Một số vướng mắc trong việc đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài ở Đồng Nai và một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi

24/12/2015

1. Một số vướng mắc trong việc đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài ở tỉnh Đồng Nai trong thời gian qua

Kể từ khi Nghị định số 24/2013/NĐ-CP ngày 28/3/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, Thông tư số 22/2013/TT-BTP ngày 31/12/2013 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 24/2013/NĐ-CP có hiệu lực thi hành, các văn bản này quy định cụ thể, rõ ràng về các giấy tờ, trình tự, thủ tục, tạo thuận lợi cho người dân trong việc xác lập hồ sơ đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài, cũng như tạo cơ sở pháp lý trong công tác quản lý nhà nước về đăng ký và quản lý hộ tịch nói chung và lĩnh vực đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng. Ngày 31/12/2014, Chính phủ ban hành Nghị định số 126/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình (gọi tắt là Nghị định số 126/2014/NĐ-CP) thay thế Nghị định số 24/2013/NĐ-CP quy định này đã tạo một bước chuyển mới tích cực hơn đối với hồ sơ đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài.

Trong quá trình triển khai thực hiện các quy định pháp luật về đăng ký và quản lý hộ tịch cùng với sự quan tâm, hướng dẫn của Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân tỉnh, Sở Tư pháp tỉnh Đồng Nai đã áp dụng và triển khai thực hiện theo đúng quy định pháp luật, ứng dụng công nghệ thông tin trong việc giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính cho công dân thông qua bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa liên thông hiện đại, đáp ứng yêu cầu và tạo sự hài lòng của người dân về đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài trong quá trình giải quyết thủ tục hành chính. Từ năm 2013 đến 6 tháng đầu năm 2015, Sở Tư pháp tỉnh Đồng Nai đã tiếp nhận và xử lý 2456 hồ sơ đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài. Qua thẩm tra, xác minh, các hồ sơ tiếp nhận đều hợp lệ và được giải quyết theo trình tự, thủ tục luật định. Riêng chỉ có một trường hợp qua xác minh của cơ quan công an phát hiện đương sự dùng tên của người khác để đăng ký kết hôn nhằm mục đích xuất cảnh sang nước ngoài. Một số hồ sơ qua phỏng vấn cho thấy hai bên nam, nữ thật sự chưa hiểu rõ về nhau. Về vấn đề này, ngoài việc tiến hành phỏng vấn lại, Sở Tư pháp đã phối hợp với cơ quan công an để xác minh làm rõ theo quy định.

Sở Tư pháp luôn quan tâm chú trọng việc quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, vì vậy, thông qua việc giải quyết các thủ tục hành chính cho công dân Việt Nam cư trú trên địa bàn tỉnh Đồng Nai với công dân nước ngoài nói chung, ngoài sự chủ động của Sở Tư pháp trong việc phối hợp với các cơ quan hữu quan, trong quá trình giải quyết theo từng sự vụ, lãnh đạo Sở Tư pháp đã chỉ đạo cán bộ hộ tịch có sự trao đổi về mặt trái của thực trạng kết hôn có yếu tố nước ngoài, chú trọng công tác tuyên truyền với nữ công dân Việt Nam hoặc qua quá trình phỏng vấn luôn nhấn mạnh về mục đích của việc kết hôn, sự tự nguyện kết hôn. Nhưng thực tế, các công dân nữ Việt Nam đều thể hiện sự tự nguyện và mong muốn được kết hôn, nên đây là điều khó khăn phần nào trong việc từ chối việc đăng ký kết hôn nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm. Bởi vì, kết hôn là quyền tự do cá nhân của mỗi công dân, đây là quyền công dân được pháp luật bảo hộ tại Hiến pháp năm 2013. Do đó, xuất phát từ yếu tố chủ quan của mỗi công dân nữ Việt Nam trong việc kết hôn, Sở Tư pháp vẫn giải quyết cho các trường hợp nếu hồ sơ, giấy tờ đầy đủ và hợp lệ; không có cơ sở để từ chối việc đăng ký kết hôn của đương sự.

Bên cạnh đó, một số quy định của pháp luật gặp một số vướng mắc sau:

– Tại điểm b khoản 1 Điều 23 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP quy định: “Nếu kết quả phỏng vấn cho thấy hai bên kết hôn chưa hiểu biết về hoàn cảnh của nhau thì Sở Tư pháp hẹn ngày phỏng vấn lại; việc phỏng vấn lại được thực hiện trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày phỏng vấn trước”. Tuy nhiên, quy định này vẫn chưa sát hợp với thực tiễn tức là nếu 2 bên thật sự hiểu về nhau thì mới thể hiện sự tự nguyện kết hôn, còn việc chưa hiểu rõ về hoàn cảnh của nhau – đây được xem là nội hàm của việc kết hôn nhằm mục đích vụ lợi hay mục đích khác, không phải vì xây dựng một gia đình hạnh phúc. Nếu tiến hành phỏng vấn lại thì đương sự có sự chuẩn bị mang tính đối phó, vì bản thân họ tìm mọi cách để được kết hôn nhằm mục đích trục lợi. Do đó, quy định nêu trên chưa thể hiện được chế tài của pháp luật trong việc quản lý nhà nước về lĩnh vực đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài (nếu qua phỏng vấn phát hiện có sự giả tạo trong mục đích đăng ký kết hôn).

Đồng thời, trên cơ sở nội dung trên, nếu phát hiện có dấu hiệu môi giới kết hôn nhằm mục đích kiếm lời, kết hôn giả tạo… theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 23 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP, thì Sở Tư pháp xác minh làm rõ và gửi cơ quan công an xác minh hồ sơ. Cơ quan công an chỉ phúc đáp đương sự có vướng mắc về hình sự, hành chính, dân sự trong thời gian cư trú tại địa phương, nhưng chưa làm rõ được đương sự có thể hiện sự tự nguyện kết hôn hay không. Đối với mục đích kết hôn, “tự nguyện” mới là yếu tố quan trọng, chủ yếu gắn liền với việc xây dựng một gia đình hạnh phúc, điều này được thể hiện rõ tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Theo đó, Sở Tư pháp căn cứ vào kết quả phúc đáp của cơ quan công an, vẫn công nhận việc đăng ký kết hôn của đương sự.

Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 23 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP thì xét thấy vấn đề cần xác minh thuộc chức năng của cơ quan công an thì Sở Tư pháp có văn bản nêu rõ vấn đề cần xác minh, kèm theo bản chụp hồ sơ đăng ký kết hôn gửi cơ quan công an cùng cấp đề nghị xác minh trong thời gian 7 ngày làm việc. Nếu quá thời hạn theo quy định trên, thì Sở Tư pháp vẫn trình Chủ tịch UBND tỉnh xem xét công nhận.

Việc quy định trên, vô hình chung tạo kẽ hở cho việc “lách luật”, nếu hết thời hạn 7 ngày làm việc, Sở Tư pháp trình Chủ tịch UBND tỉnh công nhận việc kết hôn, có thể rơi vào trường hợp việc dùng hồ sơ, giấy tờ giả mạo để đăng ký kết hôn nhằm mục đích trục lợi.

Để khắc phục tình trạng công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài không nhằm mục đích xây dựng gia đình hạnh phúc mà nhằm mục đích vụ lợi khác, Sở Tư pháp đã có sự chủ động trong việc phối hợp với các cơ quan hữu quan trong công tác quản lý nhà nước về hôn nhân có yếu tố nước ngoài trên địa bàn tỉnh Đồng Nai bằng nhiều hình thức như thông qua việc tham mưu UBND tỉnh ban hành Quy chế phối hợp để giải quyết hồ sơ đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài, chỉ thị tăng cường công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, tăng cường công tác tuyên truyền nhằm hạn chế thấp nhất tình trạng việc lợi dụng đăng ký kết hôn nhằm mục đích vụ lợi khác của tất cả các trường hợp.

