi nhà mà bố bạn định chuyển nhượng là di sản thừa kế của của mẹ bạn và vì vậy anh bạn có quyền đối với căn nhà đó. Nếu bố bạn định chuyển nhượng ngôi nhà trên cho người khác thì cần được sự đồng ý của không những bạn mà còn cả sự đồng ý của anh bạn nữa (Trừ trường hợp anh bạn bị tước quyền thừa kế theo quy định tại Khoản 1 Điều 643 Bộ luật dân sự 2005)

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Trả lời bởi: Nguyễn Đức Chính

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Phân chia di sản là sổ tiết kiệm

 


Ba mẹ tôi có 1 sổ tiết kiệm trong ngân hàng do mẹ tôi đứng tên. Số tiết kiệm đó là tài sản được hình thành trong thời kì hôn nhân của ba mẹ tôi. Khi ba tôi chết thì không để lại di chúc, nhà tôi có 3 người con, vậy số tiền đó sẽ được chia như thế nào? Nếu không có sự đồng ý của tôi thì mẹ tôi có quyền lấy hết số tiền đó để làm việc khác hay không? Nếu mẹ đã lấy ra hết rồi thì tôi có đòi lại được không?

 

Gửi bởi: nguyễn cao hưng

Trả lời có tính chất tham khảo

Theo thông tin bạn cung cấp thì tài sản trên được hình thành trong thời kì hôn nhân và là tài sản chung vợ chồng theo quy định tại khoản 1 điều 33 Luật hôn nhân, gia đình 2014. Như vậy, di sản thừa kế được xác định trong trường hợp này sẽ là 1/2 giá trị sổ tiết kiệm, 1/2 giá trị còn lại thuộc sở hữu của mẹ bạn.

Theo quy định tại điểm a khoản 1 và khoản 2 điều 676Bộ luật dân sự 2005 thì mẹ bạn và 3 anh em bạn sẽ được hưởng giá trị bằng nhau trên nửa giá trị sổ tiết kiệm trên.

Tuy nhiên, sổ tiết kiệm ngân hàng là một trường hợp đặc biệt, nếu mẹ bạn là người đứng tên trong sổ tiết kiệm thì mẹ bạn có quyền tự mình xác lập thực hiện giao dịch theo quy định tại khoản 1 điều 32 Luật hôn nhân gia đình 2014: “Trong giao dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng là người đứng tên tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó.”

Nếu di sản thừa kế trên chưa được khai nhận di sản thừa kế, thì theo quy định tại điều 32 Luật hôn nhân gia đình ở trên, mẹ bạn có quyền trong việc sử dụng tài sản trên mà không cần hỏi ý kiến của các bạn.

Nếu di sản thừa kế trên đã được thực hiện khai nhận di sản thừa kế tại cơ quan công chứng, thì khi sổ tiết kiệm trên sẽ thuộc sở hữu chung theo phần của mẹ bạn, bạn và hai người anh em còn lại theo quy định tại khoản 1 điều 216 Bộ luật dân sự 2005: “Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung”. Trường hợp này mẹ bạn chỉ có quyền định đoạt phần tài sản thuộc sở hữu của mình trong khối tài sản trên mà không có quyền tự ý lấy toàn bộ số tiền trên để sử dụng vào mục đích khác nếu không có sự đồng ý của anh em bạn theo quy định tại khoản 1 điều 223 Bộ luật dân sự 2005: “1. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật”. Nếu mẹ bạn tự ý tiêu toàn bộ số tiền trên thì bạn có quyền yêu cầu mẹ bạn hoàn trả khoản tiền thuộc sở hữu của mình.

 

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Luật 52/2014/QH13 Hôn nhân và gia đình

Trả lời bởi: Phạm Thị Bích Hảo

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

 Khởi kiện người vay tiền hiện giờ đang bỏ trốn

 


Có một người vay tiền tôi với số tiền là 300 triệu đồng tiền Việt Nam. Hiện nay người đó đã bỏ trốn cùng với số nợ trên và tôi không cách nào tìm ra được người đó. Tôi chỉ biết người đó tên Mỹ và địa chỉ nơi ở thường trú. Nay tôi muốn làm đơn khởi kiện nhưng tôi không biết là nơi nào có thể tiếp nhận và giải quyết đơn khởi kiện của tôi và cách thức làm đơn như thế nào. Đồng thời xin cho tôi biết hành vi vay tiền rồi bỏ trốn như thế thì sẽ thuộc về mảng hình sự hay dân sự. Tôi phải gửi đơn đến Toà án nhân dân quận huyện hay là cơ quan công an tại địa phương nơi người đó thường trú?

 

Gửi bởi: Trần Anh Phú

Trả lời có tính chất tham khảo

 

Theo Điều 474 Bộ luật dân sự, khi đến hạn, người vay tiền có nghĩa vụ trả lại cho bạn số tiền đã vay (tiền gốc và tiền lãi – nếu có thỏa thuận). Nếu khi giao, nhận tiền, hai bên có lập thành văn bản, trong đó ghi rõ mục đích của giao dịch này là “vay tiền” thì đây là giao dịch vay. Nếu người vay tiền có hành vi gian dối ngay từ khi thực hiện giao dịch hoặc có hành vi tẩu tán tài sản, bỏ trốn… nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc sử dụng khoản tiền vay vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả thì hành vi của người đó có dấu hiệu tội phạm (Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản). Trong trường hợp này, bạn cần làm đơn tố giác gửi cơ quan điều tra, đề nghị điều tra, xử lý người vay. Theo Điều 28 Bộ luật tố tụng hình sự, việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Nếu cơ quan điều tra xử lý người vay bằng biện pháp hình sự thì quá trình giải quyết vụ án sẽ giải quyết đồng thời việc bồi thường cho những người bị hại do hành vi phạm tội đó gây ra.

Trường hợp người vay tiền không có dấu hiệu phạm tội, đây chỉ là giao dịch dân sự bình thường, việc không trả được nợ đúng hạn là do làm ăn thua lỗ hoặc do các tác động khách quan khác…, bạn có quyền khởi kiện người vay ra tòa án, đề nghị xử buộc trả lại tiền (cả gốc và lãi nếu có thỏa thuận). Đây là giao dịch vay tài sản không có tài sản bảo đảm nên sau khi bản án có hiệu lực pháp luật của tòa án tuyên buộc bên vay phải trả tiền cho bạn thì những tài sản của người vay (nếu có) sẽ được cơ quan thi hành án dân sự kê biên, phát mại để trả cho những người bị hại.

Do người vay đã bỏ trốn và bạn không biết địa chỉ của người vay nên theo quy định tại Điều 9 Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTPvề yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện quy định tại Điều 169 của BLTTDS như sau: «Trường hợp trong đơn khởi kiện không ghi đầy đủ cụ thể hoặc ghi không đúng tên, địa chỉ của người bị kiện; tên, địa chỉ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, thì Toà án yêu cầu người khởi kiện ghi đầy đủ và đúng tên, địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Nếu người khởi kiện không thực hiện, thì Toà án căn cứ vào khoản 2 Điều 169 của BLTTDS trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho họ mà không được thụ lý vụ án».

 

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ Luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật Tố tụng dân sự

Bộ luật 24/2004/QH11 Tố tụng dân sự

Bộ luật 19/2003/QH11 Tố tụng hình sự

 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất

 

 

Bố mẹ tôi cho tôi một mảnh đất nhưng chưa sang tên quyền sử dụng đất. Vợ chồng tôi đã san lấp mặt bằng, xây nhà, trồng cây trên mảnh đất này. Tuy nhiên, bây giờ bố mẹ tôi lại ký bảo lãnh vay ngân hàng cho cháu bằng mảnh đất này, vợ chồng tôi không biết và ngân hàng không lấy ý kiến vợ chồng tôi. Nay ngân hàng phát mại mảnh đất, tôi có quyền đòi quyền lợi của mình trên mảnh đất không ?

 

Gửi bởi: bùi đình long

Trả lời có tính chất tham khảo

Trường hợp thứ nhất: Nếu giữa bố mẹ và bạn không có hợp đồng tặng cho tài sản

Bố mẹ bạn vẫn đứng tên trên quyền sử dụng đất nên trường hợp này bố mẹ bạn vẫn có toàn quyền định đoạt đối với mảnh đất này, trong đó có quyền thực hiện ký bảo lãnh tại ngân hàng bằng mảnh đất mà không cần hỏi ý kiến của bạn. Bạn không có quyền đối với mảnh đất này nên khi ngân hàng phát mại, bạn sẽ không có quyền đòi quyền lợi.

Trường hợp thứ hai: Nếu giữa bố mẹ bạn và bạn có hợp đồng tặng cho mảnh đất, đã có công chứng, chứng thực, nhưng bạn vẫn chưa thực hiện đăng kí quyền sử dụng đất.

Đối với tặng cho quyền sử dụng đất, khi chưa đăng ký sang tên, bố mẹ bạn vẫn có thể sử dụng quyền sử dụng đất trên để thế chấp. Khi ngân hàng thực hiện việc phát mại, bạn cũng sẽ không có quyền lợi trong trường hợp này.

