Chánh án TAND địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND cùng cấp.

          Chủ tịch hoặc phó chủ tịch HĐND cấp tỉnh là Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn thẩm phán TAND cấp tỉnh và ở địa phương; Chánh án TAND cấp tỉnh; đại diện sở nội vụ; Uỷ banMTTQ Việt Nam; Ban chấp hànhHội luật gia cấp tỉnh là những Uỷ viên của Hội đồng tuyển chọn thẩm phán TAND cấp tỉnh.

          HĐND giám sát thông qua việc xét báo cáo công tác của TAND cùng cấp, xét trả lời chất vấn của Chánh án TAND cùng cấp.

          TAND có quyền xét xử đại biểu HĐND nếu có hành vi vi phạm pháp luật.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

So sánh chỉ thị và hướng dẫn

Chỉ thị và hướng dẫn giống khác nhau thế nào? Văn bản Chỉ thị và Văn bản Hướng dẫn là hai loại văn bản tương đối giống nhau thường xuyên được các cơ quan, cá nhân, tổ chức ban hành nhằm phục vụ các hoạt động của mình.

Dưới đây chúng tôi sẽ đưa ra các quan điểm nhằm so sánh, phân biệt chúng như sau:

Khái niệm

  • Chỉ thị

Chỉ thị là văn bản mang tính chất mệnh lệnh, chỉ định về một nội dung nào đó được xuất hiện thường xuyên trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung và các hoạt động quản lý khác.

  • Hướng dẫn

Hướng dẫn là văn bản mang tính chất giải thích, diễn giải và đưa ra giải pháp khắc phục một vấn đề, công việc, khái niệm, quy định đang tồn tại mà những cá nhân, tổ chức tiếp nhận chưa có sự thống nhất trong cách thức giải quyết, cách hiểu.

Thể thức văn bản

  • Chỉ thị

Thường được lập dựa trên một thể thức văn bản cố định, bao gồm cơ quan ban hành, số hiệu, tiêu đề “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, ngày tháng, tên “Chỉ thị”, nội dung chính của chỉ thị bên dưới,…

  • Hướng dẫn

Hướng dẫn là văn bản không có thể thức cố định, các tổ chức, cá nhân thường soạn thảo dựa trên mẫu hoặc có thể đánh máy tự do, chỉ cần đạt được những mục tiêu của văn bản như cơ quan ban hành, nội dung và đối tượng nhận.

Mục đích ban hành

  • Chỉ thị

Mệnh lệnh, chỉ thị, chỉ đạo

  • Hướng dẫn

Giải thích, điều hướng, giải pháp

Tính chất văn bản

  • Chỉ thị

Có tính chất mệnh lệnh, bắt buộc đối với cá nhân, tổ chức có đề cập là bên nhận trong văn bản.

  • Hướng dẫn

Mang tính chất hướng dẫn, điều hướng, giải thích, đưa ra phương án để các cá nhân, tổ chức cân nhắc thực hiện không có tính bắt buộc cao.

Chủ thể ban hành văn bản

  • Chỉ thị

Là văn bản mà cá nhân, tổ chức hoặc cấp có thẩm quyền cấp trên ban hành đối với cơ quan, tổ chức cấp dưới, hay cấp, cá nhân trực thuộc.

  • Hướng dẫn

Là văn bản có thể được ban hành bởi cấp trên, cơ quan ngang cấp hay cơ quan cấp dưới gửi tới cơ quan nhận nhằm chỉ dẫn.

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thủ tục nhập khẩu vàng, bạc, đồ trang sức, đồ thủ công mỹ nghệ, thiết bị làm đẹp cho cá nhân, doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh tại thị trường trong nước.

Tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900.0191

Căn cứ pháp lý của thủ tục:

  • Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng.
  • Thông tư 38/2015/TT-BTC quy định về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
  • Thông tư 39/2018/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số điều tại Thông tư số 38/2015/TT-BTC ngày 25 tháng 3 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ tài chính quy định về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
  • Thông tư 30/2015/TT-BYT quy định việc nhập khẩu trang thiết bị y tế.

 

Nội dung tư vấn thủ tục nhập khẩu vàng trang sức, thiết bị làm đẹp:

Thủ tục nhập khẩu vàng trang sức, mỹ nghệ, trang thiết bị làm đẹp được quy định như sau:

Về việc nhập khẩu vàng trang sức, mỹ nghệ, căn cứ Điều 13 Nghị định 24/2012/NĐ-CP, việc nhập khẩu vàng trang sức, mỹ nghệ được thực hiện theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Theo đó, doanh nghiệp phải có đăng ký kinh doanh ngành nghề kinh doanh mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ thì được phép nhập khẩu vàng trang sức, kỹ nghệ.

Về việc nhập khẩu trang thiết bị làm đẹp, căn cứ theo Phụ lục I Thông tư 30/2015/TT-BYT, trang thiết bị làm đẹp như máy massage mặt, máy xông hơi tại nhà,… không thuộc danh mục các trang thiết bị y tế phải được cấp phép nhập khẩu. Do đó, khi nhập khẩu các trang thiết bị này không cần phải kiểm định chất lượng trước khi nhập khẩu.

Về thủ tục nhập khẩu, căn cứ Khoản 5 Điều 1 Thông tư 39/2018/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Điều 16 Thông tư 38/2015/TT-BTC, thủ tục hải quan bằng điện tử để nhập khẩu hàng hóa được thực hiện như sau:

Bước 1: Công ty chuẩn bị hồ sơ hải quan để khai hải quan

Hồ sơ hải quan bao gồm: Tờ khai hàng hóa nhập khẩu (Mẫu số 02 Phụ lục II Thông tư 39/2018/TT-BTC); Hóa đơn thương mại (1 bản chụp); Vận tải đơn (1 bản chụp); Tờ khai trị giá (theo mẫu); Chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa (1 bản chụp); Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (Trường hợp nhập khẩu trang sức bằng vàng) (1 bản chụp)

Bước 2: Công ty nhận thông tin phản hồi từ cơ quan hải quan về tờ khai hải quan, kết quả phân luồng và thực hiện một trong các nội dung sau:

+ Luồng xanh: Miễn kiểm tra hồ sơ giấy và miễn kiểm tra thực tế hàng hóa. Lô hàng được cơ quan hải quan chấp nhận thông quan thì chuyển sang bước 4.

+ Luồng vàng: Kiểm tra hồ sơ hải quan. Nếu được yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ hải quan thì doanh nghiệp thực hiện theo yêu cầu và xuất trình hồ sơ giấy để cơ qaun hải quan kiểm tra. Nếu lô hàng được chấp nhận thông quan thì thực hiện tiếp bước 4, nếu cơ quan hải quan yêu cầu kiểm tra thực tế hàng hóa thì chuyển sang bước 3.

Bước 3: Luồng đỏ: Công ty xuất trình hồ sơ giấy và hàng hóa để cơ quan hải quan kiểm tra.

Bước 4: Công ty in tờ khai trên hệ thống của mình để đi lấy hàng.

Ngoài ra, khi nhập khẩu hàng hóa, công ty cần nộp các loại thuế sau: Thuế xuất nhập khẩu, Thuế giá trị gia tăng.

Như vậy, khi thực hiện nhập khẩu trang sức bằng vàng, thiết bị làm đẹp, công ty không cần xin cấp phép nhập khẩu mà chỉ cần thực hiện các thủ tục hải quan nêu trên.

Trên đây là nội dung tư vấn của LVN LAW FIRM về những thắc mắc mà quý khách hàng quan tâm. Nếu còn bất cứ điều gì thắc mắc quý công ty có thể liên lạc trực tiếp với chúng tôi qua số hotline: 1900.0191 để được tư vấn giải đáp.

Rất mong sự hợp tác của quý công ty!

Trân trọng./.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Tiêu chuẩn chung:Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có trình độ cử nhân luật, đã được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát, có thời gian làm công tác thực tiễn, có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên.

          Tiêu chuẩn riêng cho từng nghạch Kiểm sát viên:

_Kiểm sát viên sơ cấp: phải có thời gian công tác pháp luật từ 4 năm trở lên, có năng lực thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND cấp huyện.

_Kiểm sát viên trung cấp: đã là kiểm sát viên sơ cấp ít nhất 5 năm, có năng lực thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, có khả năng hướng dấn nghiệp vụ kiểm sát đối với kiểm sát viên sơ cấp, nếu trường hợp do nhu cầu thì phải có thời gian công tác từ 10 năm trở lên.

_Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao: phải là kiểm sát viên trung cấp ít nhất 5 năm, có năng lực thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, có khả năng hưỡng dẫn nghiệp vụ kiểm sát đối với các kiểm sát viên sơ cấp, trung cấp, nếu trong trường hợp do nhu cầu thì phải có thời gian công tác từ 15 năm trở lên.

(Đối với các sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm KSV sơ cấp, trung cấp thuộc viện kiểm sát quân sự và Viện kiểm sát quân sự trung ương).

Trong trường hợp cần thiết, người đang công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân hoặc người được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền điều động đến công tác tại ngành Kiểm sát nhân dân, tuy chưa đủ thời gian làm Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp hoặc chưa đủ thời gian làm công tác pháp luật, nhưng có đủ các tiêu chuẩn khác, thì cũng có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên sơ cấp hoặc Kiểm sát viên trung cấp của Viện kiểm sát nhân dân hoặc Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Chức năng: Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.

_Thực hành quyền công tố: đưa vụ án ra toà với quyền truy tố và buộc tội đối với những người có hành vi nguy hiểm cho xã hội trên cơ sở các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

_Kiểm sát hoạt động tư pháp: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của cơ quan điều tra và cơ quan tiến hành 1 số hoạt động điều tra; kiểm sát xét xử các vụ án hình sự; kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động, và những việc khác theo quy định của pháp luật; kiểm sát việc thi hành án…

          Nhiệm vụ: bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, góp phần bảo đảm pháp luật dược chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Viện trưởng VKSND địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND cùng cấp.

          Chủ tịch hoặc phó chủ tịch HĐND là Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn kiểm sát viên VKSND cấp tỉnh và địa phương; Viện trưởng VKSND cấp tỉnh, đại diện lãnh đạo Ban Tổ chức chính quyền, Uỷ ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Ban chấp hành Hội luật gia Việt Nam là uỷ viên của Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND.

          HĐND giám sát thông qua việc xét báo cáo công tác của TAND cùng cấp, xét trả lời chất vấn của Viện trưởng VKSND cùng cấp.

          VKSND có quyền truy tố đại biểu HĐND nếu có hành vi vi phạm pháp luật.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

_Thành lập Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán toà án nhân dân gồm có: Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự trung ương; Các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện; Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án quân sự quân khu, Thẩm phán Toà án quân sự khu vực.

_Hội đồng tuyển chọn thẩm phán toà án nhân dân làm việc theo chế độ tập thể, quyết định của Hội đồng tuyển chọn thẩm phán toà án nhân dân phải được quá ½ tổng số thành viên biểu quyết tán thành.

+Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự trung ương tuyển chọn người đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự trung ương theo đề nghị của Chánh án toà án nhân dân tối cao và trình Chủ tịch nước bổ nhiệm. Thẩm phán toà án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm và có sự phê chuẩn của Quốc hội.

+Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án quân sự cấp quân khu, Thẩm phán Toà án quân sự khu vực tuyển chọn người đủ tiêu chuẩn làm thẩm phán Toà án quân sự cấp quân khu, Thẩm phán Toà án quân sự khu vực theo đề nghị của Chánh án Toà án quân sự trung ương và đề nghị Chánh án toà án nhân dân tối cao bổ nhiệm.

+Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện tuyển chọn người đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện theo đề nghị của Chánh án toà án nhân dân cấp tỉnh và đề nghị Chánh án toà án nhân dân tối cao bổ nhiệm.

  • Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm, cách chức thẩm phán toà án nhân dân các cấp.

Trình tự và thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân:

_Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn thẩm phán khai mạc phiên họp.

_Cử thư kí phiên họp.

_Chánh án TAND tỉnh hoặc quân sự trung ương báo cáo Hội đồng về hồ sơ người được đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm theo danh sách trích ngang đã lập.

_Các thành viên Hội đồng căn cứ tiêu chuẩn hồ sơ trao đổi, thảo luận, xem xét.

_Chủ tịch Hội đồng kết luận và biểu quyết bằng hình thức giơ tay, sau đó làm hồ sơ và bản sao giao cho Chánh án TAND tỉnh hoặc Chánh án TAND quân sự trung ương quản lí.

_Hội đồng giao cho Chánh án TAND cấp tỉnh hoặc quân sự trung ương làm văn bản đề nghị Chánh án TAND tối cao bổ nhiệm và trình Chủ tịch Hội đồng kí.

Các văn bản đề nghị Chánh án toà án nhân dân tối cao phải được đóng dấu của HĐND cấp tỉnh hoặc toà án quân sự trung ương phải ghi đầy đủ chức danh về mặt cơ quan của người có chữ kí được đóng dấu.

Gửi văn bản đề nghị Chánh án TAND tối cao bổ nhiệm, một bộ hồ sơ, biên bản họp cho vụ tổ chức cán bộ toà án trình Chánh án TAND tối cao xem xét, quyết định bổ nhiệm và cuối cùng là thông báo kết quả trong phiên họp gần nhất của HĐND từ ngày nhận được quyết định của Chánh án TAND tối cao.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI VÔ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC DO VI PHẠM QUY TẮC NGHỀ NGHIỆP HOẶC QUY TẮC HÀNH CHÍNH (ĐIỀU 109 )

Đây là tội phạm được tách từ khoản 2 Điều 110 Bộ luật hình sự năm 1985, ngoài những dấu hiệu như đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định tại Điều 108 Bộ luật hình sự, thì tội phạm này còn có thêm một trong hai dấu hiệu, đó là: người phạm tội do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc do vi phạm quy tắc hành chính.

CÁC DẤU HIỆU CỦA TỘI PHẠM

Do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính mà vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nếu người bị hại có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên thì người phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Như vậy căn cứ để xác định có hành vi phạm tội hay không trong trường hợp do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính mà vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là tỷ lệ thương tật của người bị hại. Vì vậy, trong mọi trường hợp, các cơ quan tiến hành tố tụng phải trưng cầu giám định pháp ý đối với nạn nhân.

Việc xác định thế nào là do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc vi phạm quy tắc hành chính được áp dụng tương tự như trường hợp đối với tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính chỉ khác tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính quy định tại Điều 99 Bộ luật hình sự ở một điểm, đó là hậu quả ( thiệt hại về thể chất ) tực tế đã gây ra. Nếu chết người là thuộc trường hợp quy định tại Điều 99 Bộ luật hình sự, nếu gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên thì thuộc trường hợp quy định tại Điều 109 Bộ luật hình sự.

Người phạm tội phải từ đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính, vì đây là tội phạm ít  nghiêm trọng có khung hình phạt từ sáu tháng đến ba năm tù.

Tuy nhiên, người phạm tội này còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ mọt năm đến năm năm (khoản 2 Điều 109). Việc quy định hình phạt bổ sung đối với người phạm tội này là cần thiết, có tính phòng ngừa cao.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

_Kiểm sát viên VKSND tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm theo đề nghị của Viện trưởng VKSND tối cao.

_Kiểm sát viên VKSND địa phương do Viện trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm theo đề nghị của Viện trưởng VKSND địa phương cùng cấp.

_Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND gồm Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND tối cao, Kiểm sát viên VKS quân sự trung ương; Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND cấp tỉnh, Kiểm sát viên VKSND cấp huyện; Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên VKS quân sự quân khu, Kiểm sát viên VKS quân sự khu vực.

_Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên làm việc theo chế độ tập thể, quyết định của Hội đồng tuyển chọn kiểm sát viên phải có ít nhất ½ tổng số thành viên Hội đồng biểu quyết tán thành.

_Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND tối cao, Kiểm sát viên VKS quân sự trung ương tuyển chọn người có đủ tiêu chuẩn làm Kiểm sát viên VKSND tối cao, Kiểm sát viên VKS quân sự trung ương theo đề nghị của Viện trưởng VKSND tối cao và đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm.

_Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND cấp tỉnh, Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tuyển chọn người có đủ tiêu chuẩn làm Kiểm sát viên VKSND cấp tỉnh, Kiểm sát viên VKSND cấp huyện theo đề nghị của Viện trưởng VKSND cấp tỉnh và đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm.

_Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên VKS quân sự quân khu, Kiểm sát viên VKS quân sự khu vực tuyển chọn người có đủ tiêu chuẩn làm Kiểm sát viên VKS quân sự quân khu, Kiểm sát viên VKS quân sự khu vực theo đề nghị của Viện trưởng VKS quân sự trung ương và đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm.

          Thủ tục, trình tự tuyển chọn và bổ nhiệm Kiểm sát viên VKS:

_Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên VKS khai mạc phiên họp.

_Cử thư kí phiên họp.

_Viện trưởng VKSND cấp tỉnh hoặc quân sự trung ương báo cáo Hội đồng về hồ sơ người được đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm theo danh sách trích ngang đã lập.

_Các thành viên Hội đồng căn cứ tiêu chuẩn hồ sơ trao đổi, thảo luận, xem xét.

_Chủ tịch Hội đồng kết luận và biểu quyết bằng hình thức giơ tay, sau đó làm hồ sơ, bản sao giao cho Viện trưởng VKSND cấp tỉnh hoặc quân sự trung ương quản lí.

_Hội đồng giao cho Viện trưởng VKSND cấp tỉnh hoặc quân sự trung ương làm văn bản đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm và trình Chủ tịch Hội đồng kí.

          Các văn bản đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao phải được đóng dấu của HĐND cấp tỉnh hoặc VKS quân sự trung ương phải ghi đầy đủ chức danh về mặt cơ quan của người có chữ kí được đóng dấu.

          Gửi văn bản đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm, 1 bộ hồ sơ, 1 biên bản họp gửi vụ tổ chức cán bộ Việm kiểm sát trình Viện trưởng VKSND tối cao xem xét, quyết định bổ nhiệm và cuối cùng là thông báo kết quả trong phiên họp gần nhất kể từ ngày nhận được quyết định của Viện trưởng VKSND tối cao.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Tiêu chuẩn chung: Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có trình độ cử nhân luậtvà đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có thời gian công tác thực tiễn, có năng lực làm công tác xét xử theo quy định của Pháp lệnh này, có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán.

          Tiêu chuẩn riêng của các nghạch thẩm phán:

_Thẩm phán cấp huyện: có thời gian công tác trong ngành từ 4 năm trở lên, có năng lực xét xử các vụ án và giải quyết các việc khác thuộc thẩm quyền của toà án theo quy định của pháp luật.

_Thẩm phán cấp tỉnh: Phải là thẩm phán sơ cấp ít nhất 5 năm, ngoài ra trong trường hợp do nhu cầu thì phải có thời gian công tác trong ngành từ 10 năm trở lên.

_Thẩm phán Toàn án nhân dân tối cao: Phải là thẩm phán trung cấp ít nhất 5 năm.

(Đối với các sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm thẩm phán Toà án quân sự khu vực, Toà án quân sự quân khu và Toà án quân sự trung ương).

Trong trường hợp cần thiết, người đang công tác trong ngành Toà án nhân dân hoặc người được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền điều động đến công tác tại ngành Toà án nhân dân, tuy chưa đủ thời gian làm Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung cấp hoặc chưa đủ thời gian làm công tác pháp luật, nhưng có đủ các tiêu chuẩn khác, thì cũng có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp hoặc Thẩm phán trung cấp của Toà án nhân dân hoặc Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI ĐE DOẠ GIẾT NGƯỜI ( ĐIỀU 103)

Đe doạ giết người là hành vi của một người bằng lời nói, hành động hoặc những thủ đoạn làm cho người khác lo sợ rằng mình sẽ bị giết.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

  1. Về phía người phạm tội

Người phạm tội phải có hành vi làm cho người bị đe doạ lo sợ. Hành vi này chỉ có thể là hành động như bằng lời nói, cử chỉ, cách nhìn, nhưng không phải để thực hiện việc giết người mà chỉ nhằm làm cho người bị đe doạ tưởng thật là mình có thể bị giết như: mài da, lấy súng lên đạn, viết thư, nhắn tin v.v…

Hành vi đe doạ của người phạm tội phải làm cho người bị đe doạ thực sự tin rằng mình sẽ bị giết, tức là có căn cứ để xác định hành vi đe dọa đó sẽ được thực hiện; căn cứ này phát sinh từ phía người bị đe doạ không phải là căn cứ khách quan, đây là dấu hiệu đặc trưng của tội này, song lại là dấu hiệu khó xác định.

Nếu người phạm tội sau lời đe doạ lại thực hiện một số hành vi như tìm kiếm phương tiện giết người hoặc chuẩn bị phương tiện giết người thì phải xác định những hành động đó chỉ nhằm làm cho người bị đe doạ tưởng bị giết thật chứ không nhằm tước đoạt tính mạng người bị đe doạ. Chính vì mục đích đó, nên hành vi có vẻ chuẩn bị này, người phạm tội cố ý để cho người bị đe doạ nhìn thấy hoặc người khác nhìn thấy mà người phạm tội biết rằng người này sẽ nói lại cho người bị đe doạ biết, còn hành vi chuẩn bị nhằm tước đoạt tính mạng của người khác, người phạm tội phải thực hiện một cách lén lút không cho ai biết, vì nếu để lộ sẽ không thực hiện được ý định giết người. Đây cũng là dấu hiệu cơ bản để phân biệt giữa tội đe doạ giết người với tội giết người ở giai đoạn chuẩn bị.

Nếu người phạm tội có hành vi đe doạ, nhưng hành vi đó chỉ là phương pháp để thực hiện một tội phạm khác, nhằm mục đích khác thì không phải là phạm tội đe doạ giết người như: hành vi đe doạ dùng bạo lực trong các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội xâm phạm sở hữu; các tội xâm phạm nhân phẩm của con người v.v…

Chủ thể của tội đe dọa giết người nhất thiét phải đủ 16 tuổi trở lên, nếu dưới 16 tuổi thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì khoản 1 Điều 103 là tội ít nghiêm trọng và khoản 2 Điều 103 là tội nghiêm trọng mà người từ đủ 14 tuổi đén dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng (khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự ).

  1. Về phía người bị hại

Người bị hại phải thực sự lo lắng và tin rằng hành vi đe doạ của người phạm tội sẽ được thực hiện. Thật khó có thể hình dung được một hành vi không bao giờ được thực hiện lại làm cho người khác tin rằng nó sẽ xảy ra. Rõ ràng phải có sự lầm tưởng của người bị hại và những người khác về sự thật của hành vi. Điều này phụ thuộc vào hoạt động tư duy của mỗi người. Chính thái độ tâm lý của người bị đe doạ là dấu hiệu buộc tội bị cáo. Việc xác định sự sợ hãi của người bị đe doạ phải căn cứ thái độ, các hoạt động của họ sau khi nhận được sự đe doạ, thời gian, hoàn cảnh, địa điểm, mối quan hệ giữa bị cáo và người bị hại. Nếu trong hoàn cảnh đó, nhiều người cho rằng sự đe doạ đó sẽ được thực hiện thì sự lo sợ của người bị hại là có căn cứ.

Nếu người bị đe doạ không lo sợ bị giết mà lại lo sợ về những hậu quả khác do bị cáo có thể gây nên cho mình, thì dù bị cáo có hành vi đe doạ giết người cũng không phạm tội này. Ví dụ: B nợ tiền của C, hết hạn B chưa trả được. C đe doạ: “Nếu một tuần nữa không trả tao giết mày!”. B biết C không giám giết mình, nhưng lại sợ C đến bắt nợ hoặc đón đường đánh mình.

Người bị hại có thể sợ người có hành vi đe doạ giết, nhưng cũng có trường hợp không sợ bị cáo giết mà lại sợ người khác giết mình, thì người có hành vi đe doạ vẫn phạm tội này. Ví dụ: M và H cùng yêu anh T. M đe doạ H: “Nếu mày không buông anh T ra, tao sẽ cho mày chết!”. H biết M có quan hệ với bọn lưu manh, sợ M thuê bọn đó giết mình nên phải trốn khỏi địa phương không dám về nhà nữa.

Người bị đe doạ có thể sợ mình bị giết và cũng có thể sợ người thân của mình bị giết miễn là họ tin rằng hành vi đe doạ của bị cáo sẽ được thực hiện. Ví dụ: V cho L mượn 2 lượng vàng để làm vốn đi buôn, nhưng vì thua lỗ nên L không trả nợ cho V như đã hứa. V đe doạ: “Nếu không trả V sẽ bắt đứa con 3 tuổi của L nhốt một chỗ cho chết đói”. L lo sợ phải đưa con đi trốn.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Đe dọa giết một người và không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 103 ( khoản 1 Điều 103)

Đe dọa giết một người là trường hợp chỉ có một người bị đe dọa và người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 103 Bộ luật hình sự có khung hình phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. So với Điều 108 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 1 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hình phạt nặng hơn, vì mức cao nhất của loaị hình phạt cải tạo không giam giữ là hoaij (Điều 108 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ có một năm), do đó chỉ người nào thực hiện hành vi đe dọa giết người kể từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị áp dụng khoản 1 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1999. Khi xử lý trường hợp phạm tội này, chủ yếu lấy giáo dục là chính, việc truy tố xét xử chỉ nên đối với trường hợp người bị đe doạ sợ tới mức ảnh hưởng đến sức khoẻ, công tác, lao động và học tập gây ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, người có hành vi đe doạ có nhân thân xấu.

  1. Đe dọa giết nhiều người ( điểm a khoản 2 Điều 103)

Đe dọa giết nhiều người là trường hợp có từ hai người bị dọa giết và cả hai người đều tin là mình bị giết. Đây là cấu thành tăng nặng của tội đe dọa giết người mới được quy định mà Bộ luật hình sự năm 1985 chưa có. Việc nhà làm luật quy định các trường hợp phạm tội đe dọa giết người tại khoản 2 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1999 cũng xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn xét xử, vì trên thực tế đã có trường hợp người phạm tội đe dọa giết cả nhà người khác và cả gia đình người bị đe dọa phải bỏ nhà đến sống ở nơi mà họ cho rằng người đe dọa không biết.

  1. Đe dọa giết người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân( điểm b khoản 2 Điều 103)

Người bị đe dọa trong trường hợp này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm d khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự về tội giết người.8 Tuy nhiên, trong trường hợp này người thi hành công vụ chỉ bị đe dọa sẽ bị giết và họ cũng tin rằng mình bị giết. Đây cũng là cấu thành tăng nặng mới được quy định trong Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1999, nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình tội phạm trong thời gian vừa qua, nếu chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đôí với người phạm tội theo khoản 1 Điều 103 như những trường hợp đe dọa giết người khác thì không thể hiện được tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi đe dọa giết người của bị cáo. Mặt khác, không động viên được những người làm nhiệm vụ chính đáng lại bị đe dọa.

  1. Đe dọa giết trẻ em ( điểm c khoản 2 Điều 103)

Đe dọa giết trẻ em là trường hợp người bị đe dọa chưa đủ 16 tuổi. Cũng như trường hợp phạm tội đối với trẻ em khác, đe dọa giết trẻ em là trường hợp phạm tội nghiêm trọng hơn đối với việc đe dọa giết người mà nạn nhân không phải là trẻ em. Trẻ em bị dọa giết bao giờ cũng sợ hơn, ảnh hưởng lớn hơn đến tinh thần, sức khỏe, nhiều trường hợp vì quá sợ hãi, trẻ em phải bỏ nhà đi lang thang dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng khác. Vì vậy nhà làm luật quy định trường hợp đe dọa giết trẻ em là cấu thành tăng nặng không chỉ phù hợp với tình hình phạm tội xảy ra mà còn có tác dụng phòng và chống hành vi xâm phạm đến những quyền và lợi ích chính đáng của trẻ em được Nhà nước và xã hội đặc biệt quan tâm, bảo vệ. Tuy nhiên, chỉ những hành vi đe dọa giết trẻ em được thực hiện từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm c khoản 2 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1999.

  1. Đe dọa giết người để che giấu việc bị xử lý về một tội phạm khác (điểm d khoản 2 Điều 103)

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội giết người để che giấu một tội phạm khác quy định tại điểm d khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, người phạm tội trong trường hợp này chỉ có hành vi đe dọa giết người chứ không phải giết người, còn mục đích của hành vi đe dọa cũng là để che giấu một tội phạm khác. Về mặt thời gian hành vi đe dọa giết người bao giờ cũng được thực hiện sau hành vi phạm tội khác, tội phạm khác mà người phạm tội thực hiện là tội phạm bất kỳ và chưa bị phát hiện, nếu tội phạm khác đã bị phát hiện rồi mới có hành vi đe dọa thì không phải là trường hợp đe dọa giết người để che giấu tội phạm khác. Đây cũng là cấu thành tăng nặng mới được quy định đối với tội đe dọa giết người, nên chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội theo điểm d khoản 2 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1999 về những hành vi được thực hiện từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000.

  1. Đe dọa giết người để trốn tránh việc xử lý về một tội phạm khác (điểm d khoản 2 Điều 103)

Tội phạm khác trong trường hợp này là tội phạm bất kỳ, người phạm tội đã thực hiện trước khi có hành vi đe dọa giết người, khác với trường hợp đẻ che giấu là tội phạm khác đã bị phát hiện, nhưng vì để trốn tránh việc xử lý của cơ quan pháp luật nên người phạm tội đã có hành vi đe dọa giết người. Người bị đe dọa trong trường hợp này có thể là người dân thường. Ví dụ: Một tên cướp có vũ khí đang bị đuổi bắt đã chạy vào nhà dân ven đường dùng súng khống chế bắt chủ nhà cho y ẩn nấp nếu không y sẽ giết. Vì sợ bị giết thật nên chủ nhà đã mở cửa buồng cho vào ẩn nấp, nhưng lực lượng truy bắt vẫn phát hiện và bắt được tên cướp. Khi có nguy cơ bị bắt, mặc dù có súng trong tay nhưng tên cướp vẫn không thực hiện lời đe dọa là giết chủ nhà. Nếu để trốn tránh việc bị xử lý về một tội phạm khác mà đe dọa người thi hành công vụ thì áp dụng điểm b khoản 2 Điều 103 Bộ luật hình sự mà không áp dụng điểm d khoản 2 Điều 103.

Các trường hợp đe dọa giết nhiều người; đe dọa giết người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; đe dọa giết trẻ em; đe dọa giết người để che giấu hoặc trốn tránh việc bị xử lý về mọt tội phạm khác, người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 103 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù, là tội phạm nghiêm trọng.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ ( ĐIỀU 107 )

Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ là hành vi dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

Tội phạm này cũng được tách ra từ khoản 2 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1985, nên các dâu hiệu cơ bản của tội phạm này cũng tương tự như tội làm chết người trong khi thi hành công vụ quy định tại Điều 97 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác người bị hại chỉ bị thương tích hoặc bị tổn hại đến sức khoẻ, không có trường hợp nào người bị hại bị chết. Đây cũng là đặc điểm khác với một số trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.

Các dấu hiệu về người phạm tội, về điều kiện để được công nhận là người đang trong khi thi hành công vụ, về các trường hợp được sử dụng vuc lực trong khi thi hành công vụ, về hành vi trái pháp luật của người bị hại. v.v… đều tương tự như các dấu hiệu của tội làm chết người trong khi thi hành công vụ, chỉ khác nhau ở hậu quả của tội phạm.

Hậu quả của tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ chỉ làm cho người bị hại bị thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe từ 31% trở lên mà không làm chết người hoặc không dẫn đến chết người.

Như vậy, nếu có trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ mà dẫn đến chết người thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm chết người trong khi thi hành công vụ quy định tại Điều 97 Bộ luật hình sự.

Về lý luận, có nhều ý kiến khác nhau về quy định này. Vì sao đối với tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng lại có trường hợp dẫn đến chết người còn tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ lại không quy định trường hợp dẫn đến chết người. Trong khi đó, thực tế vẫn có thể xảy ra trường hợp trong khi thi hành công vụ do sử dụng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép gây thương tích dẫn đến chết người. Đây là vấn đề cả lý luận và thực tiễn vẫn còn là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, tổng kết.

Tuy nhiên, qua thực tiễn xét xử và nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự về các trường hợp phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và phạm tội trong khi thi hành công vụ, chúng tôi thấy không nên quy định trường hợp dẫn đến chết ngươì trong cả ba trường hợp phạm tội này, vì nếu thực tế có trường hợp nào dẫn đến chết người, các cơ quan tiến hành tố tụng rất khó xác định ý thức chủ quan của người phạm tội, dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Trong khi thi hành công vụ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người

Nếu trong khi thi hành công vụ do sử dụng vũ lực ngoiaf những trường hợp pháp luật cho phép mà gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người và người này có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 107 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. Tuy nhiên, so với khoản 2 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1985 thì quy định tại khoản 1 Điều 107 vẫn nặng hơn, do đó những hành vi được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị xử lý thì không áp dụng khoản 1 Điều 107 Bộ luật hình sự năm 1999 mà vẫn áp dụng khoản 2 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1985, vì mức hình phạt cải tạo không giam giữ khoản 1 Điều 107 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định nặng hơn khoản 2 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1985.

  1. Trong khi thi hành công vụ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người

Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người trong khi thi hành công vụ là gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của hai người trở lên và mỗi người đều bị thương tật từ 31% trở lên.

Nếu có nhiều người bị thương tật nhưng chỉ có một người có tỷ lệ từ 31% trở lên thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 107 Bộ luật hình sự.