2. Đề xuất hoàn thiện

Để góp phần nâng cao công tác quản lý nhà nước, cũng như hoàn thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài, chúng tôi đề xuất một số giải pháp sau:

– Tạo sự chủ động của cán bộ phỏng vấn trong việc đề xuất giải quyết hồ sơ đăng ký kết hôn cho đương sự. Tức là, chỉ thông qua việc phỏng vấn trực tiếp, cán bộ phỏng vấn mới nhận thấy rõ thái độ, tâm lý, cách ứng xử của đương sự. Từ đó, có cơ sở nhận định được sự tự nguyện kết hôn hay không và tham mưu trình người có thẩm quyền xem xét, công nhận việc đăng ký kết hôn.

– Qua quá trình giải quyết hồ sơ đăng ký kết hôn của đối tượng là người nước ngoài thì hồ sơ, giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp chưa thể hiện được tính xác thực về tình trạng hôn nhân của đương sự. Có trường hợp, đương sự đã kết hôn và ly hôn (có bản án ly hôn) nhưng hồ sơ độc thân lại thể hiện đương sự chưa kết hôn lần nào. Điều này có thể dẫn đến trường hợp, nếu hồ sơ thể hiện đương sự còn độc thân trong khi đang có vợ hoặc chồng một cách hợp pháp thì Sở Tư pháp căn cứ vào giấy tờ do đương sự cung cấp một cách hợp lệ để công nhận việc kết hôn. Hoặc nếu xác minh thì chỉ xác minh tình trạng nhân thân của công dân Việt Nam hoặc người Việt Nam cư trú ở nước ngoài. Về vấn đề này, Bộ Tư pháp cần phối hợp với Bộ Ngoại giao thống nhất và làm rõ hơn tình trạng hôn nhân đối với hồ sơ độc thân của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ở nước ngoài. Chẳng hạn như: đối với hồ sơ Đài Loan, tình trạng hôn nhân được thể hiện trong Bản sao hộ tịch; hồ sơ Hàn Quốc thì được thể hiện trong Giấy chứng nhận quan hệ hôn nhân. Điều này tạo thuận lợi trong việc xác định tình trạng hôn nhân của đương sự.

– Nên tăng thời hạn xác minh hồ sơ của cơ quan công an.

– Đề nghị làm rõ hơn thành phần hồ sơ khi đăng ký kết hôn có cần Giấy xác nhận của Trung tâm tư vấn – Hội Liên hiệp Phụ nữ hay không đối với trường hợp có sự chênh lệch tuổi, vì theo hướng dẫn của Cục Hộ tịch, Quốc tịch, Chứng thực thì việc lấy ý kiến của Trung tâm tùy thuộc vào nhu cầu của đương sự.

Văn Hồng Tiến

Sở Tư pháp tỉnh Đồng Nai

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Khung pháp lý về mua lại và sáp nhập Ngân hàng thương mại ở Việt Nam

22/01/2013

Trong thời gian gần đây, hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam đã tăng nhanh về số lượng, nâng cao chất lượng, mở rộng mạng lưới hoạt động, đóng góp quan trọng cho quá trình tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng bộc lộ một số bất cập, yếu kém như vốn điều lệ và tính thanh khoản thấp, tỷ lệ nợ xấu gia tăng, trình độ quản trị còn yếu, nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế… Thực trạng này đặt ra vấn đề cấp bách là phải tái cấu trúc hệ thống các ngân hàng thương mại. Hoạt động mua lại và sáp nhập doanh nghiệp thành công sẽ giúp các ngân hàng thương mại nâng cao sức mạnh toàn diện, lợi thế cạnh tranh, đồng thời thúc đẩy quá trình tái cơ cấu nền kinh tế.

Trong khuôn khổ bài viết, chúng tôi phân tích khía cạnh pháp lý của hoạt động mua lại và sáp nhập đối với ngân hàng thương mại Việt Nam, chỉ ra những khoảng trống pháp luật và đưa ra một số giải pháp đề xuất hoàn thiện pháp luật về mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại Việt Nam.

1. Thực trạng hoạt động mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại Việt Nam

Hoạt động mua lại và sáp nhập ngân hàng bắt nguồn từ những yếu kém nội tại của bản thân các ngân hàng và thực hiện chủ trương, chỉ đạo của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước để đạt các mục tiêu đề ra trong từng giai đoạn. Hoạt động mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại giai đoạn 2005 trở về trước diễn ra dưới hai hình thức chủ yếu là sáp nhập và hợp nhất. Nhiều ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn với quy mô vốn nhỏ đã được mua lại và sáp nhập như Ngân hàng Thương mại cổ phần Phương Nam đã mua lại và sáp nhập với hàng loạt các ngân hàng thương mại khác như Ngân hàng Thương mại cổ phần Nông thôn Đồng Tháp, Châu Phú, Đại Nam, Cái Sắn; Ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Á tiến hành mua lại và sáp nhập với Ngân hàng Thương mại cổ phần Tứ giác Long Xuyên; Sacombank mua lại và sáp nhập với Ngân hàng Thạnh Thắng; Ngân hàng Thương mại cổ phần Phương Đông mua lại và sáp nhập với Ngân hàng Nông thôn Tây Đô… (Theo Tạp chí Phát triển và Hội nhập, Số 8 – Tháng 12/2010).

Từ năm 2005 đến nay, việc sáp nhập ngân hàng thương mại trong nước đã ít đi, thay vào đó là hoạt động đầu tư góp vốn, mua lại cổ phần của các nhà đầu tư trong và ngoài nước đối với các ngân hàng thương mại nội địa, thông qua đó trở thành đối tác chiến lược của các ngân hàng đó. Nói cách khác, việc bán cổ phần cho các đối tác chiến lược, nhất là các đối tác nước ngoài ngày càng phổ biến trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam kể từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới với nhiều cam kết về mở rộng thị trường tài chính, ngân hàng.

Việc các ngân hàng, tập đoàn tài chính nước ngoài mở rộng hoạt động tại thị trường Việt Nam thông qua việc sở hữu vốn cổ phần của các ngân hàng thương mại trong nước đã mang lại nhiều lợi ích cho cả hai bên trong quá trình hợp tác cũng như cạnh tranh. Các ngân hàng thương mại Việt Nam đã nâng cao được năng lực tài chính, hiện đại hoá được công nghệ, nâng cao chất lượng quản trị, nguồn nhân lực, mở rộng phạm vi kinh doanh. Các ngân hàng và tập đoàn tài chính nước ngoài đã không tốn kém chi phí mở chi nhánh mới, có sẵn mạng lưới hoạt động, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực và hơn cả là số lượng khách hàng sẵn có tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. Các thương vụ điển hình về mua cổ phần giữa ngân hàng nước ngoài và ngân hàng thương mại Việt Nam có thể kể đến là: Standard Chartered và ACB; HSBC và Techcombank; OCBC và VPBank; Deutsche bank và Habubank; UOB và PNB; Maybank và ABBank; ANZ và Sacombank. (Theo Tạp chí Phát triển và Hội nhập, Số 8 – Tháng 12/2010).

Với những hoạt động mua lại và sáp nhập giữa các ngân hàng thương mại trong nước, thực chất đây là việc sở hữu cổ phần mang tính đan xen của các ngân hàng thương mại trong nước. Với sự kết hợp này, các ngân hàng trong nước cũng hỗ trợ cho nhau về nhiều mặt trong quá trình phát triển trước thời kỳ hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Có thể thấy rằng, nhờ các thương vụ mua lại và sáp nhập mà hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam phần nào được lành mạnh hóa, nâng cao năng lực quản trị; thành công trong việc tăng vốn điều lệ để đạt tiêu chuẩn quốc tế về chỉ số an toàn; lợi nhuận trong ngành ở mức cao; tỷ lệ nợ xấu giảm; mở rộng mạng lưới; tiếp thu được công nghệ, kỹ thuật hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến.

