65/ Hội đồng thành viên

– Thành viên Hội đồng thành viên do chủ sở hữu công ty bổ nhiệm, miễn nhiệm gồm từ 03 đến 07 thành viên với nhiệm kỳ không quá 05 năm.

– Nhân danh công ty thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty, trừ quyền và nghĩa vụ của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.

Quyền, nghĩa vụ và quan hệ làm việc của Hội đồng thành viên đối với chủ sở hữu công ty được thực hiện theo quy định tại Điều lệ công ty và pháp luật có liên quan.

Chủ tịch Hội đồng thành viên do chủ sở hữu bổ nhiệm hoặc do các thành viên Hội đồng thành viên bầu theo nguyên tắc quá bán, theo trình tự, thủ tục quy định tại Điều lệ công ty. Trường hợp Điều lệ công ty không có quy định khác, thì nhiệm kỳ, quyền và nghĩa vụ của Chủ tịch Hội đồng thành viên áp dụng theo quy định tại về Chủ tịch Hội đồng thành viên và quy định khác có liên quan.

Thẩm quyền, cách thức triệu tập họp Hội đồng thành viên áp dụng theo quy định triệu tập họp Hội đồng thành viên.

Nghị quyết của Hội đồng thành viên được thông qua khi có hơn một nửa số thành viên dự họp tán thành. Việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty, tổ chức lại công ty, chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ của công ty phải được ít nhất ba phần tư số thành viên dự họp tán thành.

Nghị quyết của Hội đồng thành viên có hiệu lực kể từ ngày được thông qua hoặctừ ngày ghi tại nghị quyết đó, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác.

Các cuộc họp của Hội đồng thành viên phải được ghi biên bản, có thể được ghi âm hoặc ghi và lưu giữ dưới hình thức điện tử khác. Nội dung biên bản họp Hội đồng thành viên áp dụng theo quy định về biên bản họp Hội đồng thành viên.

(Căn cứ Điều 79 Luật doanh nghiệp 2014)

66/ Chủ tịch công ty

– Chủ tịch công ty do chủ sở hữu bổ nhiệm.

– Chủ tịch công ty nhân danh công ty thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty, trừ quyền và nghĩa vụ của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc; chịu trách nhiệm trước pháp luật và chủ sở hữu công ty về việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao theo quy định của Luật này, pháp luật có liên quan và Điều lệ công ty.

Quyền, nghĩa vụ và chế độ làm việc của Chủ tịch công ty đối với chủ sở hữu công ty được thực hiện theo quy định tại Điều lệ công ty, Luật này và pháp luật có liên quan.

Quyết định của Chủ tịch công ty về thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu công ty có hiệu lực kể từ ngày được chủ sở hữu công ty phê duyệt, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác.

(Căn cứ Điều 80 Luật doanh nghiệp 2014)

67/ Giám đốc, Tổng giám đốc

– Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên khác của Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty có thể kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trừ trường hợp pháp luật, Điều lệ công ty có quy định khác.

– Sửa đổi các quyền, nghĩa vụ sau của Giám đốc, Tổng Giám đốc:

      + Bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm người quản lý trong công ty, trừ các đối tượng thuộc thẩm quyền của Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty.

      + Quyền và nghĩa vụ khác được quy định tại Điều lệ công ty, hợp đồng lao động mà Giám đốc hoặc Tổng giám đốc ký với Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty.

– Tiêu chuẩn và điều kiện của Giám đốc, Tổng Giám đốc:

      + Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không thuộc đối tượng không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam.

      + Có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tế trong quản trị kinh doanh của công ty, nếu Điều lệ công ty không có quy định khác.

(Căn cứ Điều 81 Luật doanh nghiệp 2014)

68/ Kiểm soát viên

Chủ sở hữu công ty quyết định số lượng Kiểm soát viên, bổ nhiệm Kiểm soát viên với nhiệm kỳ không quá 05 năm và việc thành lập Ban kiểm soát. (trước đây quy định nhiệm kỳ của Kiểm soát viên không quá 03 năm).

– Thêm quyền và nghĩa vụ cho Kiểm soát viên:

      + Tham dự và thảo luận tại các cuộc họp Hội đồng thành viên và các cuộc họp khác trong công ty.

      + Quyền và nghĩa vụ khác quy định tại Điều lệ công ty hoặc theo yêu cầu, quyết định của chủ sở hữu công ty.

– Sửa đổi một số nội dung về tiêu chuẩn và điều kiện của Kiểm soát viên:

      + Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không thuộc đối tượng không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam.

      + Không phải là người có liên quan của thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, người có thẩm quyền trực tiếp bổ nhiệm Kiểm soát viên;

      + Có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp về kế toán, kiểm toán hoặc trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tế trong ngành, nghề kinh doanh của công ty hoặc tiêu chuẩn, điều kiện khác quy định tại Điều lệ công ty.

– Điều lệ công ty quy định cụ thể về nội dung và cách thức phối hợp hoạt động của các Kiểm soát viên.

(Căn cứ Điều 82 Luật doanh nghiệp 2014)

69/ Chủ sở hữu công ty quyết định mức thù lao, tiền lương và lợi ích khác của người quản lý công ty và Kiểm soát viên

Đó là quy định mới tại Luật doanh nghiệp 2014, cụ thể:

– Chủ sở hữu công ty quyết định mức thù lao, tiền lương và lợi ích khác của thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty và Kiểm soát viên.

Thù lao, tiền lương và lợi ích khác của người quản lý công ty và Kiểm soát viên được tính vào chi phí kinh doanh theo quy định của pháp luật về thuế, pháp luật có liên quan và được thể hiện thành mục riêng trong báo cáo tài chính hằng năm của công ty.

Thù lao, tiền lương và lợi ích khác của kiểm soát viên có thể do chủ sở hữu công ty chi trả trực tiếp theo quy định tại Điều lệ công ty.

(Căn cứ Điều 84 Luật doanh nghiệp 2014)

70/ Cơ cấu tổ chức quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do cá nhân làm chủ sở hữu

Quyền, nghĩa vụ của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc được quy định tại Điều lệ công ty, hợp đồng lao động mà Giám đốc hoặc Tổng giám đốc ký với Chủ tịch công ty.

(Căn cứ Điều 85 Luật doanh nghiệp 2014)

71/ Hợp đồng, giao dịch của công ty với những người có liên quan

Trường hợp Điều lệ công ty không có quy định khác, hợp đồng, giao dịch giữa công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do tổ chức làm chủ sở hữu với những người sau đây phải được Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên xem xét quyết định:

      + Chủ sở hữu công ty và người có liên quan của chủ sở hữu công ty.

      + Thành viên Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên.

      + Người có liên quan của thành viên Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên.

      + Người quản lý của chủ sở hữu công ty, người có thẩm quyền bổ nhiệm những người quản lý đó.

      + Người có liên quan của người quản lý của chủ sở hữu công ty, người có thẩm quyền bổ nhiệm những người quản lý đó.

Người ký kết hợp đồng phải thông báo cho Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên về các đối tượng có liên quan đối với hợp đồng, giao dịch đó; đồng thời kèm theo dự thảo hợp đồng hoặc nội dung chủ yếu của giao dịch đó.

Trường hợp Điều lệ công ty không có quy định khác, Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty và Kiểm soát viên phải quyết định việc chấp thuận hợp đồng hoặc giao dịch trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo theo nguyên tắc đa số, mỗi người có một phiếu biểu quyết; người có lợi ích liên quan không có quyền biểu quyết.

Hợp đồng, giao dịch theo quy định trên chỉ được chấp thuận khi có đủ các điều kiện:

      + Các bên ký kết hợp đồng hoặc thực hiện giao dịch là những chủ thể pháp lý độc lập, có quyền, nghĩa vụ, tài sản và lợi ích riêng biệt.

      + Giá sử dụng trong hợp đồng hoặc giao dịch là giá thị trường tại thời điểm hợp đồng được ký kết hoặc giao dịch được thực hiện.

      + Chủ sở hữu công ty tuân thủ đúng nghĩa vụ trong việc mua, bán, vay, cho vay, thuê, cho thuê và các giao dịch khác giữa công ty và chủ sở hữu công ty.

Hợp đồng, giao dịch bị vô hiệu và xử lý theo quy định của pháp luật nếu được ký kết không đúng quy định trên, gây thiệt hại cho công ty. Người ký hợp đồng và người có liên quan là các bên của hợp đồng liên đới chịu trách nhiệm về thiệt hại phát sinh và hoàn trả cho công ty các khoản lợi thu được từ việc thực hiện hợp đồng, giao dịch đó.

(Căn cứ Điều 86 Luật doanh nghiệp 2014)

72/ Thay đổi vốn điều lệ

Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thay đổi vốn điều lệ trong các trường hợp:

      + Hoàn trả một phần vốn góp trong vốn điều lệ của công ty nếu đã hoạt động kinh doanh liên tục trong hơn 02 năm, kể từ ngày đăng ký doanh nghiệp và bảo đảm thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác sau khi đã hoàn trả cho chủ sở hữu.

      + Vốn điều lệ không được chủ sở hữu thanh toán đầy đủ và đúng hạn theo quy định về thực hiện góp vốn thành lập công ty.

– Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên tăng vốn điều lệ bằng việc chủ sở hữu công ty đầu tư thêm hoặc huy động thêm vốn góp của người khác. Chủ sở hữu quyết định hình thức tăng và mức tăng vốn điều lệ.

– Trường hợp tăng vốn điều lệ bằng việc huy động thêm phần vốn góp của người khác, công ty phải tổ chức quản lý theo một trong hai loại hình:

      + Công ty trách nhiệm hai thành viên trở lên và công ty phải thông báo thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hoàn thành việc thay đổi vốn điều lệ.

      + Công ty cổ phần theo quy định tại Luật này.

(Căn cứ Điều 87 Luật doanh nghiệp 2014)

73/ Áp dụng quy định đối với doanh nghiệp nhà nước

– Doanh nghiệp nhà nước được tổ chức quản lý theo quy định tại Chương IV của Luật này, các quy định tương ứng tại quy định của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, các quy định khác có liên quan. Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Chương IV với Chương III và các quy định có liên quan khác của Luật này, thì áp dụng quy định tại Chương IV.

Việc tổ chức quản lý doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ dưới 100% vốn điều lệ thực hiện theo các quy định tương ứng tại quy định của Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và Công ty Cổ phần.

(Căn cứ Điều 88 Luật doanh nghiệp 2014)

74/ Cơ cấu tổ chức quản lý

Cơ quan đại diện chủ sở hữu quyết định tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn theo một trong hai mô hình:

– Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên.

– Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên.

(Căn cứ Điều 89 Luật doanh nghiệp 2014)

75/ Hội đồng thành viên

Hội đồng thành viên nhân danh công ty thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Hội đồng thành viên bao gồm Chủ tịch và các thành viên khác, số lượng không quá 07 người. Thành viên Hội đồng thành viên làm việc theo chế độ chuyên trách và do cơ quan đại diện chủ sở hữu quyết định, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức hoặc khen thưởng, kỷ luật.

Nhiệm kỳ của Chủ tịch và thành viên khác của Hội đồng thành viên không quá 05 năm. Thành viên Hội đồng thành viên có thể được bổ nhiệm lại nhưng chỉ được bổ nhiệm làm thành viên Hội đồng thành viên của một công ty không quá 02 nhiệm kỳ.

(Căn cứ Điều 90 Luật doanh nghiệp 2014)

76/ Quyền và nghĩa vụ của Hội đồng thành viên

Hội đồng thành viên nhân danh công ty thực hiện các quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu, cổ đông, thành viên đối với công ty do công ty làm chủ sở hữu hoặc sở hữu cổ phần, phần vốn góp.

Hội đồng thành viên có các quyền và nghĩa vụ:

      + Quyết định các nội dung theo Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp.

      + Quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể chi nhánh, văn phòng đại diện và các đơn vị hạch toán phụ thuộc.

      + Quyết định kế hoạch sản xuất kinh doanh hằng năm, chủ trương phát triển thị trường, tiếp thị và công nghệ của công ty.

      + Tổ chức hoạt động kiểm toán nội bộ và quyết định thành lập đơn vị kiểm toán nội bộ của công ty.

      + Quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này, pháp luật có liên quan và Điều lệ công ty.

(Căn cứ Điều 91 Luật doanh nghiệp 2014)

77/ Tiêu chuẩn và điều kiện đối với thành viên Hội đồng thành viên

Có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tế trong quản trị kinh doanh hoặc trong lĩnh vực, ngành, nghề hoạt động của doanh nghiệp.

Không phải là vợ hoặc chồng, cha đẻ, cha nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, anh ruột, chị ruột, em ruột, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan đại diện chủ sở hữu; thành viên Hội đồng thành viên; Giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc và Kế toán trưởng của công ty; Kiểm soát viên công ty.

Không phải là cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội hoặc không phải là người quản lý, điều hành tại doanh nghiệp thành viên.

Chưa từng bị cách chức Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty, Giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc của doanh nghiệp nhà nước.

Các tiêu chuẩn và điều kiện khác quy định tại Điều lệ công ty.

(Căn cứ Điều 92 Luật doanh nghiệp 2014)

78/ Miễn nhiệm, cách chức thành viên Hội đồng thành viên

Chủ tịch và thành viên khác của Hội đồng thành viên bị miễn nhiệm trong các trường hợp:

      + Không còn đủ tiêu chuẩn và điều kiện là thành viên Hội đồng thành viên.

      + Có đơn xin từ chức và được cơ quan đại diện chủ sở hữu chấp thuận bằng văn bản.

      + Có quyết định điều chuyển, bố trí công việc khác hoặc nghỉ hưu.

      + Không đủ năng lực, trình độ đảm nhận công việc được giao; bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

      + Không đủ sức khỏe hoặc không còn uy tín để giữ chức vụ thành viên Hội đồng thành viên.

– Chủ tịch và thành viên khác của Hội đồng thành viên bị cách chức trong các trường hợp:

       + Công ty không hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch hằng năm, không bảo toàn và phát triển vốn đầu tư theo yêu cầu của cơ quan đại diện chủ sở hữu mà không giải trình được nguyên nhân khách quan hoặc giải trình nguyên nhân không được cơ quan đại diện chủ sở hữu chấp thuận.

      + Bị truy tố và bị Tòa án tuyên là có tội.

      + Không trung thực trong thực thi quyền, nghĩa vụ hoặc lạm dụng địa vị, chức vụ, sử dụng tài sản của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác; báo cáo không trung thực tình hình tài chính và kết quả sản xuất kinh doanh của công ty.

– Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày có quyết định miễn nhiệm, cách chức, cơ quan đại diện chủ sở hữu xem xét, quyết định tuyển chọn, bổ nhiệm người khác thay thế.

(Căn cứ Điều 93 Luật doanh nghiệp 2014)

79/ Chủ tịch Hội đồng thành viên

Chủ tịch Hội đồng thành viên do cơ quan đại diện chủ sở hữu bổ nhiệm. Chủ tịch Hội đồng thành viên không được kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty của công ty mình và các doanh nghiệp khác.

Chủ tịch Hội đồng thành viên có quyền và nghĩa vụ:

      + Xây dựng kế hoạch hoạt động hằng quý và hằng năm của Hội đồng thành viên.

      + Chuẩn bị chương trình, tài liệu cuộc họp hoặc lấy ý kiến Hội đồng thành viên.

      + Triệu tập và chủ trì cuộc họp Hội đồng thành viên hoặc lấy ý kiến các thành viên Hội đồng thành viên.

      + Tổ chức thực hiện các nghị quyết của cơ quan đại diện chủ sở hữu và nghị quyết Hội đồng thành viên.

      + Tổ chức giám sát, trực tiếp giám sát và đánh giá kết quả thực hiện mục tiêu chiến lược, kết quả hoạt động của công ty, kết quả quản lý điều hành của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty.

      + Tổ chức công bố, công khai thông tin về công ty theo quy định của pháp luật; chịu trách nhiệm về tính đầy đủ, kịp thời, chính xác, trung thực và tính hệ thống của thông tin được công bố.

      + Quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này, pháp luật có liên quan và Điều lệ công ty.

Ngoài các trường hợp bị miễn nhiệm nêu trên, Chủ tịch Hội đồng thành viên có thể bị miễn nhiệm, cách chức nếu không thực hiện được các nhiệm vụ theo quy định trên.

(Căn cứ Điều 94 Luật doanh nghiệp 2014)

80/ Quyền và nghĩa vụ của các thành viên khác của Hội đồng thành viên

– Tham dự cuộc họp Hội đồng thành viên, thảo luận, kiến nghị, biểu quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng thành viên.

Kiểm tra, xem xét, tra cứu, sao chép hoặc trích lục sổ ghi chép và theo dõi các giao dịch, sổ kế toán, báo cáo tài chính hằng năm, sổ biên bản họp Hội đồng thành viên, các giấy tờ và tài liệu khác của công ty.

Quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này, pháp luật có liên quan và Điều lệ công ty.

(Căn cứ Điều 95 Luật doanh nghiệp 2014)

81/ Trách nhiệm của Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng thành viên

Tuân thủ pháp luật, Điều lệ công ty, quyết định của chủ sở hữu công ty.

Thực hiện các quyền và nghĩa vụ một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm tối đa lợi ích hợp pháp của công ty và Nhà nước.

Trung thành với lợi ích của công ty và Nhà nước; không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của công ty, địa vị, chức vụ, tài sản của công ty để tư lợi hoặc phục vụ cho lợi ích của tổ chức, cá nhân khác.

Thông báo kịp thời, đầy đủ và chính xác cho công ty về các doanh nghiệp mà mình và người có liên quan làm chủ sở hữu hoặc có cổ phần, phần vốn góp. Thông báo này được niêm yết tại trụ sở chính và chi nhánh của công ty.

Chấp hành các nghị quyết của Hội đồng thành viên.

Chịu trách nhiệm cá nhân khi lợi dụng danh nghĩa công ty thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; tiến hành kinh doanh hoặc giao dịch khác không nhằm phục vụ lợi ích của công ty và gây thiệt hại cho người khác; thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn khi có nguy cơ rủi ro tài chính có thể xảy ra đối với công ty.

Trường hợp phát hiện thành viên Hội đồng thành viên có hành vi vi phạm nghĩa vụ trong thực hiện quyền và nghĩa vụ được giao thì thành viên khác của Hội đồng thành viên có nghĩa vụ báo cáo bằng văn bản với cơ quan đại diện chủ sở hữu; yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm và có giải pháp khắc phục hậu quả.

(Căn cứ Điều 96 Luật doanh nghiệp 2014)

82/ Chế độ làm việc, điều kiện và thể thức tiến hành họp Hội đồng thành viên

Hội đồng thành viên làm việc theo chế độ tập thể; họp ít nhất 01 lần trong 01 quý để xem xét và quyết định những vấn đề thuộc quyền, nghĩa vụ của mình.

Đối với những vấn đề không yêu cầu thảo luận thì Hội đồng thành viên có thể lấy ý kiến các thành viên bằng văn bản theo quy định tại Điều lệ công ty.

Hội đồng thành viên có thể họp bất thường để giải quyết những vấn đề cấp bách theo yêu cầu của cơ quan đại diện chủ sở hữu công ty hoặc theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc trên 50% tổng số thành viên Hội đồng thành viên hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.

Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc thành viên được Chủ tịch Hội đồng thành viên ủy quyền có trách nhiệm chuẩn bị chương trình, nội dung tài liệu, triệu tập và chủ trì cuộc họp Hội đồng thành viên. Các thành viên Hội đồng thành viên có quyền kiến nghị bằng văn bản về chương trình họp. Nội dung và các tài liệu cuộc họp phải gửi đến các thành viên Hội đồng thành viên và các đại biểu được mời dự họp, nếu có trước ngày họp ít nhất 03 ngày làm việc. Tài liệu sử dụng trong cuộc họp liên quan đến việc kiến nghị cơ quan đại diện chủ sở hữu công ty sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty, thông qua phương hướng phát triển công ty, thông qua báo cáo tài chính hằng năm, tổ chức lại hoặc giải thể công ty phải được gửi đến các thành viên chậm nhất 05 ngày làm việc trước ngày họp.

– Thông báo mời họp có thể bằng giấy mời, điện thoại, fax hoặc các phương tiện điện tử khác và được gửi trực tiếp đến từng thành viên Hội đồng thành viên và đại biểu khác được mời dự họp.

Nội dung thông báo mời họp phải xác định rõ thời gian, địa điểm và chương trình họp. Hình thức họp trực tuyến có thể được áp dụng khi cần thiết.

Cuộc họp lấy ý kiến các thành viên của Hội đồng thành viên hợp lệ khi có ít nhất 2/3 tổng số thành viên Hội đồng thành viên tham dự. Nghị quyết của Hội đồng thành viên được thông qua khi có quá nửa tổng số thành viên tham dự biểu quyết tán thành; trường hợp có số phiếu ngang nhau thì nội dung có phiếu tán thành của Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc người được Chủ tịch Hội đồng thành viên ủy quyền chủ trì cuộc họp là nội dung được thông qua. Thành viên Hội đồng thành viên có quyền bảo lưu ý kiến của mình và kiến nghị lên cơ quan đại diện chủ sở hữu công ty.

– Trường hợp lấy ý kiến các thành viên Hội đồng thành viên bằng văn bản thì nghị quyết của Hội đồng thành viên được thông qua khi có hơn một nửa tổng số thành viên tán thành.

Nghị quyết có thể được thông qua bằng cách sử dụng nhiều bản sao của cùng một văn bản nếu mỗi bản sao đó có ít nhất một chữ ký của thành viên Hội đồng thành viên.

–  Căn cứ vào nội dung và chương trình cuộc họp, khi xét thấy cần thiết, Hội đồng thành viên có quyền hoặc có trách nhiệm mời đại diện có thẩm quyền của các cơ quan, tổ chức có liên quan tham dự và thảo luận các vấn đề cụ thể trong chương trình cuộc họp. Đại diện các cơ quan, tổ chức được mời dự họp có quyền phát biểu ý kiến nhưng không tham gia biểu quyết. Các ý kiến phát biểu của đại diện được mời dự họp được ghi đầy đủ vào biên bản của cuộc họp.

Nội dung các vấn đề thảo luận, các ý kiến phát biểu, kết quả biểu quyết, các quyết định được Hội đồng thành viên thông qua và kết luận của các cuộc họp của Hội đồng thành viên phải được ghi biên bản. Chủ tọa và thư ký cuộc họp phải liên đới chịu trách nhiệm về tính chính xác và tính trung thực của biên bản họp Hội đồng thành viên. Biên bản họp Hội đồng thành viên phải làm xong và thông qua trước khi kết thúc cuộc họp. Biên bản phải có các nội dung:

      + Thời gian, địa điểm, mục đích, chương trình họp; danh sách thành viên dự họp; vấn đề được thảo luận và biểu quyết; tóm tắt ý kiến phát biểu của thành viên về từng vấn đề thảo luận.

      + Số phiếu biểu quyết tán thành và không tán thành đối với trường hợp không áp dụng phương thức bỏ phiếu trắng hoặc số phiếu biểu quyết tán thành, không tán thành và không có ý kiến đối với trường hợp có áp dụng phương thức bỏ phiếu trắng.

       + Các quyết định được thông qua; họ, tên, chữ ký của thành viên dự họp.

Thành viên Hội đồng thành viên có quyền yêu cầu Giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc, Kế toán trưởng và người quản lý, điều hành trong công ty, công ty con do công ty nắm 100% vốn điều lệ, người đại diện phần vốn góp của công ty tại các doanh nghiệp khác cung cấp các thông tin, tài liệu về tình hình tài chính, hoạt động của doanh nghiệp theo quy chế thông tin do Hội đồng thành viên quy định hoặc theo nghị quyết của Hội đồng thành viên. Người được yêu cầu cung cấp thông tin phải cung cấp kịp thời, đầy đủ và chính xác các thông tin, tài liệu theo yêu cầu của thành viên Hội đồng thành viên, trừ trường hợp Hội đồng thành viên có quyết định khác.

– Hội đồng thành viên sử dụng bộ máy điều hành, bộ phận giúp việc (nếu có) và con dấu của công ty để thực hiện nhiệm vụ của mình.

– Chi phí hoạt động của Hội đồng thành viên, tiền lương, phụ cấp và thù lao khác được tính vào chi phí quản lý công ty.

– Trường hợp cần thiết, Hội đồng thành viên tổ chức việc lấy ý kiến các chuyên gia tư vấn trong nước và ngoài nước trước khi quyết định các vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng thành viên. Chi phí lấy ý kiến chuyên gia tư vấn được quy định tại quy chế quản lý tài chính của công ty.

Nghị quyết của Hội đồng thành viên có hiệu lực kể từ ngày được thông qua hoặc từ ngày có hiệu lực ghi trong nghị quyết đó, trừ các trường hợp phải được cơ quan đại diện chủ sở hữu chấp thuận.

(Căn cứ Điều 97 Luật doanh nghiệp 2014)

83/ Chủ tịch công ty

– Chủ tịch công ty do cơ quan đại diện chủ sở hữu bổ nhiệm theo quy định pháp luật. Chủ tịch công ty có nhiệm kỳ không quá 05 năm. Chủ tịch công ty có thể được bổ nhiệm lại nhưng không quá 02 nhiệm kỳ. Tiêu chuẩn, điều kiện và các trường hợp miễn nhiệm, cách chức Chủ tịch công ty được thực hiện theo quy định như đối với thành viên Hội đồng thành viên.

– Chủ tịch công ty thực hiện các quyền, nghĩa vụ của người đại diện chủ sở hữu trực tiếp tại công ty theo quy định của Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp; các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này.

– Tiền lương, thưởng và quyền lợi khác của Chủ tịch công ty do cơ quan đại diện chủ sở hữu quyết định và được tính vào chi phí quản lý công ty.

– Chủ tịch công ty sử dụng bộ máy quản lý, điều hành, bộ phận giúp việc (nếu có) và con dấu của công ty để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Trường hợp cần thiết, Chủ tịch công ty tổ chức việc lấy ý kiến các chuyên gia tư vấn trong và ngoài nước trước khi quyết định các vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Chủ tịch công ty. Chi phí lấy ý kiến chuyên gia tư vấn được quy định tại quy chế quản lý tài chính của công ty.

– Các quyết định thuộc thẩm quyền của Chủ tịch công ty này phải được lập thành văn bản, ký tên với chức danh Chủ tịch công ty bao gồm cả trường hợp Chủ tịch công ty kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.

– Quyết định của Chủ tịch công ty có hiệu lực kể từ ngày ký hoặc từ ngày có hiệu lực ghi trong quyết định đó, trừ trường hợp phải được cơ quan đại diện chủ sở hữu chấp thuận.

– Trường hợp Chủ tịch công ty vắng mặt ở Việt Nam trên 30 ngày thì phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện một số quyền, nghĩa vụ của Chủ tịch công ty; việc ủy quyền phải được thông báo kịp thời bằng văn bản đến cơ quan đại diện chủ sở hữu. Các trường hợp ủy quyền khác thực hiện theo quy định tại quy chế quản lý nội bộ của công ty.

(Căn cứ Điều 98 Luật doanh nghiệp 2014)

84/ Giám đốc, Tổng giám đốc công ty

– Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty do Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty bổ nhiệm hoặc thuê theo phương án nhân sự đã được cơ quan đại diện chủ sở hữu chấp thuận. Công ty có một hoặc một số Phó Tổng giám đốc hoặc Phó Giám đốc. Số lượng, thẩm quyền bổ nhiệm Phó Tổng giám đốc hoặc Phó Giám đốc quy định tại Điều lệ công ty. Quyền và nghĩa vụ của Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng giám đốc quy định tại Điều lệ công ty hoặc hợp đồng lao động.

Giám đốc hoặc Tổng giám đốc có nhiệm vụ điều hành các hoạt động hằng ngày của công ty và có các quyền và nghĩa vụ:

      + Tổ chức thực hiện và đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch, phương án kinh doanh, kế hoạch đầu tư của công ty.

      + Tổ chức thực hiện và đánh giá kết quả thực hiện các nghị quyết của Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty và của cơ quan đại diện chủ sở hữu công ty.

       + Quyết định các công việc hằng ngày của công ty.

       + Ban hành quy chế quản lý nội bộ của công ty đã được Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty chấp thuận.

      + Ký hợp đồng, thỏa thuận nhân danh công ty, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty.

      + Bổ nhiệm, thuê, miễn nhiệm, cách chức, chấm dứt hợp đồng đối với các chức danh quản lý trong công ty, trừ các chức danh thuộc thẩm quyền của Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty.

      + Tuyển dụng lao động.

      + Lập và trình Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty báo cáo định kỳ hằng quý, hằng năm về kết quả thực hiện mục tiêu kế hoạch kinh doanh và báo cáo tài chính hằng năm.

      + Kiến nghị phương án tổ chức lại công ty, khi xét thấy cần thiết.

      + Kiến nghị phân bổ và sử dụng lợi nhuận sau thuế và các nghĩa vụ tài chính khác của công ty.

      + Quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty.

(Căn cứ Điều 99 Luật doanh nghiệp 2014)

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

PGS.TS. TRẦN VĂN HẢI – Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội

1. Dẫn nhập

Vào năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên của WTO, tổ chức này hiện có tới 162 thành viên[1], vì vậy một trong những nhược điểm của nó là sự khó khăn để tiến đến một thỏa thuận chung liên quan đến bất kỳ vấn đề gì thuộc lĩnh vực thương mại quốc tế, trong đó có SHTT. Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement – viết tắt là TPP) khắc phục được nhược điểm này của WTO.

Có 12 nước tham gia đàm phán TPP gồm 4 quốc gia sáng lập là Brunei, Chile, New Zealand, Singapore, sau đó (xếp theo thứ tự thời gian tham gia) là Hoa Kỳ, Australia, Peru, Việt Nam, Malaysia, Mexico, Canada, Nhật Bản.

Ngày 05.10.2015 các nước tham gia đàm phán TPP ký văn bản cuối cùng, TPP là một thỏa thuận toàn diện bao quát tất cả các khía cạnh của một hiệp định thương mại tự do, bao gồm thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, mua sắm công, doanh nghiệp nhà nước, thương mại và lao động, thương mại và môi trường, thương mại điện tử, sở hữu trí tuệ (SHTT),…

Để hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã xây dựng một hệ thống pháp luật về SHTT, được đánh giá là tương đối tương thích với pháp luật về SHTT của một số quốc gia tiên tiến, nhưng tình trạng xâm phạm quyền SHTT tại Việt Nam vẫn không hề giảm mà đang có xu hướng gia tăng. Bài viết không dẫn chứng những đánh giá của các cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam về tình trạng xâm phạm quyền SHTT, xin được phép dẫn nguồn từ Bộ Thương mại Hoa Kỳ.

Trong Báo cáo đặc biệt số 301 trong 2 năm liên tiếp (2014 và 2015), Văn phòng Bộ Thương mại Hoa Kỳ (Office of the United States Trade Representative – USTR) đã xếp Việt Nam vào danh sách các quốc gia đứng đầu thế giới cần ưu tiên theo dõi (Priority Watch List)về tình trạng xâm phạm quyền SHTT.[2]

Như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam đã và sẽ gặp những khó khăn về SHTT trong giao dịch thương mại quốc tế, mà trước hết là trong giao dịch thương mại với các quốc gia TPP, khi hiệp định này được vận hành trong thời ngắn trước mắt.

 

2. Về quan hệ thương mại giữa Hoa Kỳ với các quốc gia TPP

Về lĩnh vực SHTT trong TPP, Hoa Kỳ là quốc gia đề xuất nhiều điểm được xem là rất khó thực thi đối với các quốc gia có nền kinh tế ở mức trung bình. Trong bản báo cáo về đàm phán TPP được lập ngày 30.3.2015 trình Quốc hội Hoa Kỳ, tại các mục: TPP và “tái cân bằng” ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương (The TPP and the “Rebalance” in the Asia-Pacific Region), Hàng rào kỹ thuật trong thương mại (Technical Barriers to Trade), Sự minh bạch và giá cả công nghệ bảo vệ sức khỏe và dược phẩm (Transparency and Pricing of Health Care Technology and Pharmaceuticals) và một số mục khác[3], đã thể hiện chính sách của Hoa Kỳ về SHTT. Do đó, khi nghiên cứu về quan hệ thương mại trong TPP, rất nên tìm hiểu vị trí của Hoa Kỳ không những trong quá trình đàm phán mà ngay cả khi TPP được vận hành.

Hoa Kỳ là quốc gia có tiềm lực kinh tế và tiềm lực khoa học và công nghệ mạnh nhất trong số các quốc gia tham gia TPP (Hoa Kỳ là quốc gia cấp patent[4] nhiều nhất trên thế giới). Số liệu do Ủy ban Thương mại quốc tế của Hoa Kỳ công bố về xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa giữa Hoa Kỳ với các quốc gia TPP năm 2014 cho thấy:

Bảng 1. Xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa giữa Hoa Kỳ với các quốc gia TPP

(xếp theo thứ tự từ ít đến nhiều trong xuất khẩu)

 

 

TT

Xuất khẩu sang

 

Nhập khẩu từ

Quốc gia

Triệu USD

Quốc gia

Triệu USD

1

Brunei

550

Brunei

32

2

New Zealand

4.261

New Zealand

3.980

3

Việt Nam

5.725

Việt Nam

30.584

4

Peru

10.070

Peru

6.079

5

Malaysia

13.136

Malaysia

30.448

6

Chile

16.630

Chile

9.491

7

Australia

26.668

Australia

10.670

8

Singapore

30.532

Singapore

16.463

9

Nhật Bản

66.964

Nhật Bản

133.939

10

Mexico

240.326

Mexico

294.157

11

Canada

312.125

Canada

346.063

Nguồn: tác giả tổng hợp từ tài liệu của U.S. International Trade Commission (2014)[5]

Điểm đáng lưu ý là theo tài liệu do U.S. International Trade Commission (2014) công bố thì không ghi nhận việc xuất, nhập khẩu dịch vụ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong năm này[6], cũng tài liệu này cho thấy vào năm 2013 Việt Nam đầu tư FDI vào Hoa Kỳ với 234 triệu USD và Hoa Kỳ đầu tư FDI vào Việt Nam là 1,398 tỷ USD.[7]

Bảng 1 cho thấy, Hoa Kỳ hưởng lợi rất nhiều về quan hệ thương mại với Canada, Mexico, Nhật Bản, Singapore, Australia, mặt khác cũng cần thấy rằng 5 quốc gia trong TPP vừa nêu cũng là các nước có nền thực thi quyền SHTT nghiêm, nhất là về lĩnh vực dược phẩm, đặc biệt trong đó có Canada, Mexico, Nhật Bản và Australia là các quốc gia mạnh về quan hệ thương mại quốc tế trong lĩnh vực nông nghiệp.

3. Về quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các quốc gia TPP

Để có cái nhìn về vị trí của Việt Nam trong quan hệ thương mại quốc tế đối với các nước tham gia TPP, xin dẫn bảng sau đây:

Bảng 2.

Xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam với các quốc gia TPP

(xếp theo thứ tự từ ít đến nhiều trong xuất khẩu)

 

 

TT

Xuất khẩu sang

 

Nhập khẩu từ

Quốc gia

Triệu USD

Quốc gia

Triệu USD

1

Brunei

16

Brunei

197

2

Peru

113

Peru

93

3

Chile

186

Chile

408

4

New Zealand

239

New Zealand

405

5

Mexico

1.153

Mexico

84

6

Canada

1.618

Canada

407

7

Singapore

2.044

Singapore

11.421

8

Australia

3.261

Australia

2.034

9

Malaysia

4.739

Malaysia

4.209

10

Nhật Bản

13.726

Nhật Bản

11.802

11

Hoa Kỳ

30.584

Hoa Kỳ

5.725

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ nghiên cứu của Brock R. Williams (2013)[8]

Bảng 2 cho thấy Việt Nam giao dịch thương mại quốc tế nhiều với Hoa Kỳ, Nhật Bản – hai quốc gia có nền thực thi quyền SHTT được xem là nghiêm nhất thế giới.

Qua bảng 1 và bảng 2, có thể nhận định xét thuần túy về quan hệ thương mại quốc tế (xin nhấn mạnh chỉ xét thuần túy về quan hệ thương mại quốc tế) thì Việt Nam không phải là mối quan tâm hàng đầu của Hoa Kỳ và Nhật Bản, nhưng Việt Nam lại hưởng lợi nhiều trong quan hệ thương mại với Hoa Kỳ và Nhật Bản. Từ nhận định này cho thấy để giải quyết những khó khăn của doanh nghiệp Việt Nam về SHTT trong quan hệ thương mại với các quốc gia TPP trước hết cần phải vượt qua những rào cản về SHTT do Hoa Kỳ đề xuất trong TPP. Cũng xin lưu ý là những khác biệt về SHTT trong TPP lại phần lớn do Hoa Kỳ và Nhật Bản đề xuất.

Sau đây, bài viết xin điểm một số rào cản về SHTT mà các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp phải khi TPP được vận hành.

4. Rào cản về nhãn hiệu

Điều 18.18 TPP[9] quy định: Không Bên nào được quy định rằng dấu hiệu phải được nhìn thấy là điều kiện để đăng ký nhãn hiệu, cũng không được từ chối việc đăng ký nhãn hiệu là một âm thanh. Ngoài ra, mỗi Bên phải nỗ lực để cho phép đăng ký nhãn hiệu mùi.

Như vậy, TPP quy định dấu hiệu “nghe thấy” chắc chắn phải được đăng ký là nhãn hiệu và dấu hiệu “ngửi thấy” có thể được đăng ký là nhãn hiệu. Thực tế, trên thế giới đã có nhiều quốc gia quy định về nhãn hiệu không nhìn thấy (Non-visible), bao gồm: Nhãn hiệu âm thanh (Sound marks); Nhãn hiệu mùi (Olfactory marks); Nhãn hiệu vị (Taste marks). Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên công nhận việc đăng ký nhãn hiệu mùi vị – “mùi thơm tươi mát của nước hoa Plumeria” dùng cho chỉ may và thêu ren vào năm 1990. Do đó, việc Hoa Kỳ đề xuất và được TPP chấp nhận quy định về nhãn hiệu như vừa nêu là điều không khó hiểu.

Nhưng điều không khó hiểu trên lại là rào cản cho các doanh nghiệp Việt Nam, khi Điều 72.1. Luật SHTT Việt Nam quy định: Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện: Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc. Như vậy, pháp luật Việt Nam chỉ quy định dấu hiệu “nhìn thấy” có thể được đăng ký là nhãn hiệu.

Cần phải để ý rằng, rào cản vừa nêu đối với các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ diễn ra trong quan hệ thương mại với các quốc gia TPP, mà còn diễn ra trong quan hệ thương mại với nhiều quốc gia trên thế giới. Xin dẫn chứng, theo Quyết định ngày 11.2.1999, Phòng giải quyết khiếu nại của Cơ quan hài hòa hóa nội địa nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp của Cộng đồng Châu Âu (The Office for Harmonization in the Internal Market – OHIM, Community Trade Mark in the European Union) đã cho phép đăng ký nhãn hiệu “mùi cỏ tươi mới cắt” cho bóng tennis, đồng thời cũng qui định cụ thể về yêu cầu đối với đơn, trình tự, thủ tục đánh giá khả năng phân biệt của nhãn hiệu âm thanh, trong đó bao gồm những dấu hiệu âm thanh sau: tác phẩm âm nhạc, một phần của tác phẩm âm nhạc, những tiếng động có nguồn gốc nhất định.[10]

Như vậy, các doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp mỹ phẩm, dược phẩm, ghi âm… sẽ gặp rào cản khi TPP được vận hành như đã phân tích.

5. Rào cản về chỉ dẫn địa lý

Việt Nam là một quốc gia có tỷ trọng nông nghiệp cao trong nền kinh tế nói chung, chúng ta thường tự hào mình có nhiều sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao, nhưng cần phải thấy rằng thế giới không đánh giá cao về sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam. Xin dẫn chứng, trong các tài liệu do Tổ chức SHTT Thế giới (WIPO) phát hành chỉ thấy nhắc đến một số sản phẩm có danh tiếng như trà Darjeeling, phomat Parmigiano, rượu vang Bordeaux, thịt bò Kobe, khoai tây Idaho, cà phê cao nguyên xanh Jamaica (Jamaica Blue Mountain coffee), rượu Tequila Mexico… [11], WIPO không nhắc đến bất kỳ sản phẩm nông nghiệp nào của Việt Nam trong danh mục các nông sản nổi tiếng trên thế giới, qua đây cho thấy bất lợi của các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp, đấy là chưa nói đến hiện tượng dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong sản phẩm trồng trọt và dư lượng kháng sinh trong sản phẩm chăn nuôi.

Điều 18.30 TPP quy định: Các Bên thừa nhận chỉ dẫn địa lý có thể được bảo hộ thông qua một nhãn hiệu hoặc hệ thống đặc thù hoặc các phương tiện pháp lý khác. TPP không định nghĩa “các phương tiện pháp lý khác” (other legal means) là những phương tiện gì, nhưng Điều QQ.C.2[12] và một số điều khác thuộc mục C: nhãn hiệu (Section C: Trademarks), Hoa Kỳ và 5 quốc gia khác đề nghị bảo hộ nhãn hiệu tập thể (Collective Marks) và nhãn hiệu chứng nhận (Certification Marks) thay vì bảo hộ chỉ dẫn địa lý, 6 quốc gia còn lại (trong đó có Việt Nam) không đồng ý với đề nghị này (xin xem thêm bảng 3).

Về quan điểm bảo hộ hoặc không bảo hộ chỉ dẫn địa lý cũng không thống nhất trên phạm vi thế giới, trong số 167 nước có hệ thống pháp luật về SHTT thì có tới 111 nước (trong đó có EU) có các quy định riêng biệt về chỉ dẫn địa lý, trong khi 56 nước còn lại (trong đó có Hoa Kỳ) lại sử dụng các quy định về bảo hộ nhãn hiệu (trademark) để sử dụng thay cho việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý.[13] Trong số các quốc gia không bảo hộ chỉ dẫn địa lý, người ta thấy có các nước nông nghiệp như Angola, Bangladesh, Botswana, Cambodia, Congo, Ethiopia, Kenya, Lào, Madagascar, Philippines, Yemen, Zambia…[14]

Để thấy những bất lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam, xin so sánh tương quan về tiềm lực kinh tế giữa các nước bảo hộ chỉ dẫn địa lý và các nước không bảo hộ chỉ dẫn địa lý qua kết quả tổng hợp sau:

Bảng 3.

So sánh GDP của các quốc gia bảo hộ/không bảo hộ chỉ dẫn địa lý

 

Bảo hộ chỉ dẫn địa lý

 

Không bảo hộ chỉ dẫn địa lý

 

TT

Quốc gia

GDP (tỷ USD)

TT

Quốc gia

GDP (tỷ USD)

1

Chile

277

1

Australia

1.505

2

Malaysia

312

2

Brunei

16

3

Mexico

1.259

3

Canada

1.825

4

Peru

207

4

Japan

4.902

5

Singapore

296

5

New Zealand

181

6

Việt Nam

171

6

USA

16.800

 

Tổng

2.522

 

Tổng

25.229

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ công bố của IMF[15]

Bảng 3 cho thấy GDP của các quốc gia không bảo hộ chỉ dẫn địa lý gấp khoảng 10 lần GDP của các quốc gia có bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Từ đó có thể nhận định, Việt Nam và các quốc gia thuộc nhóm bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong TPP sẽ buộc phải để các quốc gia còn lại dẫn dắt cuộc chơi trong giao lưu thương mại liên quan đến nông sản ít nhất trong nội bộ các quốc gia TPP.

Cho đến cuối năm 2015, Việt Nam đã bảo hộ 47 chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nông nghiệp (xin xem Phụ lục kèm theo). Nhưng cần phải thấy rằng hiệu quả của việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong thương mại quốc tế chỉ ở mức rất thấp, mới ghi nhậnchỉ dẫn địa lý “Phú Quốc” cho sản phẩm nước mắm được bảo hộ tại EU. Sau đó, ngày 18/9/2014, Cục Sở hữu trí tuệ Thái Lan đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý “Buôn Ma Thuột” cho sản phẩm cà phê của Việt Nam, đổi lại trong cùng ngày Việt Nam cũng phải bảo hộ chỉ dẫn địa lý Isan Thái Lan cho sản phẩm tơ tằm truyền thống của Thái Lan.

Điểm đáng lưu ý là ngày 23.05.2007, Việt Nam bảo hộ vhir dẫn địa lý cho rượu Pisco của Peru (một quốc gia tham gia TPP), nhưng ngược lại cho đến thời điểm này Peru chưa hề bảo hộ bất kỳ một chỉ dẫn địa lý nào cho sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam.

6. Rào cản tiếp cận quyền sản xuất thuốc gốc đối với các doanh nghiệp dược phẩm

Ngay trong quá trình đàm phán TPP, Hoa Kỳ đã công bố các đề xuất liên quan đến sáng chế dược phẩm, trong đó đáng lưu ý là văn bản do Văn phòng đại diện Thương mại Hoa Kỳ công bố tháng 11/2013 có đề cập đến quyền sản xuất thuốc gốc. [16]

Theo đó, thuốc gốc (generic drugs, viết tắt là generics) là thuốc tương đương sinh học với biệt dược về các tính chất dược động học và dược lực học, được sản xuất khi quyền sở hữu công nghiệp của biệt dược đã hết thời hạn bảo hộ. Để một biệt dược được cấp patent, ngoài 3 điều kiện về tính mới, trình độ sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp thì các yêu cầu bắt buộc phải có là phải được nghiên cứu trên động vật (Animal Studies), nghiên cứu lâm sàng trên người (Clinical Studies), khả dụng sinh học (Bioavailability), nhưng thuốc gốc chỉ cần chứng minh tương đương sinh học (Bioequivalence).[17] Đây là lý luận về thuốc gốc do Cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ quy định.

Các doanh nghiệp dược phẩm thuộc quốc gia có tiềm lực khoa học và công nghệ yếu (trong đó có Việt Nam) thường chờ patent cấp cho biệt dược hết thời hạn bảo hộ để dành quyền sản xuất thuốc gốc. Nhưng trong quá trình đàm phán TPP, Hoa Kỳ đã đề xuất thêm những yêu cầu mới để ngăn cản việc có thể sản xuất thuốc gốc. Tại điều QQ.E.1.2bis Hoa Kỳ và Nhật Bản đề nghị cấp patent cho sáng chế có đặc tính khác biệt (distinguishing features) ngay cả trong trường hợp nó không tạo nên một hiệu quả mới đối với sản phẩm đã biết. Đề nghị này đã vấp phải sự phản đối của 10 quốc gia còn lại.

Về đề xuất của Hoa Kỳ và Nhật Bản, xét trên cơ sở lý luận cho thấy không thể kéo dài thời hạn bảo hộ sáng chế cơ bản thêm một thời gian bằng thời hạn bảo hộ sáng chế phụ thuộc (nếu chứng minh được sáng chế phụ thuộc hội tụ đủ các yếu tố tính mới, trình độ sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp).

Điều 137, Luật SHTT của Việt Nam quy định: “Nghĩa vụ cho phép sử dụng sáng chế cơ bản nhằm sử dụng sáng chế phụ thuộc: (1). Sáng chế phụ thuộc là sáng chế được tạo ra trên cơ sở một sáng chế khác (gọi là sáng chế cơ bản) và chỉ có thể sử dụng được với điều kiện phải sử dụng sáng chế cơ bản; (2). Trong trường hợp chứng minh được sáng chế phụ thuộc tạo ra một bước tiến quan trọng về kỹ thuật so với sáng chế cơ bản và có ý nghĩa kinh tế lớn, chủ sở hữu sáng chế phụ thuộc có quyền yêu cầu chủ sở hữu sáng chế cơ bản chuyển giao quyền sử dụng sáng chế cơ bản với giá cả và điều kiện thương mại hợp lý”.

Cụm từ “tạo ra một bước tiến quan trọng về kỹ thuật so với sáng chế cơ bản” trong Điều 137 Luật SHTT Việt Nam hoàn toàn khác biệt với cụm từ “basis that the product did not result in an enhanced efficacy of the known product when the applicant has set forth distinguishing features establishing…” tại Điều QQ.E.1.2bis do Hoa Kỳ và Nhật Bản đề nghị.

Đề xuất này của Hoa Kỳ và Nhật Bản tạo nên tiền đề cho việc lợi dụng để “làm mới sáng chế – Evergreening”, trong khi đó bản chất của Evergreening phải là thay thế công nghệ (technology replacement) cải tiến công nghệ (technology refresh)[18], Điều QQ.E.1.2bis dẫn đến hệ quả là không có bất kỳ một doanh nghiệp dược phẩm nào được quyền sản xuất thuốc gốc nếu sáng chế được bổ sung thêm một tính năng vào thời điểm nó gần hết thời hạn bảo hộ.

Trong thực tế, người ta thấy patent số US4952411 do Cơ quan sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ (USPTO) cấp ngày 28.8.1990 cho Phương pháp ức chế sự lây truyền virus AIDS (Method of inhibiting the transmission of AIDS virus) doCharles L. Fox, Jr., Shanta M. Modak là các đồng tác giả, giải pháp kỹ thuật này do Trustees of Columbia University in the City of New York nộp đơn ngày 18.10.1988, nhưng kể từ lúc nộp đơn đến thời điểm này đã quá 20 năm nhưng patent này vẫn còn hiệu lực bằng những sáng chế phái sinh khác. Bởi vậy, chưa có bất kỳ một doanh nghiệp dược phẩm nào thuộc các quốc gia có tiềm lực KH&CN kém được quyền áp dụng phương pháp trên để tạo nên biệt dược cung cấp cho bệnh nhân nghèo.

Về việc kéo dài thời hạn bảo hộ đối với sáng chế dược phẩm, tại Điều QQ.E.12 Hoa Kỳ đề xuất thời hạn bảo hộ dữ liệu thử nghiệm đối với thuốc thông thường là 5 năm, nhưng thời hạn bảo hộ dữ liệu thử nghiệm đối với thuốc sinh học là 12 năm.

Trong khi đó, Điều 128 Luật SHTT Việt Nam quy định nghĩa vụ bảo mật dữ liệu thử nghiệm: “1. Trong trường hợp pháp luật có quy định người nộp đơn xin cấp phép kinh doanh, lưu hành dược phẩm, nông hoá phẩm phải cung cấp kết quả thử nghiệm hoặc bất kỳ dữ liệu nào khác là bí mật kinh doanh thu được do đầu tư công sức đáng kể và người nộp đơn có yêu cầu giữ bí mật các thông tin đó thì cơ quan có thẩm quyền cấp phép có nghĩa vụ thực hiện các biện pháp cần thiết để các dữ liệu đó không bị sử dụng nhằm mục đích thương mại không lành mạnh và không bị bộc lộ, trừ trường hợp việc bộc lộ là cần thiết nhằm bảo vệ công chúng.

2. Kể từ khi dữ liệu bí mật trong đơn xin cấp phép được nộp cho cơ quan có thẩm quyền đến hết năm năm kể từ ngày người nộp đơn được cấp phép, cơ quan đó không được cấp phép cho bất kỳ người nào nộp đơn muộn hơn nếu trong đơn sử dụng dữ liệu bí mật nêu trên mà không được sự đồng ý của người nộp dữ liệu đó…”

Như vậy, những khó khăn cho các doanh nghiệp dược phẩm Việt Nam lại tăng thêm. Quy định này không chỉ tác động đến ngành công nghiệp dược phẩm, mà còn tác động đến giá thuốc ở Việt Nam.

Theo khảo sát được Trường Chính sách công Lý Quang Diệu thuộc Đại học Quốc gia Singapore công bố thì giá thuốc đại trà ở Việt Nam cao hơn 11.41 lần mức trung bình trên thế giới và giá thuốc đặc trị cao hơn 46,58 lần mức trung bình trên thế giới[19], nếu các doanh nghiệp dược phẩm ở Việt Nam mà bị hạn chế quyền sản xuất thuốc gốc, quyền tiếp cận với dữ liệu thử nghiệm thì giá thuốc vẫn là gánh nặng chi phí cho các bệnh nhân.

Những vấn đề khác liên quan đến lĩnh vực y, dược trong TPP đã được tác giả phân tích trên các diễn đàn về SHTT, do đó trong khuôn khổ bài viết này xin không đề cập.[20]

7. Giải pháp cho vấn đề nghiên cứu

Để có thể khắc phục những rào cản về SHTT đối với các doanh nghiệp Việt Nam, bài viết đề xuất các giải pháp:

7.1. Giải pháp về nhãn hiệu

Về quy định bảo hộ nhãn hiệu đối với âm thanh, mùi, vị, cần tìm hiểu quy định của pháp luật quốc tế về SHTT. Điều 15 Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền SHTT (TRIPs) quy định: “Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác, đều có thể làm nhãn hiệu hàng hóa”. Như vậy, pháp luật quốc tế không ngăn cấm việc lấy âm thanh, mùi, vị làm nhãn hiệu. Cũng cần thấy rằng, trước khi gia nhập WTO, Việt Nam đã phê chuẩn TRIPs, nhưng cho đến nay Việt Nam chưa ban hành các quy định về bảo hộ nhãn hiệu đối với âm thanh, mùi, vị là quá muộn. Do đó, thiết nghĩ nên bổ sung các quy định này vào hệ thống pháp luật về SHTT.