Tuy nhiên thực tiễn xét xử cho thấy, có trường hợp trong khi thi hành công vụ do sử dụng vũ khí ngoài những trường hợp pháp luật cho phép gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người nhưng chỉ có một người có tỷ lệ thương tật từ 31 % trở lên, còn những người khác có tỷ lệ thương tật dưới 31% nhưng tổng tỷ lệ thương tật lại trên 31%, thậm chí tới trên 61%.Vậy có truy cứu người phạm tội theo khoản 2 Điều 107 không. Đây cũng là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, tổng kết vì khoản 2 Điều 107 Bộ luật hình sự là quy định mới, chưa có tổng kết hướng dẫn, nhưng qua thực tiễn xét xử và nghiên cứu loại tội phạm này.

Theo chúng tôi. do điều luật không quy định phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng khác, do đó nếu gây thương tích cho nhiều người, trong đó có một người có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên còn những người khác có tỷ lệ thương tật dưới 31 % nhưng tổng tỷ lệ thương tật của những người này từ 31% trở lên thì người phạm tội cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 107 Bộ luật hình sự.

 Người phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù hoặc từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI CỐ Ý KHÔNG GIÚP NGƯỜI ĐANG Ở TRONG TÌNH TẠNG NGUY HIỂM ĐẾN TÍNH MẠNG ( ĐIỀU 102)

Cố ý không cứu người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là hành vi thấy người đang ở trong tình trạng sắp chết, tuy có điều kiện cứu mà không cứu dẫn đến người đó bị chết.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

  1. Về phía người phạm tội

–  Người phạm tội có điều kiện mà không cứu giúp.

Một người khi thấy người khác ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, có điều kiện cứu được người đó khỏi chết mà không cứu thì bị coi là có tội. Ví dụ: Nguyễn Văn S làm nghề đánh cá, trong lúc đang ngồi trên thuyền thả lưới thì thấy một người sắp chết đuối, nhưng vì sợ “điềm gở” nên không cứu, đẫn đến người này bị chết.

Điều kiện để cứu được người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là khả năng thực tế có thể cứu được người sắp chết. Khả năng này có thể do bẩm sinh, do rèn luyện, do học tập hoặc do tính chất nghề nghiệp mà có.

Khi xét một trường hợp cụ thể lại phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra tình trạng nguy hiểm đến tính mạng của người bị nạn, chứ không chỉ căn cứ vào khả năng sẵn có của người cứu giúp. Ví dụ: một bác sĩ phẫu thuật, ngày chủ nhật vào rừng săn bắn, gặp một người bị đau ruột thừa cấp tính, nếu không được mổ ngay thì chết. Vì không có phương tiện (bộ đồ phẫu thuật), khu rừng lại xa nơi dân cư, ít người qua lại. Người bác sĩ này đã cõng bệnh nhân ra khỏi khu rừng, nhưng vì không kịp mổ nên bệnh nhân đã chết. Do đó, khả năng sẵn có của một người chỉ là tiền đề (cơ sở) tạo điều kiện để có thể cứu được người bị nguy hiểm đến tính mạng, còn thực tế có cứu được hay không lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan khác. Khả năng của con người chỉ phát huy được khi nó có những điều kiện cần thiết. Ngược lại, điều kiện có nhưng người ở trong điều kiện lại không có khả năng mà không cứu được người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng đẫn đến người này bị chết thì cũng không coi là phạm tội. Ví dụ: Một chị hộ lý được phân công mang bộ đồ phẫu thuật từ bệnh viện đến trạm phẫu thuật tiền phương để cấp cứu cho thương binh. Trên đường đi gặp một phụ nữ đau đẻ cần phải mổ để cứu cả con lẫn mẹ, nhưng vì chỉ là hộ lý, lại không có phương tiện chở người sản phụ đến trạm phẫu thuật, người hộ lý này đã làm mọi việc để cố cứu sản phụ nhưng không được mổ kịp thời nên sản phụ đã bị chết.

– Người phạm tội phải là người không có hành động nào nhằm cứu người bị hại thì mới coi là phạm tội.

Không hành động là một biểu hiện tiêu cực, lẽ ra họ phải có nghĩa vụ làm mọi việc để loại trừ sự nguy hiểm cho xã hội nhưng lại không làm nên dẫn đến hậu quả. Nếu họ đã có hành động nhưng vẫn không cứu được người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng thì cũng không coi là phạm tội. Ví dụ: Một người thấy một người sắp chết đuối đã bơi ra giữa dòng sông để cứu nhưng bơi gần tới nơi thì nạn nhân đã chìm, bị nước cuốn đi, người này đã lặn xuống mò tìm kiếm nhưng vẫn không thấy. Tuy nhiên, nếu đang hành động, không có một trở ngại nào ngăn cản mà tự ý dừng lại mặc dù vẫn còn điều kiện cứu mà không cứu để người bị nạn chết thì vẫn bị coi là phạm tội. Ví dụ: Một người làm nghề đánh cá thấy một người sắp chết đuối định chèo thuyền đến cứu vớt, nhưng người vợ lại nói: “cứu người chết đuối làm ăn chẳng ra gì”. Vì nghe lời vợ, nên đã không cứu để người bị nạn chết.

–  Lỗi của người phạm tội phải là do cố ý.

Người phạm tội biết rõ người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng nếu không cứu được thì sẽ chết và biết rõ mình có điều kiện cứu mà cố tình không cứu. Nếu còn nhận thức không rõ ràng tình trạng của nạn nhân hoặc khả năng của mình thì không coi là phạm tội. Ví dụ: Một bác sĩ vì trình độ non kém không xác định được bệnh nhân đau ruột thừa cấp tính nên không mổ do đó bệnh nhân bị chết.

  1. Về phía nạn nhân

– Nạn nhân phải thực sự đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.

Người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là trường hợp họ sắp bị chết, nhưng nếu được cứu thì sẽ không bị chết như: sắp chết, bị ngộ độc, bị thương nặng ra nhiều máu chưa được băng bó, mắc bệnh hiểm nghèo v.v… Nhưng nếu nạn nhân chưa ở trong tình trạng trên có người biết nhưng không cứu giúp, sau đó bị chết vì lý do khác thì người không cứu trước đó không coi là phạm tội. Ví dụ: Anh Nguyễn Văn Q bị tai nạn giao thông gãy chân, lái xe gây tai nạn bỏ trốn, anh Q bò ra đường vẫy xe nhờ đưa vào bệnh viện, người lái xe thấy anh Q chỉ bị thương vào chân, bệnh viện lại ở cách đó khá xa, xe lại không đi về hướng đó, nên sau khi băng bó cẩn thận cho anh Q, người lái xe bảo anh Q cứ ngồi chờ khi nào có xe ngược chiều thì xin đi nhờ, anh Q đồng ý. Vì bị đau, anh Q nằm thiếp đi trên mặt đường, trời tối lại ở đoạn đường vòng nên sau đó bị một xe tải cán chết.

– Người bị hại phải bị chết thì hành vi không cứu giúp mới cấu thành tội phạm

Người không được cứu phải chết thì người không cứu mới là phạm tội, nếu trước đó có người cố tình không cứu, nhưng sau đó lại được người khác cứu nên không chết thì người có hành vi cố tình không cứu trước đó chưa phải là hành vi phạm tội này. Ví dụ: Chị M sắp chết đuối gặp thuyền đánh cá của H, vì mê tín nên H không cứu, nhưng ngay sau đó chị M được anh T cứu nên thoát chết.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Người phạm tội là người đã vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm đến tính mạng cho nạn nhân ( điểm a khoản 2 Điều 102)

Thông thường, nạn nhân lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là do chính họ hay người khác hoặc nhưng sự kiện khách quan gây ra. Tuy nhiên, cũng có trường hợp lại do chính người phạm tội gây ra.

Vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm đến tính mạng người khác là do cẩu thả mà không thấy trước khả năng gây ra tình trạng nguy hiểm đến tính mạng người khác mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước. Hoặc thấy hành vi của mình có thể gây ra tình trạng nguy hiểm đến tính mạng người khác, nhưng cho rằng tình trạng đó không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.

Đây là người phạm tội vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm đến tính mạng của người khác chứ không phải vô ý làm chết người khác. Do vô ý mà  người phạm tội đã đưa người khác vào trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, nhưng sau đó lại cố ý không cứu mặc dù có điều kiện để cứu, nhưng phải coi trường hợp phạm tội này là nguy hiểm hơn và bị phạt nặng hơn trường hợp vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm đến tính mạng cho nạn nhân.

  1. Người phạm tội là người mà theo pháp luật phải có nghĩa vụ cứu giúp ( điểm b khoản 2 Điều 102)

Người mà theo pháp luật phải có nghĩa vụ cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là theo các ngành luật khác như: Luật hành chính, Luật lao động, Luật giao thông, Luật dân sự v.v… chứ không phải Luật hình sự. Bởi vì chính điều luật này (Điều 107 Bộ luật hình sự) đã quy định nghĩa vụ của mọi người khi thấy người khác ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng thì phải cứu họ.

Người mà theo pháp luật phải có nghĩa vụ cứu giúp người khác là người có trách nhiện cao hơn và họ cũng được trang bị nhưng phương tiện có khả năng cứu người bị tai nạn tốt hơn. Ví dụ: Một lái xe qua nơi xảy ra tai nạn, có người bị thương nhưng không chở người bị thương đến bệnh viện cấp cứu dẫn đến người bị thương chết, trong khi đó luật giao thông quy định lái xe gặp trường hợp như vậy phải chở người bị thương đến bệnh viện cấp cứu.

  1. Người phạm tội là người mà theo nghề nghiệp có nghĩa vụ phải cứu giúp ( điểm b khoản 2 Điều 102)

Người mà theo nghề nghiệp phải có nghĩa vụ cứu giúp là người do tính chất nghề nghiệp liên quan trực tiếp đến tính mạng của người khác như bác sĩ đối với bệnh nhân, thuỷ thủ đối với người sắp chết đuối v.v…

ĐƯỜNG LỐI XỬ LÝ ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI

Các trường hợp phạm tội cụ thể trên đây, người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 102 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ một năm đến năm năm tù. Luật hình sự coi các trườn hợp phạm tội này là tình tiết định khung hình phạt nặng hơn trường hợp không thuộc trường hợp này.

Người phạm tội không thuộc ba trường hợp trên thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 102 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm.

Khi xử lý loại tội này, chủ yếu nhằm giáo dục cho mọi người có ý thức cứu giúp người khác khi họ đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Xét về mặt đạo đức, người có điều kiện mà không cứu giúp người bị nạn sẽ bị dư luận xã hội lên án, còn người quên mình giúp người bị nạn là tấm gương để mọi người noi theo.

Khi xét xử Toà án lấy giáo dục là chủ yếu, ngay trong trường hợp phải phạt tù cũng cần giải thích để người phạm tội thấy rõ tội lỗi của mình, đồng thời thông qua phiên toà giáo dục mọi công dân đề cao ý thức pháp luật, có trách nhiệm đối với tính mạng của con người, lên án nhưng hành vi vô trách nhiệm đối với tính mạng của người khác, biểu dương nhưng hành động dũng cảm xả thân vì người khác, phê phán lối sóng ích kỷ, tư tưởng lạc hậu trái với đạo đức.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm có: ủy ban kiểm sát, các Cục, Vụ, Viện, Văn phòng, Trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát và Viện kiểm sát quân sự Trung ương.

_Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, các Kiểm sát viên và các Điều tra viên.

+Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là người lãnh đạo thống nhất toàn bộ hệ thống Viện kiểm sát nhân dân.

+Các Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Các Phó Viện trưởng giúp Viện trưởng thực thi nhiệm vụ.

_Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, một số Kiểm sát viên do ủy ban Thường vụ quốc hội quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ươnggồm có ủy ban kiểm sát, các phòng và Văn phòng.

_Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gồm có Viện trưởng, các Phó viện trưởng và các Kiểm sát viên, đều do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Viện trưởng lãnh đạo. Các Phó Viện trưởng giúp Viện trưởng thực thi nhiệm vụ.

_Ủy ban kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gồm có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, một số Kiểm sát viên do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố thực thuộc Trung ương.

Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh:

_Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện gồm có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng và các Kiểm sát viên, do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.

          Viện kiểm sát quân sự:

_Viện kiểm sát quân sự gồm có Viện kiểm sát quân sự Trung ương, Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, Viện kiểm sát quân sự khu vực. Viện kiểm sát quân sự Trung ương thuộc cơ cấu Viện kiểm sát nhân dân tối cao.Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương đồng thời là Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, lãnh đạo hoạt động của Viện kiểm sát quân sự các cấp, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH ( ĐIỀU 105)

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

Đây là tội phạm được nhà luật tách từ khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985.

 Các dấu hiệu của tội phạm này cũng tương tự như trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh quy định tại Điều 95 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở ý thức chủ quan của phạm tội đối với hậu quả và hậu quả thực tế đã xảy ra.

So với khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985, thì các dấu hiệu cấu thành được quy định tại Điều 105 đầy đủ hơn và hoàn toàn tương tự với các dấu hiệu cấu thành tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được quy định tại khoản 3 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985.

Khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định “bị kích động mạnh vì hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân”, chứ chưa quy định “hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc người thân tích của người đó” như khoản 1 Điều 105 Bộ luật hình sự năm 1999. Mặt khác, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định rõ tỷ lệ thương tật là từ 31% trở lên thì người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Còn khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định gây thương tích nặng. Tuy nhiên, theo hướng dẫn của Họi đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì thương tích hoặc tổn hại đến sức khoẻ của nạn nhân có tỷ lệ thương tật 31% được coi là thương tích nặng. Trường hợp nạn nhân có tỷ lệ thương tật dưới 31% thì người thực hiện hành vi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Cơ sở để xác nhận nạn nhân bị thương tích nặng hoặc bị tổn hại nặng đến sức khoẻ là kết luận của Hội đồng giám định y khoa. Nếu ở nơi nào không có điều kiện tổ chức Hội đồng giám định y khoa thì có thể căn cứ vào Bảng tiêu chẩn thương tật được ban hành kèm theo Thông tư liên Bộ số 12/TTLB ngày 26-7-1995 của Bộ Y tế và Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội để xác định tỷ lệ thương tật đối với người bị hại.

Người phạm tội chỉ có ý định gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân, chứ không mong muốn cho nạn nhân chết, nếu nạn nhân bị chết là nằm ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội. Đây là vấn đề rất khó xác định, bởi lẽ trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh, con người không còn đủ bình tĩnh sáng suốt để lựa chọn một cách rành mạch có mong muốn hay không mong muốn cho nạn nhân chết. Thông thường, người phạm tội chỉ hành động với ý thức bỏ mặc cho hậu quả muốn ra sao thi ra, miễn là cho hả giận. Tuy vậy, thực tiễn xét xử vẫn có không ít trường hợp trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh người phạm tội vẫn còn đủ minh mẫn đẻ lựa chọn ahnhf vi chỉ gây thương tích cho nạn nhân, nhưng chẳng may nạn nhân lại bị chết. Ví dụ: Đào Văn T nghị vợ mình ngoại tình với Nguyễn Trung Đ. Một lần, T bắt gặp vợ mình và Đ đang ôm hôn nhau, T liền dùng dao đâm nhiều nhát vào người Đ, vợ y thấy vậy ôm Đ đẩy ra thì bị trúng một nhát dao vào bụng. Thấy vậy, T vội đưa vợ vào bệnh viện cấp cứu, nhưng do bị ra nhiều máu, nên vơ của T đã chết sau đó 7 ngày. Trong trường hợp này, T hoàn toàn không có ý định tước đoạt tính mạng của vợ, nhưng vì quá bực tức nên dùng dao đâm Đ, chẳng may lại trúng vợ mình.

Các dấu hiệu khác như: trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm tội đều tương tự như đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%

Trương hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người và người này có tỷ lệ thương tậ từ 31% đến 60% thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 105 Bộ luật hình sự, có hình phạt từ cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến hai năm, là tội phạm ít nghiêm trọng.

Theo quy định của Bộ luật hình sự thì trường hợp phạm tội này là tội phạm ít nghiêm trọng nhưng thương tích của người bị hại lại là thương tích nặng, nên khi xét xử loại tội này, Toà án cần phân tích để người bị hại và những người khác biết vì sao hình phạt cao nhất chỉ có hai năm tù, có trường hợp người phạm tội chỉ bị phạt cảnh cáo hoặc cải tạo không giam giữ.

Đối với khoản tiền buộc người phạm tội phải bồi thường cho người bị hại, Toà án phải tính đến phần lỗi của người bị hại để quyết định cho thoả đáng, người bị hại có lỗi càng nặng thì khoản bồi thường càng ít hơn so với trường hợp người bị hại có lỗi bình thường.

  1. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của từ hai người trở lên và mỗi người đều phải có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.

Hai người trở lên bị thương tật từ 31% đến 60% đều phải là người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng trọng đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm tội. Đây là quy định mới so với khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985, nên chỉ áp dụng đối với hành vi phạm tội được thực hiện từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000.

Nếu chỉ có một người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm tội, còn những người khác không có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm tội, thì người phạm tội bị truy cứu về hai tội: Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tình thần bị kích động mạnh và tội “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” theo quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự.

Nếu có nhiều người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm tội, nhưng chỉ có một người có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%, còn những người khác chỉ bị thương tật dưới 31 % thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 105. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử có trường hợp tuy chỉ có một người bị thương tật từ 31% đến 60%, nhưng lại có nhiều khác bị thương tật dưới 31% và tổng tỷ lệ thương tật của những người này trên 31% thậm chí trên cả 60 %, nếu chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội theo khoản 1 Điều 105 thì không công bằng. Tuy chưa có hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền về trường hợp phạm tội này, nhưng theo chúng tôi nếu chỉ có một người bị thương tật 31% đến 60%, nhưng còn gây gây thương tật cho nhiều người khác mà tổng tỷ lệ thương tật của những người này từ 31% đến 60% thì  cũng phải coi là phạm tội đối với nhiều người và người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 105 Bộ luật hình sự, có như vậy mới thể hiện nguyên tắc công bằng khi xử lý tội phạm.

  1. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên

Đây là trường hợp người phạm tội trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh dã gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật của người bị hại từ 61% trở lên. Thương tật từ 61% trở lên là thương tật rất nặng, nên trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội cũng nặng hơn so với trường hợp chỉ gây thương tật cho một người có tỷ lệ thương tật 31% đến 60%.

Người bị hại trong trường hợp này cũng phải là người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội, nếu không thuộc trường hợp trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Điều luật không quy định thương tật 61% trở lên là thương tật của một người, nhưng nếu áp dụng cho cả trường hợp nhiều người cùng bị thương tật từ 61% trở lên thì không công bằng, nên cũng có ý kiến cho rằng các nhà làm luật nên cấu tạo Điều 105 có ba khoản, trong đó khoản 3 quy định trường hợp gây thương tật cho nhiều người và mỗi người đều có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên và trường hợp dẫn đến chết nhiều người. Hy vọng rằng ý kiến này sẽ được quan tâm khi sửa đổi Bộ luật hình sự trong thời gian tới. Khi chưa có sửa đổi, bổ sung thì trường hợp gây thương tật cho nhiều người và mỗi người có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên và trường hợp dẫn đến chết nhiều người thì người phạm tội phải bị áp dụng cả điểm a và điểm b khoản 2 Điều 105 Bộ luật hình sự và mức hình phạt phải cao hơn trường hợp người phạm tội chỉ bị áp dụng một điểm ( a hoặc b) khoản 2 Điều 105 Bộ luật hình sự.

  1. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dẫn đến chết người

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự. Người bị hại bị chết là do chính vết thương mà người phạm tội đã gây ra, nhưng người phạm tội hoàn toàn không mong muốn và cũng không bỏ mặc, tức là không có căn cứ để xác định thuộc trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh quy định tại Điều 95 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, việc phân biệt trường hợp nào là cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dẫn đến chết người, còn trường hợp nào là giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh không đơn giản, vì một người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh rất khó xác định mục đích của họ có mong muốn hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy ra hay không. Do đó chỉ nên coi là cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dẫn đến chết người nếu người bị hại không chết ngay mà sau một thời gian nhất định, người bị hại đã được cứu chữa nhưng do vết thương quá nặng nên đã chết.

Trường hợp nếu dẫn đến chết nhiều người, khi chưa có sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự thì người phạm tội bị áp dụng cả điểm a và b khoản 2 Điều 105 Bộ luật hình sự và hình phạt đối với họ phải nặng hơn trường hợp chỉ dẫn đến chết một người.

  1. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định tại khoản 4 Điều 104 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ, người phạm tội trong trường hợp này là trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và người bị hại là người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm tội, còn thế nào là trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng lại phụ thuộc vào việc đánh giá của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Tuy nhiên trường hợp đặc biệt nghiêm trọng quy định ở đây không phải là những trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% tở lên hoặc dẫn đến chết người, nhưng trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác ở đây là những trường hợp nào thì các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải xác định.

Các trường hợp phạm tội quy định tại khoản 2 Điều 105 Bộ luật hình sự là tội phạm nghiêm trọng có khung hình phạt từ một năm đến năm năm. So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì đây là những quy định mới, do dó không áp dụng đối với người phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Cũng như trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, khi xét xử đối với loại tội này, Toà án cần phân tích để người bị hại và những người tham dự phiên toà thấy được lỗi của người bị và hành vi phạm tội của bị cáo để mọi người không có ấn tượng vì sao gây thương tích nặng, rất nặng thậm chí dẫn đến chết người nhưng hình phạt tối đa có năm năm tù.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI GIẾT NGƯỜI DO VƯỢT QUÁ GIỚI HẠN PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG (ĐIỀU 96)

Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là cố ý tước đoạt tính mạng người đang có hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác một cách không cần thiết

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

Việc xác định các dấu hiệu của tội phạm này nhất thiết phải căn cứ vào chế định phòng vệ chính đáng được quy định tại Điều 13 Bộ luật hình sự. Bởi lẽ không có phòng vệ chính đáng thì không có vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.

Như vậy dấu hiệu quan trọng nhất của tội phạm này là “sự vượt quá cái giới hạn được coi là chính đáng”. Vì vậy, để xác định vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, thì nhất thiết phải hiểu được thế nào là phòng vệ chính đáng ?

Phòng vệ chính đáng được quy định tại Điều 15 Bộ luật hình sự với nội dung: “ Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.” Luật hình sự của một số nước gọi là phòng vệ cần thiết (Điều 38 Bộ luật hình sự của liên bang Nga). Bộ luật hình sự năm 1999 đã không dùng thuật ngữ tương xứng mà thay vào đó là thuật ngữ cần thiết tuy không làm thay đổi bản chất của chế định phòng vệ chính đáng nhưng cũng làm cho việc vận dụng chế định này trong thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả hơn.

Cho đến nay, đã có nhiều nhà khoa học, các cán bộ làm công tác thực tiễn quan tâm đến chế định phòng vệ chính đáng trong luật hình sự, nhiều bài viết đăng trên các tạp chí khoa học hoặc tạp chí chuyên ngành bàn về phòng vệ chính đáng. Tuy nhiên, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện chế định phòng vệ chính đáng; mặc dù Bộ luật hình sự năm 1985 đã được ban hành hơn 10 năm, nhưng chưa có giải thích chính thức nào của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về chế định phòng vệ chính đáng. Do đó, vấn đề phòng vệ chính đáng trong luật hình sự cho đến nay vẫn là vấn đề nhiều người quan tâm và thực tiễn đấu tranh chống tội phạm nhiều trường hợp có nhiều ý kiến khác nhau nên dẫn đến các quyết định khác nhau.

Tuy nhiên, qua việc tổng kết thực tiễn xét xử, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có Nghị quyết số 02/ HĐTP ngày 5-1-1986 hướng dẫn các Toà án các cấp áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, trong đó tại mục II của Thông tư có đề cập đến chế định phòng vệ chính đáng. Trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985, Toà án nhân dân tối cao cũng có chỉ thị số 07 ngày 22-12-1983 về việc xét xử các hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong khi thi hành công vụ. Tinh thần của chỉ thị số 07 theo chúng tôi vẫn còn phù hợp với quy định của Điều 15 Bộ luật hình sự và Nghị quyết số 02 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao với nội dung là: Hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khoẻ của người khác được coi là phòng vệ chính đáng khi có đầy đủ các dấu hiệu sau dây:

– Hành vi xâm hại những lợi ích cần phải bảo vệ phải là hành vi tội phạm hoặc rõ ràng là có tính chất nguy hiểm đáng kể cho xã hội;

– Hành vi nguy hiểm cho xã hội đang gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại thực sự và ngay tức khắc cho những lợi ích cần phải bảo vệ;

– Phòng vệ chính đáng không chỉ gạt bỏ sự đe doạ, đẩy lùi sự tấn công, mà còn có thể tích cực chống lại sự xâm hại, gây thiệt hại cho chính người xâm hại;

– Hành vi phòng vệ phải cần thiết với hành vi xâm hại, tức là không có sự chênh lệch quá đáng giữa hành vi phòng vệ với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại.

Cần thiết không có nghĩa là thiệt hại do người phòng vệ gây ra cho người xâm hại phải ngang bằng hoặc nhỏ hơn thiệt hại do người xâm hại đe doạ gây ra hoặc đã gây ra cho người phòng vệ.

Để xem xét hành vi chống trả có cần thiết hay không, có rõ ràng là quá đáng hay không, thì phải xem xét toàn diện những tình tiết có liên quan đến hành vi xâm hại và hành vi phòng vệ như: khách thể cần bảo vệ; mức độ thiệt hại do hành vi xâm hại có thể gây ra hoặc đã gây ra và do hành vi phòng vệ gây ra; vũ khí, phương tiện, phương pháp mà hai bên đã sử dụng; nhân thân của người xâm hại; cường độ của sự tấn công và của sự phòng vệ; hoàn cảnh và nơi xẩy ra sự việc v.v… Đồng thời cũng phải chú ý yếu tố tâm lý của người phải phòng vệ có khi không thể có điều kiện để bình tĩnh lựa chọn được chính xác phương pháp, phương tiện chống trả thích hợp, nhất là trong trường hợp họ bị tấn công bất ngờ.

Sau khi đã xem xét một cách đầy đủ, khách quan tất cả các mặt nói trên mà nhận thấy rõ ràng là trong hoàn cảnh sự việc xảy ra, người phòng vệ đã sử dụng những phương tiện, phương pháp rõ ràng quá đáng và đã gây thiệt hại rõ ràng quá mức đối với hành vi xâm hại thì coi hành vi chống trả là không cần thiết và là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Ngược lại, nếu hành vi chống trả là cần thiết thì đó là phòng vệ chính đáng.5

Tinh thần của chỉ thị số 07 và nghị quyết số 02 của Toà án nhân dân tối cao tuy chỉ là văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật, nhưng qua thực tiến xét xử, các văn bản trên được sử dụng như là một văn bản giải thích chính thức của cơ quan Nhà nứơc có thẩm quyền về chế định phòng vệ chính đáng. Tuy nhiên, do còn hạn chế về nhiều mặt nên cả về lý luận cũng như thực tiễn xét xử các văn bản trên chưa quy định một cách đầy đủ những dấu hiệu của chế định phòng vệ chính đáng, nên thực tiễn xét xử có không ít trường hợp còn có nhận thức rất khác nhau về phòng vệ chính đáng. Ví dụ: Khi nói đến hành vi chống trả một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm, nhưng chưa nêu được căn cứ để xác định thể nào là cần thiết ? Các lợi ích bị xâm phạm theo Điều 15 Bộ luật hình sự bao gồm lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của người phòng vệ và của người khác, nhưng bị xâm phạm trong trường hợp như thế nào thì hành vi chống trả được coi là phòng vệ, trường hợp nào thì không được coi là phòng vệ. Các công trình nghiên cứu của một số tác giả về chế định phòng vệ chính đáng cũng mới đề cập đến những khái niệm, những quy định của các văn bản hướng dẫn hoặc nêu một số vụ án mà Toà án các cấp đã xét xử người phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và từ đó rút ra kết luận, nhưng kết luận này không áp dụng cho tất cả các trường hợp, tính khái quát chưa cao.

Căn cứ vào quy định tại Điều 15 Bộ luật hình sự, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật và đặc biệt qua thực tiễn xét xử, chúng ta có thể nêu những điều kiện cần và đủ để một hành vi được coi là phòng vệ chính đáng phải hội tụ đủ các yếu tố sau:

Về phía nạn nhân

Nạn nhân ( người bị chết hoặc bị thương tích) phải là người đang có hành vi xâm phạm đến các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của các nhân người phòng vệ hoặc của người khác.

Đang có hành vi xâm phạm là hành vi đã bắt đầu và chưa kết thúc. Ví dụ: A đang cầm dao đuổi chém B hoặc C đang dí súng vào đầu Điều để buộc Điều phải đưa tài sản cho mình. Nếu hành vi chưa bắt đầu, thì mọi hành vi chống trả không được coi là hành vi phòng vệ. Ví dụ: Trần Tuấn Anh thấy Nguyễn Văn Hùng đi chơi với người yêu của mình nên nói với Hùng: “ Tao sẽ giết mày!” Mới nghe Tuấn Anh nói vậy, Hùng đã rút dao trong người ra đâm Tuấn Anh chết. Trường hợp hành vi xâm phạm đã kết thúc thì mọi hành vi chống trả cũng không được coi là hành vi phòng vệ. Ví dụ: A đánh B bị thương vào đầu, được mọi người can ngăn, A đã bỏ đi, nhưng do bực tức B đã lấy dao đuổi theo A đâm A chết. Tuy nhiên, trong trường hợp hành vi xâm phạm này đã kết thúc, nhưng lại có tiếp hành vi khác của chính người đó xâm phạm đến lợi ích chính đáng cần bảo vệ thì cũng không coi là hành vi xâm phạm đã kết thúc và người có hành vi chống trả vẫn được coi là phòng vệ. Ví dụ: A đánh B nhưng B đỡ được, A biết không thể đánh nổi B nên chạy vào nhà B đánh mẹ của B đang bị bệnh nằm trên giường, nên B đã dùng một khúc gỗ vụt mạnh vào đầu A làm cho A ngất xỉu sau đó bị chết. Mặc dù hành vi tấn công của A đã kết thúc đối với B nhưng A lại có tiếp hành vi xâm phạm đến mẹ của B và để bảo vệ mẹ của mình nên B đã chống trả gây thiệt hại cho A nên hành vi của B cũng được coi là phòng vệ. Trường hợp phòng vệ này thường bị nhầm với trường hợp tội phạm do tinh thần bị kích động mạnh quy định tại Điều 95 Bộ luật hình sự , vì người bị tấn công không phải là người chống trả ( người có hành vi phòng vệ) mà là người khác ( người thứ ba). Tuy nhiên người thứ ba trong trường hợp phòng vệ có thể là người thân của mình, nhưng cũng có thể chỉ là một người không quen biết, còn trường hợp phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, người bị xâm phạm chỉ có thể là người thân của người phạm tội. Trường hợp phòng vệ này càng dễ nhầm với trường hợp phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác gây ra quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, vì người thứ ba trong trường hợp quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự là tình tiết giảm nhẹ có thể là người thân, nhưng cũng có thể là người không quen biết. Hành vi phòng vệ và hành vi được coi là bị kích động về tinh thần chỉ khác nhau ở tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi xâm phạm. Vì vậy, về phía nạn nhân trong trường hợp phòng vệ phải là người có hành vi xâm phạm có tính chất nguy hiểm đáng kể.

Mức độ đáng kể ở đây là tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm phạm (quan hệ xã hội cần bảo vệ). Nếu quan hệ xã hội cần bảo vệ càng quan trọng bao nhiêu thì tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm của nạn nhân càng nghiêm trọng bấy nhiêu. Ví dụ: Một người trèo tường để đột nhập vào nơi cất giữ tài liệu tối mật về an ninh quốc phòng được canh phòng cẩn thận, thì tính chất nghiêm trọng hơn nhiều so với người trèo tường vào một gia đình nông dân để trộm cấp tài sản.

Mức độ đáng kể của hành vi xâm phạm còn phụ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi tấn công của nạn nhân ( người có hành vi xâm phạm). Ví dụ: Hành vi dùng súng để uy hiếp hành khách trên Tầu hoả của một tên cướp nguy hiểm hơn nhiều hành vi lén lút thò tay vào túi người khác để lấy trộm tiền.

Nếu tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm không đáng kể thì hành vi chống trả không được coi là phòng vệ. Ví dụ: A chỉ tát B một cái, B đã rút dao đâm chết A hoặc A chỉ thò tay vào túi của B để trộm cắp, B đã túm cổ áo A đấm tíu bụi cho đến chết, thì hành vi của B trong cả hai trường hợp này đều không được coi là hành vi phòng vệ.