2. Pháp luật về hoạt động mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại Việt Nam

2.1. Những quy định pháp luật

Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp, vì vậy ngân hàng cũng bị điều chỉnh bởi các quy định chung của pháp luật về hoạt động mua lại và sáp nhập đối với doanh nghiệp. Với Luật Doanh nghiệp năm 2005, các quy định về mua lại và sáp nhập được quy định tại Điều 150 (Chia doanh nghiệp), Điều 151 (Tách doanh nghiệp), Điều 152 (Hợp nhất doanh nghiệp), Điều 153 (Sáp nhập doanh nghiệp) đã đề cập đến một số vấn đề trong tổ chức, quản lý doanh nghiệp với các trường hợp về chia, tách, hợp nhất và sáp nhập doanh nghiệp. Luật Đầu tư năm 2005 cũng đề cập đến hình thức đầu tư thông qua góp vốn, mua cổ phần và sáp nhập, mua lại của các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào lãnh thổ Việt Nam.

Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định tập trung kinh tế là hành vi của doanh nghiệp bao gồm: Sáp nhập doanh nghiệp; hợp nhất doanh nghiệp; mua lại doanh nghiệp; liên doanh giữa các doanh nghiệp và các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật (Điều 16). Khái niệm sáp nhập doanh nghiệp, hợp nhất doanh nghiệp, mua lại doanh nghiệp được quy định tại Điều 17. Từ Điều 18 đến Điều 20 quy định trường hợp tập trung kinh tế bị cấm; trường hợp miễn trừ đối với tập trung kinh tế bị cấm và thông báo việc tập trung kinh tế.

Điều 29, Điều 32, Điều 69 Luật Chứng khoán năm 2006, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán năm 2010 điều chỉnh các hoạt động mua lại và sáp nhập trong lĩnh vực chứng khoán và các công ty đại chúng.

Nghị định số 69/2007/NĐ-CP ngày 20/4/2007 của Chính phủ về nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng thương mại Việt Nam và Thông tư số 07/2007/TT-NHNN ngày 29/11/2007 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 69/2007/NĐ-CP đã tập trung vào việc quy định tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài; điều kiện để ngân hàng Việt Nam bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài; điều kiện của tổ chức tín dụng nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng Việt Nam; điều kiện của các nhà đầu tư nước ngoài khi mua cổ phần của các ngân hàng Việt Nam trên thị trường chứng khoán; điều kiện tham gia quản trị tại ngân hàng Việt Nam.

Thông tư số 04/2010/TT-NHNN ngày 11/02/2010 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định việc sáp nhập, hợp nhất và mua lại tổ chức tín dụng. Thông tư số 04 đã kế thừa và loại bỏ những hạn chế của Quy chế về sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ chức tín dụng cổ phần Việt Nam được ban hành theo Quyết định số 241/1998/QĐ-NHNN5 ngày 15/07/1998 của Ngân hàng Nhà nước, theo đó phạm vi các đối tượng được/thuộc diện sáp nhập, hợp nhất được mở rộng; kế thừa tinh thần của Luật Doanh nghiệp năm 2005 về hợp nhất, sáp nhập, Luật Cạnh tranh năm 2004 về tập trung kinh tế, đồng thời đảm bảo tuân thủ các cam kết của Việt Nam đối với Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, cụ thể:

Về hình thức mua lại và sáp nhập, Thông tư quy định việc sáp nhập, hợp nhất và mua lại giữa các tổ chức tín dụng chỉ được tiến hành dưới một số hình thức nhất định. Các hình thức sáp nhập bao gồm: Ngân hàng, công ty tài chính, tổ chức tín dụng hợp tác sáp nhập vào một ngân hàng; công ty tài chính sáp nhập vào một công ty tài chính; công ty cho thuê tài chính sáp nhập vào một công ty cho thuê tài chính. Các hình thức hợp nhất bao gồm: Ngân hàng được hợp nhất với ngân hàng, công ty tài chính, tổ chức tín dụng hợp tác để thành một ngân hàng; các công ty tài chính hợp nhất thành một công ty tài chính; các công ty cho thuê tài chính hợp nhất thành một công ty cho thuê tài chính. Các hình thức mua lại bao gồm: Một ngân hàng được mua lại công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính; một công ty tài chính được mua lại công ty cho thuê tài chính.

Về điều kiện tiến hành mua lại và sáp nhập, Thông tư cũng quy định điều kiện để tiến hành hợp nhất, sáp nhập hay mua lại các tổ chức tín dụng, theo đó việc hợp nhất, sáp nhập hay mua lại không được thuộc trường hợp tập trung kinh tế bị cấm theo quy định của Luật Cạnh tranh. Các tổ chức tín dụng tham gia các hoạt động này phải phối hợp xây dựng một đề án thực hiện hợp nhất, sáp nhập, hoặc mua lại không trái với nội dung của hợp đồng đã ký. Ngoài ra, tổ chức tín dụng còn lại sau khi tiến hành hợp nhất, sáp nhập, hoặc mua lại phải đảm bảo đáp ứng điều kiện về vốn pháp định theo quy định của pháp luật.

Về mặt thủ tục, Ngân hàng Nhà nước sẽ lấy ý kiến tham gia của chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tại địa phương, Uỷ ban nhân dân địa phương nơi tổ chức tín dụng tham gia mua lại đặt trụ sở chính và nếu thấy cần thiết sẽ lấy ý kiến của các Vụ, Cục thuộc Ngân hàng Nhà nước có chức năng, nhiệm vụ liên quan đến một hoặc một số nội dung trong hồ sơ đề nghị mua lại và quan điểm về việc mua lại để ra quyết định chấp thuận hoặc từ chối chấp thuận.

Nếu được chấp thuận nguyên tắc, các tổ chức tín dụng tham gia phải lấy ý kiến của cơ quan có thẩm quyền của tổ chức tín dụng để thông qua lại các nội dung thay đổi tại đề án trước khi lập hồ sơ chính thức gửi lại cho Ngân hàng Nhà nước để được chấp thuận chính thức. Sau đó, các tổ chức chấm dứt hoạt động cần phải hoàn tất thủ tục rút giấy phép kinh doanh, tổ chức mới phải hoàn thành thủ tục đăng ký kinh doanh, đăng bố cáo hợp nhất v.v… Thông tư nghiêm cấm việc phân tán tài sản của tổ chức tín dụng dưới mọi hình thức trong quá trình xin chấp thuận.

Bên cạnh hệ thống quy định của pháp luật Việt Nam, hoạt động mua lại và sáp nhập ngân hàng còn phải tuân theo các thoả thuận, hiệp ước song phương và đa phương như cam kết của Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), các quy định trong Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, các hiệp định đã ký kết trong ASEAN…

2.2. Những bất cập, tồn tại

Những quy định của pháp luật hiện hành tuy đã đề cập đến hoạt động mua lại và sáp nhập doanh nghiệp nhưng khái niệm này chưa được chuẩn hóa, không thống nhất. Mỗi luật điều chỉnh hoạt động mua lại và sáp nhập từ một góc độ khác nhau. Luật Doanh nghiệp quy định về mua lại và sáp nhập như hình thức tổ chức lại doanh nghiệp, Luật Đầu tư quy định như là hình thức đầu tư trực tiếp, Luật Chứng khoán quy định như là hình thức đầu tư gián tiếp, Luật Cạnh tranh quy định như là hình thức tập trung kinh tế thuộc nhóm các hành vi hạn chế cạnh tranh…

Các quy định này mới chỉ dừng lại ở việc xác lập về mặt hình thức của hoạt động mua lại và sáp nhập doanh nghiệp, trong khi đó, mua lại và sáp nhập doanh nghiệp là một giao dịch thương mại, tài chính, đòi hỏi phải có những quy định cụ thể như kiểm toán, định giá, tư vấn, môi giới, cung cấp thông tin, bảo mật, chuyển giao và xác lập sở hữu, chuyển dịch tư cách pháp nhân, cổ phần, cổ phiếu, các nghĩa vụ tài chính, người lao động, thương hiệu, cơ chế giải quyết tranh chấp…

Luật Cạnh tranh hiện nay cấm các hoạt động mua lại và sáp nhập có thể dẫn tới việc một doanh nghiệp có mức tập trung kinh tế lớn hơn 50% trên thị trường liên quan. Trong trường hợp một doanh nghiệp kinh doanh nhiều mặt hàng (có nhiều thị trường khác nhau), thì tùy theo các cách tính khác nhau có thể dẫn đến kết quả là doanh nghiệp đó có thể bị coi là có “tập trung kinh tế” trên 50% hoặc có thể dưới.