7.2. Giải pháp về chỉ dẫn địa lý

Nên xây dựng pháp luật về SHTT theo hướng bảo hộ nhãn hiệu chứng nhận kèm theo chỉ dẫn địa lý, để giải quyết trường hợp đối với các sản phẩm hiện được bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo pháp luật Việt Nam nếu xuất khẩu sang các nước không bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong TPP (mà bảng 3 đã nêu).

Ví dụ có thể bảo hộ nhãn hiệu chứng nhận cho vải thiều Lục Ngạn, vải thiều Thanh Hà khi xuất khẩu sản phẩm này sang các nước sang Hoa Kỳ và Australia như đã làm trong năm 2015.

Rất nên lưu ý, theo quy định về nguyên tắc bảo hộ độc lập của Công ước về bảo hộ sở hữu công nghiệp, Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý do Cục SHTT Việt Nam cấp chỉ có hiệu lực bảo hộ trên lãnh thổ Việt Nam, do đó cần tiến hành thủ tục đăng lý bảo hộ nhãn hiệu chứng nhận hoặc nhãn hiệu tập thể tại các quốc gia thuộc nhóm không bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong bảng 3 hoặc đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại các quốc gia thuộc nhóm có bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong bảng 3 đối với chỉ dẫn địa lý do Cục SHTT Việt Nam cấp. Việc này cần tiến hành ngay, tránh tình trạng để một chủ thể nào đó đăng ký trước như trường hợp cà phê Buôn Ma Thuột tại Trung Quốc.[21]

7.3. Khắc phục rào cản về quyền sản xuất thuốc gốc

Đây là vấn đề rất phức tạp, khó có thể khắc phục bằng các biện pháp pháp lý, bởi vậy giải pháp cho vấn đề này nên là thay vì nhập khẩu sản phẩm thuốc rồi chờ đến khi patent hết hiệu lực bảo hộ để dành quyền sản xuất thuốc, thì nên nhập khẩu công nghệ sản xuất thuốc, qua đó dần nâng cao năng lực công nghệ của các doanh nghiệp dược phẩm và cũng là biện pháp để thị trường dược phẩm không phụ thuộc vào giá thuốc do các công ty dược phẩm của nước ngoài nắm độc quyền chi phối.

Trong trường hợp này, nếu patent hết hiệu lực bảo hộ thì kể từ thời điểm đó doanh nghiệp nhập khẩu công nghệ sản xuất thuốc không phải trả phí license, ngược lại nếu chủ sở hữu áp dụng biện pháp “làm mới sáng chế – Evergreening” như đã phân tích để kéo dài hiệu lực bảo hộ patent thì các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm của Việt Nam cũng đã quen với thị trường.

8. Kết luận

Khi TPP được vận hành sẽ giúp Việt Nam hội nhập sâu hơn vào thị trường thế giới, thúc đẩy đầu tư của các nước vào Việt Nam, mức tăng đầu tư sẽ giúp thúc đẩy sự hình thành vốn cố định và tạo cơ hội cho Việt Nam khai thác các lợi thế tiềm năng, các ngành công nghiệp, trước hết là dệt may không chỉ nhận ưu đãi từ thị trường Hoa Kỳ, mà còn đạt giá trị gia tăng lớn hơn trong chuỗi cung ứng. Gia nhập TPP sẽ mở ra cơ hội thu hút đầu tư, hợp tác với các nước nhằm hiện đại hóa sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất toàn cầu.

Cơ hội là rất lớn, tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ gặp phải nhiều rào cản, trong đó có rào cản về SHTT. Do hạn chế về khuôn khổ của bài viết, tác giả chưa thể phân tích tất cả các rào cản về SHTT mà chỉ phân tích một số rào cản và tạm thời đưa ra một số giải pháp như đã phân tích.,.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

1. Nguyễn Thị Quế Anh (2010), Phân loại nhãn hiệu theo hình thức của nhãn hiệu, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học, số 26 (2010), tr.100-108

2. Center for Drug Evaluation and Research, U.S. Food and Drug Administration (2006), Generic Drugs

3. European Generic Medicines Association (2007), Evergreening of Pharmaceutical Market Protection, Retrieved 2007-10-19

4. F. Fergusson, Mark A. McMinimy, Brock R. Williams (2015), The Trans-Pacific Partnership (TPP) Negotiations and Issues for Congress, March 20, 2015

5. IMF, World Economic Outlook, April 2014

6. International Trade Centre, The World Trade Organization and the United Nations (2009), Guide to Geographical Indications: Linking products and their origins. ISBN 92-9137-365-6 United Nations Sales No. E.09.III.T.2, p.23

7. International Trade Centre, The World Trade Organization and the United Nations (2009), Countries with trademark protection of GIs, p.126

8. Office of the United States Trade Representative (USTR) International Intellectual Property Alliance đều ra Báo cáo đặc biệt số 301 – Special 301 Report

9. Office­ United States Trade Representative, (2013) Stakeholder Input Sharpens, Focuses U.S. Work on Pharmaceutical Intellectual Property Rights in the Trans-Pacific Partnership.

10. Cao Minh Quang (2012), Drug Price Policy in Vietnam Letting the market set prices is not as easy as it seems, Lee Kuan Yew School of Public Policy at the National University of Singapore

11. Secret TPP treaty (October 16, 2014), Intellectual Property Chapter working document for all 12 nations with negotiating positions.

12. TPP Treaty: Intellectual Property Rights Chapter, Consolidated Text (October 5, 2015)

13. U.S. International Trade Commission (2014), U.S. Foreign Direct Investment (FDI) with TPP Countries, 2013

14. U.S. International Trade Commission (2014), U.S. Goods Trade with TPP Countries, 2014

15. U.S. International Trade Commission (2014), U.S. Private Services Trade with TPP Countries, 2013

16. Williams Brock R. (2013), Trans-Pacific Partnership (TPP) Countries: Comparative Trade and Economic Analysis. Analyst in International Trade and Finance, Congressional Research Service, 7-5700, June 10, 2013

17. WTO (2015), Members and Observers

PHỤ LỤC

DANH SÁCH CÁC CHỈ DẪN ĐỊA LÝ ĐƯỢC BẢO HỘ TẠI VIỆT NAM

(Tính đến ngày 12.11.2015)

 

 

Số đăng bạ

 

Ngày cấp

Chỉ dẫn địa lý

Sản phẩm

00001

01.06.2001

Phú Quốc

Nước mắm

00002

06.06.2001

Mộc Châu (Sơn La)

Chè Shan tuyết

00003

13.05.2002

Cognac

Rượu mạnh (Cộng hòa Pháp)

00004

14.10.2005

Buôn Ma Thuột

Cà phê nhân

00005

08.02.2006

Đoan Hùng (Phú Thọ)

Bưởi quả

00006

15.11.2006

Bình Thuận

Quả thanh long

00007

15.02.2007

Lạng Sơn

Hoa hồi

00008

23.05.2007

Pisco

Rượu (Cộng hòa Peru)

00009

25.05.2007

Thanh Hà (Hải Dương)

Quả vải thiều

00010

30.05.2007

Phan Thiết

Nước mắm

00011

31.05.2007

Hải Hậu (Nam Định)

Gạo Tám Xoan

00012

31.05.2007

Vinh

Quả cam

00013

20.09.2007

Tân Cương (thái Nguyên)

Chè

00014

25.06.2008

Hồng Dân (Bạc Liêu)

Gạo Một Bụi Đỏ

00015

25.06.2008

Lục Ngạn (Bắc Giang)

Vải thiều

00016

30.09.2009

Hòa Lộc

Xoài Cát

00017

30.09.2009

Đại Hoàng (Hà Nam)

Chuối Ngự

00018

07.01.2010

Văn Yên

Quế vỏ

00019

25.06.2010

Hậu Lộc (Thanh Hóa)

Mắm tôm

00020

19.07.2010

Huế

Nón lá

00021

08.09.2010

Bắc Kạn

Hồng không hạt

00022

09.11.2010

Phúc Trạch

Quả bưởi

00023

19.11.2010

Scotch whisky

Rượu mạnh (Scốt-len)

00024

19.11.2010

Tiên Lãng

Thuốc lào

00025

10.10.2011

Bảy Núi

Gạo Nàng Nhen Thơm

00026

21.03.2011

Trùng Khánh

Hạt dẻ

00027

10.08.2011

Bà Đen

Mãng cầu (na)

00028

13.10.2011

Nga Sơn (Thanh Hóa)

Cói

00029

13.10.2011

Trà My

Quế vỏ

00030

07.02.2012

Ninh Thuận

Nho

00031

14.11.2012

Tân Triều

Bưởi

00032

14.11.2012

Bảo Lâm

Hồng không hạt

00033

14.11.2012

Bắc Kạn

Quýt

00034

30.11.2012

Yên Châu (Sơn La)

Xoài tròn

00035

01.03.2013

Mèo Vạc (Hà Giang)

Mật ong

00036

29.08.2013

Năm roi Bình Minh

Bưởi

00037

12.12.2013

Chả mực “Hạ Long”

Chả mực

00038

12.12.2013

Muối ăn Bạc Liêu

Muối ăn

00039

18.12.2013

Luận Văn (Thọ Xuân, Thanh Hóa)

Bưởi

00040

18.12.2013

Hoa mai vàng Yên Tử

Hoa mai vàng

00041

26.03.2014

Con ngán Quảng Ninh

Con ngán

00042

18.9.2014

Isan Thái Lan

Tơ tằm truyền thống

00043

25.09.2014

Điện Biên

Gạo

00044

28.10.2014

Vĩnh Kim (Tiền Giang)

Vú sữa Lò rèn

00045

28.10.2014

Quảng Trị

Hạt tiêu

00046

05.11.2014

Cao Phong (Hòa Bình)

Cam

00047

12.11.2015

Vân Đồn (Quảng Ninh)

Sá sùng

(Nguồn: tác giả tổng hợp từ tài liệu của Cục SHTT Việt Nam)


[1] Ngày 30.11.2015, WTO đã kết nạp thành viên thứ 162 là Kazakhstan, nguồn: WTO (2015), Members and Observers

[2] Vào tháng 2 hằng năm, Office of the United States Trade Representative (USTR) International Intellectual Property Alliance đều ra Báo cáo đặc biệt số 301 – Special 301 Report, trong đó thống kê tình trạng xâm phạm quyền SHTT tại các quốc gia trên thế giới. Theo đó, năm 2013 có 7 nước (không có Việt Nam) nằm trong danh sách các quốc gia xâm phạm quyền SHTT nhiều nhất trên thế giới (Priority Watch List). Năm 2014 Việt Nam là một trong 9 nước và năm 2015 Việt Nam là một trong 10 nước có tên Priority Watch List. Cũng cần nhắc thêm là, trong 11 năm liên tiếp, Trung Quốc luôn luôn giữ vị trí đứng đầu trong Priority Watch List.

[3] Xin tham khảo thêm: F. Fergusson, Mark A. McMinimy, Brock R. Williams (2015), The Trans-Pacific Partnership (TPP) Negotiations and Issues for Congress, March 20, 2015

[4] Trong bài này, patent được dùng với hàm nghĩa duy nhất để chỉ bằng độc quyền sáng chế.

[5] U.S. International Trade Commission (2014), U.S. Goods Trade with TPP Countries, 2014

[6] Xin tham khảo thêm: U.S. International Trade Commission (2014), U.S. Private Services Trade with TPP Countries, 2013

[7] Theo: U.S. International Trade Commission (2014), U.S. Foreign Direct Investment (FDI) with TPP Countries, 2013

[8] Brock R. Williams (2013), Trans-Pacific Partnership (TPP) Countries: Comparative Trade and Economic Analysis. Analyst in International Trade and Finance, Congressional Research Service, 7-5700, June 10, 2013

[9] Trong bài viết này, tác giả sử dụng văn bản TPP Treaty: Intellectual Property Rights Chapter, Consolidated Text (October 5, 2015), có tham khảo một phần bản dịch tiếng Việt do Trung tâm WTO thuộc Bộ Công Thương phát hành.

[10] Xin tham khảo thêm: Nguyễn Thị Quế Anh, Phân loại nhãn hiệu theo hình thức của nhãn hiệu, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học, số 26 (2010), tr.100-108

[11] The International Trade Centre, The World Trade Organization and the United Nations (2009), Guide to Geographical Indications: Linking products and their origins. ISBN 92-9137-365-6 United Nations Sales No. E.09.III.T.2, p.23

[12] Trong bài viết này, những quy định bắt đầu bằng ký hiệu QQ. được trích dẫn từ tài liệu Secret TPP treaty (October 16, 2014), Intellectual Property Chapter working document for all 12 nations with negotiating positions.

[13] The International Trade Centre, The World Trade Organization and the United Nations (2009), Tài liệu đã dẫn, trang 146.

[14] Nguồn: The International Trade Centre, The World Trade Organization and the United Nations (2009), sách đã dẫn, Countries with trademark protection of GIs, p.126

[15] Nguồn: IMF, World Economic Outlook, April 2014

[16] Office­ United States Trade Representative, (2013) Stakeholder Input Sharpens, Focuses U.S. Work on Pharmaceutical Intellectual Property Rights in the Trans-Pacific Partnership.

[17] Center for Drug Evaluation and Research, U.S. Food and Drug Administration (2006), Generic Drugs

[18] Xin tham khảo thêm: European Generic Medicines Association (2007), Evergreening of Pharmaceutical Market Protection, Retrieved 2007-10-19

[19] Cao Minh Quang (2012), Drug Price Policy in Vietnam Letting the market set prices is not as easy as it seems, Lee Kuan Yew School of Public Policy at the National University of Singapore

[20] Xin tham khảo thêm: Trần Văn Hải (2015), Bảo hộ sáng chế phương pháp chẩn đoán, điều trị và phẫu thuật cho người khi TPP được vận hành, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Cơ hội và thách thức về sở hữu trí tuệ khi Việt Nam tham gia thương mại quốc tế, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội tổ chức ngày 18 tháng 12 năm 2015

[21] Xin tham khảo thêm: Trần Văn Hải (2011), Vụ thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột và bài học về bảo vệ tài sản trí tuệ cho các doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Hoạt động khoa học số tháng 10.2011 (629), tr. 13-16, ISSN 1859-4794.

SOURCE: TẠP CHÍ THƯƠNG HIỆU VIỆT, SỐ 76 +77 (2016), TR 19-25.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Xin chào luật sư. Tôi có một vấn đề muốn hỏi luật sư là: Tôi có nộp hồ sơ đăng ký kết hôn với người nước ngoài tại sở tư pháp. Sau đó trong thời gian tìm hiểu thì hai chúng tôi không hợp nhau. Sau đó chúng tôi không đăng ký kết hôn nữa, nay tôi rút toàn bộ hồ sơ đăng ký kết hôn có được không, nếu được thì thủ tục rút như thế nào? Trong khi chờ luật sư giải đáp tôi thành thật biết ơn.

Rút hồ sơ đăng ký kết hôn?


Luật sư tư vấn:
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định hôn nhân là tự nguyện tiến bộ
“Điều 2. Những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình
1. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.”
Cấm các hành vi sau đây:
“2. Cấm các hành vi sau đây:
a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
……”
Như vậy nếu xét thấy việc kết hôn là tự nguyện và tiến bộ, nếu xét thấy việc kết hôn là không hợp nhau và không thể chung sống, bạn hoàn toàn có quyền đến sở tư pháp và rút hồ sơ kết hôn.
Hai bạn có thể tới trực tiếp trụ sở tư pháp nơi đã nộp hồ sơ làm mẫu đơn xin rút hồ sơ đăng ký kết hôn, trình bầy rõ lý do về việc hai bên không hợp nhau. Tờ khai rút đơn đăng ký kết hôn theo mẫu bạn có thể xin tại sở tư pháp.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Chị tôi lấy chồng người Trung Quốc, tháng 3 này chị mới vừa dẫn cả anh chồng về để làm thủ tục đăng ký kết hôn. Anh có hộ chiếu và đóng thị thực visa hạn là ngày 21 tháng 3. Anh mới về quê tôi ở Thanh Hoá được mấy ngày thì công an xã và công an huyện lập biên bản phạt vì không đăng ký tạm trú và tịch thu hộ chiếu của anh ấy. Cho tôi hỏi trường hợp này có đúng không?

Người nước ngoài ở Việt Nam có cần đăng ký tạm trú không?


Trả lời:
Theo Pháp lệnh Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam và các quy định pháp luật khác, người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại Việt Nam phải tuân thủ theo pháp luật Việt Nam tạm trú và được cư trú có thời hạn ở Việt Nam. Việc đăng ký tạm trú của người nước ngoài được làm thủ tục tại cửa khẩu nơi nhập cảnh. Sau khi xuất trình hộ chiếu hoặc giấy tờ thay hộ chiếu và phiếu nhập, xuất cảnh đã kê khai đầy đủ theo quy định (mỗi đối tượng có quy định loại giấy tờ khác nhau), người nước ngoài được Trạm công an cửa khẩu Việt Nam cấp giấy chứng nhận tạm trú tại cửa khẩu nhập cảnh. Trong thời gian ở Việt Nam, người nước ngoài phải khai báo tạm trú với chính quyền cấp phường, xã nơi lưu lại qua đêm qua chủ hộ, chủ khách sạn, nhà khách, quán trọ.
Trước khi thị thực hết hạn 3 ngày, người nước ngoài muốn gia hạn thị thực cần làm đơn xin gia hạn, nộp tại Phòng Quản lý xuất nhập cảnh – Công an tỉnh, thành phố nơi đang cư trú để được xét giải quyết gia hạn thị thực. Kèm theo đơn trên có hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay hộ chiếu và chứng nhận tạm trú tại Việt Nam. Khi đã được gia hạn thị thực, cần tiếp tục đăng ký tạm trú tại nơi cư trú. Trường hợp thời hạn thị thực Việt Nam hết hạn, nhưng thời hạn tạm trú ở Việt Nam vẫn còn thì không phải làm thủ tục xin gia hạn thị thực.
Như vậy, đối với trường hợp của bạn trai chị bạn nếu như anh ta đã được cơ quan có thẩm quyền về quản lý và xuất cảnh thuộc Bộ Công an tại các cửa khẩu quốc tế của Việt Nam cấp Giấy chứng nhận tạm trú thì anh ta vẫn phải phải khai báo tạm trú với chính quyền cấp phường, xã nơi lưu lại qua đêm qua chủ hộ của gia đình chị gái bạn, do đó việc công an xã lập biên bản là đúng tuy nhiên việc nộp phạt như thế nào và được tịch thu hộ chiếu của anh ta hay không thì lại không thuộc thẩm quyền của công an xã.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thủ tục đăng ký kết hôn giữa 2 người Việt Nam đang tạm trú ở nước ngoài như thế nào?

Trả lời:

Căn cứ vào các văn bản:

1. Nghị định 24/2013/NĐ – CP ngày 28/3/2013 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.

2. Thông tư 08a/2010/TT – BTP ngày 25/3/2010 của Bộ Tư pháp ban hành, hướng dẫn việc ghi chép,lưu trữ,sử dụng sổ,biểu mẫu hộ tịch.

Wiki Luật trả lời bạn như sau, đây là Thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài, được thực hiện tại cơ quan đại diện Việt nam ở nước ngoài.

1. Đăng ký việc kết hôn giữa hai công dân Việt Nam cùng tạm trú ở nước ngoài

Hai bên nam, nữ phải trực tiếp đến nộp hồ sơ tại Cơ quan đại diện. Trường hợp một trong hai bên không thể đến nộp hồ sơ mà có lý do chính đáng thì cần có đơn xin nộp hồ sơ vắng mặt, ghi rõ lý do.

Hồ sơ đăng ký kết hôn của mỗi bên cần có các giấy tờ sau:

– Tờ khai đăng ký kết hôn, trong đó khai đầy đủ các mục và có chữ ký của cả hai bên nam, nữ.

– Tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu quy định (mẫu TP/HTNNg–2003– KH.1) có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền về việc trước khi xuất cảnh ra nước ngoài đương sự là người chưa có vợ hoặc chồng. Nếu có Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân do các cơ quan có thẩm quyền cấp thì không cần nộp Tờ khai đăng ký kết hôn có xác nhận này. Tờ khai đăng ký kết hôn có xác nhận hoặc Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân nêu ở điểm này phải là bản chính (có dấu đỏ), không được là bản sao, kể cả bản sao có công chứng.

– Xác nhận tình trạng hôn nhân nêu tại điểm này cần ghi rõ những yếu tố sau: họ tên, ngày, tháng, năm sinh, địa chỉ đăng ký hộ khẩu thường trú (hoặc cơ quan công tác) hiện tại chưa đăng ký kết hôn với ai; lần này kết hôn là lần thứ mấy (nêu rõ lần kết hôn).

Thẩm quyền xác nhận về tình trạng hôn nhân như sau:

– Xác nhận về tình trạng hôn nhân đối với công dân Việt Nam tạm trú ở nước ngoài do Uỷ ban nhân dân xã, phường ở trong nước xác nhận cho thời gian trước khi đương sự xuất cảnh.

Trong trường hợp một bên là cán bộ, công chức, người lao động đang công tác tại các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, doanh nghiệp nhà nước hoặc đang phục vụ trong các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân xin kết hôn với công dân Việt Nam đang tạm trú ở nước ngoài thì việc xác nhận tình trạng hôn nhân trong Tờ khai đăng ký kết hôn do thủ trưởng cơ quan, đơn vị chủ quản của người đó thực hiện.

Trường hợp đương sự đã cư trú tại một nước thứ ba từ 6 tháng trở lên trước khi đến nước tiếp nhận thì cần xuất trình thêm giấy xác nhận của cơ quan đại diện Việt Nam tại nước thứ ba đó về việc đương sự không đăng ký kết hôn trong thời gian lưu trú tại nước này (xem thêm mục 5.5 về việc cấp Giấy xác nhận chưa đăng ký kết hôn).

Đối với trường hợp vợ hoặc chồng chết hoặc bị tuyên bố là chết thì trong hồ sơ cần có bản sao Giấy chứng tử.

Đối với trường hợp ly hôn thì trong hồ sơ cần có bản sao bản án hoặc quyết định cho ly hôn của Toà án Việt Nam đã có hiệu lực pháp luật.

Trong trường hợp bản án, quyết định cho ly hôn của Toà án hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài thuộc loại phải ghi chú vào sổ hộ tịch theo quy định của pháp luật Việt Nam về đăng ký hộ tịch thì bản án, quyết định đó phải được ghi chú trước khi nộp hồ sơ (được Bộ Tư pháp đồng ý và được Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ghi vào sổ thay đổi về hộ tịch – xem thêm các điều từ 83-85 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch).

Những người công tác, lao động, học tập ở nước ngoài thuộc sự quản lý của bộ phận chuyên trách của cơ quan đại diện hoặc các cơ quan, tổ chức khác của Việt Nam có đại diện ở nước ngoài thì cần có xác nhận hoặc giấy giới thiệu của bộ phận, cơ quan đó.

– Giấy khai sinh (nếu là bản sao thì phải có công chứng hợp lệ).

– Bản chụp hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay thế, xuất trình bản chính để đối chiếu.

2. Đăng ký việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với công dân nước ngoài hoặc giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên cùng định cư ở nước ngoài

Hồ sơ đăng ký kết hôn, ngoài các giấy tờ nêu tại mục 5.3.1, đương sự cần nộp thêm các giấy tờ sau:

– Tờ khai đăng ký kết hôn có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền của nước mà người nước ngoài là công dân hoặc thường trú (đối với người không quốc tịch), cấp chưa quá 6 tháng, tính đến ngày nhận hồ sơ, xác nhận hiện tại đương sự là người không có vợ hoặc không có chồng. Việc xác nhận người nước ngoài không có vợ hoặc không có chồng có thể bằng một văn bản riêng. Trong trường hợp pháp luật nước ngoài không quy định việc xác nhận vào Tờ khai hoặc cấp loại giấy này thì có thể thay thế bằng việc xác nhận lời tuyên thệ của đương sự về việc không có vợ hoặc không có chồng, phù hợp với pháp luật nước đó.

– Xác nhận về tình trạng hôn nhân đối với công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài do các cơ quan có thẩm quyền ở trong nước cấp xác nhận cho thời gian trước khi đương sự xuất cảnh ra nước ngoài (nếu trước đây đương sự đã thường trú ở Việt Nam). Đối với thời gian ở nước ngoài, phải có giấy xác nhận của cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại, trừ khi Lãnh sự có đầy đủ cơ sở để khẳng định đương sự không có vợ (chồng).

– Đối với công dân Việt Nam đang phục vụ trong các lực lượng vũ trang hoặc đang làm việc có liên quan trực tiếp đến bí mật quốc gia thì phải nộp Giấy xác nhận của cơ quan, tổ chức quản lý ngành cấp Trung ương hoặc cấp tỉnh, xác nhận việc người đó kết hôn với người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài không ảnh hưởng đến việc bảo vệ bí mật quốc gia hoặc không trái với quy định của ngành đó.

– Lý lịch cá nhân theo mẫu quy định (mẫu TP/HTNNg-2003-KH2)

– Giấy xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền của Việt Nam hoặc nước ngoài cấp chưa quá 6 tháng, tính đến ngày nhận hồ sơ, xác nhận hiện tại người đó không mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh tâm thần nhưng chưa đến mức không có khả năng nhận thức được hành vi của mình, không mắc bệnh hoa liễu.

– Các giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp hoặc công chứng, chứng thực phải được hợp pháp hoá theo quy định về hợp pháp hoá lãnh sự, trừ trường hợp được miễn hợp pháp hoá và phải được dịch ra tiếng Việt. Bản dịch cũng phải được công chứng theo quy định về công chứng.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Vấn đề sáp nhập doanh nghiệp – trường hợp miễn trừ đối với tập trung kinh tế bị cấm, cần được hướng dẫn áp dụng

28/02/2014

1. Cơ sở lý luận của cơ chế miễn trừ đối với giao dịch sáp nhập doanh nghiệp bị cấm
1.1. Khái niệm sáp nhập doanh nghiệp.

Thuật ngữ “Sáp nhập doanh nghiệp” xuất hiện trong khá nhiều tài liệu trong nước và quốc tế. Trong lý luận kinh tế chính trị, C.Mác đưa ra một khái niệm rộng hơn có liên hệ với sáp nhập trong kinh tế, đó là tập trung tư bản. Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội thành một tư bản cá biệt khác lớn hơn. Cạnh tranh và tín dụng là những đòn bẩy mạnh nhất thúc đẩy tập trung tư bản. Do cạnh tranh mà dẫn tới sự liên kết tự nguyện hay sáp nhập của các tư bản cá biệt. Tín dụng tư bản chủ nghĩa là phương tiện để tập trung các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội vào tay các nhà tư bản. Như vậy, sáp nhập là một dạng của tập trung tư bản.

Như vậy, có thể rút ra được khái niệm của sáp nhập doanh nghiệp, như sau: Sáp nhập doanh nghiệp theo nghĩa hẹp là giao dịch trong đó một hoặc một số doanh nghiệp từ bỏ pháp nhân của mình để gia nhập vào một doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp nhận sáp nhập sẽ tiếp nhận toàn bộ tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp và nghĩa vụ của doanh nghiệp bị sáp nhập. Sau khi việc sáp nhập hoàn thành doanh nghiệp bị sáp nhập sẽ chấm dứt sự tồn tại của mình. Sáp nhập theo nghĩa rộng còn bao gồm cả việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp trước sáp nhập (sáp nhập theo nghĩa rộng bao gồm cả hợp nhất)([1]).

1.1.1 Sáp nhập doanh nghiệp theo quy định của Luật Cạnh tranh.

Với tư cách là một dạng của tập trung kinh tế, khoản 1 Điều 17 của Luật Cạnh tranh (viết tắc LCT) quy định: “ Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập”. Ví dụ, khi doanh nghiệp A nhập vào doanh nghiệp B, doanh nghiệp A sẽ không tồn tại nữa, cổ phiếu của doanh nghiệp A sẽ được chuyển đổi sang cổ phiếu của doanh nghiệp B. Cách thức quản lý điều hành doanh nghiệp sau sáp nhập khác với trường hợp mua lại doanh nghiệp vì hai doanh nghiệp sáp nhập sẽ bắt tay nhau “đồng vai phải lứa” dù rằng trên thực tế về mặt pháp lý có một bên bị sở hữu và một bên được sở hữu.

1.1.2.Sáp nhập doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp.

Theo quy định tại Điều 153 của Luật Doanh nghiệp năm 2005: “Một hoặc một số công ty cùng loại (sau đây gọi là công ty bị sáp nhập) có thể sáp nhập vào một công ty khác (sau đây gọi là công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập.” Quyền tự do kinh doanh thừa nhận khả năng doanh nghiệp được phép hoạt động trong những ngành nghề, lĩnh vực mà pháp luật không cấm cũng như thừa nhận cho doanh nghiệp quyền được tự chủ trong quá trình hoạt động của mình. Có nhiều lí do để các doanh nghiệp cân nhắc đến việc tiến hành một giao dịch sáp nhập. Trong giao dịch sáp nhập, ngoài việc phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật doanh nghiệp, các doanh nghiệp liên quan còn phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh với tư cách là mảng pháp luật kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh.

Khi tiến hành giao dịch sáp nhập, các doanh nghiệp tham gia vào giao dịch đã làm thay đổi cấu trúc cạnh tranh trên thị trường. Kết quả là số lượng doanh nghiệp trên thị trường bị giảm xuống. Mặt khác hành vi sáp nhập doanh nghiệp sẽ làm hình thành nên một doanh nghiệp có tiềm lực bằng tổng các doanh nghiệp tham gia sáp nhập cộng lại. Cũng chính vì vậy, nhằm bảo đảm cho cấu trúc cạnh tranh của thị trường, phải đặt ra nhu cầu kiểm soát hành vi sáp nhập doanh nghiệp.

1.2. Quy định của LCT trường hợp miễn trừ đối với tập trung kinh tế bị cấm.

1.2.1. Trường hợp tập trung kinh tế bị cấm.

Điều 18 của LCT có quy định “Cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên quan”. Như vậy, chính yếu tố thị phần là yếu tố duy nhất để xem xét một giao dịch sáp nhập có phải là giao dịch bị cấm hay không. Thị trường viễn thông của Việt Nam thời gian qua đã chứng kiến việc chuyển giao EVN Telecom cho Viettel, câu hỏi đặt ra việc sáp nhập này có vi phạm LCT? Về vấn đề này, Công ty cổ phần Viễn thông Hà Nội (Hanoi Telecom) có công văn số 58/CV-HTC gửi đến Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công thương), Hội đồng cạnh tranh, Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng, kiến nghị sẽ là vi phạm pháp luật cạnh tranh trong việc chuyển giao toàn bộ mọi nguồn lực của EVN Telecom cho Viettel. Mà theo đó, Hanoi Telecom nêu ra ba lý do. Thứ nhất, nếu mọi nguồn lực của EVN Telecom được chuyển giao toàn bộ cho Viettel thì chỉ riêng đơn vị này sở hữu tới trên 50% tổng quỹ tần số 3G của quốc gia, tạo điều kiện cho Viettel trở thành doanh nghiệp có vị trí độc quyền. Thứ hai, do Viettel hiện chiếm gần 37% thị phần thông tin di động tại Việt Nam, nên nếu Viettel lấy được băng tần 3G của EVN Telecom đang chia sẻ với Hanoi Telecom thì sẽ ngăn cản việc tham gia thị trường của Hanoi Telecom, do chỉ với một phần nhỏ băng tần 3G còn lại Hanoi Telecom sẽ không thể cung cấp dịch vụ 3G ra thị trường với giá cả cạnh tranh nhất do chi phí triển khai quá lớn. Thứ ba, trong kế hoạch tiếp nhận EVN Telecom, Viettel sẽ được sử dụng miễn phí tất cả các cột tháp ăngten và hàng chục triệu cột điện, trong khi các nhà mạng khác phải thuê cột điện để treo cáp với giá tăng gấp trên bảy lần so với giá khởi điểm. Điều này cũng vi phạm các quy định của LCT. Ngoài ra, theo báo cáo mới nhất của Bộ Thông tin và Truyền thông, Viettel hiện chiếm gần 37% thị phần thông tin di động tại Việt Nam. Tuy nhiên, theo Điều 11, Mục 2, LCT với trên 30% thị phần, Viettel được coi là “doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường” viễn thông Việt Nam.([2])

Theo quan điểm cá nhân thấy rằng, việc tái cơ cấu EVN theo hướng tập trung vào lĩnh vực chủ đạo mà Chính phủ giao là điện lực đã được đề cập đã lâu. Tốc độ phát triển thuê bao thấp, doanh thu không đạt kỳ vọng, kèm theo việc công ty mẹ bị yêu cầu tập trung vào lĩnh vực chính, nên việc sáp nhập doanh nghiệp là điều tất yếu. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp giao dịch sáp nhập doanh nghiệp đều có hại cho cạnh tranh trên thị trường mà trong một số trường hợp những giao dịch này cũng mang lại những lợi ích nhất định. Những lợi ích đó có thể là kết quả của giao dịch sáp nhập doanh nghiệp góp phần giúp cho một bên của giao dịch thoát khỏi nguy cơ bị phá sản, hoặc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước với quá trình hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng hơn. Tuy vậy cần phải thấy là việc cân nhắc giữa tác hại và lợi ích mà giao dịch sáp nhập doanh nghiệp mang lại phải đặt trong tương quan với chính sách cạnh tranh và điều kiện kinh tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn nhất định.

Trên tinh thần đó, pháp luật cạnh tranh qui định giao dịch sáp nhập doanh nghiệp mặc dù rơi vào trường hợp bị cấm nhưng nếu thỏa mãn những điều kiện do luật cạnh tranh qui định thì có thể được xem xét để được miễn trừ.

1.2.2. Trường hợp miễn trừ đối với tập trung kinh tế bị cấm.

Theo quy định tại Điều 19 của LCT, thì trường hợp miễn trừ đối với tập trung kinh tế bị cấm, đó là:

“Tập trung kinh tế bị cấm quy định tại Điều 18 của Luật này có thể được xem xét miễn trừ trong các trường hợp sau đây:

1. Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản;

2. Việc tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế – xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ.”

Trở lại việc sáp nhập giữa EVN Telecom vào Viettel, cho thấy: Điều chuyển EVN Telecom sang Viettel có lợi cho doanh nghiệp, khách hàng, đối tác…Chúng ta đang thực hiện chủ trương tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty, trong đó có yêu cầu trước năm 2015, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước phải thoái vốn đã đầu tư vào ngoài ngành nghề chính. Việc thoái vốn của các doanh nghiệp có thể tiến hành theo các cách: bán vốn, chuyển giao vốn, chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng doanh nghiệp, chuyển giao doanh nghiệp…Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đầu tư vào lĩnh vực viễn thông được một thời gian, tuy nhiên hiệu quả hoạt động thấp, kinh doanh thua lỗ, nợ phải trả lớn. Theo đề nghị của Tập đoàn Điện lực Việt Nam và Tập đoàn Viễn thông quân đội (Viettel), ý kiến của các bộ liên quan, Thủ tướng Chính phủ quyết định thực hiện việc điều chuyển này. Việc điều chuyển Công ty viễn thông điện lực (EVN Telecom) từ Tập đoàn Điện lực Việt Nam sang Tập đoàn Viễn thông quân đội nhằm các mục đích sau đây: Một là, cơ cấu lại Tập đoàn Điện lực Việt Nam để tập trung nguồn lực vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh điện, thực hiện có hiệu quả quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020, có tính đến năm 2030. Hai là, phải đảm bảo hoạt động bình thường của Công ty Thông tin viễn thông điện lực, thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý đối với khách hàng và đối tác của Công ty. Ba là, cơ cấu lại để mỗi doanh nghiệp Nhà nước, trong đó có các tập đoàn kinh tế nhà nước chuyên sâu vào ngành nghề kinh doanh chính với đội ngũ cán bộ am tường kinh tế, kỹ thuật để doanh nghiệp có điều kiện hoạt động hiệu quả hơn. Bốn là, khai thác có hiệu quả nguồn vốn, tài sản của Nhà nước đã đầu tư, bảo đảm công ăn việc làm, thu nhập, đời sống cho người lao động. Tập đoàn Điện lực không chuyên sâu về lĩnh vực viễn thông, không có nhiều kinh nghiệm và năng lực quản trị trong lĩnh vực này, dẫn đến những hậu quả như đã nói. Trong khi đó, Tập đoàn Viễn thông quân đội là một trong những doanh nghiệp viễn thông tốt nhất của Việt Nam, hiện cũng đã đầu tư ra nước ngoài có hiệu quả. Có nhiều cơ sở để đảm bảo rằng Tập đoàn Viễn thông quân đội sẽ sử dụng có hiệu quả hơn những tài nguyên nói trên so với Công ty Thông tin viễn thông điện lực. Nhìn rộng ra, việc điều chuyển này có lợi cho doanh nghiệp, người tiêu dùng, các đối tác và toàn xã hội. Nếu tỷ lệ sau khi điều chuyển EVN Telecom cho Viettel là trên 50% thị trường liên quan thì cũng không có vấn đề gì lớn vì chúng ta cũng sẽ cơ cấu lại để doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh có hiệu quả như đã nói ở trên và phù hợp với pháp luật về cạnh tranh. Hiện, Việt Nam có 7 doanh nghiệp viễn thông đang hoạt động, 2 doanh nghiệp khác đang chuẩn bị tham gia thị trường. Theo tôi, các quy luật thị trường sẽ tự dẫn đến việc mua bán, sáp nhập, hợp nhất, điều chuyển doanh nghiệp và cần coi đó là chuyện hết sức bình thường, nếu đi theo hướng này, thị trường viễn thông Việt Nam sẽ lành mạnh hơn, quyền lợi của người tiêu dùng sẽ được đảm bảo tốt hơn ([3]).

Dù vậy, cần phải thấy rằng cơ chế miễn trừ không đương nhiên áp dụng đối với  giao dịch sáp nhập doanh nghiệp bị cấm khi giao dịch này thỏa mãn các điều kiện được qui định tại Điều 19 của LCT. Đó chỉ là những tiêu chí để cơ quan cạnh tranh của Việt nam xem xét khi có đơn xin hưởng miễn trừ của các doanh nghiệp. Với quy định xem chừng như rất rõ ràng như thế, nhưng trên thực tế, với các tiêu chí được qui định tại Điều 19 LCT đã tạo ra rất nhiều vướng mắc cho cả doanh nghiệp và cơ quan cạnh tranh trong quá trình áp dụng cơ chế miễn trừ đối với giao dịch sáp nhập doanh nghiệp bị cấm. Cụ thể:

1.2.2.1. Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản

Điều kiện để xem xét cho phép doanh nghiệp được hưởng miễn trừ trong trường hợp này đó là một hoặc nhiều bên tham gia vào giao dịch mua bán, sáp nhập doanh nghiệp phải đang trong nguycơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản. Vấn đề đặt ra là hiểu như thế nào là nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản đối với doanh nghiệp? Những quy định của pháp luật cạnh tranh của ta hiện nay hầu như không có qui định nào để giải thích cho hai khái niệm trên.

Điều 157 của Luật Doanh nghiệp 2005 quy định các trường hợp và điều kiện giải thể doanh nghiệp:

“1. Doanh nghiệp bị giải thể trong các trường hợp sau đây:

a) Kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà không có quyết định gia hạn;

b) Theo quyết định của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư nhân; của tất cả thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh; của Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn; của Đại hội đồng cổ đông đối với công ty cổ phần;

c) Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật này trong thời hạn sáu tháng liên tục;

d) Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

2. Doanh nghiệp chỉ được giải thể khi bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác.”

Từ quy định này cho thấy, giải thể doanh nghiệp có hai trường hợp là giải thể tự nguyện hoặc giải thể bắt buộc. Nhưng cho dù là giải thể tự nguyện hay giải thể bắt buộc thì điều kiện đặt ra là doanh nghiệp phải có khả năng thanh toán được các nghĩa vụ tài chính của mình. Đây cũng chính là một trong những yếu tố để phân biệt giữa giải thể và phá sản doanh nghiệp. Bởi theo quy định tại Điều 3 của Luật về phá sản năm 2004, thì “Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản.

 Nói cách khác, theo qui định của pháp luật doanh nghiệp, việc giải thể doanh nghiệp có thể xuất phát từ nhiều lí do. Nhưng tóm lại, việc giải thể doanh nghiệp hầu như không liên quan trực tiếp đến tài chính của doanh nghiệp. Nhưng LCT không có một định nghĩa hoặc văn bản hướng dẫn nào của cơ quan có thẩm quyền giải thích rõ ràng hơn về khái niệm “nguy cơ bị giải thể”. Nếu phân tích theo tư duy logic thì khoản 1 Điều 19 LCT đang đề cập đến tình trạng tài chính bị mất cân đối ở doanh nghiệp tham gia vào giao dịch sáp nhập. Từ đó, có thể nhìn nhận rằng nếu không có giao dịch mua bán hợp nhất này thì doanh nghiệp đó phải chấm dứt hoạt động (thông qua việc giải thể hoặc phá sản). Cơ sở để được hưởng miễn trừ trong trường hợp này xuất phát từ:

– Một là: doanh nghiệp này đang nằm trong nguy cơ bị giải thể hoặc phá sản. Nói cách khác, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp này trên thị trường liên quan hầu như là không đáng kể. Cho nên việc có sáp nhập hay không sáp nhập thì cũng không làm thay đổi cấu trúc cạnh tranh trên thị trường một cách đột ngột.

– Hai là: Với việc cho phép doanh nghiệp được tiến hành giao dịch sáp nhập doanh nghiệp đang nằm trong nguy cơ giải thể hoặc phá sản có thể không phải chấm dứt sự tồn tại. Vì thế quyền lợi cho các đối tác, chủ nợ, người lao động của doanh nghiệp…sẽ không bị tác động lớn như trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản.

Nhưng LCT không có một quy định nào thể hiện một cách chi tiết cho suy luận trên. Khi xem xét áp dụng miễn trừ, một nguyên tắc đặt ra là cơ quan có thẩm quyền phải tuân thủ qui định của pháp luật. Trong trường hợp này, theo qui định tại khoản 3 Điều 83 của Luật Ban hành văn bản qui phạm pháp luật (sửa đổi, bổ sung năm 2008):“Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành mà có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản được ban hành sau.”, rõ ràng khái niệm doanh nghiệp rơi vào tình trạng giải thể phải được hiểu theo qui định tại Điều 157 của Luật Doanh nghiệp, tức là việc chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp không xuất phát một cách trực tiếp từ nguyên nhân tình trạng tài chính của doanh nghiệp. Trong trường hợp này, về mặt lí luận rất khó lí giải cho nguyên do được hưởng miễn trừ của doanh nghiệp khi doanh nghiệp thực hiện các giao dịch mua bán, sáp nhập doanh nghiệp nhưng lại rơi vào các trường hợp bị cấm theo pháp luật cạnh tranh. Trên thực tế, vấn đềMobiFone và VinaPhone sáp nhập đã được VNPT tính toán đến từ lâu và nằm trong lộ trình tái cấu trúc của Tập đoàn này. Nếu quá trình sáp nhập hoàn tất, VNPT sẽ nắm giữ khoảng 58% thị phần di động của thị trường. Ngoài ra, mạng di động mới còn quản lý nhiều đầu số nhất (chỉ riêng dải 09, VNPT đã nắm giữ tới 4/10 bao gồm: 090, 091, 093 và 094). Hiện hai mạng di động này đang nắm giữ gần 80 triệu thuê bao.

1.2.2.2. Việc tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế – xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ

Để có thể được hưởng cơ chế miễn trừ các bên có liên quan phải chứng minh rằng kết quả của giao dịch sáp nhập doanh nghiệp có tác dụng tốt đối với xã hội thông qua việc mở rộng xuất khẩu hoặc phát triển kinh tế xã hội hoặc góp phần phát triển tiến bộ khoa học kĩ thuật. Có hai nhận xét xoay quanh qui định này:

Một là, với tư cách là cơ sở để áp dụng miễn trừ đối với giao dịch sáp nhập doanh nghiệp bị cấm nhưng lại thiếu đi các tiêu chí cụ thể để áp dụng trên thực tế. Về mặt câu chữ, thì khoản 2 Điều 19 của LCT rất dễ hiểu, nhưng khi áp dụng vào thực tế các bên có liên quan sẽ rất khó khăn trong việc lí giải thế nào là có tác dụng mở rộng xuất khẩu. Giả sử các bên tham gia vào giao dịch sáp nhập đều là những doanh nghiệp chuyên kinh doanh mặt xuất khẩu thì liệu thị phần kết hợp của các bên sau khi sáp nhập có phải là một sự mở rông xuất khẩu hay không? Tương tự như vậy, cũng sẽ rất khó khăn khi phải giải thích thế nào là góp phần phát triển kinh tế-xã hội, tiến bộ kỹ thuật công nghệ.

Hai là, kết quả của việc thiếu vắng hệ thống các tiêu chí để lượng hóa các trường hợp miễn trừ giao dịch sáp nhập doanh nghiệp theo qui định tại khoản 2 Điều 19 của LCT dễ dẫn đến một trong hai khuynh hướng sau trong cách hành xử của cơ quan cạnh tranh với các bên có liên quan trong việc xem xét cho hưởng miễn trừ đối với giao dịch sáp nhập doanh nghiệp bị cấm, đó là: Dễ dãi trong việc cho hưởng miễn trừ hoặc không cho hưởng miễn trừ mặc dù có thể giao dịch sáp nhập có nhiều lợi ích đối với nền kinh tế hơn là những tác hại mà chúng mang lại.

2. Một số kiến nghị và giải pháp hướng tới xây dựng hệ thống tiêu chí miễn trừ các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm.

2.1. Kiến nghị.

Như trên đã phân tích, các tiêu chí hưởng miễn trừ có vai trò rất quan trọng trong việc kiểm soát tập trung kinh tế nói chung và trong giao dịch sáp nhập nói riêng. Bởi vì nó không chỉ giúp cho việc thực thi chính sách cạnh tranh của quốc gia trong mỗi gia đoạn lịch sử nhất định mà nó còn có ý nghĩa rất lớn đối với các bên trong việc thực hiện giao dịch sáp nhập.

Thứ nhất: Cần phải có định nghĩa rõ ràng thế nào là đang trong nguy cơ giải thể. Điều này không chỉ có ý nghĩa về mặt học thuật mà nó còn có ý nghĩa rất lớn về mặt thực tiễn khi các bên liên quan tiến hành việc giải trình với cơ quan cạnh tranh về vấn đề miễn trừ

Thứ hai: Các tiêu chí miễn trừ được qui định tại khoản 2 Điều 19 của LCT. Một trong những cơ sở xem xét để quyết định việc miễn trừ đối với giao dịch sáp nhập doanh nghiệp đó là liệu các giao dịch này có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế – xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ hay không? Tuy vậy, trong những phần sau của LCT và nghị định 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 của Chính phủ qui định chi tiết thi hành một số điều của LCT lại chưa có được những qui chuẩn cụ thể cho việc nhận diện các yếu tố trên.

Chính sách cạnh tranh của mỗi quốc gia được nhìn nhận trong tiến trình chuyển động cùng với sự thay đổi của các điều kiện kinh tế xã hội trong mỗi thời kì nhất định. Cụ thể, trong bối cảnh tình hình kinh tế hiện tại, chính sách cạnh tranh của Việt Nam gắn chặt với quá trình hội nhập quốc tế. Sáu năm sau ngày gia nhập WTO, cùng với việc hàng hóa Việt Nam xuất hiện ngày càng nhiều ở thị trường các nước thì mặt trái của nó là hàng hóa của các nước cũng sẽ được nhập vào thị trường Việt Nam cũng không ít. Các doanh nghiệp Việt nam đứng trước thách thức là phải có bước trưởng thành để có thể tồn tại tại chính thị trường Việt nam và xa hơn nữa là phải vươn mạnh ra thị trường thế giới, nhất là những thị trường “khó tính”, như Mỹ, EU,…. Từ đó, cơ quan quản lí về cạnh tranh của Việt nam sẽ phải cân nhắc giữa yếu tố bảo vệ cấu trúc thị trường hiện tại hay là tạo lập nên những doanh nghiệp có tiềm lực đủ mạnh trước sức ép cạnh tranh từ các doanh nghiệp khác đến từ các quốc gia thành viên.

2.2. Giải pháp.

Thứ nhất: Cần phải qui định các tiêu chí cụ thể để dễ dàng hơn trong việc xác định thế nào là mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế – xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ. Việc xây dựng một hệ thống tiêu chí như thế này không phải là một việc làm mới. Trên thực tế pháp luật cạnh tranh của Liên minh châu Âu cũng đã xây dựng hệ thống các tiêu chí miễn trừ. Theo đó, cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh khi tiến hành xem xét một giao dịch sáp nhập có rơi vào các trường hợp miễn trừ hay không sẽ có những tiêu chí cụ thể. Trên cơ sở đó cơ quan cạnh tranh sẽ cân nhắc trong từng trường hợp cụ thể. Mặt khác, các doanh nghiệp tham gia vào giao dịch sáp nhập doanh nghiệp cũng dễ dàng hơn trong việc thuyết phục cơ quan cạnh tranh về khả năng được hưởng miễn trừ. Xét trong bối cảnh của Việt Nam với qui định hiện hành của Nghị định 116/2005/NĐ-CP cũng như các văn bản có liên quan chưa giải quyết được yêu cầu này.

Thứ hai: Trong trường hợp không xây dựng hệ thống tiêu chí để làm cơ sở xác định thì nên xây dựng một danh sách các hành vi được miễn trừ. Theo đó, khi các bên thực hiện các hành vi nhưng nằm trong danh sách các hành vi được miễn trừ này không cần phải tiến hành thủ tục giải trình mà chỉ cần thông báo đến cơ quan cạnh tranh mà thôi. Lưu ý, việc thông báo này không có ý nghĩa là cần đến sự chấp thuận của cơ quan cạnh tranh mà nó chỉ có ý nghĩa trong việc quản lí về cạnh tranh của cơ quan cạnh tranh mà thôi.

Thứ ba: Một mặt nên có những cơ chế dành cho cơ quan cạnh tranh sự tự chủ lớn hơn trong việc quyết định cơ chế miễn trừ đối với giao dịch sáp nhập bị cấm. Mặt khác cần phải chú trọng hơn đến quyền khiếu kiện của các bên có liên quan trong trường hợp không đồng ý với quyết định của cơ quan quản lí về cạnh tranh trong việc xem xét miễn trừ. Mặc dù LCT có qui định quyền khiếu nại của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế trong trường hợp đơn xin miễn trừ tập trung kinh tế không được chấp nhận. Nhưng các qui định này chỉ mang tính chất hành chính. Điều 38 của LCT có quy định về khiếu nại quyết định liên quan đến việc cho hưởng miễn trừ, như sau: “Doanh nghiệp không đồng ý với quyết định cho hưởng miễn trừ hoặc không cho hưởng miễn trừ, quyết định bãi bỏ quyết định cho hưởng miễn trừ có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.”

Cơ chế tố tụng hành chính chưa phải là giải pháp tối ưu cho doanh nghiệp trong việc thực hiện quyền khiếu nại của doanh nghiệp. Bởi vì về bản chất, việc miễn trừ đối với tập trung kinh tế có những khác biệt rất lớn với tố tụng hành chính về bản chất của sự việc và tính phức tạp của vấn đề. Do đó cần phải có những qui định thêm quyền của doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế trong việc khiếu nại và giải trình trước cơ quan quản lí cạnh tranh với một trình tự của pháp luật cạnh tranh mà không nên áp dụng thủ tục của pháp luật khiếu nại tố cáo.