Hành vi xâm phạm phải là hành vi trái pháp luật, nếu hành vi xâm phạm lại là hành vi mà pháp luật cho phép, thì người bị xâm phạm không có quyền chống trả để phòng vệ. Ví dụ: Một cảnh sát đuổi bắt một tên tội phạm nguy hiểm, người cảnh sát này đã bắn chỉ thiên, hô đứng lại, nhưng tên tội phạm vẫn cố tình chạy trốn, buộc người cảnh sát phải nổ súng bắn què tên tội phạm để bắt hắn. Nhưng khi người cảnh sát đến gần, hắn bất ngờ rút dao trong người ra đâm người cảnh cát trọng thương. Hành vi của tên tội phạm này không được coi là hành vi phòng vệ, vì hành vi của người cảnh sát được pháp luật cho phép. Hành vi trái pháp luật, trước hết là hành vi tội phạm và những hành vi khác trái với quy định của pháp luật thuộc các ngành luạt khác như: Luật hôn nhân và gia đình, luật dân sự, luật hành chính, luật kinh tế và các văn bản pháp luật khác. Tuy nhiên, khi xét hành vi xâm phạm trong trường hợp phòng vệ chính đáng phải xét trong mối tương quan với hành vi chống trả, không phải bất cứ hành vi tội phạm nào xảy ra, người có hành vi chống trả gây chết người hoặc gây thương tích cho người có hành vi xâm phạm đều là phòng vệ chính đáng. Ví dụ: A thò tay vào túi B để trộm cắp, nhưng B phát hiện được liền rút dao ra đâm A một nhát vào bụng làm A chết. Hành vi của B không được coi là phòng vệ chính đáng mặc dù hành vi xâm phạm của A là hành vi pham tội ( tội trộm cắp tài sản của công dân). Ngược lại, có những hành vi xâm phạm chưa phải là hành vi tội phạm, nhưng vì nó xâm phạm nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, của tổ chức và của công dân nên hành vi chống trả vẫn được coi là phòng vệ chính đáng, Ví dụ: Một người trèo tường vào khu vực cấm định hái một ít hoa. Người chiến sĩ bảo vệ phát hiện đã hô đứng lại, bắn chỉ thiên để bắt người này, nhưng vì hoảng sợ nên vẫn bỏ chạy buộc chiến sỹ bảo vệ phải bắn vào chân người này làm họ bị gẫy chân. Sau khi bị bắt, mới biết người này trèo tường vào khu vực cấm chỉ là để hái hoa và không biết đây là khu vực quan trọng cần được bảo vệ nghiêm ngặt. Như vậy, khi xem xét hành vi của người đang xâm phạm đến các lợi ích cần bảo vệ, không nhất thiết chỉ căn cứ vào tính chất nguy hiểm của hành vi xâm phạm mà phải chú ý đến lợi ích cần bảo vệ, đồng thời phải xét nó trong mối quan hệ với hành vi chống trả để xác định sự chống trả trong trường hợp cụ thể đó có được coi là phòng vệ chính đáng hay không ?

Pháp luật các nước nói chung cà nước ta nói riêng không coi hành vi tấn công của người mắc bệnh tâm thần là hành vi trái pháp luật, bởi vì người mắc bệnh tâm thần ( người điên ) họ không nhận thức được hành vi của họ là nguy hiểm cho xã hội nên họ không có lỗi. Tuy nhiên, nếu một người bị người mắc bệnh tâm thần tấn công, họ vẫn có quyền chống trả để bảo vệ mình, nhưng nếu còn có thể bỏ chạy mà không chạy lại chống trả gây thiệt hại cho người bị tâm thần thì không được coi là phòng vệ. Nhưng nếu bị người say rượu tấn công mình hoặc tấn công người khác thì hành vi gây thiệt hại cho người say rượu lại được coi là hành vi phòng vệ, vì người say rượu nếu xâm phạm đến các lợi ích cần bảo vệ, theo pháp luật nước ta vần bị coi là hành vi trái pháp luật

Về phía người phòng vệ

Nếu thiệt hại do người có hành vi xâm phạm gây ra có thể là thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, có thể là thiệt hại về tài sản, nhân phẩm, danh dự hoặc các lợi ích xã hội khác, thì thiệt hại do người có hành vi phòng vệ gây ra chỉ có thể là thiệt hại về tính mạng hoặc sức khoẻ cho người có hành vi xâm phạm . Ví dụ: A đi làm về thấy hai tên thanh niên đang hãm hiếp con gái mình, tiện có chiếc cuốc trên tay, A đã dùng cuốc bổ vào đầu một tên làm cho tên này bị trọng thương. Hành vi của A được coi là hành vi phòng vệ trong trường hợp bảo vệ lợi ích chính đáng của người khác ( con gái) đang bị xâm phạm.

Nếu người phòng vệ không gây thiệt hại cho chính người có hành vi xâm phạm mà gây thiệt hại cho người khác (thường là người thân của người có hành vi xâm phạm), thì không được coi là hành vi phòng vệ. Ví dụ: Trần Văn Q bị Phạm Thanh B đánh, nhưng Q không đánh B là lại đánh H (con của B) bị thương tích nặng. Hành vi của Q không được coi là hành vi phòng vệ.

Trường hợp người phòng vệ không gây thiệt hại về tính mạng hoặc sức khoẻ cho người có hành vi xâm phạm mà lại gây thiệt hại khác, thì cũng không được coi là hành vi phòng vệ. Ví dụ: Hoàng Công Đ bị Trần Văn T dùng dao đuổi đánh, để ngăn chặn việc T đưổi đánh mình nên Đ đã dùng bật lửa đốt nhà của T. Hành vi của Đ không được coi là hành vi phòng vệ, vì Đ không gây thiệt hại đến tính mạng hay sức khỏe đối với T mà gây thiệt hại về tài sản của T.

Cũng không coi là phòng vệ chính đáng trong trường hợp người có hành vi xâm phạm gây thiệt hại đến tài sản của người khác, rồi người khác cũng gây thiệt hại lại cũng về tài sản cho người có hành vi xâm phạm. Ví dụ: Nguyễn Văn K ra thăm đồng thấy Bùi Quốc T đang nhổ lúa trên thửa ruộng nhà mình vì hai bên đang có tranh chấp về thửa rưộng này. K chạy về lấy dao ra chặt phá cây trong khu vườn của gia đình T. Hành vi của cả K và T là hành vi cố ý huỷ hoại tài sản của công dân, K không thể lấy lý do: “mày nhổ lúa nhà tao thì tao chặt cây nhà mày”

Hành vi chống trả phải là cần thiết.

Cần thiết không có nghĩa là bên xâm phạm gây thiệt hại như thế nào thì bên phòng vệ cũng chỉ được gây thiệt hại như thế, mà thiệt hại do người có hành vi phòng vệ có thể lớn hơn nhiều so với thiệt hại mà người có hành vi xâm hại gây nên.

Sự chống trả cần thiết trong phòng vệ chính đáng, trước hết phải căn cứ vào tính chất của các lợi ích bị xâm phạm; tính chất của hành vi xâm phạm và các mối tương quan khác giữa hành vi xâm phạm với hành vi phòng vệ.

Lợi ích bị xâm phạm càng quan trọng bao nhiêu, thì hành vi chống trả càng phải mạnh mẽ bấy nhiêu; Ví dụ: Một cảnh vệ nổ súng bắn chết một người đã đột nhập vào khu vực được bảo vệ nghiêm ngặt theo một chế độ đặc biệt, thì hành vi của người bảo vệ được coi là cần thiết và là phòng vệ chính đáng. Nhưng cũng hành vi bắn chết người này lại trong trường hợp một học sinh vào trường hái trộm một ít nhãn và bị bảo vệ bắn chết thì lại không được coi là cần thiết và người bảo vệ đó không được coi là phòng vệ chính đáng. Vì vậy khi xem xét hành vi chống trả có cần thiết hay không phải đặt nó trong hoàn cảnh cụ thể trong mối quan hệ giữa lợi ích được bảo vệ và hành vi chống trả.

Tính chất, mức độ của hành vi xâm phạm càng nguy hiểm và nghiêm trọng bao nhiêu thì hành vi chống trả càng phải quyết liệt bấy nhiêu. Ví dụ: một tên cướp dùng súng uy hiếp mọi người trên xe khách để đồng bọn của y lục soát lấy tài sản, đã bị một cảnh sát hình sự bắn chết. Hành vi của chiến sĩ cảnh sát này được coi là hành vi phòng vệ chính đáng. Nhưng nếu người cảnh sát mới thấy tên cướp giơ dao đe doạ mọi người phải đưa tiền cho y mà đã vội rút súng ra bắn chết ngay tên cướp thì chưa được coi là phòng vệ chính đáng.

Khi đánh giá một hành vi chống trả có cần thiết hay không còn phải căn cứ vào nhiều yếu tó khác như: mối tương quan lực lượng giữa bên xâm phạm và bên phòng vệ, thời gian, không gian xảy ra sự việc.Ví dụ: Trong đêm tối, A bị một số người gọi ra nơi vắng vẻ rồi dùng chân tay đấm đá túi bụi, A thấy thế phải bỏ chạy, nhưng vẫn bị số người này đuổi theo, sẵn có con dao nhọn trong túi, A lấy ra giơ lên doạ: “ thằng nào vào đây tao đâm chết!”. Những người đuổi theo vẫn lao vào để đánh A, liền bị A dùng dao đâm trúng tim một người chết ngay tại chỗ. Nếu xét về phương tiện, thì A dùng dao còn những người tấn công chỉ dùng chân tay không, nhưng nếu xét về mói tương quan lực lượng thì một bên chỉ có một mình A còn bên kia có nhiều người và đặc biệt xét trong hoàn cảnh cụ thể, trong đêm tối hành vi xâm phạm của những người này phải coi là nguy hiểm đến tính mạng sức khoẻ của A, nên hành vi của A được coi là phòng vệ chính đáng.

Phòng vệ chính đáng không chỉ nhằm gạt bỏ sự đe doạ, đẩy lùi sự tấn công trái pháp luật mà nó còn thể hiện thái độ tích cực chống trả sự xâm phạm đến các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của mình hoặc của người khác. Phòng vệ chính đáng còn là quyền của con người chứ không chỉ là nghĩa vụ, nên không yêu cầu phương pháp phương tiện của người phòng vệ phải như phương pháp phương tiện mà kẻ tấn công sử dụng.

Tóm lại khi đánh giá hành vi chống trả có cần thiết hay không phải xem xét một cách toàn diện tất cả các tình tiết của vụ án, trong đó đặc biệt là tâm lý, thái độ của người phòng vệ khi xảy ra sự việc, họ không có điều kiện để bình tĩnh lựa chọn chính xác phương pháp, phương tiện thích hợp để chống trả nhất là trong trường hợp họ bị tấn công bất ngờ, chỉ coi là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng khi sự chống trả rõ ràng là quá đáng.

Cũng coi là phòng vệ chính đáng, nếu trong một hoàn cảnh cụ thể, một người tưởng lầm rằng người khác có hành vi xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của mình hay của người khác mà họ gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ của người đó. Khoa học luật hình sự gọi trường hợp phòng vệ này là phòng vệ tưởng tượng.

Phòng vệ tưởng tượng là gây thiệt hại cho người khác do tưởng lầm rằng người này đang có hành vi xâm phạm nguy hiểm cho xã hội.

Người có hành vi phòng vệ tưởng tượng chỉ được coi là không có lỗi khi hoàn cảnh cụ thể cho phép người đó tin một cách hợp lý là có sự xâm phạm thực sự và họ tin rằng là mình không bị nhầm, nếu đặt vào hoàn cảnh của người khác thì ai cũng sẽ bị nhầm như vậy. Ví dụ: Trong đêm tối, chị H đi gọi chồng ở xã bên về nhà có người cần gặp. Khi đi qua đoạn đường vắng, chị bị 3 tên ra chặn đường cướp của chị đôi hoa tai bằng vàng. Khi gặp chồng, chị kể cho anh nghe về việc chị vừa bị cướp. Chồng chị H mượn con dao rồi dùng xe đạp đưa vợ về. Khi đi qua đoạn đường mà chị H vừa bị cướp thì có 3 người từ trong bụi cây đi qua đường; thấy vợ chồng chị H họ đứng lại. Chị H nói với chồng: “ Đúng bọn này vừa cướp hoa tai rồi”. Chồng chị H xướng xe cầm dao lao vào 3 người chém túi bụi làm cho cả bản án sơ thẩm đều bị thương. Sau khi sự việc xảy ra mới biết 3 người này là tổ bảo bệ của Hợp tác xã vừa đi coi đồng về. Trong trường hợp này, hành động dừng lại giữa đường của 3 người trong hoàn cảnh cụ thể này làm cho vợ chồng chị H tin là bọn cướp và không chỉ có vợ chồng chị H mà ai trong hoàn cảnh này cũng sẽ tin như vậy, nên được coi là phòng vệ tưởng tượng và không phải chịu trách nhiệm hình sự . Nếu sự lầm tưởng lại không có căn cứ và trong hoàn cảnh cụ thể đó mọi người đều không thể lầm tưởng thì người có hành vi xâm hại đến tính mạng sức khoẻ của người kác phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự và hành vi của họ là hành vi tội phạm do cố ý. Ví dụ: Nguyễn Văn H đang dạo chơi trong Công viên có nhiều người qua lại, thấy một người đang ngồi ở ghế đá đứng dậy lững thững đi về phía mình mà không nói năng gì, H liền rút dao trong người ra đâm người này một nhát vào bụng làm người này ngã gục. Sau khi sự việc xảy ra H cho rằng tưởng người này đến cướp tài sản của mình, nhưng căn cứ vào hoàn cảnh thực tế lúc xảy ra sự việc thì trường hợp của H không phải là phòng vệ tưởng tượng, nên H phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.

Hiện nay, trong một số sách báo pháp lý,vấn đề phòng vệ tưởng tượng cũng còn có những quan điẻm khác nhau: Có quan điểm cho rằng phòng vệ tưởng tượng không phải là phòng vệ chính đáng, vì không có cơ sở của quyền phòng vệ, vấn đề trách nhiệm hình sự vẫn được đặt ra và được giải quyết như mọi trường hợp sai lầm khác.6

Pháp luật Việt nam không thừa nhận hành vi phòng vệ trước ( phòng vệ từ xa ), tức là chưa có sự tấn công mà đã có hành vi nhằm ngăn chặn sự tấn công như: đấu giòng điện vào cánh cửa đề phòng trộm, dùng bẫy để dề phòng kẻ gian…Nếu việc phòng vệ trước này lại gây ra hậu quả làm chết người hoặc gây thương tích cho người khác thì họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự như các trường hợp tội phạm thông thường ( giết người hoặc cố ý gây thương tích). Tuy nhiên, thực tiễn xét xử nếu hành vi phòng vệ trước lại gây thiệt hại cho đúng kẻ phạm pháp thì người phạm tội cũng được chiếu cố giám nhẹ đáng kể. Ví dụ: Gia đình Trần Văn N thường xuyên bị mất trộm gà, N đã nhiều đêm thức trắng để phục bắt kẻ trộm nhưng không được, N bèn lấy một đoạn giây thép buộc vào cánh cửa chồng gà và cho dòng điện 220 Vol chay qua. Để bảo đảm an toàn cho những người trong gia đình mình, N dặn mọi người phải cẩn thận; trước khi đi ngủ mới được đấu điện vào và sáng thức dậy phải rút điện ra. đến đêm thứ 9 thì kẻ trộm vào và bị điện giật chết, trên tay kẻ trộm còn cầm một bao tải trong đựng 4 con gà. Mặc dù N bị truy cứu trách nhiệm hình sự vể tội giết người theo khoản 2 Điều 101 Bộ luật hình sự, nhưng Toà án chỉ phạt N 3 năm tù (dưới mức thấp nhất của khung hình phạt) nhưng vẫn được nhân dân đồng tình, thậm chí còn có ý kiến cho rằng không nên truy cứu trách nhiệm hình sự đối với N vì kẻ bị chết là đáng đời, ai bảo đi ăn trộm. ở đây có vấn đề mâu thuẫn giữa ý thức pháp luật với hành vi nguy hiểm cho xã hội, cũng giống như trường hợp đánh chết kẻ trộm cắp khi bị bắt vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy vậy chúng tôi vẫn thấy rằng các nhà làm luật cũng nên tính cả đến các yếu tố truyền thống, phong tục, tâm lý của người Việt nam trong trường hợp “ phòng vệ trước”. Pháp luật của một số nước kể cả các nước phát triển vẫn quy định trong một số trường hợp phòng vệ trước không phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu ở nước ta không thừa nhận hành vi phòng vệ trước thì cũng nên quy định trong một số trường hợp tội phạm do phòng vệ trước được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự một cách đáng kể. Phòng vệ trước cũng là trường hợp phòng vệ quá sớm, tức là chưa có hành vi tấn công đã có hành vi phòng vệ.

Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm, nhưng nếu hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại thì là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.

Giới hạn của phòng vệ chính đáng chính là hành vi gây thiệt hại của người phạm tội  cần thiết với hành vi xâm phạm, nếu không cần thiết mà gây thiệt hại lớn hơn là vượt giới hạn phòng vệ chính đáng. Cần thiết hay không cần thiết, thiệt hại gây ra lớn hơn hay ngang bằng với hành vi xâm phạm không thể tính bằng phương pháp số học như 5 lớn hơn các số đứng trước nó và nhỏ hơn các số đứng sau nó, mà phải căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm và tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phòng vệ. Cần thiết càng không phải là ngang bằng theo kiểu A đấm B hai cái thì B cũng chỉ được đấm lại A hai cái, nếu đấm từ cái thứ ba trở đi là vượt quá; cần thiết cũng không có nghiẽa là A gây cho B thiệt hại như thế nào thì B cũng chỉ được gậy thiệt hại cho A như vậy. Bản thân việc phòng vệ chính đáng là ngăn chặn, đẩy lùi hành vi xâm phạm trái pháp luật của một người đối với mình hoặc đối với người khác. Sự vượt quá ở đây chính là sự vượt quá cái giới hạn mà pháp luật cho phép. Tuy nhiên trong thực tế, pháp luật không thể dự liệu hoặc liệt kê từng trường hợp cụ thể các giới hạn đó được mà phải tuỳ thuộc vào các yếu tố, các tình tiết thực tế khi xảy ra vụ án. Ví dụ: Trần Văn Đ là nhân viên bảo vệ cầu X. Cầu bị hỏng đang sửa chữa, đã có biển báo “cấm người qua lại”. Nguyễn Văn H đi qua cầu, Đ ngăn lại và bảo H xuống sông đi đò. H không nghe, gây gổ định đánh Đ, nhưng mọi người can ngăn nên H phải quay lại và đe doạ: “Tao sẽ giết mày”. H đi rồi, Đ sợ H sẽ quay lại đánh mình nên vào trong lán lấy con dao nhọn giấu vào lưng quần. Sau đó 20 phút, H cùng với em là P bơi thuyền đến, thuyền vừa cặp bờ, H nhảy lên đi thẳng đến chỗ Đ nói những lời thách thức và xông vào đấm Đ túi bụi. Đ bị dồn đánh lại nhìn thấy P ở dưới thuyền cầm dao chạy lên, Đ đã rút dao đam ra nhiều nhất vào bụng H rồi bỏ chạy. Do bị đâm thủng dạ dày, dập gan, vỡ lá lách nên H bị chết. Hành vi phòng vệ của Trần Văn Đ trong trường hợp này là không cần thiết với hành vi xâm phạm, vì trong lúc nạn nhân chỉ  tấn công Đ bằng tay, em của H tuy có cầm dao, nhưng còn đang ở dưới bờ sông cách xa Đ. Trong bối cảnh như vậy, Đ đã dùng dao đâm chết H là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.

Một người muốn được xác định là giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, trước hết phải thoả mãn các dấu hiệu và điều kiện của chế định phòng vệ chính đáng, chứ không thoả mãn điều kiện “cần thiết” giữa hành vi xâm phạm và hành vi phòng vệ.

Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý mà chủ yếu là lỗi cố ý gián tiếp – cố ý không xác định. Nếu vô ý làm chết người tấn công mình thì không phải là giết người do vượt quá giớ hạn phòng vệ chính đáng. Ví dụ: A đang cầm súng làm nhiệm vụ bảo vệ, thì bị B say rượu đánh. A không đánh lại vì biết B say rượu, nhưng trong lúc giằng co để B không đánh được mình nên đã vô ý để súng làm B bị chết.

Người bị chết phải là người đã có hành vi xâm phạm đến các lợi ích cần được bảo vệ. Nếu người có hành vi phòng vệ lại gây thiệt hại cho người thứ ba thì không phải giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng mà tuỳ thuộc vào từng trường hợp mà kết tội người phạm tội về tội giết người hoặc vô ý làm chết người. Ví dụ: A đánh B, nhưng vì B không đánh lại được A nên B giết con của A để đẩy lùi sự tấn công của A thì hành vi của B thuộc trường hợp giết người theo Điều 101 Bộ luật hình sự . Hoặc A dùng dao đuổi chém B, B bị vấp ngã, thấy A vẫn cầm daolao vào mình, B liền rút dao găm phóng lại phía A nhưng không trúng A mà trúng vào ngực C làm C chết tại chỗ, vì lúc đó C thấy A đuổi B nên chạy ra để ngăn cản hành vi của A nhưng không may lại trúng dao của B. Hành vi của B đối với C là vô ý làm chết người chứ không phải giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.

Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng chỉ có thể xảy ra khi người có hành vi xâm phạm (nạn nhân) bị chết. Nếu nạn nhân chỉ bị thương và có tỷ lệ thương tật từ 31 % trở lên thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 106 Bộ luật hình sự về tội cố ý gây thương tích  do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.

Về chủ thể

Chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, bởi vì tội này khoản 1 Điều 96 là tội ít nghiêm trọng có mức cao nhất của khung hình phạt là 2 năm tù; khoản 2 Điều 96 là tội nghiêm trọng có mức cao nhất của khung hình phạt là 5 năm năm tù, mà người dưới 16 tuổi thì chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng (khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự).

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Giết một người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng ( khoản 1 Điều 96)

Trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng mà giết chết một người thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 96 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm, là tội phạm ít nghiêm trọng.

Nếu giết chết một người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và còn gây thương tích cho một người với tỷ lệ thương tật từ 31 % trở lên cũng do vượt quá giớ hạn phòng vệ chính đáng, thì người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự thêm tội “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” theo khoản 1 Điều 106 Bộ luật hình sự, nếu gây thương tích cho nhiều người và tất cả những người này đều do vướt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự thêm tội”cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” theo khoản 2 Điều 106 Bộ luật hình sự.

Nếu có một người bị giết do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và có một hoặc nhiều người bị thương tích nhưng không do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì người phạm tội ngoài việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo khoản 1 Điều 96, thì còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác” theo Điều 104 Bộ luật hình sự.

  1. Giết nhiều người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng ( khoản 2 Điều 96)

Giết nhiều người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là giết hai người trở lên và tấ cả những người bị giết đều do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.

Nếu có nhiều người chết, nhưng chỉ có một người bị giết do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 96 Bộ luật hình sự đối với người bị giết do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, còn những người khác tuỳ thuộc vào hành vi phạm tội cụ thể mà có thể bị truy cứu thêm tội “giết người ” theo Điều 93 Bộ luật hình sự, tội “giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” theo Điều 95 Bộ luật hình sự, tội “làm chết người trong khi thi hành công vụ” theo Điều 97 Bộ luật hình sự hoặc tội “vô ý làm chết người” theo Điều 98 Bộ luật hình sự…

Nếu có nhiều người chết, nhưng chỉ có một người bị giết do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng còn những người khác bị giết là do phòng vệ chính đáng thì thuộc trường hợp giết một người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 96 Bộ luật hình sự .

Giết nhiều người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, người phạm tội có thể bị phạt từ hai năm đến năm năm tù.

Khi xét xử vụ án giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, Toà án cần phân tích làm rõ hành vi trái pháp luật của nạn nhân, nhằm tránh tâm lý cho rằng giết người nhưng mức hình phạt lại rất nhẹ, kể cả trường hợp giết nhiều người hình phạt cao nhất cũng chỉ tới 5 năm, đồng thời giáo dục ý thức pháp luật cho mọi người thấy được quyền phòng vệ chính đáng của mình khi bị người khác xâm phạm và giới hạn cho phép khi thực hiện quyền đó.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC DO VƯỢT QUÁ GIỚI HẠN PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG ( ĐIỀU 106 ) 

Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại, gây thương tật cho người xâm hại từ 31% trở lên hoặc dẫn đến chết người.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

Tội phạm này được tách từ khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên Điều 106 Bộ luật hình sự được cấu tạo thành hai khoản, nhưng cả hai khoản đều là tội phạm ít nghiêm trọng. So với khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 106 nhẹ hơn vì mức cao nhất của khung hình phạt là một năm tù, nhưng khoản 2 của điều luật thì nặng hơn vì có mức cao nhất của khung hình phạt là ba năm tù ( mức cao nhất của khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 là hai năm tù )

Các dấu hiệu của tội phạm này cũng tương tự như trường hợp giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng quy định tại Điều 96 Bộ luật hình sự. Do đó khi xác định các dấu hiệu của tội phạm này, cũng phải căn cứ vào các quy định về phòng vệ chính đáng, vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng  tại Điều 15 Bộ luật hình sự.

Dấu hiệu đặc trưng để phân biệt tội phạm này với tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hậu quả và ý thức chủ quan của người phạm tội đối với hậu quả.

Nếu người bị hại chỉ bị thương hoặc bị tổn hại đến sức khoẻ thì tỷ lệ thương tật phải từ 31% trở lên thì người phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự , nếu tỷ lệ thương tật dưới 31% thì người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Nếu người bị hại bị chết thì cái chết của người bị hại là do bị thương mà đẫn đến chết người chứ không phải vì nguyên nhân khác. Về phía người phạm tội không mong muốn hoặc không bỏ mặc cho người bị hại chết, cái chết của người bị hại là ngoài ý muốn của người phạm tội.

Các dấu hiệu khác của tội phạm này như: hành vi xâm phạm của người bị hại, hành vi chống trả của người phòng vệ đều tương tự như trường hợp giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Phạm đối với một người

Do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng mà gây thương tích cho một người hoặc dẫn đến chết một người thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 106 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến một năm, là tội phạm ít nghiêm trọng và cũng thuộc trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng. So với khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 thì trường hợp phạm tội này nhẹ hơn, nên được áp dụng đối với hành vi phạm tội được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 nhưng sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị xử lý.

Cũng như đối với trường hợp giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, khi xét xử Toà án cần phân tích để người bị hại và những người dự phiên toà thấy được hành vi xâm phạm của người bị hại và quyền phòng vệ của người phạm tội.

Do cấu tạo của điều luật, nên trường hợp bị thương tật trên 31% và trường hợp dẫn đến chết người đều quy định trong cùng một khung hình phạt. Do đó khi xét xử, nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau mà người bị hại chỉ bị thương tích từ 31% đến 60% thì nói chung không nên áp dụng hình phạt tù đối với người phạm tội, chỉ áp dụng hình phạt tù đối với người phạm tội trong trường hợp người bị hại bị thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người và có thể cho người phạm tội được hưởng án treo nếu có đủ các điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự.

  1. Phạm tội đối với nhiều người

Do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng mà gây thương tích cho từ hai người trở lên hoặc dẫn đến chết hai người trở lên, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 106 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ một năm đến ba năm tù, cũng là tội phạm ít nghiêm trọng.

Tất cả những người bị thương đều phải có tỷ lệ từ 31% trở lên thì người phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 106. Nếu có nhiều người bị thương, nhưng chỉ có một người bị thương tật với tỷ lệ từ 31% trở lên thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 106 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên thực tiễn xét xử cho thấy có những trường hợp chỉ có một người bị thương có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên và có nhiều người khác bị thương tật dưới 31% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của những người này từ 31% trở lên, thậm chí có trường hợp trên 61%.Vậy có truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội theo khoản 2 Điều 106 hay không ? Do tội phạm mới được tách ra từ khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985, nên các cơ quan pháp luật chưa có điều kiện tổng kết hướng dẫn. Nhưng theo chúng tôi, nếu quy định phạm tội đối với nhiều người và mỗi người có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên thuộc trường hợp phạm tội theo khoản 2 Điều 106 Bộ luật hình sự, thì trường hợp phạm tội này cũng phải truy cứu người phạm tội theo khoản 2 Điều 106 Bộ luật hình sự, vì có như vậy mới bảo đảm nguyên tắc công bằng.

Tuy nhiên, nếu so sánh với trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 106 Bộ luật hình sự, vẫn có những vấn đề bất hợp lý mà về lý luận cũng như thực tiễn xét xử cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện. Ví dụ: Do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng gây thương tích dẫn đến chết một người thì thuộc trường hợp khoản 1 Điều 106, nhưng gây thương tích cho hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người là 31% thì lại bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 106 Bộ luật hình sự là không hợp lý, vì hai người bị thương với tổng tỷ lệ thương tật là 62% lại bị áp dụng hình phạt nặng hơn trường hợp dẫn đến chết một người. Vì vậy, chúng tôi đề nghị khi sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định phạm tội đối với nhiều người và tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết nhiều người thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 106 Bộ luật hình sự.

Đối với trường hợp có nhiều người bị chết, thì tất cả những người bị chết đó đều nằm ngoài ý muốn của người phạm tội và cái chết của họ là do bị thương mà dẫn đến chết người chứ người phạm tội không có ý định tước đoạt tính mạng của họ. Nếu có nhiều người bị chết do hành vi phòng vệ quá mức cần thiết, trong đó chỉ có một người là do bị thương tích dẫn đến chết người còn những người khác không thuộc trường hợp này thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo khoản 1 Điều 106 Bộ luật hình sự và tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo Điều 96 Bộ luật hình sự. Về lý luận là thế, nhưng thực tiễn xét xử ít trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng tách bạch như vậy mà thường chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội theo Điều 96 Bộ luật hình sự về tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Cả khoản 2 Điều 96 và khoản 2 Điều 106 Bộ luật hình sự năm 1999 đều là những cấu thành mới chưa được thực tiễn xét xử kiểm nhiệm nên không thể tránh khỏi những bất cập. Hy vọng rằng những bất cập này sẽ được tổng kết qua thực tiễn xét xử và sẽ được xem xét sửa đổi bỏ sung cho phù hợp.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI BỨC TỬ (ĐIỀU 100)

Bức tử là hành vi đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm cho người đó tự sát.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

  1. Người bị coi là phạm tội bứ tử khi có một trong những hành vi sau đây:

– Đối xử tàn ác với nạn nhân

Người phạm tội đã có hành vi đối xử một cách tàn nhẫn, có hành động gây đau khổ cho người lệ thuộc mình. Sự đau khổ của nạn nhân có thể là sự đau khổ về thể xác hoặc sự đau khổ về tinh thần như: bị đánh đập, bị bỏ đối, bị bỏ rét, bắt làm việc nặng nhọc, không cho học hành, vui chơi…Hành vi này không chỉ bị pháp luật cấm mà dư luận xã hội cũng lên án.

– Thường xuyên ức hiếp nạn nhân

Là hành vi dựa vào quyền hành, sức mạnh, tiền tài để đè nén, buộc người lệ thuộc chính mình phải chịu đựng điều bất công phi lý như: bị đánh mà không được kêu khóc; hai người đều có lỗi như nhau nhưng chỉ phạt một người; cùng có kết quả lao động như nhau nhưng người này được trả công ít hơn người kia v.v…

Hành vi ức hiếp phải xảy ra thường xuyên thì mới coi là tội phạm. Nếu chỉ xảy ra một vài lần thì chưa coi là hành vi bức tử. Ví dụ: vợ chồng Nguyễn Văn B chỉ có một đưá con gái. Do được nuông chiều từ nhỏ nên con gái của vợ chồng B thường bỏ nhà đi chơi, không chịu học hành; một hôm, con gái của B đi chơi về khuya, B bực tức tát con gái một cái và nói: “lần sau còn như thế thì đừng về cái nhà này nữa.” Đêm hôm đó con gái của B đã uống thuốc ngủ tự tử .

– Ngược đãi đối với nạn nhân.

Là hành vi đối xử một cách tàn nhẫn, trái với lẽ phải, với đạo đức giữa con cái đối với bố mẹ, giữa các cháu với ông bà, giữa vợ chồng với nhau v.v…

Lẽ phải và đạo đức là những quy tắc xử sự trong xã hội, những truyền thống của một dân tộc. Người có hành vi ngược đãi là làm ngược lại những quy tắc, những truyền thống đó như: Con cái phải kính trọng bố mẹ, vợ chồng phải có nghĩa vụ yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, nhưng người phạm tội lại làm ngược lại. Ví dụ: Bà Trần Thị T ở quê lên thăm con trai là Phạm Văn Đ ở thành phố, bà T làm gì cũng bị Đ mắng là ngu, đần; đến bữa ăn, vợ chồng Đ không cho bà T ngồi ăn cùng mâm mà bắt bà phải ăn sau ở nhà bếp. Đ còn bắt bà T phải ăn những thức ăn thừa. Đ luôn miệng nhiếc móc và đuổi mẹ về. Thậm chí còn nguyền rủa bà chết đi cho rảnh. Bà T thấy con vì buôn bán có tiền nên không kính trọng mẹ nữa nhưng bà vẫn chịu đựng vì bà chỉ có mình Đ là con. Một hôm, do sơ ý, bà T làm vỡ chiếc phích đựng nước liền bị Đ quát tháo, chửi mắng thậm tệ. Vì quá uất ức với con trai, nên đêm hôm đó bà T đã uống thuốc tự tử.