Đồng thời, theo quy định tại Điều 467 Bộ luật dân sự 2005 thì:

“1. Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu theo quy định của pháp luật bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu.

2. Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản”.

Ngân hàng sẽ chỉ được quyền phát mãi đối với quyền sử dụng đất mà không được phát mãi nhà của bạn. Bạn có thể thu thập các chứng cứ chứng minh việc mình là người bỏ chi phí, thực hiện việc xây nhà. Sau đó, bạn yêu cầu thanh toán phần chi phí trên khi ngân hàng thực hiện việc phát mại ngôi nhà (nếu có).

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Trả lời bởi: Phạm Thị Bích Hảo

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

 Bồi thường thiệt hại khi gây thương tích như thế nào ?

 

do mâu thuẩn tôi đã tạt nước sôi vào bạn tôi, phỏng ở vai , tôi đồng ý bồi thường cho người đó để kí gấy bải nại . người đó chịu bồi thường nhưng họ nói phải chịu chí phí cho họ tẩy da . trong khi đó trong số tiền bồi thường có khoảng tiền là tổn thất tinh thần . không biết tôi có cần trả chi phí tẩy da cho họ hay không ?

Gửi bởi: chống a mùi

Trả lời có tính chất tham khảo

 

Do mâu thuẩn tôi đã tạt nước sôi vào bạn tôi, phỏng ở vai, tôi đồng ý bồi thường cho người đó để kí giấy bãi nại. Người đó chịu bồi thường nhưng họ nói phải chịu chí phí cho họ tẩy da. Trong khi đó trong số tiền bồi thường có khoản tiền là tổn thất tinh thần. Không biết tôi có cần trả chi phí tẩy da cho họ hay không ?

Theo quy định tại khoản 1.1 tiểu mục 1 mục II Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì có thể hiểu chi phí tổn thất về tinh thần ở đây đã bao gồm chi phí bồi thường cho sự ảnh hưởng đến thẩm mỹ của người bị thiệt hại. Như vậy, trong trường hợp này, chi phí tẩy da nằm trong chi phí bồi thường tổn tất về tinh thần nên nếu bạn đã thỏa thuận bồi thường tổn thất về tinh thần thì không cần trả chi phí tẩy da cho họ nữa. “1.5. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm.

a) Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm được bồi thường cho chính người bị thiệt hại.

b) Trong mọi trường hợp, khi sức khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần cần căn cứ vào sự ảnh hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội, sinh hoạt gia đình và cá nhân…

c) Mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại trước hết do các bên thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.”

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Trả lời bởi: Phạm Thị Bích Hảo

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Xử lý đối với lái xe tai nạn

 


Anh tôi là lái xe trong cơ quan nhà nước. Khi chở 02 cán bộ của cơ quan đi công tác thì bị tai nạn giao thông do va chạm với 01 xe khác đi ngược chiều (xe này 01 người bị thương nhẹ), làm 01 cán bộ trên xe bị thiệt mạng và 01 người bị thương, bản thân anh tôi cũng bị thương nghiêm trọng. Vậy tôi muốn hỏi: Anh tôi sẽ bị xử lý như thế nào về mặt dân sự và hình sự, trong trường hợp có lỗi hoặc không có lỗi? Tôi xin chân thành cảm ơn!

 

Gửi bởi: Trần Văn Thời

Trả lời có tính chất tham khảo

Điều 202 Bộ luật hình sự có quy định về Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, như sau:

“Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu,cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm” (Khoản 1).

Trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm (điểm đ khoản 2)

Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm” (khoản 5)

Điều 617 Bộ luật Dân sự quy định về việc bồi thường thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại có lỗi như sau:

“Khi người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình; nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại không phải bồi thường.”

Trong trường hợp này, nếu qua hoạt động điều tra của cơ quan công an xác định anh bạn không vi phạm những quy định về an toàn giao thông đường bộ: đi đúng làn đường quy định, đúng tốc độ, không tránh, vượt trái phép… và người có lỗi là xe đi ngược chiều thì anh bạn không phải chịu trách nhiệm hình sự và không phải bồi thường thiệt hại. Ngược lại, nếu cơ quan điều tra xác định anh bạn là người có lỗi trong vụ tai nạn thì anh bạn sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo quy định tại Điều 202 Bộ luật Hình sự nêu trên. Cơ quan tố tụng sẽ dựa vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để đưa ra quyết định về hình phạt cho anh bạn. Anh bạn sẽ phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 617 Bộ luật Dân sự.

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Bộ luật 15/1999/QH10 Hình sự

 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

 Chia thừa kế theo pháp luật và thực hiện nghĩa vụ thừa kế

 


Tôi xin được hỏi như sau :gia đình tôi có mảnh đất rộng 40m2 do bố tôi đứng tên. Bố tôi mất không để lại di chúc gì, gia đình tôi còn mẹ và 2 chị em, chị tôi đã đi lấy chồng. Vì công việc tôi cần tiền để làm ăn nên muốn bán căn nhà để lấy vốn làm, nhưng mẹ tôi không đồng ý . Vậy tôi có quyền đòi bán căn nhà để chia đều không? Trước đó bố tôi ốm không còn minh mẫn mẹ tôi và chị tôi có vay tiền của ngân hàng và đưa cho bố tôi điểm chỉ tôi không được biết khoản vay đó, vậy khoản tiền đó tôi có phải chịu chung không?

 

Gửi bởi: Pham thanh chung

Trả lời có tính chất tham khảo

Mảnh đất trên đang thuộc quyền sở hữu chung của bố mẹ bạn nên mẹ bạn sẽ có 1/2 giá trị mảnh đất. Như vậy, di sản thừa kế được xác định trong trường hợp này là một nửa giá trị mảnh đất.

Bố bạn mất không có di chúc nên tài sản bố bạn để lại sẽ được chia theo pháp luật. Khi đó, mẹ bạn và hai chị em bạn là những người được hưởng thừa kế các phần như nhau theo quy định tại điểm a khoản 1 và khoản 2 điều 676 Bộ luật dân sự 2005.

Sau khi khai nhận thừa kế, thỏa thuận phân chia di sản thừa kế mảnh đất trên sẽ thuộc sở hữu chung theo phần của mẹ bạn, bạn và chị gái bạn theo quy định tại khoản 1 điều 216 Bộ luật dân sự 2005. Trường hợp này bạn chỉ có quyền định đoạt phần tài sản thuộc sở hữu của mình trong khối tài sản trên mà không có quyền bán mảnh đất trên nếu không có sự đồng ý của những người thừa kế còn lại theo quy định tại khoản 1 điều 223 Bộ luật dân sự 2005: “Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.”

Về thông tin bạn cung cấp rằng khi bố bạn ốm, không minh mẫn mẹ bạn và chị gái bạn vay tiền của ngân hàng và đưa cho bố bạn điểm chỉ. Nếu có hợp đồng vay tiền với tổ chức tín dụng mà bố bạn là người vay, bạn và những người thừa kế khác có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản bố bạn để lại theo quy định tại điều 637 Bộ luật dân sự. Theo đó, nếu di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thực hiện nghĩa vụ tài sản tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Trả lời bởi: Phạm Thị Bích Hảo

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

 Xâm phạm quyền riêng tư cá nhân

 

Mình có từng vài lần sử dung ipad của một người bạn, còn lưu tài khoản facebook cá nhân trên máy , tình cờ bạn ấy vào message xem tin nhắn của mình và chụp lại nói về chuyện riêng của mình. Như vậy có bị gọi xâm phạm quyền riêng tư hay không?

Gửi bởi: Phung kim phuong

Trả lời có tính chất tham khảo

Bộ luật Dân sự năm 2005 (Ðiều 38), Luật Giao dịch điện tử năm 2005 (khoản 2 Điều 46) quy định quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ; việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư cá nhân phải được người đó đồng ý, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; thư từ, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn, bí mật và việc kiểm soát các loại này được thực hiện khi pháp luật có quy định và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Trường hợp của bạn chưa có hành vi truy cập máy tính của người khác nhằm mục đích xâm phạm đời tư cá nhân mà vì bạn vài lần sử dung ipad của một người bạn, còn lưu tài khoản facebook cá nhân trên máy. Vì vậy, bạn nên nhắc nhở bạn của bạn về hành vi chụp ảnh các tin nhắn mà chưa được sự đồng ý của bạn. Mặt khác bạn nên thay đổi mật khẩu để bảo vệ thông tin trao đổi cá nhân của bạn.

 

Các văn bản liên quan:

Luật 51/2005/QH11 Giao dịch điện tử (Còn hiệu lực)

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thừa kế theo di chúc

 

 

Chú ruột của tôi mất, có đểlại di chúc (có chủ tịch UBND xã chứng thực) cho tôi và con trai của người cô ruột của tôi một mảnh đất (2400m2 tôi 1000m2 em tôi 1400m2), nhưng người vợ của chú tôi không đồng ý mà còn ra phòng công chứng chuyển nhượng toàn bộ tài sản sang tên thím ấy (bao gồm cả đất trong di chúc). Tôi có kiến nghị lên xã rồi khi xã cho mời 2 bên lên để hòa giải thì cán bộ tư pháp xã nói là theo điều 672 BLDS 2005? Vậy xin tư vấn quyền lợi của người được thừa kế theo di chúc là gì?