Lê Văn Sua – Tòa án quân sự khu vực 1 – QK 9

7, Nguyễn Thị Thập, phường 6, TP. Mỹ Tho – Tiền Giang


([1]) http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2009/05/01/2795/ 

([2]) http://vietnamnet.vn/vn/cong-nghe-thong-tin-vien-thong/47796/se-pham-luat-neu-viettel-thau-tom-evn-telecom-.html

([3]) http://vietnamnet.vn/vn/cong-nghe-thong-tin-vien-thong/51627/-evn-telecom-ve-viettel-co-loi-cho-doanh-nghiep–khach-hang-.ht

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hoàn thiện các quy định của pháp luật về rút ngắn thời gian thử thách của án treo

15/02/2016

Luật Thi hành án hình sự được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII thông qua ngày 17/6/2010, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2011, là một bước tiến lớn trong công tác thi hành án hình sự nói chung và thi hành án treo nói riêng cũng như hướng dẫn rút ngắn thời gian thử thách của án treo. Qua gần năm năm thực hiện Luật Thi hành án hình sự và gần 4 năm thực hiện Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT/BCA-BQP-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 14/8/2012 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao về hướng dẫn rút ngắn thời gian thử thách của án treo (viết tắt là Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT) bước đầu đã phát huy được hiệu quả trong thực tiễn. Tuy nhiên, qua thực tiễn công tác kiểm sát việc rút ngắn thời gian thử thách của  án treo, chúng tôi nhận thấy Luật Thi hành án hình sự và Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT tuy có hướng dẫn nhưng vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc, bất cập cần phải hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả công tác này. Để thực hiện tốt công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật về rút ngắn thời gian thử thách của án treo. Nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân phù hợp với điều kiện của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Trong thời gian thử thách, Toà án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát và giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.

Khoản 2 Điều 60 Bộ luật Hình sự hiện hành quy định: Trong thời gian thử thách, Toà án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát và giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó. Do đó, trong phần quyết định của bản án đối với người được hưởng án treo là cán bộ, công nhân, viên chức. Tòa án phải quyết định giao bị án cho cơ quan, đơn vị, tổ chức nơi người đó làm việc, đối với các bị án khác thì Tòa án giao cho chính quyền địa phương nơi người bị kết án thường trú để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Tại khoản 5 Điều 60 BLHS quy định: Nếu người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách thì Toà án quyết định buộc họ phải chấp hành toàn bộ hình phạt của bản án treo và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 BLHS. Người được hưởng án treo phải chấp hành toàn bộ hình phạt của bản án treo mà không được trừ đi thời gian đã chấp hành thời gian thử thách, bởi lẽ, như đã phân tích ở trên, bản chất của việc chấp hành thời gian thử thách là chấp hành điều kiện của án treo chứ không phải là chấp hành hình phạt. Do vậy, khi cần tổng hợp hình phạt của bản án treo với các hình phạt khác thì chỉ cần tổng hợp hình phạt tù của bản án treo với các hình phạt khác theo quy định tại Điều 51 BLHS.

Tại Điều 64 BLHS quy định những trường hợp đương nhiên được xoá án tích, trong đó có trường hợp “người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XI và chương XXIV BLHS, nếu từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không phạm tội mới trong thời hạn sau đây: Một năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo…”. Cần chú ý là, việc xoá án tích với người được hưởng án treo chỉ đặt ra khi người đó đã chấp hành xong bản án treo. Việc chấp hành xong bản án treo không chỉ hiểu với nghĩa là họ đã chấp hành xong thời gian thử thách (mà không phạm tội mới) mà còn phải chấp hành xong các nội dung khác trong bản án treo như: Án phí, các hình phạt bổ sung (nếu có). Do vậy, không phải đương nhiên khi người được hưởng án treo chấp hành xong thời gian thử thách thì đương nhiên được xoá án tích mà Toà án vẫn phải xem xét việc họ đã chấp hành xong các nghĩa vụ khác trong bản án treo thì mới công nhận việc xoá án tích cho người bị kết án.

Thực tiễn trong lĩnh vực kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc rút ngắn thời gian thử thách của án treo vẫn còn bất cập. Ví dụ: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 63 ngày 01/11/2012 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh B tuyên phạt Nguyễn Ngọc H, 03 năm tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 05 năm. Giao bị cáo về Hạt kiểm lâm huyện Đ, (đứng chân tại thị trấn L) tỉnh B quản lý, giám sát, giáo dục. Ngày 06/12/2012, Tòa án nhân dân huyện Đ ra quyết định thi hành án và trong Quyết định thi hành án giao cho Hạt kiểm lâm huyện Đ, tỉnh B quản lý, giám sát, giáo dục. Sau khi có quyết định Hạt kiểm lâm huyện Đ đã phân công một Phó hạt trưởng trực tiếp giám sát, giáo dục bị án H và 3 tháng một lần bị án H đều có viết bản nhận xét và báo cáo cho Cơ quan thi hành án Công an cấp huyện. Ngày 12/08/2015, bị án H làm đơn gửi Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện, Tòa án nhân dân huyện, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, xem xét rút ngắn thời gian thử thách đối với bị án H. Ngày 14/08/2015, Hạt kiểm lâm huyện Đ có biên bản cuộc họp cơ quan có đầy đủ các thành phần trong cơ quan xác nhận trong thời gian làm việc bị án H có nhiều tiến bộ, chấp hành tốt nội quy, quy chế của cơ quan không vi phạm pháp luật và có công văn đề nghị cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện Đ xem xét đề nghị Tòa án rút ngắn thời gian thử thách đối với bị án H. Ngày 19/08/2015, cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện Đ có công văn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Đ xét rút ngắn thời thời gian thử thách đối với bị án H.

Theo quy định của Luật thi hành án hình sự và tại Điều 5 Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT, văn bản đề nghị xem xét việc rút ngắn thời gian thử thách và nhận xét của Ủy ban nhân dân thị trấn L về việc chấp hành nghĩa vụ của người được hưởng án treo đề nghị mức rút ngắn thời gian thử thách; nhưng không đề cập đến việc nhận xét của cơ quan trực tiếp quản lý bị án nơi người được hưởng án treo làm việc, học tập là trái với quy định tại Điều 60 của Bộ luật Hình sự quy định về việc giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc để giám sát, giáo dục. Do vậy, trong trường hợp này nếu Ủy ban nhân dân thị trấn L lập hồ sơ đề nghị Cơ quan Thi hành án hình sự Công an huyện Đ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách án treo của bị án H chỉ là trên giấy tờ, thực tế Ủy ban nhân dân thị trấn L không nắm bắt được quá trình phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện, chấp hành nội quy, quy chế của cơ quan cũng như việc lao động, học tập và sửa chữa lỗi lầm đối với bị án H. Nhưng nếu không có thủ tục này thì Tòa án nhân dân huyện Đ không thể mở phiên họp để xét rút ngắn thời gian thử thách cho bị án H, gây bất lợi cho bị án trong thời gian chấp hành hình phạt tù cho hưởng án treo đã có nhiều tiến bộ cũng như thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ của người được hưởng án treo và chấp hành đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy chế nơi làm việc, tích cực lao động, học tập và sữa chữa lỗi lầm để trở thành người công dân có ích cho xã hội. Trong trường hợp nêu trên thì bị án H hiện đang công tác tại Hạt kiểm lâm huyện Đ nên phải chịu sự phân công, quản lý, giám sát của Hạt trưởng Hạt kiểm lâm huyện Đ và Hạt kiểm lâm huyện Đ đóng trên địa bàn thị trấn L, huyện Đ; về mặt quản lý nhà nước thì Hạt kiểm lâm chịu sự quản lý trực tiếp của Ủy ban nhân dân huyện Đ, còn Công an thị trấn L chỉ có nhiệm vụ quản lý về việc khai báo tạm trú, tạm vắng và an ninh trật tự của Hạt kiểm lâm huyện Đ. Do vậy, trong trường hợp này theo quy định của Luật thi hành án hình sự và Thông tư liên tịch số 08/2012 hướng dẫn rút ngắn thời gian thử thách của án treo thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn L không có thẩm quyền để phân công Hạt trưởng hoặc Phó Hạt trưởng cũng như cán bộ Hạt kiểm lâm để giám sát, giáo dục bị án H, và cũng không thể phân công các tổ chức đoàn thể của Ủy ban nhân dân thị trấn L để giám sát, giáo dục bị án H; Công an thị trấn L cũng không thể nắm bắt được quá trình chấp hành nội quy, quy chế cũng như công tác chuyên môn, nghiệp vụ nơi công tác của bị án H. Do vậy, Công an thị trấn L không thể tham mưu để Ủy ban nhân dân thị trấn phối hợp với các ban ngành của Ủy ban nhân dân thị trấn L để họp nhận xét trong quá trình chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy chế cũng như trong việc lao động, học tập, sửa chữa lỗi lầm và hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn của bị án H. Mà chỉ có cơ quan Hạt kiểm Lâm huyện Đ mới là cơ quan quản lý, nhận xét, đánh giá về quá trình chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy chế cũng như trong việc lao động, học tập, sữa chữa lỗi lầm và hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn của bị án H.

Với các trường hợp là học sinh, sinh viên bị kết án phạt tù, nhưng được hưởng án treo đang học tập tại các trường học cũng chưa có quy định nào về việc giao họ cho nhà trường giám sát, giáo dục và nhận xét đối với các trường hợp này. Thực tế, có những học sinh, sinh viên học bán trú phải chịu sự quản lý, giám sát trực tiếp của nhà trường nếu trong quá trình học tập theo quy định của pháp luật họ làm đơn xin rút ngắn thời gian thử thách thì cơ quan nào là người nhận xét và đề nghị Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp quận, huyện nơi người đó học tập để đề nghị Tòa án xét rút ngắn thời gian thử thách đối với họ.

Từ những khó khăn vướng mắc nêu trên nhằm tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Khuyến khích người chấp hành án phạt tù cho hưởng án treo ăn năn, hối cải, tích cực học tập, lao động, cải tạo, bảo đảm sự tham gia của các cơ quan, tổ chức, cá nhân vào việc giáo dục cải tạo người chấp hành án phạt tù được hưởng án treo, chúng tôi thiết nghĩ cần phải sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành án hình sự và Thông tư liên tịch số 08/2012 cho phù hợp với Điều 60 của Bộ luật Hình sự quy định về án treo như sau:

Thứ nhất, Bổ sung vào khoản 1 Điều 61 Luật thi hành án hình sự:  Quyết định thi hành án phải ghi rõ họ tên người ra quyết định; bản án, quyết định được thi hành; tên cơ quan có nhiệm vụ thi hành; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người được hưởng án treo; mức hình phạt tù và thời gian thử thách của người được hưởng án treo; hình phạt bổ sung; Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo. Trong trường hợp người được hưởng án treo đang làm việc, học tập thì Tòa án phải giao bị án về cơ quan, tổ chức, trường học nơi người bị kết án làm việc, học tập để  giám sát, giáo dục.

Thứ hai, Sửa đổi khoản 1 Điều 5 Thông tư liên tịch số 08/2012 như sau: 1. Khi người được hưởng án treo có đủ điều kiện được hướng dẫn tại Điều 4 Thông tư này, Trưởng Công an cấp xã có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức cuộc họp để lập hồ sơ đối với người được hưởng án treo cư trú. Thủ trưởng cơ quan, tổ chức, Hiệu trưởng các trường học nơi người bị kết án được hưởng án treo làm việc, học tập phải phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức cuộc họp để lập hồ sơ và đề nghị cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người chấp hành án treo làm việc, học tập hoặc cư trú xem xét việc rút ngắn thời gian thử thách cho người được hưởng án treo; đơn vị Quân đội được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo tổ chức cuộc họp để lập hồ sơ và đề nghị cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu nơi người được hưởng án treo làm việc xem xét việc rút ngắn thời gian thử thách cho người được hưởng án treo.

Bổ sung vào khoản 2 Điều 5 Thông tư liên tịch số 08/2012 như sau:

…………….

Đối với người bị kết án được hưởng án treo là cán bộ, công nhân, viên chức hoặc học sinh, sinh viên thì phải có bản nhận xét trong việc chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước nơi cư trú đối với họ.

Với những khó khăn, vướng mắc nêu trên, chúng tôi mong nhận được ý kiến của bạn đọc để góp ý xây dựng hoàn thiện các quy định của pháp luật về thủ tục rút ngắn thời gian thử thách của án treo nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa./.

                                          Đoàn Thị Ngọc Hải

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

MỤC LỤC …………………………………………………………………………………………………..1

LỜI NÓI ĐẦU……………………………………………………………………………………………..2

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN-PHÁP LÝ VỀ THỤ LÝ ÁN HÀNH CHÍNH

  • Khái niêm, đặc điểm, vị trí và vai trò của thụ lý vụ án hành chính ………………..3
    • Khái niệm vụ án hành chính ………………………………………………………………. 3
    • Đặc điểm vụ án hành chính ……………………………………………………………….. 3
    • Vị trí, vai trò của thụ lý vụ án hành chính …………………………………………… 5
  • Quy định của pháp luật hiện hành về thụ lý vụ án hành chính …………………….. 6
    • Nhận, xem xét và yêu cầu sửa đổi đơn khởi kiện …………………………………….6
    • Trả lại đơn khởi kiện ……………………………………………………………………………6
    • Điều kiện thụ lý vụ án hành chính …………………………………………………………9
    • Thụ lý vụ án hành chính …………………………………………………………………….14
    • Phân công Thẩm phán giải quyết vụ án ………………………………………………..15
    • Thông báo về việc thụ lý vụ án ……………………………………………………………15
    • Quyền và nghĩa vụ của người được thông báo ………………………………………16

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THỤ LÝ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH

2.1 Thực trạng thụ lý vụ án hành chính ………………………………………………………….17

2.1.1 Tình hình thụ lý vụ án hành chính …………………………………………………………17

2.1.2 Nguyên nhân của hạn chế …………………………………………………………………….20

2.2 Một số giải pháp hoàn thiện công tác thụ lý vụ án hành chính ………………………23

KẾT LUẬN ……………………………………………………………………………………………….29

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………..30

 

 

 

 

 

 

 

 

LỜI NÓI ĐẦU

Ngay từ khi chính quyền dân chủ nhân dân được thành lập (2/9/1945) Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo nói chung và giải quyết các khiếu kiện hành chính nói riêng. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, mãi đến năm 1996, Tòa hành chính mới được thành lập. Việc ra đời của Tòa hành chính là đáp ứng yêu cầu đổi mới phương thức giải quyết khiếu kiện hành chính, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật từ phía cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan Nhà nước. Cùng với sự thành lập của Tòa hành chính thì Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được thông qua tạo điều kiện để cá nhân, cơ quan tổ chức thực hiện quyền của mình.  Nhận thấy vai trò cũng như trách nhiệm cao cả của mình, từ khi chính thức đi vào hoạt động đến nay, hoạt động tố tụng hành chính được thực hiện ngày càng  hiệu quả, đáp ứng mong mỏi của người dân. Đặc biệt là Luật tố tụng hành chính 2010 có hiệu lực đã giải quyết được nhiều hạn chế còn tồn tại của Pháp lệnh càng khiến hoạt động này phát triển theo hướng tích cực.

Tuy nhiên, hoạt động tố tụng hành chính vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc cần được tháo gỡ trong thời gian tới. Một trong những điểm hạn chế còn tồn tại là tình trạng án bị hủy, bị sửa còn nhiều. Vì vậy, trong thời gian tới, việc nghiên cứu sửa đổi pháp luật về tố tụng hành chính nhằm giúp hoạt động này tăng chất lượng cần được quan tâm đúng mức. Theo đó,  cần phải bắt đầu từ những giai đoạn đầu trong quá trình tố tụng mà giai đoạn thụ lý vụ án hành chính là giai đoạn quan trọng, có tác động đến toàn bộ quá trình tố tụng. Vì vậy, tìm hiểu quy định của pháp luật về thụ lý vụ án hành chính và thực trạng áp dụng pháp luật là vấn đề mang tính cấp thiết. Từ đó, đưa ra giải pháp khắc phục nhằm đưa hoạt động thụ lý vụ án hành chính nói riêng và hoạt động tố tụng hành chính nói chung đạt hiệu quả cao là yêu cầu đặt ra hiện nay.

 

 

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN-PHÁP LÝ CỦA THỤ LÝ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH.

1.1 Khái niệm, đặc điểm, vị trí và vai trò của thụ lý vụ án hành chính

1.1.1 Khái niệm vụ án hành chính

Để làm rõ khái niệm thế nào là thụ lý vụ án hành chính chúng ta cần làm rõ hai khái niệm đó là thế nào là thụ lý và thế nào là vụ án hành chính.

  • Theo từ điển Tiếng Việt của Trung tâm ngôn ngữ học- Viện ngôn ngữ học thì “thụ lý” là “việc tiếp nhận giải quyết vụ kiện”. Còn theo cách giải thích của cuốn Hán Việt từ điển thì “thụ lý” là “việc chấp nhận án kiện để phân xử”. Như vậy cả hai khái niệm trên đều chỉ ra rằng thụ lý là sự trả lời của cơ quan, người có thẩm quyền về việc chấp nhận giải quyết yêu cầu của người yêu cầu về một vụ việc cụ thể.
  • Vụ án hành chính là vụ án được phát sinh tại tòa án có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính, do cá nhân, cơ quan nhà nước hoặc tố chức khởi kiện yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (Theo Giáo trình Luật tố tụng hành chính – Đại học quốc gia Hà Nội).

Từ hai khái niệm trên, chúng ta có thể tựu chung lại: Thụ lý vụ án hành chính là hành vi tố tụng của Tòa án có thẩm quyền chấp nhận giải quyết khiếu kiện hành chính, được xác định bằng hành vi ghi vào sổ thụ lý vụ án và thông báo bằng văn bản cho đương sự biết Tòa án đã thụ lý vụ án sau khi xem xét điều kiện khởi kiện và điều kiện thụ lý vụ án. Như vậy việc thụ lý là quyền, nghĩa vụ của Tòa án. Sau khi có đơn khởi kiện được gửi tới thì Tòa án sẽ tiến hành xem xét đơn khởi kiện đó có đáp ứng đủ các điều kiện để thụ lý vụ án hay không để đưa ra quyết định. Các điều kiện đó bao gồm điều kiện khởi kiện (chủ thể khởi kiện, đối tượng khởi kiện, thời hiệu khởi kiện) và các điều kiện khác như hình thức, thủ tục nộp đơn, nhận đơn khởi kiện, tạm ứng án phí, thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Giữa khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính có mối quan hệ chặt chẽ với nhau bởi lẽ khởi kiện là cơ sở để Tòa án thụ lý vụ án, không có khởi kiện sẽ không có thụ lý. Vì vậy khởi kiện là sự kiện pháp lý làm phát sinh mối quan hệ giữa người khởi kiện và Tòa án, là giai đoạn đầu tiên bắt đầu cho quá trình tố tụng sau này. Và việc khởi kiện đó có được thụ lý hay không lại phụ thuộc vào hoạt động thụ lý của Tòa án. Tòa án chỉ thụ lý đơn khởi kiện khi đơn khởi kiện đó thỏa mãn các điều kiện luật định.

1.1.2 Đặc điểm thụ lý vụ án hành chính

Nếu như khởi kiện là quyền của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi thấy quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì thụ lý thể hiện là quyền và nghĩa vụ của Tòa án. Đây là hoạt động bắt buộc nhằm phát sinh quan hệ tố tụng giữa các bên chủ thể tham gia tố tụng. Hoạt động thụ lý vụ án hành chính có những đặc điểm  sau:

  • Nội dung cơ bản trong giai đoạn này là Tòa án xem xét chấp nhận hay không chấp nhận giải quyết vụ án hành chính. Sau khi xem xét đơn khởi kiện nếu thấy đủ căn cứ thụ lý thì Tòa án ra thông báo thụ lý đồng thời hướng dẫn người khởi kiện thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để giải quyết vụ án. Ngược lại trong trường hợp Tòa án từ chối thụ lý thì phải giải thích rõ cho người nộp đơn biết về lý do từ chối và hướng dẫn họ yêu cầu chủ thể có thẩm quyền khác để giải quyết.
  • Thụ lý vụ án hành chính là hành vi tố tụng do Tòa án có thẩm quyền thực hiện. Luật tố tụng hành chính 2010 quy định rõ thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố tụng hành chính bao gồm thẩm quyền theo loại khiếu kiện (còn gọi là thẩm quyền theo loại việc) và thẩm quyền theo cấp tòa án và theo lãnh thổ. Thẩm quyền theo loại khiếu kiện cho phép xác định những loại khiếu kiện nào và trong lĩnh vực hoạt động quản lý hành chính nào thì Tòa án nhân dân được quyền thụ lý để giải quyết theo thủ tục tố tụng hành chính. Theo khoản 1 Điều 28 Luật Tố tụng hành chính 2010 thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, trừ các quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức. Còn thẩm quyền theo cấp Tòa án và lãnh thổ xác định trong trường hợp nào thì Tòa án cấp nào có thẩm quyền giải quyết. Do Tòa án nước ta được tổ chức theo đơn vị hành chính – lãnh thổ nên việc phân định thẩm quyền giữa các cấp Tòa án được gọi chung là thẩm quyền theo cấp và thẩm quyền theo lãnh thổ vì hai thẩm quyền này gắn liền với nhau, ví dụ như nói đến thẩm quyền cấp huyện thì phải đồng thời chỉ rõ phạm vi lãnh thổ mà Tòa án này được thụ lý các khiếu kiện hành chính. Trong Luật Tố tụng hành chính 2010 thì thẩm quyền này được quy định tại các Điều 29, Điều 30.

Theo như việc quy định thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính theo cấp Tòa án như hiện nay thì ta có thể thấy Luật Tố tụng hành chính có sự mở rộng tối đa thẩm quyền cho Tòa án cấp huyện vì đa số các quyết định hành chính, hành vi hành chính tập trung từ cấp huyện trở xuống. Tòa án cấp tỉnh chủ yếu giải quyết theo thủ tục phúc thẩm còn Tòa án Tối cao đảm nhận giám đốc thẩm, công tác tổng kết xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật.

  • Việc tòa án thụ lý hay không thụ lý vụ án hành chính phải có đủ căn cứ pháp lý do pháp luật quy định. Căn cứ pháp lý để thụ lý vụ án hành chính là những cơ sở do pháp luật quy định mà dựa vào đó Tòa án xem xét có thụ lý hay không thụ lý vụ án hành chính. Căn cứ này có một số đặc điểm sau: Thứ nhất căn cứ này được quy định cụ thể trong pháp luật, nước ta là nhà nước pháp quyền Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Hệ thống các văn bản pháp luật là phương tiện để chuyển tải chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Do đó có thể khẳng định hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về tố tụng hành chính nói riêng là cơ sở pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ pháp luật. Các căn cứ thụ lý vụ án hành chính được Luật tố tụng hành chính quy định. Thứ hai, việc xem xét các căn cứ này trước khi tiến hành thụ lý là bắt buộc. Khi nhận được đơn khởi kiện, Tòa án buộc phải kiểm tra đơn khởi kiện đó có phù hợp với các căn cứ pháp lý hay không chứ không thể thụ lý trước sau đó mới kiểm tra lại. Điều này giúp việc thụ lý của Tòa án không tràn lan, chồng chéo nhau làm ảnh hưởng tới hoạt động bình thường của Tòa án. Thứ ba, những căn cứ này là cơ sở cho Tòa án thực hiện chức năng xét xử của mình. Nếu không có những quy định cụ thể này thì sẽ rất khó khăn cho Tòa án khi thụ lý vụ án và tiến hành các giai đoạn tiếp theo của quá trình tố tụng. Tòa án sẽ không thể biết trong trường hợp nào thụ lý hoặc trường hợp nào từ chối thụ lý vì vậy có thể dẫn đến đơn khởi kiện đủ điều kiện để thụ lý nhưng bị từ chối hoặc ngược lại là tình trạng thụ lý không đúng thẩm quyền, đơn khởi kiện sai hình thức, sai đối tượng khởi kiện nhưng vẫn được thụ lý làm ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động của Tòa án và các chủ thể khác.

Tóm lại, Toà án không thể tùy tiện muốn thụ lý hay không thụ lý cũng được mà phải dựa vào quy định của pháp luật. Nếu xem xét có đủ điều kiện để thụ lý thì Tòa án không được quyền từ chối và ngược lại Tòa án cũng không thụ lý vụ án hành chính khi việc khởi kiện là chưa thỏa mãn quy định của pháp luật.

1.1.3 Vị trí vai trò của thụ lý vụ án hành chính

Nếu như khởi kiện là điều kiện cần thì thụ lý là điều kiện đủ để phát sinh vụ án hành chính. Thụ lý vụ án hành chính là giai đoạn đầu đặt tiền đề cho các giai đoạn sau này, giai đoạn này đặc biệt có ý nghĩa trong quá trình tố tụng hành chính bởi các lí do:

Một là, trong giai đoạn thụ lý vụ án hành chính, Tòa án xem xét nội dung, thủ tuc vụ án để quyết định có đưa vụ án ra xét xử hay không. Vì vậy, việc xét xử vụ án có đúng pháp luật hay không phụ thuộc vào quá trình thụ lý vụ án. Nếu không thụ lý vụ án sẽ không có các quá trình tố tụng khác tiếp theo.

Hai là, thụ lý vụ án đặt trách nhiệm của Tòa án là phải giải quyết vụ án trong thời hạn pháp luật quy định kể từ ngày thụ lý vụ án. Theo Điều 112 Luật Tố tụng hành chính thì trong vòng 3 ngày làm việc, Chánh án phải phân công Thẩm phán giải quyết vụ án và trong vòng 5 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý Tòa án phải thực hiện việc thông báo bằng văn bản cho người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan biết (Điều 114 Luật Tố tụng hành chính). Như vậy từ ngày Tòa án thụ lý vụ án, Luật Tố tụng hành chính đã ràng buộc thời hạn và trách nhiệm của Tòa án, điều này giúp thời gian giải quyết vụ án nhanh chóng, tránh tình trạng vụ án đã được thụ lý tồn đọng do Tòa án không thực hiện nhiệm vụ của mình.

Ba là, việc chấp nhận đơn khởi kiện, vào sổ thụ lý còn giúp Tòa án có những nhận định ban đầu cần thiết về tình trạng tranh chấp hành chính, phương hướng giải quyết vụ việc và hạn chế tình trạng tranh chấp về thẩm quyền.

1.2 Quy định của pháp luật hiện hành về thụ lý vụ án hành chính.

1.2.1 Nhận, xem xét và yêu cầu sửa đổi đơn khởi kiện

Đơn khởi kiện đương sự có thể nộp trực tiếp tại Tòa án có thẩm quyền hoặc nộp qua đường bưu điện. Tòa án nhận đơn khởi kiện và phải ghi vào sổ nhận đơn, cấp giấy xác nhận đã nhận đơn cho đương sự. Trong thời hạn 5 ngày làm việc Chánh án phải phân công Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện. Thời hạn để Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện là 5 ngày làm việc, trong thời gian này, Thẩm phán thực hiện một trong các quyết định sau:

  • Tiến hành thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết.
  • Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án khác có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện biết việc chuyển đơn khởi kiện này nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án khác.
  • Trả lai đơn khởi kiện nếu rơi vào các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 109 Luật Tố tụng hành chính.

Ngoài ra, nếu đơn khởi kiện không đáp ứng các tiêu chí như ở khoản 1 Điều 105 Luật Tố tụng hành chính thì Thẩm phán phải thông báo để người khởi kiện sửa đổi, bổ sung trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày họ nhận được thông báo của Tòa án. Trong thời hạn trên nếu người khởi kiện thực hiện việc sửa đổi, bổ sung theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 105 Luật Tố tụng hành chính thì Tòa án tiếp tục việc thụ lý vụ án, còn nếu họ không sửa đổi, bổ sung theo đúng yêu cầu  thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện và tài liệu kèm theo cho người khởi kiện. Thời hạn để sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện này không tính vào thời hiệu khởi kiện, ngày khởi kiện vẫn được xác định là ngày gửi đơn khởi kiện (Theo Điều 13 NQ 02/2011/NQ-HĐTP).

1.2.2 Trả lại đơn khởi kiện

Với mục đích để tránh cho việc khởi kiện một cách tràn lan, lạm dụng quyền khởi kiện cũng như ra quyết định trả lại đơn kiện không có căn cứ, xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức nên tại khoản 1 Điều 109 Luật Tố tụng hành chính quy định Tòa án trả lại đơn khởi kiện trong những trường hợp sau:

  • Người khởi kiện không có quyền khởi kiện.

Đây là trường hợp người khởi kiện không là người chịu tác động trực tiếp của quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, việc lập danh sách cử tri. Theo quy định hiện nay thì quyền khởi kiện của chủ thể khởi kiện được bắt đầu từ khi họ cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm trực tiếp bởi các đối tượng khởi kiện, vì vậy nếu không phải là chủ thể bị tác động trực tiếp thì không có quyền khởi kiện vụ án hành chính và trong trường hợp này Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện từ chối thụ lý.

Ví dụ: Ông Nguyễn Văn A bị Uỷ ban nhân dân huyện X ra quyết định hành chính thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng 1 hecta đất nông nghiệp. Không đồng ý với quyết định trên, ông B là em ông A làm đơn khởi kiện lên Tòa án. Trong trường hợp này, Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện do người khởi kiện không có quyền khởi kiện.

  • Người khởi kiện không có đủ năng lực hành vi tố tụng hành chính.

Năng lực hành vi tố tụng hành chính là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng hành chính hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng hành chính. Theo tinh thần Điều 48 Luật Tố tụng hành chính thì người khởi kiện phải là công dân từ đủ 18 tuổi không mất năng lực hành vi dân sự hoặc trường hợp pháp luật quy định khác. Người mất năng lực hành vi dân sự được Bộ luật dân sự 2014 xác định là người bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình bị Tòa án ra quyết định tuyên bố mât năng lực hành vi dân sự trên cơ sở giám định. Đối với các trường hợp người khởi kiện là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự thì quyền và nghĩa vụ của họ trong tố tụng hành chính sẽ được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật. Đối với trường hợp cơ quan, tổ chức thì người đại diện theo pháp luật cũng thay mặt thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng.

Việc quy định về quyền khởi kiện cũng như năng lực hành vi tố tụng hành chính của người khởi kiện là một điều kiện để thụ lý vụ án hành chính là phù hợp. Nếu không có quy định trên việc khởi kiện và thụ lý cũng như quá trình giải quyết vụ án về sau sẽ rất rắc rối.

  • Thời hiệu khởi kiện đã hết mà không có lý do chính đáng

Thời hiệu khởi kiện được quy định tại khoản 2 Điều 104 Luật Tố tụng hành chính hiện nay là 1 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được  quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc; 30 ngày đối với quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; 5 ngày kể từ ngày nhận được thông báo kết quả khiếu nại của cơ quan danh sách cử tri hoặc kết thúc thời hạn giải quyết khiếu nại mà không nhận được kết quả giải quyết khiếu nại.

Nếu hết thời hiệu trên thì mặc dù đơn khởi kiện thỏa mãn các điều kiện khác thì Tòa án cùng trả lại đơn khởi kiện. Song, nếu người khởi kiện có lý do chính đáng như trong trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì thời gian đó không được tính vào thời hiệu.

So với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì việc quy định thời hiệu như hiện nay là phù hợp hơn bởi vì theo Điều 30 Pháp lệnh này thì thời hiệu chỉ là 30 ngày đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính và 10 ngày đối với quyết định kỷ luật buộc thôi việc. Rõ ràng thời hiệu này trong Pháp lệnh là qua ít để chủ thể bị tác động khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

  • Chưa có đủ điều kiện để khởi kiện vụ án hành chính

Để Tòa án thụ lý vụ án thì đơn khởi kiện phải đủ các điều kiện khởi kiện, các điêu kiện khởi kiện vụ án hành chính bao gồm điều kiện về người khởi kiện, điều kiện về đối tượng khởi kiện và người bị kiện, điều kiên về thủ tục tiền tố tụng, điều kiện về thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính, điều kiện thời hiệu khởi kiện và cuối cùng là điều kiện loại việc đưa ra khởi kiện phải là vụ việc chưa được giải quyết bằng quyết định hoặc bản án đã có hiệu lực của Tòa án. Theo đó, điều kiện khởi kiện vụ án hành chính được đề cập tới trong quy định này là thủ tục tiền tố tụng- thủ tục khiếu nại trước khi khởi kiện. Đối với khiếu kiện mà pháp luật tố tụng hành chính bắt buộc phải trải qua việc khiếu nại và có kết quả giải quyết khiếu nại rồi mới kiện lên Tòa án thì nếu chưa đáp ứng điều kiện này Tòa án sẽ trả đơn khởi kiện. Hiện nay, Luật Tố tụng hành chính chỉ quy định khiếu nại trước khi khởi kiện đối với việc khởi kiện vụ án hành chính về danh sách cử tri bầu cử Đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử Hội đồng nhân dân còn các loại khiếu kiện khác có thể kiện thẳng ra tòa. Đây là sự tiến bộ trong lịch sử lập pháp Việt Nam, cụ thể hóa Điều 7 “quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện”.

  • Sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định của Tòa án và đã có hiệu lực pháp luật.

Ví dụ: Ông B nhận được quyết định kỷ luật buộc thôi việc ngày 1/1/2013, ông đã gửi đơn khởi kiện lên Tòa án huyện X để yêu cầu bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án huyện X sau khi thụ lý đơn yêu cầu đã mở phiên tòa xét xử tuyên bác yêu cầu của ông B. Tháng 10/2013 ông B lại tiếp tục gửi đơn khởi kiện lên Tòa án tiếp tục yêu cầu Tòa xem xét quyết định kỷ luật buộc thôi việc của ông. Trong trường hợp này, Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện cho ông B vì vụ việc ông khởi kiện đã được giải quyết bằng bản án có hiệu lực pháp luật.

  • Sự việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Tòa án chỉ thụ lý đơn khởi kiện nếu xét thấy vụ việc là thuộc thẩm quyền của Tòa án. Trong trường hợp xác định vụ việc không thuộc thẩm quyền của Tòa án thì Tòa án tiến hành trả lại đơn khởi kiện. Thẩm quyền mà điều luật này đề cập tới là thẩm quyền theo loại việc. Những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại Điều 28 Luật Tố tụng hành chính. Vì vậy nếu vụ việc không rơi vào trường hợp thuộc thẩm quyền của Tòa án thì đương nhiên Tòa án không có thẩm quyền giải quyết.

  • Người khởi kiện lựa chọn giải quyết vụ việc theo thủ tục giải quyết khiếu nại trong trường hợp vừa có đơn khiếu nại vừa có đơn khởi kiện.

Trường hợp cùng một vụ việc mà vừa có đơn khởi kiện gửi đến Tòa án vừa có đơn khiếu nại gửi đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì Tòa án phải yêu cầu người khởi kiện làm văn bản lựa chọn cơ quan giải quyết. Nếu người khởi kiện lựa chọn người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì Tòa án căn cứ vào điểm g khoản 1 Điều 109 Luật Tố tụng hành chính trả lại đơn khởi kiện.

  • Đơn khởi kiện không có đủ nội dung quy định tại Điều 105 Luật Tố tụng hành chính mà không được người khởi kiện sửa đổi, bổ sung trong thời hạn cho phép.

Để đơn khởi kiện được thụ lý thì đơn đó phải có đủ các nội dung theo quy định tại khoản 1 Điều 105 Luật Tố tụng hành chính. Nếu xét thấy chưa đủ nội dung thì Tòa án thông báo để người khởi kiện sửa đổi, bổ sung trong vòng 10 ngày. Nếu quá thời hạn trên mà người khởi kiện vẫn chưa sửa đổi cho phù hợp thì Tòa án căn cứ vào khoản 2 Điều 108 Luật Tố tụng hành chính và điểm h khoản 1 Điều 109 Luật Tố tụng hành chính trả đơn khởi kiện.

  • Hết thời hạn được thông báo quy định tại khoản 1 Điều 111 Luật Tố tụng hành chính mà người khởi kiện không xuất trình biên lai nộp tạm ứng án phí cho Tòa án, trừ trường hợp pháp luật quy định khác.

Trừ trường hợp được miễn tạm ứng án phí, nếu trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo nộp tạm ứng án phí thì người khởi kiện phải nộp tạm ứng án phí. Quá thời hạn trên, Tòa án nơi nhận đơn kiện sẽ trả lại đơn khởi kiện.

Khi trả đơn khởi kiện Tòa án cũng đồng thời trả lại các tài liệu kèm theo cùng với lí do trả lại đơn kiện. Đồng thời, Tòa án phải gửi văn bản trả lại đơn khởi kiện cho Viện Kiểm sát cùng cấp.

1.2.3 Điều kiện thụ lý vụ án hành chính    

Pháp luật tố tụng hành chính ở nước ta hiện nay không quy định điều kiện thụ lý vụ án hành chính thành một điều khoản riêng biệt. Xét tổng thể các quy định về điều kiện thụ lý vụ án hành chính thì Tòa án sẽ tiến hành thụ lý vụ án hành chính khi có đủ các điều kiện sau:

2.3.1 Việc khởi kiện đáp ứng đầy đủ các điều kiện khởi kiện theo quy định của Luật Tố tụng hành chính

Điều kiện khởi kiện là một yêu cầu cần thiết nhất để Tòa án ra quyết định thụ lý vụ án hay không. Điều này cũng thể hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa việc khởi kiện và thụ lý vụ án. Điều kiện khởi kiện cũng không được quy định tại một điều luật cụ thể nhưng chúng ta có thể tóm lại thành 6 điều kiện:

  • Chủ thể khởi kiện

Khoản 3 Điều 6 Luật Tố tụng hành chính quy định “người khởi kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, việc lập danh sách cử tri”. Như vậy, quyền khởi kiện được Nhà nước quy định cho cá nhân và cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, không phải mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức đều có quyền trực tiếp khởi kiện mà pháp luật tố tụng quy định người khởi kiện phải có năng lực pháp luật tố tụng hành chính và năng lực hành vi tố tụng hành chính (Điều 48 Luật Tố tụng hành chính). Theo đó, người khởi kiện nếu là cá nhân thì phải  từ đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, còn trong trường hợp  người khởi kiện chưa thành niên hoặc người mất năng lực hành vi dân sự  thì việc khởi kiện được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật. Còn trong trường hợp người khởi kiện là cơ quan, tổ chức kinh tế thì việc khởi kiện này phải thông qua người đại diện hoặc người được ủy quyền. Người đại diện theo pháp luật này có thể là người đứng đầu, người lãnh đạo của cơ quan, tổ chức đó.

Ngoài ra, người khởi kiện trong vụ án hành chính phải là người bị tác động trực tiếp bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc. Điều này có nghĩa là đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức chỉ bị ảnh hưởng bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc nhưng không chịu tác động trực tiếp thì không có quyền nộp đơn khởi kiện.

  • Đối tượng khởi kiện và người bị kiện
  • Đối tượng khởi kiện

Hiện nay Luật Tố tụng hành chính hiện hành chưa có điều luật cụ thể nào quy định đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính tuy nhiên căn cứ vào Điều 28 và Điều 103 của Luật này ta có thể chia đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính thành 4 nhóm sau:

  • Quyết định hành chính, hành vi hành chính: Đây là nhóm đối tượng chủ yếu trong vụ án hành chính. Đa phần các tranh chấp hành chính hiện nay nằm ở đối tượng này do số lượng quyết định, hành vi hành chính rất nhiều và liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức chịu tác động của nó.
  • Quyết định hành chính: Theo cách giải thích tại Điều 3 Luật Tố tụng hành chính thì  “quyết định hành chính là văn bản do cơ quan Nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành, quyết định một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể”. Như vậy, không phải mọi quyết định hành chính đều có thể bị khởi kiện trong vụ án hành chính mà chí có những quyết định thỏa mãn các điều kiện về chủ thể ban hành là cơ quan Nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan Nhà nước; về nội dung là văn bản đó phải điều chỉnh vấn đề trong hoạt động quản lý Nhà nước và phương thức áp dụng là được áp dụng một lần đối với đối tượng cụ thể. Bên cạnh quy định tại Luật Tố tụng hành chính thì quyết định hành chính là đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính còn được hướng dẫn tại Điều 1 NQ 02/2011/NQ-HĐTP và Điều 1 NQ 01/2015/NQ-HĐTP.

Ngoài ra quyết định hành chính là đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính phải là quyết định hành chính lần đầu. Có nghĩa là quyết định đó phải là quyết định do cơ quan, người có thẩm quyền ban hành lần đầu trong khi giải quyết, thụ lý những vụ việc cụ thể thuộc thẩm quyền của mình. Ngoài ra, các quyết định tại Mục 2 Nghị quyết 04/2006/NQ- Hội đồng Thẩm phán cũng được cho là quyết định lần đầu. Bao gồm: Quyết định hành chính được ban hành thay thế quyết định hành chính đã ban hành trước đó nhưng chưa có khiếu nại; Quyết định hành chính được ban hành nhằm sửa đổi, bổ sung quyết định hành chính trước chưa có khiếu nại; Quyết định hành chính mới được ban hành sau khi quyết định hành chính trước đó bị Tòa án hủy và giao giải quyết lại; Quyết định sửa đổi một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính sau khi có kết quả giải quyết khiếu nại lần hai.

  • Hành vi hành chính: Khoản 2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính nêu rõ “hành vi hành chính là hành vi do cơ quan nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật”. Như vậy tương tự như quyết định hành chính không phải mọi hành vi hành chính đều là đối tượng khởi kiện mà hành vi đó cũng phải là hành vi do cơ quan Nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan Nhà nước. Tuy nhiên hành vi đó có thể được thể hiện dưới hình thức hành động hoặc không hành động. Việc xác định hành vi nào là hành vi do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước thực hiện cũng như thế nào là không thực hiện nhiệm vụ, công vụ sẽ được căn cứ vào thẩm quyền, thời hạn thực hiên nhiệm vụ, công vụ đó và được quy định tại khoản 2 Điều 1 Nghị quyết 02/2011.

Ngoài ra đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức thì không được quyền khởi kiện. Quy định này là hợp lý vì thông tin bí mật Nhà nước là những thông tin quan trọng không được công bố hoặc chưa công bố và những thông tin này nếu bị tiết lộ thì nguy hại cho Nhà nước. Theo Pháp luật Bảo vệ bí mật Nhà nước 2000 thì căn cứ vào tính chất quan trọng của thông tin, mức độ nguy hại nếu bị tiết lộ mà các tin thuộc phạm vi bí mật nhà nước được chia làm 3 mức độ: Tuyệt mật, Tối mật và Mật. Còn quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức như quyết định khen thưởng, kỷ luật, quyết định điều động, thuyên chuyển công tác…được cho là không tác động, ảnh hưởng lớn đến hoạt động chung của hệ thống hành chính nhà nước và nếu không đồng ý thì có thể khiếu nại hành chính.

  • Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.

  • Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức. Đây là văn bản được thể hiện dưới hình thức quyết định của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng đối với công chức giữ chức vụ từ Tổng cục trưởng và tương đương trở xuống.

  • Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh. Theo giải thích tại khoản 3 Điều 1 Nghị quyết 02/2011 thì  quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh là đối tượng khởi kiện khi quyết định đó là quyết định của Hội đồng cạnh tranh, Bộ trưởng bộ công thương khi giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Luật cạnh tranh bao gồm quyết định giải quyết khiếu nại của Hội đồng cạnh tranh đối với quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh và quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng Bộ công thương đối với quyết định của thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh khi xử lý vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

  • Người bị kiện

Để Tòa án thụ lý vụ kiện thì việc khởi kiện phải đúng người. Theo quy định khoản 7 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính thì “người bị kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, lập danh sách cử tri bị khởi kiện”. Tuy nhiên, việc xác định ai là người có thẩm quyền rất dễ nhầm lẫn vì vậy trong Nghị quyết 02/2011 đã có hướng dẫn chi tiết việc xác định này. Theo đó đối với trường hợp nhiều luật quy định thẩm quyền ra quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính về một lĩnh vực quản lý thì việc xác định sẽ dựa vào Luật chuyên ngành. Còn trường hợp người việc ký, thực hiện ký hoặc thực hiện với danh nghĩa một chức vụ, chức danh có thẩm quyền thì quyết định, hành vi hành chính đó là của người đảm nhiệm chức vụ, chức danh đó ( quyết định hành chính do ông A ký dưới chức danh là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã thì gọi là quyết định hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã chứ không phải quyết định hành chính của ông A).

  • Thủ tục khiếu nại trước khi khởi kiện

Căn cứ vào khoản 3 Điều 103 Luật Tố tụng hành chính hiện nay thì chỉ có việc khởi kiện vụ án hành chính về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử Hội đồng nhân dân thì mới quy định khiếu nại trước còn các khiếu kiện khác có thể bỏ qua thủ tục khiếu nại để kiện thẳng ra tòa. Sở dĩ có quy định này vì nhà nước muốn tạo cơ hội để cơ quan hành chính nhà nước giải thích các căn cứ pháp lý cần thiết cũng như sữa chữa sai sót của mình trước khi đến với thủ tục tố tụng tại Tòa án. Việc rút bớt thủ tục khiếu nại ở nhiều loại khiếu kiện là điểm tiến bộ  của Luật Tố tụng hành chính so với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính trước đây. Theo điều 30 Pháp lệnh này thì người khởi kiện phải làm đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản trả lời của người hoặc cơ quan nhà nước đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính về việc giải quyết khiếu nại. Như vậy, quyền khởi kiện chỉ phát sinh khi có thủ tục khiếu nại và quyết định giải quyết khiếu nại, điều này làm kéo dài thời gian cho một vụ án hành chính cũng như dẫn tới tình trạng khiếu nại nhiều hơn khởi kiện.

  • Thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính

Việc khởi kiện phải tuân thủ theo quy định về thẩm quyền của Tòa án. Thẩm quyền theo Luật Tố tụng hành chính hiện nay gồm có thẩm quyền theo loại việc (Điều 28 Luật Tố tụng hành chính) và thẩm quyền theo cấp tòa án và theo lãnh thổ (Điều 29, 30, 31, 32, 33 Luật Tố tụng hành chính). Đơn khởi kiện phải được gửi đến Tòa án có thẩm quyền giải quyết thì mới được thụ lý, nếu khởi kiện không đúng Tòa án thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại khoản 6 Điều 109 Luật Tố tụng hành chính.

  • Thẩm quyền theo loại khiếu kiện: Được quy định tại Điều 28 Luật Tố tụng hành chính, các loại khiếu kiện này cũng chính là đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính. Tòa án không có thẩm quyền thụ lý giải quyết các vụ việc không thuộc thẩm quyền của mình. Trong trường hợp vụ việc không nằm trong các loại khiếu kiện này thì Tòa án sẽ căn cứ vào điểm e khoản 1 Điều 109 Luật Tố tụng hành chính để trả lại đơn khởi kiện.

  • Thẩm quyền theo cấp Tòa án và theo lãnh thổ: Thẩm quyền của các cấp Tòa án được quy định tại Điều 29 và Điều 30 Luật Tố tụng hành chính. Theo đó Tòa án cấp huyện có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm những khiếu kiện sau: Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Toà án hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước đó; Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Toà án đối với công chức thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức đó; Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân của cơ quan lập danh sách cử tri trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Toà án. Nhìn vào quy định này ta thấy rằng thẩm quyền của Tòa án cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính rất rộng. Việc quy định này giúp giảm tải áp lực cho Tòa án cấp tỉnh đồng thời tạo điều kiện thuận lợi hơn để cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện việc khởi kiện của mình.

Điều 30 Luật Tố tụng hành chính quy định Tòa án nhân  dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có thẩm quyền giải quyết những khiếu kiện sau:

Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Kiểm toán nhà nước, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quyết định hành chính, hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Toà án; trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Toà án nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, có hành vi hành chính;

….

Trong trường hợp cần thiết, Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết khiếu kiện thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện”.

Tuy Luật Tố tụng hành chính cũng quy định thẩm quyền giải quyết sơ thẩm vụ án hành chính cho Tòa án cấp tỉnh nhưng thẩm quyền này bị giới hạn chủ thể ban hành quyết định hành chính, hành vi hành chính đó chỉ là bộ, cơ quan thuộc chính phủ, Văn phòng chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Kiểm toán nhà nước, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Hơn nữa người khởi kiện phải có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án cấp tỉnh, nếu không thì thẩm quyền thuộc về Toà án nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, hành vi hành chính.

  • Thời hiệu khởi kiện

Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà cá nhân, cơ quan, tổ chức được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, nếu hết thời hạn đó thì quyền khởi kiện cũng không còn. Thời hiệu được quy định tại khoản 2 Điều 104 đối với từng trường hợp là 01 năm, kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc; 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; Từ ngày nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri hoặc kết thúc thời hạn giải quyết khiếu nại mà không nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri đến trước ngày bầu cử 05 ngày. Ngoài ra trong trường hợp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà người khởi kiện không thực hiện được quyền khởi kiện của mình thì thời gian này không tính vào thời hiệu khởi kiện. Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan không tính vào thời hiệu khởi kiện theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 12 Nghị quyết 02/2011 bao gồm các sự kiện như thiên tai, địch họa, nhu cầu chiến đấu, chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền  khởi kiện chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế hành vi dân sự…

  • Vụ việc khởi kiện chưa được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

Nếu vụ việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực của Tòa án thì việc khởi kiện bị xem là không đủ điều kiện và Tòa án sẽ căn cứ vào Điều 109 trả lại đơn khởi kiện.

2.3.2 Việc khởi kiện đáp ứng các điều kiện khác về nộp tiền tạm ứng án phí.

Theo quy định tại Điều 111 Luật Tố tụng hành chính thì sau khi nhận và xem xét đơn khởi kiện nếu Thẩm phán xét thấy đơn khởi kiện đủ điều kiện và thuộc  thẩm quyền giải quyết thì thông báo cho người khởi kiện biết để họ thực hiện việc nộp tạm ứng án phí. Việc nộp tạm ứng án phí này được thực hiện trong 10 ngày kể từ ngày người khởi kiện nhận được thông báo. Việc nộp tạm ứng án phí này được thực hiện theo Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án số 10/2009/PL-UBTVQH. Theo đó án phí hành chính bao gồm 3 loại là: án phí hành chính sơ thẩm, án phí hành chính phúc thẩm và án phí dân sự sơ thẩm đối với trường hợp có giải quyết về bồi thường thiệt hại. Nếu hết thời hạn nộp tạm ứng án phí mà người khởi kiện không xuất trình biên lai tạm ứng án phí và không có lý do chính đáng cho việc không xuất trình này thì Tòa án căn cứ vào điểm h khoản 1 Điều 109 trả lại đơn khởi kiện.

Cần lưu ý là trong trường hợp pháp luật miễn nộp tạm ứng án phí thì người khởi kiện không phải nộp và điều kiện về án phí cũng không bắt buộc để Tòa án thụ lý vụ án hành chính. Theo quy định tại Điều 10 Pháp lệnh 10 thì những trường hợp được miễn nộp tạm ứng án phí bao gồm: người khởi kiện là thương binh, bố mẹ liệt sĩ, người có công với cách mạng, người khiếu kiện quyết định hành chính trong việc áp dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính khác như giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh; cá nhân, hộ gia đình thuộc dạng nghèo theo quy định của Chính phủ.

1.2.4 Thụ lý vụ án hành chính.

Thụ lý vụ án hành chính được Luật Tố tụng hành chính quy định tại Điều 111 theo đó sau khi nhận đơn khởi kiện, trong vòng 5 ngày làm việc Chánh án phải phân công thẩm phán xem xét đơn kiện, thời gian để Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện là 5 ngày làm việc Tòa án sẽ tiến hành thụ lý vụ án hành chính nếu Thẩm phán xem xét đơn kiện xét thấy vụ việc khiếu kiện là đủ điều kiện để thụ lý và thuộc thẩm quyền giải quyết của mình.  Hình thức thụ lý vụ án hành chính thể hiện bằng hình thức ghi vào sổ thụ lý và thông báo bằng văn bản cho đương sự. Thời điểm thụ lý vụ án được xác định là ngày người khởi kiện xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí hoặc ngày Thẩm phán thông báo cho người khởi kiện biết về việc thụ lý trong trường hợp được miễn tạm ứng án phí. Thụ lý vụ án là điều kiện bắt buộc để phát sinh vụ án hành chính, kể từ thời điểm thụ lý vụ án hành chính thì mối quan hệ giữa Tòa án và các bên đương sự trong vụ án cũng chính thức được xác lập.

  • Hậu quả của việc thụ lý sai thẩm quyền: Trong trường hợp Tòa án thụ lý sai thẩm quyền thì căn cứ vào giai đoạn tố tụng giải quyết như sau:
  • Nếu phát hiện vụ việc đã thụ lý không phải là vụ án hành chính nhưng việc giải quyết này vẫn thuộc thẩm quyền của mình thì Tòa án giải quyết theo thủ tục chung đồng thời thông báo việc giải quyết này cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp biết.

  • Nếu phát hiện việc thụ lý là sai thẩm quyền trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì căn cứ vào khoản 1 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính Tòa án ra quyết định chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền và xóa sổ thụ lý. Đồng thời gửi quyết định này đến Viện kiểm sát cùng cấp.

  • Nếu phát hiện thụ lý sai thẩm quyền sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì căn cứ vào quy định tại khoản 3 Điều 139 Luật Tố tụng hành chính “. Trường hợp đương sự xuất trình quyết định hành chính mới mà quyết định hành chính đó liên quan đến quyết định bị khởi kiện và không thuộc thẩm quyền của Toà án đang xét xử sơ thẩm vụ án thì Hội đồng xét xử đình chỉ việc xét xử và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền”.