Còn tồn tại tình trạng không thống nhất về cơ sở tính toán mức độ tập trung trong ngân hàng giữa Luật Cạnh tranh và Nghị định số 69/2007/NĐ-CP. Luật Cạnh tranh quy định giới hạn mức độ tập trung trong lĩnh vực ngân hàng dựa trên thị phần, trong khi Nghị định số 69/2007/NĐ-CP lại quy định giới hạn về mức độ tập trung trong lĩnh vực ngân hàng căn cứ trên vốn điều lệ.

Những khoảng trống trong pháp lý còn thể hiện ở việc chưa có nghị định về hoạt động mua lại và sáp nhập doanh nghiệp, chưa có văn bản hướng dẫn các thủ tục, quy trình mua lại và sáp nhập rõ ràng, cụ thể gây khó khăn trong xác lập các giao dịch, địa vị mỗi bên mua – bán, hậu quả pháp lý sau khi tiến hành hoạt động mua lại và sáp nhập… Ngoài ra, thẩm quyền quản lý của các đơn vị chủ quản đối với từng loại hình doanh nghiệp cũng khác nhau. Hiện tại, các hoạt động mua lại và sáp nhập liên quan đến các doanh nghiệp niêm yết do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước quản lý, liên quan tới đầu tư trực tiếp nước ngoài thuộc thẩm quyền của Bộ Kế hoạch và đầu tư.

Thêm vào đó, các cơ quan nhà nước cũng chưa thống nhất được hoạt động mua lại và sáp nhập doanh nghiệp là đầu tư trực tiếp hay gián tiếp, điều kiện nào để chuyển hoá từ đầu tư trực tiếp thành đầu tư gián tiếp và ngược lại. Nếu mỗi cơ quan nhìn nhận mua lại và sáp nhập dưới góc độ riêng thì không thể xây dựng được cơ chế, chính sách thống nhất nhằm tạo ra một môi trường thuận lợi cho hoạt động này…

3. Giải pháp đề xuất hoàn thiện pháp luật về mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại Việt Nam

Một là, xây dựng tập trung và có hệ thống đối với quy định của pháp luật về hoạt động mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại với hoạt động mua lại, sáp nhập, hợp nhất và đầu tư mua cổ phần để trở thành cổ đông chiến lược trong Luật Các tổ chức tín dụng với tư cách là đạo luật điều chỉnh chuyên ngành, theo đó cần có các định nghĩa, khái niệm, hình thức, điều kiện, quy trình và hợp đồng mua lại và sáp nhập ngân hàng cụ thể. Đồng thời, với tư cách là một hình thức tập trung kinh tế bị điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật cạnh tranh, các quy định về mua lại và sáp nhập ngân hàng cần phải phù hợp, đáp ứng các điều kiện về kiểm soát cạnh tranh không lành mạnh, về thị phần, thị trường liên quan… để tránh việc độc quyền, hạn chế cạnh tranh lành mạnh trên thị trường ngân hàng.

Hai là, hình thành các công ty tư vấn mua lại và sáp nhập doanh nghiệp và có các chuyên gia tư vấn mua lại và sáp nhập của Việt Nam một cách chuyên nghiệp, cung cấp các dịch vụ mua lại và sáp nhập doanh nghiệp với các khâu dự báo, tìm kiếm, thăm dò đối tác, thẩm định đầy đủ các nội dung về pháp lý/tài chính; thiết lập hợp đồng mua lại và sáp nhập trong từng trường hợp, từng yêu cầu cụ thể; các thủ tục với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sau mua lại và sáp nhập; các vấn đề cần giải quyết sau mua lại và sáp nhập doanh nghiệp. Để cung cấp các dịch vụ mua lại và sáp nhập, nhất là mua lại và sáp nhập ngân hàng đòi hỏi các công ty tư vấn, chuyên gia tư vấn mua lại và sáp nhập phải là những công ty, chuyên gia hàng đầu về tài chính, ngân hàng và pháp luật, có kinh nghiệm thực tế.

Ba là, lần kết hợp các tiêu chí để xác định thị phần của tổ chức tín dụng, phản ánh đúng bản chất của sự tập trung trong hoạt động ngân hàng.

Bốn là, bổ sung quy định về việc mua lại và sáp nhập giữa một ngân hàng thương mại Việt Nam và một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, đảm bảo khi xảy ra mua lại và sáp nhập giữa hai tổ chức nói trên có thể sẽ không vi phạm quy định về tập trung kinh tế theo pháp luật hiện hành.

Năm là, để đảm bảo tính nhất quán trong quy định của pháp luật và tạo điều kiện dễ dàng cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia vào các hoạt động mua lại và sáp nhập doanh nghiệp và tạo điều kiện quản lý thuận tiện đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cần sửa đổi và sử dụng thống nhất quy định về khái niệm mua lại và sáp nhập doanh nghiệp.

Ngoài ra, cần xem xét để bổ sung các quy định pháp luật về mua lại và sáp nhập khi ngân hàng Việt Nam niêm yết ở nước ngoài; tổ chức tín dụng nước ngoài hoặc nhà đầu tư nước ngoài tham gia mua vốn tại hai ngân hàng Việt Nam trở lên.

Phạm Minh Sơn

Phạm Minh Sơn

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số điểm mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý

25/02/2016

Ngày 28/11/2013, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó có nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân bảo đảm quyền tiếp cận công lý và quyền cơ bản của con người. Theo đó, Hiến pháp đã ghi nhận quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa là một trong những quyền cơ bản của công dân, đồng thời bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử.

Bộ luật Tố tụng hình sự với vai trò là một trong những công cụ pháp lý sắc bén để đấu tranh với mọi loại tội phạm, tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn; tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân đã được Hiến định; góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ Nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Sau một thời gian tiến hành lấy ý kiến Nhân dân và các chuyên gia về việc sửa đổi, bổ sung, ngày 27/11/2015, Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi) đã được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 10 và sẽ có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2016. Một trong những điểm mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 là đã đưa ra những cơ chế bảo đảm quyền trợ giúp pháp lý cho người dân, góp phần đưa chế định này gần hơn với cuộc sống.

Tác giả Trịnh Thị Thanh, Cục Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp đã có bài viết: “Một số điểm mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý”, với những nội dung chính: (1) Bổ sung tư cách của Trợ giúp viên pháp lý trong tham gia tố tụng hình sự; (2) Bổ sungtrách nhiệm cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thông báo, giải thích quyền được trợ giúp pháp lý; (3) Bổ sung cơ chế bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý trong trường hợp chỉ định người bào chữa.Để hiểu hơn những nội dung mà tác giả đã đề cập, bạn đọc có thể tìm hiểu bài viết đã được đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số tháng 2/2016.

Vũ Hải Việt

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam khi trọng tài nước ngoài giải quyết tranh chấp tại Việt Nam

22/01/2013

Trong thời gian gần đây, bên cạnh những tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài Việt Nam (như của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam gọi tắt tiếng Anh là VIAC) tại Việt Nam, đã xuất hiện những tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nước ngoài (tức thành lập theo pháp luật nước ngoài (1) tại Việt Nam.