 

Gửi bởi: Lê Thanh Tùng

Trả lời có tính chất tham khảo

Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Một người chết mà có để lại di chúc hợp pháp thì tài sản của họ sẽ được chia theo di chúc. Tuy nhiên, Điều 669 Bộ luật Dân sự có quy định một trường hợp ngoại lê như sau:

Điều 669.Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:

1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.”

Đối chiếu với quy định trên thì nếu mảnh đất mà chú của bạn để lại cho bạn và em họ của bạn là di sản duy nhất hoặc phần di sản còn lại mà thím được hưởng ít hơn 2/3 so với phần được hưởng theo pháp luật thì thím của bạn vẫn có quyền được hưởng một phần di sản đối với thửa đất mà chú bạn để lại cho 2 bạn. Tuy nhiên, việc thím bạn tự ý làm thủ tục sang tên toàn bộ di sản mà không được sự đồng ý của những người thừa kế khác là trái quy định của pháp luật. Nếu việc hòa giải tại UBND xã không thành thì bạn hoặc những người thừa kế khác có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế, đồng thời yều tòa án hủy các giấy tờ sang tên tài sản mà thím bạn đã thực hiện (nếu thím bạn đã thực hiện được việc này). Thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế là 10 năm kể từ ngày chú của bạn chết. Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong trường hợp này là:

– Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có đất (nếu không có người thừa kế ở nước ngoài);

– Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi có đất (nếu trong số những người thừa kế có người ở nước ngoài).

(Theo Điều 25, Điều 33, Điều 34, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự)

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Bộ luật 24/2004/QH11 Tố tụng dân sự

Trả lời bởi: Nguyễn Đức Chính

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Con nuôi được hưởng thừa kế như thế nào?

 

Gia đình bố mẹ cháu có mấy anh chị em, một số đã mất, hiện nay còn bố cháu, bác trai bị bệnh từ mấy chục năm nay không được minh mẫn, bác gái đang bệnh nặng, không có chồng con. Miếng đất bác trai đang ở hiện nay là do ông bà cháu cho, đứng tên bác trai và bác gái. Mấy chục năm nay, bác gái cháu góp nhặt và dùng cả lương chất độc màu da cam của bác trai để xây căn nhà trên miếng đất ấy. Do hiềm khích với các anh chị em ruột từ ngày còn trẻ, nhất là với bố mẹ cháu, biết mình không còn sống lâu được, nên bác gái đã nhận một người cháu trai họ hàng xa làm con nuôi hợp pháp, nhằm giữ lấy căn nhà và miếng đất, cùng số tài sản riêng của bác. Cháu muốn hỏi là người con nuôi kia được hưởng thừa kế như thế nào nếu như bác gái mất?

Gửi bởi: Đặng Việt Anh

Trả lời có tính chất tham khảo

Thứ nhất, theo thông tin bạn cung cấp thì chúng tôi hiểu rằng miếng đất trên đã được ông bà bạn tặng cho bác trai, bác gái của bạn và hiện nay đã đăng ký sang tên hai bác bạn. Theo quy định tại khoản 2 Điều 467 Bộ luật dân sự 2005 thì việc tặng cho bất động sản trên giữa ông bà bạn và hai bác bạn là hợp pháp và đã có hiệu lực pháp luật: “Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản.”.

Thứ hai, do miếng đất trên là tài sản chung giữa bác trai và bác gái của bạn, nên khi bác gái bạn mất nếu thì một nửa giá trị của miếng đất và căn nhà sẽ là di sản thừa kế. Trong trường hợp bác gái bạn có di chúc thì di sản trên sẽ được phân chia theo di chúc, nếu trường hợp không có di chúc thì di sản sẽ được phân chia theo pháp luật. Hiện nay, pháp luật quy định con nuôi và con đẻ có quyền hưởng thừa kế như nhau, không có sự phân biệt. Việc phân chia di sản theo pháp luật sẽ được xác định như sau: Người hưởng thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bác gái (gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi) sẽ là những người được hưởng phần thừa kế bằng nhau đối với phần di sản trên theo quy định tại khoản 1, 2 điều 676 Bộ luật dân sự. Như vậy, khi bác gái của bạn mất thì người con nuôi của là người được hưởng thừa kế một phần đối với di sản của bác.

 

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

 Sang tên xe máy

Tôi có mua một chiếc xe máy đăng ký 2012 của bạn tôi, đã công chứng hợp đồng mua bán. Tôi muốn làm thủ tục sang tên đối với chiếc xe đó, nhưng tôi và bạn tôi lại ở khác tỉnh. Hồ sơ gốc bạn tôi chưa đi rút đẻ chuyển giao cho tôi. Vậy trường hợp của tôi có thể sang tên được không? Làm thủ tục ở đâu?

 

Gửi bởi: Đặng khắc ngọc

Trả lời có tính chất tham khảo

Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 13 thông tư 15/2014/TT-BCAquy định về đăng kí xe thì trường hợp của bạn nếu không có hồ sơ gốc thì không thể thực hiện sang tên đăng kí xe. Như vậy, bạn cần yêu cầu bạn mình rút hồ sơ gốc, chuyển giao cho bạn để bạn thực hiện việc đăng kí sang tên xe cho mình. Khi đó, bạn chuẩn bị hồ sơ theo quy định tại khoản 1 Điều 9 và khoản 1 Điều 13 Thông tư 15/2014/TT-BCAquy định về đăng kí xe để thực hiện việc đăng ký xe tại cơ quan Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nơi thường trú của bạn.

Điều 13. Đăng ký xe từ tỉnh khác chuyển đến

1. Chủ xe phải xuất trình giấy tờ quy định tại Điều 9 Thông tư này và nộp hồ sơ gồm:

a) Giấy khai đăng ký xe (mẫu số 02 ban hành kèm theo Thông tư này).

b) Chứng từ lệ phí trước bạ theo quy định tại khoản 2 Điều 10 Thông tư này.

c) Giấy khai sang tên, di chuyển xe (mẫu số 04 ban hành kèm theo Thông tư này) và phiếu sang tên di chuyển kèm theo chứng từ chuyển quyền sở hữu xe quy định tại khoản 1 Điều 10 Thông tư này.

d) Hồ sơ gốc của xe theo quy định”.

Các văn bản liên quan:

Thông tư 15/2014/TT-BCA Quy định về đăng ký xe

Trả lời bởi: Phạm Thị Bích Hảo

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Tự ý lập di chúc thay người khác

 


Ông A và bà B có 07 người con chung. Ông A mất năm 1992, bà B mất năm 2006. Năm 2002, bà B lập giấy uỷ quyền toàn bộ đất cho ông T là con bà B, có người làm chứng không có chứng thực của chính quyền. Sau khi bà B và ông T mất thì 4 người con trong gia đình của B tự ý lập di chúc và chỉ thừa nhận bà B có 4 người con, tài sải đã được phân chia. Vậy 04 người con của bà B làm như vật có đúng không? Di chúc cũng như bản công nhận 04 người con của con bà B tự lập có hiệu lực không?

 

Gửi bởi: nguyễn thi yến ngọc

Trả lời có tính chất tham khảo

Điều 464 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Như vậy, di chúc phải thể hiện ý chí của người để lại di sản, những người khác không có quyền và cũng không có cơ sở pháp luật để thực hiện thay. Vì vậy, việc tự ý lập di chúc định đoạt tài sản của bà B là không đúng, di chúc trên sẽ không có hiệu lực pháp luật.

Ông A, bà B đều đã chết mà không có di chúc nên tài sản trên sẽ được phân theo pháp luật. Những người được hưởng thừa kế trong trường hợp này gồm 7 người con của ông A bà B theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 676 Bộ luật dân sự 2005 mà không phụ thuộc vào sự thừa nhận hay không thừa nhận của những người con còn lại. Văn bản công nhận 4 người con của con bà B sẽ không được pháp luật công nhận.

Điều 676. Người thừa kế theo pháp luật

“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Xe khách lật, hành khách trên xe bị nạn được bổi thường thế nào?

 

 

Con tôi đi xe khách 45 chỗ có mua vé tại bến xe, lúc 3 giờ sáng ngày 8/7/2015 xe khách bị lật do tài xế ngủ gật, con tôi bị gãy tay và gãy xương gò má, đã điều trị xong. Trường hợp này chủ xe phải bồi thường cho con tôi theo điều luật nào?