1.2.5 Phân công Thẩm phán giải quyết vụ án.

Trong thời hạn là 3 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án Chánh án phân công Thẩm phán đã xem xét đơn khởi kiện và thụ lý vụ án giải quyết vụ án; trường hợp Thẩm phán đã xem xét và thụ lý đơn khởi kiện không thể tiếp tục giải quyết vụ án hoặc thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi thì Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán khác giải quyết vụ án. Đối với vụ án phức tạp, việc giải quyết có thể phải kéo dài thì Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán dự khuyết để bảo đảm việc xét xử là liên tục. Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu Thẩm phán được phân công không thể tiếp tục tiến hành nhiệm vụ thì Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán khác tiếp tục nhiệm vụ. Đối với những vụ án phức tạp, việc giải quyết có thể kéo dài thì Chánh án phải phân công thẩm phán dự khuyết để đảm bảo vụ án được xét xử liên tục, nếu đang xét xử mà không có Thẩm phán dự khuyết thì vụ án phải được xét xử lại từ đầu (Theo Điều 112 Luật Tố tụng hành chính).

Việc phân công Thẩm phán như trên nhằm giúp quá trình tố tụng diễn ra thông suốt, liên tục đúng thời hạn, tránh tình trạng kéo dài thời gian dẫn đến quá hạn giải quyết vụ án. Thẩm phán đã xem xét đơn khởi kiện tiếp tục giải quyết vụ án giúp quá trình giải quyết nhanh hơn do Thẩm phán đã nắm được nội dung cơ bản vụ khởi kiện và đã có những định hướng ban đầu cho việc xét xử.

Khi lập hồ sơ vụ án, Thẩm phán có nhiệm vụ và quyền hạn sau: Thông báo về việc thụ lý vụ án; Yêu cầu đương sự nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án; Xác minh, thu thập chứng cứ theo luật định.

1.2.6 Thông báo về việc thụ lý vụ án

Thông báo về việc thụ lý vụ án là hoạt động bắt buộc trong quá trình tố tụng hành chính và được quy định cụ thể tại Điều 114 Luật Tố tụng hành chính như sau:

“1. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Toà án phải thông báo bằng văn bản cho người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án và Viện kiểm sát cùng cấp về việc Toà án đã thụ lý vụ án.

  1. Văn bản thông báo phải có các nội dung chính sau đây:
  2. a) Ngày, tháng, năm làm văn bản thông báo;
  3. b) Tên, địa chỉ Toà án đã thụ lý vụ án;
  4. c) Tên, địa chỉ của người khởi kiện, người bị kiện;
  5. d) Những vấn đề cụ thể người khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết;

đ) Danh sách tài liệu người khởi kiện nộp kèm theo đơn khởi kiện;

  1. e) Thời hạn người được thông báo phải nộp ý kiến bằng văn bản về yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu có) cho Toà án;
  2. g) Hậu quả pháp lý của việc người được thông báo không nộp cho Toà án văn bản ghi ý kiến của mình về yêu cầu của người khởi kiện”.

Vì thông báo việc thụ lý vụ án là một thủ tục bắt buộc nên nếu không thông báo cho người bị kiện, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thì bị xem là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Việc thông báo này nhằm công khai, minh bạch việc giải quyết vụ án hành chính, tạo điều kiện cho các bên chuẩn bị trước khi tham gia tố tụng, sự chuẩn bị này là chuẩn bị tài liệu, chứng cứ, hướng tranh cãi cần thiết.

1.2.7 Quyền và nghĩa vụ của người được thông báo

Bên cạnh quy định việc thông báo của Tòa án về việc thụ lý vụ án cho người bị kiện, người có quyền và nghĩa vụ liên quan thì Luật Tố tụng hành chính cũng quy định và nghĩa vụ của người được thông báo thụ lý vụ án nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án đúng thời hạn luật định. Điều 115 Luật Tố tụng hành chính quy định trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp cho Toà án văn bản ghi ý kiến của mình về yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu có). Trường hợp cần gia hạn thì người được thông báo phải có đơn xin gia hạn gửi cho Toà án nêu rõ lý do; nếu việc xin gia hạn là có căn cứ thì Toà án gia hạn một lần, nhưng không quá 10 ngày.

Như vậy người bị kiện, người có quyền và nghĩa vụ liên quan đã nhận được thông báo thụ lý vụ án nhưng không nộp ý kiến bằng văn bản trong thời hạn luật định thì xem như họ đã từ bỏ quyền chứng minh của mình và Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định. Để tạo điều kiện cho người bị kiện, người có quyền nghĩa vụ liên quan thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình thì Luật Tố tụng hành chính cũng quy định quyền yêu cầu Tòa án cho biết, đọc, xem, ghi chép, sao chụp đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện nếu có.

Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, Viện kiểm sát cử Kiểm sát viên, Kiểm sát viên dự khuyết (nếu có) tham gia việc giải quyết vụ án và thông báo cho Toà án.

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỤ LÝ ÁN HÀNH CHÍNH.

2.1 Thực trạng thụ lý vụ án hành chính

2.1.1 Tình hình thụ lý vụ án hành chính

Qua hơn 15 năm hoạt động, hoạt động xét xử hành chính đã bước đầu phát huy tác dụng trong việc giải quyết các khiếu kiện của công dân và góp phần vào việc kiểm tra tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được việc thụ lý vụ án hành chính vẫn còn nhiều bất cập cần được khắc phục trong thời gian tới để đáp ứng nguyện vọng mong mỏi của nhân dân cũng như khẳng định vị trí của hoạt động xét xử hành chính trong xã hội.

Theo số liệu thống kê cho thấy từ khi đi vào hoạt động ngày 1/7/1996 đến cuối năm 1998, Tòa án nhân dân các cấp trên cả nước nhận được hơn 2000 đơn khởi kiện nhưng hầu hết là không đủ điều kiện để thụ lý. Cụ thể tính đến cuối năm 1997 nghĩa là khoảng một năm rưỡi đi vào hoạt động nhưng trên cả nước chỉ mới thụ lý 150 vụ án hành chính. Trong đó có nhiều địa phương chưa thụ lý và giải quyết được vụ nào. Điều này cho thấy pháp luật về tố tụng hành chính chưa phát huy được nhiều vai trò của mình trong xã hội. Từ năm 1997 đến năm 1999, tình hình thụ lý vụ án hành chính có khả quan hơn, bằng chứng là thống kê cho thấy năm 1999 số lượng án được thụ lý là 408 vụ; các Tòa án có số lượng án trên 10 vụ/năm là 6/61 tòa. Tuy nhiên, con số này vẫn còn rất khiêm tốn so với thực tiễn. Trong số 55 tòa án còn lại trên cả nước, số tòa không có vụ án nào là 18 tòa, chiếm tỷ lệ 29,5%; số tòa có dưới 5 vụ án là 37 tòa, chiếm 60,6%.

Trong năm 2000, tình hình thụ lý vụ án hành chính nhìn chung không có bước phát triển lớn. Số vụ án được thụ lý trên cả nước là 503 vụ, giải quyết được 419 vụ. Ở năm 2001, Tòa án cả nước đã thụ lý 688 vụ án, trong đó giải quyết được 531 vụ. Mặc dù so với năm 2000, số vụ án được thụ lý không tăng lên đáng kể nhưng so với những năm đầu Tòa hành chính đi vào hoạt động thì đây đã là bước phát triển dài đáng khích lệ.

Năm 2002 đánh dấu bước phát triển nhảy vọt trong hoạt động thụ lý vụ án hành chính nói riêng và hoạt động tố tụng hành chính nói chung. Trong năm này, số vụ án hành chính được thụ lý trên cả nước là 1064 vụ, tăng 376 vụ so với năm trước. Điều này chứng tỏ niềm tin của người dân vào việc xét xử của Tòa án ngày càng tăng và vai trò của án hành chính trong hoạt động xét xử được khẳng định. Trong năm này có một vụ kiện nổi bật của Bà Nguyễn Thị Mới ở Bà Rịa- Vũng Tàu, ở vụ kiện này Tòa hành chính Tòa án nhân dân tỉnh đã xét xử cho bà Mới thắng kiện trong vụ kiện với Tòa án nhân dân tỉnh về việc Ủy ban nhân dân đã bác đơn của  bà yêu cầu Công ty Xuất nhập khẩu dịch vụ dầu khí trả lại khu đất đã chiếm dụng. Từ vụ kiện này, cho thấy không phải chuyện dân kiện quan là chuyện không thể xảy ra, điều này giúp người dân tin tưởng về một cơ chế xét xử công bằng của Tòa án từ đó tạo cho hoạt động của Tòa hành chính ngày càng đi theo hướng tích cực.

Từ năm 2003, số lượng vụ án được thụ lý tiếp tục tăng mạnh. Năm 2003, tổng số án mà cả nước thụ lý là 1458 vụ án hành chính, tăng hơn rất nhiều so với năm 2002. Trong năm này Luật đất đai 2003 có hiệu lực, đây là một căn cứ pháp lý để người dân hiểu hơn về quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong lĩnh vực đất đai. Chính vì thế, trong năm 2003 số lượng đơn khởi kiện và số lượng vụ án được Tòa hành chính thụ lý trong lĩnh vực quản lý đất đai tăng lên đáng kể. Chỉ riêng Thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2003 đã thụ lý 105 vụ. Nhưng trong 105 vụ thụ lý đó thì chỉ giải quyết được 76 vụ.

Năm 2004 trên toàn quốc thụ lý được 1746 vụ án hành chính. Từ con số trên cho thấy việc dân kiện quan không còn là vấn đề hy hữu nữa. Điều này chứng tỏ rằng cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính theo trật tự Tòa án đã bắt đầu nhận được sự đồng tình, ủng hộ của người dân. Năm 2004 cũng là năm Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đạt kỷ lục về xét xử vụ án hành chính, cứ 2 ngày xét xử 1 vụ. Theo đó, tất cả Tòa án trên Thành phố Hồ Chí Minh đã thụ lý 353 vụ , giải quyết 260 vụ. Riêng Tòa án nhân dân Thành phố thụ lý 110 vụ, giải quyết 99 vụ. Tại 24 Tòa án nhân dân Quận, huyện thụ lý 243 vụ, giải quyết 161 vụ.

Năm 2005 đánh dấu sự ra đời của các văn bản luật như: Luật khiếu nại, Luật tố cáo, Luật đầu tư, Luật thương mại,… Điều này đã ảnh hưởng đến việc khởi kiện vụ án hành chính của nhân dân. Tuy nhiên trong năm này số lượng vụ án được thụ lý lại thấp hơn so với năm 2004. Cụ thể, trên cả nước số lượng vụ án thụ lý chỉ là 835 vụ, giảm gần một nửa so với năm 2004. Số án mà toàn ngành Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là 277 vụ, giảm 76 vụ so với năm 2004.

Trong các năm 2006, 2007, 2008, 2009, 2010 số lượng vụ án hành chính được thụ lý tăng lên đáng kể. Nguyên nhân là do trong năm 2006, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được sửa đổi, bổ sung với việc mở rộng các loại việc mà Tòa án có thẩm quyền giải quyết từ 9 lên 22 loại việc. Sự thay đổi này làm cho hoạt động tố tụng hành chính có bước phát triển vượt bậc khi số lượng đơn kiện và số lượng vụ án được thụ lý ngày càng nhiều chứng tỏ niềm tin của nhân dân ngày càng cao. Tính từ tháng 10/2006 đến tháng 8/2007 Tòa án trên cả nước đã thụ lý 1674 vụ án hành chính, giải quyết được 1261 vụ. Ngày 1/7/2006 đến ngày 31/5/2007 toàn ngành Tòa án Hà Nội đã thụ lý 55 vụ, riêng Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội thụ lý 4 vụ sơ thẩm, các nội dung khởi kiện trong các vụ này đều liên quan đến lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Đặc biệt, từ ngày 1/7/2011 Luật Tố tụng hành chính chính thức có hiệu lực thi hành đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong khiếu kiện hành chính, đồng thời mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án. Do đó, từ năm này, số lượng án hành chính ngày càng nhiều. Theo số liệu từ “ Báo cáo Hội đồng nhân dân của Tòa án 2012” của Tòa án nhân dân Hà Nội thì chỉ riêng năm 2012, số lượng án hành chính trong năm tăng 208,6%. Toàn ngành đã thụ lý 466 vụ, tăng 315 vụ so với năm 2011, giải quyết 185 vụ. Trong đó, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội thụ lý sơ thẩm 29 vụ, giải quyết 13 vụ, thụ lý phúc thẩm 81 vụ, giải quyết 78 vụ; Tòa án cấp huyện thụ lý 356 vụ, giải quyết 94 vụ.

Cũng trong năm 2012, trong “Báo cáo tổng kết công tác năm 2012” của Tòa án nhân dân tối cao đã thu được kết quả hết sức khả quan trong thụ lý án hành chính. Theo đó, Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý tất cả 6177 vụ, tăng 3854 vụ (tương đương 166%) so với năm 2011. Trong đó số vụ đã xét xử là 4742 vụ.

Như vậy từ khi Đảng và Nhà nước trao quyền giải quyết các khiếu kiện cho Tòa án cho đến nay  thì  số lượng đơn khởi kiện và số vụ Tòa án thụ lý có bước tăng vượt bậc, điều này chứng tỏ người dân đã thực sự biết về quyền khiếu kiện hành chính và tin tưởng vào trình tự thủ tục giải quyết của Tòa án. Nguyên nhân có bước phát triển tích cực này là do:

  • Thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính của Tòa án ngày càng được quy định theo hướng mở rộng. Cụ thể ở Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính quy định Tòa án có thẩm quyền giải quyết đối với 7 loại khiếu kiện hành chính; Theo pháp lệnh sửa đổi, bổ sung ngày 25/12/1998 thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết đối với 9 loại khiếu kiện hành chính; Theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung ngày 5/4/2006 thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết đối với 22 loại khiếu kiện. Và Luật Tố tụng hành chính hiện hành hiện nay quy định Tòa án có thẩm quyền giải quyết đối với hầu hết các khiếu kiện hành chính (trừ các quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc bí mật nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao và khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức).
  • Việc ngày càng nhiều văn bản luật ra đời trên tất cả các ngành, lĩnh vực cùng với công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật được thực hiện rộng rãi nên người dân biết và quan tâm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Chính vì vậy, khi thấy quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm người dân nhờ đến cơ quan xét xử để bảo vệ quyền lợi của mình.
  • Các quy định trong pháp luật tố tụng ngày càng hoàn thiện tạo điều kiện cho việc xét xử của Tòa án ngày càng công khai, minh bạch, đảm bảo công bằng. Chính vì thế, niềm tin của người dân ngày càng tăng nên khi thấy quyền lợi bị xâm phạm, họ không còn tâm lý e dè, ngại ngùng khi đến cơ quan công quyền nữa mà làm đơn khởi kiện lên Tòa án.
  • Kinh tế nước ta đang trên đà phát triển, trên khắp các địa phương trên cả nước quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa đang diễn ra, cùng với quá trình này là hoạt động giải phóng mặt bằng, thu hồi đất dẫn đến quyền và lợi ích của người dân dễ bị xâm phạm. Chính vì vậy, số lượng khởi kiện ngày càng nhiều nhất là trong lĩnh vực quản lý đất đai.
  • Việt Nam chính thức trở thành viên WTO, điều này không chỉ tác động nước ta trên lĩnh vực kinh tế mà còn ảnh hưởng đến toàn ngành pháp luật của nước ta. Khi mà có nhiều điều ước quốc tế cùng với pháp luật quốc gia ra đời cùng với kinh tế thị trường ngày càng phát triển đã thúc đẩy người dân quan tâm đến pháp luật nhiều hơn và cũng giúp họ mạnh dạn đứng lên khởi kiện khi thấy quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.

Mặc dù tăng lên về số lượng nhưng về chất lượng thụ lý vụ án hành chính còn nhiều hạn chế. Trong “báo cáo công tác xét xử” năm nào cũng tồn tại tình trạng thụ lý sai thẩm quyền, cùng với đó là tình trạng vi phạm về thủ tục thụ lý, trả lại đơn kiện hoặc đình chỉ giải quyết không đúng… diễn ra ở tất cả các địa phương trên cả nước dẫn đến tình trạng án bị sửa, bị hủy cao. Riêng trong năm 2000 trên cả nước có 52 bản án bị sửa , bị hủy theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trên tổng số 419 vụ án được xét xử sơ thẩm, chiếm tỉ lệ 12,4%. Theo số liệu được trích từ “Tài liệu tập huấn Tòa hành chính Thành phố Hồ Chí Minh” năm 2014 thì trong năm 2013 số vụ án mà Tòa hành chính thụ lý giải quyết là 118 vụ; trong đó số án bị sửa là 9 vụ; bị hủy là 5 vụ. Như vậy tỷ lệ án bị hủy và sửa chiếm 16,1% trên tổng số án giải quyết. Trong 3 tháng đầu năm 2014, số vụ án hành chính Tòa hành chính thụ lý là 77 vụ, trong đó số án hành chính sơ thẩm bị hủy là 10 vụ; sửa 3 vụ; tỷ lệ hủy sửa chiếm 16,88% lượng án giải quyết. Tỷ lệ hủy, sửa như vậy là khá cao và cần phải được khắc phục.

2.2.2  Nguyên nhân của hạn chế

Để từng bước nâng cao chất lượng thụ lý vụ án hành chính thì trước tiên ta phải tìm được nguyên nhân thực trạng trên. Trong tình hình tố tụng hiện nay, có thể thấy một số nguyên nhân cơ bản sau:

Thứ nhất, do Tòa hành chính mới đi vào hoạt động, chưa có bề dày kinh nghiệm trong việc thụ lý án hành chính nói riêng và cả quá trình tố tụng hành chính nói chung. Ở nhiều nước trên thế giới như Thụy Điển, Pháp, Hà Lan và các nước châu Âu khác pháp luật về tố tụng hành chính của họ đã có lịch sử từ lâu đời. Do trải qua một thời gian dài đó nên pháp luật tố tụng hành chính ngày càng hoàn thiện. Tòa hành chính thuần thục các bước trong quá trình tố tụng nên việc hoạt động của Tòa rất trơn tru, ít khi gặp phải sai sót. Chính vì vậy, việc thụ lý án hành chính và cả quá trình tố tụng hiếm khi vướng các sai phạm như thụ lý sai thẩm quyền hoặc trả đơn khởi kiện sai trường hợp. Trong khi đó ở nước ta, Tòa hành chính mới đi vào hoạt động năm 1996. Mặc dù trong quá trình trao thẩm quyền giải quyết án hành chính cũng như xây dựng pháp luật tố tụng hành chính chúng ta có sự tham khảo, rút kinh nghiệm từ nước bạn tuy nhiên việc vận dụng sao cho hợp lý là khác nhau do điều kiện ở các quốc gia là khác nhau. Điều kiện này có thể là các điều kiện về tự nhiên, xã hội, về hình thức chính thể, hệ thống pháp luật, tâm lý của người dân… Chính vì vậy, để xây dựng nền tố tụng hành chính cho nước mình thì cần một khoảng thời gian khá dài để làm quen và sửa đổi sao cho phù hợp. Thực tiễn ở nước ta cũng cho thấy điều đó, khi mới đi vào hoạt động, Tòa hành chính không nhận được nhiều sự quan tâm của người dân, điều này được chứng minh bằng số lượng đơn khởi kiện rất ít tuy nhiên, trong suốt quá trình hoạt động đến nay, Tòa án ngày càng nâng cao năng lực của mình khẳng định vai trò giải quyết án hành chính trong xã hội. Thêm vào đó, cơ sở vật chất phục vụ cho quá trinh hoạt động tố tụng hành chính cũng chưa tốt. Ở nhiều nơi trên nước ta, đặc biệt là ở các khu vực nông thôn miền núi, Tòa án là nơi làm việc tạm bợ, không được trang bị đầy đủ vật chất, trang thiết bị cần thiết từ đó nảy sinh tâm lý làm việc không tập trung, làm cho có của cán bộ, thẩm phán cũng như tâm lý không tin tưởng ở người dân.

Thứ hai, pháp luật tố tụng hành chính còn nhiều bất cập về thụ lý vụ án hành chính. Pháp luật là căn cứ điều chỉnh tất cả các giai đoạn trong quá trình tố tụng hành chính trong đó có giai đoạn thụ lý vụ án hành chính. Chính vì vậy, để việc thụ lý hành chính đạt hiệu quả cao thì cần có pháp luật làm căn cứ hoàn thiện. Tuy nhiên, pháp luật tố tụng nước ta còn nhiều hạn chế, mặc dù qua nhiều lần sửa đổi bổ sung nhưng Luật Tố tụng hành chính còn nhiều bất cập trong việc quy định như tại Điều 72 Luật Tố tụng hành chính quy định: “ Người khởi kiện có nghĩa vụ cung cấp bản sao quyết định hành chính hoặc quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, bản sao quyết định giải quyết khiếu nại (nếu có), cung cấp các chứng cứ khác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình”. Quy định này chỉ phù hợp với người khởi kiện là người trực tiếp thi hành quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh đó. Còn đối với trường hợp người khởi kiện không là người trực tiếp thi hành mà có thể là người đại diện thì việc chấp hành quy định này rất khó vì  họ khó có thể xin được bản sao của các quyết định này để nộp cho Tòa án[1].

Ngoài ra tại khoản 2 Điều 72 Luật Tố tụng hành chính quy định: “ Người bị kiện có nghĩa vụ cung cấp cho Toà án hồ sơ giải quyết khiếu nại (nếu có) và bản sao các văn bản, tài liệu mà căn cứ vào đó để ra quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh hoặc có hành vi hành chính”. Quy định này của Luật Tố tụng hành chính nhằm giúp cho việc thụ lý vụ án của Tòa án đúng đắn và tạo điều kiện cho việc giải quyết vụ án công bằng. Tuy nhiên trên thực tiễn nhiều người bị kiện không cung cấp được hoặc cố tình không cung cấp các tài liệu này cho Tòa án. Do Luật chỉ quy định đây là nghĩa vụ nhưng không quy định cho Tòa án có biện pháp xử lý nên gặp trường hợp này, Tòa án chỉ biết thụ động chờ người bị kiện cung cấp tài liệu dẫn đến vi phạm thời hạn thụ lý vụ án nói riêng và quá trình tố tụng nói chung.

Thứ ba, năng lực của một bộ phận cán bộ, Thẩm phán còn có phần hạn chế dẫn đến nhiều sai sót. Hiện nay, đội ngũ Cán bộ, Thẩm phán làm công tác thụ lý và giải quyết án hành chính không những thiếu về số lượng mà còn yếu về chất lượng. Đây cũng là minh chứng cho việc Tòa hành chính còn non trẻ. Cán bộ, Thẩm phán phải là người am hiểu pháp luật, có trình độ chuyên môn cao cũng như có những kiến thức về quản lý hành chính nhà nước. Không những vậy để việc thụ lý vụ án đạt kết quả cao yêu cầu cán bộ, Thẩm phán phải nắm bắt được nội dung căn bản của các văn bản pháp luật về hành chính và thường xuyên cập nhật văn bản mới ban hành. Như vậy, ta thấy yêu cầu đặt ra đối với cán bộ, Thẩm phán là khá cao: phải chắc về lý luận vừa nắm chắc quy định của pháp luật. Song đến nay, đội ngũ cán bộ, Thẩm phán chưa đáp ứng được yêu cầu này nên trong quá trình áp dụng pháp luật còn nhiều thiếu sót sau:

  • Nhầm lẫn trong việc xác định người bị kiện: Trong án hành chính việc xác định người bị kiện rất quan trọng, nếu việc xác định sai sẽ dẫn đến việc thụ lý sai án và có thể bị hủy bản án. Tuy nhiên việc nhầm lẫn người bị kiện là rất dễ xảy ra nhất là đối với các quyết định hành chính. Chẳng hạn như trong vụ kiện mà đối tượng khởi kiện là quyết định thu hồi đất của hộ gia đình của Ủy ban nhân dân huyện. Tuy nhiên, người khởi kiện trong vụ án khi kiện lại đòi kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. Trong trường hợp này nếu Thẩm phán xem xét đơn kiện thụ lý đơn khởi kiện và xét xử thì bản án, quyết định đó có thể bị hủy.
  • Xác định sai đối tượng khởi kiện: Đối tượng khởi kiện nếu là quyết định hành chính thì phải là quyết định hành chính lần đầu. Chính vì vậy việc xác định sai đối tượng khởi kiện là rất phổ biến. Ví dụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường A ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với ông B là 500.000 đồng và buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra. Không đồng ý với các quyết định này, ông B khiếu nại lên Ủy ban nhân dân. Tuy nhiên Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường A đã ra quyết định bác đơn khiếu nại của ông B. Trong trường hợp này, quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch phường chỉ là quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu còn quyết định hành chính lần đầu vẫn là quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng khi ông B khởi kiện yêu cầu Tòa án, Tòa án lại xác định đối tượng khởi kiện là quyết định giải quyết khiếu nại.
  • Xác định sai thẩm quyền: Mặc dù Luật Tố tụng hành chính hiện nay đã quy định thẩm quyền thụ lý án hành chính khá rõ ràng. Tuy nhiên do hạn chế về năng lực nên trong nhiều trường hợp việc thụ lý sai thẩm quyền vẫn xảy ra. Mà việc thụ lý sai thẩm quyền diễn ra nhiều nhất là do Thẩm phán khi xem xét đơn kiện không nhậ ra các đơn kiện có nội dung khởi kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo Điều 28 Luật Tố tụng hành chính. Từ đó dẫn đến thụ lý sai thẩm quyền. Chẳng hạn như trong vụ tranh chấp đất đai giữa bà T và ông Th, Ủy ban nhân dân thị xã M (tỉnh B) ban hành quyết định giải quyết tranh chấp với nội dung buộc ông Th phải bồi hoàn cho bà T giá trị đất. Năm 2008, sau khi khiếu nại yêu cầu Uỷ ban nhân dân hủy quyết định bị bác, bà T khởi kiện ra tòa. Tòa án nhân dân thị xã M thụ lý và xác định đây là vụ án hành chính vì bà T kiện quyết định bồi thường thiệt hại thuộc lĩnh vực quản lý đất đai theo quy định tại khoản 17 Điều 11 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Tòa hành chính Tòa án nhân dân Tối cao nhận xét việc Tòa án nhân dân Thị xã M thụ lý vụ án là sai thẩm quyền vì quyết định nói trên là giải quyết tranh chấp đất đai chứ không liên quan gì đến bồi thường thiệt hại. Bởi lẽ tại Mục 7 Nghị quyết số 04/2006 Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao quy định: Quyết định, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong việc giải quyết tranh chấp đất thì trong mọi trường hợp đều không phải là đối tượng khởi kiện hành chính. Mặt khác, giải quyết tranh chấp đất và bồi thường giữa các cá nhân với nhau khác hoàn toàn với việc bồi thường hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất.[2]

Thứ tư, do cơ chế đảm bảo độc lập trong hoạt động của Thẩm phán chưa hiệu quả. Một đặc thù của án hành chính là có sự tham gia của đương sự là cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước. Các quyết định hành chính, hành vi hành chính là đối tượng khởi kiện thường được ban hành bởi các quan chức địa phương. Chính vì vậy, Thẩm phán thường không muốn xử án hành chính, khi giải quyết Thẩm phán thường có tư tưởng nể nang, ngại va chạm, không muốn xử án hành chính, nhất là đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cùng cấp vì Thẩm phán cũng là một người dân, một Đảng viên tại địa phương nên chịu sự lành đạo của Bí thư, Chủ tịch đó.[3]Vì lẽ trên, việc Thẩm phán độc lập trong việc xét xử là rất khó ảnh hưởng đến chất lượng việc xét xử.

Thứ năm, công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật tố tụng hành chính đến với người dân còn hạn chế. Mặc dù khi cho ra đời văn bản pháp luật mới hoặc có sự bổ sung, thay đổi văn bản pháp luật thì theo quy định của pháp luật phải đăng Công báo và các phương tiện khác nhưng trên thực tế, việc này không phát huy nhiều tác dụng. Đa số người dân Việt Nam, đặc biệt là ở vùng nông thôn điều kiện tiếp xúc với các thông tin pháp luật này rất hạn chế. Các phương tiện truyền thông như báo, đài phát thanh, đài truyền hình mặc dù cũng cố gắng đưa các chuyên mục pháp luật để người dân nắm rõ quy định trong tố tụng hành chính nói riêng và pháp luật nói chung. Tuy nhiên, các chuyên mục này nhận được rất ít sự quan tâm của người dân. Hơn nữa, cho dù họ có biết cũng chỉ biết có sự tồn tại ví dụ như sự tồn tại của Tòa hành chính chứ không thể nắm được nội dung cơ bản của Luật Tố tụng hành chính. Chính vì vậy, khi quyền lợi của mình bị xâm phạm người dân cũng không biết làm gì. Hơn nữa, không chỉ người dân mà ngay cả Thẩm phán cũng không cập nhật các văn bản kịp thời các văn bản hành chính trên các lĩnh vực để áp dụng giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà hành chính. Thực trạng trên cho thấy công tác  tuyên truyền, phổ biến pháp luật còn chưa tốt. Điều này dẫn đến thực trạng là các khiếu kiện hành chính rất nhiều nhưng số lượng đơn khởi kiện đến Tòa án và số lượng vụ án được thụ lý giải quyết rất ít.

Thứ sáu, do tâm lý người dân nước ta còn e de, ngại đụng chạm đến chính quyền. Nước ta đi lên từ một nước phong kiến lạc lậu, đời sống người dân chủ yếu gắn với kinh tế nông nghiệp, cùng với thôn quê lối xóm. Ở các làng quê Việt Nam thời phong kiến, tư duy pháp lý “phép vua thua lệ làng” đã ăn sâu vào tư tưởng con người. Điều này được giải thích do ngày xưa, vua ít khi ban hành các chiếu chỉ mà có ban hành thì cũng khó đến với người dân do điều kiện truyền thông hạn chế, do đó chính các lệ, các quy tắc của chính quyền địa phương mới là cái tác động điều chỉnh hành vi của dân trong làng. Từ đó, người dân dần nảy sinh tâm lý tôn sùng các quy tắc của làng mà không quan tâm nhiều đến chiếu chỉ của vua. Ngoài ra, tư duy “vô phúc đáo tụng đình” cũng ảnh hưởng đến người dân bao thế hệ nay. Với tư duy này, người dân rất ngại đưa nhau đến quan tòa đặc biệt với án hành chính, khi người mà họ đưa ra tòa là chính quyền địa phương thì người dân càng e ngại hơn do họ sợ bị trù dập, sợ thua kiện lại mất tiền án phí, sợ bị gây khó dễ sau này. Do đó, khi thấy quyền lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phại thì cũng đành chịu chứ không dám làm đơn kiện lên Tòa án. Mặc dù hiện nay nước ta đã xây dựng nhà nước pháp quyền, pháp luật đặt lên hàng đầu nhưng việc xóa bỏ tư duy phong kiến lạc hậu rất khó khăn.

Thứ bảy, công tác tổng kết xét xử án hành chính vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Có một sự thật là trong các bản “Báo cáo công tác xét xử” hằng năm của các địa phương thì năm nào cũng như năm nào, chính vì vậy nên nó không phản ánh kịp thời những hạn chế trong pháp luật tố tụng hành chính. Về mặt lý luận, các bản báo cáo công tác xét xử không chỉ thể hiện số lượng, tình hình xét xử trong năm mà đó còn là dịp để cá nhân, cơ quan có thẩm quyền nhìn nhận một cách nghiêm túc trong năm qua việc áp dụng pháp luật tố tụng hành chính đạt kết quả đến đâu và còn những vướng mắc gì, từ đó đưa ra các giải pháp khắc phục. Tuy nhiên, các bản báo cáo này ở nước ta chủ yếu là chỉ khác nhau về con số còn các nội dung khác thì năm này với năm sau như một. Chính vì sự sơ sài, hình thức này nên hoạt động tố tụng hành chính nói chung và thụ lý vụ án hành chính nói riêng khó có thể nâng cao chất lượng.

2.2 Một số kiến nghị nâng cao chất lượng công tác thụ lý vụ án hành chính

Thứ nhất, hoàn thiện các quy định của pháp luật

Pháp luật tố tụng tiêu biểu là Luật tố tụng hành chính là cơ sở pháp lý cho mọi hoạt động tố tụng trong đó có thụ lý vụ án hành chính. Vì vậy, để việc thụ lý vụ án hành chính đạt hiệu quả cao thì yêu cầu trước mắt là phải nhận ra các quy định không hợp lý, các điểm mới cần bổ sung hoặc lược bớt  đi nhằm xây dựng pháp luật tố tụng hoàn chỉnh. Mặc dù Luật Tố tụng hành chính hiện nay đã được xây dựng hoàn chỉnh và việc áp dụng nó đạt được phản hồi tích cực tuy nhiên vẫn còn các vấn đề nên sửa đổi, bổ sung như sau:

  • Sửa đổi quy định về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của người khởi kiện và người bị kiện trong án hành chính: Như đã trình bày ở phần nguyên nhân, quy định về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ tại khoản 1, 2 Điều 72 Luật Tố tụng hành chính hiện nay là một vấn đề cần khắc phục. Vì thế cho nên để quy định này được áp dụng hiệu quả trên thực tiễn cần các giải pháp như:
  • Không quy định nghĩa vụ cung cấp bản sao quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi viêc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh đối với người khởi kiện không là người trực tiếp thi hành các quyết định đó. Bởi vì trong một số trường hợp, việc thực hiện nghĩa vụ này là khó khăn mà nếu không thực hiện thì theo quy định hiện nay, Tòa án sẽ xem như không đủ thủ tục và không thụ lý. Điều này là bất lợi cho người khởi kiện. Vì vậy thay vì quy định đây là nghĩa vụ bắt buộc của người khởi kiện thì Luật Tố tụng hành chính  nên quy định thoáng hơn là chỉ cần người khởi kiện chứng minh có sự tồn tại và nội dung của đối tượng khởi kiện đó. Đồng thời ràng buộc trách nhiệm của người bị kiện hợp tác trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ cho vụ án.

  • Tại khoản 2 Điều 72 Luật Tố tụng hành chính cần quy định thêm thời hạn cụ thể để người bị kiện cung cấp tài liệu, chứng cứ liên quan theo yêu cầu của Tòa án. Không chỉ vậy, để tránh trường hợp người bị kiện cố tình né tránh cung cấp thì Luật Tố tụng hành chính còn quy định thêm biện pháp xử lý của Tòa án và hậu quả bất lợi cho người bị kiện. Ví dụ như hết thời hạn cung cấp tài liệu, chứng cứ mà người bị kiện chưa thực hiện nghĩa vụ của mình và cũng không có lý do chính đáng thì coi như từ bỏ quyền, nghĩa vụ của mình trong vụ kiện và phải chịu chấp hành phán quyết của Tòa án theo quy định của pháp luật.

  • Bổ sung quy định khi ban hành quyết định hành chính thì cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền phải có điều khoản thông báo cho cá nhân, cơ quan, tổ chức về thời hiệu khởi kiện: Thời hiệu khởi kiện là một trong những điều kiện bắt buộc phải có để Tòa án thụ lý vụ án hành chính. Tuy nhiên không phải ai cũng biết được thời hiệu khởi kiện đối với từng quyết định cụ thể là như thế nào. Điều này dẫn đến tình trạng khi cá nhân, cơ quan, tổ chức tuy biết quyền, lợi ích bị xâm phạm nhưng nghĩ đã hết thời hiệu khởi kiện nên không làm đơn khởi kiện hoặc ngược lại là nghĩ thời hiệu còn dài nên không làm hồ sơ khởi kiện ngay lập tức, đến khi khởi kiện thì đã hết thời hiệu. Vì vậy cho nên trên các quyết định hành chính, ngoài nội dung thông thường cần quy định rõ những nội dung như người nhận quyết định có quyền khởi kiện hay không, nếu có thì kiện lên đâu và trong thời gian nào?[4]. Việc quy định như trên không chỉ giúp người dân biết thời hiệu khởi kiện, nơi khởi kiện mà còn là biện pháp khuyến khích việc khiếu kiện trong người dân góp phần làm cho nền hành chính ngày một phát triển.
  • Cần có hướng dẫn về việc áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với quyết định hành chính ban hành trước ngày 1/7/2011: Ngày 1/7/2011 Luật Tố tụng hành chính 2010 chính thức có hiệu lực, trước ngày này thì hoạt động tố tụng hành chính chịu sự điều chỉnh của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sửa đổi, bổ sung 2006). Mà 2 văn bản này quy định có sự khác nhau về thời hiệu khởi kiện (Luật Tố tụng hành chính quy định thời hiệu khởi kiện dài hơn so với Pháp lệnh). Chính vì vậy có những trường hợp ngày nhận được, biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính là trước ngày 1/7/2011 nhưng sau 1/7/2011 khởi kiện thì cách trả lời của Tòa án là khác nhau. Ví dụ như ngày A biết được quyết định xử phạt vi phạm hành chính là ngày 1/5/2011, A không khiếu nại, khởi kiện ra tòa. Đến 1/3/2012 A làm đơn khởi kiện gửi đến Tòa án. Trong trường hợp này nếu chỉ căn cứ vào Pháp lệnh vì thời điểm A nhận được quyết định hành chính là thời điểm Pháp lệnh đang còn hiệu lực và đang được áp dụng thì thời hiệu khởi kiện đã hết (Theo quy định tại Điều 30 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì trong trường hợp này thời hiệu khởi kiện là 30 ngày). Tuy nhiên, Luật Tố tụng hành chính 2010 kéo dài thời hiệu này là 1 năm, vì vậy tại thời điểm A khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện vẫn còn. Chính vì không có hướng dẫn nên trong những tình huống như thế này, Tòa án rất bối rối không biết giải quyết thế nào cho phù hợp. Do đó, cần có hướng dẫn cụ thể để làm căn cứ áp dụng. Có thể quy định theo hướng nếu ngày khởi kiện còn thời hiệu theo quy định của Luật 2010 thì Tòa án có thể thụ lý mà không cần quan tâm ngày biết được, nhận được quyết định vì quy định như vậy là có lợi hơn cho người khởi kiện.

Thứ hai, nâng cao năng lực của cán bộ, Thẩm phán thụ lý, giải quyết án hành chính.

Cán bộ, Thẩm phán thụ lý, giải quyết án hành chính là nhưng người đóng vai trò chủ chốt, quyết định cho chất lượng hoạt động tố tụng hành chính. Tuy nhiên, nước ta hiện nay đang thiếu nguồn cán bộ, Thẩm phán có trình độ, năng lực thật sự. Điều này không chỉ do các nguyên nhân khách quan như Tòa hành chính còn non trẻ nên Thẩm phán chưa có nhiều kinh nghiệm mà còn do các nguyên nhân chủ quan là trình độ chuyên môn, kiến thức lý luận và thực tiễn của cán bộ, thẩm phán. Chính vì vậy trong thời gian tới cần có phương án để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, thẩm phán. Các phương án có thể áp dụng như:

  • Tổ chức thi để tuyển dụng cán bộ, Thẩm phán. Cán bộ, Thẩm phán để có thể làm tốt công việc của mình thì trước tiên phải có kiến thức, trình độ chuyên môn vững vàng. Để kiểm tra trình độ này thì việc tổ chức thi nghiêm túc là cần thiết. Đây cũng là hành thức được áp dụng rộng rãi trong thời gian gần đây nhằm tìm kiếm những người đủ tài, đức cho ngành tư pháp. Chỉ những người đủ điều kiện về bằng cấp, kinh nghiệm… theo quy định mới có thể tham gia thi và các quy trình tổ chức thi là nghiêm túc, không tiêu cực. Như vậy, cá nhân muốn làm việc trong ngành tòa án nói chung và Tòa hành chính nói riêng phải chuẩn bị kiến thức, kinh nghiệm đầy đủ. Cùng với đó để tránh các tiêu cực xảy ra như đút lót, chạy tiền thì cần có quy định đủ mạnh để xử lý để đảm bảo việc tuyển chọn là công bằng, hợp pháp.
  • Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ cán bộ, thẩm phán. Bởi vì Tòa hành chính không có bề dày lịch sử nên việc cán bộ, Thẩm phán thiếu kinh nghiệm trong thụ lý, giải quyết án hành chính là điều tất yếu. Không chỉ vậy, đối tượng xét xử của án hành chính là các quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật vì vậy đòi hỏi cán bộ, Thẩm phán phải có kiến thức trong lĩnh vực quản lý hành chính Nhà nước. Vì vậy,công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ, Thẩm phán là việc làm cần thiết. Bên cạnh đó, bản thân mỗi cán bộ, Thẩm phán phải tự học hỏi, nâng cao năng lực, hiểu biết của bản thân để hoàn thành nhiệm vụ tốt hơn.

Thứ ba, đổi mới chế độ tiền lương, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, thẩm phán.

Trong những năm gần đây, vấn đề lương bổng đối với cán bộ, thẩm phán là vấn đề thường xuyên được nhắc đến trong các cuộc họp, thảo luận. Theo đó,nhiều ý kiến chi rằng việc trả lương như hiện nay là không phù hợp với vị trí, vai trò, trách nhiệm của người công tác trong ngành tòa án. Việc mức lương phù hợp sẽ dẫn đến rất nhiều hệ lụy mà một trong số đó là tình trạng tiêu cực trong tòa án như nhận hối lộ, quan liêu… Không những vậy, với mức lương không đảm bảo cuộc sống, nhiều cán bộ, Thẩm phán phải bỏ nghề dẫn đến nguồn nhân lực cho Tòa án ngày càng mỏng và yếu. Ngoài ra, mức lương không tương xứng với lao động còn khiến đội ngũ cán bộ, thẩm phán không thể chuyên tâm làm việc, tận tụy với nghề được. Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng thụ lý vụ án cũng như chất lượng xét xử của Tòa án thì việc đổi mới chế đột tiền lương, phụ cấp, đãi ngộ đối với cán bộ, Thẩm phán là điều cần thiết. Làm được điều này sẽ góp phần phòng chống tiêu cực trong ngành tòa án đồng thời khuyến khích, động viên cán bộ, thẩm phán yên tâm công tác, nâng cao tinh thần trách nhiệm và thái độ phục vụ nhân dân.

Thứ tư, đổi mới mô hình tổ chức Tòa án nhân dân

Tòa án nhân dân nước ta hiện nay được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ. Tại mỗi huyện thì có Tòa án nhân dân cấp huyện, mỗi tỉnh có Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Việc tổ chức theo mô hình này bộc lộ nhiều hạn chế mà nổi bật nhất là không tạo được cơ chế làm việc của Tòa án với cơ quan hành chính tại địa phương. Tòa án đặt trên lãnh thổ nơi cơ quan hành chính thực hiện chức năng quản lý của mình, bản thân mỗi Thẩm phán cũng là Đảng viên nên chịu sự lãnh đạo của Bí thư, Chủ tịch huyện hoặc tỉnh đó. Án hành chính lại thường liên quan đến người có thẩm quyền hoặc cơ quan hành chính có thẩm quyền, trong đó có các quyết định hành chính được các cấp Ủy Đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thông qua. Điều này làm Tòa án địa phương và Thẩm phán xem xét đơn kiện rất khó khăn trong việc thể hiện quan điểm của mình đối với những vi phạm đó[5]. Hơn nữa, việc tổ chức không căn cứ vào các đặc điểm dân cư, số lượng khởi kiện như trên dễ dẫn đến tình trạng có tòa án xử không hết còn tòa khác, đặc biệt là các tòa ở khu vực miền núi mỗi năm lác đác vài vụ. Chính vì vậy, việc tổ chức tòa án cấp sơ thẩm theo khu vực là một giải pháp đúng đắn. Thay vì tòa án được tổ chức theo địa hạt hành chính như hiện nay thì việc tổ chức tòa án khu vực sẽ căn cứ vào đặc điểm địa lý, tính chất dân cư, số vụ khởi kiện hằng năm để thành lập. Việc tổ chức tòa án theo mô hình này sẽ góp phần tăng cường tính độc lập, khách quan và tuân theo pháp luật trong việc thụ lý và xét xử của Tòa án. Đồng thời giải quyết được tình trạng có Tòa án quá tải trong khi một số tòa rất ít việc gây lãng phí nguồn nhân lực, vật lực. Đồng thời, để đưa tòa án gần với dân hơn thì các tòa sơ thẩm này còn thành lập “chân rết” ở các xã, thôn bản để tiện cho người dân. Việc thành lập các tòa con này là giải pháp khắc phục tình trạng bất tiện của người dân do điều kiện đi lại tòa án khó khăn.

Thứ năm, thực hiện có hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.

Tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật là hoạt động mang tính chất toàn xã hội với phương châm không ai được coi như không biết pháp luật. Chính vì vậy, việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà nước[6]. Do đó Nhà nước cần đẩy mạnh  hơn nữa các giải pháp tuyên truyền, giáo dục nhằm đưa chính sách pháp luật đến với người dân. Dân biết và nắm rõ các nội dung cơ bản của pháp luật thì pháp luật mới có thể thực hiện hiệu quả. Đối với pháp luật về thụ lý vụ án hành chính cũng vậy, trước tiên phải có các giải pháp để các quy định đến tay người dân, cụ thể là:

  • Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật: Hiện nay việc tuyên truyền pháp luật được thực hiện chủ yếu trên các kênh truyền thông như đài phát thanh, đài truyền hình, sách, báo, tạp chí. Ưu điểm của các hình thức tuyên truyền này là phạm vi tuyên truyền rộng rãi, nhanh chóng. Tuy nhiên việc tuyên truyền pháp luật là một vấn đề khá khô khan nên thực tiễn các chương trình phổ biến pháp luật này không đạt được hiệu quả cao. Chính vì vậy, để thu hút sự quan tâm của người dân thì yêu cầu đặt ra là phải có sự sáng tạo trong các chuyên mục pháp luật trên báo, đài, truyền hình… Hiện nay, nhiều chương trình tuyên truyền có sự thay đổi hình thức như thay vì việc thông báo, phân tích văn bản pháp luật thì nay thay bằng việc tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật; phổ biến pháp luật thông qua các tình huống; đưa ra câu hỏi kèm theo giải thưởng cho người thắng cuộc;… Các hình thức này không chỉ thu hút sự theo dõi của công chúng mà còn để người dân chủ động trong việc tìm hiểu, cập nhật văn bản pháp luật từ đó nâng cao hiệu quả tuyên truyền. Bên cạnh đó, cần tổ chức nhiều hơn nữa các buổi tuyên truyền pháp luật ở các địa phương, đặc biệt là các khu vực nông thôn, miền núi nơi người điều kiện thông tin còn hạn chế. Đây là hình thức trực tiếp nhất, thông qua các buổi tuyên truyền này, cán bộ pháp lý có thể phổ biến nhiều nội dung pháp luật đến với người dân, chỉ rõ các văn bản pháp luật mới ban hành, các trường hợp khởi kiện vụ án hành chính, điều kiện về thời hiệu… Không chỉ vậy, bằng những cuộc gặp trực tiếp này còn giúp nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, lắng nghe ý kiến phản ánh của người dân về pháp luật để ngày càng hoàn thiện hơn.
  • Tăng cao và ổn định nguồn kinh phí dành cho hoạt động tuyên tuyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Để hoạt động tuyên truyền pháp luật diễn ra có hiệu quả và dài hạn thì cần có nguồn kinh phí phục vụ cho hoạt động này. Tuy nhiên hiện nay các chính sách phân bổ kinh phí cho địa phương thực hiện hoạt động tuyên truyền pháp luật còn hạn chế. Các buổi tuyên truyền chủ yếu được tổ chức bằng nguồn kinh phí từ các đơn vị đóng góp. Chính vì vậy, hoạt động tuyên truyền pháp luật khó có thể được tổ chức với quy mô lớn và thường xuyên được.Vì thế để hoạt động này diễn ra hiệu quả thì hơn hết cần có chính sách phân bổ nguồn kinh phí phù hợp cũng như chế độ phụ cấp dành cho người làm công tác tuyên truyền pháp luật.

Thứ sáu, nâng cao hiệu quả hoạt động báo cáo công tác xét xử.

Báo cáo công tác xét xử hằng năm của các Tòa án không chỉ là thống kê số liệu về xét xử trong năm mà còn thể hiện những hạn chế trong quá trình hoạt động của Tòa án. Đối với hoạt động thụ lý vụ án, là giai đoạn đầu tiên trong quá trình tố tụng có ý nghĩa đến toàn bộ quá trình tố tụng. Vì vậy hoạt động này cần được quan tâm kịp thời, đúng mức hơn trong báo cáo công tác xét xử. Cần xác định rõ những mặt tích cực đạt được trong năm và đặc biệt là những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại và đề ra phương hướng hoạt động tiếp theo. Để làm được điều này, bản thân mỗi Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án cần phải xem trọng việc tổng kết xét xử vụ án hành chính và rút kinh nghiệm. Điều này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả thụ lý vụ án hành chính nói riêng và hoạt động tố tụng hành chính nói chung.

 

KẾT LUẬN

Đảm bảo công bằng, bình đẳng giữa công dân với Nhà nước là trách nhiệm cao cả của các cấp Tòa án. Ở nước ta, từ khi chính thức đi vào hoạt động đến nay, Tòa hành chính vẫn đang từng bước hoàn thiện và khẳng định vai trò của mình. Tuy nhiên, để hoạt động tố tụng hành chính của Tòa án đạt chất lượng cao thì giai đoạn thụ lý vụ án hành chính rất quan trọng. Đây là giai đoạn đầu tiên có ý nghĩa xác định có hay không các bước tiếp theo trong quá trình tố tụng. Như vậy, ngay từ bước đầu tiên này phải đúng pháp luật thì các bước sau mới có thể đúng. Nhận được tầm quan trọng này, trong những năm qua Đảng và Nhà Nước đã chú trọng hoàn thiện pháp luật về thụ lý vụ án hành chính. Tuy nhiên, thực trạng cho thấy hoạt động này còn nhiều bất cập, hạn chế. Án hành chính so với các án khác như hình sự, dân sự, kinh tế… vẫn chiếm tỷ lệ thấp, điều đó chứng tỏ sự quan tâm cũng như niềm tin của người dân vào Tòa hành chính chưa cao. Bên cạnh đó, tình trạng thụ lý sai thẩm quyền, trả đơn khởi kiện không đúng,… còn tồn tại trên tất cả các địa phương. Để khắc phục được tình trạng này thì việc hoàn thiện các quy định của pháp luật là yêu cầu đầu tiên và quan trọng nhất. Ngoài ra, các hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật cần được thực hiện có hiệu quả. Song song với đó là nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ, Thẩm phán trong ngành Tòa án.

Mặc dù công tác thụ lý cũng như xét xử các vụ án hành chính trong những năm qua còn nhiều bất cập, thiếu sót. Nhưng có một điều đáng mừng là việc thụ lý vụ án hành chính ngày càng tốt hơn. Điều này được thể hiện qua số lượng đơn kiện cũng như số lượng án được thụ lý ngày càng nhiều. Không chỉ vậy chất lượng thụ lý cũng được cải thiện, tỷ lệ án bị sửa, bị hủy ngày càng thấp. Điều đó chứng tỏ chúng ta đang đi đúng hướng trong quá trình xây dựng Tòa hành chính. Đồng thời thể hiện quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong việc chăm lo quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức nhằm xây dựng nền hành chính trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của xã hội.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Luật tố tụng hành chính 2010
  2. Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính 1996
  3. Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sửa đổi, bổ sung 1998)
  4. Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sửa đổi, bổ sung 2006)
  5. Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP Hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Tố tụng hành chính
  6. Nghị quyết 01/2015/NQ-HĐTP Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29 tháng 7 năm 2011 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định của Luật tố tụng hành chính
  7. Nghị quyết 04/2006/NQ-HĐTP ngày 04/08/2006 Hướng dẫn thi hành thủ tục giải quyết các vụa án hành chính theo pháp lệnh sửa đổi 2006
  8. Bộ Luật dân sự 2005
  9. Luật đất đai 2013
  10. Pháp luật Bảo vệ Nhà nước năm 2000
  11. Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án năm 2009
  12. Báo cáo công tác xét xử các năm 1996-2013 Tòa án nhân dân Tối cao
  13. Báo cáo HĐND của Tòa án nhân dân Thành Phố Hà Nội Năm 2012
  14. Đại học Luật TP.HCM, “Giáo trình Luật Tố tụng hành chính”, NXB Hồng Đức, Năm 2012.