Ví dụ, Hợp đồng mua bán số 84-346.2 được ký kết giữa Conares Metal Supply L.t.d và Công ty cơ khí kết cấu thép xây dựng có thỏa thuận tranh chấp “sẽ được giải quyết chung thẩm theo quy tắc Trọng tài của Phòng Thương mại quốc tế (sau đây gọi tắt là ICC), nơi giải quyết Trọng tài là Hà Nội”. Thực tế các bên có tranh chấp về hợp đồng và phía nước ngoài đã khởi kiện ra Trọng tài của ICC với nơi giải quyết tranh chấp là tại Hà Nội (Việt Nam). Tương tự trong vụ việc sau đây (mà chúng ta sẽ sử dụng để minh họa cho bài viết): theo thỏa thuận của Hợp đồng ký ngày 11/1/2005 và Điều khoản tham chiếu do Hội đồng trọng tài của ICC lập đã được các bên ký ngày 02/9/2011 thì các bên đã chọn Luật áp dụng là Luật Việt Nam, tố tụng trọng tài được tiến hành phù hợp với Luật Trọng tài Việt Nam và địa điểm giải quyết tranh chấp là TP. Hồ Chí Minh. Cũng như trong vụ việc trước, ở đây Trọng tài giải quyết tranh chấp là Trọng tài của ICC và địa điểm giải quyết tranh chấp là tại Việt Nam.

Khi vụ việc được giải quyết bằng Trọng tài Việt Nam tại Việt Nam thì hiển nhiên Tòa án Việt Nam có thẩm quyền đối với nhiều vấn đề từ khi vụ việc được thụ ký (như áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, xác định thẩm quyền của Trọng tài, triệu tập nhân chứng…) đến sau khi có phán quyết trọng tài (như xem xét hủy phán quyết trọng). Khi tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền như đối với Trọng tài Việt Nam đã nêu trên không? Thông qua vụ việc thứ hai nêu trên, chúng ta thấy Tòa án Việt Nam có thẩm quyền và qua đây, chúng ta sẽ làm rõ phạm vi thẩm quyền của Tòa án Việt Nam đối với hoạt động tố tụng của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam.

1. Ghi nhận thẩm quyền của Tòa án Việt Nam

1.1. Tòa án chấp nhận thẩm quyền

Đối với Trọng tài nước ngoài, hiện có hai quan điểm về thẩm quyền của Tòa án Việt Nam. Quan điểm thứ nhất cho rằng, Tòa án Việt Nam chỉ có thẩm quyền đối với Trọng tài Việt Nam, không có thẩm quyền đối với Trọng tài nước ngoài (vì được thành lập theo pháp luật nước ngoài). Quan điểm ngược lại cho rằng, Tòa án Việt Nam không chỉ có thẩm quyền đối với Trọng tài Việt Nam mà cả với Trọng tài nước ngoài khi địa điểm giải quyết tranh chấp tại Việt Nam.

Trong vụ việc nêu trên, Trọng tài giải quyết tranh chấp được thành lập là Trọng tài ICC nhưng địa điểm giải quyết tranh chấp là tại Việt Nam. Ở đây, Hội đồng trọng tài của ICC đã cho rằng, Hội đồng trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa Công ty OB và UBND Thành phố H. Tuy nhiên, quyết định theo đó Hội đồng trọng tài ICC chấp nhận thẩm quyền được ban hành tại TP. Hồ Chí Minh đã bị khiếu nại tại Tòa án Việt Nam, cụ thể là tại Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh. Trên cơ sở một số quy định của Luật Trọng tài thương mại của Việt Nam (đang có hiệu lực), Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh đã khẳng định “Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh có thẩm quyền xem xét quyết định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài” (2).

Như vậy, Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh đã khẳng định Tòa án có thẩm quyền để xem xét lại Quyết định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài nước ngoài. Điều đó cũng có nghĩa là, theo Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền xem xét quyết định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài cho dù đây là Trọng tài nước ngoài khi địa điểm giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là tại Việt Nam.

1.2. Cơ sở pháp lý ghi nhận thẩm quyền

Trên cơ sở nào Tòa án Việt Nam có thẩm quyền đối với hoạt động tố tụng của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam?

Về thẩm quyền của Tòa án đối với việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, khoản 1 và 3 Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định “yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại; yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định kinh doanh, thương mại của Trọng tài nước ngoài” là “những yêu cầu về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án”. Nếu chỉ căn cứ vào quy định vừa nêu, chúng ta không có cơ sở để lý giải thẩm quyền của Tòa án Việt Nam đối với hoạt động tố tụng Trọng tài nước ngoài vì hai điều khoản này chỉ nói đến việc “giải quyết các vụ tranh chấp” của “Trọng tài thương mại Việt Nam”, đối với quyết định “của Trọng tài nước ngoài”, điều khoản trên chỉ đề cập đến “yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam”, tức là khi hoạt động tố tụng trọng tài đã kết thúc.

Thực ra, Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự về yêu cầu về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án còn một điều khoản nữa ghi nhận thẩm quyền của Tòa án Việt Nam đối với các vấn đề không được nêu trong hai điều khoản trên. Đó là khoản 4, theo đó “các yêu cầu khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định” cũng “thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án”. Quy định này cho phép ghi nhận thẩm quyền của Tòa án không trên cơ sở các quy định cụ thể của Bộ luật Tố tụng dân sự mà trên cơ sở quy định trong văn bản khác (3). Vậy Luật Trọng tài thương mại hiện hành của chúng ta có quy định ghi nhận thẩm quyền của Tòa án Việt Nam đối với hoạt động tố tụng của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam không?

Trong Quyết định số 625/2012/QĐST-KDTM ngày 14/5/2012 nêu trên, Tòa án đã viện dẫn “điểm c khoản 2 Điều 7 (4)” và “khoản 3 Điều 7 (5) Luật Trọng tài thương mại” nhưng hai điều khoản này không rõ về thẩm quyền của Tòa án Việt Nam đối với hoạt động tố tụng của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam.

Thực ra, hai điều khoản vừa nêu chỉ cho biết Tòa án cụ thể nào trong hệ thống Tòa án của Việt Nam có thẩm quyền đối với hoạt động tố tụng trọng tài mà không cho biết Tòa án Việt Nam có thẩm quyền đối với hoạt động tố tụng của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam hay không. Nói cách khác, khi Tòa án Việt Nam có thẩm quyền, hai điều khoản trên cho biết Tòa án cấp và nơi cụ thể nào (Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng…?) có thẩm quyền trong khi đó chúng ta đang xem xét là Tòa án Việt Nam có thẩm quyền hay không đối với hoạt động tố tụng của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Chính vì lẽ đó, mà ngày 11/07/2012, Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh đã có văn bản số 899/TATP-TKT với nội dung giải thích quyết định nêu trên. Ở văn bản này, để khẳng định thẩm quyền của Tòa án đối với việc xem xét lại Quyết định của Hội đồng trọng tài về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh đã viện dẫn thêm Điều 1 Luật Trọng tài thương mại, theo đó “Luật này quy định về…; thẩm quyền của Tòa án đối với hoạt động trọng tài; tổ chức và hoạt động của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, thi hành phán quyết trọng tài” để khẳng định “như vậy, có thể thấy rõ rằng, Luật Trọng tài thương mại quy định thẩm quyền của Tòa án đối với hoạt động trọng tài là thẩm quyền đối với toàn bộ hoạt động trọng tài mà không có sự phân biệt Trọng tài trong nước hay nước ngoài”.

Với trình bày trên, chúng ta thấy, Tòa án đã căn cứ vào Điều 1 Luật Trọng tài thương mại hiện hành để cho rằng, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền đối “hoạt động trọng tài nước ngoài tại Việt Nam”.

1.3. Đối chiếu so sánh với pháp luật nước ngoài

Nghiên cứu so sánh cho thấy, hướng thừa nhận thẩm quyền như trên không xa lạ. Không hiếm hệ thống pháp luật ghi nhận thẩm quyền của Tòa án nước mình đối với hoạt động trọng tài trên lãnh thổ nước mình cho dù đó là hoạt động của Trọng tài nước ngoài (6).