 

Gửi bởi: Đoàn Xuân Nghiệp

Trả lời có tính chất tham khảo

Con của bạn có mua vé để đi xe khách nên theo quy định tại khoản 2 Điều 528 Bộ luật dân sự thì đây là bằng chứng của việc giữa con bạn và chủ xe khách đã giao kết hợp đồng vận chuyển hành khách. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp này được quy định tại Điều 533 Bộ luật Dân sự như sau:

“1. Trong trường hợp tính mạng, sức khoẻ và hành lý của hành khách bị thiệt hại thì bên vận chuyển phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

2. Bên vận chuyển không phải bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và hành lý của hành khách nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của hành khách, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

3. Trong trường hợp hành khách vi phạm điều kiện vận chuyển đã thoả thuận, các quy định của điều lệ vận chuyển mà gây thiệt hại cho bên vận chuyển hoặc người thứ ba thì phải bồi thường.”

Như vậy, con bạn bị thương do tài xế ngủ gật gây tai nạn thì sẽ được chủ xe bồi thường thiệt hại.

Trước tiên, gia đình bạn và chủ xe có thể tự thỏa thuận với nhau về mức bồi thường. Nếu không thỏa thuận được thì con bạn có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Có thể xảy ra các trường hợp sau:

* Nếu hành vi ngủ gật của tài xế có dấu hiệu của tội phạm và bị khởi tố, xử lý về hình sự thì con bạn nộp đơn yêu cầu bồi thường trực tiếp đến cơ quan đang tiến hành giải quyết (công an, viện kiểm sát hoặc tòa án). Việc giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại cho con bạn có thể được tiến hành cùng lúc với việc giải quyết vụ án hình sự theo quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng hình sự.

* Nếu hành vi nêu trên của tài xế chưa đến mức phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì con bạn có thể gửi đơn khởi kiện vụ án dân sự yêu cầu bồi thường thiệt hại đến Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có trụ sở của hãng xe; nơi chủ xe cư trú; nơi con của bạn cư trú hoặc nơi xảy ra tai nạn (theo Điều 25, 33, 35, 36 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011)

Thiệt hại trong trường hợp sức khỏe bị xâm phạm được quy định tại Điều 609 Bộ luật Dân sự và hướng dẫn tại mục 1 Phần II Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP như sau:

Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

– Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

– Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

– Khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Bộ luật 24/2004/QH11 Tố tụng dân sự

Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Trả lời bởi: Nguyễn Đức Chính

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hết thời hiệu chia di sản thừa kế

 


Cụ em sinh được 4 người con( 3 bà, 1 ông) và nhận nuôi 1 ông con nuôi.Cụ bà em mất năm 1968 ,cụ ông mất năm 1972. Khi cụ mất không để lại di chúc Mảnh đất được để lại cho ông em sử dụng, sau khi cụ em mất anh chị em của ông em sống với nhau hòa thuận không điều tiếng gì. Năm 2003 vợ của ông con nuôi có kiện đòi thừa kế 1 phần mảnh đất gia đình em đang ở.Vậy xin hỏi bà ấy có quyền được khởi kiện không và trong trường hợp này tòa sẽ xử như thế nao? (Ông em được cấp sổ đỏ năm 1994 và không ai phản đối gì đến khi việc khởi kiện xảy ra)

 

Gửi bởi: Luong van manh

Trả lời có tính chất tham khảo

Điều 645, Bộ luật Dân sự 2005 quy định: Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Cụ bà bạn mất từ năm 1968, cho đến nay (năm 2015) là 47 năm, đã hết thời hiệu khởi kiện về chia thừa kế. Cụ ông bạn mất năm 1972 đến nay là 43 cũng đã hết thời hiệu khời kiện thừa kế.

Tuy nhiên, điểm 2.4 Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Toàn án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định về việc không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế như sau:

“a. Sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết.

a.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.

a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung”.

Cụ ông, cụ bà bạn mất không có di chúc, đã hết thời hiệu khởi kiện chia thừa kế, theo quy định trên chỉ có thể áp dụng quy định về chia tài sản chung để giải quyết nếu các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận đây là tài sản chung chưa chia.

Tuy nhiên, theo thông tin bạn cung cấp thì các đồng thừa kế là anh em của ông bạn đã thừa nhận quyền sử dụng mảnh đất của ông bạn, không có ý kiến phản đối khi ông bạn làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, hiện nay người con nuôi của ông bạn là một trong các đồng thừa kế cũng không đủ điều kiện khởi kiện vì quyền sử dụng đất lúc này đang đứng tên ông bạn. Người vợ của con nuôi ông bạn không phải là một trong các đồng thừa kế nên đương nhiên không có quyền khởi kiện trong trường hợp này.

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình

Trả lời bởi: Phạm Thị Bích Hảo

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Phân chia di sản thừa kế theo pháp luật

 


Ông nội tôi mất năm 2005 để lại một lô đất, không để lại di chúc, bố tôi cũng mất năm 2011. Đến 2015, mẹ kế của bố tôi và anh chị em của bố tôi muốn bán đất và sang tên cho mẹ kế. Sau khi sang tên và bán được đất rồi, tôi muốn hỏi, tôi có được thừa kế phần mà nếu còn sống bố tôi được hưởng không? Nếu được tôi có thể kiện để đòi lại phần đó không?

 

Gửi bởi: Lê Thị Lan Hương

Trả lời có tính chất tham khảo

Vì ông bạn và bố bạn đều mất mà không có di chúc nên trường hợp này di sản được chia theo quy định của pháp luật như sau:

Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm người có di sản chết và người thừa kế theo pháp luật được xác định theo Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại…”

Ông bạn có 1 mảnh đất, khi ông bạn mất thì bố bạn vẫn còn sống nên bố bạn vẫn được hưởng thừa kế của ông. Di sản của ông được chia cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi. Đầu tiên, những người thuộc hàng thừa kế tiến hành khai nhận di sản thừa kế. Sau khi khai nhận xong, tiến hành đăng ký sang tên quyền sử dụng đất mang tên những người thuộc hàng thừa kế.

Khi bố bạn mất thì phần tài sản là quyền sử dụng đất mà bố bạn được hưởng từ ông bạn được chia theo pháp luật cho những thuộc hàng thừa kế thứ nhất, trong đó có bạn (nếu bố bạn không để lại di chúc). Như vậy, bạn có quyền được hưởng một phần di sản thừa kế của bố bạn. Khi đó bạn có quyền kiện đòi phần thừa kế của mình theo quy định tại điều 645 Bộ luật dân sự.

“Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”

Bạn có thể nộp đơn khởi kiện chia thừa kế tại Tòa án nhân dân quận nơi có bất động sản.

 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông báo mất tích và quyền can thiệp vào tài sản của vợ/chồng

 

 

Ba mẹ tôi sống chung đã hơn 20 năm, đã tạo được một số lượng tài sản nhất định. Vài hôm nay sau khi xảy ra một số mâu thuẫn, mẹ tôi đã gom hết tiền mặt và vàng đến ngân hàng. Vậy sau bao nhiêu ngày thì gia đình tôi có thể thông báo mất tích để tìm mẹ? Trong lúc đó, tôi với tư cách con gái và ba tôi với tư cách là chồng có thể đến ngân hàng để tìm hiểu về số tài sản mẹ tôi đã đem đến đó có được không?

 

Gửi bởi: Ngô Thị Phương Châu

Trả lời có tính chất tham khảo

Căn cứ theo Điều 74, Bộ luật Dân sự năm 2005 về thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, thì phải sau thời gian biệt tích sáu tháng liền trở lên gia đình bạn mới có quyền yêu cầu Toà án thông báo tìm kiếm mẹ bạn.

Theo khoản 1, Điều 78, Bộ luật Dân sự năm 2005 thì :Khi một người biệt tích hai năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án có thể tuyên bố người đó mất tích .

Đối với tài sản mẹ bạn đã mang đến ngân hàng bạn không nói rõ giao dịch là ký gửi, hay thế chấp…, tuy nhiên, theo điểm a, khoản 1, Điều 75, Bộ luật Dân sự năm 2005 thì trong thời gian Toà án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú tài sản mẹ bạn mang đến vẫn thuộc quyền quản lý của Ngân hàng. Theo quy định về nghĩa vụ của người quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú (Điều 76, Bộ luật Dân sự năm 2005) thìngân hàng không có trách nhiệm phải cung cấp thông tin khi bạn và ba bạn đến ngân hàng tìm hiểu về số tài sản này.

Trường hợp Toà án tuyên bố mẹ bạn mất tích thì việc quản lý tài sản của mẹ bạn (trong đó có tài sản mang đến ngân hàng) được thực hiện theo quy định tại Điều 79, Bộ luật Dân sự năm 2005. Cụ thể như sau :

Người đang quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú quy định tại khoản 1 Điều 75 của Bộ luật này tiếp tục quản lý tài sản của người đó khi người đó bị Toà án tuyên bố mất tích và có các quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 76 và Điều 77 của Bộ luật này.

Trong trường hợp Toà án giải quyết cho vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích ly hôn thì tài sản của người mất tích được giao cho con đã thành niên hoặc cha, mẹ của người mất tích quản lý; nếu không có những người này thì giao cho người thân thích của người mất tích quản lý; nếu không có người thân thích thì Toà án chỉ định người khác quản lý tài sản”.

 

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Trả lời bởi: Lan Phương

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

6 tuổi bán vé số có đúng quy định pháp luật?