15.Nguyễn Cửu Việt, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

  1. Đại học Quốc gia Hà nội, Giáo trình Luật Tố tụng hành chính.
  2. Đại từ điển Tiếng Việt. NXB Văn hoá thông tin- Trung tâm ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam. Năm 1998.
  3. Nguyễn Thanh Phương (2012), Luận văn Khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính (từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh).
  4. Nguyễn Thị Minh Hải (2008), Khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính.
  5. Tài liệu Tập huấn Tòa án Thành phố Hồ Chí Minh 2014.
  6. doko.vn.
  7. m.phapluattp.vn.
  8. fdvn.vn.
  9. moj.gov.vn.
  10. tand.hochiminhcity.gov.vn.
  11. hocvientuphap.edu.vn.

 

[1] Theo Nguyễn Thanh Phương_Luận văn Khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính (từ thực tiễn Thành Phố Hồ Chí Minh) năm 2012

[2] http://fdvn.vn/An-hanh-chinh-nhieu-sai-sot-ve-tham-quyen

[3] Theo Nguyễn Thanh Phương Luận văn khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính (từ thực tiễn Thành Phố Hồ Chí Minh) năm 2012

[4] Theo Nguyễn Thanh Phương Luận văn Khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính (từ thực tiễn Thành Phố Hồ Chí Minh) năm 2012

[5] http://m.phapluattp.vn/phap-luat-chu-nhat/an-hanh-chinh-nhieu-sai-sot-ve-to-tung-70216.html

[6] http://doko.vn/103094/thu-ly-vu-an-hanh-chinh-thuc-trang-va-giai-phap

 

 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quy định về bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ trong hợp đồng lao động cần được hướng dẫn

19/02/2016

Vấn đề lao động trong nền kinh tế thị trường, pháp luật luôn tôn trọng nguyên tắc tự do, bình đẳng, thiện chí và trung thực giữa người sử dụng lao động (NSDLĐ) với người lao động (NLĐ) khi ký kết hợp đồng lao động (HĐLĐ) thông qua thị trường sức lao động. Thực tiễn cho thấy, nhiều tổn thất rất nặng nề về do doanh thu bị sụt giảmhoặc nhiều trường hợp nghiêm trọng hơn đẩy doanh nghiệp đến “bờ vực” phá sản mà NSDLĐ phải gánh chịu do NLĐ đã tiết lộ những bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh, bí mật thương mại cho doanh nghiệp cạnh tranh khác, hoặc cho chính bản thân họ sử dụng những “bí quyết” đó để trở thành đối thủ cạnh tranh với chính NSDLĐ trước đây. Do đó, rất cần thiết có sự điều chỉnh của luật về vấn đề này, mà theo đó, đặt ra một giới hạn trong việc thiết lập quan hệ HĐLĐ, hạn chế quyền tự do làm việc của NLĐ, nhằm chống lại việc tiết lộ hoặc sử dụng những “bí mật” của NSDLĐ. Đây cũng là một nội dung quan trọng trong luật lao động hiện đại – Điều khoản quy định về giữ gìn bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh  hay còn gọi là điều khoản bảo mật; điều khoản cấm cạnh tranh hay điều khoản hạn chế cạnh tranh, nhằm hướng tới bảo vệ các quyền và lợi ích  của NSDLĐ trong quan hệ lao động có tính cạnh tranh cao trong nền kinh tế thị trường.

Hiện nay, khi chúng ta chưa có luật riêng điều chỉnh về hợp đồng thì vấn đề giao kết hợp đồng nói chung chịu sự chi phối của luật dân sự, cụ thể là Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS). Bên cạnh pháp luật chung về hợp đồng, việc giao kết và thực hiện HĐLĐ được quy định khá chi tiết trong Bộ luật Lao động năm 2012 (BLLĐ 2012) bằng việc xác định các nguyên tắc trong giao kết hợp đồng. Cụ thể, Điều 17 BLLĐ 2012 quy định về nguyên tắc giao kết HĐLĐ, như sau:

1. Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác và trung thực.

2. Tự do giao kết HĐLĐ nhưng không được trái pháp luật, thỏa ước lao động tập thể và đạo đức xã hội”.

Các nguyên tắc này được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc chung của BLDS, cho phép các bên trong hợp đồng được tự do thỏa thuận và xác định các nội dung trong HĐLĐ. Sự tự do này trên thực tế được sử dụng và khai thác một cách triệt để, đặc biệt về phía NSDLĐ. Tự do hợp đồng cho phép các bên thỏa thuận thêm những nội dung bên ngoài các nội dung cơ bản theo yêu cầu tại Điều 23[1]BLLĐ 2012. Một trong những nội dung thỏa thuận thêm thường được NSDLĐ quan tâm đưa vào HĐLĐ là về nghĩa vụ của NLĐ trong việc giữ gìn bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh cho NSDLĐ.

BLLĐ 2012 đã lần đầu tiên và một cách rõ ràng cho phép các bên ký kết HĐLĐ thỏa thuận một điều khoản giữ gìn bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh, mà theo đó, tại khoản 2 Điều 23 BLLĐ 2012 quy định: “Khi người lao động làm việc có liên quan trực tiếp đến bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ theo quy định của pháp luật, thì người sử dụng lao động có quyền thỏa thuận bằng văn bản với người lao động về nội dung, thời hạn bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, quyền lợi và việc bồi thường trong trường hợp người lao động vi phạm”. Quy định này được xem như một bước tiến quan trọng trong lĩnh vực pháp luật lao động, góp phần đưa pháp luật lao động của Việt Nam tiến gần với pháp luật lao động của các nước có nền pháp lý tương đối phát triển. Đây là điều khoản được xây dựng với mục đích ngăn ngừa, hạn chế sự cạnh tranh không lành mạnh giữa NLĐ đã thôi không làm việc cho NSDLĐ, bảo vệ NSDLĐ và những lợi ích hợp pháp của họ. Tuy nhiên, việc vận dụng quy định trên vào thực tiễn cũng còn không ít vướng mắc và còn nhiều cách hiểu khác nhau, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về sự thỏa thuận “cấm cạnh tranh” được áp dụng cho những loại công việc nhất định nào; giới hạn của điều khoản “cấm cạnh tranh” trong từng loại hợp đồng; thời điểm chấm dứt áp dụng điều khoản hạn chế đó;…nên trong nhiều HĐLĐ điều khoản “hạn chế cạnh tranh” được NSDLĐ triệt để áp dụng theo hướng nghiêng về bảo vệ quyền và lợi ích của chính mình, nhưng lại ảnh hưởng lớn đến quyền và lợp ích hợp pháp của NLĐ.

Nghiên cứu thêm quy định tại Điều thứ 30 của Bộ luật Lao động Việt Nam, ban hành theo Dụ số 15 ngày mồng 8 tháng bảy năm 1952, do Đức Bảo Đại, Quốc trưởng ký có ghi rõ:

“Công-nhân phải hiến trọn cả sự hoạt-động chức nghiệp của mình cho xí-nghiệp dùng mình, trừ ra khi nào trong khế-ước lao động có định khác.

Nhưng ngoài thời-giờ làm việc và ngoài ra khi nào có giao-ước khác hơn, công-nhân tùy-thích hoạt-độgn theo nghề-nghiệp của mình mà không có tính-cách cạnh-tranh với xí-nghiệp đang dùng hay làm tổn-hại đến sự làm đúng đắn công việc mà hai bên đã giao kết.

Điều nào trong khế-ước không cấm công-nhân hoạt động về một nghề-nghiệp gì sau khi mãn hay bãi khế-ước, thì đương nhiên vô hiệu lực, trừ ra khi nào sự hoạt-động bị ngăn cấm có tính-cách để cạnh-tranh với chủ-nhân, nếu thời-hạn ngăn cấm không quá một năm và nếu chỗ cấm hoạt-động không xa chỗ làm việc cũ không quá 50 cây số ngàn.”

Có thể thấy nhà làm luật lúc bấy giờ đã có sự phân chia các giới hạn của tự do giao kết HĐLĐ. Mà theo đó, Giới hạn thứ nhất là, giới hạn do sự tồn tại của một khế ước lao động chưa đoạn tiêu. Nghĩa là NLĐ không thể giao kết HĐLĐ nếu đang duy trì một HĐLĐ khác. Quy định này hoàn toàn khác so với quy định của BLLĐ hiện hành cho phép NLĐ có thể cùng lúc giao kết và thực hiện nhiều HĐLĐ[2]. Giới hạn thứ hai là, giới hạn do một điều khoản cấm cạnh tranh. Theo giới hạn này, NSDLĐ có quyền đòi hỏi NLĐ của mình phải cam kết là sẽ không làm cho một NSDLĐ khác sau khi đã chấm dứt HĐLĐ với mình. Điều này có nghĩa là nếu đã có một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đang có giá trị thì quyền tự do giao kết HĐLĐ mới của NLĐ phải chịu sự giới hạn của thỏa thuận đó.Lý giải cho cơ sở ban hành quy định giới hạn thứ hai là do trong quá trình làm việc cho một NSDLĐ, NLĐ có được nhiều kiến thức chuyên môn hay biết được bí mật sản xuất, kinh doanh; bí mật công nghệ; bí mật thương mại… kể cả sự quen biết với khách hàng. Nếu NLĐ này đi làm việc ở chỗ khác và mang những sự hiểu biết này đến phục vụ cho NSDLĐ khác thì có thể sẽ gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho NSDLĐ đã dùng họ, đặc biệt nếu NSDLĐ khác này lại là một đối thủ cạnh tranh của NSDLĐ ban đầu trong cùng lĩnh vực sản xuất, kinh doanh.

Thực tiễn vận dụng quy định tại khoản 2 Điều 23 BLLĐ 2012, khi ký kết HĐLĐ nhất là NSDLĐ là nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh mà một bên đối tác là nước ngoài, khi thuê mướn lao động yêu cầu NLĐ ký một thỏa thuận không được cạnh tranh. Theo đó, NLĐ không được tiết lộ bí mật công nghệ; bí mật kinh doanh;…kể cả việc lợi dụng sự quen biết khách hàng, hay lợi dụng sự huấn luyện đặc biệt của NSDLĐ trước đó để làm việc cho doanh nghiệp cạnh tranh hoặc chính bản thân họ cạnh tranh với NSDLĐ cũ, hoặc cam kết không làm việc cho doanh nghiệp cạnh tranh trong quá trình thực hiện hợp đồng dưới bất kỳ hình thức nào. Như vậy, sự tồn tại của thỏa thuận này là để yêu cầu NLĐ không được làm việc cho doanh nghiệp cạnh tranh trong khi đang thực hiện HĐLĐ hoặc sau khi chấm dứt HĐLĐ, hoặc chính bản thân NLĐ không được cạnh tranh với doanh nghiệp mà mình đã từng phục vụ. Nghiên cứu điều khoản quy định về giữ gìn bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh của nhiều HĐLĐ cho thấy, điểm giống nhau cơ bản, đó là, luôn được giới hạn trong thời gian, không gian, một số loại công việc nhất định và kể cả trách nhiệm bồi thường trong trường hợp NLĐ vi phạm, nhưng cũng không ít những điểm khác biệt nổi lên, đó là, thời gian, không gian “bảo mật” không tuân theo một giới hạn cố định nào; trách nhiệm bồi thường của NLĐ trong trường hợp vi phạm cam kết cũng không theo khuôn mẫu nào và đặc biệt nghĩa vụ của NSDLĐ phải thực hiện để đổi lấy sự cam kết của NLĐ về nội dung này lại không được đề cập đến!

Quy định giữ gìn bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh với bản chất như đã nêu trên có thể thấy, là một sự bảo vệ rất tốt cho quyền lợi của NSDLĐ. Tuy nhiên, một cách gián tiếp nó gây ra những trở ngại, mất mát cũng rất quan trọng cho quyền được tự do làm việc, lựa chọn việc làm của NLĐ theo quy định của pháp luật hiện đại.

Tại khoản 3 Điều 50 BLLĐ 2012 quy định: “Trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ nội dung của hợp đồng lao động quy định quyền lợi của người lao động thấp hơn quy định trong pháp luật về lao động, nội quy lao động, thoả ước lao động tập thể đang áp dụng hoặc nội dung của hợp đồng lao động hạn chế các quyền khác của người lao động thì một phần hoặc toàn bộ nội dung đó bị vô hiệu.”. Vậy so với quy định tại khoản 2 Điều 23 BLLĐ 2012, hai quy định này có mâu thuẫn nhau không? Theo quan điểm nghiên cứu của tác giả, khoản 2 Điều 23 BLLĐ 2012 là một trường hợp ngoại lệ của khoản 3 Điều 50 BLLĐ 2012. Có nghĩa là nếu có thỏa thuận về trách nhiệm phải bảo vệ bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh của NSDLĐ bằng cách hạn chế một số các quyền của NLĐ thì điều khoản này không thể vô hiệu. Nếu không, quy định mới ở Điều 23 BLLĐ 2012 là quy định không thể áp dụng được. Như vậy, hiểu quy định về khoản 2 Điều 23 BLLĐ 2012 như thế nào cho đúng nhằm dung hòa lợi ích giữa NSDLD với NLĐ khi tham gia ký kết HĐLĐ?

Theo quan điểm của tác giả, quyền lợi và nghĩa vụ trong quan hệ dân sự luôn đi liền với nhau, quyền của bên này đồng thời là nghĩa vụ của bên kia. NSDLĐ khi xây dựng điều khoản trong HĐLĐ để bảo vệ quyền lợi của mình phải theo hướng dung hòa với quyền lợi của NLĐ. Có nghĩa là, để đổi lại với những hạn chế nhất định về việc phải giữ bí mật, NLĐ phải được hưởng những quyền lợi nhất định cụ thể nào đó và cả trách nhiệm bồi thường trong trường hợp không thực hiện được cam kết. Cụ thể,  các bên có thể thỏa thuận về điều khoản “cấm cạnh tranh” như sau:

Về nghĩa vụ của NLĐ: NLĐ cam kết không tiết lộ bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh của NSDLĐ ngay cả sau khi chấm dứt HĐLĐ, cam kết không làm việc cho các doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực, trong giới hạn thời gian và không gian nhất định, cam kết không sử dụng các bí mật công nghệ, kinh doanh để tiến hành các hoạt động nghề nghiệp tự do của mình. Nếu NLĐ vi phạm cam kết phải chịu trách nhiệm bồi thường bằng khoản tiền tương ứng từ 30% đến 50% của 12 tháng tiền lương trước khi NLĐ thôi việc.

Về nghĩa vụ của NSDLĐ: NSDLĐ phải giành cho NLĐ những ưu đãi nhất định, ví dụ trả một khoản tiền ngoài lương cho việc giữ bí mật của NLĐ.

Có thể thấy khoản 2 Điều 23 BLLĐ 2012 là một quy định mở, nó cho phép NLĐ có quyền lựa chọn giữa hai khả năng, một là, tôn trọng cam kết để nhận được những lợi ích nhất định, hai là, phá vỡ cam kết và bồi thường. Trong sự tính toán cân nhắc giữa các lợi ích được và mất, tùy từng bối cảnh cụ thể, NLĐ có thể lựa chọn giải pháp phù hợp cho riêng mình.

Kiến nghị

Từ thực tế trên, để đảm bảo cân bằng lợi ích của các bên trong quan hệ lao động, việc áp dụng quy định giữ gìn bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh phải được thiết lập với những giới hạn nhất định. Các giới hạn này có thể bao gồm:

Thứ nhất, giới hạn về những trường hợp áp dụng quy định giữ gìn bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh. Trên thực tế, áp dụng quy định này sẽ là ràn buộc,  hạn chế nhất định quyền của NLĐ trong cơ hội việc tìm việc làm theo nghề nghiệp của mình sau này. Do đó, chỉ nên áp dụng một cách có giới hạn với những đối tượng NLĐ đặc thù. Cụ thể, chỉ áp dụng đối với những đối tượng NLĐ làm việc trực tiếp trong các lĩnh vực có tiếp xúc với các bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh, như: Nhân viên bán hàng, nhân viên quản lý và điều hành, luật sư, kế toán, nhân viên kỹ thuật, nhân viên y tế, luật sư, ca sĩ, người mẫu thời trang,…Ví dụ: Đối với nhân viên quản lý hay điều hành thì phạm vi thỏa thuận không được cạnh tranh rộng hơn, như: cấm dụ dỗ khách hàng, tiết lộ bí mật thương mại, tham gia quyết định quản lý cho nhà cạnh tranh, quan hệ sở hữu chứng khoán trong công ty cạnh tranh… Nói chung, giám đốc hay những nhà quản lý khác có thâm niên là những người tìm kiếm hoặc bị thu hút bởi những cơ hội hợp tác để cạnh tranh với công ty mà họ đã từng phục vụ; Luật sư hay nhân viên tài chính: thỏa thuận cấm cạnh tranh đối với hai nghề này bị chi phối rất lớn bởi sự tín nhiệm và sự lựa chọn của khách hàng;… Để làm được điều này cần có giới hạn những công việc nào là những công việc có liên quan đến bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh.

Thứ hai, sau khi chấm dứt HĐLĐ, vấn đề thông thường được đặt ra là “cái gì” thuộc về NLĐ và “cái gì” là thuộc về NSDLĐ. Nhưng phức tạp nhất vẫn là những tranh chấp liên quan đến tài sản vô hình, như: i) Thông tin về các quy trình sản xuất hay khách hàng; ii) Ý tưởng sáng tạo của NLĐ được cấp bản quyền hay bằng sáng chế; iii) Sự thần tượng của công chúng biểu hiện ở chỗ tính cách của NLĐ được coi như là một phần của sản phẩm, dịch vụ khi đưa ra thị trường. Nói chung, NSDLĐ cho rằng NLĐ không thể sáng tạo được những tài sản đó nếu không có sự đầu tư về vốn và quản lý của họ. Ngược lại, NLĐ cho rằng đó chính là tài năng và công sức mà họ bỏ ra để duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Chẳng hạn, NLĐ và NSDLĐ thường có tranh chấp liên quan đến việc xác định ai là người có quyền giữ quyền tác giả hoặc quyền sở hữu đối với sản phẩm trí tuệ được tạo nên trong quá trình lao động như: sáng chế, giải pháp hữu ích, mẫu mã hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp hay nhãn hiệu hàng hóa. Về nguyên tắc chung đặt ra là người có quyền giữ quyền tác giả đối với sản phẩm chính là tác giả hay đồng tác giả của sản phẩm đó. Tuy nhiên, sự loại trừ được đặt ra trong trường hợp sản phẩm được tạo nên bởi sự thuê mướn.Tác giả là NLĐ làm việc theo HĐLĐ, hoặc theo hợp đồng nghiên cứu và phát triển nhưng NSDLĐ là người có quyền nộp đơn xin cấp văn bằng bảo hộ hoặc bằng sáng chế đối với sản phẩm đó trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Trong trường hợp này chủ sở hữu và tác giả là khác nhau. Nhưng không phải trong mọi trường hợp đều đơn giản như vậy, việc xác định sản phẩm được tạo nên trên cơ sở thuê mướn lao động yêu cầu tính cách hóa mối quan hệ giữa tác giả và người ủy quyền, đó là mối quan hệ giữa chủ và thợ, ở đó có những yếu tố cần phải được xem xét cụ thể như sau: Mức độ kiểm soát mà NSDLĐ có thể thực hiện đối với chi tiết của tác phẩm; NLĐ có được tham gia vào một công việc rõ ràng hay không; Công việc đó có luôn được hướng dẫn bởi NSDLĐ hay một chuyên gia không; Kỹ năng yêu cầu trong nghề nghiệp; NSDLĐ có cung cấp phương tiện, công cụ, nơi làm việc cho người thực hiện công việc đó không; Thời gian được thuê mướn; Cách thức trả tiền, theo thời gian hay theo công việc; Tác phẩm được tạo nên có là một phần hoạt động thường lệ của NSDLĐ không; Chi phí cho việc tạo nên tác phẩm có nằm trong chi phí sản xuất, kinh doanh hay không. Do đó, để tránh những tranh chấp phát sinh, thiết nghĩ cơ quan nhà nước có thẩm quyền nghiên cứu ban hành hướng dẫn cụ thể nội dung này.

Thứ ba, cần cụ thể hóa nội dung quy định tại khoản 2 Điều 23 BLLĐ 2012 thành những nội dung cụ thể, như:  

– NLĐ tiết lộ bí mật công nghệ, kinh doanh thì có thể bị sa thải;

– NLĐ là lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao tiết lộ bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh thì phải bồi thường theo chế độ trách nhiệm vật chất;

– NLĐ phải có trách nhiệm bồi thường phí đào tạo trong trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng;

– Cấm hành vi lôi kéo, mua chuộc nhân viên hoặc khách hàng của thương nhân khác;…

Thứ tư, giới hạn về thời gian và không gian mà NLĐ chịu sự giới hạn của cam kết. Ưu tiên cho sự thỏa thuận giữa NSDLĐ với NLĐ. Tuy nhiên, nếu trường hợp giữa các bên không thể thỏa thuận được thì pháp luật cũng cần quy định mức giới hạn tối đa áp dụng cho từng nhóm đối tượng. Có như vậy mới vừa  bảo vệ quyền lợi của NSDLĐ đồng thời cũng không làm thiệt thòi quá mức quyền lợi của NLĐ.

Thứ năm, trên cơ sở quy định của luật, khi điều khoản quy định áp dụng giữ gìn bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh có hiệu lực thì NLĐ có nghĩa vụ phải thi hành. Nếu NLĐ vi phạm, người chủ cũ có quyền khởi kiện tại Tòa án và NLĐ bị buộc phải bồi thường thiệt hại hoặc phải trả một khoản tiền mà hai bên đã thỏa thuận trước trong hợp đồng. Trước tính cấp thiết đó, thiết nghĩ pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này cần có quy định tương ứng, cần dự liệu về cơ chế tố tụng để thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của NSDLĐ cũng là một vấn đề cần quan tâm trong việc xây dựng các hướng dẫn thi hành trong lĩnh vực này. Cụ thể, đó là việc kiện yêu cầu bồi thường trong dân sự hay bồi thường trong quan hệ lao động đặc thù hay kết hợp cả hai, vừa sử dụng cơ chế của bồi thường thiệt hại trong dân sự, vừa sử dụng các quy tắc đặc thù trong quan hệ lao động. Sự  minh bạch, rõ ràng sẽ giúp cho các chủ thể, nhất là NSDLĐ có thể thực hiện quyền của mình một cách thuận lợi. Mặt khác, giới hạn cho sự tồn tại của một HĐLĐ chưa hết hiệu lực. Tình trạng này không cho phép NLĐ cùng một lúc có thể ký một hợp đồng thứ hai với NSDLĐ khác. Cho nên, nếu NLĐ tự ý nghỉ việc, đối với hợp đồng xác định thời hạn, mà không viện dẫn được sự kiện bất khả kháng hay lỗi của NSDLĐ thì phải bồi thường trừ hợp đồng không xác định thời hạn. Trách nhiệm liên đới bồi thường cũng được xác định nếu NSDLĐ cũ có chứng cứ chứng minh được rằng: NSDLĐ mới đã tham gia vào việc xúi giục NLĐ nghỉ việc; NSDLĐ mới biết rõ là NLĐ còn bị ràng buộc bởi HĐLĐ đang có hiệu lực mà vẫn thuê mướn, thì trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cũng cần đặt ra đối với NSDLĐ mới, nhất là đối với những khoản chi phí thực tế mà NSDLĐ cũ bỏ ra để đào tạo hoặc huấn luyện đặc biệt cho NLĐ để thực hiện công việc.

Tóm lại, việc ghi nhận và cho phép đưa vào HĐLĐ điều khoản giữ gìn bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ là điểm tiến bộ của pháp luật lao động. Tuy nhiên, đây là một quy định mới chỉ dừng lại ở “khung” nên rất cần sự hướng dẫn cụ thể để có thể áp dụng, phục vụ cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan trong hợp đồng.



Phạm Thị Hồng Đào

Văn phòng luật sư Thạnh Hưng



[1]Điều 23. Nội dung hợp đồng lao động

1. Hợp đồng lao động phải có những nội dung chủ yếu sau đây:

a) Tên và địa chỉ người sử dụng lao động hoặc của người đại diện hợp pháp;

b) Họ tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, địa chỉ nơi cư trú, số chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ hợp pháp khác của người lao động;

c) Công việc và địa điểm làm việc;

d) Thời hạn của hợp đồng lao động;

đ) Mức lương, hình thức trả lương, thời hạn trả lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác;

e) Chế độ nâng bậc, nâng lương;

g) Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi;

h) Trang bị bảo hộ lao động cho người lao động;

i) Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế;

k) Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề.

2. Khi người lao động làm việc có liên quan trực tiếp đến bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ theo quy định của pháp luật, thì người sử dụng lao động có quyền thỏa thuận bằng văn bản với người lao động về nội dung, thời hạn bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, quyền lợi và việc bồi thường trong trường hợp người lao động vi phạm.

3. Đối với người lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp thì tùy theo loại công việc mà hai bên có thể giảm một số nội dung chủ yếu của hợp đồng lao động và thỏa thuận bổ sung nội dung về phương thức giải quyết trong trường hợp thực hiện hợp đồng chịu ảnh hưởng của thiên tai, hoả hoạn, thời tiết.

4. Nội dung của hợp đồng lao động đối với người lao động được thuê làm giám đốc trong doanh nghiệp có vốn của Nhà nước do Chính phủ quy định.

[2]Điều 21. Giao kết hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động

Người lao động có thể giao kết hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động, nhưng phải bảo đảm thực hiện đầy đủ các nội dung đã giao kết.

Trong trường hợp giao kết hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động, việc tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của người lao động được thực hiện theo quy định của Chính phủ.

 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số vấn đề về chủ thể tham gia đấu giá quyền sử dụng đất

07/10/2015

Đấu giá quyền sử dụng đất để Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất là một trình tự gồm nhiều giai đoạn với nhiều thủ tục khác nhau, nhiều quan hệ đan xen, nên việc xác định chủ thể tham gia quan hệ đấu giá quyền sử dụng đất cũng như xác định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể này là một vấn đề phức tạp. Chủ thể của quan hệ pháp luật đấu giá quyền sử dụng đất trước hết phải đáp ứng đầy đủ tư cách chủ thể pháp luật. Các chủ thể đó có thể là Nhà nước, tổ chức, cá nhân và các chủ thể khác; về tổng thể bao gồm: Bên có quyền sử dụng đất, bên tham gia đấu giá quyền sử dụng đất và bên tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất.

Hiện nay, pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất ở nước ta quy định bên tham gia đấu giá quyền sử dụng đất là tổ chức, cá nhân phải đáp ứng các điều kiện theo luật định:

Một là, bên tham gia đấu giá phải thuộc đối tượng được Nhà nước giao đất theo hình thức có thu tiền sử dụng đất hoặc Nhà nước cho thuê đất

Theo quy định tại Điều 55 Luật Đất đai năm 2013, Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất trong các trường hợp sau đây: (i) Hộ gia đình, cá nhân được giao đất ở; (ii) Tổ chức kinh tế được giao đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê; (iii) Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được giao đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê; (iv) Tổ chức kinh tế được giao đất thực hiện dự án đầu tư hạ tầng nghĩa trang, nghĩa địa để chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn với hạ tầng.

Quy định như trên về cơ bản là phù hợp với mục đích sử dụng các loại đất và phù hợp với cơ chế tài chính trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội theo quy định của pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, về vấn đề này cũng cần đặt ra một số điểm luận bàn sau đây:

Thứ nhất, nếu theo quy định tại Điều 55 Luật Đất đai năm 2013 thì một trong những đối tượng được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất thông qua đấu giá là các tổ chức kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế, ngoài các tổ chức kinh tế còn rất nhiều loại tổ chức khác như tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức sự nghiệp dân lập… Vậy những tổ chức đó có thuộc đối tượng tham gia đấu giá quyền sử dụng đất để được Nhà nước giao đất không? Vấn đề này hiện nay chưa được quy định cụ thể trong pháp luật đất đai, cũng như pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất hiện hành.

Thứ hai, chủ thể của các quan hệ pháp luật đất đai có thể là các tổ chức, cá nhân trong nước hoặc các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Tuy nhiên, khác với nhiều quan hệ pháp luật khác, đối với quan hệ pháp luật đất đai, pháp luật quốc gia của hầu hết các nước trên thế giới đều có những quy định hạn chế quyền tham gia của các tổ chức, cá nhân nước ngoài trong một số trường hợp nhất định nhằm bảo đảm an ninh, lợi ích quốc gia, dân tộc. Hiện nay, chúng ta đang tiếp tục thực thi chính sách mở cửa với nhiều ưu đãi cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài trong sử dụng đất. Mặc dù vậy, pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất còn thiếu những quy định cụ thể về vấn đề này. Bên cạnh đó, tại nhiều địa phương khi tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất, có quan điểm cho rằng, tổ chức, cá nhân nhà đầu tư nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài về nước làm ăn, sinh sống có thể tham gia đấu giá quyền sử dụng đất. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng, cần phải có những hạn chế đối với những đối tượng này, theo họ, người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam bị hạn chế quyền sử dụng đối với một số loại đất, vị trí đất so với các chủ thể là các tổ chức, cá nhân trong nước. Do có những quan điểm khác nhau như vậy nên hầu hết các tỉnh, thành phố khi tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất, trong các quy chế đấu giá quyền sử dụng đất đều còn hạn chế về vấn đề này.

Vì vậy, một câu hỏi được đặt ra là, các đối tượng này có được tham gia đấu giá quyền sử dụng đất để được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hay không? Trường hợp được tham gia đấu giá thì cần phải có các điều kiện gì và được tham gia đấu giá trong những trường hợp nào? Đây là một bài toán cần có câu trả lời hữu hiệu khi hoạt động đấu giá quyền sử dụng đất có liên quan tới sự điều chỉnh của pháp luật ở các lĩnh vực khác như đầu tư, chứng khoán… Không chỉ xây dựng các thiết chế pháp luật ở lĩnh vực đấu giá quyền sử dụng đất mà cần phải bảo đảm thực hiện minh bạch, hiệu quả, hạn chế sự xung đột pháp luật và phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội vùng miền và thông lệ quốc tế.

Hai là, các tổ chức, cá nhân phải có nhu cầu sử dụng đất và đáp ứng đủ các điều kiện về vốn, kỹ thuật và năng lực tài chính

Căn cứ để Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất được quy định tại Điều 52 Luật Đất đai năm 2013: (1) Kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; (2) Nhu cầu sử dụng đất thể hiện trong dự án đầu tư, đơn xin giao đất, thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất.

Theo quy định này thì nhu cầu sử dụng đất là một căn cứ quan trọng để Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất. Nhà nước chỉ giao đất hoặc cho thuê đất khi các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu sử dụng đất, có khả năng sử dụng đất đúng mục đích mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã phê duyệt và nhu cầu đó được thể hiện trong dự án đầu tư, trong đơn xin giao đất, cho thuê đất.

Do đó, sự điều chỉnh của pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất để Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất cũng cần phải đáp ứng yêu cầu này. Trong các quy định về điều kiện để được tham gia đấu giá cũng như hồ sơ xác định tư cách người tham gia đấu giá của các quy chế đấu giá hiện hành không quy định về vấn đề này mà chỉ quy định điều kiện về vốn và kỹ thuật (đối với tổ chức) hoặc khả năng tài chính (đối với hộ gia đình, cá nhân) khi tham gia đấu giá. Việc quy định điều kiện về vốn, kỹ thuật hoặc khả năng tài chính và nguồn tài chính để tham gia đấu giá là cần thiết, bởi đấu giá quyền sử dụng đất là hình thức tìm kiếm khả năng tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước và làm cơ sở để Nhà nước định giá đất sát với giá trị thực của đất đai được chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường. Hơn nữa, đại diện chủ sở hữu là Nhà nước không thể để các tổ chức thuộc quyền lấy tiền của mình để mua tài sản do chính mình bán ra. Tuy nhiên, nhu cầu sử dụng đất có phải là điều kiện bắt buộc khi tham gia đấu giá quyền sử dụng đất hay không là một vấn đề cần được quy định cụ thể được xuất phát từ những yêu cầu sau: (i) Nếu nhu cầu sử dụng đất không phải là điều kiện bắt buộc thì có thể dẫn đến tình trạng, sau khi phiên đấu giá kết thúc, người trúng đấu giá được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất, vì không có nhu cầu thực sự về sử dụng đất, nên họ tìm mọi cách để chuyển nhượng lại hoặc cho thuê lại quyền sử dụng đất cho người khác để hưởng địa tô chênh lệch hoặc đầu cơ đất đai; (ii) Hệ lụy là nhiều dự án đấu giá quyền sử dụng đất đã trở thành dự án treo kéo dài nhiều năm, đất đai không được đưa vào sử dụng, bỏ hoang hoá, gây lãng phí. Vì vậy, pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất cần thiết phải quy định các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân muốn tham gia đấu giá phải chứng minh được nhu cầu sử dụng đất thực tế của họ. Và nhu cầu sử dụng đất như là một trong những điều kiện có tính bắt buộc để xác định tư cách người tham gia đấu giá.

Ba là, người tham gia đấu giá không thuộc trường hợp bị pháp luật cấm tham gia đấu giá

Những người không được tham gia đấu giá quyền sử dụng đất được quy định tại Điều 30 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản. Trong đó, đáng lưu ý là bao gồm cả “người làm việc trong tổ chức bán đấu giá tài sản, nơi thực hiện bán đấu giá tài sản đó, cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị em ruột của người đó”. Những đối tượng này sẽ không được đấu giá quyền sử dụng đất mặc dù họ có nhu cầu thực sự. Trên thực tế, có nhiều địa phương chỉ có duy nhất một tổ chức đấu giá chuyên nghiệp hoặc tổ chức định giá tài sản, thì với quy định này sẽ hạn chế quyền sử dụng hợp pháp tài sản của họ; đồng thời, dẫn đến tình trạng những người thuộc trường hợp trên phải nhờ người khác tham gia đấu giá quyền sử dụng đất mà pháp luật không thể kiểm soát được.

Vì vậy, nên chăng pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất cần thiết phải quy định để các đối tượng trên khi có nhu cầu cũng được tham gia đấu giá, song phải bảo đảm không được lợi dụng để trục lợi nhu cầu cá nhân.

Tóm lại, quy định của pháp luật hiện nay về đấu giá quyền sử dụng đất đã bộc lộ một số bất cập như đã phân tích. Vì vậy, để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp đối với các chủ thể trong hoạt động đấu giá quyền sử dụng đất, thì cần tạo hành lang pháp lý cho các chủ thể khi tham gia hoạt động đấu giá quyền sử dụng đất bảo đảm minh bạch và bình đẳng trước pháp luật.

Nguyễn Minh Tâm

Phó Giám đốc Sở Tư pháp Quảng Bình

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quy định của Hiến pháp và pháp luật về bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán

28/10/2014

Không phải cho tới thời kỳ đương đại, chúng ta mới bàn về nguyên tắc “Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, mà trong lịch sử, nguyên tắc này đã được đề cập tại Bộ luật Hồng Đức. Điều 672 Bộ luật này quy định: “Các quan kể trên phải xét xử cho công bằng và đúng pháp luật”. Điều 720 cũng qui định: “Không ai được cố chấp ý riêng mình, bắt mọi người phải tuân theo”. Tuy nhiên, đấy chỉ mới là những manh nha của nguyên tắc xét xử độc lập. Tính độc lập của Thẩm phán chính là sự gắn kết tuyệt đối các Thẩm phán với luật pháp. Tính độc lập của Thẩm phán sẽ bảo vệ quyền lực tư pháp trước sự can thiệp từ phía lập pháp, hành pháp cũng như các tổ chức khác trong xã hội. Montesquieu cho rằng, quyền lực nào cũng bị đe dọa lạm dụng, như vậy, người nào cũng có xu thế lạm dụng quyền lực mình đang có trong tay, cho tới khi chạm phải rào cản. Với quyền lực tư pháp, Montesquieu chủ trương khi xét xử Thẩm phán không cần nhận chỉ thị từ đâu, mà chỉ tuân thủ luật pháp. Khi giải thích, áp dụng các chuẩn mực, Thẩm phán không cần phải theo ý kiến đa số và cần hành động dựa vào pháp luật và niềm tin nội tâm. Đề cao tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Xirêon – một luật sư và là nhà hùng biện nổi tiếng La mã cổ đại đã từng nói: “Quan toà là một đạo luật biết nói, còn đạo luật là một vị quan toà câm”.

Về lý luận cũng như thực tiễn cho thấy, hoạt động của bộ máy nhà nước sẽ mất đi những giá trị xã hội to lớn của nó nếu tính độc lập của Thẩm phán không được đảm bảo. Sự vi phạm nguyên tắc này dẫn đến sự lạm dụng quyền lực, sư thoái hóa của quyền lực và xã hội dĩ nhiên sẽ gánh chịu những hậu quả to lớn của tình trạng này.

1. Thực trạng quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam về bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán

Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật được Hiến pháp và pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác định là một nguyên tắc hiến định và được ghi nhận trong các bản Hiến pháp cũng như được thể chế trong các đạo luật về tổ chức Tòa án – cơ quan xét xử, cũng như các đạo luật về tố tụng của Nhà nước Việt Nam. Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của nền dân chủ cộng hòa – Hiến pháp năm 1946, thìĐiều thứ 69 đã trang trọng ghi nhận: “Trong khi xét xử, các viên Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp”. Hiến pháp năm 1959, nguyên tắc này được quy định ở Điều 100: “Khi xét xử, Toà án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Hiến pháp năm 1980 ghi nhận ở Điều 131: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Đến Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi bổ sung năm 2001) thì nguyên tắc này được ghi nhận ở Điều 130: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.

Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 28/11/2013 đã kế thừa những thành tựu lập hiến của các bản Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, đồng thời, tiếp thu những tư tưởng mới về Nhà nước pháp quyền cũng như thực tiễn công cuộc đổi mới và hội nhập của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay. Theo Hiến pháp năm 2013, hệ thống tổ chức của Tòa án nhân dân cũng có những thay đổi theo tinh thần cải cách tư pháp với quy định gồm: Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định. Như vậy, theo quy định này, thì hệ thống Tòa án được tổ chức theo cấp xét xử không phụ thuộc vào địa giới hành chính như theo quy định của Hiến pháp năm 1992, góp phần bảo đảm cho tính khả thi của nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, xử lý các vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp pháp lý. Để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ đó, Tòa án nhân dân được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc mang tính đặc thù. Và một điều đặc biệt, khác với Quốc hội, Chính phủ và chính quyền địa phương, các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân được hiến định cụ thể tại Điều 103 Hiến pháp. Hiến pháp năm 2013 kế thừa, phát triển một số nguyên tắc đã được các bản Hiến pháp trước đây quy định.

Các nguyên tắc như xét xử có Hội thẩm tham gia, nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, nguyên tắc xét xử công khai, xét xử tập thể, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được tiếp tục ghi nhận và phát triển ở mức cao hơn, chính xác hơn.

Quan trọng nhất, việc Hiến pháp quy định nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm là một bảo đảm hiến định quan trọng cho việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử. Trong quy định các nguyên tắc này, Hiến pháp năm 2013 có quy định các trường hợp ngoại lệ đối với một số nguyên tắc để bảo đảm việc áp dụng mềm dẻo, linh hoạt và có hiệu quả trên thực tế. Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 bổ sung một số nguyên tắc mới thể hiện tinh thần đổi mới trong cải cách tư pháp ở nước ta, phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là một bảo đảm quan trọng giúp cho việc xét xử toàn diện, khách quan, bảo đảm quyền con người, quyền tố tụng của những người tham gia tố tụng, hạn chế thấp nhất các trường hợp oan sai trong hoạt động tố tụng tư pháp nói chung, trong xét xử của Tòa án nói riêng.

Có thể khẳng định, việc đặt ra yêu cầu tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính là một chủ trương đúng đắn và để bảo đảm nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa án. Độc lập xét xử là một yêu cầu cao nhất thuộc quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền. Khi hình thành quyết định giải quyết vụ việc, người có thẩm quyền xét xử chỉ dựa vào tình tiết khách quan của vụ việc trên cơ sở pháp lý và tư duy của mình để ra quyết định mà không bị chi phối bởi các yếu tố bên ngoài nào khác.

Đối với nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập, các quy định của Hiến pháp năm 2013 đã minh định một cách cụ thể hơn so với các bản Hiến pháp trước đây. Nếu như Hiến pháp năm 1992 quy định: “Khi xét xử Thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, thì Hiến pháp năm 2013 quy định cụ thể, sâu sắc hơn: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, hội thẩm”. Như vậy, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập xét xử là độc lập trong mọi hoạt động của mình theo quy định của pháp luật tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi kết thúc phiên tòa xét xử, chứ không chỉ giới hạn bởi “khi xét xử”. Cụm từ “nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, hội thẩm” trong công tác xét xử cũng là bảo đảm cho nguyên tắc này phải được thực thi trong thực tiễn xét xử.

Trên thực tế, ngoài mối quan hệ với cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân còn mối quan hệ với các luật sư, các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội. Trong rất nhiều trường hợp, Thẩm phán, hội thẩm nhân dân bị ảnh hưởng, tác động từ phía luật sư, các tổ chức, cá nhân, các cơ quan nhà nước, làm sai lệch quá trình tố tụng, ảnh hưởng không ít tới hoạt động tố tụng nhằm hướng tới việc xét xử có lợi cho mình. Do đó, Thẩm phán phải luôn ý thức được rằng, mình là người phải chịu trách nhiệm về nội dung, về tính công minh của bản án. Vì thế, Thẩm phán phải có bản lĩnh và phải đứng vững trước những tác động từ các yếu tố bên ngoài. Như vậy, xét từ những yếu tố bên ngoài thì nguyên tắc: “Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” không cho phép bất cứ ai, cơ quan nhà nước nào can thiệp vào việc xét xử của Tòa án dưới bất cứ lý do nào. Chính nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đã nâng cao trách nhiệm của các Thẩm phán, buộc họ nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, chủ động nghiên cứu mọi tình tiết của vụ án, không bị lệ thuộc vào những lý do của những người tham gia tố tụng hay những kết luận của viện kiểm sát đưa ra.

Nguyên tắc Thẩm phán độc lập khi xét xử không chỉ được thực hiện trong việc đánh giá chứng cứ, mà cả trong thẩm vấn, tranh luận trước phiên tòa và việc ra bản án, quyết định. Hiện tại, còn rất nhiều hạn chế, bất cập trong việc đảm bảo tính độc lập của Thẩm phán. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho hoạt động xét xử của các Thẩm phán thiếu khách quan. Những hạn chế, bất cập này tồn tại trong cả nhận thức lẫn trong thực tiễn tổ chức thực hiện hoạt động xét xử. Có khá nhiều sự lẫn lộn giữa các cơ quan tiến hành tố tụng làm ảnh hưởng đến tính độc lập của Thẩm phán. Điều này liên quan trước hết đến chức năng điều tra, truy tố và xét xử. Một số các nhà nghiên cứu có quan điểm rằng, hiện nay, ở Việt Nam mặc dù nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử của Thẩm phán được đề cao, nhưng địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia hoạt động tố tụng nhìn chung chưa được xác định một cách thoả đáng. Trong tố tụng, nhất là tố tụng hình sự có sự tham gia của hai chủ thể gần như đối lập nhau là bên bị buộc tội và bên buộc tội. Trong quan hệ tố tụng, Thẩm phán là hành động như một người đứng giữa để phân xử đúng sai nhân danh Nhà nước. Địa vị của Thẩm phán phải khác với bên buộc tội hay bên gỡ tội. Cách tiếp cận phổ biến của các cơ quan tiến hành tố tụng hiện nay là bên bị buộc tội bị coi như là bên đã có tội rồi. Cách ăn mặc, cách xưng hô, sự đối xử đối với bên bị buộc tội gần như tạo ra tâm lý là đã ra công đường đương nhiên có tội… Trong khi đó, pháp luật quy định rất rõ rằng, mọi công dân chỉ coi là có tội khi có một bản án của Tòa án có thẩm quyền và đã có hiệu lực.

Như vậy, sự độc lập của Thẩm phán trong hoạt động xét xử đòi hỏi Thẩm phán phải có trách nhiệm xét xử đúng pháp luật, phải ngăn chặn được sự lạm dụng địa vị pháp lý trong quan hệ tố tụng. Cho nên, pháp luật về tố tụng cần có những quy định cụ thể hơn về địa vị pháp lý của các cơ quan tham gia tố tụng, trong đó, có sự quán triệt giả định vô tội trong thiết kế các quy trình thủ tục tố tụng. Trong quan hệ tố tụng có nhiều chủ thể tham gia với ba xu hướng rất rõ ràng: Buộc tội; Gỡ tội và Xét xử. Mỗi xu hướng thường được hiện thực hóa với nhưng quy trình, thủ tục và yêu cầu đặc trưng. Ba xu hướng này phải được tôn trọng và được đảm bảo độc lập thực sự.

Xét ở khía cạnh này, một số quy định của pháp luật hiện hành chưa thực sự đảm bảo được yêu cầu về tính độc lập. Ví dụ, khoản 1 Điều 104 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới mới cần điều tra”. Quy định này đã khiến cho Thẩm phán vừa có chức năng xét xử, vừa có chức năng buộc tội. Quyết định khởi tố vụ ánh hình sự là khởi đầu cho hoạt động buộc tội. Tương tự, khi nghiên cứu kỹ các quy định của pháp luật hiện hành thì có thể thấy về hình thức có gì mâu thuẫn với yêu cầu về tính độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa án. Tuy nhiên, phân tích kỹ về nội dung chúng ta có thể thấy một số những yếu tố có khả năng làm ảnh hưởng tới tính khách quan, vô tư của Thẩm phán. Ví dụ, Điều 176 Bộ luật Tố tụng hình sự: “Tòa án chỉ đưa vụ án ra xét xử khi có đủ điều kiện cần thiết nếu Tòa án cho rằng có đủ cơ sở để chứng minh tội phạm và người phạm tội”. Quy định này xem ra đã tạo cho Thẩm phán quyền quyết định khá lớn. Thực tế cho thấy, việc đưa vụ án ra xét xử phải được coi là một thủ tục và vì thế phải đảm bảo chính xác yếu tố thời hạn. Thẩm phán phải đưa vụ án ra xét xử trong phạm vi thời hạn theo qui định của pháp luật. Còn việc vụ án có đủ cơ sở hay không, có thể được làm rõ tại phiên tòa với sự tham gia của các bên trong quan hệ tố tụng.

Độc lập với các yếu tố bên ngoài là khi nghiên cứu hồ sơ cũng như khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không bị phụ thuộc vào kết luận điều tra của cơ quan điều tra, không bị lệ thuộc vào cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Quá trình nghiên cứu hồ sơ và tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phải xem xét, thẩm tra đánh giá chứng cứ và các tình tiết khác của vụ án một cách thận trọng, tỉ mỉ, khoa học, toàn diện, kể cả chứng cứ có trong hồ sơ và chứng cứ tại phiên tòa. Bản án của Tòa án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa. Khoản 3 Điều 222 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Khi nghị án chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa”.

Độc lập với các yếu tố bên trong là khi xét xử, các thành viên của Hội đồng xét xử độc lập với nhau trong việc nghiên cứu hồ sơ, xem xét đánh giá chứng cứ và đưa ra kết luận sự việc phạm tội, người phạm tội, mức hình phạt mà không bị phụ thuộc vào quan điểm của các thành viên khác trong Hội đồng xét xử. Chỉ có thành viên của Hội đồng xét xử mới được tham gia nghị án. Hội thẩm nhân dân biểu quyết trước, Thẩm phán là người biểu quyết sau cùng. Các vấn đề của vụ án phải được giải quyết bằng biểu quyết và quyết định theo đa số. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được lưu trong hồ sơ vụ án.

Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập không có nghĩa là xét xử tùy tiện mà độc lập trong khuôn khổ pháp luật. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải dựa vào các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án, chứ không được áp đặt ý chí chủ quan của mình. Điều này đòi hỏi có tính chất bắt buộc đối với Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ và ràng buộc với nhau. Độc lập là điều cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử. Tuân theo pháp luật là cơ sở không thể thiếu để Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập khi xét xử. Nếu chỉ độc lập mà không tuân theo pháp luật thì dễ dẫn đến xét xử tùy tiện.

2. Những yếu tố cơ bản bảo đảm độc lập xét xử của Thẩm phán

Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân được Nhà nước giao trọng trách đảm bảo công lý. Thẩm phán có trách nhiệm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, vì vậy, rất cần những vị “quan tòa” dũng cảm, công bằng, tôn trọng sự thật khách quan và độc lập chỉ tuân theo pháp luật trong khi xét xử.Các yếu tố cơ bản để bảo đảm sự độc lập trong xét xử của Thẩm phán bao gồm:

2.1. Tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán

Chế độ tiến cử, tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán có ý nghĩa quan trọng đối với sự độc lập của Thẩm phán. Một quy trình đề cử và tuyển chọn tốt sẽ cho phép chọn được những ứng viên xuất sắc nhất và loại trừ hoặc giảm bớt sự thiên vị mang tính chính trị hoặc cảm tính trong quá trình bổ nhiệm Thẩm phán.

Ở Việt Nam, thực trạng quy định của pháp luật về tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán được xem xét trên hai khía cạnh: (i) Tiêu chí tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán và (ii) Quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán.

* Tiêu chí tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán

Theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 (Điều 37) và Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002 (Điều 5) thì để trở thành Thẩm phán, công dân Việt Nam phải có bằng cử nhân luật và chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ Thẩm phán, có phẩm chất đạo đức tốt, có kinh nghiệm và năng lực làm công tác xét xử, có sức khỏe để bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, trên thực tế tuyển chọn, quy định “có năng lực làm công tác xét xử” là rất trừu tượng và cho đến nay vẫn chưa có cơ chế nào để đánh giá khách quan năng lực của ứng viên vào vị trí Thẩm phán.

* Về quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán

Kinh nghiệm cho thấy, quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán nếu công khai, minh bạch và dựa trên những tiêu chí về năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, chắc chắn sẽ có được một đội ngũ Thẩm phán đủ năng lực và có khả năng độc lập trong quá trình thực thi nhiệm vụ xét xử.

Theo pháp luật hiện hành ở Việt Nam, việc tuyển chọn Thẩm phán được thực hiện bởi Hội đồng tuyển chọn, bao gồm: Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện. Cơ cấu thành phần tham gia Hội đồng tuyển chọn luôn bảo đảm sự tham gia rộng rãi của các cơ quan, tổ chức có liên quan. Tuy nhiên, pháp luật lại không quy định cụ thể trình tự tuyển chọn từ giai đoạn tiến cử các ứng viên và các bước lấy ý kiến, nên dẫn đến cảm giác như việc tuyển chọn Thẩm phán là quy trình khép kín, chưa có cơ chế khuyến khích các ứng viên tự làm đơn xin làm Thẩm phán.

Trên thực tế, quy trình tiến cử ứng viên làm Thẩm phán là do Lãnh đạo Tòa án giới thiệu, khiến cho Thẩm phán khi được bổ nhiệm có mối quan hệ lệ thuộc vào Lãnh đạo Tòa án, bên cạnh đó, việc phải có bản nhận xét của Lãnh đạo đơn vị, ý kiến của tập thể cán bộ, nhân viên nơi ứng viên công tác, điều này có thể ảnh hưởng đáng kể đến sự độc lập của Thẩm phán trong quá trình xét xử sau này.

2.2. Nhiệm kỳ của Thẩm phán

Nhiệm kỳ của Thẩm phán là một trong những yếu tố có ảnh hưởng đến sự độc lập của Thẩm phán bởi một số lý do như: Nếu nhiệm kỳ của Thẩm phán ngắn thì Thẩm phán phải đối diện với việc tái bổ nhiệm; việc bổ nhiệm Thẩm phán với nhiệm kỳ một lần cho đến tuổi về hưu hoặc cả đời như nhiều nước đang áp dụng tạo cho Thẩm phán sự an tâm về nhiệm kỳ chắc chắn và lâu dài; việc bổ nhiệm Thẩm phán với nhiệm kỳ dài và nên lệch thời gian so với nhiệm kỳ của những người có quyền quyết định bổ nhiệm, tái bổ nhiệm Thẩm phán. Có ý kiến cho rằng, nếu nhiệm kỳ Thẩm phán là vững chắc và ổn định thì có thể tạo cơ hội để Thẩm phán lạm dụng quyền lực và có nguy cơ tham nhũng. Việc cân bằng giữa độc lập xét xử và tính chịu trách nhiệm của Thẩm phán là một nhiệm vụ khó nhưng không phải là hai vấn đề đối lập nhau. Thực chất, độc lập xét xử và tính chịu trách nhiệm của Thẩm phán là hai mặt thống nhất, bổ trợ lẫn nhau, nếu không có cơ chế hợp lý về tính chịu trách nhiệm của Thẩm phán thì cho dù có bổ nhiệm Thẩm phán với nhiệm kỳ ngắn cũng sẽ không giải quyết được vấn đề lạm dụng quyền lực và tham nhũng.