– Làm nhục nạn nhân

Người phạm tội đã có hành vi làm tổn thương đến nhân phẩm danh dự người lệ thuộc mình bằng lời nói hoặc hành động như: xỉ vả trước đám đông, tung tin thất thiệt để người khác tưởng thất là nạn nhân xấu xa. Ví dụ: Chị H là con dâu ông M, chồng chị H là bộ đội. Ông M nghe dư luận chị H có quan hệ bất chính với anh T, ông M tra khảo chị H, nhưng chị H không nhận có quan hệ với anh T, nên ông M đã lột hết quần áo của chị H, cạo dầu bôi vôi rồi đuổi ra ngoài đường. Chị H thấy bị xỉ nhục, quá uất ức đã uống thuốc sâu tự tử.

  1. Về phía người bị hại phải thoả mãn những điều kiện sau:

– Người tự sát phải là người lệ thuộc vào người phạm tội

Mối quan hệ lệ thuộc giữa nạn nhân và người phạm tội là yếu tố bắt buộc để xác định hành vi của một người có phạm tội bức tử hay không. Người bị lệ thuộc phải là người dựa vào người khác trong cuộc sống về các mặt vật chất và tinh thần như: lệ thuộc về kinh tế; bị ràng buộc bởi quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng, quan hệ công tác, thầy trò hoặc quan hệ tôn giáo…

– Nạn nhân phải là người tự tước đoạt tính mạng của mình

Nạn nhân, bằng nhiều phương pháp khác nhau, đã tự mình thực hiện việc tước đoạt tính mạng của chính mình như: thắt cổ, uống thuốc độc, nhảy xuống sông, đâm vào bụng, bắn vào đầu v.v… Nếu nạn nhân tuy muốn chết nhưng lại không thực hiện hành vi tự tước đoạt tính mạng của mình mà nhờ người khác giúp thì không phải là tự sát và người có hành vi ngược đãi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội bức tử.

– Nguyên nhân dẫn đến việc nạn nhân tự sát là do hành vi của người phạm tội

Vì bị đối xử tàn ác, thường xuyên bị ức hiếp ngược đãi hoặc bị làm nhục, nên nạn nhân đã tự sát. Nếu vì lý do khác làm cho nạn nhân tự sát, thì người có hành vi đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp… cũng không bị coi là phạm tội bức tử. Ví dụ: Chị H mẹ chết sớm, bố lấy vợ khác, H phải ở với dì ghẻ từ lúc 3 tuổi. Trong cuộc sống, H thường xuyên bị dì ghẻ ức hiếp, đối xử tàn ác và nhiều lần bị dì ghẻ làm nhục trước bạn bè. Khi H 18 tuổi yêu một bạn trai hơn H một tuổi. Vì nhẹ dạ nên H đã có thai với người yêu. Sau khi biết H có thai, người yêu của H đã bỏ rơi. Do thất tình, H đã viết một lá thư tuyệt mệnh rồi uống thuốc tự tử.

Chỉ cần nạn nhân có hành vi tự sát là tội phạm hoàn thành, còn việc nạn nhân chết hay được cứu sống chỉ có ý nghĩa xem xét khi quyết định hình phạt. Tuy nhiên, đối với trường hợp nạn nhân không bị chết, tuỳ thuộc vào từng trường hợp mà có thể truy tố hoặc không truy tố người có hành vi bức tử.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Bức tử làm một người tự sát ( khoản 1 Điều 100)

Bức tử làm một người tự sát là hành vi đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm cho người đó (một người) tự sát và người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 100 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù, là  tội phạm nghiêm trọng. So với khoản 1 Điều 105 Bộ luật hình sự năm 1985 là tội nặng hơn, vì mức thấp nhất của khung hình phạt theo khoản 1 Điều 100 cao hơn mức thấp nhất của khung hình phạt theo khoản 1 Điều 105 Bộ luật hình sự năm 1985. Do đó, những hành vi bức tử được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000, nhưng sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị xử lý thì không áp dụng khoản 1 Điều 100 đối với người phạm tội mà chỉ áp dụng khoản 1 Điều 105 Bộ luật hình sự năm 1985 để xét xử đối với họ.

  1. Bức tử làm nhiều người tự sát ( khoản 2 Điều 100)

Bức tử làm nhiều người tự sát là hành vi đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục nhiều người lệ thuộc mình làm cho những người đó (từ hai người trở lên) tự sát và người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 100 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ năm năm đến mười hai năm tù, là tội phạm rất nghiêm trọng.

Đây là cấu thành mới so với Bộ luật hình sự năm 1985, do yêu cầu của thực tiễn xét xử hơn 10 năm thi hành Bộ luật hình sự, nên nhà làm luật đã xây dựng một cấu thành tăng nặng đối với tội bức tử. Ví dụ: Trong thời gian qua, một số nhà hàng, khách sạn ở một số thành phố, thị xã xuất hiện nhưng ổ nhóm “bảo kê”, bọn chúng khống chế, ép buộc các nữ tiếp viên phải nộp tiền cho chúng, buộc phải bán dâm theo sự sai khiến của chúng, nếu không nộp tiền, không ‘tiếp khách” theo yêu cầu của chúng thì chúng đánh đập thậm tệ hoặc làm nhục, nhiều chị em không chịu nổi sự hành hạ đó đã tự sát.

Bức tử là hành vi phạm tội nghiêm trọng và trong nhiều trường hợp còn là hành vi phạm tội rất nghiêm trọng, nó vừa xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ của con người vừa xâm phạm đến danh dự nhân phẩm của nạn nhân. Do đó khi xử lý hành vi bức tử phải nhằm đạt được yêu cầu phòng, chống những hành vi côn đồ, hung hãn, độc đoán, gia trưởng; những tư tưởng phong kiến, tư sản. Đồng thời phải giáo dục mọi người chống những tàn dư của chế độ cũ, chống lại những biểu hiện tiêu cực, thấy bất công không giám đấu tranh, tố giác tội phạm mà chọn cái chết để giải thoát sự bất công là một hành động tiêu cực.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI VÔ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC ( ĐIỀU 108 )  

Vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi của một người do cẩu thả mà không thấy trước được hành vi của mình có khả năng gây ra thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của người khác có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước, hoặc tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả đó, nhưng cho rằng hậu quả không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.

Tội phạm này trước đây được quy định tại khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1985 với tội danh là “vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại nặng cho sức khỏe của người khác” và được hướng dẫn thương tích nặng và tổn hại nặng cho sức khoẻ của người khác là gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật của nạn nhân từ 31% trở lên. Nay Bộ luật hình sự năm 1999 quy định cụ thể mức tỷ lệ thương tật là từ 31% trở lên thay cho thuật ngữ “thương tích nặng hoặc tổn hại nặng cho sức khoẻ”.

Điều 108 Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định một trường hợp phạm tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và quy định thêm hình phạt bổ sung đối với tội này, còn trường hợp phạm tội do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính được quy định thành một tội danh riêng.

Trừ hậu quả, còn tất cả các dấu hiệu khác của tội phạm đều tương tự như đối với tội vô ý làm chết người quy định tại Điều 98 Bộ luật hình sự.

Hậu quả do hành vi vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác phải có tỷ lệ từ 31% trở lên thì người phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, thương tích có thể gây ra cho một người hoặc có thể gây ra cho nhiều người, nhưng không có trường hợp dẫn đến chết người, nếu người bị hại bị thương đẫn đến chết người thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vô ý làm chết người quy định tại Điều 98 Bộ luật hình sự.

Tuy nhiên thực tiễn xét xử cho thấy có trường hợp do vô ý là chết một người và bị thương tích một người có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên, thì việc truy cứu người phạm tội như thế nào, một tội hay hai tội ? Nếu chỉ truy cứu về tội vô ý làm chết người, còn việc gây thương tích cho người khác với tỷ lệ thương tật là 31% trở lên chỉ là tình tiết khi quyết định hình phạt thì bỏ lọt một hành vi phạm tội, còn nếu truy cứu người phạm tội về tội vô ý làm chết người và tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì nguyên tắc một hành vi phạm tội lại bị xử lý hai lần. Mặc dù chưa có hướng dẫn cụ thể, nhưng thực tiẽn xét xử và qua nghiên cứu hai tội phạm này, chúng tôi thấy trong trường hợp trên cần truy cứu người phạm tội về hai tội: tội vô ý làm chết người và tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà không bị coi là vị phạm nguyên tắc một hành vi phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự hai lần, vì trong trường hợp này người phạm tội có hai hành vi phạm tội chứ không phải chỉ có một hành vi phạm tội mặc dù cả hai hành vi này đều được thực hiện cùng một lúc, cũng giống như trường hợp một người dùng súng bắn chết một người khác nhưng đạn xuyên qua người  mà người phạm tội định giết trúng vào người đứng gần đó mà người phạm tội không nhìn thấy và cũng không có ý định bắn gây thương tích cho người này với tỷ lệ thương tật 45%. Hành vi trong trường hợp này tuy cùng được thực hiện một lúc nhưng lại bao gồm hai hành vi phạm tội khác nhau nên bị truy cứu về hai tội khác nhau.

Phạm tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Đây là quy định hoàn toàn mới so với Điều 110 Bộ luật hình sự năm 1985 và cũng là quy định nghiêm khắc hơn cả trường hợp phạm tội vô ý làm chết người quy định tại Điều 98 Bộ luật hình sự năm 1999. Qua thực tiễn xét xử, cũng như nghiên cứu quy định này, chúng toi thấy quy định hình phạt bổ sung đối với trường hợp phạm tội này là không hợp lý, hình phạt bổ sung này chỉ phù hợp với trường hợp vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính. Mặt khác, tội vô ý làm chết người quy định tại Đièu 98 Bộ luật hình sự cũng không quy định các loại hình phạt bổ sung này và căn cứ để quy định các loại hình phạt bổ sung đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cũng không có. Vì vậy, chúng tôi đề nghị bỏ hình phạt bổ sung đối với tội này khi có chủ trương sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự năm 1999. Trong thời gian chưa sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự năm 1999, các cơ quan có thẩm quyền nên hướng dẫn các Toà án không áp dụng hình phạt bổ sung đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, vì khoản 2 Điều 108 Bộ luật hình sự cũng chỉ quy định người phạm tội còn “có thể” bị… chứ không quy định “thì” bị…

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH (ĐIỀU 95)

Đây cũng là trường hợp phạm tội được tách từ tội giết người được quy định tại khoản 3 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985. Vì là trường hợp giết người có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt, nếu quy định cùng một điều luật với tội giết người như trước đây thì không phải ảnh đúng tính chất của tội phạm này. Việc nhà làm luật tách trường hợp giết này ra thành một tội phạm riêng không chỉ bảo đảm chính xác về lý luận và kỹ thuật lập pháp mà còn phù hợp với thực tiễn xét xử.

NHỮNG DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

  1. Trạng thái tinh thần của người phạm tội lúc thực hiện hành vi giết người là bị kích động mạnh

Người bị kích động về tinh thần là người không còn nhận thức đầy đủ về hành vi của mình như lúc bình thường, nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức. Lúc đó họ mất khả năng tự chủ và không thấy hết được tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình; trạng thái tinh thần của họ gần như người điên (người mất trí). Trạng thái này chỉ xảy ra trong chốc lát, sau đó tinh thần của họ trở lại bình thường như trước.

Trường hợp người phạm tội  có bị kích động về tinh thần nhưng chưa tới mức mất khả năng tự chủ thì không gọi là bị kích động mạnh và không thuộc trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Tuy nhiên họ được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Việc xác định một người có bị kích động mạnh về tinh thần hay không là một vấn đề phức tạp. Bởi vì trạng thái tâm lý của mỗi người khác nhau, cùng một sự việc nhưng người này xử sự khác người kia; có người bị kích động về tinh thần, thậm chí “điên lên”, nhưng cũng có người vẫn bình thường, thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra. Và cách xử sự của môi người cũng rất khác nhau. Ví dụ: anh A thấy vợ mình quan hệ bất chính với người khác, liền chạy về nhà lấy dao đến đâm chết tình nhân của vợ, nhưng anh B gặp trường hợp này lại gọi vợ về giáo dục, sau đó vợ chồng vẫn sống chung với nhau, còn anh C gặp trường hợp tương tự lại làm đơn ly hôn. Vì vậy, không thể có sẵn một chuẩn mực để “đo” tình trạng kích động mạnh hay chưa mạnh về tinh thần của con người, mà phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, xem xét một cách toàn diện các tình tiết của vụ án, nhân thân người phạm tội, quá trình diễn biến của sự việc, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, hoạt động xã hội, điều kiện sống, tính tình, bệnh tật, hoàn cảnh gia đình, quan hệ giữa người phạm tội  với nạn nhân v.v… từ đó xác định mức độ bị kích động về tinh thần có mạnh hay không, mạnh tới mức nào?

  1. Đối với người bị giết phải là người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng

Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân, trước hết bao gồm nhưng hành vi vi phạm pháp luật hình sự xâm phạm đến lợi ích của người phạm tội  hoặc đối với những người thân thích của người phạm tội. Thông thường những hành vi trái pháp luật của nạn nhân xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người phạm tội  và những người thân thích của người phạm tội , nhưng cũng có một số trường hợp xâm phạm đến tài sản của người phạm tội  như: đập phá tài sản, đốt cháy, cướp giật, trộm cắp v.v…

Ngoài hành vi vi phạm pháp luật hình sự, nạn nhân còn cả những hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật khác như: Luật hành chính, Luật lao động; Luật giao thông, Luật dân sự; Luật hôn nhân và gia đình v.v…

Việc xác định một hành vi trái pháp luật của nạn nhân đã tới mức nghiêm trọng hay chưa cũng phải đánh giá một cách toàn diện. Có hành vi chỉ xảy ra một lần đã là nghiêm trọng, nhưng cũng có hành vi nếu chỉ xảy ra một lần thì chưa nghiêm trọng, nhưng nó được lặp đi lặp lại nhiều lần thì lại thành nghiêm trọng. Ví dụ: A và B nhà ở cạnh nhau, chung một bức tường. B đục tường từ phía nhà mình sang nhà A trong lúc vợ của A đang bị ốm nặng cần sự yên tĩnh. A đã nhiều lần yêu cầu B chấm dứt hành động đó, nhưng B không nghe, A bực tức giằng búa của B đánh B một cái làm B ngã gục. Trên đường đưa đi cấp cứu thì B chết. Trong trường hợp này, hành vi giết người của A cũng được coi là bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của B.

Nạn nhân phải bị chết thì người thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng của nạn nhân mới cấu thành tội “giết người trong trạng thái tình thần bị kích động mạnh”. Nếu nạn nhân không chết và bị thương có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” quy định tại Điều 105 Bộ luật hình sự. Như vậy, tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh không có giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, vì không thể xác định được mục đích của ng[1]ười phạm tội khi người đó trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mà chỉ có thể xác định người phạm tội bỏ mặc cho hậu quả xảy ra.

  1. Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng cảu nạn nhân phải là nguyên nhân làm cho người phạm tội bị kích động mạnh về tinh thần

Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với tinh thần bị kích động mạnh là mối quan hệ tất yếu nội tại có cái này thì ắt có cái kia. Không có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân thì không có tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội  và vì thế nếu người phạm tội  không bị kích động bởi hành vi trái pháp luật của người khác thì không thuộc trường hợp phạm tội này. Ví dụ: H đang làm cỏ lúa ở ngoài đồng, thấy có người gọi: “Về ngay! Con anh bị người ta đánh chết rồi!”. H vác cuốc chạy về. Thấy con mình nằm ở sân trên người dính máu. Mọi người cho biết T, con bà N đánh con H, đã bỏ chạy. H bực tức chạy sng nhà bà N tìm T nhưng không có T ở nhà, H đã dùng cuốc bổ vào đầu bà N một cái làm bà N chết tại chỗ. Trường hợp này chính T mới là người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng khiến H bị kích động về tinh thần chứ không phải bà N. Do đó hành vi giết người của N không phải là giết người trong trạng thái tình thần bị kích động mạnh.

Trường hợp người phạm tội tự mình gây nên tình trạng tinh thần kích động mạnh rồi giết người cũng không thuộc trường hợp giết người trong trạng thái tình thần bị kích động mạnh. Ví dụ: A và B cãi nhau rồi dẫn đế hai người đánh nhau, A bị B đánh, về nhà bực tức uống rượu say rồi mang dao găm đến nhà B gọi B ra cổng dùng dao đâm chết B.

Nếu nạn nhân là người điên hay trẻ em dưới 14 tuổi có những hành vi làm cho người phạm tội  bị kích động mạnh, thì cũng không thuộc trường hợp giết người trong trạng thái tình thần bị kích động mạnh. Bởi lẽ, hành vi của người điên và của trẻ em dưới 14 tuổi không bị coi là hành vi trái pháp luật, vì họ không có lỗi do họ không nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi do họ thực hiện.

  1. Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với những người thân thích của người phạm tội

Một người bị kích động mạnh về tinh thần ngoài trường hợp người khác có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với chính bản thân họ, thì còn có cả trường hợp người khác có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với những người thân thích của mình.

Những người thân thích là những người có quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân như: vợ đối với chồng; cha mẹ với con cái; anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ đối với nhau; ông bà nội goại đối với các cháu v.v…

Tuy nhiên, thực tiễn xét xử Toà án cũng đã công nhận một số trường hợp tuy không phải là quan hệ huyết thống hay hôn nhân mà chỉ là quan hệ thân thuộc như anh em ruột. Ví dụ: Đ và M cùng ở một đơn vị bộ dội; cả hai cùng chiến đấu ở chiến trường miền Nam. Sau ngày giải phóng, cả hai cùng được phục viên, nhưng gia đình M đã bị bom Mĩ sát hại hết nên Đ đã mời M đến ở chung với gia đình mình. Gia đình Đ coi M như con trong nhà ngược lại M cũng coi gia đình Đ như gia đình mình. Một hôm, M đang chặt cây thì có người gọi: “về nhà ngay! mẹ của Đ bị đánh què chân rồi”. M vội cầm dao chạy về thì được biết T là người đánh mẹ Đ, M liền cầm dao sang nhà T chém liên tiếp vào đầu làm T chết tại chỗ.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Trường hợp giết một người trong trạng thái tình thần bị kích động mạnh ( khoản 1 Điều 95)

Trong trường hợp chỉ có một người bị giết thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 95 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ sáu tháng đến ba năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. So với quy định tại khoản 3 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985 thì quy định tại khoản 1 Điều 95 nhẹ hơn, nên được áp dụng đối với hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử. Tuy nhiên, khung hình phạt của khoản 1 Điều 95 Bộ luật hình sự năm 1999 lại nhẹ hơn khung hình phạt quy định tại điểm b khoản 2  Điều 105 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dẫn đến chết người là không hợp lý, vì cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mà tỷ lệ thương tật của nạn nhân từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết một người không thể nghiêm trọng bằng trường hợp giết một người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được. Hy vọng rằng các nhà làm luật sẽ quan tâm hai trường hợp phạm tội này, khi có điều kiện sửa đỏi, bổ sung Bộ luật hình sự sẽ điều chỉnh lại cho hợp lý.

  1. Trường hợp giết nhiều người trong trạng thái tình thần bị kích động mạnh ( khoản 2 Điều 95)

Giết nhiều người trong trạng thái tình thần bị kích động mạnh là trường hợp có từ hai người trở lên bị giết đều có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm tội. Đây là quy định mới so với khoản 3 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985, nên chỉ áp dụng đối với hành vi phạm tội được thực hiện từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000.

 Nếu chỉ có một người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm tội, còn những người khác không có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm tội, thì người phạm tội bị truy cứu về hai tội: Tội giết người trong trạng thái tình thần bị kích động mạnh và tội “giết người” theo quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự. Ví dụ: Hoàng văn T đang ngồi uống bia, thì con trai là Hoàng Văn Q ra nói: ” Bố về nhà ngay, mẹ bị người ta đến đánh chảy máu đầu rồi”. T cùng con chạy về nhà thì thấy vợ bị đánh chảy máu đầu đang được mọi người băng bó, T hỏi thì mọi người cho biết Lê Văn H cùng mấy người khác đến đòi nợ và đánh vợ của T. Nghe vậy, T liền cầm dao đi tìm H. Khi gặp H, T hỏi: “vì sao mi đánh vợ tao “. H thản nhiên trả lời: “tao đánh đấy, mày làm gì được tao”. Nghe H nói vậy, T liền rút dao giấu trong người ra đâm H, thì anh Vũ Văn K ngăn lại và nói: “có gì bình tĩnh giải quyết, sao lại đâm chém nhau thế này”. Sẵn dao trong tay, lại cho rằng anh K là người bênh vực H nên đâm luôn anh K một nhát vào bụng và lao đến đâm nhiều cái vào người H rồi bỏ chạy. Mọi người đưa anh K và H đi cấp cứu, nhưng do vết thương quá nặng nên cả hai đã bị chết trên đường đến bệnh viện. Hành vi giết hai người của Hoàng Văn T chỉ có một người ( Lê Văn H) có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người thân thích của T, còn một người ( anh Vũ văn K ) không có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng nào đối với T hoặc người thân thích của T, nên Hoang Văn H bị truy cứu trách nhiệm hai tội: Tội giết người trong trạng thái tình thần bị kích động mạnh theo khoản 1 Điều 95 và tội giết người theo Điều 93 Bộ luật hình sự.

Nếu có nhiều người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm tội, nhưng chỉ có một người bị giết chết, còn những người khác chỉ bị thương và có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên thì người phạm tội bị truy cứu về hai tội : tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo khoản 1 Điều 95 và tội cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Điều 105 Bộ luật hình sự

Khi xử lý người phạm tội giết người trong trạng thái tình thần bị kích động mạnh, các cơ quan tiến hành tố tụng cần xác định rõ trạng thái tinh thần của người phạm tội  trong khi phạm tội và đặc biệt phải làm rõ hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân. Bởi vì hình phạt đối với người phạm tội  thuộc trường hợp này chỉ bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, nếu giết nhiều người mức hình phạt cao nhất cũng chỉ tới 7 năm tù. Nếu không làm rõ hành vi tái pháp luật của nạn nhân sẽ dẫn đến tình trạng thân nhân của người bị hại và những người không am hiểu pháp luật cho rằng giết người sao lại xử nhẹ như vậy.

PHÂN BIỆT VỚI MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI KHÁC

  1. Với trường hợp phạm tội bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người khác gây ra quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự

Cả hai trường hợp, người phạm tội  đều bị kích động về tinh thần và đều do hành vi trái pháp luật của người khác gây ra. Nhưng sự khác nhau là mức độ bị kích động và mức độ trái pháp luật của nạn nhân. Nếu ở trường hợp quy định tại Điều 95 Bộ luật hình sự, người phạm tội phải bị kích động mạnh thì ở trường hợp quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 46 tuy tinh thần có bị kích

động nhưng chưa mạnh, chưa tới mức không nhận thức được hành vi của mình. Nếu ở trường hợp quy định tại Điều 95, hành vi trái pháp luật của nạn nhân phải là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng, thì ở điểm đ khoản 1 Điều 46 hành vi trái pháp luật của nạn nhân chưa phải là nghiêm trọng.

Hành vi trái pháp luật ở trường hợp quy định tai Điều 95 nhất thiết phải là hành vi của nạn nhân, còn đối với trường hợp quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 46 có thể không phải là của nạn nhân mà có thể là của người khác.

Nếu ở trường hợp quy định tại Điều 95, hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân phải là đối với người phạm tội  hoặc người thân thích của người phạm tội , nhưng ở điểm đ khoản 1 Điều 46 thì không nhất thiết phải như vậy.

  1. Với trường hợp giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng quy định tại Điều 96 Bộ luật hình sự

Cả hai trường hợp, nạn nhân đều có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng, nhưng ở trường hợp giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, hành vi trái pháp luật đang xảy ra và chưa kết thúc, còn ở trường hợp giết người trong trạng thái tình thần bị kích động mạnh, hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đã kết thúc.

Về thái độ tâm lý, người phạm tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng có thể bị kích động về tinh thần, nhưng cũng có thể không bị kích động về tinh thần, vì phòng vệ là quyền được pháp luật công nhận và trong nhiều trường hợp phòng vệ còn là nghĩa vụ của công dân để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình hoặc của người  khác, nên họ có thể chủ động ngăn chặn sự xâm hại.

Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân trong tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có thể bằng lời nói, có thể bằng hành động, nhưng hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân trong tội giết người do vướt quá giới hạn phòng vệ chính đáng chỉ có thể là hành động xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của người phạm tội hoặc của người khác.

Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân trong tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh chỉ đối với người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội còn hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân trong tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng có thể đối với Nhà nước, tổ chức hoặc người khác.

  1. Với trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nhưng dẫn đến chết người.

Phải nói ngay rằng việc phân biệt giữa hai trường hợp phạm tội này là rất khó khăn bởi như trên là phân tích đối với người bị kích động mạnh về tinh thân khi phạm tội không thể xác định được mục đích của họ, họ hành động như người mất trí, nên hậu quả đến đâu người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự tới đó, khó có thể xác định một người bị kích động mạnh về tinh thần lại còn đủ bình tĩnh để giới hạn hành vi phạm tội chỉ ở mức gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người bị hại. Tuy nhiên thực tiễn xét xử cũng có những trường hợp sau khi bị đánh người bị hại chưa chết ngay mà phải sau một thời gian nhất định mới bị chết. Nếu như không ở trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 104 Bộ luật hình sự, nhưng vì người phạm tội bị kích động mạnh về tinh thần nên họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nhưng dẫn đến chết người. Nếu nạn nhân bị chết ngay hoặc sau vài giờ mới chết thì nên truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI XÚI GIỤC HOẶC GIÚP NGƯỜI KHÁC TỰ SÁT ( ĐIỀU 101)

Xúi giục người khác tự sát là hành vi của một người đã có những lời lẽ kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của họ.

Giúp người khác tự sát là hành vi của một người tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho người khác tự tước đoạt tính mạng của họ.

Đây là điều luật quy định hai hành vi phạm tội. Nếu người phạm tội có cả hai hành vi xúi giục và giúp người khác tự sát thì tội danh mà họ bị truy cứu là tội “xúi giục và giúp người khác tự sát” chứ không có từ “hoặc” và nếu người phạm tội chỉ có hành vi xúi giục thì định tội là “xúi giục người khác tự sát”, nếu chỉ có hành vi giúp thì định tội là “Giúp người khác tự sát”.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

  1. Hành vi xúi giục người khác tự sát

Hành vi xúi dục người khác tự sát bao gồm:

– Kích động người tự sát.

Kích động người khác tự sát là có những lời lẽ nhằm thúc đẩy bằng cách tác động tâm lý làm cho người bị kích động tự ái tới mức cao độ nên đã tự sát. Nếu không có những lời lẽ kích động đó thì nạn nhân dù có chán  đời, có những uẩn khúc trong cuộc sống cũng chưa tới mức tự sát. Ví dụ: Chị Hoàng Thị D đang chán đời , vì bị chồng ruồng bỏ, hắt hủi muốn ly dị. Trần Văn K là một thanh niên càn quấy, rượu chè, bị chồng chị D mua chuộc nhờ K tìm cách xúi giục làm cho chị D tự ái mà tự tử. T nhận lời đến gặp chị D và nói: “Em mà như chị thì em chẳng sống làm gì cho khổ… chồng con gì mà tệ bạc… ngày nào em cũng thấy anh ấy đi chơi với cô X cùng cơ quan, nhiều lần bắt gặp hai người trong công viên v.v…” Sẵn chán đời, lại nghe K nói như vậy chị D đã uống thuốc tự tử.

– Dụ dỗ người khác tự sát.

Là người phạm tội đã có những lời lẽ khuyên bảo một cách khéo léo để làm cho người khác tự sát theo ý muốn của mình. Ví dụ: Tạ Thị L và Bùi Văn H yêu nhau, nhưng H còn yêu cả chị M và muons cắt đứt với L nên H nói dối với L là gia đình H không đồng ý cho H lấy L làm vợ. Vì quá yêu H nên L bàn với H trốn khỏi địa phương, H lấy lí do là không thể đi được, nhưng để trọn tình với L, H bàn với L là cả hai cùng nhảy xuống sông tự tử để cả hai đứa mãi mãi được ở bên nhau. Vì quá yêu H nên L đồng ý, cả hai đều nhất trí khi nào H hô đến ba thì nhảy xuống sông. Khi H hô đến ba thì chỉ có L nhảy xuống sông còn H thì quay về báo cho mọi người biết là L tự tử.

Những lời nói kích động, dụ dỗ của người phạm tội là nhằm thúc đẩy nạn nhân đến chỗ tự sát. Vì vậy, ý thức của người phạm tội là mong muốn làm sao cho nạn nhân tự sát. Nếu chỉ vì một vài lời nói có tính chất kích động mà nạn nhân sẵn có ý muốn tự sát, còn người có lời nói đó hoàn toàn không mong muốn cho nạn nhân tự sát thì cũng không phạm tội xúi giục người khác tự sát. Ví dụ: Chị B và chị C cùng làm việc ở một cơ quan. Có lần chị C tâm sự với chị B về việc chồng mình đi ngoại tình, về nhà còn đánh đập chửi mắng vợ con. Nghe chuyện, chị B cũng bực tức và nói: “Tôi mà như thế thì chết quách cho đỡ khổ”. Mấy ngày sau, chị C thắt cổ tự tử.

  1. Hành vi giúp người khác tự sát

Hành vi giúp người khác tự sát là hành vi tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất để người khác tự sát, như: tìm kiếm, cung cấp phương tiện để nạn nhân tự sát hoặc hứa hẹn trước với nạn nhân giữ kín việc tự sát của họ. Ví dụ: A biết B có ý định tự sát và A cũng muốn B tự sát nhưng B chưa biết tự sát bằng cách nào, B nhờ A đi mua hộ thuốc ngủ và không được nói là mua hộ B, A đã nhận lời và mua cho B 20 viên thuốc ngủ và B đã uống một lúc hết 20 viên thuốc ngủ nên đã bị chết.

Người phạm tội phải nhận thức được hành vi của mình là tạo điều kiện cho nạn nhân tự sát thì mới là phạm tội giúp người khác tự sát. Nếu họ không biết và không thể biết hành động của mình tạo điều kiện cho nạn nhân tự sát thì không phạm tội này. Ví dụ: Chị K bị chồng ruồng bỏ, nên chán đời muốn tự tử. Chị K đến nhờ N mua hộ 10 lít xăng, N hỏi chị mua xăng làm gì, chị K trả lời về đổi lấy dầu chạy máy xát gạo vì nhà chị K có máy xát gạo, N tưởng thật đã mua cho chị K 10 lít xăng. Tối hôm đó, trong lúc gia đình đi vắng, chị K đã đổ xăng vào nhà và đổ vào quần aó rồi bật lửa tự thiêu.

  1. Người bị hại phải tự mình thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng

Cũng tương tự như trường hợp bức tử, nạn nhân bằng nhiều phương pháp khác nhau, đã tự mình thực hiện việc tước đoạt tính mạng của chính mình như: thắt cổ, uống thuốc độc, nhảy xuống sông, đâm vào bụng, bắn vào đầu v.v… Nếu nạn nhân tuy muốn chết nhưng lại không thực hiện hành vi tự tước đoạt tính mạng của mình mà nhờ người khác giúp thì không phải là giúp người khác tự sát mà người có hành vi tước đoạt tính mạng của nạn nhân phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người theo Điều 93 Bộ luật hình sự. Ví dụ: A muốn tự sát bằng súng K54, nhưng không dám bắn nên đã nhờ B bắn vào đầu mình khi B đang ngủ say.

Cả hai trường hợp xúi giục và giúp người khác tự sát, chỉ cần người bị xúi giục hoặc được giúp đỡ có hành vi tự sát là tội phạm đã hoàn thành, còn nạn nhân có chết hay không, điều đó chỉ có ý nghĩa khi xem xét đến việc quyết định hình phạt hoặc xem xét đến việc có truy tố người phạm tội này hay không chứ không có ý nghĩa định tội. Tội phạm này cũng không có giai đoạn phạm tội chưa đạt, bởi lẽ dù có bị xúi giục hoặc được giúp đỡ đến mức nào đi nữa mà người bị xúi giục, người được giúp đữ không tự sát thì vẫn chưa phải là tội phạm.

Cả hai trường hợp phạm tội trên, người phạm tội thực hiện hành vi của mình đều do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình nguy hiểm đến tính mạng của nạn nhân, thấy trước được hành vi xúi giục hoặc giúp người khác tự sát nhất định hoặc có thể dẫn đến nạn nhân tự sát và mong muốn hoặc bỏ mặc cho việc tự sát xảy ra. Nếu nạn nhân bị chết thì cái chết của nạn nhân chỉ là hậu quả gián tiếp do hành vi xúi giục hoặc giúp đỡ nạn nhân của người phạm tội chưa không phải là hậu quả trực tiếp. Vì vậy, không nên xét lỗi của người phạm tội đối với cái chết của nạn nhân.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Xúi dục hoặc giúp một người tự sát ( khoản 1 Điều 101)

Xúi dục hoặc giúp một người tự sát là có những lời lẽ kích động, dụ dỗ, thúc đẩy hoặc tạo điều kiện vật chất, tinh thần cho một người tự tước đoạt tính mạng của họ và người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ từ sáu tháng đến ba năm tù. So với Điều 106 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này, thì khoản 1 Điều 101 là tội phạm nhẹ hơn. Nếu hành vi phạm tội được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 1 Điều 101 đối với người phạm tội.