 

Gia đình chị H đông con nên chúng không được học hành nhiều, đứa nhỏ nhất là thằng Mén – 6 tuổi cũng theo mẹ tìm cách mưu sinh. Ngày 20/4/2014, chị H lãnh 200 tờ vé số và giao lại cho Mén 50 tờ vì nó cũng biết bán vé số và thối tiền. Thằng Mén bán vé số cho nhiều khách, nhưng nó nhớ nhất là ông Tư Ếch vì ông này mua giúp nó 10 tờ. Chiều hôm sau xổ số, 10 tờ vé ông Tư Ếch mua của thằng Mén được giải năm (khoảng 10 triệu). Chị H thấy vậy, liền nảy sinh ý định đòi lại 10 tờ vé của ông Tư Ếch .Chị gặp ông Tư và nói rằng: “Thằng Mén nhà con nhỏ dại, nó xin vài chục tờ vé cầm bán tiếp mẹ nhưng cib nghe người ta nói, nhỏ tuổi như nó bán buôn là sai luật, chú Tư trả vé số cho con nghe, con trả lại chú 100 ngàn…” Vậy chị H nói vậy có đúng không?

Gửi bởi: nguyen thi giao

Trả lời có tính chất tham khảo

Do thông tin bạn cung cấp không đầy đủ về ngày tháng năm sinh của Mén nên chúng tôi chia ra hai trường hợp như sau:

– Trường hợp Mén chưa đủ 6 tuổi thì theo quy định tại điều 21 Bộ luật dân sự 2005: “Người chưa đủ sáu tuổi không có năng lực hành vi dân sự. Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện” thì Mén được coi là không có năng lực hành vi dân sự, mọi giao dịch phải do người đại diện của bé thực hiện (trường hợp này có thể là mẹ bé). Khi đó, giao dịch dân sự về mua bán vé số giữa Mén và ông Tư sẽ bị vô hiệu theo quy định tại điều 130 Bộ luật dân sự 2005: “Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Toà án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện”. Như vậy, trong trường hợp này ông Tư có thể phải hoàn trả lại vé cho chị H và chị H có nghĩa vụ hoàn trả lại khoản tiền mà ông Tư đã mua vé theo quy định tại khoản 2 điều 137 Bộ luật dân sự 2005 về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu: “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.”

– Trường hợp Mén đủ 6 tuổi: theo thông tin bạn cung cấp thì Mén thực hiện việc bán vé số dưới sự đồng ý của chị H nên theo quy định tại khoản 1 điều 20 Bộ luật dân sự 2005: “Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác” thì giao dịch dân sự bán vé số giữa Mén và ông Tư vẫn có hiệu lực pháp luật. Như vậy, ở trường hợp này, yêu cầu của chị H là không đúng quy định pháp luật.

 

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Từ chối di sản thừa kế

 


Bà tôi để lại di chúc một căn nhà cho các cô, bác và ba tôi. Trong đó, hai cô của tôi không có chồng và con, hiện sống cùng với tôi trong căn nhà của bà. Hai cô muốn để phần của mình cho tôi sau này định đọat, nhưng không muốn cho các chú bác tôi biết. Hiện di chúc của bà tôi đang giữ và cả gia đình thì chưa làm thủ tục công bố di sản, hai cô tôi có viết giấy tay và nhờ hai người lớn ở xóm làm chứng, nhưng khi viết giấy tờ thì bà tôi còn sống. Bây giờ bà tôi đã chết, xin hỏi các giấy tờ của 2 cô tôi có giá trị pháp lý không?

 

Gửi bởi: ly ho the can

Trả lời có tính chất tham khảo

Căn cứ theo quy định tạikhoản 1 Điều 667 và khoản 1 Điều 633 Bộ luật dân sự 2005 thì di chúc có hiệu lực pháp luật tại thời điểm bà của bạn mất. Khi đó, các cô của bạn mới có quyền thừa kế đối với phần tài sản trong di chúc của bà bạn. Khi bà bạn còn sống thì hai cô bạn chưa có quyền định đoạt đối với tài sản trên nên văn bản viết tay trên không có hiệu lực.

Ở trường hợp này, nếu 2 cô của bạn vẫn muốn tặng phần di sản được hưởng cho bạn thì 2 cô của bạn nên làm như sau:

Đầu tiên, hai cô của bạn làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế tại tổ chức hành nghề công chứng nơi có bất động sản.

Tiếp theo, hai cô của bạn có thể từ chối quyền thừa kế khi lập biên bản thỏa thuận phân chia di sản và tặng lại phần di sản được hưởng cho bạn.

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Trả lời bởi: Phạm Thị Bích Hảo

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

 Người thuê nhà sử dụng sai mục đích có được bồi thường khi bên cho thuê chấm dứt hợp đồng trước thời hạn?

 

Tôi có cho thuê 1 căn nhà mục đích kinh doanh quán cafe hát, thời hạn 3 năm, 10 triệu/tháng. Trong hợp đồng mục quyền lợi bên thuê có ghi: bên thuê được tiếp tục thuê nhà theo các điều khoản đã thỏa thuận trước đó nếu căn nhà thay đổi chủ sở hữu. Bây giờ mới thuê được 1 năm thì chủ nhà bán nhà và thông báo cho tôi biết cuối tháng phải dọn (từ lúc thông báo tới cuối tháng là chỉ còn 15 ngày). Họ chỉ bồi thường cho tôi 10 triệu. Sau khi thuê nhà tôi có sơn sửa, trang trí lại căn nhà. Không những vậy, quán cafe hát làm ăn thua lỗ nên tôi đi hủy giấy phép kinh doanh, những phòng karaoke thì tôi cho sinh viên thuê ở, còn phòng khách ở dưới thì tôi làm chỗ mua bán thú cưng. Nói tóm lại, mục đích thuê nhà của tôi đã có thay đổi và bên chủ nhà hoàn toàn không biết chuyện này. Tôi đang làm ăn tốt, bắt đầu có mối có nhiều khách, không muốn trả mặt bằng. Tôi đã thỏa thuận với chủ nhà rồi nhưng họ chỉ chịu trả 10 triệu bồi thường và người chủ mới mua không chịu cho thuê tiếp. Vậy tôi có được yêu cầu bồi thường cao hơn không? Tôi cho sinh viên thuê nhà cũng có ký hợp đồng, vậy họ có phải bồi thường thêm về thiệt hại này không? Tôi có bị yếu thế hơn vì đã thay đổi mục đích sử dụng mà không báo cho chủ nhà biết?

Gửi bởi: Chị dinh

Trả lời có tính chất tham khảo

Thứ nhất, Bên cho thuê đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà

Theo quy định tại khoản 2 Điều 133 Luật nhà ở 2014 thì trong trường hợp chủ nhà chuyển nhượng quyền sở hữu nhà ở đang cho thuê cho người khác mà thời hạn thuê nhà vẫn còn thì bên thuê nhà ở là bạn vẫn tiếp tục được thuê nhà ở theo hợp đồng thuê nhà, người chủ mới có trách nhiệm phải thực hiện hợp đồng thuê nhà trên: “Trường hợp chủ sở hữu nhà ở chuyển quyền sở hữu nhà ở đang cho thuê cho người khác mà thời hạn thuê nhà ở vẫn còn thì bên thuê nhà ở được tiếp tục thuê đến hết hạn hợp đồng; chủ sở hữu nhà ở mới có trách nhiệm tiếp tục thực hiện hợp đồng thuê nhà ở đã ký kết trước đó, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.”

Thứ hai: Bên cho thuê sử dụng nhà không đúng mục đích.

Tuy nhiên, theo thông tin bạn cung cấp thì bạn đã có hành vi sử dụng nhà không đúng mục đích như đã thỏa thuận trong hợp đồng và không được sự đồng ý của chủ nhà. Hành vi này có thể là căn cứ để bên thuê nhà đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê với bạn nhà mà không phải bồi thường cho bạn theo quy định tại điểm c, điểm đ khoản 2 Điều 132 Luật nhà ở 2014.

Cũng theo quy định tại Điều 132 (khoản 4 ) Luật nhà ở 2014 thì khi đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà bên cho thê có nghĩa vụ phải báo trước cho bạn ít nhất là 30 ngày nếu không có thỏa thuận khác trong hợp đồng, nếu có thỏa thuận về thời hạn báo trước trong hợp đồng thì thực hiện theo hợp đồng, nếu vi phạm quy định này mà gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Trường hợp này chủ nhà chỉ có nghĩa vụ bồi thường một khoản tiền về việc vi phạm thời hạn báo trước cho bạn mà không có trách nhiệm phải bồi thường các tổn thất khác của bạn vì bạn đã có hành vi vi phạm làm cơ sở để chủ nhà có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng.