Ở Việt Nam, theo pháp luật hiện hành, nhiệm kỳ Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp là 5 năm. Thời gian qua, đã có rất nhiều ý kiến thảo luận về thời hạn nhiệm kỳ của Thẩm phán, có ý kiến cho rằng, nhiệm kỳ Thẩm phán ngắn sẽ là biện pháp tốt để nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán, song cũng có ý kiến cho rằng, để đảm bảo cho Thẩm phán xét xử độc lập, các Thẩm phán phải được bổ nhiệm suốt đời hoặc chí ít cũng là thời hạn 12 năm/nhiệm kỳ, đồng thời, nên lệch thời gian so với nhiệm kỳ của những người có quyền quyết định bổ nhiệm, tái bổ nhiệm Thẩm phán. Qua khảo sát, rất nhiều Thẩm phán đều có nguyện vọng, cơ chế bổ nhiệm suốt đời sẽ làm cho họ yên tâm công tác và nâng cao tính độc lập trong xét xử, không bị áp lực mỗi khi chuẩn bị bổ nhiệm lại, trong khi đó, việc bổ nhiệm lại cũng không làm thay đổi vị trí vốn có của họ.

2.3. Miễn nhiệm, bãi nhiệm, kỷ luật Thẩm phán

Các nguyên tắc cơ bản của Liên Hợp Quốc về tư pháp độc lập quy định rằng: “Việc miễn nhiệm hoặc bãi nhiệm Thẩm phán chỉ được thực hiện với lý do liên quan tới năng lực hạn chế hoặc hành vi không thích hợp của Thẩm phán khiến họ không còn xứng đáng với vị trí Thẩm phán nữa. Việc kỷ luật, đình chỉ hoặc bãi nhiệm đều phải được quyết định dựa trên những cơ sở quy định về đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán. Các quyết định liên quan tới kỷ luật, đình chỉ hoặc bãi nhiệm đều có thể bị kháng cáo và được xem xét lại bởi một cơ quan độc lập. Nguyên tắc trên có thể không áp dụng đối với những quyết định của Tòa tối cao và/hoặc của cơ quan lập pháp theo thủ tục phế truất hoặc tương tự”[1].

* Miễn nhiệm, bãi nhiệm Thẩm phán

Theo Điều 29 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, việc miễn nhiệm chức danh Thẩm phán được thực hiện trong trường hợp Thẩm phán đến tuổi nghỉ hưu (miễn nhiệm đương nhiên) hoặc do sức khỏe, do hoàn cảnh gia đình hoặc vì các lý do khác mà xét thấy không đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Thẩm phán cũng có thể bị bãi nhiệm khi có các căn cứ quy định tại Điều 30 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân trong các trường hợp là tội phạm hình sự bị kết án; vi phạm các quy định mà công chức không được làm; thực hiện các hành vi ngề nghiệp không đúng các quy định của pháp luật; có hành vi vi phạm phẩm chất đạo đức hoặc vi phạm pháp luật khác… Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, các quy định về căn cứ bãi nhiệm Thẩm phán rất chung chung, không cụ thể và rõ ràng dẫn đến việc xem xét các căn cứ để cách chức, bãi nhiệm Thẩm phán khó tiên lượng và xác định mức độ cụ thể.

* Xem xét kỷ luật Thẩm phán

Các nguyên tắc cơ bản của Liên Hợp Quốc về tư pháp độc lập quy định rằng: “Việc miễn nhiệm hoặc bãi nhiệm Thẩm phán chỉ được thực hiện với lý do liên quan tới năng lực hạn chế hoặc hành vi không thích hợp của Thẩm phán khiến họ không còn xứng đáng với vị trí Thẩm phán nữa. Việc kỷ luật, đình chỉ hoặc bãi nhiệm đều phải được quyết định dựa trên những cơ sở quy định về đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán. Các quyết định liên quan tới kỷ luật, đình chỉ hoặc bãi nhiệm đều có thể bị kháng cáo và được xem xét lại bởi một cơ quan độc lập. Nguyên tắc trên có thể không áp dụng đối với những quyết định của Tòa tối cao và/hoặc của cơ quan lập pháp theo thủ tục phế truất hoặc tương tự”[2]. Việc xem xét kỷ luật, bao gồm cả việc bãi nhiệm Thẩm phán, được thực hiện một cách công khai, minh bạch và khách quan dựa trên các cơ sở rõ ràng và cụ thể sẽ là một yếu tố cơ bản bảo đảm sự độc lập xét xử của Thẩm phán.

Ở Việt Nam, Thẩm phán là công chức, vì vậy, các quy định về xử lý kỷ luật công chức cũng được áp dụng đối với Thẩm phán. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến cho rằng, việc quy định như vậy là chưa hợp lý, bởi lao động Thẩm phán là lao động đặc thù. Bất kỳ quy định nào về xử lý kỷ luật được áp dụng đối với Thẩm phán đều phải được cân nhắc vì có thể nó “đe dọa” sự độc lập của Thẩm phán.

Trách nhiệm của Thẩm phán đối với phán quyết của mình là trách nhiệm phải giải trình cơ sở đưa ra phán quyết chứ không đồng nghĩa với việc quy định trách nhiệm phải chịu một hình thức kỷ luật trực tiếp hay gián tiếp đối với việc phán quyết của mình bị hủy hoặc bị sửa đổi bởi Tòa án cấp trên. Trách nhiệm giải trình về phán quyết của mình trước hết và quan trọng nhất là phải được thể hiện ngay tại phần nhận định về tình tiết của vụ việc và về cơ sở pháp lý (pháp luật áp dụng và tại sao áp dụng pháp luật cụ thể đó). Trách nhiệm giải trình này nhằm mục đích tránh tình trạng Thẩm phán đưa ra phán quyết một cách tùy tiện và không có cơ sở.

Về cơ chế xem xét kỷ luật Thẩm phán, trước hết cần phải thừa nhận, có sự khác biệt giữa công chức là Thẩm phán với các công chức khác trong bộ máy công quyền như hành pháp và lập pháp. Nếu các công chức khác thực thi nhiệm vụ của mình theo nguyên tắc chế độ thủ trưởng và phải tuân thủ mệnh lệnh và chịu sự chỉ đạo của cấp trên thì Thẩm phán khi xét xử, như Lênin nói “không một ai là thủ trưởng của họ ngoài pháp luật”[3]. Vì vậy, Thẩm phán chỉ có thể bị xem xét kỷ luật khi họ vi phạm pháp luật mà sự vi phạm đó được coi là cơ sở để áp dụng hình thức kỷ luật. Về nguyên tắc, không thể không quy định chế tài áp dụng đối với những hành vi vi phạm của Thẩm phán mà sự vi phạm đó không thể chấp nhận đối với Thẩm phán khi duy trì công lý. Vấn đề là ở chỗ, cơ chế xem xét các vi phạm của Thẩm phán và áp dụng hình thức kỷ luật cần phải khách quan và minh bạch.

2.4. Lương và các chế độ bảo đảm khác

Các nguyên tắc cơ bản của Liên Hợp Quốc về tư pháp độc lập quy định rằng: “Pháp luật phải đảm bảo mức lương thỏa đáng cho Thẩm phán[4]. Các quy tắc tối thiểu của IBA cũng quy định rằng: “Lương của Thẩm phán không thể bị cắt giảm trong thời gian đương chức, trừ trường hợp việc cắt giảm là một phần của biện pháp kinh tế công tổng thể”[5].

Mức lương chưa thỏa đáng cũng có thể làm giảm đi tính hấp dẫn của nghề Thẩm phán và khó có thể thu hút được các luật sư và các chuyên gia pháp luật có năng lực. Có ý kiến cho rằng, lý do chính của việc trả lương thấp cho Thẩm phán là do thiếu kinh phí. Lý do này có thể dễ hiểu, tuy nhiên việc đánh giá không đúng tầm quan trọng của tính độc lập trong hoạt động xét xử của Thẩm phán mới là lý do chính. Đầu tư ngân sách để trả lương cho Thẩm phán một cách thỏa đáng sẽ mang lại lợi ích chiến lược và giá trị vô hình rất lớn, mặc dù điều đó khó có thể cân đo, đong, đếm được như những khoản đầu tư khác. Nạn tham nhũng hay hoạt động thiếu hiệu quả của hệ thống tư pháp còn gây ra tổn hại lớn hơn nhiều so với mức ngân sách mà Chính phủ bỏ ra để trả lương thỏa đáng cho Thẩm phán.

Ở Việt Nam, theo các quy định hiện hành về tiền lương, thì mức lương trung bình của Thẩm phán Tòa án cấp huyện (Thẩm phán sơ cấp) hàng tháng là trên dưới 3 triệu đồng; Thẩm phán Tòa án cấp tỉnh (Thẩm phán trung cấp) hàng tháng là trên dưới 4 triệu đồng và Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hàng tháng là trên dưới 6 triệu đồng, ngoài ra không có chế độ hoặc đặc quyền, đặc lợi nào khác. Với mức lương thấp như vậy, Thẩm phán khó có thể bảo đảm được cuộc sống hàng ngày và khó có thể tránh được những cám dỗ vật chất từ phía khách quan trong khi xét xử. Vì vậy, cần thiết phải có những nghiên cứu nghiêm túc về chế độ tiền lương cho Thẩm phán hiện nay. Nếu mức lương của Thẩm phán chưa hợp lý, thì đó cũng là lực cản khá lớn, ảnh hưởng đến việc bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán.

2.5. Yêu cầu về tính khách quan vô tư của Thẩm phán

Việc quy định các quy tắc đạo đức nghề nghiệp sẽ bảo đảm cho Thẩm phán xét xử khách quan và vô tư. Sự khách quan và vô tư khi xét xử chính là sự độc lập của Thẩm phán với chính mình. Khách quan, vô tư là một đòi hỏi không chỉ riêng đối với các chủ thể của Tư pháp, mà nó còn là đòi hỏi đối với cả Lập pháp và Hành pháp khi thực hiện quyền lực công. Tuy nhiên, khái niệm khách quan, vô tư thông thường được hiểu khi nói đến trách nhiệm chủ quan của các chủ thể thực thi quyền lực công – theo đó, họ hành động không nhằm mục đích tư lợi, trong khi khái niệm độc lập được hiểu khi nói đến trách nhiệm không được can thiệp và không bị can thiệp. Vai trò độc lập mà Thẩm phán có được để bảo vệ lẽ phải chỉ có ý nghĩa khi họ phải là người khách quan vô tư. Nếu không xét xử một cách khách quan vô tư thì khi đó sự độc lập của Thẩm phán sẽ trở thành thảm họa cho tất cả các bên đương sự trong vụ án và sẽ hủy hoại Nhà nước pháp quyền.

Như vậy, một trong những yếu tố cơ bản để bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán với chính mình (sự khách quan vô tư khi giải quyết vụ án) là cần phải bảo đảm sự khách quan và vô tư của Thẩm phán trong toàn bộ quá trình xét xử. Và để đạt được điều đó thì cần phải có bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán nhằm định hướng hành vi ứng xử của Thẩm phán.

2.6. Trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán và trách nhiệm bồi thường nhà nước khi có hành vi trái pháp luật trong thi hành công vụ

Lý do xác định chế độ trách nhiệm của cá nhân Thẩm phán là xu thế tất yếu hiện nay của pháp luật nhiều quốc gia và được thừa nhận chung là cần thiết và phải được song hành với việc đảm bảo độc lập xét xử.

Ở Việt Nam, theo khoản 4 Điều 37 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, thì Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân gây ra thiệt hại có trách nhiệm hoàn trả số tiền bồi thường cho Tòa án. Thẩm phán cũng có thể phải chịu trách nhiệm kỷ luật hay trách nhiệm hình sự nếu ra bản án trái pháp luật. Trước khi có Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2010, Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan sai do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng gây ra có quy trách nhiệm cho Tòa án phải bồi thường trong cả những trường hợp không phải do lỗi cố ý và Thẩm phán có trách nhiệm bồi hoàn cả khi vô ý ra bản án kết tội người vô tội.

Sau khi Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2010 được ban hành và có hiệu lực, các trường hợp Tòa án phải bồi thường do gây oan sai trong hoạt động tố tụng được quy định rõ ràng hơn, cụ thể: Tòa án có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hoạt độngtố tụng hình sự (Điều 32); trong hoạt động tố tụng dân sự và tố tụng hành chính (Điều 33).

Theo Điều 56 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2010 và Điều 16 Nghị định số 16/2010/NĐ-CP ngày 03/03/2010 của Chính phủ thì trường hợp Thẩm phán, cán bộ Tòa án cố ỷa bản án hình sự oan thì phải hoàn trả cho Tòa án khoản tiền mà Tòa án đã bồi thường cho người bị xử oan, như tối đa không quá 36 tháng lương của người phải bị bồi hoàn. Trường hợp trong tố tụng dân sự và tố tụng hành chính cũng được áp dụng tương tự tố tụng hình sự, riêng trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trái pháp luật thì phải bồi hoàn không quá 3 tháng lương của người bị bồi hoàn.

Có thể nói, trách nhiệm bồi hoàn của Thẩm phán khi xét xử oan sai theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã được quy định cụ thể và rõ ràng hơn. Tuy nhiên, bên cạnh việc gia tăng trách nhiệm của Tòa án và Thẩm phán trong trường hợp ra các bản án oan sai, thì vẫn chưa có những quy định về việc Tòa án và Thẩm phán phải giải trình vì lý do oan sai, chưa quy định rõ các biện pháp để công chúng có thể giám sát các hoạt động của Tòa án và Thẩm phán. Cho nên, cần phải có các nghiên cứu và quy định các biện pháp tăng cường trách nhiệm giải trình trong hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và Thẩm phán nói riêng.

3. Đánh giá thực trạng bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán ở Việt Nam và một số kiến nghị

So với các nước phát triển, ở Việt Nam, người dân ít được hưởng những thành quả của một nền tư pháp độc lập, vì vậy, việc bảo đảm sự độc lập của Tòa án, đặc biệt là sự độc lập của Thẩm phán là chưa hiệu quả. Bởi lẽ, sự độc lập thực sự của Tòa án về nguyên tắc chỉ có thể trong bối cảnh có sự phân quyền rõ ràng giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp.Về hình thức, tính độc lập của Tòa án, của các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cũng đã được quy định trong các bản Hiến pháp, trong hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án và trong các văn bản pháp luật về tố tụng từ trước tới nay, tuy nhiên, trên thực tế, tính độc lập của hệ thống Tòa án và các Thẩm phán ở Việt Nam chưa được bảo đảm đúng như các tiêu chuẩn chung trên thế giới.

Nhìn lại thực trạng hoạt động của hệ thống Tòa án và các cơ quan tư pháp của Việt Nam nói chung, mặc dù đã có những thành tựu rất đáng kể, góp phần không nhỏ trong công cuộc giải phóng và bảo vệ Tổ quốc cũng như bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân, nhưng thực tiễn cuộc sống cho thấy vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, ảnh hưởng đến công cuộc đổi mới và xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.

Hoạt động tư pháp của Việt Nam không chỉ bao gồm hoạt động của các cơ quan xét xử, mà còn cả hoạt động của các cơ quan điều tra, công tố và những cơ quan hoạt động hỗ trợ tư pháp khác như: Công chứng, giám định, luật sư… Điều này chứng tỏ chúng ta chưa có sự phân quyền rạch ròi giữa hành pháp và tư pháp.

Trên thực tế, mặc dù nguyên tắc về tính độc lập của Toà án và các Thẩm phán đã được ghi nhận chính thức trong Hiến pháp và nhiều văn bản pháp luật khác, song nó chưa được thực sự tôn trọng và tuân thủ, bởi lẽ, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam vẫn phải theo theo nguyên tắc tập quyền. Nguyên tắc tập quyền này khó có thể là cơ sở cho sự độc lập của Tòa án và các Thẩm phán bởi nó dẫn đến việc xét xử và ra các bản án, quyết định của Tòa án khó tránh khỏi phụ thuộc vào sự chỉ dẫn và can thiệp của các cơ quan nhà nước khác. Hơn thế nữa, quá trình xét xử của các Tòa ánở Việt Nam chưa thực sự theo nguyên tắc tranh tụng mà vẫn nặng theo nguyên tắc thẩm vấn, xét hỏi, luật sư chỉ đóng vai trò thứ yếu. Thực tế cho thấy, không hẳn là việc chuyển hoàn toàn sang mô hình tố tụng tranh tụng là phù hợp với điều kiện ở nước ta, song việc duy trì quá lâu mô hình tố tụng buộc tội đang tạo ra sự bất bình đẳng lớn giữa các bên tham gia tố tụng, ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động xét xử.

Kinh phí hoạt động của hệ thống Tòa án ở nước ta hiện vẫn phụ thuộc chặt chẽ vào các cơ quan nhà nước khác, đồng thời phụ thuộc vào các Tòa án cấp trên. Tình trạng này khiến cho các Tòa án khó tránh khỏi sự tác động của các cơ quan nhà nước khác, cũng như khiến cho các Tòa án cấp dưới khó duy trì sự độc lập xét xử với Tòa án cấp trên.

Việc bổ nhiệm Thẩm phán ở nước ta hiện dựa rất nhiều vào các tiêu chuẩn về chính trị, tư tưởng, trong khi lẽ ra cần nhấn mạnh các tiêu chuẩn về chuyên môn và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Nước ta hiện vẫn áp dụng chế độ bổ nhiệm Thẩm phán theo định kỳ. Các Thẩm phán, mặc dù mức lương có cao hơn so với mức lương chung của các ngành khác, song vẫn thấp so với nhu cầu bảo đảm đời sống và tích lũy cho họ và gia đình. Đây cũng là những yếu tố mà theo kinh nghiệm quốc tế thường có ảnh hưởng lớn đến tính độc lập trong hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán.

Mặc dù ở nước ta, việc phân công Thẩm phán xét xử các vụ việc về nguyên tắc là vấn đề nội bộ quản lý của các Tòa án, tuy nhiên, trong thực tế nguyên tắc này không phải lúc nào cũng được tôn trọng. Trong hoạt động của các Tòa án, một số quy tắc “bất thành văn” như báo cáo án, thỉnh thị án, duyệt án… vẫn được áp dụng một cách phổ biến, rõ ràng mâu thuẫn với những nguyên tắc và yêu cầu về tính độc lập của Tòa án và của Thẩm phán.

Pháp luật nước ta chưa có những quy định cụ thể về việc giữ bí mật nghề nghiệp và quyền miễn trừ của Thẩm phán. Điều này có thể gây rủi ro cho các Thẩm phán trong hoạt động nghề nghiệp và ảnh hưởng đến việc xét xử độc lập của họ. Đây cũng là sự bất cập của pháp luật nước ta so với các quy định có liên quan của pháp luật quốc tế. Bởi vậy, muốn cho Tòa án và các Thẩm phán được độc lập trong quá trình xét xử, thì một mặt, cần cụ thể hóa các nguyên tắc đã hiến định trong Hiến pháp năm 2013, mặt khác, cần cụ thể hóa và tôn trọng thực hiện nguyên tắc này trong thực tiễn bằng cách đánh giá đúng vai trò của Tòa án, tạo điều kiện để Tòa án và các cơ quan tư pháp thực hiện nhiệm vụ của mình một cách độc lập và khách quan và không bị bất kỳ sự can thiệp nào.

Với điều kiện nước ta hiện nay, có lẽ trước hết, cần phải nghiên cứu để cụ thể hóa các nguyên tắc về Tòa án và Thẩm phán độc lập trong quá trình xét xử, đồng thời, tìm ra những biện pháp bảo đảm cho nguyên tắc độc lập được thực hiện trên thực tế. Nghiên cứu và thay đổi các quy định pháp luật về tổ chức bộ máy, quy chế hoạt động, quan hệ với các cơ quan nhà nước khác… của hệ thống Tòa án để giảm thiểu sự can thiệp, tác động, cả trực tiếp và gián tiếp, của các chủ thể bên ngoài, qua đó bảo đảm tính độc lập thực sự của Tòa án.

Cần nghiên cứu để khẳng định Tòa án quan bảo vệ công lý thay bằng, hay đồng thời với việc coi đó là cơ quan xét xử. Chuyển phương thức xét xử từ tố tụng buộc tội sang tố tụng tranh tụng.

– Cần có những giải pháp hiệu quả về kinh phí hoạt động của hệ thống Tòa án nhằm bảo đảm các Tòa án không phụ thuộc vào bất cứ cơ quan nào, kể cả vào các Tòa án cấp trên, về kinh phí hoạt động. Ở nhiều quốc gia, pháp luật quy định một tỷ lệ phần trăm nhất định ngân sách nhà nước hay ngân sách địa phương đương nhiên phải phân bổ cho hoạt động của Tòa án; điều này giúp các Tòa án không bị ràng buộc bởi cơ chế “xin-cho” kinh phí, từ đó không phải phụ thuộc vào các cơ quan nhà nước khác hay vào Tòa án cấp trên. Đây có thể là một kinh nghiệm tốt với nước ta.

Cần nghiên cứu một số biện pháp đểđảm bảo cho độc lập của Thẩm phán như: Tăng cường trách nhiệm của Thẩm phán, Đảm bảo Thẩm phán có nhiệm kỳ vững chắc và lâu dài, Chế độ lương bổng cho Thẩm phán phải được bảo đảm, Bảo đảm một số điều kiện làm việc khác cho Thẩm phán.

TS. Đặng Vũ Huân & PGS. TS. Bùi Nguyên Khánh

Tài liệu tham khảo:

1. TS.LS. Lưu Tiến Dũng, Độc lập xét xử trong Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Sách chuyên khảo, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, năm 2012.

2. “Tổng quan về nguyên tắc độc lập của quyền tư pháp trong các điều ước quốc tế và Hiến pháp một số nước”, Tài liệu của Trung taam Thông tin thuộc Văn phòng Quốc hội.

3. Tòa án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam, đăng tải trên trang web http://www.toaan.gov.vn.

4. Vũ Thị Ngọc Hà, Tăng cường tính độc lập của các Thẩm phán trong hoạt động xét xử ở Việt Nam, đăng tải trên trang web http://www.hcmcbar.org;

5. Nguyên tắc Thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, đăng trải trên trang web http://www.khotailieu.com;

6. Hải An, Quy định rõ ràng và cụ thể tiêu chuẩn pháp lý của Hội thẩm nhân dân, đăng tải trên trang web http://www.daibieunhandan.vn;

7. Trương Hòa Bình, Một số vấn đề về chế định hội thẩm nhân dân, đăng tải trên trang web http://www.toaan.gov.vn.

8. Trần Văn Tú, Quy định của Hiến pháp về Tòa án nhân dân, đăng tải trên trang web http://www.toaan.gov.vn.

9. Nguyễn Thị Hồng, Bảo đảm độc lập tư pháp trong Nhà nước pháp quyền – Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị sửa đổi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 16 (272) tháng 8 năm 2014.



[1]The United Nations Basic Principles on the Independence of the Judiciary, pp. 12, 18.

[2]The United Nations Basic Principles on the Independence of the Judiciary, pp. 12, 18.

[3]Lênin toàn tập (1997), tập 36, Nxb. Tiến bộ Matxcơva (Tiếng Việt), tr.67.

[4]The United Nations Basic Principles on the Independence of the Judiciary.

[5]Điều 15.b, IBA Minimum Standards of Judicial Independence (1982).

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bảo đảm quyền bào chữa tại phiên tòa sơ thẩm

23/11/2015

1. Thực trạng một số quy định về bảo đảm quyền bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm

– Quy định về quyền triệu tập người làm chứng, lời khai của người làm chứng trong hoạt động chứng minh tại phiên toà có ý nghĩa làm rõ nhiều tình tiết của vụ án. Vì vậy thủ tục xét xử quy định tại phiên toà các bên có quyền đề nghị hội đồng xét xử (HĐXX) được triệu tập thêm người làm chứng. Đáng quan tâm là thủ tục xét xử không quy định kiểm sát viên và người bào chữa được triệu tập người làm chứng để chuẩn bị cho phiên tranh tụng, mà chỉ khi diễn ra phiên toà thì họ được đề nghị triệu tập thêm người làm chứng và việc này phải được sự chấp thuận của HĐXX. Do đó không tránh khỏi sự tuỳ nghi của HĐXX. Có trường hợp người bào chữa đề nghị HĐXX triệu tập thêm người làm chứng, nhưng HĐXX cho rằng người đó phải có lời khai trong hồ sơ (để đảm bảotính khách quan) thì mới được chấp nhận.

Vấn đề khác đặt ra là nếu người làm chứng đã được triệu tập nhưng vắng mặt tại phiên toà thì HĐXX giải quyết như thế nào? Trường hợp vắng mặt nhưng đã có lời khai thể hiện trong hồ sơ vụ án và có đơn xin vắng mặt trong đó thể hiện giữ nguyên lời khai của mình thì HĐXX vẫn tiến hành xét xử mà không cần phải hoãn phiên toà. Tuy nhiên, trong trường hợp vụ án phức tạp đòi hỏi phải có người làm chứng tại phiên toà, dù họ có đơn xin vắng mặt như đã nêu, nhưng Toà án vẫn phải triệu tập họ đến tham dự phiên toà. Mặt khác, các bên có quyền nhờ người làm chứng cho mình hoặc có quyền triệu tập hoặc đề nghị Tòa án triệu tập ra phiên tòa bất kỳ thời điểm nào trong quá trình tranh tụng, chứ không thể phụ thuộc vào Tòa án và không cần họ phải có lời khai trước đó trong giai đoạn điều tra. Mặt khác, khoản 4 Điều 211 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định, người làm chứng phải ở lại phòng xử án cho đến khi kết thúc phiên tòa để có thể được hỏi thêm. Quy định này là chưa phù hợp, vì nhiều trường hợp người làm chứng trình bày xong thì có thể cho họ rời phòng xử án, không bắt buộc họ ở lại.

– Quy định về quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa, điểm a khoản 2 Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa đã hạn chế quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa trong giai đoạn điều tra. Điều này đã ảnh hưởng đến chất lượng tranh tụng của người bào chữa trước phiên tòa. Cụ thể: Người bào chữa không được tham gia nhiều vào các hoạt động điều tra, như hoạt động lấy lời khai, hoạt động hỏi cung, đối chất, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi… Hơn nữa, người bào chữa chưa được cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án giao các quyết định tố tụng và lịch xét xử; cũng như hoạt động nghiệp vụ của họ vẫn bị cản trở vì các cơ quan tổ chức có thẩm quyền không hợp tác đầy đủ trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc bào chữa của họ.

– Quy định về trình bày lời bào chữa, khoản 2 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định về trình tự phát biểu khi tranh luận đã không đặt ra trường hợp có nhiều người bào chữa cho một bị cáo, thì thực hiện việc trình bày lời bào chữa ra sao? Tính chất của lời bào chữa rất quan trọng. Ở đó tập trung các lập luận của người bào chữa, qua một quá trình nghiên cứu đánh giá chứng cứ công phu, nhằm bảo vệ quan điểm bào chữa, bảo vệ lợi ích hợp pháp của bị cáo. Mâu thuẫn của tình tiết, chứng cứ vụ án có được sáng tỏ hay không phụ thuộc vào quan điểm và khả năng lập luận của người bào chữa. Mức độ thuyết phục HĐXX đến đâu cũng phải phụ thuộc nhiều vào lời bào chữa. Cần phải thấy rằng, trên thực tế dù người bào chữa cho bị cáo không có mặt tại phiên tòa, nhưng quan điểm của họ vẫn đươc thực hiện thông qua bản bào chữa được gửi trước. Tại phiên tòa, HĐXX công bố bản bào chữa do người bào chữa gửi trước, thế nhưng lại xảy ra trường hợp quan điểm ở đó không phù hợp với quan điểm của bị cáo tại phiên tòa, ví dụ như đánh giá tình tiết giảm nhẹ, tình tiết làm cơ sở yêu cầu mức bồi thường thiệt hại… Do đó có sự mâu thuẫn giữa quan điểm của người bào chữa với bị cáo, gây lúng túng cho HĐXX và bị cáo.

Cần lưu ý là trường hợp bị cáo không nhờ người bào chữa, thì họ phải tự bào chữa hoặc lựa chọn phương thức từ chối bào chữa, và chủ tọa phiên tòa không buộc bị cáo phải trình bày lời bào chữa. Bên cạnh đó, lưu ý đến trường hợp bào chữa bắt buộc theo khoản 2 Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, đó là bị cáo được Nhà nước cử người bào chữa, nhưng vẫn cố tình từ chối, màkhông yêu cầu thay đổi, lựa chọn người bào chữa khác. Trường hợp này Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 chưa đưa ra phương thức xử lý. Có thể nói từ chối người bào chữa là quyền của bị cáo. Một mặt họ thích tự bào chữa cho dù họ có thể gặp bất lợi, nhưng họ thấy mình có đủ khả năng để tự bào chữa, hoặc vì một chiến thuật để dành lợi thế mà họ không thích người bào chữa can thiệp vào quá trình tố tụng.

Quy định về thành phần Hội đồng xét xử tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, Điều 185 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định thành phần HĐXX sơ thẩm gồm 01 thẩm phán và 02 hội thẩm; nếu là vụ án phức tạp có thể gồm 02 thẩm phán và 03 hội thẩm. Mục đích của quy định này là khi xét xử bắt buộc phải có hội thẩm tham gia, vì hội thẩm là người đại diện cho ý chí của nhân dân tham gia tố tụng, biểu quyết của họ sẽ làm cho vụ án được khách quan hơn, có lợi cho bị cáo và hạn chế sự lạm quyền của thẩm phán chuyên nghiệp. Song điều này chưa hẳn đã hoàn toàn là ưu điểm, vì ở đó bị cáo không có quyền lựa chọn thành phần HĐXX. Nếu mở rộng quyền lựa chọn HĐXX chỉ có thẩm phán cũng là một phương thức bảo đảm quyền cho bị cáo. Nếu HĐXX chỉ có thẩm phán thì tính chuyên nghiệp trong hoạt động áp dụng pháp luật triệt để hơn, hay là có hội thẩm tham gia nhằm đảm bảo tính khách quan hơn trong việc đưa ra phán quyết của Tòa án, tránh lạm quyền từ thẩm phán; hoặc họ muốn tạo ra cho mình một lợi thế nào đó trong quá trình tranh tụng mà không yêu cầu phải có hội thẩm tham gia.

– Quy định về xét xử vắng mặt bị cáo tại phiên tòa, Điều 187 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định bắt buộc bị cáo phải có mặt tại phiên tòa. Tòa án chỉ có thể xét xử vắng mặt họ ở ba trường hợp: Bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả, bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa, và nếu sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử và họ đã được giao giấy triệu tập hợp lệ. Trường hợp thứ ba cho phép xét xử vắng mặt bị cáo, nhưng như thế nào là sự vắng mặt không trở ngại cho việc xét xử thì chưa được giải thích. Do đó hầu như trên thực tiễn Tòa án không vận dụng trường hợp này. Nếu bị cáo vắng mặt thì Tòa án tìm cách áp giải hoặc bắt tạm giam họ với lý do để đảm bảo cho việc xét xử hoặc để bảo đảm thi hành án.

Quy định tại Điều 187 nêu trên là cứng nhắc, không đảm bảo quyền được xét xử vắng mặt của bị cáo. Nghĩa là bị cáo có quyền lựa chọn phương thức có mặt hay không chỉ đơn giản đó là quyền họ được hưởng hoặc là họ muốn tạo lợi thế cho mình tại phiên tranh tụng, vì họ cho rằng họ không bắt buộc phải tự buộc tội mình. Chúng ta không cần phải lo ngại là phải có bị cáo tại phiên tòa thì vụ án mới được chứng minh đầy đủ, khách quan, bởi vì bên cạnh bị cáo còn có thể có người đại diện, có người bào chữa của họ.

2. Kiến nghị hoàn thiện một số quy định về bảo đảm quyền bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm

Một là,kiến nghị bổ sung một điều luật vào Chương XVIII của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003(Quy định chung về thủ tục tố tụng tại phiên tòa) về “Triệu tập người làm chứng”, nhằm khắc phục thực trạng việc triệu tập người làm chứng ra phiên tòa chỉ do Tòa án quyết định, kiểm sát viên và người bào chữa không có quyền triệu tập người làm chứng của riêng mình, ảnh hưởng đến việc chứng minh của họ. Giải pháp này mang yếu tố tranh tụng cao, nó sẽ cân bằng lợi thế và tạo ra sự bình đẳng, dân chủ giữa các bên trong phiên tranh tụng. Lưy ý là Điều luật mới bổ sung sẽ không còn giao quyền triệu tập người làm chứng cho Tòa án, mà chuyển sang cho kiểm sát viên và người bào chữa. Đồng thời mở rộng phạm vi về thời gian triệu tập người làm chứng không những ở giai đoạn chuẩn bị xét xử, mà trong thời gian đang diễn ra phiên tòa, nếu có yêu cầu thì HĐXX phải thực hiện việc hoãn phiên tòa để thực hiện.

“Điều … Triệu tập người làm chứng

Căn cứ vào lịch xét xử của Tòa án, kiểm sát viên và người bào chữa xem xét quyết định việc triệu tập người làm chứng ra phiên tòa để thực hiện việc chứng minh. Trong quá trình diễn ra phiên tòa cho đến trước khi nghị án hội đồng xét xử xem xét hoãn phiên tòa để triệu tập thêm người làm chứng theo đề nghị của kiểm sát viên, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác”.

Hai là,kiến nghị bổ sung khoản 2 Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về lựa chọn và thay đổi người bào chữa. Đó là bổ sung thủ tục giải quyết đối với trường hợp bị cáo được Nhà nước cử người bào chữa, nhưng vẫn cố tình từ chối, mà vẫn không yêu cầu thay đổi, lựa chọn người bào chữa khác. Trong trường hợp này cần phải quy định rõ là Tòa án phải giải thích cho bị cáo hiểu về quyền lợi của họ và ghi ý kiến từ chối của bị cáo vào biên bản phiên tòa và vẫn tiến hành giải quyết vụ án có mặt của người bào chữa đã cử. Cụ thể khoản 2 Điều 57 được bổ sung như sau:

Điều 57. Lựa chọn và thay đổi người bào chữa

1. …

2. …

Trong các trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa. Tòa án phải có trách nhiệm giải thích cho bị cáo hiểu về quyền lợi của họ và ghi ý kiến từ chối người bào chữa của họ vào biên bản phiên tòa và vẫn tiến hành giải quyết vụ án với sự có mặt của người bào chữa đã cử”.

Ba là, kiến nghị sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 2 Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, theo đó cho phép người bào chữa có quyền thực sự trong việc thu thập chứng cứ. Cụ thể người bào chữa được lấy lời khai của người bị tạm giữ, bị can, người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án; được thu thập tài liệu, đồ vật và yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp vật chứng, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án; người bào chữa được tham dự và ghi nhận dấu vết trong cuộc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, chứng kiến việc bắt người, việc khám xét. Người bào chữa tham gia các hoạt động thu thập chứng cứ nêu trên chỉ cần thông báo cho cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát biết mà không cần phải được sự chấp thuận trước và phải có yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như quy định tại Điều 58 hiện hành, ngoại trừ trường hợp thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác và phải giữ bí mật điều tra theo quy định tại điểm e của Điều khoản này. Đồng thời kiến nghị bổ sung quyền của người bào chữa được nhận bản kết luận điều tra, bản cáo trạng, bản án và lịch xét xử do cơ quan tiến hành tố tụng giao theo thời hạn luật định. Nhằm khắc phục thực trạng người bào chữa phải “xin phô tô”, phải phụ thuộc hoặc thông qua bị cáo thì họ mới biết được thông tin buộc tội của bản kết luận điều tra, cáo trạng, nội dung bản án được tuyên, thời gian mở phiên tòa. Cụ thể loại bỏ điểm d (đưa nội dung quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tài liệu vào thiết kế chung vào điểm a để tránh tản mạn, rườm rà); sửa đổi, bổ sung điểm a; và bổ sung điểm b của khoản 2 Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, cụ thể như sau:

“Điều 58. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa

2. Người bào chữa có quyền:

a) Có mặt khi cơ quan điều tra, viện kiểm sát lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can; được lấy lời khai của người bị tạm giữ, bị can, người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án; được thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến vụ án; được yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp vật chứng, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án; được tham dự và ghi nhận dấu vết trong cuộc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, chứng kiến việc bắt người, việc khám xét; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa và được giao bản kết luận điều tra.

Người bào chữa có thể bị cơ quan điều tra và Viện kiểm sát hạn chế hoặc không được thực hiện các hoạt động thu thập chứng cứ đối với vụ án liên quan đến bí mật quốc gia, bí mật công tác và phải giữ bí mật điều tra theo yêu cầu của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát;

b) Người bào chữa tham gia tố tụng được nhận bản kết luận điều tra, cáo trạng, bản án, lịch xét xử do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án giao theo thời hạn luật định;

…”.

Bốn là,kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 190 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về sự có mặt của người bào chữa theo dịch vụ pháp lý. Theo đó làm rõ chủ thể bào chữa bao gồm: Người bào chữa theo dịch vụ pháp lý và người bào chữa do Nhà nước cử, và bỏ đi quy định người bào chữa được gửi trước bản bào chữa cho Tòa án. Vì đây là lý do người bào chữa theo dịch vụ pháp lý thường xuyên vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm do vướng nhiều vào hợp đồng dịch vụ pháp lý khác, làm cho phiên tòa bị hoãn, gây ra rất nhiều phiền hà và hao tốn thời gian, chi phí tố tụng. Cụ thể Điều 190 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 190. Sự có mặt của người bào chữa

Người bào chữa theo dịch vụ pháp lý có nghĩa vụ tham gia phiên tòa. Người bào chữa theo dịch vụ pháp lý vắng mặt, Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử.

Người bào chữa do Nhà nước cử theo quy định tại khoản 2 Điều 57 của Bộ luật này nếu vắng mặt, thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa”.

Năm là,kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 187 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa, theo hướng bảo đảm quyền được vắng mặt khi xét xử của bị cáo trong những trường hợp nhất định. Nghĩa là bị cáo có quyền lựa chọn phương thức có mặt hay không tại phiên tòa. Mở rộng quyền được vắng mặt tại phiên tòa cho bị cáo, mà Tòa án vẫn xét xử ở các trường hợp như: Bị cáo là người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng; bị cáo có đơn xin xét xử vắng mặt trong các vụ án đơn giản, vụ án khởi tố theo yêu cầu người bị hại, hoặc vụ án mà chứng cứ đã rõ ràng bị cáo đã nhận tội, hoặc họ đã bồi thường xong phần trách nhiệm dân sự hoặc đã chấp nhận yêu cầu bồi thường dân sự của bên bị hại đưa ra trước khi xét xử. Cụ thể khoản 2 Điều 187 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 được sửa đổi, bổ sung như sau (lưu ý là loại bỏ điểm c của điều khoản này, vì quy phạm này thiếu tính khả thi, đó là trường hợp sự vắng mặt của bị cáo không cản trở việc xét xử):

“Điều 187. Sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa

2. Tòa án chỉ có thể xử vắng mặt bị cáo trong những trường hợp sau đây:

a) Bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả;

b) Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa;

c) Bị cáo là người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng có đơn xin xét xử vắng mặt;

d) Bị cáo có đơn xin xét xử vắng mặt trong các vụ án phạm tội ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, bị cáo nhận tội, đã bồi thường xong phần trách nhiệm dân sự hoặc đã chấp nhận yêu cầu bồi thường dân sự của bên bị hại đưa ra trước khi xét xử; hoặc vụ án thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại”.

Sáu là, kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 185 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về thành phần HĐXX theo hướng mở rộng quy định cho bị cáo quyền được lựa chọn xét xử bởi thẩm phán và hội thẩm hoặc chỉ bởi thẩm phán. Cụ thể Điều 185 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 185. Thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm

Bị cáo có quyền lựa chọn hội đồng xét xử bởi một thẩm phán và hai hội thẩm hoặc chỉ bởi một thẩm phán xét xử. Bị cáo đề nghị việc này với Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử”.

ThS. Nguyễn Ngọc Kiện

Giảng viên Trường Đại học Luật – Đại học Huế

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Đơn xin miễn giảm tiền thuê mặt bằng, thuê nhà, cửa hàng, công văn đề nghị giảm giá thuê xưởng, khu công nghiệp được viết như thế nào, xin mời các bạn theo dõi bài viết sau.

Giá thuê nhà, mặt bằng, xưởng sản xuất, cửa hàng thường đã được cố định theo thỏa thuận. Tuy nhiên, vì các lý do khách quan, bên thuê gặp phải khó khăn nhưng vẫn có nhu cầu tiếp tục được thuê diện tích để sử dụng. Đó chính là lúc cần sử dụng mẫu văn bản xin giảm, miễn tiền/chi phí thuê nhà, thuê mặt bằng.

Định nghĩa về Đơn xin miễn giảm tiền thuê mặt bằng, thuê nhà, cửa hàng

Văn bản khi được cá nhân viết sẽ có dạng “Mẫu Đơn” còn nếu được tổ chức/đơn vị xác lập sẽ có dạng “Công văn“.

Bên nhận có thể là chủ nhà, chủ khu đất xưởng sản xuất, Ban quản lý khu công nghiệp, Ban quản lý dự án, Chủ đầu tư hoặc đơn vị/cá nhân có quyền hạn theo Ủy quyền, phân công khác.

Do bản chất việc thuê tài sản cũng là thỏa thuận dân sự của các bên nên tính phù hợp với hoàn cảnh tại mỗi thời điểm cũng cần được các bên tôn trọng. Mức giảm hay miễn chi phí mặt bằng hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các bên mà không có quy định nào của pháp luật ngăn cấm. Nếu việc miễn giảm không thể thỏa thuận thì Hợp đồng vì lý do khách quan, dịch bệnh mà không thể thực hiện được sẽ không bị coi là vi phạm hợp đồng, và khi đó việc chấm dứt hợp đồng sẽ được xử lý theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015.

Cách viết tay văn bản xin miễn giảm chi phí mặt bằng

Văn bản được viết tương đối đơn giản bằng những mẫu mà chúng tôi đã cung cấp dưới đây, nhưng cần lưu ý khi nêu những lý do gặp phải trong từng hoàn cảnh cần là khách quan và phù hợp quy định pháp luật cũng như tôn trọng những thỏa thuận trước đó.

Hiện tại, tại thời điểm các tháng đầu năm 2020, với sự phát triển phức tạp của dịch Covid-19 trên phạm vi toàn cầu. Mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam đều đang có những con đường riêng nhằm tối đa ngăn chặn sự phát tán của virus. Việc hạn chế các hình thức dịch vụ, kinh doanh cũng là một trong những biện pháp đang được áp dụng và đem lại rất nhiều hiệu quả. Vậy nhưng mặt khác của biện pháp này lại làm cho một số lượng lớn các hộ kinh doanh, doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn khi phải ngừng hoạt động kéo dài. Số lượng người thất nghiệp gia tăng là cú huých mạnh gây ảnh hưởng vào toàn bộ nền kinh tế nói chung và đời sống sinh hoạt thường nhật của từng gia đình nói riêng.

Việc miễn, giảm, chung tay cùng hỗ trợ nhau trong giai đoạn trên là đặc biệt quan trọng. Các chi phí điện, nước, mặt bằng, đất không được sử dụng đúng mục đích cần được các bên xem xét một cách hợp lý.

Mẫu Đơn xin miễn giảm tiền và các chi phí phát sinh khác khi thuê mặt bằng, thuê nhà, cửa hàng nhằm kinh doanh sản xuất
Mẫu Đơn xin miễn giảm tiền và các chi phí phát sinh khác khi thuê mặt bằng, thuê nhà, cửa hàng nhằm kinh doanh, sản xuất

Mẫu Đơn xin miễn giảm tiền thuê mặt bằng

Luật sư Tư vấn trực tuyến – Gọi ngay 1900.0191


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Hà Nội, ngày…..tháng….năm…..

ĐƠN XIN MIỄN GIẢM TIỀN THUÊ MẶT BẰNG

Kính gửi: ÔNG NGUYỄN VĂN C

Tôi tên là: Nguyễn Văn B                                    Sinh năm: 19xx

Giấy chứng minh nhân dân số: 000000000 cấp ngày …/…/… tại Công an Thành phố Hà Nội.

Hộ khẩu thường trú: Thôn C, xã D, huyện E, tỉnh F

Chỗ ở hiện tại: Số nhà 00, phố…., phường……, quận….., thành phố Hà Nội

Số điện thoại liên hệ: 0123456789

Tôi xin trình bày Qúy cơ quan một sự việc sau:

Ngày …/…/…, tôi có kí kết hợp đồng thuê mặt bằng số …./HĐTN giữa tôi và ông Nguyễn Văn C. Trong hợp đồng có điều khoản về tiền thuê mặt bằng và cách thức trả tiền thuê: 10.000.000 đồng/1 tháng và trả 6 tháng/1 lần. Như vậy, tổng tiền thuê mặt bằng phải trả là 60.000.000 đồng/1 lần. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, nhu cầu mua bán của khách hàng giảm rõ rệt so với những tháng trước. Lượng tiêu thụ sản phẩm giảm mạnh dẫn đến việc tôi không thể duy trì việc thuê mặt bằng với số tiền 10.000.000 đồng/1 tháng

Vì vậy, tôi kính đề nghị ông Nguyễn Văn C có thể xem xét, kiểm tra tình hình kinh doanh của tôi để làm căn cứ giảm tiền thuê mặt bằng cho tôi còn 9.000.000 đồng/1 tháng. Kèm theo đơn này, tôi xin gửi doanh số bán hàng 03 tháng gần đây nhất của tôi.

Kính mong ông xem xét và xử lý yêu cầu của tôi một cách nhanh chóng

Tôi xin trân trọng cảm ơn!

Người làm đơn

(Kí và ghi rõ họ tên)

Công văn đề nghị xem xét giảm trừ giá thuê xưởng sản xuất, lô đất khu công nghiệp

Văn bản này sẽ được chúng tôi soạn mẫu dưới dạng Công văn đề nghị, xin mời các bạn theo dõi.

CÔNG TY …
PHÒNG HÀNH CHÍNH

————–
Số: …/CV
(Đề nghị xem xét giá thuê xưởng, lô đất khu công nghiệp)
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
————–

Hồ Chí Minh, ngày…..tháng….năm…..

Công văn đề nghị xem xét giá thuê xưởng, lô đất khu công nghiệp

Gửi: Công ty/Ban quản lý/Chủ đầu tư/Chủ sở hữu

Công ty:

Mã số thuế:

Địa chỉ trụ sở:

Người đại diện:

Số điện thoại:

Chúng tôi đã nghiên cứu rõ hoàn cảnh, thị trường cũng như nhu cầu của mình để gửi tới quý công ty văn bản nội dung sau:

Chúng tôi hiện đang sử dụng lô đất, xưởng số …, tại địa chỉ … theo Hợp đồng số … ký ngày …/…/….. Chúng tôi đã thực hiện thanh toán hết kỳ 1 của năm 2020 vào ngày …/…/….. theo Ủy nhiệm chi số …

Hiện nay, tình hình tài chính cả nước đều bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh nguy hiểm do virus Covid-19 gây ra. Chúng tôi thuộc lĩnh vực kinh doanh mà nhà nước yêu cầu tạm ngừng hoạt động. Chỉ đạo phòng chống dịch này chính phủ chưa có thời hạn chấm dứt rõ ràng. Vì vậy, dự kiến khả năng cao chúng tôi sẽ chưa thể hoạt động trong thời gian sắp tới.

Với những khó khăn nêu trên, chúng tôi kính đề nghị nhận được sự hỗ trợ từ phía Công ty/Ban quản lý bằng các biện pháp trực tiếp là miễn/giảm các chi phí/giá tiền mặt bằng.

Rất mong sớm nhận được phản hồi từ đơn vị, xin trân trọng cảm ơn!

Nơi nhận:
– Công ty …;
– Ban quản lý …;
– Phòng tài vụ;
– Phòng tài chính;
– Phòng kế toán;
– Lưu VT;
Đại diện công ty
Giám đốc
(Kí và ghi rõ họ tên)

Đơn xin giảm tiền thuê nhà, cửa hàng kinh doanh

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Hồ Chí Minh, ngày…..tháng….năm…..

ĐƠN XIN ĐƯỢC GIẢM TIỀN THUÊ NHÀ Ở, CỬA HÀNG KINH DOANH

Gửi: Ông/Bà Lê Xuân Tín – Nguyễn Thị Lan

Tôi tên là:

Sinh năm:

Giấy CMND số:

cấp ngày …/…/…

tại Công an

Nơi ở: Số nhà , phố , phường , quận , thành phố

Số điện thoại liên hệ:

Tôi làm đơn này nhằm trao đổi một việc như sau:

Tôi có ký Hợp đồng thuê nhà, cửa hàng kinh doanh với ông bà ngày …/…/….. Chúng ta đã thỏa thuận giá thuê cố định là … và được thanh toán theo chu kỳ 6 tháng 1 lần. Nhưng hiện nay, do sự ảnh hưởng của dịch bệnh kéo dài, chính phủ và nhà nước đã yêu cầu chúng tôi hạn chế hoạt động trong tháng … và đã hoàn toàn cấm không được hoạt động trong thời gian tới là các tháng … cho tới khi nào có chỉ thị mới.

Vì lý do trên, lợi nhuận từ kinh doanh, bán hàng, cung cấp dịch vụ của chúng tôi bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Việc hoàn thành các nghĩa vụ thanh toán sắp tới là rất khó khăn và nhiều khả năng không thể thực hiện được. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn mong được tiếp tục sử dụng diện tích đã thuê do quá trình hoạt động đã lâu, đã có những ấn tượng nhất định với khách hàng.

Vậy tôi kính đề nghị được chậm thời gian đóng tiền thuê nhà tới ngày …/…/… hoặc được giảm tiền thuê nhà theo thỏa thuận.

Rất mong sớm nhận được phản hồi từ ông bà, xin trân trọng cảm ơn!

Người viết

(Kí và ghi rõ họ tên)

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Câu hỏi được gửi từ khách hàng: Bố mất sức lao động, mẹ ung thư có được hoãn nghĩa vụ quân sự?

Xin chào các anh, em thuộc gia đình có hoàn cảnh khó khăn, bố em bị tai nạn lao động cách đây 8 năm, giờ mất sức lao động, chỉ làm được những việc nhẹ ở nhà, còn mẹ em thì bị ung thư, tuy chưa nguy hiểm nhưng cũng phải điều trị rất tốn kém, em hiện là lao động chính trong nhà, lương em ngoài việc để trang trải sinh hoạt gia đình còn để lo cho em trai đi học cấp 2, vậy em có được hoãn nghĩa vụ quân sự không, xã em đang thiếu chỉ tiêu nên họ cứ bắt em đi và không cho hoãn.


Bố mất sức lao động, mẹ ung thư có được hoãn nghĩa vụ quân sự?
Bố mất sức lao động, mẹ ung thư có được hoãn nghĩa vụ quân sự?

Luật sư Tư vấn Bố mất sức lao động, mẹ ung thư có được hoãn nghĩa vụ quân sự .– Gọi 1900.0191

1./Thời điểm xảy ra tình huống pháp lý

Ngày 6 tháng 12 năm 2017

2./Cơ sở văn bản Pháp Luật áp dụng

Luật nghĩa vụ quân sự năm 2015

3./Luật sư trả lời

 Khoản 1 Điều 41 Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015 quy định về các trường hợp Tạm hoãn gọi nhập ngũ như sau:

“1.Tạm hoãn gọi nhập ngũ đối với những công dân sau đây:

a) Chưa đủ sức khỏe phục vụ tại ngũ theo kết luận của Hội đồng khám sức khỏe;

b) Là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi dưỡng thân nhân không còn khả năng lao động hoặc chưa đến tuổi lao động; trong gia đình bị thiệt hại nặng về người và tài sản do tai nạn, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm gây ra được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận;

c) Một con của bệnh binh, người nhiễm chất độc da cam suy giảm khả năng lao động từ 61% đến 80%;

d) Có anh, chị hoặc em ruột là hạ sĩ quan, binh sĩ đang phục vụ tại ngũ; hạ sĩ quan, chiến sĩ thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân;

đ) Người thuộc diện di dân, giãn dân trong 03 năm đầu đến các xã đặc biệt khó khăn theo dự án phát triển kinh tế – xã hội của Nhà nước do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trở lên quyết định;

e) Cán bộ, công chức, viên chức, thanh niên xung phong được điều động đến công tác, làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật;

g) Đang học tại cơ sở giáo dục phổ thông; đang được đào tạo trình độ đại học hệ chính quy thuộc cơ sở giáo dục đại học, trình độ cao đẳng hệ chính quy thuộc cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong thời gian một khóa đào tạo của một trình độ đào tạo.”

Như vậyCăn cứ quy định nêu trên, trong trường hợp bố mất sức lao động và mẹ bị ung thư, bạn trở thành lao động duy nhất trong nhà, bạn sẽ thuộc trường hợp:” b) Là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi dưỡng thân nhân không còn khả năng lao động hoặc chưa đến tuổi lao động; trong gia đình bị thiệt hại nặng về người và tài sản do tai nạn, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm gây ra được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận;”

Việc xem xét giải quyết tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ quân sự dựa vào đơn đề nghị của người làm đơn có xác nhận của UNBN phường/xã nơi cư trú.