Đây là loại tội phạm ít nghiêm trọng, nên đường lối xử lý nói chung chỉ truy tố xét xử những trường hợp nạn nhân bị chết hoặc bị thương tật nặng, còn đối với các trường hợp nạn nhân tuy đã tự sát nhưng không bị chết hoặc chỉ bị thương tật nhẹ, thì nói chung không truy tố xét xử mà chủ yếu giáo dục hoặc xử lý bằng biện pháp khác.

  1. Xúi dục hoặc giúp nhiều người tự sát ( khoản 2 Điều 101)

Xúi dục hoặc giúp nhiều người tự sát là có những lời lẽ kích động, dụ dỗ, thúc đẩy hoặc tạo điều kiện vật chất, tinh thần cho từ hai người trở lên tự tước đoạt tính mạng của họ và người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 101 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ từ hai năm đến bảy năm tù.

Nếu xúi dục một người tự sát và giúp một người tự sát thì người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 101 Bộ luật hình sự nhưng tội danh của người phạm tội là “xúi dục và giúp người khác tự sát” (thay liên từ “hoặc’ bằng liên từ “và”).

Đây là tội phạm nghiêm trọng và cũng tương tự như đối với tội bức tử, do yêu cầu thực tiễn xét xử nên nhà làm luật quy định một cấu thành tăng nặng đối với tội này. Do đó chỉ hành vi phạm tội được thực hiện từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới áp dụng khoản 2 Điều 101 Bộ luật hình sự đối với người phạm tội

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHOẺ CỦA NGƯỜI KHÁC ( ĐIỀU 104 )

Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác là hành vi của một người cố ý làm cho người khác bị thương hoặc tổn hại đến sức khoẻ.

So với Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 về cơ bản đã được cấu tạo lại, lấy tỷ lệ thương tật làm căn cứ để xác định trách nhiệm hình sự và xác định khung hình phạt. Ngoài ra, nhà làm luật còn quy định một số trường hợp phạm tội mà thực tiễn xét xử, Toà án nhân dân tối cao đã tổng kết hướng dẫn các Toà án áp dụng Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985. Các trường hợp phạm tội này được làm dấu hiệu bổ sung cho dấu hiệu về tỷ lệ thương tật, nếu như tỷ lệ thương tật của nạn nhân chưa tới mức để người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà thuộc một trong các trường hợp này thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị áp dụng khung hình phạt nặng hơn.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

  1. Về phía người phạm tội

Người phạm tội  phải có hành vi tác động đến thân thể của người khác làm cho người này bị thương, bị tổn hại đến sức khoẻ như: đâm, chém, đấm đá, đốt cháy, đầu độc v.v… Hành vi này về hình thức cũng giống hành vi của tội giết người, nhưng tính chất và mức độ nguy hiểm thấp hơn nên nó chỉ làm cho nạn nhân bị thương hoặc bị tổn hại đến sức khoẻ chứ không làm cho nạn nhân bị chết.

 Hành vi của người phạm tội được thực hiện do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình nhất định hoặc có thể gây ra thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của người khác; mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra. so với tội giết người, thì sự cố ý trong trường hợp gây thương tích mức độ nguy hiểm có thấp hơn, vì người phạm tội chỉ mong muốn hoặc để mặc cho nạn nhân bị thương, bị tổn hại đến sức khoẻ chứ không mong muốn nạn nhân chết.

  1. Về phía nạn nhân

Nạn nhân phải bị thương tích hoặc bị tổn thương đến sức khoẻ ở mức đáng kể. Nếu thương tích không đáng kể thì chưa phải là tội phạm. So với Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985, thì Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 lấy tỷ lệ thương tật của nạn nhân làm căn cứ để xác định trách nhiệm hình sự và định khung hình phạt đối với người phạm tội

Theo quy định tại khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự, thì người bị thương tích hoặc bị tổn hại đén sức khỏe phải có tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên thì người phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Căn cứ để xác định tỉ lệ thương tật là kết luận của Hội đồng giám định y khoa, trong trường hợp ở nơi nào không tổ chức được Hội đồng giám định y khoa thì căn cứ vào Bảng tiêu chuẩn thương tật 4 hạng quy định tại Thông tư liên bộ 12/TTLB ngày 26-7-1995 của Bộ Y tế – Bộ lao động, thương binh và xã hội.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người ( điểm a khoản 1 Điều 104)

Hung khí nguy hiểm chính là phương tiện mà người phạm tội thực hiện để gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác, nhưng phương tiện đó mang tính chất nguy hiểm như dao, các loại lê, các loại súng, lựu đạn, thuốc nổ, Axit…

Hung khí nguy hiểm là bản thân nó chứa đựng khả năng gây ra nguy hiểm đến tính mạng sức khoẻ, nó hoàn toàn không phụ thuộc vào cách sử dụng của người phạm tội.

Thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người như đốt cháy, đầu độc, bắn vào chỗ đông người. Thủ đoạn là do người phạm tội thực hiện, do đó tính chất nguy hiểm phụ thuộc vào hành vi phạm tội chứ không phụ thuộc vào phương tiện mà người phạm tội sử dụng.

  1. Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân ( điểm b khoản 1 Điều 104)

Cố tật là một tật trên cơ thể con người không bao giờ chữa khỏi. Cố tật nhẹ là tật không chữa khỏi, nhưng tỷ lệ thương tích chỉ dưới 11%.

Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định gây cố tật nhẹ, trong khi đó thực tiẽn xét xử có nhiều trường hợp người bị hại bị cố tật nặng, thậm chí rất nặng như bị mù cả hai mắt, cụt cả hai tay, hai chân, bị liệt toàn thân, bị bỏng nặng với diện 80% và độ 2-3… Các trường hợp quy định tại các khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 104 Bộ luật hình sự chỉ quy định tỷ lệ thương tật và nếu tỷ lệ thương tật dưới mức quy định mà gây cố tật nhẹ thì người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều khoản tương ứng của Bộ luật hình sự. Cách quy định này tuy thuận tiện cho việc áp dụng Điều 104 Bộ luật hình sự đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, nhưng sẽ không phù hợp với một số trường hợp thực tế xảy ra. Ví dụ: một người bị đánh mù một mắt, phải khoét bỏ con mắt đó có tỷ lệ thương tật là 45%. Nếu chỉ căn cứ vào tỷ lệ thương tật thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 104, nhưng vì người bị hại bị cố tật nên người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự. Nhưng bị khoét bỏ một con mắt thì không thể coi là cố tật nhẹ được.10

Để tránh tình trạng đánh giá khác nhau về mức độ cố tật, điểm b khoản 1 Điều 104 chỉ nên quy định: “gây cố tật” mà không cần phải quy định “gây cố tật nhẹ”. Hy vọng rằng khi sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự năm 1999, vấn đề này sẽ được các nhà làm luật quan tâm hơn.

  1. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe nhiều lần đối với cùng một người là trường hợp một người hoặc nhiều người cùng cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người, nhưng hành vi gây thương tích đó được diễn ra từ hai lần trở lên không kể khoảng cách thời gian là bao lâu. Ví dụ: A đấm nhiều cải vào mồm của B bị chảy máu, nhưng tỷ lệ thương tật của B chỉ có 8% nhưng A vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự vì A gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của B nhièu lần.

Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người là trường hợp có từ hai người bị hại trở lên nhưng tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa tới 11%. Ví dụ: A đánh B và C, trong đó tỷ lệ thương tật của B là 5%, của C là 4% nhưng A vấn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự.

 

  1. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ

Đây là trường hợp phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người không có khả năng tự vệ.11 Nhưng tội phạm mà người phạm tội thực hiện ở đây là tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Cần phân biệt trường hợp phạm tội với trường hợp phạm tội “mà biết” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự về trường hợp “giết phụ nữ mà biết là có thai”. Do đó, chỉ cần xác định người bị hại là trẻ em, là phụ nữ đang có thai, là người già yếu, là người không có khả năng tự vệ mà tỷ lệ thương tật của những người này dưới 11% là người phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự rồi.

 

  1. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy cô giáo của mình

Trường hợp phạm tội này hoàn toàn tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự về tội giết người, chỉ khác nhau ở chỗ trường hợp phạm tội này người phạm tội chỉ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà người đó là ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy cô giáo của mình mà tỷ lệ thương tật của người bị hại chưa đến 11%.

 

  1. Phạm tội có tổ chức

Trưng hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm o khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự về tội giết người, chỉ khác nhau ở chỗ trường hợp phạm tội này những người phạm tội chỉ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật của người bị hại chưa đến 11%.

  1. Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục

Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong thời gian bị tam giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục được coi là trường hợp phạm tội nghiêm trọng hơn, vì họ đang bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất, hoặc đang bị quản lý chặt chẽ mà họ vẫn phạm tội, nên người phạm tội tuy gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho người bị hại với tỷ lệ thương tật chưa đến 11% vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Đang bị tạm giữ là đang bị giữ trong nhà tạm giữ của cơ quan Công an hoặc cơ quan điều tra hình sự  quân đội theo lệnh tạm giữ của người có thẩm quyền, trong thời gian đang bị tạm giữ lại cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong nhà tạm giữ.

Đang bị tạm giam là đang bị giam trong nhà tạm giam của Công an hoặc cơ quan điều tra hình sự quân đội theo lệnh tạm giam của người có thẩm quyền, trong thời gian đang bị tạm giam lại cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong nhà tạm giam.

Đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục là đang bị giáo dục trong các cơ sở giáo dục của Bộ công an như:  Trường giáo dưỡng, các Trung tâm cải tạo do Bộ công an quản lý…

Không coi là phạm tội trong thời gian bị tam giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, nếu như người đang bị tam giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đã bỏ trốn khỏi nhà tạm giữ, nhà tạm giam hoặc cơ sở giáo dục.

 

  1. Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê

Tường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp thuê giết người hoặc giết người thuê quy định tại điểm m khoản 1 Điều 93, chỉ khác nhau ở chỗ người phạm tội trong trường hợp này chỉ thuê người khác gây thương tích hoặc được người khác thuê gây thương tích. Người thuê và người được thuê gây thương tích cho người khác đều được coi là nghiêm trọng hơn trường hợp gây thương tích bình thường, nên người bị hại chỉ bị thương tích hoặc tổn hại đến sức khỏe dưới 11% thì người phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự.

 

  1. Phạm tội có tính chất côn đồ hoặc thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm

Cả hai trường hợp phạm tội này, các dấu hiệu đều tương tự với trường hợp phạm tội giết người có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm quy định tại điểm n và điểm p khoản 1 điều 93 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ, hai trường hợp phạm tội này nạn nhân chỉ bị thương hoặc bị tổn hại đến sức khoẻ và người phạm tội cũng chỉ mong muốn như vậy. Nếu nạn nhân chết là ngoài sự mong muons của người phạm tội.

 

  1. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

Để cản trở người thi hành công vụ.

Đây là trường hợp tương tự với trường hợp giết người đang thi hành công vụ quy định tại điểm d khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ nạn nhân trong trường hợp này chỉ bị thương hoặc bị tổn hại đến sức khoẻ chứ không bị chết và người phạm tội cũng chỉ mong muốn hoặc bỏ mặc cho nạn nhân bị thương chứ không không mong muốn hoặc bỏ mặc cho nạn nhân chết. Tuy nhiên, trong trường hợp phạm tội này người phạm tội gây thương tích cho nạn nhân là để cản trở việc thi hành công vụ của họ, còn ở tội giết người người phạm tội không nhất thiết cản trở việc thi hành công vụ của nạn nhân mà có thể vì động cơ khác. Các dấu hiệu khác của trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội giết người đang thi hành công vụ quy địng tại điểm d khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự (xem Giết người đang thi hành công vụ).

Vì lý do công vụ của nạn nhân

Trường hợp phạm tội này hoàn toàn tương tự với trường hợp giết người vì lý do công vụ của nạn nhân quy định tại điểm d khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ trường hợp phạm tội này nạn nhân chỉ bị thương hoặc bị tổn hại đến sức khoẻ chứ không bị chết và người phạm tội cũng chỉ mong muốn cho nạn nhân bị thương hoặc bị tổn hại đến sức khoẻ chứ không mong muốn cho nạn nhân bị chết. Nếu nạn nhân chết là ngoài sự mong muốn của người phạm tội.

Các trường hợp phạm tội trên, nếu thương tích của người bị hại dươí 11% thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự, nếu thương tích của người bị hại từ 11% đến 30% thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự, nếu thương tích của người bị hại 31% đến 60% thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự.

Nếu không thuộc một trong các trường hợp nêu trên mà tỷ lệ thương tật của người bị hại dưới 11% thì người phạm tội chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu tỷ lệ thương tật của người bị hại từ 11% đến 30% thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự, nếu tỷ lệ thương tật của người bị hại từ 31% đến 60% thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự, nếu tỷ lệ thương tật của người bị hại từ 61% trở lên thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự.

  1. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dẫn đến chết người

Đây là trường hợp người phạm tội chỉ cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ của nạn nhân, nhưng chẳng may nạn nhân bị chết, cái chết của nạn nhân lá ngoài ý muốn của người phạm tội.

Thương tích dẫn đến chết người, trước hết phải là thương tật nặng làm cho nạn nhân chết vì thương tích này, tức là giữa cái chết của nạn nhân và thương tích mà ngươig phạm tội gây ra cho nạn nhân phải có mối quan hệ nhân quả. Ví dụ: A chém B làm cho B bị đứt động mạch chủ và do bị mất nhiều máu nên B bị chết. Tuy nhiên, cũng coi là cố ý gây thương tích dẫn đến chết người trong trường hợp nạn nhân là người cao tuổi, sức yếu bị bệnh nặng chỉ cần tác động không mạnh cũng đủ làm cho nạn nhân bị chết, nhưng vì người phạm tội không biết tình trạng bệnh tật của nạn nhân. Không coi là cố ý gây thương tích dẫn đến chết người, trong trường hợp nạn nhân chỉ bị thương tích nhẹ, nhưng vì những lý do khách quan nên nạn nhân bị chết. Ví dụ: Trần Văn H bị Đặng Quang M đâm vào bụng, H được mọi người đưa vào bệnh viện cấp cứu, nhưng trước khi đưa H lên bàn mổ, một y tá đã tiêm cho H một ống thuốc trợ lực nhưng lại nhầm thuốc nên chỉ sau khi rút kim ra H đã bị chết.

Người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dẫn đến chết người thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự, nếu dẫn đến chết nhiều người thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 104 Bộ luật hình sự

  1. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng.

Thực tiễn xét xử cho thấy, ngoài trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dẫn đến chết người, thì trong thực tế còn có một số trường hợp mặc dù thương tích mà người phạm tội gây ra cho nạn nhân chưa phải là nặng thậm chí không đáng kể, nhưng tính chất của tội phạm rất nghiêm trọng. Ví dụ: Phạm Văn C do không nộp đủ mức khoáng sản nên bị hợp tác xã thu bớt lại ruộng, C đã đến văn phòng hợp tác xã chửi rủa, đe doạ đồng chí chủ nhiệm. Sau khi ở văn phòng hợp tác xã về, C nảy ý định trả thù đồng chí chủ nhiệm, y về nhà lấy dao sang nhà đồng chí chủ nhiệm, chỉ có ba đá con nhỏ của đồng chí chủ nhiệm đang chơi với nhau, trong đó có một cháu mới 4 tháng tuổi, C liền dùng dao chém nhiều nhát vào người vào mặt cả ba cháu, nhưng vì C chỉ dùng chiếc dao nhỏ sắc nên chỉ làm rách ra chảy máu, tỷ lệ thương tật của ba cháu không đáng kể. Sự trả thù hèn hạ này của C đáng phải bị trừng trị nghiêm khắc. Chính vì vậy, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá VIII đã bổ sung trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng vào khoản 3 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 để đáp ứng yêu cầu đấu tranh đối với những trường hợp phạm tội nghiêm trọng này. Sau khi Quốc hội đã bổ sung vào khoản 3 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 tình tiết “phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng”, tuy chưa có văn bản nào hướng dẫn trường hợp cố ý gây thương tích thế nào là thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, nhưng thực tiễn xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng đã coi các trường hợp phạm tội sau đây là trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng:

– Gây thương tích cho rất nhiều người trong đó có người bị thương tích nhẹ, có người bị cố tật nặng hoặc có tỷ lệ thương tật trên 60%.

– Gây thương tích nặng hoặc tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người (hai người trở lên) mà mỗi người đều có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên

Ngoài những trường hợp trên, tuỳ tình hình cụ thể của từng vụ án, xét đến tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng như hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do bị cáo gây ra mà có thể coi đó là trường hợp đặc biệt nghiêm trọng để xử phạt bị cáo theo khoản 4 Điều 104 Bộ luật hình sự.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI (ĐIỀU 98)

Vô ý làm chết người là hành vi của mọt  người không thấy trước được hành vi của mình có khả năng gây ra chết người mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hoặc tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra chết người nhưng tin rằng hậu quả đó không xảy ra.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

– Về khách quan, người phạm tội có nhưng hành vi tương tự hành vi của tội giết người; hậu quả xảy ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả cũng tương tự như đối với tội giết người.

– Về ý thức chủ quan của người phạm tội và đây cũng là dấu hiệu đặc trưng để phân biệt giữa tội vô ý làm chết người với tội giết người. Đó là lỗi của người phạm tội, người phạm tội vô ý làm chết người thực hiện hành vi của mình dưới hình thức lỗi do vô ý bao gồm cả vô ý vì cẩu thả và vô ý vì quá tự tin.

Theo quy định tại Điều 10 Bộ luật hình sự thì vô ý phạm tội là tội phạm  trường hợp sau đây:

– Người phạm tội tuy thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.

– Người phạm tội không thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậy quả đó

Bộ luật hình sự không quy định rõ các hình thức vô ý phạm tội nhưng căn cứ vào nội dung quy định trên , chúng ta thấy rõ có hai hình thức vô ý phạm tội mà khoa học luật hình sự gọi là vô ý vì cẩu thả và vô ý vì quá tự tin.

Vô ý vì cẩu thả là trường hợp do cẩu thả mà người phạm tội không thấy trước khả năng gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước hoặc có thể thấy trước. Tiêu chuẩn để xác định một người phải thấy trước và có thể thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội là căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra sự việc, một người bình thường cũng có thể thấy trước; ngoài ra còn phải căn cứ vào độ tuổi, trình độ nhận thức, trình độ văn hoá, tay nghề.v.v…

Vô ý vì quá tự tin là trường hợp người phạm tội thấy trước được hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng tin rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được, nhưng hậu quả đó vẫn xảy ra.

NHỮNG TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ CỦA TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI

  1. Vô ý làm chết một người ( khoản 1 Điều 98)

Vô ý làm chết một người là trường hợp người phạm tội tuy thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được hoặc người phạm tội không thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó và hậu quả chỉ có một người chết.

Người phạm tội vô ý làm chết một người thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 98 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ sáu tháng đến năm năm tù, nến người phạm tội có nhều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì Toà án có thể áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt người phạm tội dưới sáu tháng tù hoặc chuyển sang loại hình phạt khác nhẹ hơn

  1. Vô ý làm chết nhiều người ( khoản 2 Điều 98)

Vô ý làm chết nhiều người là trường hợp người phạm tội tuy thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được hoặc người phạm tội không thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó và hậu quả có từ hai người chết trở lên.

Người phạm tội vô ý làm chết nhiều người thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 98 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ ba năm đến mười năm tù, nếu người phạm tội có nhều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì Toà án có thể áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt người phạm tội dưới ba năm tù, nhưng không được dưới sáu tháng tù.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quyền sở hữu công nghiệp
Quyền sở hữu công nghiệp

Quyền sở hữu công nghiệp theo quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009 có ghi nhận và giải thích khá rõ giúp tạo điều kiện cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những đơn vị có liên quan tốt hơn.

Quyền sở hữu công nghiệp là gì

Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.

Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp

Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý.

Sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu trong quyền sở hữu công nghiệp

Sáng chế

Là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên.

Kiểu dáng công nghiệp

Là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này.

Mạch tích hợp bán dẫn

Là sản phẩm dưới dạng thành phẩm hoặc bán thành phẩm, trong đó các phần tử với ít nhất một phần tử tích cực và một số hoặc tất cả các mối liên kết được gắn liền bên trong hoặc bên trên tấm vật liệu bán dẫn nhằm thực hiện chức năng điện tử. Mạch tích hợp đồng nghĩa với IC, chip và mạch vi điện tử.

Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn

Là cấu trúc không gian của các phần tử mạch và mối liên kết các phần tử đó trong mạch tích hợp bán dẫn.

Nhãn hiệu

Là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau.

Nhãn hiệu tập thể

Là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hoá, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó.

Nhãn hiệu chứng nhận

Là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hoá, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu.

Nhãn hiệu liên kết

Là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc tương tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau hoặc có liên quan với nhau.

Nhãn hiệu nổi tiếng

Là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

Tên thương mại

Là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh.

Khu vực kinh doanh

Là khu vực địa lý nơi chủ thể kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc có danh tiếng.

Chỉ dẫn địa lý

Là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể.

Bí mật kinh doanh

Là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh.

Căn cứ xác lập Quyền sở hữu công nghiệp

Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đối với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký;

Quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó;

Quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở có được một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó;

Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh được xác lập trên cơ sở hoạt động cạnh tranh trong kinh doanh.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI DO VI PHẠM QUY TẮC NGHỀ NGHIỆP HOẶC QUY TẮC HÀNH CHÍNH ( ĐIỀU 99 )

Đây là trường hợp phạm tội được tách từ khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1985, do đó các dấu hiệu cơ bản của tội này cũng tương tự như tội vô ý làm chết người quy định tại Điều 98 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, trường hợp vô ý làm chết người quy định tại Điều 99 Bộ luật hình sự ngoài các dấu hiệu về tội vô ý làm chết người ra còn có thêm dấu hiệu “do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính”. Điều 99 Bộ luật hình sự qu định hai trường hợp phạm tội, do dó tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà Toà án định tội “vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp” hoặc định tội “vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc hành chính” không được định tội ” vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính”, vì định tội như vậy không biết là tội gì.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

  1. Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp

Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp là trường hợp làm chết người do không thực hiện đúng những quy tắc về an toàn lao động mà người phạm tội phải có trách nhiệm hay có nghĩa vụ do nghề nghiệp quy định. Ví dụ: một y tá tiêm thuốc Pênixiline cho người bệnh nhưng không thử phản ứng dẫn đến bệnh nhân bị chết do phản ứng thuốc.

Những vi phạm quy tắc nghề nghiệp của người phạm tội là những vi phạm thuộc phạm vi một ngành, một nghề do Nhà nước quy định có tính chất nghiệp vụ để bảo đảm an toàn cho mọi người. Do làm một nghề mà nghề đó trực tiếp liên quan đến tính mạng của con người, nên phải tuân thủ những quy tắc an toàn,  nếu vi phạm dễ dẫn đến chết người. Cũng là vô ý làm chết người, nhưng người vi phạm quy tắc nghề nghiệp phải chịu trách nhiệm hình sự nặng hơn.

  1. Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc hành chính.

Là trường hợp làm chết người do không thực hiện đúng những quy tắc xã hội do Luật hành chính quy định.

Những quy tắc này có thể do các cơ  quan hành chính Trung ương quy định như: Chính phủ, Thủ tướng, các Bộ, các ngành, nhưng cũng có thể do các cơ quan hành chính ở địa phương hoặc một đơn vị sản xuất quy định. Các quy phạm hành chính tương đối rộng, vì các quan hệ xã hội nếu không do các ngành luật khác điều chỉnh thì hầu hết do luật hành chính điều chỉnh. Ví dụ: một người chặt cây ở ven đường trái với quy định của cơ quan có thẩm quyền, làm đứt dây dẫn điện để người qua đường bị điện giật chết.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính làm chết một người (khoản 1 Điều 99)

Nếu vô ý làm chết một người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính thì người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 99 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ một năm đến sáu năm, là tội nghiêm trọng. So với đoạn một khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 1 Điều 99 nặng hơn, do đó các hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới điều tra, truy tố xét xử thì Toà án không được áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật hình sự năm 1999 để xét xử đối với người phạm tội mà phải áp dụng đoạn một khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1985 đối với người phạm tội.

Nếu làm chết một người và còn làm bị thương một hoặc nhiều người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính mà thương tích của mỗi người có tỷ lệ từ 31% trở lên, thì người phạm tội  bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 99 Bộ luật hình sự về tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính và tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo khoản 1 Điều 109 Bộ luật hình sự.

  1. Do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính làm chết nhiều người (khoản 2 Điều 99)

Làm chết nhiều người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính là làm chét từ hai người trở lên và tất cả những người bị chết đều là hậu quả của hành vi vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính và bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 99 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ năm năm đến mười hai năm tù. So với đoạn hai khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 2 Điều 99 nhẹ hơn, do đó các hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới điều tra, truy tố xét xử thì Toà án được áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật hình sự năm 1999 để xét xử đối với người phạm tội

Nếu chỉ có một người bị chết do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính, còn những người khác chết không phải do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 99 và tùy trường hợp mà người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 98 Bộ luật hình sự.

Nếu có hai người chết, trong đó có một người chết do vị phạm quy tắc nghề nghiệp và một người chết do vi phạm quy tắc hành chính, thì người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 99 Bộ luật hình sự nhưng tội danh của người phạm tội phải được xác định là phạm tội “vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp và quy tắc hành chính” ( thay liên từ “hoặc” bằng liên từ “và” ).

Theo quy định tại khoản 3 Điều 99 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính còn có thể bị Toà án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc từ một năm đến năm năm. Việc cấm người phạm tội đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc nhất định cần phải căn cứ vào hành vi phạm tội của họ. nếu họ vi phạm quy tắc nghề nghiệp làm chết người thì cấm họ hành nghề có liên quan đến cái chết của nạn nhân. Khi cấm cũng cần phải xem xét đến khả năng thực tế nếu để họ tiếp tục hành nghề đó nữa thì có thể lại tiếp tục gây ra hậu quả nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khỏe của người khác, không nên cấm một cách chung chung mà phải cấm cụ thể nghề gì. Ví dụ: Cấm vận hành máy nổ trong thời hạn 3 năm, cấm phẫu thuật trong thời hạn 2 năm…

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI GIẾT NGƯỜI (ĐIỀU 93)

Giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật.

Điều luật chỉ quy định giết người mà không quy định cố ý giết người, vì từ “giết” đã bao hàm cả sự cố ý. Do đó, nếu có trường hợp nào tước đoạt tính mạng người khác không phải do cố ý thì không phải là giết người. Điều luật cũng không miêu tả các dấu hiệu của tội giết người, nhưng về lý luận cũng như thực tiễn xét xử chúng ta có thể xác định các dấu hiệu của tội giết người như sau:

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI GIẾT NGƯỜI

  1. Về phía người phạm tội

a) Hành vi khách quan của tội phạm bao gồm cả hành động và không hành động.

Trường hợp hành động thường được biểu hiện như: đâm, chém, bắn, đấm đá, đốt cháy, đầu độc, bóp cổ, treo cổ, trói ném xuống vực, xuống sông, chôn sống v.v…

Trường hợp không hành động ít gặp nhưng vẫn có thể xảy ra. Ví dụ: Một Y tá cố tình không cho người bệnh uống thuốc theo chỉ định của bác sỹ để người bệnh chết mặc dù người Y tá này phải có nghĩa vụ cho người bệnh uống thuốc.

b) Hành vi tước đoạt tính mạng của người khác phải là hành vi trái pháp luật, tức là luật cấm mà cứ làm, luật bắt làm mà không làm.

Như vậy, sẽ có trường hợp tước đoạt tính mạng người khác được pháp luật cho phép như: hành vi tước đoạt tính mạng của người khác trong trường hợp phòng vệ chính đáng, trong tình thế cấp thiết hoặc thi hành một mệnh lệnh hợp pháp của nhà chức trách. Ví dụ: người cảnh sát thi hành bản án tử hình đối với người phạm tội .

Hành vi trái pháp luật phải là nguyên nhân gây ra hậu quả chết người, tức là có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Thực tiễn xét xử không phải bao giờ cũng dễ dàng xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả chết người. Vì vậy, khi xác định mối quan hệ nhân qủa giữa hành vi và hậu quả phải xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả với những đặc điểm sau:

– Hành vi là nguyên nhân gây ra chết người phải là hành vi xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian. Ví dụ: sau khi bị bắn, nạn nhân chết. Tuy nhiên không phải bất cứ hành vi nào xảy ra trước hậu quả chết người đều là nguyên nhân mà chỉ những hành vi có mối quan hệ nội tại, tất yếu với hậu quả thì mới là nguyên nhân. Mối quan hệ nội tại tất yếu đó thể hiện ở chỗ: khi cái chết của nạn nhân có cơ sở ngay trong hành vi cả người phạm tội ; hành vi của người phạm tội  đã mang trong nó mầm mống sinh ra hậu quả chết người; hành vi của người phạm tội  trong những điều kiện nhất định phải dẫn đến hậu quả chết người chứ không thể khác được. Ví dụ: một người dùng súng bắn vào đầu của người khác, tất yếu sẽ dẫn đến cái chết cho người này. Nếu một hành vi đã mang trong đó mầm mống dẫn đến cái chết cho nạn nhân, nhưng hành vi đó lại được thực hiện trong hoàn cảnh không có những điều kiện cần thiết để hậu quả chết người xảy ra và thực tế hậu quả đó chưa xảy ra, thì người có hành vi vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người nhưng ở giai đoạn phạm tội chưa đạt. Ví dụ: A có ý định bắn vào đầu B nhằm tước đoạt tính mạng của B, nhưng đạn không trúng đầu của B mà chỉ trúng tay nên B không chết. 

– Hậu quả chết người có trường hợp không phải do một nguyên nhân gây ra mà do nhiều nguyên nhân cùng gây ra, thì cần phải phân biệt nguyên nhân nào là nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân nào là thứ yếu. nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân mà nếu không có nó thì hậu quả không xuất hiện, nó quyết định những đặc trưng tất yếu chung của hậu quả ấy, còn nguyên nhân thứ yếu là nguyên nhân chỉ quyết định những đặc điểm nhất thời cá biệt không ổn định của hậu quả; khi nó tác dụng vào kết quả thì chỉ có tính chất hạn chế và phục tùng nguyên nhân chủ yếu. Ví dụ: có nhiều người cùng đánh một người, người bị đánh chết là do đòn tập thể, nhưng trong đó có hành vi của một người là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cái chết cho nạn nhân, còn hành vi của những người khác chỉ là nguyên nhân thứ yếu. Dù là chủ yếu hay thứ yếu thì tất cả những người có hành vi đều phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, nhưng mức độ có khác nhau.

– Trong thực tế chúng ta còn thấy hậu quả chết người xảy ra có cả nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp. Nguyên nhân  trực tiếp là nguyên nhân tự nó sinh ra kết quả, nó có tính chất quyết định rõ rệt đối với hậu quả, còn nguyên nhân gián tiếp là nguyên nhân chỉ góp phần gây ra hậu quả. Thông thường, hành vi là nguyên nhân trực tiếp mới phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả, còn đối với hành vi là nguyên nhân gián tiếp thì không phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả. Ví dụ: A cho B mượn súng để đi săn, nhưng B đã dùng súng đó để bắn chết người. Tuy nhiên, trong vụ án có đồng phạm thì hành vi của tất cả những người đồng phạm là nguyên nhân trực tiếp.

– Khi xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả cần phân biệt nguyên nhân với điều kiện. Điều kiện là những hiện tượng khách quan hoặc chủ quan, nó không trực tiếp gây ra hậu quả, nhưng nó đi với nguyên nhân trong không gian và thời gian, ảnh hưởng đến nguyên nhân và bảo đảm cho nguyên nhân có sự phát triển cần thiết để sinh ra hậu quả. Nếu một người có hành vi không liên quan đến việc giết người và người đó không biết hành vi của mình đã tạo điều kiện cho người khác giết người, thì không phải chịu trách nhiệm về tội giết người. Ví dụ: A cho B đi nhờ xe Honda, nhưng A không biết B đi nhờ xe của mình để đuổi kịp C và giết C.

c) Hành vi tước đoạt tính mạng người khác là hành vi được thực hiện do cố ý.

Cố ý giết người là trường hợp trước khi có hành vi tước đoạt tính mạng người khác, người phạm tội  nhận thức rõ hành động của mình tất yếu hoặc có thể gây cho nạn nhân chết và mong muốn hoặc bỏ mặc cho nạn nhân chết.

Sự hình thành ý thức của người có hành vi giết người  được biểu hiện khác nhau:

– Dạng biểu hiện thứ nhất là trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm đến tính mạng người khác, người phạm tội  thấy trước được hậu quả chết người tát yếu xảy ra và mong muốn cho hậu quả đó phát sinh. Loại biểu hiện này rõ nét. Biểu hiện ý thức này ra bên ngoài thường được biểu hiện bằng những hành vi như: chuẩn bị hung khí (phương tiện), điều tra theo dõi mọi hoạt động của người định giết, chuẩn bị những điều kiện, thủ đoạn  để che giấu tội phạm v.v… còn gọi là cố ý có dự mưu. Tuy nhiên, cũng có trường hợp trước khi hành động, người phạm tội  không có thời gian chuẩn bị nhưng họ vẫn thấy trước được hậu quả tất yếu xảy ra và cũng mong muốn cho hậu quả phát sinh. Ví dụ: A và B cãi nhau, sẵn có dao trong tay (vì A đang thái thịt lợn) A dùng dao chém liên tiếp nhiều nhát vào đầu B làm B chết ngay tại chỗ. Trường hợp này gọi là cố ý đột xuất.