 

Các văn bản liên quan:

Luật 65/2014/QH13 Nhà ở (Còn hiệu lực)

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thủ tục xem xét lại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

 

 

Tòa án 2 cấp của tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu xét xử công nhận cho bà Nguyễn Thị Kim Anh mua đất của ông Hồng. Hợp đồng chuyển nhượng ghi thửa 485, tờ bản đồ 13xã Tân Phước (quyền sử dụng đất này trước đây ông Hồng mua của ông Đang nhưng chưa làm thủ tục cấp GCNQSD đất). Tòa án 2 cấp tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu buộc ông Đang phải giao thửa 485, tờ bản đồ số 03 cho bà Kim Anh. Chi cục Thi hành án huyện Tân Thành đã ban hành quyết định thi hành án, cưỡng chế thi hành án theo Bản án phúc thẩm của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Ông Đang đã đề nghị người có thẩm quyền xem xét lại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm nhưng Chánh án Tòa nhân dân tối cao có thông báo bác đơn yêu cầu giám đốc thẩm của ông Đang. Ông Đang phải làm đơn đến cơ quan nào để được xem xét lại bản án? Trường hợp nào thì xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao? Tôi rất mong được sự giúp đỡ và tư vấn của Ban tư vấn pháp luật, Xin chân thành cảm ơn!

 

Gửi bởi: Võ Thị Mỹ Dung

Trả lời có tính chất tham khảo

 

Theo quy định của Luật Thi hành án dân sự bản án có hiệu lực pháp luật, cơ quan thi hành án dân sự phải tổ chức thi hành, thời hạn tự nguyện thi hành án theo Luật thi hành án dân sự năm 2008 là 15 ngày và theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự là 10 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án nếu người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế thi hành án (Điều 45, Điều 46). Do đó, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Thành căn cứ Bản án phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có hiệu lực pháp ra quyết định thi hành án và tổ chức cưỡng chế thi hành án là phù hợp quy định của Luật Thi hành án dân sự.

Theo tình tiết mà bạn cung cấp ông Đang đã đề nghị người có thẩm quyền xem xét lại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm nhưng Chánh án Tòa nhân dân tối cao có thông báo bác đơn yêu cầu giám đốc thẩm. Như vậy, người có thẩm quyền đã xem xét và thấy không có căn cứ để xem xét lại bản án theo Điều 283 Bộ luật Tố tụng dân sự: Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:

1. Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;

2. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng;

3. Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.

Trong thời hạn một năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, nếu phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đó thì đương sự có quyền đề nghị bằng văn bản với Chánh án Toà án nhân dân tối cao hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Về thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao được quy định tại Điều 310a Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung năm 2011 như sau: Khi có căn cứ xác định quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định mà Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, đương sự không biết được khi ra quyết định đó, nếu có yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội, kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thì Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét lại quyết định đó.

 

 

Các văn bản liên quan:

Luật 64/2014/QH13 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Bộ luật 24/2004/QH11 Tố tụng dân sự

Trả lời bởi: Nguyễn Thị Thu Hằng

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Con nuôi có được hưởng thừa kế?

 

Bà không có gia đình và nhận chồng tôi làm con nuôi. Nhưng hiện tại bây giờ bà đang ốm nặng không giao tiếp và không cử động được, vợ chồng tôi vẫn đang chăm sóc cho bà. Vậy khi bà mất thì việc thừa kế sẽ như thế nà? Thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất sẽ ra sao?

Gửi bởi: phượng

Trả lời có tính chất tham khảo

Việc hưởng thừa kế không có sự phân biệt giữa con nuôi, con đẻ hay con ngoài giá thú, vì vậy, trường hợp này chồng bạn có quyền được hưởng thừa kế của bà. Khi bà mất không có di chúc, tài sản của bà sẽ được chia theo pháp luật. Theo thông tin bạn cung cấp thì chồng bạn là con nuôi của bà và bà không có chồng con nên chồng bạn là người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bà theo quy định tại điều 676 Bộ luật dân sự 2005.

Khi bà mất, để làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất này sang tên chồng bạn, trước hết chồng bạn phải làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế tại tổ chức hành nghề công chứng trong phạm vi thành phố nơi có bất động sản theo thủ tục quy định tại điều 58 Luật công chứng 2014. Sau khi đã hoàn tất thủ tục, chồng bạn thực hiện thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất sang tên mình.

 

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự 

Luật 53/2014/QH13 Công chứng (Còn hiệu lực)

 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Nghĩa vụ thanh toán khi chủ nợ qua đời

 

Năm 2010 do tôi làm ăn gặp khó khăn nên bố mẹ tôi có bán mảnh đất cho vợ chồng anh chị người quen số tiền 700 triệu để cho tôi trả nợ, do là chỗ quen biết thân tình nên khi mua anh chị ý mới trả 200 triệu và nói với bố mẹ tôi sang tên sổ đỏ để làm thủ tục vay ngân hàng rồi trả nốt số tiền. Tuy nhiên sau khi sang tên sổ đỏ vợ chồng anh chị này cầm sổ đỏ đó đi thế chấp ngân hàng nhưng bị từ chối vì có nợ xấu. Lúc này gia đình tôi mới biết bị lừa vì vợ chồng anh chị ta làm ăn thua lỗ, nợ nần ngân hàng và nhiều người nữa. Sau đó gia đình tôi đòi ráo riết thì vợ chồng họ trả được thêm 270 triệu (trả bằng nhiều lần). Đến năm 2013 số tiền còn nợ là 230 triệu thì vợ chồng họ đến gia đình tôi viết giấy hẹn mỗi tháng trả 10 triệu nhưng trả được 3 lần thì từ đó đến nay không trả nữa. Năm 2014 sau khi bố tôi mất gia đình tôi có đến đòi thì vợ chồng họ hứa hẹn mỗi tháng trả 1-2 triệu nhưng đến nay chưa trả thêm được đồng nào. Vậy giờ tôi có thể làm đơn kiện vợ chồng anh ta để đòi số tiền còn lại được không?

Gửi bởi: Nguyễn Thị Hanh

Trả lời có tính chất tham khảo

Căn cứ theo thông tin bạn cung cấp thì vợ chồng người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất chưa thanh toán đủ tiền mua nhà cho gia đình bạn tuy nhiên gia đình bạn đã sang tên và trao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người mua.

Thứ nhất: Về trách nhiệm của bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Theo điều 701 Bộ luật Dân sự 2005 thì bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có những nghĩa vụ sau :

– Trả đủ tiền, đúng thời hạn và đúng phương thức đã thoả thuận cho bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất;

– Đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai;

– Bảo đảm quyền của người thứ ba đối với đất chuyển nhượng;

– Thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật về đất đai.

Theo quy định tại Điều 374 Bộ luật dân sự 2005 về căn cứ nghĩa vụ dân sự này thì việc cha bạn mất không phải là căn cứ chấm dứt nghĩa vụ thanh toán của bên nhận chuyển nhượng nên trường hợp này bạn và những người đồng thừa kế của cha bạn có thể cùng làm đơn khởi kiện đến tòa án nhân dân có thẩm quyền để yêu cầu người mua thực hiện trách nhiệm thanh toán.

Thứ hai: Thủ tục khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền thực hiện theo điều 203 Luật Đất đai 2013 về Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai. Cụ thể: Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau: Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết.

Như vậy, gia đình bạn chuẩn bị đơn khởi kiện và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cùng các giấy tờ chứng minh vi phạm nghĩa vụ thanh toán để nộp hồ sơ khởi kiện tại Tòa án nơi có bất động sản.

 

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự 

Luật 45/2013/QH13 Đất đai (Còn hiệu lực)

 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Đăng hình ảnh, video riêng tư của người khác có vi phạm pháp luật?

 

Cách đây 2 năm tôi có quen 1 người con trai nhưng giờ người đó đã có gia đình. Vợ chồng người đó có những cuộc ghi âm, hình ảnh và video riêng tư mà lúc trước chúng tôi còn quen nhau. Bây giờ họ nói sẽ đưa cho gia đình tôi xem và đăng lên mạng xã hội. Tôi muốn hỏi như vậy có phải đã xâm phạm chuyện đời tư và quá khứ của tôi hay không ?

Gửi bởi: nguyễn minh thư

Trả lời có tính chất tham khảo

Pháp luật quy định cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình, việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý, nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh (Điều 31 Bộ luật dân sự 2005).

Như vậy, việc sử dụng hình ảnh, video của bạn phải được sự đồng ý của bạn, nếu tự ý thực hiện hành vi sử dụng phát tán hình ảnh, video của bạn thì tùy vào mức độ có thể bị xử lý về hình sự đối với Tội làm nhục người khác được quy định tại khoản 1 Điều 121 Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009: “ Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. Ngoài ra, nếu hành vi trên gây thiệt cho bạn thì bạn có thể yêu cầu bồi thường theo quy định tại Điều 611 Bộ luật dân sự 2005.