Thủ tục yêu cầu tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ quân sự:

+ Chuẩn bị Hồ sơ yêu cầu tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ quân sự bao gồm: Bản chính đơn xin tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời bình; Giấy tờ chứng minh đối tượng được tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời bình.

+ Sau đó nộp tại UBND cấp xã để giải quyết.

Với những tư vấn trên, Công ty Luật LVN mong rằng đã giải đáp được nhu cầu của quý khách, nếu quý khách vẫn còn chưa rõ hoặc có thông tin mới với trường hợp này, quý khách có thể liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật Miễn phí số: 1900.0191 để được Luật sư hỗ trợ ngay lập tức.

Bài liên quan:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Luật sư Tư vấn – Gọi 1900.0191


Mẫu đơn xin chuyển trường cho học sinh tiểu học:

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

————-oOo————-

….., ngày ….. tháng ….. năm …..

ĐƠN XIN CHUYỂN TRƯỜNG

(Đối với học sinh…..)

Căn cứ Luật Giáo dục 2005 sửa đổi, bổ sung 2009;

Căn cứ Thông tư 41/2010/TT-BGDĐT Ban hành điều lệ trường tiểu học;

Kính gửi: Ông/bà……………………………………….. – Hiệu trưởng Trường tiểu học……..

Tôi là:                                              – Phụ huynh học sinh:

Hộ khẩu thường trú:

Nơi ở hiện nay:

Thông tin học sinh chuyển trường:

Họ và tên học sinh:

Sinh ngày:

Lý do chuyển trường:

Dựa trên:

Điều 26 Luật Giáo dục 2005 sửa đổi, bổ sung 2009;

– Điều 20 Thông tư 41/2010/TT-BGDĐT Ban hành điều lệ trường tiểu học;

Cho nên, tôi có nguyện vọng và xin được:

– Chuyển trường cho cháu ……………….. học sinh lớp ….. tại

– Giới thiệu cho cháu được chuyển tới trường…………

– Nhà trường tạo điều kiện cho cháu được hoàn thiện thủ tục chuyển trường.

Kính đề nghị quý ông/bà xem xét nguyện vọng và chấp thuận các mong muốn nêu trên.

Tôi xin trân thành cảm ơn.

Tài liệu kèm theo:

– Hồ sơ chuyển trường của học sinh……

Người làm đơn

(Ký, ghi rõ họ tên)

Bài liên quan:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Tư vấn soạn thảo: Mẫu Đơn xin cấp cột điện

Luật sư Tư vấn – Gọi 1900.0191


Mẫu Đơn xin cấp cột điện:

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

                Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

                                         ——————————-

                                                                                     …..,ngày….tháng…năm….

                                     ĐƠN XIN CẤP CỘT ĐIỆN

Căn cứ Luật Điện lực 2004 sửa đổi, bổ sung 2012;

Kính gửi: Ông/bà:                       – Giám đốc Công ty/Chi nhánh (đơn vị cấp phát điện)

Tôi là:…………….               Sinh năm:……….

CMND số:………..                     Nơi cấp:……..ngày…tháng…năm…

Số điện thoại:………..

Hộ khẩu thường trú:…………………………………………………

Lý do đề nghị cấp cột điện:

Dựa trên Điều 46 Luật Điện lực 2004 sửa đổi, bổ sung 2012, nên tôi đề nghị:

– Được thông báo bằng văn bản trả lời đề nghị xin cấp cột điện;

– Được cấp cột điện tại vị trí …..

Kính mong Quý Ông/bà nhanh chóng xem xét và chấp thuận mong muốn nêu trên. Tôi cam kết sẽ thực hiện đầy đủ mọi quy chế mà ngành điện đề ra.

Tôi xin trân trọng cảm ơn!

Tài liệu gửi kèm:

– Hình ảnh vị trí đề nghị cấp cột điện;

– Tài liệu đo đạc vị trí đề nghị cấp cột điện

– ………………

Người làm đơn

(Ký, ghi rõ họ tên)

Bài liên quan:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Câu hỏi được gửi từ khách hàng: Đơn xin xác nhận số visa mới và cũ là một

Trước đây tôi đã làm visa đi xuất khẩu lao động, nay visa cũ đã mất, tôi đã làm số visa mới. Nhưng số visa cũ nằm trong Hồ sơ xin xuất khẩu lao động của tôi nên giờ không dùng visa mới được do Hải quan không chấp nhận. Vậy, tôi muốn làm đơn xin xác nhận visa là cùng một người, xin được giúp đỡ.


Luật sư Tư vấn – Gọi 1900.0191

Trường hợp số visa cũ và mới cấp cho một người khác nhau, anh/chị cần có giấy xác nhận của Cơ quan xuất nhập cảnh đã thực hiện cấp visa cho mình. Đơn xin xác nhận có nội dung cơ bản như sau:

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

————–o0o————–

……., ngày …. tháng …… năm 2018

ĐƠN XIN XÁC NHẬN

(V/v: xác nhận số visa …… và …. của ……..)

Kính gửi: Ông/ bà: …………………………………Thủ trưởng cơ quan đã thực hiện cấp vi sa (Giám độc Cục xuất nhập cảnh…)

Tôi là:                                                      sinh ngày:

Số CMND:                                  do:                                   cấp ngày:

Tôi xin trình bày với quý ông/bà sự việc như sau:

(Trình bày rõ sự việc: nguyên nhân mất, việc làm lại visa, nêu rõ số visa đã mất và được cấp mới)

Do đó, tôi kính đề nghị (cơ quan đã cấp visa) cấp cho tôi giấy xác nhận thông tin theo nội dung nêu trên với số visa: (cũ) và số visa : (mới)  đều là của cùng một người.

Kính đề nghị quý ông/bà xem xét và chấp thuận đề nghị nêu trên.

Tôi xin trân thành cảm ơn!

Tài liệu kèm theo:

– CMND người yêu cầu;

– Bản sao hộ chiếu mới;

– Bản sao thông tin liên quan đến hộ chiếu cũ nếu có

Người viết đơn

Bài liên quan:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Tư vấn soạn thảo: Mẫu Đơn xin sửa nhà ở Huế

Luật sư Tư vấn – Gọi 1900.0191


Khi thực hiện cải tạo, sửa chữa nhà ở, chủ nhà phải được cấp phép xây dựng trước khi thực hiện hoạt động sửa chữa nhà. Đối với việc sửa chữa, giấy phép xây dựng cần được cấp là Giấy phép sửa chữa, cải tạo nhà ở. Mẫu đơn xin cấp giấy phép sửa chữa, cải tạo như sau:

 

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
—————–

 

ĐƠN ĐỀ NGHỊ CẤP GIẤY PHÉP XÂY DỰNG

(Sử dụng cho công trình: Sửa chữa, cải tạo)

Kính gửi: Ủy ban nhân dân huyện/quận….. – Tỉnh Thừa Thiên Huế

1. Thông tin về chủ đầu tư:

– Tên chủ đầu tư (tên chủ hộ): …………………………………………………………………..

– Người đại diện: …………………………………… Chức vụ (nếu có): ………………………

– Địa chỉ liên hệ: …………………………………………………………………………………..

– Số nhà: ………………… Đường/phố ………………. Phường/xã …………………………

– Quận/huyện Tỉnh/thành phố: ………………………………………………………………….

– Số điện thoại: …………………………………………………………………………………..

2. Thông tin công trình:

– Địa Điểm xây dựng: ……………………………………………………………………………..

– Lô đất số: ………………………. Diện tích ………………. m2.

– Tại số nhà: ………………………. Đường/phố ………………………

– Phường/xã ………………………………….. Quận/huyện …………………………………..

– Tỉnh, thành phố: …………………………………………………………………………………

3. Nội dung đề nghị cấp phép:

– Loại công trình: …………………………… Cấp công trình: ……………………….

– Diện tích xây dựng tầng 1 (tầng trệt): ……….m2.

– Tổng diện tích sàn: ……….m2 (ghi rõ diện tích sàn các tầng hầm, tầng trên mặt đất, tầng kỹ thuật, tầng lửng, tum).

– Chiều cao công trình: …….(trong đó ghi rõ chiều cao các tầng hầm, tầng trên mặt đất, tầng lửng, tum).

– Số tầng: (ghi rõ số tầng hầm, tầng trên mặt đất, tầng kỹ thuật, tầng lửng, tum)

4. Đơn vị hoặc người chủ nhiệm thiết kế: ………………………………………

– Tên đơn vị thiết kế: ……………………………………

– Chứng chỉ năng lực hoạt động xây dựng (nếu có): Số …………. Cấp ngày …………..

– Tên chủ nhiệm thiết kế: ……………………………………………………………

– Chứng chỉ hành nghề cá nhân số: ………do ………….. Cấp ngày: …………………..

– Địa chỉ: …………………………………………………………………………

– Điện thoại: ………………………………………………………

– Giấy phép hành nghề số (nếu có): …………………cấp ngày …………………..

5. Dự kiến thời gian hoàn thành công trình: …………… tháng.

6. Cam kết: Tôi xin cam đoan làm theo đúng giấy phép được cấp, nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm và bị xử lý theo quy định của pháp luật.

Gửi kèm theo Đơn này các tài liu:

2 –

 

 

…… ngày ……tháng ….. năm ……
Người làm đơn
Ký, ghi rõ họ tên, đóng dấu (nếu có)

Lưu ý:

Chủ hộ cần nộp kèm theo các giấy tờ, tài liệu sau để được xem xét cấp giấy phép sửa chữa, cải tạo nhà ở, cụ thể:

1.Bản sao một trong những giấy tờ chứng minh về quyền sở hữu nhà ở theo quy định của pháp luật ( Bản sao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất).

2. Bản vẽ, ảnh chụp hiện trạng của bộ phận, hạng mục, nhà ở đề nghị được cải tạo.

Bài liên quan:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Kinh nghiệm triển khai thực hiện cơ chế một cửa tại một số quốc gia, liên hệ thực tiễn với Việt Nam

30/12/2013

1. Lý thuyết quản lý công mới (New Public Management) với sự xuất hiện của cơ chế một cửa

Cùng với sự ra đời của lý thuyết về quản lý công cũng như quản trị công mới, cải cách hành chính và đổi mới các mô hình của Chính phủ trong việc cung cấp dịch vụ công được tạo điều kiện thuận lợi hơn cả về mặt lý luận và thực tiễn. Trong bối cảnh của các nền kinh tế chuyển đổi và định hướng thị trường đã dẫn đến những yêu cầu cấp thiết của việc tiếp cận một cách nhanh chóng, dễ dàng của người dân đối với các dịch vụ công của Nhà nước. Nghiên cứu về các mô hình cải cách đều nhận định một trong những đặc điểm nổi bật của học thuyết quản lý công mới là việc đổi mới và cải cách phương thức cung cấp dịch vụ công của Chính phủ, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho công dân và tổ chức. Thập niên 80 của thế kỷ 20, mô hình quản lý công mới được biết đến và sử dụng rộng rãi ở một số nước thuộc Tổ chức hợp tác cùng phát triển (Tiếng Anh: Oraganization for Economic Co-operation and Development – OECD) với các đặc điểm nổi bật góp phần đổi mới, cải cách Chính phủ và nền hành chính của các nước OECD với một số quan điểm như:

– Quản lý công mới chủ yếu là sự phát triển các nguyên tắc quản lý của chủ nghĩa Taylor cổ điển từ đầu thế kỷ XX, nhấn mạnh tới việc ứng dụng lý luận, phương pháp, kỹ thuật và mô thức của quản lý doanh nghiệp vào quản lý khu vực công.

– Quản lý công mới nhấn mạnh quản lý một cách chuyên nghiệp, xác định tiêu chuẩn và đánh giá hiệu suất một cách rõ ràng, dựa vào kết quả, coi trọng việc tiết kiệm chi phí.

– Quản lý công mới cũng được xem xét như là một công cụ, chính sách trong đó lấy đánh giá hiệu suất và hiệu quả làm tâm điểm, phân giải tổ chức công mang sắc thái quan liêu thành các tổ chức xử lý có hiệu quả các vấn đề của khu vực công, nâng cao tính cạnh tranh bằng các phương thức sử dụng yếu tố thị trường, ký kết hợp đồng ra bên ngoài khu vực công…

Christopher Hood (1991)[1] đã mô tả về nền hành chính công mới như là một sự chuyển đổi từ việc trọng tâm vào chính sách tới việc đo lường hiệu suất hoạt động; từ việc phụ thuộc vào nền quan liêu truyền thống tới các đơn vị được liên kết lỏng lẻo, và gần như là tự chủ với các dịch vụ được cung cấp tương đối linh hoạt; từ sự tập trung vào phát triển và đầu tư hướng tới việc cắt giảm chi phí; từ các quy định mệnh lệnh và kiểm soát truyền thống hướng tới sự tự điều chỉnh; và cho phép các cấp quản lý có thể ra quyết định nhiều hơn. Theo đó, quản lý công mới (NPM) được nhìn nhận trên 7 yếu tố: (1) Thực hiện việc quản lý chuyên nghiệp trong khu vực công; (2) Chi tiết các tiêu chuẩn và đo lường việc thực thi; (3) Chú trọng vào kiểm soát đầu ra; (4) Phân công chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong khu vực công; (5) Hướng đến sự cạnh tranh trong khu vực công; (6) Áp dụng phương pháp quản lý của khu vực tư trong hoạt động của khu vực công; (7) Sử dụng nguồn lực hiệu quả và tiết kiệm.

Cung cấp dịch vụ công: Cơ chế một cửa?

Học thuyết quản lý công và quản trị công mới là bước khởi đầu, đặt nền móng cho các quốc gia tổ chức thực hiện cải cách hành chính, đổi mới Chính phủ cũng như cải thiện chất lượng cung cấp dịch vụ công cho người dân. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là thiết kế cơ cấu tổ chức, bộ máy như thế nào sẽ là hiệu quả cho việc đem lại những dịch vụ tốt nhất cho người dân và tổ chức. Nhiều học giả trên thế giới đã nghiên cứu và chú trọng việc cần thiết phải đổi mới, cải cách cách thức cung cấp dịch vụ công, theo đó cần thiết nghiên cứu một mô hình phù hợp tạo điều kiện thuận lợi cho công dân và tổ chức tiếp cận được dịch vụ công của Nhà nước. Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu cũng đặt vấn đề Chính phủ Trung ương hay chính quyền địa phương sẽ là những chủ thể cung cấp dịch vụ công. Thực tiễn đã chỉ ra rằng đang có một xu hướng là chính quyền địa phương nên là nơi cung cấp dịch vụ công và cần thiết phải có cơ chế để nâng cao vai trò của chính quyền địa phương trong việc cung cấp dịch vụ công.

Sự cần thiết của cơ chế một cửa được đặt ra ở đây là việc dễ dàng tiếp cận, tin cậy, hiệu quả đối với các giao dịch hành chính, dịch vụ công mà người dân, tổ chức yêu cầu đối với cơ quan nhà nước. Cụm từ “Một cửa” (One-Stop Shop) được xuất hiện từ những năm 20 của thế kỷ 20 khi mà các doanh nghiệp tư nhân, các trung tâm thương mại mong muốn cải thiện cách thức kinh doanh của mình để tạo điều kiện cho khách hàng có thể dễ dàng tiếp cận việc mua hàng hóa. Cho tới những năm gần đây, cụm từ này tiếp tục được xuất hiện với việc phát triển của thương mại điện tử, kinh doanh trên internet. Trong những năm 80 của thế kỷ 20, nhiều Chính phủ trên thế giới đã bắt đầu tiếp cận phương thức này nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ và coi công dân, tổ chức như là những khách hàng của mình để phục vụ. De Araujo[2] đã chỉ ra rằng sự xuất hiện của cơ chế một cửa như là một cách thức mới để cải thiện mối quan hệ giữa cơ quan công quyềnđối với công dân và tổ chức trong việc giảm thiểu quan liêu, nâng cao tính thiết thực, hiệu quả của bộ máy hành chính và là điểm quan trọng để hiện đại hóa nền hành chính nhằm phục vụ tốt hơn cho công dân. Poddighe (2011)[3] cho rằng ý tưởng và khái niệm cơ chế một cửa xuất phát từ nhiều cách tiếp cận khác nhau để hướng tới một phương thức chung như là một phương tiện vận chuyển phải đối mặt với hàng rào hành chính trong quá trình cung cấp dịch vụ công, những hàng rào này bao gồm tiếp cận thông tin, cách tiếp cận thủ tục hành chính và tiếp cận với các cơ quan có chức năng cung cấp dịch vụ công. Hơn nữa, mục đích của cơ chế một cửa nhằm cải cách nền hành chính, khắc phục tính quan liêu, nhũng nhiễu của một bộ phận đội ngũ công chức trong nền công vụ. Tuy nhiên, xung quanh vấn đề cơ chế một cửa, cũng đã có nhiều tranh cãi rằng đây là một lý thuyết và phương thức mới của cải cách dịch vụ công hay đây chỉ là một cơ chế để giảm thiểu những quá trình phức tạp tại một đầu mối giữa cơ quan hành chính với người dân và doanh nghiệp và thông qua cơ chế hợp tác, phối hợp giữa các cơ quan công quyền có liên quan trong quá trình cung cấp dịch vụ công. Nhu cầu cần thiết của cơ chế một cửa được nhìn nhận theo cách tiếp cận của việc nâng cao năng lực của nền hành chính, tính minh bạch và trách nhiệm giải trình là yếu tố quan trọng để các quốc gia áp dụng thực hiện cơ chế một cửa. Tuy nhiên, đặt vấn đề từ phía các quốc gia đang phát triển với một hệ thống hành chính thứ bậc và quan liêu thì hơn lúc nào hết cần phải có học thuyết và những lý thuyết phù hợp cho sự vận hành của cơ chế một cửa. Đâu là cơ sở căn bản của việc ra đời cơ chế một cửa: Có thực sự nó cần thiết cho những mong muốn của người dân và tổ chức hay đó chỉ là một cơ chế hữu hiệu cần thiết cho một nền hành chính quan liêu, thậm chí là những sở thích nhất thời của các nhà chính trị. Mặt khác, cơ chế một cửa có thể như là những cố gắng trong quá trình thay đổi văn hóa công vụ dưới áp lực của truyền thống tổ chức. Hơn nữa, nhiều câu hỏi được đặt ra rằng một cửa là sự cải cách về quản lý hay là một sự dịch chuyển về lý thuyết tổ chức trong cung cấp dịch vụ công hoặc đó chỉ là một cái nhìn mới cho cách làm cũ của cung cấp dịch vụ công. Vấn đề đặt ra ở đây một cửa là một tổ chức hay chỉ là một cơ chế phối hợp của phương thức quản lý mới và hiện đại hóa nền hành chính. Ranh giới giữa lý thuyết khoa học tổ chức và sự chuyển giao nền hành chính quan liêu truyền thống tới học thuyết quản lý công mới, cũng như những ý tưởng về tổ chức dường như vẫn còn là một bước trở ngại lớn trong quá trình tổ chức thực hiện cơ chế một cửa.

Kinh nghiệm và thực tiễn của nhiều nước trên thế giới trong quá trình vận hành và tổ chức thực hiện cơ chế một cửa đã chỉ ra rằng đây là một cơ chế hữu hiệu để nâng cao tính hiệu quả của nền hành chính và giảm thiểu thời gian cho người dân và tổ chức khi đến giải quyết thủ tục hành chính với cơ quan công quyền tại một địa điểm. Một số quốc gia thiết lập và tổ chức thực hiện cơ chế một cửa trong cung cấp dịch vụ công tại cấp chính quyền trung ương, một số nước thì đặt theo đơn vị hành chính các cấp của chính quyền địa phương. Các quốc gia cũng đều chú trọng việc thiết lập cơ chế theo dõi, đánh giá tính hiệu quả của việc tổ chức thực hiện cơ chế một cửa và xây dựng các công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công.

2. Kinh nghiệm tổ chức thực hiện cơ chế một cửa tại một số quốc gia

2.1. Bồ Đào Nha

Bồ Đào Nha bắt đầu tổ chức thực hiện và thiết lập bộ phận một cửa từ năm 1999 với tên gọi là The Citizen Shops[4] (Tạm dịch là: Bộ phận tiếp công dân). Bộ phận này được thiết lập với mục đích thành lập những tổ chức hiện đại, cập nhật và hiện đại hóa ở các thành phố lớn để cung cấp dịch vụ công, thống nhất các dịch vụ công tại một đầu mối, cải thiện chất lượng dịch vụ công và được quản lý bởi MICS (Management Institue of Citizen Shops). Bộ phận tiếp công dân này được tổ chức thực hiện theo cơ chế một cửa phục vụ cho cả người dân và doanh nghiệp, các tổ chức công cũng như tổ chức tư nhân với hàng loạt dịch vụ công như cung cấp điện, nước, dịch vụ sức khỏe, đào tạo, việc làm… Cho tới năm 2008 đã có 72 triệu lượt người được cung cấp dịch vụ công.Bộ phận tiếp doanh nghiệp với những nội dung ở cách thức tổ chức thực hiện cũng tương tự như Bộ phận tiếp công dân. Bộ phận tiếp doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ công và tư nhân cho doanh nghiệp với các hoạt động bao gồm các bước trong chu kỳ kinh doanh: Thành lập doanh nghiệp, quản lý các hoạt động doanh nghiệp, mở rộng kinh doanh, đóng cửa hoặc bán doanh nghiệp. Ngoài ra, có hàng loạt dịch vụ công được cung cấp bởi Bộ phận ‘một cửa” như: Dịch vụ tại Chính phủ trung ương, thuế, an sinh xã hội, đăng ký (đất đai, kinh doanh, xe cộ, dân sự), chăm sóc sức khoẻ, lao động, nhập cư, giấy phép được cấp bởi một số Bộ, dịch vụ tại chính quyền địa phương, giấy phép cấp thành phố, dịch vụ cung cấp nước thành phố, dịch vụ tư nhân, ngân hàng, dịch vụ điện, nước, khí đốt, điện thoại di động, dịch vụ bưu điện.

2.2. Kinh nghiệm thực hiện cơ chế một cửa tại Kazakhstan

Cơ chế một cửa (OSS) (tiếng Nga gọi là “Centry obsluzhivaniya naseleniya”)[5]tại Kazakhstan được tổ chức thực hiện trong giai đoạn cải cách hành chính, đổi mới mô hình Chính phủ, áp dụng mô hình Quản lý công mới (New Public Management) và được xem như là một cách thức liên thông để cung cấp dịch vụ công, theo đó, dịch vụ công được cung cấp tại một trụ sở duy nhất thay vì tại nhiều toà nhà chính phủ khác nhau và trong một môi trường làm việc được trang bị hiện đại. Cơ chế một cửa là một nỗ lực của Chính phủ Kazakhstan nhằm làm giảm nạn quan liêu khi cung cấp các dịch vụ dân sự và nâng cao chất lượng của nền hành chính công của nước này. Mục tiêu là kết nối một loạt các dịch vụ công từ các bộ chính phủ để cung cấp cho người dân những dịch vụ tích hợp và dễ tiếp cận, dựa trên giả thiết rằng “bằng cách chú ý hơn nữa đến khách hàng, các cơ quan nhà nước có thể học hỏi để nâng cao chất lượng phục vụ và khi khách hàng chú ý đến sự thay đổi này, họ sẽ trở nên hài lòng hơn với dịch vụ được Nhà nước cung cấp”.

Cơ chế một cửa cũng là một phần không thể thiếu của Chính phủ điện tử ở Kazakhstan – một bước tiến của việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) và cơ sở hạ tầng công nghệ của nước này. Trong giai đoạn đầu tiên, từ 12/2006 đến 12/2008, cơ chế một cửa đã được triển khai tại 3 Bộ: Bộ Tư pháp (MJ) – đóng vai trò điều phối cải cách, Cục quản lý tài nguyên đất (ALRM) và Bộ Quốc phòng (MD). Trong vòng 4 năm triển khai từ tháng 11/2005, số lượng các trung tâm một cửa đã tăng lên nhanh chóng từ 4 trung tâm lên tới 300 trung tâm cấp khu vực và làng với trên 10.000 nhân viên.

Giống như nhiều quốc gia khác đang trong bối cảnh chuyển đổi, tổ chức quy trình công việc và việc tổ chức thực hiện cơ chế một cửa được nhìn nhận cũng như được giới thiệu với mục đích “làm giảm nguy cơ tham nhũng và nâng cao chất lượng dịch vụ công” và được trông đợi sẽ hoàn thiện dịch vụ công truyền thống với chất lượng tốt hơn, dễ dàng tiếp cận hơn và trong môi trường thân thiện hơn. “Những sự thay đổi này được đánh giá cao bởi người dân vốn đã quen với việc bị yêu cầu phải đi hết cơ quan công quyền này đến cơ quan khác bởi những công chức kém năng động và thiếu quan tâm đến khách hàng”[6].

Tuy nhiên, các công chức ở bộ phận một cửa tại Kazakhstan không có quyền quyết định để giải quyết các yêu cầu của công dân, doanh nghiệp, khách hàng. Mục tiêu trọng tâm ở đây là tạo sự thuận tiện và nhanh chóng trong việc tiếp nhận và giải quyết các yêu cầu của người dân. Vì thế, hoạt động của bộ phận một cửa chỉ hạn chế trong việc vận hành kỹ thuật như một trung gian giữa cơ quan hành chính với người dân thay vì là một nơi cung cấp dịch vụ. Trên thực tế, bộ phận một cửa thu thập giấy tờ và gửi tới các cơ quan chính phủ theo một quy trình hành chính tương tự như trước đó khi chưa có cơ chế một cửa. Bản chất của vấn đề là cơ chế một cửa tại Kazakhstan chỉ giới hạn trong các sử dụng các bộ phận một cửa để tiếp nhận dịch vụ và thông tin trong khi thực tiễn các nước trên thế giới cho thấy cơ chế một cửa có thể được sử dụng như một trung tâm cung cấp dịch vụ độc lập, nơi có quyền đưa ra các quyết định. Đồng thời với việc thực hiện cơ chế một cửa tại một số cơ quan Chính phủ thì vẫn còn những nơi cung cấp dịch vụ công có cách thức hoạt động như một cơ quan song song cùng tồn tại đồng thời với các cơ quan cung cấp dịch vụ theo kiểu truyền thống – nơi màviệc cung cấp nhiều dịch vụ một lúc còn hạn chế thay vì hoạt động như một cơ quan duy nhất cung cấp dịch vụ công.

Nhiều ý kiến cho rằng những dịch vụ được cung cấp bởi Bộ Tư pháp đóng vai trò là cơ quan điều phối được cung cấp thông qua bộ phận một cửa “nhằm làm giảm những điểm cung cấp dịch vụ công riêng lẻ dẫn đến giảm nguy cơ tham nhũng” trong khi đó những cơ quan Chính phủ khác vẫn tiếp tục cung cấp những dịch vụ cùng song hành với Bộ phận một cửa tại các cơ quan Chính phủ khác. Cung cấp dịch vụ công vẫn phải đối mặt với sự phản đối mạnh mẽ từ các cán bộ, nhà quản lý cao cấp, những người lo sợ sẽ bị mất quyền lực, nguồn lợi và cả những nguồn thu bất hợp pháp. Những nhà quản lý cấp trung và những nhân viên cũng tỏ ra lưỡng lự trong việc áp dụng sự thay đổi trong cách làm việc và vai trò của họ từ những người cung cấp dịch vụ trở thành nhân viên nghiệp vụ đơn thuần không tiếp xúc trực tiếp với khách hàng (back-office staff)[7].

Tất nhiên, đánh giá việc tổ chức thực hiện cơ chế một cửa tại Kazakhstan đã cho cái nhìn lạc quan về cách thức cung cấp dịch vụ công một cách tốt hơn, trong một không gian hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin và theo những cách dễ tiếp cận hơn. Cơ chế một cửa đã cải thiện việc tiếp cận của người dân với các dịch vụ công thông qua việc giới thiệu các kênh cung cấp đa dạng: giao dịch trực tiếp (face-to-face contact), tổng đài điện thoại, bưu điện, công nghệ điện thoại di động, và các quầy thông tin. Vì vậy, các bộ phận một cửa đã đưa ra nhiều lựa chọn đa dạng hơn cho người dân để lựa chọn sử dụng dịch vụ tại các bộ phận một cửa hay các bộ phận truyền thống.

Ở cấp chính quyền địa phương, cơ chế một cửa có những quyền tự chủ riêng biệt và tách khỏi sự chi phối từ các cơ quan Chính phủ trung ương. Tuy nhiên, về cách thức quản lý và điều hành, kiểm soát từ Chính phủ trung ương, thực hiện cơ chế một cửa ở chính quyền địa phương cho thấy vẫn có những cơ quan đại diện cho các bộ phận hoạt động của Bộ Tư pháp (cung cấp 16 dịch vụ pháp luật trên tổng số 25) và đảm bảo việc duy trì những điều kiện cần thiết để cơ chế một cửa hoạt động có hiệu quả (như việc phân bổ ngân sách, hỗ trợ cơ sở hạ tầng, nhân lực, công nghệ). Bộ Tư pháp vẫn có khả năng ảnhhưởng tới tất cả các quyết định của các nhà quản lý bộ phận một cửa: Liên quan tới việc xây dựng ngân sách, các phương án cung cấp dịch vụ, công tác với chính quyền địa phương và cung cấp các thống kê hoạt động. Để tăng cường việc kiểm soát hoạt động bên trong bộ phận một cửa, một cơ quan được gọi là “Trung tâm kiểm soát tình huống” đã được thành lập (Situational Centre). Trung tâm này sử dụng hệ thống ghi hình của CCTV (camera ghi hình quan sát) kết hợp với việc kiểm soát các chỉ số thống kê hoạt động trực tuyến (ví dụ như số lượng vụ việc đã được xử lý/ số lượng văn bản đã ban hành/ số lượng khách hàng đã được phục vụ, thời gian giải quyết vụ việc). Tất cả các dữ liệu, bao gồm cả việc ghi hình quá trình tương tác dịch vụ khách hàng và số liệu thống kê, được thu thập, lưu trữ tại trụ sở của Bộ Tư pháp ở thủ đô Astana.

Công cụ đánh giá việc thực hiện Cơ chế một cửa cũng được thực hiện có hiệu quả ở Kazakhstan. Các dịch vụ công tại bộ phận một cửa được cung cấp qua nhiều kênh: Qua gặp trực tiếp, và qua truyền thông; các tiêu chuẩn và quy định dịch vụ được nâng cao đã làm cho thông tin trở nên minh bạch hơn với người dân (tốc độ xử lý dịch vụ, lệ phí, yêu cầu); thủ tục khiếu nại đã được sử dụng để chấp thuận và xem xét những khiếu nại của người dân; hệ thống đánh giá hoạt động dựa trên việc kiểm soát những số liệu định tính được tạo ra. Cơ chế một cửa đã thiết lập một cấu trúc tập trung vào phong cách quản lý của khu vực tư nhân rồi định hướng một mô hình cung cấp dịch vụ công mới với việc sử dụng các sáng kiến trong khu vực công. Trong điều kiện đánh giá hoạt động thực tiễn cơ chế một cửa ở Kazakhstan trong những năm gần đây, vẫn còn nhiều đánh giá, nhận định cho rằng cơ chế một cửa có sự liên hệ với các đặc điểm của nền hành chính truyền thống đó là: (1) Không thể phân quyền cho những người làm việc trong Bộ phận một cửa; (2) Không thể tích hợp các dịch vụ công trong một điểm giao dịch duy nhất; (3) Không thể cải thiện được việc đánh giá chất lượng hoạt động dựa vào ý kiến người dân; (4) Mặc dù cơ chế một cửa có đào tạo cán bộ nhưng vẫn hạn chế quyền tự quyết và hành vi của họ trong những quy định và hướng dẫn nghiêm ngặt và không tạo điều kiện để họ thay đổi những cách thức làm việc cũ; (5) Cơ chế một cửa chưa thể giảm được nạn quan liêu và tham nhũng.

2.3. Kinh nghiệm thực hiện cơ chế một cửa của Indonesia

Indonesia đã trải qua một thời gian dài để hồi phục sau cuộc khủng khoảng tài chính Châu Á vào năm 1997, Chính phủ đã đưa ra một loạt các sáng kiến quan trọng để đáp ứng được những thách thức phát triển lâu dài và tiến hành những cải cách cần thiết cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước trong việc phát triển kinh tế và tăng số lượng việc làm. Trong khi Chính phủ trung ương đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội và cấu trúc nền hành chính quốc gia, chính quyền địa phương vẫn có một vai trò thiết yếu trong việc tạo lập môi trường pháp lý và phân bổ chi tiêu công (hơn một nửa chi tiêu phát triển diễn ra ở cấp địa phương). Một số chính quyền địa phương đã thúc đẩy tự do mới để tạo ra một môi trường kinh doanh năng động, đặc biệt, sự phân quyền cho chính quyền địa phương ở Indonesia diễn ra từ năm 2001 đã ảnh hưởng lớn đến việc quản lý hành chính thuế và phí. Các giấy phép cấp địa phương và các quy trình liên quan đã tạo ra một rào cản lớn đối với nền kinh tế địa phương. Các nghiên cứu chỉ ra rằng chính quyền địa phương đã tạo ra khoảng 6000 loại thuế và phí mới trong suốt giai đoạn từ năm 2000 cho tới giữa năm 2005. Phần lớn các khoản thu mới này là các giấy phép và phí sử dụng. Khó khăn của việc tuân thủ theo các yêu cầu cấp giấy phép là cản trở chính với các nhà kinh doanh và hậu quả là chỉ một phần nhỏ các doanh nghiệp chính thức hoá các hoạt động của họ, dẫn đến việc tiếp cận hạn chế đối với các nguồn lực tài chính và thị trường, cũng như tiềm năng phát triển. Quỹ Châu Á (The Asia Foundation)[8] đã xây dựng một chương trình phát triển kinh tế kết hợp hỗ trợ kỹ thuật cho chính quyền địa phương và vận động cải cách khu vực tư nhân. Phương pháp tiếp cận bao gồm bốn chương trình liên kết chặt chẽ và hỗ trợ nhau:

– Cơ chế một cửa: Chương trình nhằm giúp chính quyền đia phương xử lý giấy phép hiệu quả hơn qua việc sử dụng các bộ phận một cửa. Đây là nơi kết hợp việc quản lý của nhiều bộ chuyên môn riêng biệt với nhau thành một cơ quan nơi có thể xử lý nhanh chóng việc cấp giấy phép.

– Chương trình đánh giá tác động pháp lý: Chương trình nhằm hỗ trợ chính quyền địa phương thực hiện việc đánh giá tác động pháp lý như một nhiệm vụ thường xuyên khi soạn thảo các quy định mới. Chương trình bổ sung và hỗ trợ cho Cơ chế một cửa trong việc giúp đỡ Chính phủ rà soát lại các quy định liên quan đến giấy phép kinh doanh.

– Chương trình tăng cường các hiệp hội doanh nghiệp:Đây là thành phần thứ 3 nhằm tạo ra các mạng lưới hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ SME (Forum Daerah-Forda) để nâng cao tiếng nói trong việc cải cách. Chương trình này nhằm tạo ra những áp lực cần thiết cho việc cải cách và giữ cho Chính phủ có trách nhiệm sau khi các hỗ trợ kỹ thuật kết thúc.

– Xếp hạng môi trường kinh doanh: Thành tố thứ tư này bao gồm một cuộc điều tra mức độ cạnh tranh hàng năm nhằm xếp hạng các tỉnh và thành phố theo mức độ thân thiện trong kinh doanh theo cơ sở hạ tầng, dịch vụ công và chính sách phát triển. Một yếu tố chủ chốt của cuộc điều tra này là chất lượng và chi phí cho các dịch vụ cấp phép tại địa phương.

* Đăng ký kinh doanh và quy trình cấp phép

Quy trình bắt đầu bằng việc thành lập pháp lý của doanh nghiệp, bao gồm việc sở hữu và hợp pháp hoá luật công ty và mã số đăng ký thuế. Trước khi thực hiện cơ chế một cửa, Indonesia được xem là một trong những nơi xử lý quy trình này lâu nhất thế giới, tới 75 ngày. Tuy nhiên, cải cách tại bộ Tư pháp đã làm giảm thời gian này xuống còn 22 ngày.

* Quy trình cấp phép Chính phủ và các cấp ban hành

Cơ chế một cửa tại Indonesia được thực hiện dưới nhiều hình thức. Vị trí của Cơ chế một cửa trong nền hành chính địa phương, có thể xem xét 3 yếu tố: nền tảng pháp lý, cấp độ tổ chức, và thẩm quyền hoạt động. Nền tảng pháp lý: Xu hướng thiết lập cơ chế một cửa ở cấp địa phương được phát động từ giữa những năm 1990. Tuy nhiên, trước khi diễn ra việc phân quyền cho địa phương, các cơ quan cấp phép là một phần của cấu trúc chính phủ quốc gia, không có sự tích hợp cấp phép kinh doanh cho tới sau khi diễn ra sự phân quyền. Bộ Nội Vụ đã ban hành một thông tư vào năm 1997 hướng dẫn chung việc xây dựng cơ chế một cửa tại địa phương. Vào năm 2006, nằm trong chiến lược cải cách môi trường đầu tư của Chính phủ, Bộ Nội vụ đã ban hành một Nghị định hướng dẫn cụ thể về việc thành lập Bộ phận một cửa. Chính quyền địa phương tuân thủ theo những quy định của Chính phủ. Tuy nhiên, nhận thức của chính quyền địa phương đối với nền tảng pháp lý quốc gia đối với việc thành lập Cơ chế một cửa là khác nhau. Nghị quyết của chính phủ chỉ cung cấp những sự tham khảo pháp lý, chính quyền địa phương không bắt buộc phải thành lập cơ chế một cửa.

Những địa phương muốn thành lập cơ chế một cửa có thể ban hành một Nghị định được thông qua bởi Thị trưởng hoặc người đứng đầu; hay Bản Quy chế của địa phương mình (Perda) được thông qua bởi chính quyền địa phương. Nghị định có thể dễ dàng thay đổi hoặc bãi bỏ khi có Thị trưởng hoặc người đứng đầu mới; trong khi đó, sẽ khó khăn hơn để thay đổi Quy chế vì nó yêu cầu sự chấp thuận của chính quyền địa phương. Cho tới nay có khoảng 440 chính quyền địa phương các cấp tổ chức thực hiện cơ chế một cửa.

Cơ chế một cửa có thể được thực hiện ở nhiều cấp độ tổ chức khác nhau:

– Cấp độ đầu tiên là hình thức đơn vị (unit form), đây là cấp độ thấp nhất và thường là ít hiệu quả nhất. Đơn vị một cửa chỉ đơn giản là quầy giao dịch nhận đơn xin cấp phép mà không có thẩm quyền để phê duyệt. Họ vẫn sẽ chuyển những đơn thư đến những cơ quan chuyên môn liên quan có thẩm quyền ban hành giấy phép.

– Cấp độ thứ hai là hình thức văn phòng (office or kantor OSS). Loại hình này thường nhận đơn thư và phối hợp xử lý số đơn xin cấp phép này với các chuyến công tác thực địa của các bộ phận chuyên môn.

– Cấp độ thứ ba và hiệu quả nhất, là tổ chức theo trung tâm xử lý một cửa (department or dinas OSS) hoặc, nơi có thể tiếp nhận, xử lý và phê duyệt đơn xin cấp phép. Mô hình này có sự tham gia của những công chức hành chính có chuyên môn cần thiết.

Cho tới nay những kinh nghiệm về cơ chế một cửa ở Indonesia vẫn còn những thách thức đặt ra giữa quyền quyết định xây dựng hình thức thực hiện cơ chế một cửa với rất ít thông tin hướng dẫn từ Chính phủ. Vì thiếu khả năng và thông tin, và mâu thuẫn không thể tránh khỏi với các nhóm lợi ích trong nền hành chính quan liêu, phần lớn chính quyền địa phương áp dụng hình thái đơn vị một cửa, nơi không có thẩm quyền quyết định và đơn giản chỉ là thêm một cơ quan mới vào chu trình cấp phép vốn đã phức tạp.

Những nhân tố thành công của việc thực hiện cơ chế một cửa tại Indonesia đã xác định một số đặc điểm chủ chốt của một Trung tâm một cửa thành công, đó là:

– Lãnh đạo chính quyền địa phương có quyết tâm cao. Chính quyền địa phương và đặc biệt là nhà lãnh đạo đóng một vị trí then chốt trong thành công của cải cách cấp phép và thiết lập cơ chế một cửa.

– Bộ phận một cửa có thẩm quyền ban hành giấy phép, dựa trên quy định địa phương.Theo quy định, luât pháp về bộ máy chính quyền địa phương (PP 8/2003) đã quy định cấp độ và phạm vi trách nhiệm của các cấp nhà nước khác nhau. Mô hình lý tưởng của cơ chế một cửa là cấp độ số 3 – các trung tâm xử lý một cửa (dinas). Người đứng đầu các trung tâm xử lý một cửa (Dinas) có thẩm quyền ký và ban hành giấy phép. Không giống như người đứng đầu của các đơn vị (unit) hay các văn phòng (office) chỉ có vai trò điều phối các dịch vụ cấp phép.

Nhiều ví dụ thành công của mô hình một cửa tại Indonesia (ví dụ như tại thành phố Sragen thuộc tỉnh Trung Java và thành phố Parepare thuộc tỉnh Nam Sulawesi) chỉ là ở cấp độ đơn vị (unit), nơi chính quyền địa phương đã giao cho người đứng đầu của Bộ phận một cửa quyền được ký và hợp pháp hoá giấy phép đã được xử lý bởi Bộ phận một cửa. Điều lệ địa phương cho người đứng đầu của Bộ phận một cửa quyền đối với quá trình cấp phép và thiết lập các tiêu chuẩn dịch vụ tối thiểu và các biện pháp thi hành. Nguồn nhân lực chuyên nghiệp và đạt trình độ cao cũng góp phần cho thực hiện cơ chế một cửa hiệu quả tại Indonesia. Những nơi mà Bộ phận một cửa thành công là do được đầu tư đáng kể (kể cả sử dụng ngân sách địa phương) vào quá trình bồi dưỡng nhân lực. Một vài địa phương cũng có những quy định về việc duy trì đội ngũ nhân viên để tránh việc ra đi của những nhân viên được đào tạo.

– Những lệ phí được tiêu chuẩn và minh bạch. Những bộ phận một cửa thành công thường công bố rộng rãi những thông tin này cho công chúng tại các văn phòng của họ, tờ rơi phân phát cho người dân và qua website. Nhiều bộ phận một cửa đã áp dụng hệ thống thanh toán điện tử để khách hàng không cần phải sử dụng tiền mặt.

– Thành công của bộ phận một cửa còn được quyết định bởi nhận thức của công chúng. Cơ chế một cửa có thể được quảng bá qua đài phát thanh, tài liệu, tờ rơi và biển quảng cáo ở các địa điểm công cộng hoặc các chiến dịch thông tin trực tiếp được tiến hành bởi các nhân viên của bộ phận một cửa.

3. Những vấn đề đặt ra liên hệ thực tiễn với Việt Nam

Có thể thấy cơ chế một cửa được áp dụng và thực hiện tại 3 quốc gia Bồ Đào Nha, Kazakhstan và Indonesia đã đem lại những hiệu quả nhất định trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia. Đây là những quốc gia có quá trình đổi mới, cải cách hành chính và phát triển kinh tế – xã hội trong bối cảnh gần giống với Việt Nam. Trong quá trình thực hiện cải cách đó, Bồ Đào Nha đứng vị trí số 1 trong bảng xếp hạng các nước mới gia nhập EU27+ về mức độ có sẵn và phức tạp của các chỉ số về dịch vụ công trực tuyến.Kazakhstan với tham vọng trở thành một trong 30 nước giàu nhất thế giới vào năm 2050 và Indonesia hiện nằm trong nhóm G20, nhóm của 20 quốc gia có nền kinh tế lớn nhất thế giới.

Tại Việt Nam, thực hiện Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong những năm qua, các địa phương đã tập trung triển khai thực hiện cơ chế cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước các cấp từ cấp tỉnh, cấp huyện đến cấp xã để nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công, góp phần từng bước làm thay đổi cơ bản mối quan hệ giữa chính quyền và cá nhân, tổ chức theo hướng hành chính phục vụ, tạo thuận lợi cho cá nhân, tổ chức khi đến giao dịch với cơ quan hành chính. Nhiều địa phương đã chủ động triển khai thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông hiện đại tại Ủy ban Nhân dân cấp huyện. Trong số 700 đơn vị hành chính cấp huyện trong cả nước, hiện đã có 686 đơn vị triển khai thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông, đạt 98%. Những đơn vị hành chính cấp huyện cho đến nay chưa triển khai thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông đều là các huyện đảo, các huyện mới thành lập.

Cơ chế một cửa, một cửa liên thông hiện đại cũng đã bắt đầu xuất hiện với việc áp dụng công nghệ thông tin, các trang thiết bị hiện đại tại một số địa phương từ những năm 2006. Tính đến nay đã có 42/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đang triển khai cơ chế một cửa, một cửa liên thông hiện đại tại Ủy ban nhân dân cấp huyện, trong đó có 9 tỉnh, thành phố triển khai ở tất cả các đơn vị hành chính cấp huyện là Bà Rịa-Vũng Tàu, Bắc Giang, Bắc Ninh, Ninh Bình, Cần Thơ, Đà Nẵng, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Hải Phòng (không tính các huyện đảo của Hải Phòng và Đà Nẵng). Tính chung cả nước có 203/700 đơn vị hành chính cấp huyện đang triển khai cơ chế một cửa, một cửa liên thông hiện đại. Tuy nhiên, cũng như nhiều quốc gia khác, thực hiện cơ chế một cửa ở Việt Nam cần được nhìn nhận cụ thể hơn về cách thức đánh giá và đo lường thực chất hiệu quả của cơ chế một cửa, góp phần nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ hành chính công của cơ chế một cửa tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Công cụ đo lường quá trình thực thi của cơ chế một cửa cần được xem xét từ sự xuất hiện cùng với những giá trị truyền thống của nền hành chính, cách thức đánh giá và đây có thể được coi là những định hướng tương lai của cơ chế một cửa. Đồng thời với đó, cần phải giải quyết những vấn đề từ lý luận đến thực tiễn ở một số khía cạnh như:

(i) Làm thế nào để nền hành chính quan liêu truyền thống có thể ứng dụng Nền quản lý công mới hướng tới khách hàng trong bối cảnh đất nước đang chuyển đổi và cải cách hành chính?

(ii) Liệu cơ chế một cửa có thật sự là một sự cải cách hay chỉ là diện mạo mới cho cách cung cấp dịch vụ trước đây, làm thế nào để nâng cao chất lượng cơ chế một cửa?

(iii) Khung thể chế và văn hoá thống trị trong hệ thống đang kìm hãm các cải cách dịch vụ công theo những cách nào?

Cần thiết phải hoàn thiện các cơ chế và quy định về phân cấp, quy định rõ quy trình trách nhiệm, cơ chế khen thưởng cho đội ngũ công chức làm việc tại bộ phận một cửa cũng như nghiên cứu và sử dụng các công vụ đo lường hiệu quả hoạt động của bộ phận một cửa. Tại Indonesia đã xây dựng, phát triển và áp dụng Chỉ số đánh giá hiệu quả hoạt động bộ phận một cửa (OSS Performance Index) từ năm 2007[9].Kinh nghiệm tại Kazakhstan cho thấy thực hiện cơ chế một cửa phụ thuộc từ việc cấp kinh phí của bộ Tư pháp và được cấp kinh phí hoạt động bởi Bộ này thông qua quá trình cấp ngân sách thông thường mà không có bất kỳ sự tự chủ nào về quản lý tài chính. Thực tế này hoàn toàn khác xa với xu hướng mà Nền quản lý công mới hướng tới, đó là việc phân cấp ngân sách và phân quyền khỏi cấp Trung Ương. Đồng thời, khen thưởng được ghi nhận thông qua các báo cáo thống kê dựa trên số lượng dịch vụ được cung cấp mà không tính đến đánh giá độ hài lòng của người dân. Báo cáo phân tích hiệu quả chi phí của việc đầu tư lớn và chi phí hoạt động không được công bố rộng rãi cho công chúng. Trong khi nhiều nước công nghệ hoá cả bộ phận giao dịch trực tiếp và bộ phận chuyên môn giải quyết vấn đề, cơ chế một cửa tại Kazakhstan chỉ tập trung vào bộ phận giao dịch trực tiếp bằng việc đầu tư trụ sở làm việc hiện đại, trang thiếp bị mới, tiến bộ công nghệ mà không cải thiện chiều sâu quy trình làm việc cuả các bộ phận chuyên môn giải quyết trực thuộc các bộ ngành.

Trong lý thuyết nền quản lý công mới, đánh giá mức độ hài lòng của khách hàng được xem như trong một trong những kỹ năng để thu thập những số liệu quan trọng và nâng cao chất lượng. Những tiêu chuẩn rõ ràng và thước đo hoạt động là những yếu tố khác của nền quản lý công mới. Tuy nhiên, với cơ chế một cửa, mặc dù tiêu chuẩn cung cấp dịch vụ và quy định đã được giới thiệu, sự đánh giá hoạt động vẫn còn mập mờ. Việc tăng cường chất lượng và hiệu quả của cung cấp dịch vụ vẫn làm theo quy trình truyền thống từ trên xuống, tức là chính phủ Trung ương quyết định loại hình dịch vụ được cung cấp mà không tham khảo ý kiến nhân dân. Đây là những bài học kinh nghiệm hữu ích đối với Việt Nam nhằm nâng cao hơn nữa và tổ chức thực hiện có hiệu quả cơ chế một cửa, góp phần nâng cao chỉ số hài lòng người dân và tổ chức, bảo đảm sự hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước đạt mức trên 60% trong giai đoạn 2011-2015 và mức độ hài lòng của người dân và doanh nghiệp đối với sự phục vụ của các cơ quan hành chính nhà nước đạt mức trên 80% vào năm 2020 theo như Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 8/11/2011 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 đã đưa ra.

Ths. Nguyễn Mạnh Cường

Vụ Cải cách hành chính – Bộ Nội vụ



[1] Hood, Christopher. 1991. A Public Management for All Seasons? Public Administration 69 (1): 3-19.

[2] De Araújo, J. F. F. E. (2001) “Improving public service delivery: The crossroads between NPM and traditional bureaucracy” (tạm dịch: Nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công: Sự giao thoa giữa quản lý công mơi và nền hành chính quan liêu truyền thống) , Public Administration, 79 (4), pp. 915-932.

[3]Poddighe, F. (2011) “Lean production and one-stop shop for municipal sẻvieces” (tạm dịch: Hướng tới sản lượng và cơ chế một cửa cho các dịch vụ công ích) , Public Administration and Management, 16 (1), pp. 1-20.

[4] Cơ chế một cửa – Dễ dàng hơn, nhanh hơn và rẻ hơn – Kinh nghiệm Bồ Đào Nha (Luís Goes Pinheiro, Trưởng bộ phận nhân sự,Văn phòng Ban Thư ký hiện đại hóa hành chính, 2010).

[5] One stop shop in Kazakhstan: Breaking –up traditional bureaucracy or a new look for old practice? (Tạm dịch: Một cửa tại Kazahkstan: Phá vỡ tính quan liêu hay một cái nhìn mới cho cách làm cũ).

[6]Thông điệp của Tổng thống Cộng hoà Kazakhstan tới người dân vào tháng 2/2005, “Kazakhstan trên đường đẩy mạnh hiện đại hoá kinh tế, xã hội và chính trị”.

[7]Thuật ngữ “back-office staff” dùng để chỉ những nhân viên làm nhiện vụ giải quyết các văn bản và không làm việc trực tiếp với khách hàng, ngược lại với các “front-office staff” (giao dịch viên) là những người tư vấn và chấp nhận đơn thư trực tiếp từ khách hàng.

[8]Giấy phép kinh doanh và cơ chế một cửa ở Indonesia, Tiến sĩ Liesbet Steer, (The Asia Foundation, 11/2006).

[9]Measuring One Stop Shop Performance in Indonesia (tạm dịch: Đo lường hiệu quả hoạt động cơ chế một cửa), Asia Foundation, tháng 8/2007.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Đã xóa án tích có đủ điều kiện kết nạp đảng
Đã xóa án tích có đủ điều kiện kết nạp đảng

Câu hỏi được gửi từ khách hàng:

Tôi bị kết án cố ý gây thương tích 1 năm, đã thực hiện xong án phạt, và cũng hết thời gian xóa án tích rồi, như vậy tôi có đủ điều kiện để kết nạp đảng không?