– Dạng biểu hiện thứ hai là trước khi có hành vi nguy hiểm đến tính mạng người khác, người phạm tội  chỉ nhận thức được hậu quả chết người có thể xảy ra chứ không chắc chắn nhất định xảy ra vì người phạm tội  chưa tin vào hành vi của mình nhất định sẽ gây ra hậu quả chết người. Bản thân người phạm tội  cũng rất mong muốn cho hậu quả xảy ra, nhưng họ lại không tin một cách chắc chắn rằng hậu quả ắt xảy ra. Ví dụ: A gài lựu đạn nhằm giết B vì A đã theo dõi hàng ngày B thường đi qua đoạn đường này, nhưng A không tin vào khả năng gây nổ của lựu đạn hoặc chưa chắc B nhất định đi qua và có đi qua chưa chắc B đã vấp phải lưu đạn do A gài.

– Dạng biểu hiện thứ ba là trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm đến tính mạng của người khác, người phạm tội  cũng chỉ thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra tuy không mong muốn, nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Ví dụ: A mắc điện trần vào cửa chuồng gà với ý thức để kẻ nào vào trộm gà sẽ bị điện giật chết, nhưng lại làm chết người nhà của A vào chuồng gà nhặt trứng gà đẻ.

Người phạm tội giết người đều có chung một mục đích là tước đoạt tính mạng con người, nhưng động cơ thì khác nhau. Động cơ không phải là yếu tố định tội giết người, nhưng trong một số trường hợp nó là yếu tố định khung hình phạt.

Những dấu hiệu khác như: thời gian. địa điểm, hoàn cảnh v.v… chỉ có ý nghĩa xác định mức độ nguy hiểm đối với hành vi giết người, chứ không có ý nghĩa định tội.

Chủ thể của tội giết người là bất kỳ, nhưng phải là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và phải là người đủ 14 tuổi trở lên, vì tội giết người là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng.

  1. Về phía nạn nhân

Người bị giết, phải là người còn sống, vì tội giết người là tội xâm phạm đến tính mạng con người. Nếu một người đã chết, thì mọi hành vi xâm phạm đến xác chết đó không phải là hành vi giết người, nhưng giết một người sắp chết vẫn là giết người.

Giết một đứa trẻ mới ra đời cũng là giết người, nhưng phá thai, dù cái thai đó ở tháng thứ mấy cũng không gọi là giết người, vì vậy giết một phụ nữ đang có thai không phải là giết nhiều người.

Trường hợp người phạm tội  tưởng nhầm xác chết là người đang còn sống mà có những hành vi như bắn, đâm, chém… với ý thức giết thì vẫn phạm tội giết người. Khoa học luật hình gọi là sai lầm về đối tượng.

  1. NHỮNG TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ CỦA TỘI GIẾT NGƯỜI
  2. Giết nhiều người ( điểm a khoản 1 Điều 93)

Giết nhiều người là trường hợp người phạm tội  có ý định giết từ hai người trở lên hoặc có ý thức bỏ mặc cho hậu quả nhiều người chết xảy ra.

Về trường hợp phạm tội này hiện nay cũng có nhiều ý kiến khác nhau, có quan điểm cho rằng chỉ coi là giết nhiều người nếu có từ hai người chết trở lên, nếu người phạm tội  có ý định giết nhiều người, nhưng chỉ có một người chết thì không coi là giết nhièu người. Quan điểm này, theo chúng tôi không có cơ sở khoa học và thực tiễn. Bởi vì, thực tiễn xét xử không ít trường hợp không có ai bị giết cả nhưng vẫn có người bị xét xử về tội giết người. Đó là trường hợp giết người chưa đạt. Trong trường hợp giết nhiều người cũng vậy, chỉ cần xác định người phạm tội  có ý định giết nhiều người là thuộc trường hợp phạm tội này rồi mà không nhất thiết phải có nhiều người chết mới là giết nhiều người. Ví dụ: A có mâu thuẫn với gia đình B, nên A có ý định giết cả nhà B. Nhằm lúc gia đình B đang quây quần bên mâm cơm, A rút chốt lựu đạn ném vào chỗ cả nhà B đang ăn cơm, nhưng lựu đạn không nổ.

Tuy nhiên, trường hợp người phạm tội  có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra (lỗi cố ý gián tiếp) thì phải có từ hai người chết trở lên mới gọi là giết nhiều người.

Như vậy, nhiều người bị giết phải đều thuộc trường hợp quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự thì người phạm tội mới bị coi là giết nhiều người và bị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự.

Nếu có hai người chết, nhưng lại có một người do lỗi vô ý của người phạm tội  thì không coi là giết nhiều người mà thuộc trường hợp phạm hai tội: “Giết người” và “vô ý làm chết người”. Ví dụ: A và B cùng uống rượu ở nhà A, “rượu vào lời ra” dẫn đến hai người cãi lộn, A bực tức rút súng bắn B. Thấy A rút súng bắn mình, B hoảng sợ bỏ chạy ra cửa; vừa lúc đó, con của A thấy hai người to tiếng chạy vào, A nổ súng, đạn xuyên qua ngực B trúng vào đầu con của A; cả B và con của A đều bị chết.

Nếu có hai người chết, nhưng chỉ có một người thuộc trường hợp quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự còn người kia lại thuộc trường hợp trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hoặc do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, hoặc thuộc trường hợp làm chết người trong khi thi hành công vụ thì không thuộc trường hợp giết nhiều người mà tuỳ từng trường hợp cụ thể, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người quy định tại khoản 2 Điều 93 và một tội khác ( giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh hoặc giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng…)

  1. Giết phụ nữ mà biết là có thai ( điểm b khoản 1 Điều 93)

Là trường hợp người phạm tội  biết rõ người mình giết là phụ nữ đang có thai (không kể tháng thứ mấy). Nếu nạn nhân là người tình của người phạm tội  thì thuộc trường hợp giết người vì động cơ đê hèn.

Nếu người bị giết có thai thật, nhưng có căn cứ để xác định người phạm tội không biết họ đang có thai thì cũng không thuộc trường hợp phạm tội giết phụ nữ mà biết là có thai. Ví dụ: A là khách qua đường vào ăn phở trong tiệm phở của chị H. A chê phở không ngon, chị H cũng chẳng vừa bèn nói lại: “ít tiền mà cũng đòi ăn ngon, đồ nhà quê!” A bực tức lao vào đấm đá chị H liên tiếp. Do bị đá đúng chỗ hiểm chị H đã chết sau đó vài giờ. Khi khám nghiệm tử thi mới biết chị H đang có thai hai tháng.

Ngược lại, trong trường hợp người phụ nữ bị giết không có thai, nhưng người phạm tội  tưởng lầm là có thai và sự lầm tưởng này của người phạm tội  là có căn cứ, thì người phạm tội  vẫn bị xét xử về tội giết người trong tường hợp “giết phụ nữ mà biết là có thai”. Ví dụ: K là tên lưu manh cùng đi một chuyến ô tô với chị M. Do tranh giành chỗ ngồi nên hai bên cãi nhau. K đe doạ: “Về tới bến biết tay tao!” Khi xe đến bến, K thấy chị M đi khệnh khạng, bụng lại hơi to, K tưởng M có thai, vừa đánh chị M, K vừa nói: “Tao đánh cho mày truỵ thai để mày hết thói chua ngoa”. Mọi người thấy K đánh chị M bèn can ngăn và nói: “Người ta bụng mang dạ chửa đừng đánh nữa phải tội”. Nhưng K vẫn không buông tha. Bị đá vỡ lá lách nên chị M bị chết. Sau khi chị M chết mới biết là chị không có thai mà chị giấu thuốc lá 555 trong người giả vờ là người có thai để tránh sự phát hiện của các cơ quan chức năng. Biên bản khám nghiệm tử thi cũng kết luận là chị M không có thai.

Giết phụ nữ mà biết là có thai là dấu hiệu thuộc ý thức chủ quan của người phạm tội chứ không phải dấu hiệu khách quan như trường hợp phạm tội đối với phụ nữ có thai quy định tại điểm h khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Trường hợp quy định tại điểm h khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự chỉ cần xác định người bị hại là phụ nữ có thai là đủ căn cứ xác định là tình tiết tăng nặng rồi không cần phải xác định người phạm tội có biết hay không biết rõ người phụ nữ có thai hay không.

  1. Giết trẻ em (điểm c khoản 1 Điều 93)

Giết trẻ em là trường hợp người phạm tội đã cố ý tước đoạt tính mạng của trẻ em

Theo Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì người dưới 16 tuổi là trẻ em.

Giết trẻ em được coi là trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự, không chỉ xuất phát từ quan điểm bảo vệ trẻ em là bảo vệ tương lai của đất nước, bảo vệ lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà còn bảo vệ những người không có khả năng tự vệ.

So với tội giết người được quy định tại Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985 thì trường hợp giết trẻ em quy định tại điểm c khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999 là quy định mới nên chỉ áp dụng đối với người phạm tội thực hiện hành vi kể từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000.

Khi áp dụng tường hợp phạm tội này cần chú ý một số điểm sau:

– Việc xác định tuổi của người bị hại là trẻ em là một yêu cầu bắt buộc của các cơ quan tiến hành tố tụng. Hồ sơ vụ án nhất thiết phải có giấy khai sinh của người bị hại là trẻ em, nêu không có giấy khai sinh thì phải có các tài liệu chứng minh người bị hại là người chưa đến 16 tuổi. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp việc xác định tuổi của người bị hại gặp rất nhiều khó khăn, các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng hết mọi biện pháp nhưng vẫn không xác định được tuổi của người bị hại. Vậy trong trường hợp này tính tuổi của người bị hại như thế nào ? Hiện nay có hai ý kiến trái ngược nhau: ý kiến thứ nhất cho rằng, nếu không biết ngày sinh thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó, nếu không biết tháng sinh thì lấy tháng cuối cùng của năm đó, cách tính này là không có lợi cho ngời phạm tội. Còn ý kiến thứ hai thì cho rằng, nếu không biết ngày sinh thì lấy ngày đầu tiên của tháng đó, nếu không biết tháng sinh thì lấy tháng cuối cùng của năm đó, cách tính này theo hướng có lợi cho người phạm tội. Để có căn cứ xác định tuổi của người bị hại nhất là người bị hại lại là trẻ em, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần có hướng dẫn cụ thể.1

– Phạm tội đối với trẻ em nói chung và giết trẻ em nói riêng không phải là tình tiết thuộc ý thức chủ quan của người phạm tội mà là tình tiết khách quan, do đó không cần người phạm tội phải nhân thức được hoặc buộc họ phải nhận thức được đối tượng mà mình xâm phạm là trẻ em thì mới coi là tình tiết tăng nặng, mà chỉ cần xác định người mà người phạm tội xâm phạm là trẻ em thì người phạm tội đã bị coi là phạm tội đối với trẻ em rồi. 2

  1. Giết người đang thi hành công vụ (điểm d khoản 1 Điều 93)

Đây là trường hợp người bị giết là người đang thi hành công vụ, Tức là người bị giết đang thực hiện một nhiệm vụ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao phó. Nhiệm vụ được giao có thể là đương nhiên do nghề nghiệp quy định: cán bộ chiến sĩ công an nhân dân đang làm nhiệm vụ bảo vệ, thầy thuốc đang điều trị tại bệnh viện; thầy giáo đang giảng bài hoặc hướng dẫn học sinh tham quan, nghỉ mát; thẩm phán đang xét xử tại phiên toà; cán bộ thuế đang thu thuế; thanh niên cờ đỏ, dân quân tự vệ đang làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự ở nơi công cộng v.v…

Cũng được coi là đang thi hành công vụ đối với nhưng người tuy không được giao nhiệm vụ nhưng họ tự nguyện tham gia vào việc giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong một số trường hợp nhất định như: đuổi bắt người phạm tội  bỏ trốn; can ngăn, hoà giải những vụ đánh nhau ở nơi công cộng v.v…

Nạn nhân bị chết phải là lúc họ đang làm nhiệm vụ, thì người phạm tội  mới bị coi là phạm tội trong trường hợp “giết người đang thì hành công vụ”. Nếu nạn nhân lại bị giết vào lúc khác thì không thuộc trường hợp giết người đang thi hành công vụ, mà tuỳ từng trường hợp có thể là giết người bình thường hoặc thuộc trường hợp khác.

Nạn nhân bị giết phải là người thi hành nhiệm vụ đúng pháp luật, nếu trái với pháp luật mà bị giết thì người có hành vi giết người  không phải là “giết người đang thi hành công vụ”. Ví dụ: một người tự xưng là công an đòi khám nhà của người khác. Chủ nhà yêu cầu xuất trình lệnh khám nhà, nhưng người này không đưa, dẫn đến hai bên xô xát và chủ nhà đâm chết người này.

  1. Giết người vì lý do công vụ của nạn nhân( điểm d khoản 1 Điều 93)

Khác với trường hợp giết người đang thi hành công vụ, nạn nhân bị giết trong trường hợp này không phải lúc họ đang thi hành công vụ mà có thể trước hoặc sau đó. Thông thường, nạn nhân là người đã thi hành một nhiệm vụ và vì thế đã làm cho người phạm tội  thù oán nên đã giết họ. Ví dụ: A buôn thuốc phiện, bị tổ công tác của B (đội đặc nhiệm) bắt giữ, A đã dùng mọi cách để B bỏ qua hành vi phạm tội của A nhưng B vẫn không đồng ý, nên A đã giết B nhằm trốn tránh pháp luật.

Tuy nhiên, có một số trường hợp người bị giết chưa kịp thi hành nhiệm vụ được giao, nhưng người có hành vi giết người cho rằng nếu để người naỳ sống, nhiệm vụ mà họ thực hiện sẽ gây ra thiệt hại cho mình, nên đã giết trước. Ví dụ: A làm nhà trái phép, Uỷ ban nhân dân Quận B ra quyết định dỡ bỏ và giao cho Uỷ ban nhân dân phường K thi hành. A đến nhà ông Chủ tịch phường xin hoãn, nhưng không được nên đã bực tức lấy dao đâm chết ông Chủ tịch phường tại nhà riêng của ông.

  1. Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình (điểm đ khoản 1 Điều 93)

Đây là trường hợp giết người mang tính chất phản trắc, bội bạc; giết người mà người bị giết đáng lẽ người phạm tội phải có nghĩa vụ kính trọng. Việc nhà làm luật coi trường hợp giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình là trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự ( tình tiết định khung tăng nặng) là xuất phát từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, truyền thống tôn sư trọng đạo. Bộ luật hình sự năm 1985 không coi trường hợp phạm tội này là tình tiết định khung hình phạt. Tuy nhiên trong một số trường hợp nếu người phạm tội giết người có tính chất bội bạc phản trắc thì áp dụng tình tiết ” giết người vì động cơ đê hèn”. Nay Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định trường hợp giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình là tình tiết định khung tăng nặng. Do đó Toà án chỉ áp dụng tình tiết này đối với người thực hiện hành vi phạm tội kể từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000.

Ông, bà bao gồm cả ông, bà nội; ông, bà ngoại. Cha, mẹ bao gồm cả cha, mẹ đẻ; cha, mẹ nuôi; cha, mẹ vợ hoặc cha, mẹ chồng. Người nuôi dưỡng là những người tuy không phải là ông, bà, cha, mẹ nhưng đã nuôi dưỡng người phạm tội từ bé, thường là những người có hàng thân thích với người phạm tội như: chú, dì, cô, bác, cậu, mợ… hoặc tuy không phải là người thân thích với người phạm tội, nhưng là người chăm sóc, nuôi dưỡng người phạm tội trong các Trại mồ côi, Trại điều dưỡng. Thầy, cô giáo của người phạm tội là người đã và đang dạy người phạm tội. Tuy niên, trong trường hợp giết thầy, cô giáo phải xác định người phạm tội giết thầy, cô giáo với động cơ phản trắc và người thầy, người cô đó phải là người có một quá trình dạy dỗ nhất định đối với người phạm tội. Nếu vì động khác và người thầy, người cô đó không có quá trình nhất định trong việc dạy dỗ người phạm tội thì không thuộc trường hợp phạm tội này. Ví dụ: Trần Văn Q là sinh viên năm thứ tư Trường Đại học X. Do có mâu thuẫn với Bùi Đức T là giảng viên của nhà trường vì T và Q đều yêu Vũ Thi C là học viên cùng lợp với Q. Tuy là giảng viên, nhưng T chỉ hơn Q mấy tuổi và là học viên khoá trước được nhà trường giữ lại làm giảng viên và không giảng ở lớp Q giờ nào. Vì không muốn cho T yêu C, nên Q đã rủ một số học viên cùng lớp gây sự rồi đánh T bị trọng thương, đưa vào bệnh viện cấp cứu thì chết.

  1. Giết người mà liền trước đó phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng (điểm e khoản 1 Điều 93)

Là trường hợp trước khi giết ngươi, người phạm tội đã phạm một tội rất nghiêm trọng  hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng3. Ví dụ: A vừa sử dụng vũ khí cướp tài sản của B, đang bỏ chạy thì gặp C là người mà y đã thù ghét từ trước, sẵn có vũ khí trong tay, A gây sự và giết chết B.

Tuy chưa có giải thích hoặc hướng dẫn như thể nào là liền trước đó, nhưng qua thực tiễn xét xử chỉ coi là liền trước hành vi giết người, nếu như tội phạm được thực hiện trước đó về thời gian phải liền kề với hành vi giết người có thể trong khoảng thời gian vài giờ đồng hồ hoặc cùng lắm là trong ngày, nếu tội phạm người phạm tội thực hiện trước đó có khoảng cách nhất định không còn liền với hành vi giết người thì không coi là giết người mà liền trước đó phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại điểm e khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự

Khác với trường hợp giết người để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác ở chỗ: tội phạm của người phạm tội  trước khi giết người không liên quan với tội giết người và phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng chứ không phải là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng.

  1. Giết người mà ngay sau đó phạm một tội một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng (điểm e khoản 1 Điều 93)

Trường hợp giết người này cũng tương tự như trường hợp giết người mà liền trước đó phạm một tội phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, chỉ khác nhau ở chỗ: Tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng mà người phạm tội  thực hiện diễn ra ngay sau đó chứ không phải ngay trước đó. Ví dụ: A vừa giết người đang chạy trốn thì gặp B đi xe máy Draem II, A dùng vũ khí  khống chế cướp xe máy của B để chạy trốn. Cùng vì thế mà nhà làm luật quy định trường hợp phạm tội này cùng trong mọt điểm với trường hợp giết người mà liền trước đó phạm một tội phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng (điểm e khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự)

Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại điểm e khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự, về lý luận cũng như thực tiễn xét xử hay bị nhầm lẫn với trường hợp giết người để thực hiện hoặc để che giấu tội phạm khác quy định tại điểm g khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự. Để phân biệt hai trường hợp giết người này, chúng ta có sơ đồ so sánh như sau:

điểm g khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự điểm e khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự
-Tội phạm mà người phạm tội  thực hiện trước hoặc sau tội giết người có thể là tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng và cũng coa thể là tội nghiêm trọng và tội ít nghiêm trọng.

– Về thời gian, tội phạm mà người phạm tội  thực hiện trước hoặc sau tội giết người có thể xảy ra trước đó hoặc sau đó một thời gian ngắn, nhưng cũng có thể cách tội giết người một thời gian dài.

– Tội phạm mà người phạm tội  thực hiện trước hoặc sau tội giết người có liên quan mật thiết đến tội giết người (không giết người thì không thực hiện được tội phạm đó hoặc không che giấu được tội phạm đó)

– Tội phạm mà người phạm tội  thực hiện trước hoặc sau tội giết người chỉ là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng

 

 

– Tội phạm mà người phạm tội  thực hiện phải xảy ra liền trước đó hoặc ngay sau đó, không có khoảng cách.

 

 

– Tội phạm mà người phạm tội  thực hiện trước hoặc sau tội giết người không liên quan đến tội giết người.

  1. Giết người để thực hiện tội phạm khác (điểm g khoản 1 Điều 93)

Đây là trường hợp sau khi giết người, người phạm tội lại thực hiện một tội phạm khác. Tội phạm khác là tội phạm bất kỳ do Bộ luật hình sự quy định, không phân biệt đó là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hay tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tất nhiên tội phạm khác ở đây không phải là tội giết người.

Về thời gian, tội phạm được thực hiện sau khi giết người, có thể là liền ngay sau khi vừa giết người hoặc có thể xảy ra sau một thời gian nhất định. nhưng khác với trường hợp “giết người mà liền ngay sau đó lại phạm một tội nghiêm trọng khác” (điểm e khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự) ở chỗ tội phạm được thực hiện sau khi giết người ở trường hợp này có liên quan mật thiết với hành vi giết người. Hành vi giết người là tiền đề, là phương tiện để thực hiện tội phạm sau, nếu không giết người thì không thực hiện được tội phạm sau. Ví dụ: Giết người để cướp của, giết người để khủng bố, giết người để trốn đi nước ngoài v.v…

  1. Giết người để che giấu tội phạm khác (điểm g khoản 1 Điều 93)

Đây là trường hợp trước khi giết người, người có hành vi giết người đã thực hiện một tội phạm và để che giấu tội phạm đó nên người phạm tội đã giết người. Thông thường sau khi phạm một tội có nguy cơ bị lộ, người phạm tội  cho rằng chỉ có giết người thì tội phạm mà y đã thực hiện mới không bị phát hiện. Người bị giết trong trường hợp này thường là người đã biết hành vi phạm tội hoặc cùng người phạm tội  thực hiện tội phạm.

Giữa hành vi giết người của người phạm tội với tội phạm mà y đã thực hiện phải có mối liên hệ với nhau, nhưng mối liên hệ ở đây không phải là tiền đề hay phương tiện như trường hợp “giết người để thực hiện tội phạm khác” mà chỉ là thủ đoạn để che giấu tội phạm.

Về thời gian, tội phạm mà người có hành vi giết người  muốn che giấu có thể xảy ra liền ngay trước với tội giết người, nhưng cũng có thể xảy ra trước đó một thì gian nhất định. Nếu xảy ra liền trước đó lại là tội nghiêm trọng và không có mối liên hệ với tội giết người thì không thuộc trường hợp phạm tội này mà thuộc trường hợp “giết người mà liền trước đó lại phạm một tội nghiêm trọng khác (điểm e khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự ).

  1. Giết người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân (điểm h khoản 1 Điều 93)

Đây là trường hợp giết người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân thay thế hoặc để bán cho người khác dùng vào việc thay thế bộ phận đó. Trường hợp giết người này thực tiễn chưa xảy ra, nhưng trên thế giới nhiều nước đã có tình trạng giết người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân nhằm thay thế bọ phận đó cho mình hoặc cho người thân của mình hoặc bán để người khác thay thế bộ phận đó. Tham khảo pháp luật các nước, đòng thời dự kiến trong tình hình phát triển của xã hội có thể có trường hợp giết người này nên Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định trường hợp giết người này là tình tiết định khung tăng nặng để đề phòng thực tế có thể xảy ra.

Nếu vì quá căm tức mà người phạm tội sau khi giết người đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân để nhằm mục đích khác cho hả dận thì không thuộc trường hợp phạm tội này. Ví dụ: Sau khi giết người, người phạm tội đã mổ bụng, lấy gan nạn nhân cho chó ăn.

 

  1. Thực hiện tội phạm một cách man rợ (điểm i khoản 1 Điều 93)

Tính chất man rợ của hành vi giết người thể hiện ở chỗ, làm cho nạn nhân đau đớn, quằn quại trước khi chết như: mổ bụng, moi gan, khoét mắt, chặt chân tay, xẻo thịt, lột da, tra tấn cho tới chết…Các hành vi trên, người phạm tội  thực hiện trước khi tội phạm hoàn thành, tức là trước khi nạn nhân bị chết.

Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cũng đã coi các hành vi nêu trên là những hành vi có tính chất man rợ, nhưng không phải là thực hiện tội phạm mà là để che giấu tội phạm, là trường hợp “thực hiện tội phạm một cách man rợ”. Ví dụ: sau khi đã giết người, người phạm tội  cắt xác nạn nhân ra nhiều phần đem vứt mỗi nơi một ít để phi tang. Đây là vấn đề về lý luận cũng còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng theo chúng tôi nếu coi cả những hành vi có tính chất man rợ nhằm che giấu tội giết người cũng là “thực hiện tội phạm một cách man rợ” thì nên quy định trường hợp phạm tội này là “phạm tội một cách man rợ”, vì phạm tội bao hàm cả hành vi che giấu tội phạm, còn thực hiện tội phạm mới chỉ mô tả những hành vi khách quan và ý thức chủ quan của cấu thành tội giết người.

  1. Giết người bằng cách lợi dụng nghề nghiệp (điểm k khoản 1 Điều 93)

Đây là trường hợp người phạm tội  dã sử dụng nghề nghiệp của mình để làm phương tiện giết người dễ dàng và cũng dễ dàng che giấu tội phạm như: bác sĩ giết bệnh nhân, nhưng lập bệnh án là nạn nhân chết do bệnh hiểm nghèo; Bảo vệ bắn chết người, nhưng lại vu cho họ là kẻ cướp. Lợi dụng nghề nghiệp đẻ giết người là phạm tội với thủ đoạn rất xảo quyệt, nên nhà làm luật không chỉ dừng lại ở quy định là tình tiết tăng nặng theo Điều 48 Bộ luật hình sự mà coi thủ đoạn này là tình tiết định khung hình phạt.

Phải xác định rõ người phạm tội  đã lợi dụng nghề nghiệp của mình để giết người thì mới thuộc trường hợp phạm tội này. Nếu người có hành vi giết người  bằng phương pháp có tính chất nghề nghiệp, nhưng đó không phải là nghề nghiệp của y mà lại lợi dụng người có nghề nghiệp đó rồi thông qua người này thực hiện ý đồ của mình  thì không thuộc trường hợp phạm tội này. Ví dụ: một kẻ đã đánh tráo ống thuốc tiêm của y tá điều trị, thay vào đó một ống thuốc giả có nhãn hiệu như ống thuốc thật, nhưng có độc tố mạnh để mượn tay người y tá giết chết bệnh nhân mà y có thù oán.

 

  1. Giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người (điểm l khoản 1 Điều 93)

Phương pháp có khả năng làm chết nhiều người là nói đến tính năng, tác dụng của phương tiện mà người phạm tội  sử dụng khi phạm tội có tính nguy hiểm cao, có thể gây thương vong cho nhiều người như: ném lựu đạn vào chỗ đông người, bỏ thuốc độc vào bể nước nhằm giết một người mà người phạm tội  mong muốn.

Hậu quả của hành vi sử dụng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người có thể chết người mà người phạm tội  mong muốn và có thể chết người khác, có thể chết nhiều người và cũng có thể không ai bị chết. Nhưng người phạm tội  vẫn bị  coi là giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người và bị xử lý theo khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, nếu không có ai bị chết thì người phạm tội  được áp dụng Điều 18 Bộ luật hình sự về trường hợp “giết người chưa đạt”

  1. Thuê giết người (điểm m khoản 1 Điều 93)

Thuê giết người là trường hợp trả cho người khác tiền hoặc lợi ích vất chất để họ giết người mà mình muốn giết.

Cũng giống như những trường hợp thuê làm một việc, người phạm tội vì không trực tiếp thực hiện hành vi giết người nên đã dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác để thuê người khác giết người. Người trực tiếp giết người trong trường hợp này là người giết thuê.

Thuê giết người và giết người thuê có mói quan hệ mật thiết với nhau, cái này là tiền đề của cái kia, thiếu một trong hai cái thì không có trường hợp giết người này xảy ra (có người thuê, mới người làm thuê).

Thông thường việc giết người thuê và thuê giết người đồng thời là trường hợp giết người có tổ chức, nhưng cũng thể chỉ là trường hợp đồng phạm bình thường. Ví dụ: Phạm Văn T đến nhà  Hoàng Thị X là người yêu chơi. Tại đây. T gặp Hoàng Văn H là anh họ của X và Bùi Công Q đang nói chuyện với X. T biết H rủ Q đến nhà X chơi là để giới thiệu X cho Q. T giả vờ xin phép về, trên đường về T gặp Bùi Đức C và Trần Văn S. T nói với C và S: “Chúng mày làm việc hai thằng đang ở trong nhà X cho tao, xong việc tao sẽ thưởng” C và S nhận lời, còn T về nhà chờ kết quả. C và S đã chuẩn bị một đoạn tre dài 1m có đường kính 3 cm ngồi phục sẵn ở gốc cây trước cổng nhà X chờ H và Q ra để đánh. Khi H và Q từ nhà X đi ra, S bấm đền pin còn C dùng đoạn tre vụt một cái thật mạnh vào đầu Q làm cho Q gục chết tại chỗ. Đánh xong, C và S chạy vè báo tin cho T biết là đã đánh một đứa gục rồi. T đưa cho C và S mõi tên 500.000 đồng và bảo chúng trốn đi mọt thời gian bao giờ tình hình êm thì hãy về.

 

  1. Giết người thuê (điểm m khoản 1 Điều 93)

Là trường hợp người phạm tội lấy việc giết người làm phương tiện để kiếm tiền hoặc lợi ích vật chất khác. Vì muốn có tiền nên người phạm tội  đã nhận lời với người thuê mình để giết một người khác. Việc trừng trị đối với kẻ giết thuê là nhằm ngăn chặn tình trạng “đâm thuê chém mướn”, nhất là trong nền kinh tế thị trường, ở nơi này hoặc nơi khác đã xuất hiện những tên, những nhóm người chuyên hoạt động đâm thuê chém mướn, thì việc trừng trị thật nghiêm đối với bọn người này là rất cần thiết.

Người phạm tội  phải có ý thức giết thuê thật sự mới là phạm tội vì động cơ đê hèn. Vì nể hoặc sợ nên người phạm tội  nhận lời giết người thì không phải là “giết thuê”.

  1. Giết người có tính chất côn đồ (điểm n khoản 1 Điều 93)

Là trường hợp khi giết người, người phạm tội  rõ ràng đã coi thường những quy tắc trong cuộc sống, có những hành vi ngang ngược, giết người vô cớ (không có nguyên cớ) hoặc cố tình sử dụng những nguyên cớ nhỏ nhặt để giết người. Ví dụ: Đặng Văn T ngồi xem phim trong rạp, mặc dù đã có thông báo: “không hút thuốc lá trong rạp”, nhưng T vẫn cứ hút thuốc, những người ngồi bên cạnh góp ý. T không những không nghe mà còn gây gổ, chửi tục làm mất trật tự; buổi chiếu phim phải tạm dừng. Khi người bảo vệ đến yêu cầu T tắt thuốc lá và giữ trật tự để buổi chiếu phim tiếp tục, T tỏ thái độ hung hăng buộc người bảo vệ phải mời T ra khỏi rạp. T liền rút dao găm trong người ra đâm vào ngực người bảo vệ làm cho người này chết tại chỗ.

Tuy nhiên, việc xác định trường hợp giết người có tính chất côn đồ không phải bao giờ cũng dễ dàng như các trường hợp giết người khác được quy định tại khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự. Thực tiễn xét xử không ít trường hợp giết người không thuộc các trường hợp khác quy định tại khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự , thì các Toà án thường xác định giết người có tính chất côn đồ để áp dụng khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự. Nhiều bản án đã bị kháng nghị theo trình tự Giám đốc thẩm hặc bị Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao sửa bản án sơ thẩm chỉ vì xác định không đúng tình tiết này. Đây cũng là một vấn đề hiện nay còn nhiều vướng mắc và cũng là vấn đề phức tạp có nhiều ý kiến khác nhau; việc tổng kết kinh nghiệm xét xử về vấn đề này chưa đáp ứng tình hình phạm tôi xảy ra. Do đó ảnh hưởng không ít đến việc áp dụng pháp luật.

Khi xác định trường hợp giết người có tính chất côn đồ cần phải có quan điểm xem xét toàn diện, tránh xem xét một cách phiến diện như: chỉ nhấn mạnh đến nhân thân người phạm tội , hoặc chỉ nhấn mạnh đến địa điểm xảy ra vụ giết người hay chỉ nhấn mạnh đến hành vi cu thể gây ra cái chết cho nạn nhân, đâm nhiều nhát dao vào người nạn nhân là có tính chất côn đồ; nhưng có trường hợp người phạm tội  chỉ đâm một nhát trúng tim nạn nhân chết ngay cũng là có tính chất côn đồ. Cần xem xét đến mối quan hệ giữa người phạm tội  với nạn nhân, thái độ của người phạm tội  khi gây án, nguyên nhân nào dẫn đến việc người phạm tội  giết người v.v…

  1. Giết người có tổ chức (điểm o khoản 1 Điều 93)

Là trường hợp nhiều người tham gia vào một vụ giết người, có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện việc giết người; có sự phân công; có kẻ chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc giết người.