 

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Luật 37/2009/QH12 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự (Hết hiệu lực toàn bộ)

Bộ luật 15/1999/QH10 Hình sự (Hết hiệu lực toàn bộ)

 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quyền lợi của người thực hiện công việc theo ủy quyền

 

Ông bà tôi có hiến 1 phần đất cho chùa để trồng cây phước thiện, nhưng bị người khác chiếm ở trái phép nên chùa không muốn tranh chấp nên đã làm giấy tờ trả lại cho ông bà tôi. Vì tuổi già nên ông bà tôi có làm giấy ủy quyền cho cha tôi đi kiện để lấy lại phần đất và đến khi kiện được cha tôi sẽ nhận phần đất trên. Ông tôi mất 2001, bà tôi mất 2009, đến khi bà tôi mất thì vụ kiện vẫn chưa xong. Đến năm 2011, vụ kiện mới hoàn tất, người chiếm đất trái phép đồng ý trả lại phần đất cho chùa, và chùa chỉ đồng ý trả lại phần đất cho ông bà tôi, không đồng ý trả cho cha tôi. Bây giờ cô, chú tôi đòi chia thừa kế phần đất đó. Vậy cho tôi hỏi, theo quy định về giấy ủy quyền của người đã mất thì cha tôi phải chịu chia thừa kế dù đã bỏ thời gian và chi phí không hề nhỏ để có lại được phần đất hay là vẫn được thừa hưởng phần đất?

Gửi bởi: Hoàng Huỳnh

Trả lời có tính chất tham khảo

Điều 581 Bộ luật dân sự 2005 quy định về hợp đồng ủy quyền như sau: “ Hợp đồng ủy quyền là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, còn bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.” Theo quy định này thì hợp đồng ủy quyền về việc thực hiện công việc theo ủy quyền là khởi kiện mà không thể là cơ sở để chuyển nhượng phần đất trên cho cha bạn. Như vậy, trường hợp này, mảnh đất trên vẫn thuộc quyền sử dụng của ông bà bạn nên sẽ là di sản chia thừa kế khi ông bà bạn mất.

Tuy nhiên, khoản 2 điều 585 Bộ luật dân sự 2005 quy định về quyền của bên được ủy quyền như sau: “ Hưởng thù lao, được thanh toán chi phí hợp lý mà mình đã bỏ ra để thực hiện công việc ủy quyền.” Theo quy định này thì trước khi chia thừa kế mảnh đất trên, cha bạn có quyền yêu cầu những người thừa kế chi trả chi phí mà cha bạn đã bỏ ra. Những người thừa hưởng thừa kế có nghĩa vụ chi trả phần thù lao, chi phí trên cho cha bạn trên phần thừa kế mà họ được hưởng.

 

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Chia di sản thừa kế khi anh trai chết không để lại di chúc

 

Anh trai tôi đã mất hiện tại tài sản còn lại là nhà và đất ở. Trước khi anh trai mình kết hôn ba mẹ mình có cho anh một thửa đất, làm sổ đỏ anh đứng tên. Sau khi kết hôn có làm nhà trên thửa đất đó. Giờ anh tôi mất đột ngột không có di chúc để lại tài sản. Người vợ muốn gia đình mình làm thủ tục sang tên cho chị ấy. Gia đình tôi không chấp nhận chỉ đồng ý để khi cháu tôi đủ 18 tuổi sẽ sang tên lại cho cháu. Nhưng chị ấy không đồng ý, viết đơn kiện buộc gia đình tôi phải sang tên cho chị. Vậy chị có đủ thẩm quyền tự ý sang tên mà không cần sự đồng ý của gia đình mình không? Tài sản đó chị ấy có quyền thừa hưởng hay chỉ cháu tôi mới được thừa hưởng?

Gửi bởi: Phan thị phượng

Trả lời có tính chất tham khảo

Thứ nhất, Vì anh trai bạn mất không có di chúc nên di sản thừa kế sẽ được chia theo pháp luật.

Theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự 2005 thì những người được hưởng thừa kế trong trường hợp này là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết, những người thừa kế sẽ được hưởng phần thừa kế bằng nhau. Theo những thông tin bạn cung cấp thì chúng tôi có thể tạm thời xác định những người được hưởng thừa kế của anh bạn là bố mẹ bạn, vợ và con của anh bạn.

Thứ hai, theo thông tin bạn cung cấp thì thửa đất trên anh bạn được tặng cho riêng trước thời kỳ hôn nhân nên thuộc sở hữu riêng của anh trai bạn.

Căn nhà xây dựng trên đất được hình thành trong thời kỳ hôn nhân nên được coi là tài sản chung vợ chồng theo quy định tại khoản 1 điều 33 và điều 43 Luật hôn nhân gia đình 2014.

Như vậy, di sản thừa kế khi anh bạn mất trong trường hợp này gồm mảnh đất và một nửa giá trị căn nhà trên. Khi hoàn tất thủ tục thừa kế thì tài sản trên thuộc sở hữu chung của những người thừa kế. Vì vậy, chị dâu bạn không có quyền tự sang tên mảnh đất trên cho mình nếu không có sự đồng ý bằng văn bản của những người đồng thừa kế khác (gồm bố mẹ bạn, cháu bạn)

 

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Luật 52/2014/QH13 Hôn nhân và gia đình (Còn hiệu lực)

 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

 Trẻ em nhờ mua hộ mỹ phẩm rồi không trả tiền có khởi kiện được không?

 

Tôi 20 tuổi, có quen biết bé X học sinh lớp 6. X thấy da tôi đẹp nên muốn xài mỹ phẩm giống tôi. Tôi chỉ hiệu mỹ phẩm và chỗ mua cho X, X nói không đi mua được nên năn nỉ nhờ tôi mua dùm. Số lượng mỹ phẩm X nhờ tôi mua nhiều nên tôi nói để tôi đi coi giá và báo nếu đồng ý tôi mới mua. X đồng ý nhưng nói tôi ứng trước tiền đi. Tôi thấy quen biết tin tưởng nên tôi ứng trước tiền mua là gần 2 triệu. X hẹn gặp tôi để lấy đồ nhưng nói chưa có tiền nên khoảng 2 tháng sau có tiền sẽ gửi trả tôi. Sau đó 2 tháng mẹ X gọi điện thoại cho tôi nói tôi dụ dỗ X. Tôi đã giải thích đàng hoàng cặn kẽ nhưng mẹ X vẫn không tin. Bây giờ mẹ X nói không trả lại khoản tiền hoặc hàng hóa mua dùm lại cho tôi. Vậy tôi có thể kiện đòi tiền được không?

Gửi bởi: Dương Ánh Nga

Trả lời có tính chất tham khảo

Khoản 1 Điều 20 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “1. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác.” Theo thông tin bạn cung cấp thì bé X đang là học sinh lớp 6, tức là chưa đủ 18 tuổi, việc mua mĩ phẩm và với giá trị lớn không phải là nhu cầu hằng ngày phù hợp với lứa tuổi nên giao dịch dân sự này phải có sự đồng ý của mẹ bé thì mới có hiệu lực pháp luật. Như vậy, giao dịch dân sự trong trường hợp này bị vô hiệu theo quy định tại Điều 130 Bộ luật dân sự 2005: “Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Toà án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện.”

Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại khoản 2 Điều 137 Bộ luật dân sự 2005 như sau: “ Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.” Như vây, mẹ bé X không có nghĩa vụ phải trả tiền cho bạn nhưng X có nghĩa vụ phải trả lại hàng hóa đã mua cho bạn. Trường hợp không trả lại được hàng hóa trên thì phải bồi thường bằng tiền.

 

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Có thể lập di chúc có điều kiện không?

 

Tôi không có chồng và có 1 con trai. Nay tôi lập di chúc với nội dung như sau: tài sản để lại cho con, riêng căn nhà thì để con tôi rồi đến đời các cháu tôi ở nhưng không được quyền bán. Nếu như sau này khu đất đó nhà nước quy hoạch, làm lợi ích cho đất nước cho dân, thì con tôi nhận đền bù và di dời đi. Xin hỏi nếu như vậy thì bản di chúc có hợp pháp không ?

Gửi bởi: Nguyen thi mai

Trả lời có tính chất tham khảo

Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác. Pháp luật thừa nhận và bảo hộ quyền lập di chúc của người để lại tài sản. Tuy nhiên, nội dung di chúc phải dựa trên các quy định pháp luật, tuân thủ các điều kiện của pháp luật mới có hiệu lực pháp luật. Điều 648 Bộ luật dân sự 2005 quy định về các quyền của người lập di chúc bao gồm:

– Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;

– Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;

– Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;

– Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;

– Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.”

Bạn muốn sau khi chết sẽ giao cho con trai nhà ở và đất ở với điều kiện không được chuyển nhượng nhà đất cho người khác. Như vậy có hai trường hợp xảy ra như sau:

Trường hợp thứ nhất: Nếu bạn muốn nhà đất của bạn để lại được dùng vào việc thờ cúng, đồng thời giao cho con trai bạn trực tiếp thực hiện việc thờ cúng và được ở trên nhà đất này thì con trai bạn sẽ không được chuyển nhượng cho người khác. Trường hợp này được quy định cụ thể tại Ðiều 670, Bộ luật dân sự 2005 như sau: Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.

Như vậy, nếu bạn muốn sau khi bạn chết, con trai bạn không được chuyển nhượng nhà đất này thì trong di chúc bạn cần nêu rõ nhà đất bạn để lại sẽ được dùng vào việc thờ cúng và giao nhà đất này cho con trai của bạn quản lý.