Tây Ban Nha có Luật Trọng tài năm 2003 được sửa đổi, bổ sung năm 2011. Trong Luật này có nhiều quy định về thẩm quyền của Tòa án đối với hoạt động của Trọng tài (như chỉ định hay thay đổi Trọng tài viên, trợ giúp trọng tài trong việc thu thập chứng cứ, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời) và Điều 1 Luật Trọng tài Tây Ban Nha quy định: “Luật này áp dụng cho trọng tài có địa điểm trên lãnh thổ Tây Ban Nha dù là trọng tài quốc nội hay quốc tế” (7). Quy định này cho phép Tòa án Tây Ban Nha can thiệp đối với hoạt động trọng tài diễn ra tại Tây Ban Nha. Tương tự như vậy theo pháp luật của Áo: Áo sửa đổi pháp luật trọng tài vào năm 2006 và theo Luật năm 2006, Tòa án Áo có thẩm quyền chỉ định hay thay đổi trọng tài viên, trợ giúp trọng tài, giải quyết hủy phán quyết trọng tài… và phạm vi áp dụng Luật này là đối với Trọng tài (quốc nội hay quốc tế) có địa điểm tại Áo (7). Ở Tunisi, “sự can thiệp của Tòa án không thể giới hạn ở trợ giúp Trọng tài; đương nhiên một sự kiểm soát trước Tòa án Tunisi tồn tại khi trọng tài diễn ra ở Tunisi”. Ở đây, Tòa án Tunisi có cả thẩm quyền giải quyết yêu cầu hủy phán quyết trọng tài “khi trọng tài diễn ra trên lãnh thổ Tunisi hay khi quy định về trọng tài của Tunisi được các bên hoặc Hội đồng trọng tài lựa chọn” (địa điểm trọng tài tại Tunisi chỉ là một tiêu chí ghi nhận thẩm quyền của Tòa án Tunisi đối với hoạt động tố tụng của Trọng tài) (9).

Pháp mới sửa đổi pháp luật trọng tài vào năm 2011 và đã mở rộng trường hợp Tòa án (thẩm phán) Pháp có thẩm quyền can thiệp đối với hoạt động tố tụng trọng tài theo hướng địa điểm trọng tài tại Pháp chỉ là một trong các tiêu chí ghi nhận thẩm quyền của Tòa án Pháp. Theo Điều 1505 Bộ luật Tố tụng dân sự Pháp, Tòa án Pháp có thẩm quyền trong 4 trường hợp sau: Thứ nhất, khi nơi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là Pháp; thứ hai, khi các bên thỏa thuận áp dụng pháp luật tố tụng trọng tài của Pháp; thứ ba, khi các bên thỏa thuận Tòa án Pháp có thẩm quyền đối với bất đồng trong quá trình tố tụng; thứ tư, khi có khả năng không có Tòa án nước nào thừa nhận thẩm quyền (điều đó có nghĩa là Tòa án Pháp có thẩm quyền ngay cả đối với hoạt động trọng tài không diễn ra tại Pháp, tức được ấn định ở nước ngoài (10). Ngoài ra, theo Điều 1518 Bộ luật Tố tụng dân sự Pháp, Tòa án Pháp có thẩm quyền xem xét yêu cầu hủy phán quyết trọng tài được tuyên tại Pháp(11).

1.4. Nhận xét bổ sung

Như vậy, đối với trường hợp tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, trên cơ sở Điều 1 Luật Trọng tài thương mại hiện hành, Tòa án đã cho rằng, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền đối với hoạt động tố tụng của Trọng tài nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam.

Hướng ghi nhận thẩm quyền như trên chưa được thể hiển rõ trong văn bản hiện hành của chúng ta (12) nhưng theo chúng tôi, cần được ghi nhận và phát triển đối với vụ việc tương tự (có thể coi là viên gạch đầu tiên trong việc hình thành một án lệ trong lĩnh vực trọng tài(13)): hoạt động tố tụng của Trọng tài trên lãnh thổ Việt Nam cần chịu sự chi phối, tác động (trợ giúp, giám sát) của Tòa án Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam. Hướng ghi nhận như trên không xa lạ trên thế giới; nhiều nước đã theo hướng Tòa án của họ có thẩm quyền trợ giúp cũng như giám sát hoạt động tố tụng trọng tài trên lãnh thổ nước họ và không phân biệt trọng tài liên quan là trọng tài trong nước hay trọng tài nước ngoài.

Vấn đề tiếp theo mà chúng ta cần quan tâm là Tòa án có thẩm quyền đối với những hoạt động cụ thể nào của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam.

2. Phạm vi thẩm quyền của Tòa án Việt Nam

2.1. Xem xét thẩm quyền của Hội đồng trọng tài

Trong quá trình tố tụng trọng tài, chúng ta thường gặp trường hợp một bên phủ nhận thẩm quyền của Hội đồng trọng tài. Đối với hoàn cảnh này, pháp luật hiện nay theo hướng Hội đồng trọng tài tự giải quyết bất đồng giữa các bên về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài (14).

Khi Hội đồng trọng tài ra quyết định về thẩm quyền của mình (có thẩm quyền hay không có thẩm quyền), một bên có quyền yêu cầu Tòa án can thiệp để xem xét lại vấn đề thẩm quyền của Hội đồng trọng tài không? Ở Pháp, Tòa án không can thiệp vào chủ đề này và chỉ tập trung giám sát kết quả của hoạt động trọng tài (tức tập trung vào xem xét sau khi có phán quyết trọng tài) (15). Pháp luật của chúng ta theo hướng rất khác. Cụ thể, theo khoản 1 Điều 44 Luật Trọng tài thương mại, “trong trường hợp không đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng tài quy định tại Điều 43 của Luật này (Xem xét thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài), trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định của Hội đồng trọng tài, các bên có quyền gửi đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền xem xét lại quyết định của Hội đồng trọng tài”.

Điều đó có nghĩa là, trong hoạt động tố tụng trọng tài, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền xem xét lại Quyết định của Hội đồng trọng tài về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài. Quy định trên hiển nhiên được áp dụng cho Trọng tài Việt Nam và, theo quyết định nêu trên của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh, cũng được áp dụng cho Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Ở đây, trên cơ sở “Điều 43 và Điều 44 Luật Trọng tài thương mại”, Tòa án quyết định “Hội đồng trọng tài Quốc tế ICC không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa Công ty OB và UBND Thành phố H” (việc Tòa án xác định Hội đồng trọng tài của ICC không có thẩm quyền cho thấy Tòa án có thẩm quyền xem xét thẩm quyền của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam).

2.2. Đối với các vấn đề khác của tố tụng trọng tài

Với hướng giải quyết trên, quyết định cho thấy Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải các bất đồng trong quá trình tố tụng trọng tài về thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài cho dù đó là Trọng tài nước ngoài khi địa điểm trọng tài ở Việt Nam.

Trong quá trình tố tụng trọng tài, pháp luật hiện hành còn có quy định ghi nhận thẩm quyền của Tòa án đối với nhiều vấn đề khác như triệu tập người làm chứng (16), áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (17). Đối với trọng tài vụ việc, Tòa án còn có thẩm quyền chỉ định hay thay đổi Trọng tài viên(18).

Quy định trên đương nhiên được áp dụng đối với Trọng tài Việt Nam. Trong quyết định của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh nêu trên, các vấn đề trên không được đề cập đến và, theo chúng tôi, các quy định trên cũng được áp dụng đối với Trọng tài nước ngoài khi địa điểm giải quyết tranh chấp là tại Việt Nam. Về nguyên tắc, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền đối với hoạt động tố tụng của Trọng tài Việt Nam tại Việt Nam trong những trường hợp nào thì cũng có thẩm quyền trong những trường hợp tương ứng đối với hoạt động tố tụng của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam.