Nếu nhiều người cùng tham gia vào một vụ án giết người, nhưng không có sự cấu kết chặt chẽ, mà chỉ có sự đồng tình có tính chất hời hợt thì không phải là giết người có tổ chức. Ví dụ: một số thanh niên ở xã A đi xem phim, gây gổ đánh nhau với một số thanh niên ở xã B dẫn đến một thanh niên ở xã A bị thanh niên ở xã B đánh chết. KHi đã xác định giết người có tổ chức thì tất cả những người cùng tham gia vụ giết người dù ở vai trò nào (chủ mưu hay giúp sức, chỉ huy hay thực hành…) đều bị coi là giết người có tổ chức. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt (cá thể hoá hình phạt) phải căn cứ vào vai trò, vị trí của từng người tham gia vào vụ án. Có thể kẻ bị tử hình, nhưng có kẻ chỉ bị phạt ba hoặc bốn năm tù.

  1. Giết người thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm (điểm p khoản 1 Điều 93)

Là trường hợp trước khi giết người, người phạm tội đã bị kết về tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích hoặc đã tái phạm và chưa được xoá án tích ( khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự). Ví dụ: A đã bị kết án 10 năm tù về tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa chưa được xoá án tích lại phạm tội giết người.

Tái phạm là trường hợp bị đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do vô ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý ( khoản 1 Điều 49 Bộ luật hình sự ).

Về trường hợp phạm tội này, cũng có ý kiến cho rằng không nên coi trường hợp tái phạm nguy hiểm là tình tiết phạm tội phải bị xử phạt theo khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự. Vì trong nhiều trường hợp không thể hiện tính chất nguy hiểm cao của hành vi giết người. Các quan hệ (đặc điểm) về nhân thân chỉ nên coi là tình tiết tăng nặng theo Điều 48 Bộ luật hình sự là đủ. Nếu coi trường hợp tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung hình phạt đối với tội giết người thì chỉ nên coi trường hợp tái phạm về tội này, tức là đã bị kết án về tội giết người chưa được xoá án tích mà còn giết người.

 

  1. Giết người vì động cơ đê hèn ( điểm q khoản 1 Điều 93)

Động cơ đê hèn của người phạm tội  giết người được xác định qua việc tổng kết kinh nghiệm xét xử nhiều năm ở nước ta. Thực tiễn xét xử đã coi những trường hợp sau đây là giết người vì động cơ đê hèn:

Giết vợ hoặc chồng để tự do lấy vợ hoặc chồng khác.

Vì muốn tự do lấy vợ hoặc chồng khác nên người phạm tội  đã giết vợ hoặc giết chồng của mình. Phải có căn cứ xác định người phạm tội  vì muốn lấy vợ hoặc lấy chồng khác mà buộc phải giết vợ hoặc giết chồng mình thì mới coi là giết người vì động cơ đê hèn. Nếu vì một lý do khác, người phạm tội  đã giết vợ hoặc giết chồng sau đó mới có ý định lấy vợ hoặc lấy chồng khác thì không phải giết người vì động cơ đe hèn. Ví dụ: Nguyễn Văn T đi làm về, chưa thấy vợ nấu cơm, liền nổi giận đá vợ mấy cái vào bụng. Do bị đá vỡ lá lách nên vợ T bị chết sau 4 tiếng đồng hồ. T hoảng sợ lấy thuốc sâu đổ vào miệng vợ rồi nói với mọi người rằng vợ y tự tử. Với hành động đó, T đã che giấu tạm thời hành vi phạm tội của mình. Sau khi chôn cất vợ, vì hoàn cảnh gia đình khó khăn lại phải nuôi con nhỏ nên sau một năm T lấy vợ khác để chăm sóc con cái và giúp y trong việc nội trợ. Lấy vợ được 6 tháng thì hành vi giết vợ của T bị phát hiện.

  1. b) Giết chồng để lấy vợ hoặc giết vợ để lấy chồng nạn nhân.

Thông thường, trong trường hợp này giữa người có hành vi giết người  với vợ hoặc chồng nạn nhân có qan hệ thông gian với nhau. Tuy nhiên, có trường hợp cá biệt không có quan hệ thông gian từ trước, nhưng trước khi giết nạn nhân người có hành vi giết người  đã có ý định lấy vợ hoặc chồng nạn nhân. Trường hợp có quan hệ thông gian từ trước và cả hai đều là thủ phạm thì một người phạm tội thuộc trường hợp “giết vợ hoặc chồng để tự do lấy vợ, lấy chồng khác” còn một người phạm tội thuộc trường hợp “Giết chồng để lấy vợ hoặc giết vợ để lấy chồng nạn nhân”.

Ví dụ: Phạm Văn K là nhân viên bảo vệ trường dạy nghề của tỉnh Q. K đã nhiều lần quan hệ bất chính với M là vợ của anh H. Để lấy được nhau, K và M đã bàn bạc giết anh H; theo kế hoạch đã định, M rủ anh Hvaof rừng lấy nấm, khi anh H đi qua chỗ K phục sẵn, M ra hiệu để k nổ súng bắn chết anh H. Trường hợp này K giết anh H là để lấy vợ H còn M giết H là để tự do lấy K.

  1. c) Giết người tình mà biết họ đã có thai với mình để trốn tránh trách nhiệm.

Đây là trường hợp giết phụ nữ mà biết là có thai, nhưng nạn nhân lại là người tình với người phạm tội .

Trách nhiệm mà người phạm tội  trốn tránh là trách nhiệm làm bố đứa trẻ, do có trách nhiệm này mà có thể làm cho người phạm tội  bị ảnh hưởng đến nhiều  mặt trong cuộc sống như: bị kỷ luật, bị xã hội lên án, bị gia đình, vợ con ruồng bỏ xa lánh v.v…

Nạn nhân có thai là yếu tố bắt buộc để xác định bị cáo phạm tội trong trường hợp này. Nhưng nếu nạn nhân không có thai mà nói dối với bị cáo là đã có thai nhằm thúc ép bị cáo phải cưới mình và bị cáo vì sợ trách nhiệm nên đã giết nạn nhân thì vẫn bị coi là phạm tội vì động cơ đê hèn.

  1. d) Giết chủ nợ để trốn nợ.

Nhân dân ta có truyền thống đoàn kết thương yêu đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Trong quan hệ vay mượn cũng là biểu hiện của tinh thần đó. khi gặp khó khăn, túng thiếu đã được người khác cưu mang giúp đỡ, lẽ ra phải biết ơn, ngược lại kẻ được cưu mang giúp đỡ lại giết người cưu mang, giúp đỡ mình nhằm trốn nợ.

Bị cáo giết nạn nhân chủ yếu  nhằm trốn nợ, nhưng không phải cứ có vay mượn, nợ nần mà đã vội xác định người phạm tội  giết người vì động cơ đê hèn, mà phải xác định việc vay mượn đó có xuất phát từ tình cảm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau không? Nếu nạn nhân là người cho vay lãi nặng, có tính chất bóc lột thì không thuộc trường hợp phạm tội vì động cơ đê hèn.

đ) Giết người để cướp của.

Là trường hợp, người phạm tội  muốn chiếm đoạt tiền của do nạn nhân trực tiếp quản lý (chiếm hữu) nên đã giết họ. Tính chất đê hèn của trường hợp giết người này cũng là vì tiền.

Người phạm tội  giết người trong trường hợp này phải chịu trách nhiệm hình sự về hai tội: Tội giết người và tội cướp tài sản… Riêng tội giết người người phạm tội  đã có hai tình tiết định khung tăng nặng đó là: “vì động cơ đê hèn và để thực hiện một tội phạm khác”, người có hành vi giết người  để cướp của thường bị phạt với mức án cao như tù chung thân hoặc tử hình nếu họ đã đủ 18 tuổi trở lên.

Tuy nhiên, thực tiễn xét xử ít có Toà án xác định người phạm tội  giết người để cướp của là trường hợp “giết người vì động cơ đê hèn” mà chỉ coi là “giết người để thực hiện tội phạm khác” , vì như trên đã nêu người có hành vi giết người  cướp của đã phạm một lúc hai tội nghiêm trọng và hình phạt đối với họ cũng rất nghiêm khắc, nên ít ai bàn đến việc có cần phải áp dụng thêm tình tiết “giết người vì động cơ đê hèn” hay không? Chính vì vậy mà không ít người cho rằng giết người để cướp của không phải là vì động cơ đê hèn.

  1. e) Giết người là ân nhân của mình.

Được coi là ân nhân của kẻ giết mình trong trường hợp nạn nhân là người đã có công giúp đỡ người phạm tội  trong lúc khó khăn mà bản thân người phạm tội  không thể tự mình khức phục được. Việc giúp đỡ của nạn nhân đối với người phạm tội  lẽ ra y phải chịu ơn suốt đời, nhưng đã bội bạc phản trắc, đã giết người giúp mình, chứng tỏ sự hèn hạ cao độ.

Khi xác định nạn nhân có phải là ân nhân của người có hành vi giết người  hay không  xét trong hoàn cảnh cụ thể; mối quan hệ phải rõ ràng, được dư luận xã hội thừa nhận và không trái pháp luật. Nếu hành vi trái pháp luật của nạn nhân làm cho kể giết người phải chịu ơn thì không coi là giết người là ân nhân của mình. Ví dụ: một giám thị đưa bài cho thí sinh chép trong phòng thi, một cán bộ tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa rồi đem tài sản đó giúp người khác, một cán bộ quản giáo tha người trái pháp luật; một thẩm phán cố tình đưa ra một bản án trái pháp luật có lợi cho người phạm tội  v.v…

Ngoài các trường hợp đã nêu trên, thực tiễn xét xử còn có các trường hợp sau đây cũng nên coi là giết người vì động cơ đê hèn. Đó là trường hợp người có hành vi giết người  không giết được người mình muốn giết mà giết người thân của họ mà những người này không hề có mâu thuẫn gì với người có hành vi giết người , họ yếu đuối không có khả năng tự vệ như ông bà già, người bị bệnh nặng và các em nhỏ, họ là bố mẹ, vợ con của người mà người có hành vi giết người  định giết nhưng không giết được. Ví dụ: do làm ăn buôn bán với nhau nên A có thù tức với B. A tìm B để giết nhưng không được, A liền đến nhà B chém chết mẹ của B mới đang bị ốm nằm trên giường, mặc dù hành vi giết người này bị coi là có tình tiết tăng nặng “phạm tội đối với người ở trong tình trạng không tự vệ được ” ( điểm h khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự), nhưng chúng tôi cho rằng cần phải coi trường hợp này là giết người vì động cơ đê hèn và người có hành vi giết người  phải bị trừng trị theo khoản 1 điều 93 Bộ luật hình sự.

Mười tám ( 18) trường hợp phạm tội giết người trên theo quy định, người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt từ 12 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Việc xử phạt ở mức độ nào là tuỳ thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của từng trường hợp, đồng thời phải cân nhắc, đánh giá nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các Điều 46 và 48 Bộ luật hình sự. Thực tiễn xét xử cho thấy có bị cáo giết người chỉ thuộc một trong mười lăm trường hợp quy định ở khoản 1 Điều 93 nhưng vẫn có thể bị phạt tử hình. Trong khi đó có bị cáo giết người thuộc hai, ba trường hợp quy định ở khoản 1 Điều 93 nhưng chỉ bị xử phạt dưới 20 năm tù. Vì vậy, không nên căn cứ vào số lượng các trường hợp phạm tội mà phải căn cứ vào tính chất nguy hiểm của từng trường hợp để quyết định hình phạt đối với người phạm tội như Điều 3 và Điều 45 Bộ luật hình sự quy định.

Nếu giết người không thuộc một trong 18 trường hợp nêu trên, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 93 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm tù. Đây là trường hợp giết người thông thường, không có các tình tiết tăng nặng định khung tăng nặng. Lẽ ra trường hợp phạm tội này phải là cấu thành cơ bản, nhưng do kỹ thuật và truyền thống lập pháp nên đối với tội giết người nhà làm luật xây dựng cấu thành tăng nặng trước, sau đó mới đến cấu thành cơ bản. Không nên coi khoản 2 Điều 93 Bộ luật hình sự là cấu thành giảm nhẹ như trong một số tội xâm phạm an ninh quốc gia. Bộ luật hình sự năm 1985 khi quy định về tội giết người đã chia thành 4 trường hợp, trong đó có hai trường hợp giết người thuộc cấu thành giảm nhẹ, đó là “giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh” (khoản 3 Điều 101) và “giết con mới đẻ” (khoản 4 Điều 101). Nay Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định hai trường hợp giết người này cùng chung với tội giết người nữa mà quy định thành hai tội riêng.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 93 Bộ luật hình sự thì người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất  định từ một năm đến năm năm theo quy định tại Điều 38 Bộ luật hình sự, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm theo quy định tại Điều 37, Điều 38 Bộ luật hình sự.4 Đây là hình phạt bổ sung kèm theo hình phạt chính Toà án có thể áp dụng trong những trường hợp cần thiết. Đối với tội giết người, nếu Toà án áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội thì không thể áp dụng hình phạt bổ sung vì các hình phạt bổ sung là hình phạt phải thi hành sau khi chấp hành xong hình phạt tù, một người đã bị kết án tử hình thì không có việc chấp hành xong hình phạt tù, nếu áp dụng hình phạt bỏ sung đối với người bị án tử hình sẽ trở thành vô nghĩa. Riêng đối với hình phạt tù chung thân cũng có ý kiến cho rằng, Toà án có thể áp dụng hình phạt bổ sung, vì người bị phạt tù chung thân có thể được giảm thời hạn tù và trên thực tế chưa có người nào bị phạt tù chung thân lại ở tù suốt đời, việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với họ là cần thiết và như vậy mới bảo đảm tính công bằng với người bị phạt tù có thời hạn. Tuy nhiên, hình phạt tù chung thân là hình phạt tù không có thời hạn, nếu Toà án áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội thì khi tuyên án Toà án không thể quyết định cấm cư trú hoặc quản chế người phạm tội mấy năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù, quyết định như vậy xét về góc độ pháp lý là không chính xác, không ai biết được người phạm tội bị phạt tù chung thân đến khi nào thì họ chấp hành xong hình phạt tù. Trừ trường hợp Bộ luật hình sự quy định “người bị phạt tù chung thân nếu được giám hình phạt xuống tù có thời hạn thì Toà án sẽ áp dụng hình phạt bổ sung đối với họ hoặc hình phạt bổ sung nếu áp dụng với người bị phạt tù chung thân thì hình phạt bổ sung sẽ được thi hành nếu người bị kết án được giám hình phạt xuống tù có thời hạn theo quy định của Bộ luật hình sự “ Hiện nay chưa có quy định nào về việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội bị áp dụng hình phạt tù chung thân, nên Toà án không thể áp dụng hình phạt bổ sung đối với họ.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ  NĂM 1999 VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG, SỨC KHOẺ, NHÂN PHẨM, DANH DỰ  CON NGƯỜI

So với Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định thêm 10 Điều ( Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ có 20 Điều ) trong đó có 7 Điều được tách từ các tội danh cũ thành tội danh độc lập (Điều 94 – Tội giết con mới đẻ; Điều 95 – Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh; Điều 99 – Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính; Điều 105 – Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh; Điều 106 – Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; Điều 107 – Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ; Điều 109 – Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính ) có một Điều Bộ luật hình sự năm 1985 quy định ở Chương các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính và một Điều Bộ luật hình sự năm 1985 quy định ở Chương các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình và các tội phạm đối với người chưa thành niên, nay Bộ luật hình sự năm 1999 đưa về Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người ( Điều 116 – Tội dâm ô đối với trẻ em và Điều 120 – Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em); hai Điều quy đinh hai tội danh mới ( Điều 117 – Tội lây truyền HIV cho người khác và Điều 118 – Tội cố ý truyền HIV cho người khác).

Các hình phạt bổ sung trước đây Bộ luật hình sự năm 1985 quy định chung trong một điều luật (Điều 118), nay quy định ngay trong từng điều luật, nếu xét thấy tội phạm đó cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội. Việc quy định này, không chỉ phản ảnh trình độ lập pháp cao hơn, mà còn có tác dụng to lớn trong việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội, tránh được việc bỏ quên hoặc áp dụng không chính xác hình phạt bổ sung đối với người phạm tội. Một số tội trước đây không quy định hình phạt bổ sung này Bộ luật hình sự năm 1999 quy định thêm hình phạt bổ sung, một số hình phạt bỏ sung không còn phù hợp Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người, đồng thời quy định thêm một số hình phạt bổ sung để đáp ứng yêu cầu phòng ngừa laọi tội phạm này.

Các điều luật vẫn quy định lại các tội danh cũ, các tội danh được tách ra hoặc các tội danh mới cũng được bổ sung, sửa đổi đầy đủ hơn, hoàn chỉnh hơn trước.

– Đối với tội giết người (Điều 93), được cấu tạo lại thành ba khoản, tách khoản 3 chuyển thành Điều 95, tách khoản 4 thành Điều 94. Khoản 1 vẫn là những trường hợp phạm tội có những tình tiết định khung tăng nặng, nhưng quy định thêm các tình tiết: “giết trẻ em; giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thấy giáo, cô giáo của mình; để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; thuê giết người hoặc giết người thuê”. Khoản 2 quy định trường hợp giết người không có các tình tiết quy định ở khoản 1, nhưng mức cao nhất của khung hình phạt chỉ có mười lăm năm, còn khoản 3 quy định hình phạt bổ sung.

– Đối với tội giết con mới đẻ (Điều 94), chỉ có một điểm khác là hình phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm ( khoản 4 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985 là một năm).

– Đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95) được cấu tạo thành hai khoản. Khoản 1 có khung hình phạt từ sáu tháng đến ba năm ( khoản 3 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985 từ sáu tháng đến năm năm); khoản 2 là trường hợp giết nhiều người có khung hình phạt từ ba năm đến bảy năm ( quy định này mới, nặng hơn khoản 3 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985).

– Đối với tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 96) cũng được cấu tạo thành hai khoản. Khoản 1 có khung hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm. So với Điều 102 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hình phạt cải tạo không giam giữ nặng hơn, nhưng hình phạt tù thì lại nhẹ hơn ( Điều 102 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định cải tạo không giam giữ đến một năm, hình phạt tù đến ba năm). Khoản 2 quy định trường hợp giết nhiều người có khung hình phạt từ hai năm đến năm năm ( quy định này mới, nặng hơn so với khoản Điều 102 Bộ luật hình sự năm 1985).

– Đối với tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 97) về bản chất tuy không có gì mới so với Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng tên tội danh và cách hành văn được viết lại cho chính xác và phù hợ với thực tiễn xét xử như: thay thuật ngữ làm chết người thay cho thuật ngữ xâm phạm tính mạng. Điều luật được cấu thành ba khoản. Khoản 1 có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm, nặng hơn so với khoản 1 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1985; khoản 2 có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm, cũng năng hơn so với đoạn hai khoản 1 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1985; khoản 3 quy định hình phạt bổ sung.

– Đối với tội vô ý làm chết người (Điều 98), chỉ có một thay đổi nhỏ đó là đoạn hai của khoản 1 Điều 104 được quy định thành khoản 2 Điều 98.

  – Đối với tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính ( Điều 99) là tội được tách từ khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1985 và được cấu tạo thành ba khoản. Khoản 1 có khung hình phạt từ một năm đến sáu năm, nặng hơn đoạn một khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1985; khoản 2 là trường hợp làm chết nhiều người có khung hình phạt từ năm năm đến mười hai năm, nhẹ hơn đoạn hai khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1985; khoản 3 quy định hình phạt bổ sung.

– Đối với tội bức tử (Điều 100) được cấu tạo thành hai khoản. Khoản 1 có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm, nặng hơn Điều 105 Bộ luật hình sự năm 1985.; khoản 2 là trường hợp làm nhiều người tự sát có khung hình phạt từ năm năm đến mười hai năm, là cấu thành mới hoàn toàn so với Điều 105 Bộ luật hình sự năm 1985.

– Đối với tội xúi dục người khác tự sát (Điều 101) được cấu tạo thành hai khoản. Khoản 1 có khung hình phạt từ sáu tháng đến ba năm, nhẹ hơn Điều 106 Bộ luật hình sự năm 1985.; khoản 2 là trường hợp làm nhiều người tự sát có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm, là cấu thành mới hoàn toàn so với Điều 106 Bộ luật hình sự năm 1985.

– Đối với tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng  Điều 102) được cấu tạo thành ba khoản. Về nội dung không có gì mới so với Điều 107 Bộ luật hình sự năm 1985, chủ yếu chỉ viết lại khoản 2 thành hai điểm a và b. Về hình phạt cải tạo không giam giữ quy định ở khoản 1 có mức tối đa là hai năm; khoản 3 quy định hình phạt bổ sung.

– Đối với tội đe doạ giết người (Điều 103) được cấu tạo lại thành hai khoản và bổ sung nhiều dấu hiệu mới vào cấu thành tăng nặng. Khoản 1 có khung hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến bai  năm, nặng hơn Điều 108 Bộ luật hình sự năm 1985; khoản 2 là cấu thành tăng nặng, hoàn toàn mới so với Điều 108 Bộ luật hình sự năm 1985 vơí các tình tiết định khung như: đối với nhiều người;đối với người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; đối với trẻ em và để che giấu hoặc trốn tránh việc xử lý về một tội phạm khác.

– Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104) được cấu tạo lại theo hướng: Lấy tỷ lệ thương tật làm căn cứ xác định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Tuy nhiên, do yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống loại tội phạm này nên nhà làm luật quy định thêm một số trường hợp tuy hành vi cố ý gây thương tích cho người khác có tỷ lệ thương tật dưới mức quy định vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Các trường hợp phạm tội này cũng là dấu hiệu định khung hình phạt. Trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự, có nhiều trường hợp tương tự như các tình tiết định khung hình phạt của tội giết người, có trường hợp đã được quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985, có trường hợp thực tiễn xét xử đã được tổng kết và hướng dẫn.

Có thể tóm tắt các dấu hiệu cơ bản của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau:

Nếu cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự;

Nếu tỷ lệ thương tật của người bị hại dưới 11% thì phải thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự. Trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 có các trường hợp sau đây là quy định mới: “dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người; gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người; đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; có tổ chức; trong thời gian đạng bị tạm giữ,tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê”.

Nếu tỷ lệ thương tật của người bị hại từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến  31% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù.

Nếu tỷ lệ thương tật của người bị hại từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người, hoặc từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ năm năm đến mười lăm năm, nhẹ hơn so với khoản 3 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985.

Nếu dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 104 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân . Đây là quy định mới năng hơn so với Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985.

– Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ( Điều 105), là tội phạm được tách từ khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 và được cấu tạo lại cho phù hợp với thực tiẽn xét xử và các hướng dẫn của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở trung ương. Khoản 1 quy định tỷ lệ thương tật của người bị hại phải từ 31% đến 60% thì người có hành vi có ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự ; điều văn của điều luật quy định tương tự như trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Cấu tạo thêm khoản 2 với hai tình tiết định khung là “đối với nhiều người và gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người, hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác”, có khung hình phạt từ một năm đến năm năm.

– Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 106), là tội phạm được tách từ khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 và cũng được cấu tạo lại cho phù hợp với thực tiẽn xét xử và các hướng dẫn của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở trung ương. Khoản 1 quy định tỷ lệ thương tật của người bị hại phải từ 31% trở lên hoặc dẫn đến chết người. Cấu tạo thêm khoản 2 với tình tiết định khung là “phạm tội đối với nhiều người”, có khung hình phạt từ một năm đến ba năm.

– Đối với tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 107) là tội phạm được tách ra từ khoản 2 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1985 và cũng được cấu tạo lại cho phù hợp với thực tiẽn xét xử và các hướng dẫn của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở trung ương. Khoản 1 quy định tỷ lệ thương tật của người bị hại phải từ 31% trở lên thì người phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Cấu tạo thêm khoản 2 với tình tiết định khung là “phạm tội đối với nhiều người” có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù và khoản 3 quy định hình phạt bổ sung.

– Đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 108 ) quy định cụ thể tỷ lệ thương tật là từ 31% trở lên thay cho dấu hiệu thương tích nặng, tổn hại nặng và tăng mức hình phạt cải tạo không giam giữ từ một năm lên hai năm mà Điều 110 Bộ luật hình sự năm 1985 đã quy định, đồng thời quy định thêm khoản 2 về hình phạt bổ sung.

– Đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 109) là tội phạm được tách từ khoản 2 Điều 110 Bộ luật hình sự năm 1985 cũng được quy định cụ thể tỷ lệ thương tật là từ 31% trở lên thay cho dấu hiệu thương tích nặng, tổn hại nặng và mức cao nhất của khung hình phạt là ba năm nhẹ hơn khoản 2 Điều 110 Bộ luật hình sự năm 1985, đồng thời quy định thêm khoản 2 về hình phạt bổ sung.

– Đối với tội hành hạ người khác (Điều 110) quy định thêm khoản hai với hai tình tiết định khung là “đối với người già, trẻ em, phụ nữ có thai hoặc người tàn tật và đối với nhiều người”.

– Đối với tội hiếp dâm (Điều 111), bỏ tình tiết “có nhiều tình tiết…”; quy định thêm các dấu hiệu trong cấu thành, đó là “đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân”; quy định thêm một số tình tiết định khung mới, đó là “đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc; đối với nhiều người; gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% ( khoản 2); gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên; biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội  (khoản 3).

– Đối với tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112 ), quy định thêm một số tình tiết định khung hình phạt như: ” gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% (khoản 2); đối với nhiều người; ); gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội  (khoản 3). Về hình phạt, mức cao nhất không có gì mới nhưng mức thấp nhất ở khoản 2 là mười hai năm, ở khoản 3 là tù hai mươi năm, ở khoản 4 là mười hai năm.

– Đối với tội cưỡng dâm (Điều 113) bỏ tình tiết “có nhiều tình tiết…”;  quy định thêm một số tình tiết định khung hình phạt như: ” gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; cưỡng dâm nhiều người; (khoản 2); gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội  (khoản 3). Về hình phạt, mức cao nhất không có gì mới nhưng mức thấp nhất ở khoản 2 là ba năm, ở khoản 3 là bảy năm. quy định thêm khoản 4 là trường hợp cưỡng dâm người chưa thành niên. ( được tách từ khoản 1 Điều 113a Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội cưỡng dâm người chưa thành niên)

– Đối với tội cưỡng dâm trẻ em ( Điều 114). Tội phạm này được tách từ tội cưỡng dâm người chưa thành niên quy định tại Điều 113a Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, được cấu tạo lại theo hướng nặng hơn trường hợp cưỡng dâm người chưa thành niên, bỏ tình tiết “có nhiều tình tiết…”;  thêm một số tình tiết định khung mới. Khoản 1 có khung hình phạt từ năm năm đến mười năm; khoản 2 thay tình tiết “gây tổn hại nặng cho sức khoẻ của nạn nhân” bằng tình tiết ” gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;  khoản 3 thêm tình tiết “đối với nhiều người; biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội” và thay tình tiết “gây tổn hại rất nặng cho sức khỏe của nạn nhân” bằng tình tiết ” gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên”; khoản 4 quy định hình phạt bổ sung.

– Đối với tội giao cấu với trẻ em ( Điều 115) bỏ tình tiết “có nhiều tình tiết…”; thêm một số tình tiết định khung hình phạt; ở khoản 2 thêm tình tiết “đối với nhiều người” và thay tình tiết “gây tổn hại nặng cho sức khoẻ của nạn nhân” bằng tình tiết ” gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; ở khoản 3 thêm tình tiết ” biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội và gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên”.

– Đối với tội dâm ô đối với trẻ em ( Điều 116) bỏ tình tiết “có nhiều tình tiết…”; thêm tình tiết định khung ở khoản 3 là “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” và thêm khoản 4 quy định hình phạt bổ sung.

– Đối với tội lây truyền HIV cho người khác ( Điều 117) và tội cố ý truyền HIV cho người khác ( Điều 118) là hai tội danh mới.

– Đối với tội mua bán phụ nữ ( Điều 119) thêm các tình tình tiết định khung, đó là “mua bán phụ nữ vì mục đích mại dâm; có tính chất chuyên nghiệp; mua bán nhiều lần”; bỏ tình tiết “tái phạm nguy hiểm” quy định thêm khoản 4 về hình phạt bổ sung.

– Đối với tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em ( Điều 120) quy định thêm hành vi chiếm đoạt trẻ em và trong điều văn của điều luật thêm cụm từ dưới bất kỳ hình thức nào cho phù hợp với thực tiễn đáu tranh phòng chống tội phạm này trong thời gian vừa qua. So với Điều 149 Bộ luật hình sự năm 1985 thì tội phạm này nghiêm khắc hơn. Khoản 1 có khung hình phạt từ ba năm đến mười năm, khoản 2 có khung hình phạt từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân, đồng thời quy định thêm các tình tiết định khung hình phạt như: Vì động cơ đê hèn; để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo; để sử dụng vào mục đích mại dâm. Khoản 3 quy định hình phạt bổ sung.

– Đối với tội làm nhục người khác ( Điều 121) quy định thêm các tình tiết định khung hình phạt như: Phạm tội nhiều lần; đối với nhiều người; đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình và quy định thêm khoản 3 về hình phạt bổ sung.

– Đối với tội Vu khống ( Điều 122) được viết lại theo hướng quy định các hành vi ngay trong cấu thành cơ bản, đồng thời cụ thể hoá các trường hợp phạm tội theo khoản 2 của điều luật như: Có tổ chức; lợi dụng chức vụ quyền hạn; đối với nhiều người; đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình; đối với người thi hành công vụ; vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Khoản 3 quy định hình phạt bổ sung.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI LÀM CHẾT NGƯỜI TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ (ĐIỀU 97)

Làm chết người trong khi thi hành công vụ là hành vi dùng vũ lực ngoài những trường hợp được pháp luật cho phép trong khi thi hành công vụ dẫn đến chết người

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

  1. Đối với người phạm tội

Người phạm tội (chủ thể) phải là người đang thi hành một công vụ (nhiệm vụ công). Công vụ này có thể là đương nhiên do nghề nghiệp hoặc do công tác quy định như: cán bộ chiến sĩ công an nhân dân, bộ đội biên phòng, kiểm lâm, hải quan, bảo vệ v.v…

Ngoài ra, cũng có thể được coi là chủ thể của tội phạm này nếu những người tuy không có nhiệm vụ, nhưng đã tham gia đấu tranh chống những hành vi xâm phạm đến lợi ích Nhà nước hoặc lợi ích hợp pháp của công dân. Ví dụ: T là giáo viên, trên đường đến trường dạy học, thì gặp một tổ bảo vệ đang đuổi bắt một kẻ trộm. Người tổ trưởng đưa cho T khẩu súng CKC đã lắp đạn sẵn vì biết T đã có một thời gian phục vụ trong quân đội. Nhận được súng, T nhằm vào kẻ trộm bắn liền hai phát, trong khi chưa hô đứng lại, chưa bắn cảnh cáo làm tên trộm chết tại chỗ.

Khi xác định tư cách chủ thể của tội phạm này, phải gắn liền hành vi xâm phạm tính mạng của người phạm tội  với nhiệm vụ mà họ được giao. Toàn bộ hành vi phạm tội và những yếu tố khác của tội phạm này đều liên quan đến tư cách chủ thể.

Hành vi dùng vũ lực xâm phạm tính mạng của người khác trước hết là hành vi sử dụng vũ khí ngoài các trường hợp pháp luật cho phép.

Vũ khí, theo Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (ban hành theo Nghị định số 47/CP, ngày 12-8-1996 của Chính phủ) bao gồm: vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao, súng săn và vũ khí thô sơ.

Vũ khí quân dụng là các loại súng trường, súng ngắn, súng liên thanh; cá loại pháo, dàn phóng, bệ phóng tên lửa, súng cối, hoá chất độc và nguồn phóng xạ, các loại đạn; bom, mìn, lựu đạn, ngư lôi, thuỷ lôi, vật liệu nổ quân dụng, hoả cụ và vũ khí khác dùng cho mục đích quốc phòng –  an ninh.

Vũ khí thể thao là các laoij súng trường, súng ngắn thể thao chuyên dùng các cỡ; các loại súng hơi, các loại vũ khí khác dùng trong luyện tập, thi đấu thể thao và các loại đạn dùng cho các loại súng thể thao nói trên.

Vũ khí thô sơ là dao găm, kiếm, giáo, mác, đinh ba, đại đao, mã tấu, quả đấm bằng kim loại hoặc chất cứng, cung, nỏ, côn các loại và các loại khác do Bộ Nội vụ quy định.

Người sử dụng các loại vũ khí thuộc loại phải có giấy phép sử dụng hoặc được cơ quan có thẩm quyền giao cho sử dụng mà xâm phạm tính mạng, sức khoẻ người khác trong khi thi hành công vụ mới thuộc trường hợp phạm tội quy định tại Điều 103 Bộ luật hình sự. Nếu việc sử dụng là trái phép thì không được coi là phạm tội do thi hành công vụ. Ví dụ: Một người nhặt được một quả lựu đạn, nhưng không nộp cho cơ quan nhà nước. Ban đêm nghe mọi người hô bắt trộm, người này đã lấy lựu đạn cùng mọi người đuổi kẻ trộm rồi rút chốt lựu đạn ném về phía kẻ trộm. Lựu đạn nổ làm kẻ trộm chết và một số người bị thương.