Trường hợp thứ hai: Nếu bạn muốn viết di chúc với nội dung là sau khi bạn chết sẽ cho con trai bạn thừa kế nhà đất của mình với điều kiện không được chuyển nhượng nhà đất này cho người khác thì về nguyên tắc, con bạn sẽ không được chuyển nhượng.

Tuy nhiên, trên thực tế thì rất khó để kiểm soát việc con trai bạn có thực hiện theo đúng ý nguyện của bạn hay không. Bởi lẽ, sau khi bạn chết, theo quy định của pháp luật, con trai bạn có quyền làm thủ tục theo để đăng ký sang tên quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở mà con bạn được nhận theo di chúc. Khi đã trở thành chủ sở hữu khối tài sản được thừa kế, con trai bạn có toàn quyền của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật (quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt) nên việc bán hay không bán khối tài sản này tùy thuộc vào con trai bạn.

Mặt khác, các cơ quan thực hiện thủ tục sang tên này cũng không ghi nhận điều kiện chuyển nhượng trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (giấy chứng nhận). Do đó, việc cho con trai bạn được thừa kế nhà đất nhưng lại không được chuyển nhượng cho người khác là việc khó thực hiện được trên thực tế.

 

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

 Tặng cho bất động sản có điều kiện

 

Năm 2012, bố chồng tôi cho vợ chồng tôi một mảnh đất (đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) với điều kiện vợ chồng tôi phải chăm sóc, phụng dưỡng bố mẹ chồng tôi đến khi mất, lo ma chay hương hỏa. Bố tôi đã đến văn phòng công chứng lập một hợp đồng tặng cho với điều kiện trên. Sau khi được tặng cho, chồng tôi đã dỡ bỏ nhà cũ, xây nhà mới. Gần đây giữa vợ chồng tôi và bố mẹ chồng xảy ra mâu thuẫn, bố mẹ chồng tôi nói không thể sống chung với vợ chồng tôi nữa. Do không có chỗ ở khác nên bố chồng tôi nhờ người làm đơn kiện đòi lại nhà đất của mình mà vợ chồng tôi đang ở. Xin hỏi vợ chồng tôi có phải trả lại nhà không?

Gửi bởi: Vũ Thu Dung

Trả lời có tính chất tham khảo

Theo thông tin bạn cung cấp thì giữa chồng bạn và bố bạn có hợp đồng tặng cho bất động sản có điều kiện. Điều 470 Bộ luật dân sự 2005 quy định về tặng cho có điều kiện như sau:

Bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.

– Trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu bên được tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ mà bên tặng cho không giao tài sản thì bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện.

– Trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Nghĩa vụ phụng dưỡng, chăm sóc bố mẹ và chăm lo mồ mả tổ tiên là nghĩa vụ không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Vì vậy, sau khi nhận tặng, cho tài sản mà chồng bạn không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ đã cam kết thì căn cứ khoản 3 Điều 470 nói trên bố mẹ chồng bạn có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Theo trình bày của bạn thì giữa hai bên phát sinh mâu thuẫn căng thẳng. Tuy nhiên, mâu thuẫn căng thẳng giữa hai bên không đồng nghĩa với việc khẳng định chắc chắn rằng chồng bạn vi phạm nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng bố mẹ. Trong trường hợp khởi kiện tại tòa án nhân dân có thẩm quyền, tòa án sẽ tiến hành hòa giải giữa hai bên. Nếu hòa giải không thành, tòa án sẽ đưa vụ việc ra xét xử. Tòa án sẽ căn cứ vào các sự kiện thực tế và các quy định của pháp luật để xem xét chồng bạn có vi phạm nghĩa vụ là điều kiện để tặng cho hay không, từ đó quyết cụ thể chồng bạn có phải trả lại cho bố mẹ chồng của bạn đất (quyền sử dụng đất) và nhà hay không. Trường hợp chồng bạn phải trả lại quyền sử dụng đất và nhà, xét việc sau khi được tặng cho chồng bạn đã phá dỡ để xây nhà mới, tòa án sẽ căn cứ tình hình thực tế để phán quyết một cách hợp lý và hợp pháp về nghĩa vụ của các bên, phương thức hoàn trả cụ thể.

 

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

 Phải làm sao để đòi tiền bán thức ăn chăn nuôi?

 

 

Tôi có bán thức ăn chăn nuôi cho vợ chồng ông A, hợp đồng đến chừng nào thu hoạch cá mới trả tiền nhưng đến khi thu hoạch vợ chồng ông A chỉ trả 50% số tiền mua thức ăn, phần còn lại vợ chồng ông A có ký giấy xác nhận nợ lại 500 triệu đồng vào tháng 8/2013, nay vợ ông A đã mất vào tháng 11 năm 2013 và ông A không còn khả năng để tiếp tục nuôi cá cho nên tôi có đề nghị ông A trả tiền nợ mua thức ăn của tôi. Ông A nói là không có tiền mặc dù ông có tài sản nhưng ông A không bán tài sản mà trả cho tôi, cho nên tôi đã làm thủ tục kiện tại Tòa án yêu cầu Tòa án đòi lại số tiền mà vợ chồng ông A đã nợ tôi. Khởi kiện vào ngày 24/3/2014 thì mới biết vào tháng 01/2014 ông A đã tẩu tán tài sản bán cho ông già vợ hai cái bè trị giá 01 tỷ đồng thì ông già vợ ông A cho lại con gái ruột của ông A nói là cho mượn và một nền nhà thì ông A tẩu tán bán cho con trai là 400 triệu đồng nói là con của ông A mua vào ngày 17/4/2014 nên con trai và con gái của ông A không có hưởng thừa kế của vợ ông nên không có trách nhiệm trả nợ cho tôi và ông A không còn tài sản gì để trả cho tôi và xin hẹn trả dần, thời gian thì chưa có, chừng nào ông A làm có tiền sẻ trả (ông A đã 60 tuổi). Vậy, tôi phải làm sao trong trường hợp này?

 

Gửi bởi: Thúy Lan

Trả lời có tính chất tham khảo

Với tình huống bạn nêu, việc bạn khởi kiện vào ngày 24/3/2014 đòi lại số tiền mà vợ chồng ông A đã nợ bạn, thế nhưng trước đó ông A đã chuyển dịch tài sản cho người khác nên khi có bản án đòi nợ của bạn thì những tài sản ông A đã chuyển nhượng trước khi có bản án không còn là tài sản của ông A. Vì vậy, cơ quan thi hành án dân sự không thể kê biên, xử lý tai sản đó để thi hành án.

Vợ chồng ông A có ký giấy xác nhận nợ lại bạn 500 triệu đồng vào tháng 8/2013. Do vậy, bạn nên khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết. Trên cơ sở bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật, việc thi hành án được tiến hành thì những tài sản khác của vợ chồng ông A (nếu có) sẽ bị xử lý để thi hành án bảo đảm lợi ích của bạn theo quy định của Luật Thi hành án dân sự.

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Có thể lập di chúc ở nơi không có di sản không?

 

Ông tôi có hai mảnh đất tại Vĩnh Phúc. Năm 2000 ông tôi đã chuyển vào Kon Tum sinh sống. Nay ông tôi tuổi cao nên muốn lập di chúc để lại hai mảnh đất đó cho tôi. Vậy ông tôi lập di chúc tại Kon Tum có được không? Cần mang theo giấy tờ gì để lập di chúc?

Gửi bởi: Nguyễn thị thu vân

Trả lời có tính chất tham khảo

Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. Như vậy, ông bạn phải lập di chúc bằng văn bản, trường hợp không thể lập thành văn bản thì có thể di chúc miệng. Trường hợp lập di chúc bằng văn bản thì có các hình thức sau:

– Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng;

– Di chúc bằng văn bản có người làm chứng;

– Di chúc bằng văn bản có công chứng;

– Di chúc bằng văn bản có chứng thực.

Pháp luật không quy định việc lập di chúc phải được tiến hành tại nơi có di sản. Do đó, ông bạn có thể lập di chúc tại Kon Tum mà không vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, Luật Công chứng 2014 cũng quy định: “Công chứng viên của tổ chức hành, nghề công chứng chỉ được công chứng hợp đồng, giao dịch về bất động sản trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi tổ chức hành nghề công chứng đặt trụ sở, trừ trường hợp công chứng di chúc, văn bản từ chối nhận di sản là bất động sản và văn bản ủy quyền liên quan đến việc thực hiện các quyền đối với bất động sản”. Ông bạn có thể đến bất kỳ tổ chức hành nghề công chứng nào để lập di chúc có công chứng. Khi lập di chúc có công chứng thì cần các hồ sơ theo quy dịnh tại Điều 40 Luật công chứng 2014, cụ thể gồm:

– Phiếu yêu cầu công chứng;

– Giấy tờ tùy thân của người yêu cầu công chứng;

– Giấy chứng nhận về tài sản (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sổ tiết kiệm, giấy chứng nhận đăng ký xe….)

– Các giấy tờ khác

 

Các văn bản liên quan:

Luật 53/2014/QH13 Công chứng (Còn hiệu lực)

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com