2.3. Đối với phán quyết trọng tài

Trọng tài nước ngoài có thể ra phán quyết đối với vụ việc được giải quyết tại Việt Nam (phán quyết trọng tài là một quyết định trọng tài nhưng không phải quyết định trọng tài nào cũng là phán quyết trọng tài. Quyết định cuối cùng của Hội đồng trọng tài về nội dung tranh chấp là phán quyết trọng tài (19) còn quyết định trong quá trình tố tụng chỉ là một quyết định trọng tài thông thường trong quá trình giải quyết tranh chấp (20) với cơ chế điều chỉnh rất khác so với phán quyết trọng tài (21)). Đối với vụ việc mà chúng ta đang nghiên cứu, chúng tôi chưa thấy có phán quyết trọng tài về nội dung tranh chấp nhưng, đối với vụ việc liên quan đến Conares Metal Supply Ltd. nêu trên, Trọng tài của ICC đã ra phán quyết và câu hỏi được đặt ra là Tòa án Việt Nam có thẩm quyền gì đối với phán quyết loại này?

Đối với phán quyết trọng tài (tức quyết định cuối cùng về nội dung tranh chấp), pháp luật hiện hành của chúng ta có hai cơ chế điều chỉnh rất khác nhau. Đối với quyết định (phán quyết) của Trọng tài nước ngoài, chúng ta có quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự và Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành tại Việt Nam (22)(lúc này Tòa án có thẩm quyền công nhận hay không công nhận phán quyết trọng tài) còn, đối với phán quyết trọng tài trong Luật Trọng tài thương mại, chúng ta có quy định về thi hành phán quyết trọng tài(23) mà không có thủ tục công nhận và cho thi hành nhưng phán quyết trọng tài có thể bị yêu cầu hủy tại Tòa án (lúc này Tòa án có thẩm quyền để quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài) (24). Đối với phán quyết của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam mà chúng ta đang nghiên cứu, chúng ta áp dụng cơ chế nào trong hai cơ chế trên?

Theo khoản 12 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại: “Phán quyết của trọng tài nước ngoài là phán quyết do Trọng tài nước ngoài tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc ở trong lãnh thổ Việt Nam để giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận lựa chọn”. Quy định này tương thích với khoản 2 Điều 342 Bộ luật Tố tụng dân sự về quyết định trọng tài nước ngoài (25). Với quy định như vừa nêu, có nhiều khả năng quyết định (phán quyết) của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam phải theo thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam như trường hợp liên quan đến Conares Metal Supply Ltd. nêu trên (ở vụ việc này, phán quyết của Trọng tài ICC đã theo thủ tục công nhận và cho thi hành quyết định trọng tài nước ngoài tại Việt Nam) (26).

2.4. Giá trị của phán quyết Trọng tài nước ngoài

Trong vụ việc mà chúng ta đang nghiên cứu, Tòa án đã ra quyết định theo hướng Hội đồng trọng tài không có thẩm quyền giải quyết. Trong thực tiễn những năm gần đây, loại quyết định theo hướng Hội đồng trọng tài không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp không hiếm đối với Trọng tài được thành lập theo pháp luật Việt Nam (tức Trọng tài Việt Nam).

Khi Tòa án ra quyết định theo hướng Hội đồng trọng tài không có thẩm quyền, chúng tôi chưa gặp trường hợp nào Hội đồng trọng tài (Việt Nam) tiếp tục giải quyết (27). Điều này cho thấy, quyết định của Tòa án đã được Trọng tài Việt Nam tôn trọng trong thực tế. Tuy nhiên, sự tôn trọng đối với quyết định của Tòa án về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài không luôn tồn tại đối với Trọng tài nước ngoài. Thực tế có thể xảy ra trường hợp Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam không chấp nhận quyết định của Tòa án Việt Nam về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài và tiếp tục giải quyết tranh chấp, ban hành phán quyết về nội dung của tranh chấp. Trong vụ việc đang được nghiên cứu, Tòa án đã theo hướng Hội đồng trọng tài của ICC không có thẩm quyền nhưng có nhiều khả năng Hội đồng trọng tài vẫn tiếp tục giải quyết và ra phán quyết của mình. Trong trường hợp này, phán quyết của Trọng tài không có giá trị pháp lý ở Việt Nam, không được thi hành tại Việt Nam.

Tuy nhiên, phán quyết của Trọng tài nước ngoài không được chấp nhận ở Việt Nam không có nghĩa là không thể được công nhận và cho thi hành ở nước ngoài. Ở một số nước như Pháp, phán quyết của Trọng tài nước ngoài vẫn có thể được công nhận và cho thi hành mặc dù bị hủy theo pháp luật của nước nơi phán quyết được tuyên (28). Do đó, phía nước ngoài vẫn có thể đưa phán quyết của Trọng tài ra nước ngoài thi hành nếu phía Việt Nam có tài sản ở nước ngoài; phán quyết Trọng tài không có giá trị đối với phía Việt Nam ở Việt Nam nhưng vẫn có thể ràng buộc họ ở nước ngoài nếu pháp luật nước ngoài cho phép công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài bị hủy ở nước mà tranh chấp được giải quyết. Đây là điều mà phía Việt Nam cần lưu ý, nhất là khi họ có tài sản (cố định hay lưu động như xe, tầu, máy bay) ở nước ngoài và không nên ngộ nhận rằng phán quyết trọng tài bị hủy ở Việt Nam sẽ không được công nhận và cho thi hành ở nước ngoài (29).

3. Kết luận

Vấn đề Tòa án Việt Nam có thẩm quyền can thiệp vào hoạt động tố tụng của Trọng tài nước ngoài ở Việt Nam đã được đặt ra trong quá trình xây dựng Luật Trọng tài thương mại và hiện nay vẫn có quan điểm trái chiều nhau.

Trong vụ việc được nghiên cứu, Tòa án đã ra Quyết định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài nước ngoài và là quyết định đầu tiên mà chúng tôi biết liên quan đến thẩm quyền của Tòa án Việt Nam đối với hoạt động tố tụng của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Trước sự chưa rõ ràng của văn bản và trước những quan điểm trái chiều nhau về thẩm quyền của Tòa án Việt Nam đối với Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, Quyết định này đáng được lưu tâm và không thiếu yếu tố thuyết phục. Về phạm vi thẩm quyền, Tòa án có thẩm quyền trong những trường hợp nào đối với Trọng tài Việt Nam tại Việt Nam thì cũng có thẩm quyền trong trường hợp tương ứng đối với Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Đối với phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, chúng ta theo cơ chế công nhận và cho thi hành quyết định trọng tài nước ngoài tại Việt Nam (không theo cơ chế hủy phán quyết trọng tài như đối với Trọng tài Việt Nam).

Kinh nghiệm cho thấy, Tòa án nơi Trọng tài giải quyết tranh chấp có thẩm quyền trợ giúp và giám sát Trọng tài là điều bình thường. Tuy nhiên, nội dung can thiệp của Tòa án vào hoạt động tố tụng của Trọng tài có thể ảnh hưởng đến uy tín của hệ thống pháp luật của Tòa án và uy tín của hệ thống pháp luật của chúng ta không phụ thuộc nhiều vào vấn đề Tòa án của chúng ta có thẩm quyền hay không đối với hoạt động tố tụng của Trọng tài, mà vào vấn đề thẩm quyền đó được sử dụng như thế nào trong thực tế. Chúng tôi ủng hộ việc ghi nhận thẩm quyền của Tòa án đối với hoạt động tố tụng của Trọng tài nước ngoài ở Việt Nam và hy vọng, khi có thẩm quyền, Tòa án của chúng ta đưa ra được những phán quyết thấu tình, đạt lý (30). Lưu ý rằng, nếu chúng ta ứng xử quá bất lợi cho Trọng tài nước ngoại tại Việt Nam, thì sẽ dẫn đến tình trạng các vụ việc liên quan đến phía Việt Nam sẽ không được giải quyết tại Việt Nam, mà sẽ được giải quyết ở nước ngoài (như ở Paris, Hồng Kông, Singapore) và lúc đó phía Việt Nam gánh chịu nhiều bất lợi.

(1). Theo khoản 11 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại, “Trọng tài nước ngoài là Trọng tài được thành lập theo quy định của pháp luật trọng tài nước ngoài do các bên thỏa thuận lựa chọn để tiến hành giải quyết tranh chấp ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam”.