Luật sư Tư vấn Đã xóa án tích có đủ điều kiện kết nạp đảng – Gọi 1900.0191

Công ty Luật LVN

Xin cảm ơn quý khách đã tin tưởng và gửi thắc mắc đến Công ty Luật LVN. Đối với câu hỏi này, dựa trên những thông tin mà khách hàng cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ghi nhận tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các văn bản thỏa thuận được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam. Chúng tôi đưa ra trả lời như sau:

1./ Thời điểm xảy ra tình huống pháp lý

Ngày 30 tháng 01 năm 2018

2./ Cơ sở văn bản Pháp Luật áp dụng

Bộ luật Hình sự 2015;

Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam;

Quy định 29-QĐ/TW Quy định thi hành điều lệ Đảng.

3./ Luật sư trả lời

Điều 1 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định về Đảng viên như sau:

Điều 1.

  1. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng.
  2. Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên; thừa nhận và tự nguyện: thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng.

Theo đó, người muốn làm Đảng viên phải là người chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước. Do bạn là người đã bị kết án về tội cố ý gây thương tích nên việc được kết nạp thành Đảng viên cần được xem xét. Tiêu chuẩn về kết nạp lại người vào Đảng được quy định trong Quy định 29-QĐ/TW dưới đây:

3.5- Về kết nạp lại người vào Đảng

3.5.1- Người được xét kết nạp lại phải có đủ các điều kiện sau:

a) Có đủ điều kiện và tiêu chuẩn của người vào Đảng quy định tại Điều 1 Điều lệ Đảng.

b) Ít nhất là 36 tháng kể từ khi ra khỏi Đảng (riêng người bị án hình sự về tội ít nghiêm trọng thì phải sau 60 tháng kể từ khi được xóa án tích), làm đơn xin kết nạp lại vào Đảng; phải được ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy (hoặc tương đương) đồng ý bằng văn bản, cấp ủy có thẩm quyền (huyện ủy và tương đương) xem xét, quyết định.

c) Thực hiện đúng các thủ tục nêu ở các Khoản 1, 2, 3 Điều 4 Điều lệ Đảng.

3.5.2- Đối tượng không xem xét kết nạp lại.

Không xem xét, kết nạp lại những người trước đây ra khỏi Đảng vì lý do: Tự bỏ sinh hoạt đảng; làm đơn xin ra Đảng (trừ trường hợp vì lý do gia đình đặc biệt khó khăn); gây mất đoàn kết nội bộ nghiêm trọng; bị kết án vì tội tham nhũng; bị kết án về tội nghiêm trọng trở lên.

3.5.3- Chỉ kết nạp lại một lần.

3.5.4- Những đảng viên được kết nạp lại phải trải qua thời gian dự bị.

Theo đó, do bạn không nói rõ trường hợp của mình nên chúng tôi đặt ra các giả thiết sau:

Nếu bạn bị kết án về tội nghiêm trọng trở lên thì dù bạn đã được xóa án tích thì bạn vẫn không đủ điều kiện để được kết nạp vào Đảng.

Nếu bạn bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng mà đã được kết nạp lại vào Đảng rồi thì bạn cũng không đủ điều kiện để được kết nạp lại vào Đảng.

Nếu bạn bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng và chưa kết nạp hoặc đã kết nạp nhưng chưa kết nạp lại vào Đảng lần nào thì phải sau 60 tháng kể từ khi được xóa án tích bạn mới được quyền xin kết nạp hoặc xin kết nạp lại vào Đảng.

Căn cứ vào Điều khoản được ghi trong bản án hình sự của mình, bạn xác định loại tội mà mình đã phạm phải như sau:

Tội phạm ít nghiêm trọng theo Điều 9.1 Bộ luật Hình sự 2015 là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự 2015 quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm.

Tội phạm nghiêm trọng theo Điều 9.2 Bộ luật Hình sự 2015 là tội có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự 2015 quy định đối với tội ấy là từ 03 năm đến 07 năm tù.

Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự 2015 quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù;

Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự 2015 quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

Trên đây là tư vấn của Công ty Luật LVN đối với trường hợp của quý khách. Nếu còn vướng mắc hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác quý khách vui lòng liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật qua điện thoại miễn phí số: 1900.0191 để được giải đáp nhanh nhất.

Sự hài lòng của quý khách là nỗ lực của chúng tôi!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hợp nhất phần đất mua thêm bên cạnh thành một được không
Hợp nhất phần đất mua thêm bên cạnh thành một được không

Câu hỏi được gửi từ khách hàng:

Nhà tôi rộng 32m2 tại quận Đống Đa thành phố Hà Nội, nay tôi muốn mua thêm 1 phần diện tích của nhà bên cạnh là 12m2 để hợp thành nhà tôi cho rộng rãi thì có được không, có thủ tục pháp lý cho phép như vậy không, xin cảm ơn!

Luật sư Tư vấn Hợp nhất phần đất mua thêm bên cạnh thành một được không – Gọi 1900.0191

Công ty Luật LVN

Xin cảm ơn quý khách đã tin tưởng và gửi thắc mắc đến Công ty Luật LVN. Đối với câu hỏi này, dựa trên những thông tin mà khách hàng cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ghi nhận tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các văn bản thỏa thuận được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam. Chúng tôi đưa ra trả lời như sau:

1./ Thời điểm xảy ra tình huống pháp lý

Ngày 23 tháng 01 năm 2018

2./ Cơ sở văn bản Pháp Luật áp dụng

Luật Đất đai 2013;

Nghị định 43/2014/NĐ-CP Nghị định quy định chi tiết thi hành một số Điều khoản của luật Đất đai số 45/2013/QH13;

Thông tư 24/2014/TT-BTNMT Thông tư quy định về hồ sơ địa chính.

3./ Luật sư trả lời

Khoản 3 Điều 3 Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định như sau:

Điều 3 Xác định loại đất.

3. Trường hợp thửa đất đang sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau (không phải là đất ở có vườn, ao trong cùng thửa đất) thì việc xác định loại đất được thực hiện theo quy định sau đây:

a) Trường hợp xác định được ranh giới sử dụng giữa các mục đích sử dụng thì tách thửa đất theo từng mục đích và xác định mục đích theo hiện trạng sử dụng của từng thửa đất đó;

b) Trường hợp không xác định được ranh giới sử dụng giữa các mục đích thì mục đích sử dụng đất chính được xác định theo loại đất hiện trạng có mức giá cao nhất trong bảng giá do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) quy định; trường hợp sử dụng đất sau khi có quy hoạch sử dụng đất đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt thì căn cứ vào quy hoạch sử dụng đất để xác định mục đích chính.

…”

Theo đó, các chỉ các thửa đất liền kề, có cùng mục đích sử dụng mới được hợp thửa. Nếu bạn muốn mua thêm một phần diện tích của nhà bên cạnh để hợp vào phần diện tích nhà  bạn cho rộng rãi thì trong trường hợp hai thửa đất đều đang là đất có cùng mục đích sử dụng thì bạn chỉ cần tiến hành thủ tục hợp thửa đất. Trong trường hợp thửa đất bạn mua thêm không có cùng mục đích sử dụng với thửa đất nhà bạn thì bạn phải thực hiện thêm thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất. Tuy nhiên, việc chuyển mục đích sử dụng đất còn phụ thuộc vào kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Ngoài ra nếu thuộc trường hợp được quy định tại Điều 57.1 Luật Đất đai 2013 thì bạn phải xin phép cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Quy trình, trình tự, thủ tục hợp thửa đất và chuyển mục đích sử dụng đất được căn cứ theo Điều 75.2 và Điều 69 Nghị định 43/2014/NĐ-CP được tiến hành như sau:

Trình tự, thủ tục thực hiện hợp thửa đất:

Bước 1: Người sử dụng đất nộp một bộ hồ sơ đề nghị hợp thửa:

Hồ sơ gồm:

  • Đơn đề nghị hợp thửa theo Mẫu số 11/ĐK ban hành kèm theo thông tư 24/2014/TT-BTNMT.
  • Bản gốc Giấy chứng nhận đã cấp.

Bước 2: Văn phòng đăng ký đất đai có trách nhiệm thực hiện các công việc sau:

  • Đo đạc địa chính để chia tách thửa đất;
  • Lập hồ sơ trình cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho người sử dụng đất đối với thửa đất mới hợp thửa;
  • Chỉnh lý, cập nhật biến động vào hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu đất đai; trao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho người được cấp hoặc gửi Ủy ban nhân dân cấp xã để trao đổi với trường hợp nộp hồ sơ tại cấp xã.

Trình tự, thủ tục, quy trình chuyển mục đích sử dụng đất:

Bước 1: Người sử dụng đất nộp đơn xin phép chuyển mục đích sử dụng đất kèm theo Giấy chứng nhận đến cơ quan tài nguyên và môi trường.

Bước 2: Cơ quan tài nguyên và môi trường có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ; xác minh thực địa, thẩm định nhu cầu chuyển mục đích sử dụng đất; hướng dẫn người sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; trình Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; chỉ đạo cập nhật, chỉnh lý cơ sở dữ liệu đất đai, hồ sơ địa chính.

Bước 3: Người sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định.

Trên đây là tư vấn của Công ty Luật LVN đối với trường hợp của quý khách. Nếu còn vướng mắc hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác quý khách vui lòng liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật qua điện thoại miễn phí số: 1900.0191 để được giải đáp nhanh nhất.

Sự hài lòng của quý khách là nỗ lực của chúng tôi!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Chuyển đất 5% thành đất ở được không
Chuyển đất 5% thành đất ở được không

Câu hỏi được gửi từ khách hàng: Chuyển đất 5% thành đất ở được không

Luật sư Tư vấn Chuyển đất 5% thành đất ở được không – Gọi 1900.0191

Công ty Luật LVN

Xin cảm ơn quý khách đã tin tưởng và gửi thắc mắc đến Công ty Luật LVN. Đối với câu hỏi này, dựa trên những thông tin mà khách hàng cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ghi nhận tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các văn bản thỏa thuận được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam. Chúng tôi đưa ra trả lời như sau:

1./ Thời điểm xảy ra tình huống pháp lý

Ngày 18 tháng 12 năm 2017

2./ Cơ sở văn bản Pháp Luật áp dụng

Luật Đất đai số 45/2013/QH13;

Thông tư 02/2015/TT-BTNMT Thông tư quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP và Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ.

3./ Luật sư trả lời

Theo quy định của pháp luật đất đai hiện hành, căn cứ mục đích sử dụng đất mà đất được chia làm nhiều loại khác nhau là nhóm đất nông nghiệp, nhóm đất phi nông nghiệp, nhóm đất chưa sử dụng. Thực tế, trong các văn bản pháp luật, không có loại đất nào được gọi là đất 5%. Tuy nhiên, chúng tôi hiểu rằng đất 5% mà bạn muốn nói tới là đất thuộc 5% diện tích đất do địa phương trích để lập quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích.

Theo quy định tại Điều 132 Luật đất đai 2013.

Điều 132. Đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích

1. Căn cứ vào quỹ đất, đặc điểm và nhu cầu của địa phương, mỗi xã, phường, thị trấn được lập quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích không quá 5% tổng diện tích đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất nuôi trồng thủy sản để phục vụ cho các nhu cầu công ích của địa phương.

Đất nông nghiệp do tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trả lại hoặc tặng cho quyền sử dụng cho Nhà nước, đất khai hoang, đất nông nghiệp thu hồi là nguồn để hình thành hoặc bổ sung cho quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn.

Đối với những nơi đã để lại quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích vượt quá 5% thì diện tích ngoài mức 5% được sử dụng để xây dựng hoặc bồi thường khi sử dụng đất khác để xây dựng các công trình công cộng của địa phương; giao cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản tại địa phương chưa được giao đất hoặc thiếu đất sản xuất.

2. Quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn để sử dụng vào các mục đích sau đây:

a) Xây dựng các công trình công cộng của xã, phường, thị trấn bao gồm công trình văn hóa, thể dục thể thao, vui chơi, giải trí công cộng, y tế, giáo dục, chợ, nghĩa trang, nghĩa địa và các công trình công cộng khác theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;

b) Bồi thường cho người có đất được sử dụng để xây dựng các công trình công cộng quy định tại điểm a khoản này;

c) Xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương.

3. Đối với diện tích đất chưa sử dụng vào các mục đích quy định tại khoản 2 Điều này thì Ủy ban nhân dân cấp xã cho hộ gia đình, cá nhân tại địa phương thuê để sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản theo hình thức đấu giá để cho thuê. Thời hạn sử dụng đất đối với mỗi lần thuê không quá 05 năm.

Tiền thu được từ việc cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích phải nộp vào ngân sách nhà nước do Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý và chỉ được dùng cho nhu cầu công ích của xã, phường, thị trấn theo quy định của pháp luật.

4. Quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất quản lý, sử dụng theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.

Căn cứ theo quy định nêu trên thì việc người dân có được quyền sử dụng đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích có hai trường hợp: thứ nhất, quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của địa phương vượt quá 5% nên địa phương đã sử dụng phần đất vượt quá này để bồi thường người dân khi sử dụng đất khác để xây dựng các công trình công cộng của địa phương; giao cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản tại địa phương chưa được giao đất hoặc thiếu đất sản xuất; thứ hai, được địa phương cho thuê để sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản đối với phần đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của địa phương nhưng chưa được sử dụng để xây dựng các công trình công cộng.

Quy định của Luật Đất đai 2014 về chuyển mục đích sử dụng đất như sau:

 

Điều 52. Căn cứ để giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất

1. Kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.

2. Nhu cầu sử dụng đất thể hiện trong dự án đầu tư, đơn xin giao đất, thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất.

Điều 57. Chuyển mục đích sử dụng đất

1. Các trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bao gồm:

a) Chuyển đất trồng lúa sang đất trồng cây lâu năm, đất trồng rừng, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối;

b) Chuyển đất trồng cây hàng năm khác sang đất nuôi trồng thủy sản nước mặn, đất làm muối, đất nuôi trồng thủy sản dưới hình thức ao, hồ, đầm;

c) Chuyển đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất sang sử dụng vào mục đích khác trong nhóm đất nông nghiệp;

d) Chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp;

đ) Chuyển đất phi nông nghiệp được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất sang đất phi nông nghiệp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc thuê đất;

e) Chuyển đất phi nông nghiệp không phải là đất ở sang đất ở;

g) Chuyển đất xây dựng công trình sự nghiệp, đất sử dụng vào mục đích công cộng có mục đích kinh doanh, đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp không phải là đất thương mại, dịch vụ sang đất thương mại, dịch vụ; chuyển đất thương mại, dịch vụ, đất xây dựng công trình sự nghiệp sang đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp.

2. Khi chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định tại khoản 1 Điều này thì người sử dụng đất phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; chế độ sử dụng đất, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất được áp dụng theo loại đất sau khi được chuyển mục đích sử dụng.

Do đó, người có quyền sử dụng đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích hoàn toàn có thể chuyển mục đích sử dụng đất.

Người sử dụng đất có nhu cầu chuyển mục đích sử dụng đất nộp 01 bộ hồ sơ đến Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh, hồ sơ gồm có:

  • Đơn đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất theo Mẫu số 09/ĐK ban hành kèm Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT;
  • Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận).

Trên đây là tư vấn của Công ty Luật LVN đối với trường hợp của quý khách. Nếu còn vướng mắc hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác quý khách vui lòng liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật qua điện thoại miễn phí số: 1900.0191 để được giải đáp nhanh nhất.

Sự hài lòng của quý khách là nỗ lực của chúng tôi!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Câu hỏi: Làm gì để được tạm hoãn nghĩa vụ quân sự

Em là con trai duy nhất trong gia đình sinh năm 1993, hiện bố em đã 67 tuổi, mẹ em thì đã mất, vậy em có được tạm hoãn nghĩa vụ quân sự không và cần làm thủ tục gì để được tạm hoãn.

Làm gì để được tạm hoãn nghĩa vụ quân sự
Làm gì để được tạm hoãn nghĩa vụ quân sự

Luật sư Tư vấn Làm gì để được tạm hoãn nghĩa vụ quân sự – Gọi 1900.0191

Công ty Luật LVN

Xin cảm ơn quý khách đã tin tưởng và gửi thắc mắc đề nghị được tư vấn luật đến Công ty Luật LVN. Để thuận tiện cho việc quý khách có thể theo dõi cũng như xem lại nội dung tư vấn của chúng tôi, bộ phận Tư vấn pháp luật đã biên tập lại nội dung thành các Ấn bản thông tin pháp luật miễn phí và đăng tải trên website: wikiluat.com và luatlvn.com.

Đối với câu hỏi này, dựa trên những thông tin mà khách hàng cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ghi nhận tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các văn bản thỏa thuận được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam. Chúng tôi đưa ra trả lời như sau:

1. Thời điểm sự kiện pháp lý

Ngày 27 tháng 07 năm 2017

2. Cơ sở pháp lý

Luật nghĩa vụ quân sự năm 2015

3. Luật sư trả lời

Luật nghĩa vụ quân sự 2015 có quy định các trường hợp tạm hoãn nghĩa vụ quân sự như sau:

“Điều 41. Tạm hoãn gọi nhập ngũ và miễn gọi nhập ngũ

1. Tạm hoãn gọi nhập ngũ đối với những công dân sau đây:

a) Chưa đủ sức khỏe phục vụ tại ngũ theo kết luận của Hội đồng khám sức khỏe;

b) Là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi dưỡng thân nhân không còn khả năng lao động hoặc chưa đến tuổi lao động; trong gia đình bị thiệt hại nặng về người và tài sản do tai nạn, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm gây ra được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận;

c) Một con của bệnh binh, người nhiễm chất độc da cam suy giảm khả năng lao động từ 61% đến 80%;

d) Có anh, chị hoặc em ruột là hạ sĩ quan, binh sĩ đang phục vụ tại ngũ; hạ sĩ quan, chiến sĩ thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân;

đ) Người thuộc diện di dân, giãn dân trong 03 năm đầu đến các xã đặc biệt khó khăn theo dự án phát triển kinh tế – xã hội của Nhà nước do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trở lên quyết định;

e) Cán bộ, công chức, viên chức, thanh niên xung phong được điều động đến công tác, làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật;

g) Đang học tại cơ sở giáo dục phổ thông; đang được đào tạo trình độ đại học hệ chính quy thuộc cơ sở giáo dục đại học, trình độ cao đẳng hệ chính quy thuộc cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong thời gian một khóa đào tạo của một trình độ đào tạo.”

Bạn đã có giấy gọi nhập ngũ tuy nhiên xét thấy bạn là “lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi dưỡng thân nhân không còn khả năng lao động hoặc chưa đến tuổi lao động” theo điểm b khoản 1 điều 41, gia đình bạn hiện tại chỉ có bạn và bà chung sống nên bạn được xác định là lao động duy nhất, vậy bạn được tạm hoãn nghĩa vụ quân sự.

Bạn cần có đơn xin tạm hoãn và được sự xác nhận của UBND cấp xã nơi bạn cư trú và gửi lên ban chỉ huy quân sự.

Việc xem xét giải quyết tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ quân sự dựa vào đơn đề nghị của người làm đơn có xác nhận của UNBN phường/xã nơi cư trú.

Thủ tục yêu cầu tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ quân sự:

+ Chuẩn bị Hồ sơ yêu cầu tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ quân sự bao gồm:

i) Bản chính đơn xin tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời bình

ii) Giấy tờ chứng minh đối tượng được tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời bình

+ Sau đó nộp tại UBND cấp xã để giải quyết.

Trường hợp Hội đồng nghĩa vụ quân sự địa phương không giải quyết thì dì bạn có quyền tiếp tục gửi đơn khiếu nại đến Hội đồng nghãi vụ quân sự quận/huyện để xem xét giải quyết.

      Trên đây là tư vấn của Công ty Luật LVN đối với trường hợp của quý khách. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác quý khách vui lòng liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật qua điện thoại miễn phí số: 1900.0191 để có thể được giải đáp nhanh nhất.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN


SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Câu hỏi:

Khi kết hôn tôi không chuyển hộ khẩu về bên chồng mà vẫn giữ hộ khẩu ở nhà mẹ, nay tôi có nhu cầu muốn đơn phương xin ly hôn, và chồng tôi không đồng ý ký đơn, tôi cũng không muốn đến quê chồng để nộp đơn mà muốn làm ở tòa án nơi mình đang sinh sống thì phải làm như thế nào?


Xin cảm ơn quý khách đã tin tưởng và gửi thắc mắc đề nghị được tư vấn luật đến Công ty Luật LVN. Để thuận tiện cho việc quý khách có thể theo dõi cũng như xem lại nội dung tư vấn của chúng tôi, bộ phận Tư vấn pháp luật đã biên tập lại nội dung và đăng tải trên website: wikiluat.com và luatlvn.com.

Đối với câu hỏi này, dựa trên những thông tin mà khách hàng cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ghi nhận tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các văn bản thỏa thuận được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam. Chúng tôi đưa ra trả lời như sau:

1. Thời điểm sự kiện pháp lý

Ngày 17 tháng 06 năm 2017

2. Cơ sở pháp lý

Bộ luật tố tụng dân sự 2015

3. Luật sư trả lời

Căn cứ theo quy định tại Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ được ghi nhận như sau:

Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau:

a) Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;

b) Các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;

c) Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết.

Thẩm quyền giải quyết việc dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau:

a) Tòa án nơi người bị yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi;

b) Tòa án nơi người bị yêu cầu thông báo tìm kiếm vắng mặt tại nơi cư trú, bị yêu cầu tuyên bố mất tích hoặc là đã chết có nơi cư trú cuối cùng có thẩm quyền giải quyết yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản của người đó, yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết;

c) Tòa án nơi người yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cư trú, làm việc có thẩm quyền hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

Tòa án đã ra quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết có thẩm quyền giải quyết yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết;

d) Tòa án nơi người phải thi hành bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án nước ngoài cư trú, làm việc, nếu người phải thi hành án là cá nhân hoặc nơi người phải thi hành án có trụ sở, nếu người phải thi hành án là cơ quan, tổ chức hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án nước ngoài;

đ) Tòa án nơi người gửi đơn cư trú, làm việc, nếu người gửi đơn là cá nhân hoặc nơi người gửi đơn có trụ sở, nếu người gửi đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết yêu cầu không công nhận bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam;

e) Tòa án nơi người phải thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài cư trú, làm việc, nếu người phải thi hành là cá nhân hoặc nơi người phải thi hành có trụ sở, nếu người phải thi hành là cơ quan, tổ chức hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài;

g) Tòa án nơi việc đăng ký kết hôn trái pháp luật được thực hiện có thẩm quyền giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật;

h) Tòa án nơi một trong các bên thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn;

i) Tòa án nơi một trong các bên thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.

Trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn thì Tòa án nơi người con đang cư trú có thẩm quyền giải quyết;

k) Tòa án nơi cha hoặc mẹ của con chưa thành niên cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn;

l) Tòa án nơi cha, mẹ nuôi hoặc con nuôi cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi;

m) Tòa án nơi tổ chức hành nghề công chứng đã thực hiện việc công chứng có trụ sở có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu;

n) Tòa án nơi cơ quan thi hành án có thẩm quyền thi hành án có trụ sở hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, phân chia tài sản chung để thi hành án và yêu cầu khác theo quy định của Luật thi hành án dân sự;

o) Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ giải quyết yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết tranh chấp được thực hiện theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại;

p) Tòa án nơi có tài sản có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận tài sản đó có trên lãnh thổ Việt Nam là vô chủ, công nhận quyền sở hữu của người đang quản lý đối với tài sản vô chủ trên lãnh thổ Việt Nam;

q) Tòa án nơi người mang thai hộ cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu liên quan đến việc mang thai hộ;

r) Tòa án nơi cư trú, làm việc của một trong những người có tài sản chung có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đã được thực hiện theo bản án, quyết định của Tòa án;

s) Tòa án nơi người yêu cầu cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án;

t) Tòa án nơi cư trú, làm việc của người yêu cầu có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố vô hiệu thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình; xác định cha, mẹ cho con hoặc con cho cha, mẹ theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình;

u) Tòa án nơi có trụ sở của doanh nghiệp có thẩm quyền giải quyết yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội cổ đông, nghị quyết của Hội đồng thành viên;

v) Tòa án nơi giao kết hoặc thực hiện hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể đó vô hiệu;

x) Tòa án nơi xảy ra cuộc đình công có thẩm quyền giải quyết yêu cầu xét tính hợp pháp của cuộc đình công;

y) Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ giải quyết yêu cầu bắt giữ tàu bay, tàu biển được thực hiện theo quy định tại Điều 421 của Bộ luật này.

Trường hợp vụ án dân sự đã được Tòa án thụ lý và đang giải quyết theo đúng quy định của Bộ luật này về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ thì phải được Tòa án đó tiếp tục giải quyết mặc dù trong quá trình giải quyết vụ án có sự thay đổi nơi cư trú, trụ sở hoặc địa chỉ giao dịch của đương sự.

Như vậy, căn cứ theo quy định trên thì trừ phi trong trường hợp bạn và chồng có thỏa thuận được bằng văn bản về việc chọn tòa án nơi bạn sống để giải quyết vụ việc ly hôn thì tòa án nơi bạn sống mới có thẩm quyền giải quyết, còn nếu không bạn bắt buộc phải nộp đơn xin ly hôn đơn phương tại tòa án nhân dân cấp huyện nơi chồng bạn đang cư trú.

Trên đây là tư vấn của Công ty Luật LVN đối với trường hợp của quý khách. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác quý khách vui lòng liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật qua tổng đài điện thoại số: 1900 0191 để có thể được giải đáp nhanh nhất.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN


 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Có thể gửi đơn xin ly hôn đơn phương từ nước ngoài và được xử vắng mặt không?

Tôi hiện đang du học ở nước ngoài, hôn nhân không đạt mục đích, cả hai hiện nay đều có cuộc sống riêng nên giờ tôi muốn ly hôn nhưng vợ tôi không đồng ý. Tôi không có điều kiện để về Việt Nam nên tôi muốn gửi đơn xin ly hôn về Việt Nam qua đường bưu điện thì có được chấp nhận không? Tôi không thể về Việt Nam dự phiên tòa thì tòa có xử cho tôi ly hôn được không? Tôi có thể cung cấp chứng cứ bằng hình ảnh về việc cả hai đã có cuộc sống riêng kèm theo hồ sơ ly hôn. Nếu được thì tôi phải chuẩn bị những giấy tờ gì để gửi về. Mong được giải đáp thắc mắc. Xin cảm ơn!

Gửi bởi: Visky Vũ

Trả lời có tính chất tham khảo

Về việc gửi đơn xin ly hôn tới tòa án Việt Nam qua đường bưu điện

Hiện nay, pháp luật cho phép người khởi kiện gửi đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đến Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án bằng phương thức gửi qua bưu điện. Điều 166 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 về việc gửi đơn khởi kiện đến tòa án quy định như sau:

Điều166.Gửi đơn khởi kiện đến Toà án

1. Người khởi kiện vụ án gửi đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đến Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án bằng các phương thức sau đây:

a) Nộp trực tiếp tại Toà án;

b) Gửi đến Toà án qua bưu điện.

2. Ngày khởi kiện được tính từ ngày đương sự nộp đơn tại Toà án hoặc ngày có dấu bưu điện nơi gửi.

Do đó, bạn được quyền gửi đơn xin ly hôn và tài liệu, chứng cứ kèm theo qua đường bưu điện đến Tòa án có thẩm quyền. Cácgiấy tờ, tài liệu để xin ly hôn tại Việt Nam cần chuẩn bị là:

– Đơn xin ly hôn (theo mẫu);

– Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn (bản chính);

– Sổ hộ khẩu, chứng minh thư nhân dân (bản sao chứng thực);

– Giấy khai sinh của con (bản sao chứng thực – nếu có);

– Các tài liệu, chứng cứ khác chứng minh tài sản chung như: GCNQSDĐ (sổ đỏ); Đăng ký xe; sổ tiết kiệm… (bản sao chứng thực);

Về việc xin xử ly hôn vắng mặt

Theo quy định tại Điều 202 được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011 thì trong một số trường hợp Tòa án vẫn có thể tiến hành xét xử khi vắng mặt các đương sự của vụ án dân sự.

“Điều 202. Xét xử trong trường hợp đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự vắng mặt tại phiên tòa

Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án trong các trường hợp sau đây:

1. Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người đại diện của họ vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt;

2. Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nhưng có người đại diện tham gia phiên tòa;

3. Các trường hợp quy định tại điểm b và điểm d khoản 2 Điều 199 của Bộ luật này.”

Theo quy định trên, khi không thể tham gia phiên tòa các đương sự có thể cử người đại diện tham gia phiên tòa thay cho mình hoặc viết đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Song, đối với vụ việc ly hôn, theo quy định tại khoản 3 Điều 73 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, đương sự không được uỷ quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng, cụ thể là:“người đại diện theo uỷ quyền được quy định trong Bộ luật dân sự là người đại diện theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự; đối với việc ly hôn, đương sự không được uỷ quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng.”

Như vậy, nếu bạn không có điều kiện về Việt Nam để tham gia phiên tòa, bạn phải làm đơn đề nghị xét xử vắng mặt tới Tòa án.

Các văn bản liên quan:

Luật 65/2011/QH12 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật Tố tụng Dân sự

Bộ luật 24/2004/QH11 Tố tụng dân sự

Trả lời bởi: CTV2

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quyền rút đơn xin ly hôn

Vừa qua, tôi đồng ý ký vào đơn ly hôn khi chồng tôi gửi đơn lên TAND quận Bình Tân. Cán bộ tòa án hẹn 9 ngày sau đến nhận quyết định ly hôn. Sau khi thỏa thuận vợ vhồng tôi quyết định muốn rút lại đơn ly hôn thì có được hay không và quyết định ly hôn cùa tòa đã có hiệu lực chưa? Xin chân thành cảm ơn!

Gửi bởi: Nguyen Le Thi Hoai Bich

Trả lời có tính chất tham khảo

Về việc chị đồng ý ký vào đơn ly hôn khi chồng chị gửi đơn lên TAND quận Bình Tân thì vụ án ly hôn của anh chị thuộc trường hợp thuận tình ly hôn theo quy định tại Điều 90 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.

Theo quy định tại điểm a mục 9 Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000:

“Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu xin ly hôn thì Toà án vẫn phải tiến hành hoà giải. Trong trường hợp Toà án hoà giải không thành thì Toà án lập biên bản về việc tự nguyện ly hôn và hoà giải đoàn tụ không thành. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản nếu vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng không có sự thay đổi ý kiến cũng như Viện Kiểm sát không có phản đối sự thoả thuận đó, thì Toà án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn mà không phải mở phiên toà khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:

– Hai bên thật sự tự nguyện ly hôn;

– Hai bên đã thoả thuận được với nhau về việc chia hoặc không chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con;

– Sự thoả thuận của hai bên về tài sản và con trong từng trường hợp cụ thể này là bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con.

Quyết định công nhận thuận tình ly hôn có hiệu lực pháp luật ngay, các bên không có quyền kháng cáo, Viện Kiểm sát không có quyền kháng nghị theo trình tự phúc thẩm”

Như vậy thời hạn để cả hai vợ chồng thay đổi ý kiến tối đa là 15 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải không thành. Kể từ ngày chị nộp đơn khởi kiện lên Tòa án quận Bình Tân đến ngày Tòa án hẹn đến lấy Quyết định ly hôn mới chỉ có 9 ngày chưa kể thời gian hòa giải. Như vậy trong khoảng thời gian này, hai vợ chồng chị vẫn có quyền thay đổi ý kiến và rút đơn ly hôn. Khi đó, Tòa án quận Bình Tân đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo khoản đ Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004:

“Các đương sự đã tự thoả thuận và không yêu cầu Toà án tiếp tục giải quyết vụ án”.

Bạn căn cứ theo các quy định nêu trên để áp dụng vào trường hợp của mình.

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 24/2004/QH11 Tố tụng dân sự

Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP Của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao số 02/2000/NĐ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000

Luật 22/2000/QH10 Hôn nhân và gia đình

Trả lời bởi: CTV7

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Câu hỏi: Nghỉ việc không báo trước không được trả lương đúng hay sai

Xin chào luật sư, em là công nhân đang làm việc tại Khu công nghiệp Thanh Oai, hiện nay do bố em bị bệnh, nên em phải xin nghỉ việc để ở nhà chăm sóc, nhưng khi em làm đơn xin nghỉ việc thì công ty yêu cầu phải báo trước 30 ngày, và vì em không báo trước nên sẽ không trả lương tháng này cho em, vậy công ty làm như vậy là đúng hay sai?


Nghỉ việc không báo trước không được trả lương đúng hay sai
Nghỉ việc không báo trước không được trả lương đúng hay sai

Luật sư Tư vấn Nghỉ việc không báo trước không được trả lương đúng hay sai – Gọi 1900.0191

Công ty Luật LVN

Xin cảm ơn quý khách đã tin tưởng và gửi thắc mắc đề nghị được tư vấn luật đến Công ty Luật LVN. Để thuận tiện cho việc quý khách có thể theo dõi cũng như xem lại nội dung tư vấn của chúng tôi, bộ phận Tư vấn pháp luật đã biên tập lại nội dung thành các Ấn bản thông tin pháp luật miễn phí và đăng tải trên website: wikiluat.com và luatlvn.com.

Đối với câu hỏi này, dựa trên những thông tin mà khách hàng cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ghi nhận tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các văn bản thỏa thuận được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam. Chúng tôi đưa ra trả lời như sau:

1. Thời điểm sự kiện pháp lý

Ngày 14 tháng 07 năm 2017

2. Cơ sở pháp lý

Bộ luật lao động năm 2012

Nghị định số 05/2015/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật lao động

3. Luật sư trả lời

Theo Điều 37, Bộ luật lao động năm 2012 quy định về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động như sau:

“Điều 37. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động

1. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây:

[…] d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động; […]
2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước:

b) Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này;”

Điểm d, khoản 1, điều 37 Bộ luật lao động năm 2012 được hướng dẫn bởi điều 11, Nghị định 05/2015/NĐ-CP như sau:

“2. Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động tại Điểm d Khoản 1 Điều 37 của Bộ luật Lao động trong các trường hợp sau đây:

a) Phải nghỉ việc để chăm sóc vợ hoặc chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố vợ, mẹ vợ hoặc bố chồng, mẹ chồng, con đẻ, con nuôi bị ốm đau, tai nạn;

b) Khi ra nước ngoài sinh sống hoặc làm việc;

c) Gia đình gặp khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, địch họa, dịch bệnh hoặc chuyển chỗ ở mà người lao động đã tìm mọi biện pháp nhưng không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động.”.

Như vậy, tuy bạn có lý do hợp pháp để đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nhưng bạn vẫn phải tuân thủ theo quy định về thời hạn báo trước là 30 ngày. Việc bạn vi phạm thời hạn báo trước đã đưa bạn về vị thế đơn phương chấm dứt hợp đồng trái luật, đồng nghĩa với việc bạn phải gánh chịu những nghĩa vụ sau:

“Điều 43. Nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật

1. Không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.

2. Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.

3. Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này.”.

      Dẫn chiếu những quy định trên, công ty có thể trừ lương của bạn hoặc những khoản trừ khác dựa theo quy định của pháp luật, nhưng việc trừ phải được công khai và đúng luật, việc trừ sai hoặc cố tình không trả lương cho người lao động là vi phạm pháp luật.

      Trên đây là tư vấn của Công ty Luật LVN đối với trường hợp của quý khách. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác quý khách vui lòng liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật qua điện thoại miễn phí số: 1900.0191 để có thể được giải đáp nhanh nhất.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN


SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Câu hỏi:
Thưa Luật sư, tôi lấy chồng năm 2010. Nay tôi đã có 2 bé gái từ ngày lấy tôi về, chồng tôi không tu chí làm ăn. Tôi cứ tin tưởng nên vay cho anh ấy khoản tiền khá lớn, anh ấy còn mượn một số tài sản của tôi và ba đẻ của tôi không trả. Nay anh ấy bỏ đi và ngoại tình, nên nhắn tin cho anh ấy là tôi sẽ viết đơn ra tòa, anh ấy nói tôi là: “Một khi tao mất tất cả trước khi chết tao về sẽ đưa đi bằng hết, tao sẽ giết hết cả gia đình mày, hãy đợi đấy”.

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Công ty Luật Wiki. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau

1. Cơ sở pháp lý:

Luật hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 của Quốc hội

Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống, chống bạo lực gia đình

2. Luật sư tư vấn:

Theo quy định tại Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì:

“Điều 51. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn

1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.

3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Trong trường hợp của bạn, bạn có quyền làm đơn ly hôn đơn phương với chồng bạn. Bởi chồng bạn có hành vi ngoại tình, trong thời gian chung sống lại không vun đắp gia đình, không thương yêu vợ con…đó là những căn cứ để Tòa án xem xét giải quyết ly hôn cho bạn.

Đối với hành vi vay tiền của bạn và của cha bạn không trả, bạn cần xác định mục đích vay tiền của chồng mình là gì? Nếu là vì nhằm mục đích đáp ứng các nhu cầu thiết yếu trong gia đình, để duy trì, sử dụng tài sản chung… (các mục đích chung cho gia đình), thì đây được xác định là nghĩa vụ chung của vợ chồng, theo đó bạn cũng phải chịu 1 phần nghĩa vụ đối với số tài sản vay này. Còn nếu chồng bạn vay vì mục đích riêng, phá tán tài sản thì bạn có quyền kiện đòi tài sản đối với phần tiền anh ta đã vay.

Đối với thủ tục ly hôn, bạn cần chuẩn bị:

a. Hồ sơ ly hôn bao gồm:

-Đơn xin ly hôn (theo mẫu)

-Bản chính giấy chứng nhận đăng ký kết hôn

-Bản sao có chứng thực chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu của hai vợ chồng

-Bảo sao giấy khai sinh của con;

-Các giấy tờ chứng minh tài sản chung (nếu có).

Bạn có thể tham khảo cách viết đơn xin ly hôn tại đây

b. Nơi nộp hồ sơ: Hồ sơ xin ly hôn sẽ nộp tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết

Về thẩm quyền theo cấp: Khỏa 1 Điều 33 BLTTDS 2004, sửa đổi, bổ sung 2011 có quy định: “1. Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Tòa án nhân dân cấp huyện) có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:


a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 25 và Điều 27 của Bộ luật này; “

Về thẩm quyền theo lãnh thổ: Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011 như sau:“a) Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này; “

Theo quy định của Điều 52 Bộ luật dân sự 2005, thì “1. Nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống.

2. Trường hợp không xác định được nơi cư trú của cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều này (Điều 52 BLDS) thì nơi cư trú là nơi người đó đang sinh sống”.

Theo đó, bạn nộp hồ sơ trên đến Tòa án nhân dân cấp huyện nơi chồng bạn đang cư trú để Tòa án giải quyết ly hôn.

Đối với hành vi nhắn tin đe dọa bạn:

Đối với nội dung tin nhắn đe dọa như trên thì chưa đủ điều kiện, mức độ để cấu thành tội đe dọa giết người theo quy định của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, nếu chồng bạn có hành vi sử dụng bạo lực gia đình với bạn, với các con bạn, hoặc có các hành vi khác như hành hạ, ngược đãi, lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của bạn… (các hành vi được liệt kê trong Điều 2 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007) thì bạn có thể báo với cơ quan công an, chính quyền địa phương để xử phạt đối với hành vi này của anh ta, dựa theo quy định tại Nghị định 167/2013/NĐ-CP như sau:

“Điều 49. Hành vi xâm hại sức khoẻ thành viên gia đình:

1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng đối với hành vi đánh đập gây thương tích cho thành viên gia đình.

2. Phạt tiền từ 1.500.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

a) Sử dụng các công cụ, phương tiện hoặc các vật dụng khác gây thương tích cho thành viên gia đình;

b) Không kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu điều trị trong trường hợp nạn nhân cần được cấp cứu kịp thời hoặc không chăm sóc nạn nhân trong thời gian nạn nhân điều trị chấn thương do hành vi bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối.

3. Biện pháp khắc phục hậu quả:

Buộc xin lỗi công khai khi nạn nhân có yêu cầu đối với các hành vi quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này.

Điều 51. Hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của thành viên gia đình:

1. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi lăng mạ, chì chiết, xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia đình.

2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

a) Tiết lộ hoặc phát tán tư liệu, tài liệu thuộc bí mật đời tư của thành viên gia đình nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm;

b) Sử dụng các phương tiện thông tin nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia đình;

c) Phổ biến, phát tán tờ rơi, bài viết, hình ảnh, âm thanh nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nạn nhân.

3. Biện pháp khắc phục hậu quả:

a) Buộc xin lỗi công khai khi nạn nhân có yêu cầu đối với hành vi quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này;

b) Buộc thu hồi tư liệu, tài liệu, tờ rơi, bài viết, hình ảnh, âm thanh đối với hành vi quy định tại Điểm a, c Khoản 2 Điều này.”

 

Công ty Luật Wiki kính đáp!

Câu trả lời trên chỉ mang tính chất tham khảo nằm trong khuôn khổ phạm vi nội dung câu hỏi mà quý khách gửi tới. Đối với trường hợp cụ thể hơn hoặc xuất hiện các tình tiết pháp lý khác thì các văn bản pháp luật điều chỉnh trên đây có thể không được áp dụng hoặc đã hết hiệu lực và được thay thế bằng văn bản khác.

    Để giải quyết nhanh chóng, chính xác những vướng mắc đang mắc phải hay nhu cầu tư vấn hỗ trợ pháp luật, quý khách vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi, yêu cầu của quý khách sẽ được chuyển đến các luật sư đầu ngành trong từng lĩnh vực cùng trao đổi và giải đáp.

    Chúng tôi rất mong được phục vụ, hợp tác cùng Quý khách!
Xin gửi đến Quý khách hàng lời chúc Sức khỏe, Hạnh phúc, Thành công và lời chào trân trọng nhất./.

Bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến!

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Câu hỏi:
Thưa Luật sư, tôi lấy chồng năm 2010. Nay tôi đã có 2 bé gái từ ngày lấy tôi về, chồng tôi không tu chí làm ăn. Tôi cứ tin tưởng nên vay cho anh ấy khoản tiền khá lớn, anh ấy còn mượn một số tài sản của tôi và ba đẻ của tôi không trả. Nay anh ấy bỏ đi và ngoại tình, nên nhắn tin cho anh ấy là tôi sẽ viết đơn ra tòa, anh ấy nói tôi là: “Một khi tao mất tất cả trước khi chết tao về sẽ đưa đi bằng hết, tao sẽ giết hết cả gia đình mày, hãy đợi đấy”.

 

 

 

Trả lời:

1. Cơ sở pháp lý:

Luật hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 của Quốc hội

Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống, chống bạo lực gia đình

2. Luật sư tư vấn:

Theo quy định tại Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì:

“Điều 51. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn

1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.

3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Trong trường hợp của bạn, bạn có quyền làm đơn ly hôn đơn phương với chồng bạn. Bởi chồng bạn có hành vi ngoại tình, trong thời gian chung sống lại không vun đắp gia đình, không thương yêu vợ con…đó là những căn cứ để Tòa án xem xét giải quyết ly hôn cho bạn.

Đối với hành vi vay tiền của bạn và của cha bạn không trả, bạn cần xác định mục đích vay tiền của chồng mình là gì? Nếu là vì nhằm mục đích đáp ứng các nhu cầu thiết yếu trong gia đình, để duy trì, sử dụng tài sản chung… (các mục đích chung cho gia đình), thì đây được xác định là nghĩa vụ chung của vợ chồng, theo đó bạn cũng phải chịu 1 phần nghĩa vụ đối với số tài sản vay này. Còn nếu chồng bạn vay vì mục đích riêng, phá tán tài sản thì bạn có quyền kiện đòi tài sản đối với phần tiền anh ta đã vay.

Đối với thủ tục ly hôn, bạn cần chuẩn bị:

a. Hồ sơ ly hôn bao gồm:

-Đơn xin ly hôn (theo mẫu)

-Bản chính giấy chứng nhận đăng ký kết hôn

-Bản sao có chứng thực chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu của hai vợ chồng

-Bảo sao giấy khai sinh của con;

-Các giấy tờ chứng minh tài sản chung (nếu có).

Bạn có thể tham khảo cách viết đơn xin ly hôn tại đây

b. Nơi nộp hồ sơ: Hồ sơ xin ly hôn sẽ nộp tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết

Về thẩm quyền theo cấp: Khỏa 1 Điều 33 BLTTDS 2004, sửa đổi, bổ sung 2011 có quy định: “1. Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Tòa án nhân dân cấp huyện) có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:

a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 25 và Điều 27 của Bộ luật này; “

Về thẩm quyền theo lãnh thổ: Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011 như sau:“a) Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này; “

Theo quy định của Điều 52 Bộ luật dân sự 2005, thì “1. Nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống.

2. Trường hợp không xác định được nơi cư trú của cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều này (Điều 52 BLDS) thì nơi cư trú là nơi người đó đang sinh sống”.

Theo đó, bạn nộp hồ sơ trên đến Tòa án nhân dân cấp huyện nơi chồng bạn đang cư trú để Tòa án giải quyết ly hôn.

Đối với hành vi nhắn tin đe dọa bạn:

Đối với nội dung tin nhắn đe dọa như trên thì chưa đủ điều kiện, mức độ để cấu thành tội đe dọa giết người theo quy định của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, nếu chồng bạn có hành vi sử dụng bạo lực gia đình với bạn, với các con bạn, hoặc có các hành vi khác như hành hạ, ngược đãi, lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của bạn… (các hành vi được liệt kê trong Điều 2 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007) thì bạn có thể báo với cơ quan công an, chính quyền địa phương để xử phạt đối với hành vi này của anh ta, dựa theo quy định tại Nghị định 167/2013/NĐ-CP như sau:

“Điều 49. Hành vi xâm hại sức khoẻ thành viên gia đình:

1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng đối với hành vi đánh đập gây thương tích cho thành viên gia đình.

2. Phạt tiền từ 1.500.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

a) Sử dụng các công cụ, phương tiện hoặc các vật dụng khác gây thương tích cho thành viên gia đình;

b) Không kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu điều trị trong trường hợp nạn nhân cần được cấp cứu kịp thời hoặc không chăm sóc nạn nhân trong thời gian nạn nhân điều trị chấn thương do hành vi bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối.

3. Biện pháp khắc phục hậu quả:

Buộc xin lỗi công khai khi nạn nhân có yêu cầu đối với các hành vi quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này.

Điều 51. Hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của thành viên gia đình:

1. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi lăng mạ, chì chiết, xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia đình.

2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

a) Tiết lộ hoặc phát tán tư liệu, tài liệu thuộc bí mật đời tư của thành viên gia đình nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm;

b) Sử dụng các phương tiện thông tin nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia đình;

c) Phổ biến, phát tán tờ rơi, bài viết, hình ảnh, âm thanh nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nạn nhân.

3. Biện pháp khắc phục hậu quả:

a) Buộc xin lỗi công khai khi nạn nhân có yêu cầu đối với hành vi quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này;

b) Buộc thu hồi tư liệu, tài liệu, tờ rơi, bài viết, hình ảnh, âm thanh đối với hành vi quy định tại Điểm a, c Khoản 2 Điều này.”

 


 

 

 

Wiki Luật kính đáp!

    Câu trả lời trên chỉ mang tính chất tham khảo nằm trong khuôn khổ phạm vi nội dung câu hỏi mà quý khách gửi tới. Đối với trường hợp cụ thể hơn hoặc xuất hiện các tình tiết pháp lý khác thì các văn bản pháp luật điều chỉnh trên đây có thể không được áp dụng hoặc đã hết hiệu lực và được thay thế bằng văn bản khác.

    Để giải quyết nhanh chóng, chính xác những vướng mắc đang mắc phải hay nhu cầu tư vấn hỗ trợ pháp luật, quý khách vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi, yêu cầu của quý khách sẽ được chuyển đến các luật sư đầu ngành trong từng lĩnh vực cùng trực tiếp trao đổi và giải đáp.

    Chúng tôi rất mong được phục vụ, hợp tác cùng Quý khách!
Xin gửi đến Quý khách hàng lời chúc Sức khỏe, Hạnh phúc, Thành công và lời chào trân trọng nhất./.

Bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến!

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Câu hỏi:

 Điều kiện kết hôn với người nước ngoài

Bạn trai em là người Hàn Quốc, đã sang Viêt Nam được gần một năm. Lúc đầu chúng em giao tiếp với nhau bằng tiếng Anh. Vừa rồi, em bắt đầu học tiếng Hàn, tuy không nhiều nhưng đủ để hiểu nhau. Hai bên gia đình đều không phản đối. Tuy nhiên khi nộp đơn đăng ký kết hôn tại Sở Tư pháp thì lại gặp vướng mắc như sau: khi phỏng vấn, cán bộ phỏng vấn yêu cầu em nói bằng tiếng Hàn để người phiên dịch xem khả năng như thế nào, mặc dù em đã trình bày là chỉ nói được những từ cơ bản để giao tiếp thông thường. Cuối cùng, họ đề nghị em viết đơn xin rút hồ sơ và yêu cầu em trả tiền phiên dịch mà không có biên lai thu tiền. Em muốn hỏi, pháp luật có quy định nào về việc công dân Việt Nam muốn kết hôn với người nước ngoài phải giao tiếp thành thạo tiếng nước đó không không?

 

 

Trả lời có tính chất tham khảo

Theo quy định tại Điều 23 Nghị định 126/2014/NĐ-CP thì mục đích của việc phỏng vấn trực tiếp hai bên nam, nữ tại trụ sở Sở Tư pháp để kiểm tra, làm rõ về nhân thân, sự tự nguyện kết hôn, mục đích kết hôn và mức độ hiểu biết của hai bên nam, nữ về hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh cá nhân của nhau; về ngôn ngữ, phong tục, tập quán, văn hóa, pháp luật về hôn nhân và gia đình của mỗi nước.

Nếu kết quả phỏng vấn cho thấy hai bên kết hôn chưa hiểu biết về hoàn cảnh của nhau thì Sở Tư pháp hẹn ngày phỏng vấn lại; việc phỏng vấn lại được thực hiện trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày phỏng vấn trước. Sau khi thực hiện phỏng vấn hai bên nam, nữ, nghiên cứu, thẩm tra hồ sơ kết hôn, ý kiến của cơ quan công an (nếu có), Sở Tư pháp báo cáo kết quả và đề xuất giải quyết việc đăng ký kết hôn, trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định, kèm theo bộ hồ sơ đăng ký kết hôn.

Cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn từ chối đăng ký kết hôn trong các trường hợp sau đây (Điều 26 Nghị định 126/2014/NĐ-CP):

– Một hoặc cả hai bên không đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam;

– Bên công dân nước ngoài không đủ điều kiện kết hôn theo pháp luật của nước mà người đó là công dân;

– Bên nam, bên nữ không cung cấp đủ hồ sơ theo quy định tại Điều 20 của Nghị định này.

Ngoài ra, việc đăng ký kết hôn bị từ chối nếu kết quả phỏng vấn, thẩm tra, xác minh cho thấy việc kết hôn thông qua môi giới nhằm mục đích kiếm lời; kết hôn giả tạo không nhằm mục đích xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững; lợi dụng việc kết hôn nhằm mục đích mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc vì mục đích trục lợi khác.

Từ những quy định nêu trên có thể thấy rằng, pháp luật không có quy định về việc công dân Việt Nam muốn kết hôn với người nước ngoài phải giao tiếp thành thạo tiếng nước đó. Ngôn ngữ chỉ là một trong các nội dung trong quá trình phỏng vấn. Đặc biệt, cán bộ phỏng vấn không có thẩm quyền yêu cầu các bên nam nữ rút hồ sơ đăng ký kết hôn.

Các văn bản liên quan:

Nghị định 126/2014/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình


 

 

 

Wiki Luật kính đáp!

    Câu trả lời trên chỉ mang tính chất tham khảo nằm trong khuôn khổ phạm vi nội dung câu hỏi mà quý khách gửi tới. Đối với trường hợp cụ thể hơn hoặc xuất hiện các tình tiết pháp lý khác thì các văn bản pháp luật điều chỉnh trên đây có thể không được áp dụng hoặc đã hết hiệu lực và được thay thế bằng văn bản khác.

    Để giải quyết nhanh chóng, chính xác những vướng mắc đang mắc phải hay nhu cầu tư vấn hỗ trợ pháp luật, quý khách vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi, yêu cầu của quý khách sẽ được chuyển đến các luật sư đầu ngành trong từng lĩnh vực cùng trực tiếp trao đổi và giải đáp.

    Chúng tôi rất mong được phục vụ, hợp tác cùng Quý khách!
Xin gửi đến Quý khách hàng lời chúc Sức khỏe, Hạnh phúc, Thành công và lời chào trân trọng nhất./.

Bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến!

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com