Tuy nhiên, trong một số trường hợp người không được giao vũ khí và cũng không có quyền sử dụng vũ khí, nhưng trong lúc làm nhiệm vụ, hoàn cảnh cụ thể buộc họ phải sử dụng vũ khí thì thực tiễn xét xử cũng chấp nhận họ phạm tội trong khi thi hành công vụ. Ví dụ: N và C là anh em ruột, C là sĩ quan quân đội về nghỉ phép có mang khẩu súng K54. Vào đêm giao thừa, N đem 20 triệu đến xã bên trả nợ. N rủ C cùng đi vì sợ cướp mà C là người có súng. Khi ra khỏi nhà 100 m thì gặp bạn của C đến chơi. C bảo N đi một mình còn C quay về tiếp bạn. Thấy vậy N hỏi C cho mượn súng để phòng thân. C chàn chừ giây lát nhưng vẫn lấy súng cho N mượn vì C biết N đã từng chiến đấu ở chiến trường và cũng là sĩ quan quân đội nay phục viên. Sau khi trả nợ xong, trên đường về nhà , N gặp tổ bảo vệ bắt được kẻ trộm đang đưa về Uỷ ban nhân dân xã để giải quyết; lợi dụng việc N nói chuyện với tổ bảo vệ, kẻ gian bỏ chạy. Thấy tổ bảo vệ không ai có súng, N liền rút súng cùng tổ bảo vệ đuổi theo kẻ trộm; khi tới gần N chưa bắn cảnh cáo mà chĩa thẳng súng vào kẻ gian bắn liền hai phát làm cho tên này chết tại chỗ.

Ngoài hành vi sử dụng vũ khí, còn có nhưng người không được giao vũ khí và trong khi thi hành công vụ họ cũng không sử dụng vũ khí mà chỉ sử dụng những công cụ cầm tay như gậy gộc, thậm chí chỉ dùng chân tay. Nhưng họ được giao nhiệm vụ hoặc tự nguyện tham gia  cùng với người làm nhiệm vụ mà gây chết người, gây thương tích cho người khác thì cũng được coi là phạm tội trong khi thi hành công vụ.

Người thi hành công vụ sử dụng vũ khí hoặc vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép thì mới là hành vi phạm tội. Nếu họ đã thực hiện đầy đủ những quy định của pháp luật vê việc sử dụng vũ khí trong khi làm nhiệm vụ mà vẫn gây chết người thì không phải là phạm tội.

Việc xác định thế nào là sử dụng vũ khí ngoài những trường hợp pháp luật cho phép căn cứ vào điểm 1 phần III nghị định số 94 HĐBT ngày 2-7-1984 của Hội đồng Bộ trưởng. Nội dung của nghị định này là:

Trong khi thi hành công vụ bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, người dược giao sử dụng vụ khí chỉ được nổ súng vào các đối tượng sau:

Những kẻ đang dùng vũ lực gây bạo loạn, đang phá hoại, đang hành hung cán bộ, chiến sĩ bảo vệ, đang tấn công đối tượng hoặc mục tiêu bảo vệ. Những kẻ đang phá trại giam, cướp phạm nhân, những phạm nhân đang nổi loạn, cướp vũ khí, phá trại giam hoặc dùng vũ lực uy hiếp tính mạng các cán bộ chiến sĩ làm nhiệm vụ quản lý, canh gác, dẫn giải tội phạm; những người phạm tội  nguy hiểm đang bị giữ, đang bị dẫn giải hoặc đang có lệnh bắt mà chạy trốn. Những kẻ không tuân lệnh của cán bộ, chiến sĩ đang tiến hành nhiệm vụ tuần tra, canh gác, khám, lại lợi dụng vũ lực chống lại, uy hiếp nghiêm trong tính mạng cán bộ thừa hành nhiệm vụ hoặc tính mạng của nhân dân. Bọn lưu manh, côn đồ đang giết người, hiếp dâm, gay rối trật tự rất nghiêm trọng đang dùng vũ lực cướp phá tài sản xã hội chủ nghĩa hoặc tài sản của công dân. Người điều khiển phương tiện không tuân lệnh, cố tình chạy trốn khi người kiểm soát phương tiện giao thông vận tải ra lệnh và đã biết rõ trên phương tiện có vũ khí hoặc tài liệu phản động, tài liệu bí mật quốc gia, có tài sản đặc biệt quý giá của Nhà nước; hoặc có bọn phạm tội, bọn lưu manh, côn đồ đang sử dụng phương tiện để bắt đối tượng.

Trước khi nổ súng bắn chết các đối tượng trên, người thi hành công vụ phải ra lệnh hoặc bắn cảnh cáo mà đối tượng không chấp hành, thì được coi là không có tội (trừ trường hợp bắn người điều khiển phương tiện). Ví dụ:

Khoảng 14 giờ ngày 16-10-1999 tổ tuần tra kiểm soát lâm sản Trộ Mợng thuộc Hạt kiểm lâm Phong Nha, do anh Hoàng Minh Huệ làm Trạm trưởng cùng các anh Lê Ngọc Thương, Vương Công Đến, Phạm Văn Sáu, Trần Xuân Viết, Trần Văn Trị đều là nhân viên hợp đồng, bảo vệ rừng đi tuần tra kiểm soát dọc sông Troóc. Khi đến bến đò ông Hành thuộc thôn Bàu Sen xã Phúc Trạch, huyện Bố Trạch, tổ tuần tra phát hiện 10 phiến gỗ Huê, đang nằm dưới nước; anh Hoàng Minh Huệ thông báo: “Ai là chủ gỗ thì đến nhận”. Nhưng không có ai đến nhận, nên anh Huệ cho số nhân viên cùng đi bốc 10 phiến gỗ lên thuyền chở về kho của trạm kiểm lâm Trộ Mợng.

Khoảng 16 giờ cùng ngày, trong lúc đang lập biên bản tạm giữ, thì Trần Văn Thắng ở xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, đi trên chiếc thuyền máy do Nguyễn Văn Thắng ở xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch điều khiển chạy đến Trạm kiểm lâm Trộ Mợng. Khi đến nơi, Trần Văn Thắng một tay cầm dao, một tay cầm que sắt, thấy anh Huệ đang đứng ở sân, Thắng chửi: “Đ. mẹ ! răng mi bắt gỗ tao”. Vừa chửi, Thắng vừa dùng dao chém vào đầu anh Huệ, anh Huệ đưa tay lên đỡ chúng vào phía ngoài cẳng tay phải, Thắng lại dùng que sắt đánh vào đầu, bả vai trái của anh Huệ. Vừa đánh, Thắng vừa đe doạ  buộc số nhân viên kiểm lâm hợp đồng bảo vệ của trạm, bốc gỗ từ trong kho xuống thuyền, nếu không Thắng sẽ chém. Số nhân viên hợp đồng do sợ, đã cùng Nguyễn Văn Thắng bốc 10 phién gỗ Huê từ trong kho xuống bến đò cho Trần Văn Thắng. Lúc này anh Hoàng Minh Huệ đi đến cửa phòng ngủ, băng lại vết thương ở tay. Trần Văn Thắng chạy đến, dí mũi dao vào phía trên ngực trái của anh Huệ; anh Huệ vùng ra, đi xuống thuyền của trạm đậu ở dưới sông lấy khẩu súng AK số 0255 giấy phép sử dụng số 00090 cấp ngày 19/4/1999. Súng đã lắp sẵn hộp tiếp đạn; anh Huệ xách súng đi lên trạm, sát phía ngoài sân, kẹp súng vào giữa hai chân, dùng tay phải mở khoá an toàn lên đạn, kẹp súng vào nách phải, giơ súng lên trời bóp cò súng nổ 3 phát cảnh cáo, nhưng Trần Văn Thắng vẫn dùng que sắt đập phá tài sản trong Trạm. Thấy vậy, anh Huệ cầm súng đi đến cách Thắng khoảng 3m, yêu cầu Thắng bỏ dao, que sắt xuống, không được đập phá, chấm dứt việc cướp gỗ, nhưng Thắng không những không chấp hành, mà tiếp tục cầm dao đòi giết anh Huệ. Lúc này tay trái của anh Huệ đang bị thương, nên anh Huệ dùng tay phải kẹp súng vào nách hạ nòng súng hướng vào chân Thắng bóp cò, đạn nổ 3 phát, một viên trúng vào đầu gối chân phải của Thắng đạn hướng từ trước ra sau, còn 2 viên trúng vào vùng ngang lưng, đạn hướng từ sau ra trước . Sau 3 tiếng nổ thấy Thắng bị ngã xuống đất, anh Huệ gọi người đưa Thắng xuống bến thuyền đưa vào cấp cứu tại Bệnh viện Việt Nam – Cu Ba Đồng Hới, đến ngày 18/10/1999 Trần Văn Thắng chết.

 Anh Hoàng Minh Huệ sau khi bị chém, bị đánh vào đầu vào cánh tay phải điều trị tại Bệnh viện tỉnh Quảng Trị, kết quả giám định anh Hoàng Minh Huệ có tỷ lệ thương tật là 4% tạm thời.

Việc anh Hoàng Minh Huệ nổ súng bắn chết Trần Văn Thắng được coi là không phạm tội, vì Thắng đang có hành vi dùng vũ lực uy hiếp cán bộ kiểm lâm trong đó có anh Huệ, buộc anh Huệ và các cán bộ kiểm lâm phải đẻ cho Thắng cướp đi những tấm gỗ Huê; anh Huệ đã bắn cảnh cáo và ra lệnh cho Thắng chấm dứt hành vi cướp phá tài sản và  uy hiếp tính mạng sức khoẻ của chính bản thân anh Huệ và các cán bộ kiểm lâm, nhưng Thắng không tuân theo mà cong hung hăng hơn, buộc anh Huệ phải nổ súng bắn vào người Thắng để ngăn chặn.

Nếu chưa làm thủ tục mà bắn chết ngay đối tượng thì coi là phạm tội trong khi thi hành công vụ. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào, người thi hành công vụ cũng phải ra lệnh hoặc bắn cảnh cáo trước rồi mới được bắn vào đối tượng. Có những trường hợp đặc biệt, cấp bách không có biện pháp nào khác để ngăn chặn ngay đối tượng đang thực hiện hành vi phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng hoặc để thực hiện quyền tự vệ chính đáng của mính, thì được nổ súng ngay vào đối tượng, nếu đối tượng bị chết cũng được coi là không phạm tội. Ví dụ: một nhân viên bảo vệ kho vật tư Nhà nước bị một số tên đang dùng súng uy hiếp thủ kho để cướp tài sản, người bảo vệ này đã bắn chết ngay tên có súng mà không cần phải ra lệnh hoặc  bắn cảnh cáo trước.

Nghị định số 94/HĐBT ngày 2-7-1984 của Hội đồng Bộ trưởng chỉ hướng dẫn các trường hợp nổ súng của người đang thi hành công vụ, còn đối với các trường hợp sử dụng vũ khí khác hoặc dùng vũ lực lại phải căn cứ vào các Thông tư, Chỉ thị của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở Trung ương như: Chỉ thị số 07 ngày 22-12-1983 của Toà án nhân dân tối cao; nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5-1-1986, Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29-11-1986 và Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 16-11-1988 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cùng với các báo cáo tổng kết hoặc sơ kết hàng năm về công tác xét xử đối với loại tội phạm này. Từ đó mà xác định tính trái pháp luật của việc sử dụng vũ khí hoặc vũ lực được chính xác hơn.

Người phạm tội thực hiện hành vi xâm phạm đến tính mạng của người khác trong khi thi hành công vụ là do cố ý hoặc vô ý. Chính vì vậy, tội danh của tội này chỉ ghi “làm chết người”, mà không ghi giết người trong khi thi hành công vụ. Tuy nhiên trường hợp vô ý làm chết người trong khi thi hành công vụ chỉ xẩy ra trong trường hợp người bị chết không có hành vi xâm phạm đến các lợi ích cần bảo vệ à họ chỉ là người đi cùng với người có hành vi xâm phạm đến các lợi ích cần bảo vệ, người phạm tội không nhằm vào họ nhưng do dùng vũ lực với người có hành vi xâm phạm nên có thể gây ra cái chết cho người khác. Cũng chính vì vậy mà có ý kiến cho rằng, nếu coi hành vi vô ý làm chết người trong khi thi hành công vụ cũng giống như hành vi cố ý gây chết người trong khi thi hành công vụ và cùng quy định trong một điều luật là không hợp lý, mà lẽ ra phải quy định thành hai tội: Tội “xâm phạm tính mạng người khác trong khi thi hành công vụ” và tội “vô ý làm chết người trong khi thi hành công vụ” và hình phạt đối với tội vô ý làm chết người trong khi thi hành công vụ phải nhẹ hơn tội xâm phạm tính mạng người khác trong khi thi hành công vụ.

  1. Về phía nạn nhân

Nạn nhân ( người bị hại ) là những người đang có hành vi xâm phạm đến lợi ích mà người phạm tội  có nhiệm vụ bảo vệ. Hành vi xâm phạm đến các lợi ích đó phải là hành vi trái pháp luật. Ví dụ: Một người vừa trộm cắp xe đạp đang chạy trốn; một lái xe chở hàng lậu không chịu dừng xe để kiểm tra; một người không chấp hành lệnh khám nhà, khám người, khám đồ vật của cơ quan điều tra v.v… Tuy nhiên, cũng có trường hợp nạn nhân không có hành vi trái pháp luật, nhưng họ bị chết hoặc bị thương là vì hành vi của người đang có hành vi xâm phạm đến lợi ích cần được bảo vệ. Ví dụ: một người đi nhờ xe chở hàng lậu, người lái xe đã cố tình không chấp hành lệnh kiểm tra mà lái xe chạy trốn, buộc người làm nhiệm vụ phải nổ súng buộc xe dừng lại, nhưng đạn trúng người đi nhờ xe làm người này bị chết.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Làm chết một người trong khi thi hành công vụ ( khoản 1 Điều 97)

Nếu người thi hành công vụ do sử dụng vũ khí hoặc vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép mà chỉ làm chết một người thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 97 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ 2 năm đến 7 năm tù là tội phạm nghiêm trọng . So với khoản 1 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này thì khoản 1 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn, do đó Toà án chỉ được áp dụng khoản 1 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với hành vi được thực hiện từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 , nếu hành vi làm chết người trong khi thi hành công vụ được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 thì Toà án phải áp dụng khoản 1 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1985 để xét xử đối với người phạm tội.

Nếu làm chết một người và còn làm bị thương một người hoặc làm bị thương nhiều người có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên thì tuỳ trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 107 Bộ luật hình sự. Ví dụ: Trần văn T là đội viên đội tuần tra bảo vệ Cảng. Trong khi đi tuần tra, T phát hiện có hai thanh niên đang nấp sau một công-tơ-nơ hàng. T thấy vậy hô: “ai ! làm gì trong đó “. Hai thanh niên nghe tiếng hô liền bỏ chạy; T dùng súng được trang bị bắn về phía hai thanh niên khi chưa hô đứng lại, bắn cảnh cáo làm một người chết và một người bị thương với tỷ lệ thương tật 40%. Hành vi phạm tội của Trần Văn T bị tuy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội : tội làm chết người trong khi thi hành công vụ theo khoản 1 Điều 97 Bộ luật hình sự và tội gây thương tích cho người khác trong khi thi hành công vụ theo khoản 1 Điều 107 Bộ luật hình sự.

  1. Làm chết nhiều người trong khi thi hành công vụ ( khoản 2 Điều 97)

Làm chết nhiều người trong khi thi hành công vụ là trường hợp người thi hành công vụ do sử dụng vũ khí hoặc vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép mà làm chết hai người trở lên.

Nếu có nhiều người chết, nhưng chỉ có một người chết do hành vi phạm tội trong khi thi hành công vụ, còn những người khác không thuộc trường hợp trong khi thi hành công vụ thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm chết người trong khi thi hành công vụ theo khoản 1 Điều 97, còn đối với người khác bị chết tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà nnpt có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về những tội danh tương ứng với hành vi gây chết người. Ví dụ: Trần Tuấn A là dân quân xã K được giao nhiệm vụ dẫn giải hai đối tượng là Hoàng N và Bùi Văn T bị bắt quả tang về tội trộm cắp tài sản về Công an huyện. Trên đường dẫn giải, N và T tìm cách bỏ trốn, nên A đã bắn chết N khi chưa làm đầy đủ thủ tục như hô đứng lại, bắn cảnh cáo. T thấy N bị bắn chết tại chỗ, nên sợ hãi quỳ xuống xin A tha cho, nhưng vì đang bực tức nên A đã dùng báng súng thúc nhiều cái vào bụng T làm cho T  ngất xỉu, khi đưa vào bệnh viện cấp cứu thì T bị chết do vỡ lá lách. Hành vi phạm tội của Trần Tuấn A phạm hai tội : tội làm chết người ( chết N ) trong khi thi hành công vụ theo khoản 1 Điều 97 và tội giết người theo Điều 93 Bộ luật hình sự.

Những người bị chết đều phải là những người  do hành vi của một người trong khi thi hành công vụ gây ra. Nếu do hành vi của nhiều người trong khi thi hành công vụ và hành vi của mỗi người chỉ gây ra cái chết cho một người thì không thuộc trường hợp phạm tội này mà vẫn thuộc trường hợp quy định tại  khoản 1 Điều 97 Bộ luật hình sự .Ví dụ: Lê Tiến N và Phạm Bá H đều là đội viên đội chống buôn lậu, được giao nhiệm vụ tuần tra chặn bắt thuốc lá ngoại. Khi phát hiện có một ghe chở thuốc 555 ngoại qua trạm kiểm soát, N  cầm một khẩu súng AR15, còn H cầm theo khẩu súng CKC và dùng xuồng máy đuổi theo ghe chở hàng lậu, khi gần tới nơi, N và H nổ súng về phía xuồng làm hai người chết. Sau khi sự việc xảy ra, xác định một người chết vì trúng đạn AR15 và một người chết vì trúng đạn CKC. Trong trường hợp này, cả N và H đều phạm tội làm chết người trong khi thi hành công vụ, nhưng mỗi người làm chết một người nên chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 97 Bộ luật hình sự.

  1. Làm chết người trong khi thi hành công vụ trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác ( khoản 2 Điều 97)

Trong khi thi hành công vụ mà làm chết hai người tở lên là một trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Ngoài ra có thể người phạm tội chỉ làm chết một người, nhưng lại gây ra hậu quả rất nghiêm trọng khác mà hậu quả đó không phải là dấu hiệu cấu thành các tội phạm khác hoặc tuy đã cấu thành tội phạm khác nhưng xem xét một cách toàn diện thì trường hợp phạm tội này phải coi là đặc biệt nghiêm trọng.

Việc đánh giá hành vi phạm tội làm chết người trong khi thi hành công vụ như thế nào là thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng là một việc không dễ dàng, vì điều đó còn phụ thuộc vào vụ án cụ thể xảy ra trong một hoàn cảnh cụ thể, ở một địa phương cụ thể, không thể có một công thức chung cho tất cả các trường hợp phạm tội.

Tình tiết phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác được Quốc hội bổ sung Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1985 vào ngày 12-8-1991, từ đó đến nay chưa có cơ quan có thẩm quyền nào giải thích hoặc hướng dẫn như thế nào là thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác và trong thực tiễn xét xử cũng chưa có Toà án nào áp dụng tình tiết này khi xét xử hành vi làm chết người trong khi thi hành công vụ. Nhưng không vì thế mà cho rằng, nhà làm luật quy định tình tiết này là không cần thiết, không phù hợp với thực tiễn xét xử, vì về lý thuyết vẫn có thể có trường hợp trong khi thi hành công vụ người phạm tội chỉ làm chết một người nhưng còn gây những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác như: Do hành vi bắn chết người của một chiễn sỹ cảnh sát ngoài trường hợp pháp luật cho phép nên làm cho quần chúng nhân dân bất bình, lại bị kẻ xấu kích động nên đã tụ tập hàng nghìn người đưa xác nạn nhân đến trụ sở các cơ quan Đảng và Nhà nước biểu tình đòi máu phải trả máu gây mất trật tự công cộng nhiều giờ thậm chí nhiều ngày, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt chính trị xã hội…

ĐƯỜNG LỐI XỬ LÝ ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI LÀM CHẾT NGƯỜI TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ

Người phạm tội làm chết một người trong khi thi hành công vụ bị tuy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 97 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù, là tội phạm nghiêm trọng. So với khoản 1 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1985 thì trường hợp phạm tội này nặng hơn, do đó chỉ những người thực hiện hành vi từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị áp dụng khoản 1 Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1999 để xét xử, còn hành vi phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 thì Toà án áp dụng khoản 1 Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1985 đối với người phạm tội. Trường hợp người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, thì Toà án có thể áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dưới hai năm tù, nhưng không được dưới 3 tháng tù hoặc chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.

Người phạm tội làm chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác trong khi thi hành công vụ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 97 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm tù. Trường hợp người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, thì Toà án có thể áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dưới bảy năm tù, nhưng không được dưới hai năm tù.

Người phạm tội làm chết người trong khi thi hành công vụ còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù hoặc từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo.

Việc xử lý hành vi làm chết người trong khi thi hành công vụ, phải xuất phát từ yêu cầu đấu tranh chống tội phạm, đồng thời ngăn ngừa, hạn chế thái độ hách dịch, bừa ẩu coi thường tính mạng nhân dân của một số cán bộ nhân viên nhà nước được giao vũ khí khi làm nhiệm vụ. Qua thực tiễn xét xử Toà án nhân dân tối cao đã đề ra đường lối xét xử đối với loại tội phạm này như sau:

Việc xét xử các hành vi này, ngoài việc trừng trị người phạm tội  còn có một mục đích là nhằm bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản của mọi công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước đồng thời chống mọi biểu hiện coi thường mệnh lệnh đúng đắn của người có chức vụ quyền hạn đang thi hành công vụ, phản ứng tiêu cực đối với những người đấu tranh ngăn ngừa tội phạm, bảo đảm sự hoạt động đúng đán của người có chức vụ quyền hạn, nhưng chống thái độ hách dịch, coi thường quần chúng, tệ quan liêu mệnh lệnh, thậm chí coi thường tính mạng của người khác (Chỉ thị số 07 ngày 22-12-1983 của Toà án nhân dân tối cao).

PHÂN BIỆT VỚI MỘT SỐ TỘI PHẠM KHÁC

  1. Với tội giết người ở Điều 93 Bộ luật hình sự

Giữa hai tội này, dấu hiệu cơ bản để phân biệt là tư cách pháp lý của chủ thể tội phạm . Chỉ những người trong khi thi hành công vụ và vì nhiệm vụ được giao mà làm chết người thì mới thuộc trường hợp phạm tội quy định tại Điều 97 Bộ luật hình sự. Nếu lợi dụng nhiệm vụ được giao mà giết người thì phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 93 Bộ luật hình sự.

Trường hợp trong khi thi hành công vụ, nhưng không vì nhiệm vụ và việc làm chết người không liên quan gì đến nhiệm vụ đang thi hành thì cũng không coi là làm chết người trong khi thi hành công vụ . Ví dụ: Mọt tổng giám đốc liên hiệp các xí nghiệp chè được giao một khẩu súng K54 để phòng thân, vì sau ngày giải phóng miền Nam tình hình an ninh ở một số nơi còn phức tạp. Khi đi kiểm tra kỹ thuật trồng chè thấy trong khu vực trồng chè của nông trường có nhà dân ở, nên vị Tổng giám đốc này cho rằng, dân chiếm đất của nông trường, hai bên dẫn đến cãi nhau, vị Tỏng giám đốc bực tức đã nổ súng vào một người trong nhà.

Cũng không coi là làm chết người trong khi thi hành công vụ nếu như người đang có hành vi vi phạm pháp luật đã được ngăn chặn, nhưng vì lý do nào đó mà người thi hành công vụ lại làm họ chết. Ví dụ: Mọt nhân viên bảo vệ bắt được một người vào kho vật tư; người bảo vệ đã trói người bị tình nghi là trộm rồi dùng báng súng thúc và người buộc họ phải khai vào kho lấy gì; người này cố tình không khai, nên người bảo vệ bực tức đánh người này chết.

  1. Với tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

Nếu theo quy dịnh tại Điều 15 Bộ luật hình sự về phòng vệ chính đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì tội làm chết người trong khi thi hành công vụ chỉ là một dạng của tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng vì, người phạm tội trong khi thi hành công vụ cũng do bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bỏa vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà gây thiệt hại đến tính mạng của người có hành vi xâm phạm. Luật hình sự của một số nước trên thế giới coi hành vi xâm phạm tính mạng của người khác trong khi thi hành công vụ là trường hợp phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Ví dụ: Điều 109 Bộ luật hình sự  Liên bang Nga7. ở nước ta do yêu cầu của đấu tranh với những hành vi sử dụng vũ lực bừa ẩu của người thi hành công vụ nên quy định thành một tội riêng.

Tuy nhiên, theo Bộ luật hình sự nước ta, dấu hiệu của tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và tội làm chết người trong khi thi hành công vụ theo Bộ luật hình sự năm 1999 cũng có những điểm khác nhau:

Người phạm tội trong khi thi hành công vụ trong một số trường hợp không có hành vi chống trả người có hành vi xâm phạm vì người bị hại không có hành vi tấn công mà chỉ bỏ chạy hoặc không có hành vi nào vi phạm pháp luật như trường hợp hành khách đi trên xe khách, đi trên tầu thuyền…, còn người phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng nhất thiết phải có hành vi chống trả lại hành vi xâm phạm của người bị hại. Như vậy, dấu hiệu cơ bản nhất để phân biệt giữa hai tội này là có hay không có sự chống trả và người bị hại có hay không có hành vi tấn công.

Trong trường hợp khi thi hành công vụ mà nạn hân dùng vũ lực tấn công người thi hành công vụ và người thi hành công vụ làm cho người bị hại chết ngoài những trường hợp pháp luật cho phép thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng còn các trường hợp khác bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm chết người trong khi thi hành công vụ. Cũng có ý kiến cho rằng vẫn truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm chết người trong khi thi hành công vụ nhưng cho người phạm tội được hưởng tình tiết phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng quy định tại điểm c khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự vì, nếu truy cứu người phạm tội về tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì người phạm tội phải bồi thường thiệt hại cho người bị hại, điều này sẽ trái với quy định tại 623 Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức Nhà nước gây ra. Tuy nhiên, theo nguyên tắc có lợi cho người phạm tội và thực tiễn xét xử nhiều năm qua các Toà án đã coi hành vi xâm phạm tính mạng người khác trong khi thi hành công vụ nếu như người bị hại có hành vi tấn công người phạm tội thì truy cứu người phạm tội về tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và vẫn buộc cơ quan chủ quản của người phạm tội phải bồi thường cho người bị hại.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quyền tác giả trong quy định của pháp luật Việt Nam
Quyền tác giả trong quy định của pháp luật Việt Nam

Quyền tác giả là gì, bao gồm những gì và được quy định như thế nào trong ghi nhận của Bộ Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009.

Quyền tác giả là gì

Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.

Quyền liên quan đến quyền tác giả (hay còn gọi là quyền liên quan) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa

 

Quyền tác giả bao gồm

Quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản.

 

Quyền nhân thân

– Đặt tên cho tác phẩm;

– Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;

– Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;

– Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

Quyền tài sản

– Làm tác phẩm phái sinh;

– Biểu diễn tác phẩm trước công chúng;

– Sao chép tác phẩm;

– Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm;

– Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác;

– Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.

Đối tượng Quyền tác giả

Đối tượng quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá.

 

Tác phẩm trong quyền tác giả

Tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào.

Tác phẩm phái sinh là tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn.

Tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình đã công bố là tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình đã được phát hành với sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan để phổ biến đến công chúng với một số lượng bản sao hợp lý.

Phát sóng là việc truyền âm thanh hoặc hình ảnh hoặc cả âm thanh và hình ảnh của tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng đến công chúng bằng phương tiện vô tuyến hoặc hữu tuyến, bao gồm cả việc truyền qua vệ tinh để công chúng có thể tiếp nhận được tại địa điểm và thời gian do chính họ lựa chọn.

Căn cứ phát sinh quyền tác giả

Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.

Quyền liên quan phát sinh kể từ khi cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá được định hình hoặc thực hiện mà không gây phương hại đến quyền tác giả.

Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả

Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả gồm tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam mà chưa được công bố ở bất kỳ nước nào hoặc được công bố đồng thời tại Việt Nam trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày tác phẩm đó được công bố lần đầu tiên ở nước khác; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

 

Các tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả

Tác phẩm được bảo hộ phải do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác, bao gồm:

– Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác;

– Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác;

– Tác phẩm báo chí;

– Tác phẩm âm nhạc;

– Tác phẩm sân khấu;

– Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự (sau đây gọi chung là tác phẩm điện ảnh);

– Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng;

– Tác phẩm nhiếp ảnh;

– Tác phẩm kiến trúc;

– Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, công trình khoa học;

– Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian;

– Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI GIẾT CON MỚI ĐẺ (ĐIỀU 94 )

Là trường hợp phạm tội của người mẹ do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết hoặc vứt bỏ đứa con mới đẻ dẫn đến hậu quả đứa trẻ bị chết. Đây là hợp phạm tội được tách ra từ khoản 4 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985, vì nếu quy định trường hợp giết con mới đẻ cũng là tội giết người như tội giết người quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự thì không thể hiện đầy đủ bản chất của tội phạm. Bởi vì khi tuyên án Toà án vẫn phải kết án người phạm tội về tội giết người, nhưng hình phạt lại chỉ có 2 năm tù là cao nhất, chưa kể về hậu quả pháp lý và xã hội đối với người phạm tội rất nặng nề. Việc nhà làm luật tách hành vi giết con mới đẻ thành một tội phạm riêng là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn xét xử và chuẩn hoá về mặt lập pháp.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

Ngoài người mẹ của nạn nhân ra, không ai có thể là chủ thể của tội phạm này. Nhưng ngay cả là mẹ của nạn nhân cũng chỉ coi là  chủ thể của tội này khi người mẹ vì ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà buộc phải giết hoặc vứt bỏ con do mình mới đẻ ra. Nếu vì lý do khác mà giết con mình vừa đẻ ra thì không thuộc trường hợp phạm tội này.

Ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu là ảnh hưởng của tư tưởng cũ đã lỗi thời, không còn phù hợp với quan niệm về cuộc sống, lối sống hiện tại. Hay nói một cách khác, nó không còn phù hợp với ý thức xã hội đương thời. Ví dụ: dưới chế độ cũ, một người phụ nữ không có chồng lại có con, bị dư luận lên án, bị phong tục tập quán cũng như luật lệ trừng phạt rất nặng. Nhưng dưới chế độ mới, pháp luật vẫn bảo vệ những trường hợp người phụ nữ có con ngoài giá thú và đứa trẻ đó sinh ra được Nhà nước bảo vệ như tất cả các trẻ em khác. Mặc dù đạo đức xã hội vẫn còn có người lên án phụ nữ hoang thai và cũng chính vì dư luận xã hội còn như vậy nên còn có người mẹ không vượt lên tư tưởng lạc hậu đó mà giết hoặc vứt bỏ con mình đẻ ra để trốn tránh trách nhiệm của người mẹ đối với con.

Thông thường, những đứa trẻ bị người mẹ giết hoặc vứt bỏ lúc mới đẻ là con ngoài giá thú. Tuy nhiên cũng có trường hợp do tập quán lạc hậu của một vài địa phương ở miền núi cho rằng đứa con đầu lòng không phải là con chung của vợ chồng nên sau khi đứa trẻ ra đời, người mẹ đã bóp chết con mình. Cá biệt, có những nơi do tư tưởng phân biệt con trai và con gái nên đã có trường hợp người mẹ đã đẻ đến lần thứ 7 vẫn là con gái nên sau khi đứa trẻ ra đời đã bóp chết.

Trường hợp đứa trẻ bị người mẹ giết hoặc vứt bỏ dẫn tới bị chết trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn là trường hợp sau khi sinh con, người mẹ không có khả năng để nuôi con mình như: bị mất sữa, bị ốm nặng hoặc trong hoàn cảnh khách quan khángười bị hại

Pháp luật không quy định đứa trẻ sinh ra được bao nhiêu ngày thì gọi là mới đẻ. Thực tiễn xét xử ở nước ta coi đứa trẻ mới đẻ bị người mẹ giết hoặc vứt bỏ là đứa trẻ sau khi ra đời dài nhất là 7 ngày. Kể từ ngày thứ 8 trở đi, nếu người mẹ giết con mình thì không được coi là giết con mới đẻ nữa.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây do kinh tế xã hội phát triển, các phương tiện thông tin đại chúng đã tuyên truyền chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến tận bản làng xa xôi hẻo lánh. Trình độ dân trí của nhân dân ta càng được nâng cao, các vụ giết trẻ sơ sinh hoặc vứt bỏ con mới đẻ đã hầu như không xảy ra.

Đứa trẻ mới đẻ bị giết hoặc bị vứt bỏ phải bị chết thì người mẹ mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết con mới đẻ, nếu người mẹ có hành vi tước đoạt tính mạng đứa trẻ hoặc có hành vi vứt con mới đẻ, nhưng đứa trẻ không bị chết thì chưa cấu thành tội giết con mới đẻ và như vậy tội giết con mới đẻ không có trường hợp phạm tội chưa đạt.

ĐƯỜNG LỐI XỬ LÝ ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI GIẾT CON MỚI ĐẺ

Ngươi mẹ phạm tội giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ con mới đẻ dẫn đến đứa trẻ bị chết, có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm.

Việc xử lý loại tội phạm này chủ yếu nhằm giáo dục để người mẹ thấy trách nhiệm của mình đối với đứa con do mình đẻ ra, chống lại tư tưởng lạc hậu, những tàn dư của chế độ cũ. Chỉ nên truy tố, xét xử những trường hợp cần thiết.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com