(2). Trong Quyết định số 625/2012/QĐST-KDTM ngày 14/5/2012 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh.

(3). Trong thực tế việc khai thác quy định trong văn bản khác Bộ luật Tố tụng dân sự để xác định thẩm quyền của Tòa án là khá phổ biến. Ví dụ, liên quan đến một mảnh đất bà Hương chuyển nhượng quyền sử dụng cho chị Tho và chị Tho yêu cầu bà Hương cùng chồng (ông Thiện) thực hiện thủ tục sang tên, trong Quyết định số 168/2012/DS-GĐT ngày 28/3/2012 Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao đã xét rằng, “do vợ chồng bà Hương, ông Thiện phải thi hành một bản án khác có liên quan đến diện tích đất nêu trên của chị Tho nên Thi hành án dân sự huyện Nhơn Trạch có thông báo bằng văn bản cho chị Tho có quyền khởi kiện tại Tòa án. Như đã phân tích, thực tế không có tranh chấp về quyền sử dụng đất mà chị Tho chỉ yêu cầu được xác định 166m2 đất thuộc quyền sử dụng của chị. Lẽ ra, trong trường hợp này Tòa án cấp sơ thẩm hướng dẫn chị Tho viết lại đơn khởi kiện và Tòa án căn cứ vào khoản 6, Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 “các yêu cầu khác về dân sự mà pháp luật có quy định” để thụ lý việc dân sự và xác định quan hệ là “yêu cầu xác định quyền sử dụng tài sản”. Các yêu cầu khác về dân sự mà pháp luật quy định trong trường hợp cụ thể này được quy định tại Điều 41 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 (nay là Điều 74 Luật Thi hành án dân sự năm 2008). Do đó, việc giải quyết yêu cầu của chị Tho thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Nhơn trạch”.

(4). “Đối với yêu cầu giải quyết khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài về thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi Hội đồng trọng tài ra quyết định;”.

(5). “Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này là Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”.

(6). Theo một số chuyên gia về trọng tài, “rất nhiều hệ thống pháp luật, trực tiếp hay gián tiếp, theo hướng những quy định tố tụng của họ đương nhiên áp dụng cho trọng tài có địa điểm trên lãnh thổ nước mình, không cần phải phân biệt đó là trọng tài quốc nội hay quốc tế”: Ph. Fouchard, E. Gaillard và B. Goldman, Traité de l’arbitrage commercial international, Nxb. Litec 1996, phần số 92.

(7). Về pháp luật trọng tài Tây Ban Nha, xem La nouvelle loi espagnole sur l’arbitrage: Gazette du Palais, 04/12/2004 n° 339, tr. 5; Carmen NÚÑEZ-LAGOS, Réflexions autour de la réforme de la Loi Espagnole d’Arbitrage: Cahiers de l’arbitrage, 01/01/2012, n° 1, tr. 235.

(8). Xem Christoph LIEBSCHER và Florian HAUGENEDER, Autriche: le nouveau droit de l’arbitrage: Gazette du Palais, 22 avril 2006 n° 112, tr. 14.

(9). Lotfi CHEDLY, L’arbitrage international en droit tunisien.- Quatorze ans après le Code: Journal du droit international (Clunet) n° 2, Avril 2008, doctr. 4, phần số 64.

(10). Thomas CLAY, Le siège de l’arbitrage international entre «ordem» et « progresso»: Gazette du Palais, 02/7/2008 n° 184, tr. 20, phần số 18.

(11). Về pháp luật trọng tài Pháp sau khi sửa đổi năm 2011, xem Thomas CLAY, L’appui du juge à l’arbitrage: Cahiers de l’arbitrage, 01/4/2011 n° 2, tr. 331; Sylvain BOLLÉE, Le droit français de l’arbitrage international après le décret n° 2011-48 du 13 janvier 2011: Revue critique de droit international privé 2011, tr. 553.

(12). Theo Điều 1 Luật Trọng tài thương mại, Luật này quy định về “tổ chức và hoạt động của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam” và, trong phần sau, Luật Trọng tài chỉ có quy định về “điều kiện và hình thức” hoạt động của Tổ chức trọng tài nước ngoài tại Việt Nam” (Điều 73 và tiếp theo). Ở đây, Luật có quy định rõ về hoạt động của Tổ chức trọng tài nước ngoài như văn phòng đại diện, chi nhánh cũng như quyền và nghĩa vụ của Tổ chức trọng tài nước ngoài tại Việt Nam nhưng không nói rõ về “hoạt động giải quyết vụ việc” của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Nói cách khác, Luật Trọng tài thương mại hiện hành chưa thực sự minh thị về thẩm quyền của Tòa án Việt Nam đối với hoạt động tố tụng của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam và Tòa án thừa nhận thẩm quyền can thiệp của mình là do hiểu “thông thoáng” các quy định tại Điều 1.

(13). Nghị quyết 48-NQ/TW ban hành ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống phát luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, nêu rõ: “Nghiên cứu về khả năng khai thác, sử dụng án lệ, tập quán (kể cả tập quán, thông lệ thương mại quốc tế) và quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp, góp phần bổ sung và hoàn thiện pháp luật”. Thực hiện Nghị quyết 48-NQ/TW, UBTVQH Khóa XI đã ban hành Kế hoạch số 900/UBTVUQH11 ngày 21/3/2007, trong đó đề ra nhiệm vụ “nghiên cứu và phát triển việc tổng hợp án lệ” trong giai đoạn từ 2007 đến 2012.

(14). Theo khoản 1 Điều 43 Luật Trọng tài thương mại Việt Nam, “trước khi xem xét nội dung vụ tranh chấp, Hội đồng trọng tài phải xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài; thỏa thuận trọng tài có thể thực hiện được hay không và xem xét thẩm quyền của mình. Trong trường hợp vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì Hội đồng trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật này. Trường hợp không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình, thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc xác định rõ thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì Hội đồng trọng tài quyết định đình chỉ việc giải quyết và thông báo ngay cho các bên biết”.

(15). Emmanuel GAILLARD và Pierre DE LAPASSE, Commentaire analytique du décret du 13janvier 2011 portant réforme du droit français de l’arbitrage: Cahiers de l’arbitrage, 01/4/2011 n° 2, tr. 263, phần số 99.

(16). Về chủ đề này, xem Đỗ Văn Đại và Trần Hoàng Hải, Pháp luật Việt Nam về Trọng tài thương mại, Nxb. CTQG 2011, phần số 181 và 182.

(17). Về chủ đề này, xem Đỗ Văn Đại và Trần Hoàng Hải, sđd, phần số 227 và tiếp theo.

(18). Về chủ đề này, xem Đỗ Văn Đại và Trần Hoàng Hải, sđd, phần số 107 và tiếp theo.

(19). Theo khoản 10 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại, “Phán quyết trọng tài là quyết định của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài”.

(20). Theo khoản 9 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại, “Quyết định trọng tài là quyết định của Hội đồng trọng tài trong quá trình giải quyết tranh chấp”.

(21). Đối với quyết định của Hội đồng trọng tài về thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, Tòa án có thẩm quyền xem xét lại như trong vụ việc đang được bình luận và chỉ có một thẩm phán duy nhất xem xét (khoản 4 Điều 44 Luật Trọng tài thương mại). Ngược lại, nếu là phán quyết trọng tài, Tòa án có thẩm quyền để hủy nhưng với một Hội đồng gồm 03 thẩm phán (khoản 2 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại) và ”phiên họp được tiến hành với sự có mặt của các bên tranh chấp, luật sư của các bên, nếu có, Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp” (khoản 3 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại). Trong văn bản Giải thích Quyết định mà chúng ta đang bình luận (xem phần số 4), Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh sự khác nhau giữa quyết định trọng tài và phán quyết trọng tài khi xét rằng, trong trường hợp các bên cho rằng, Tòa án cần phải tiến hành lập Hội đồng xét đơn và mở phiên họp để xét xử, các bên cần cung cấp bằng chứng cho Tòa chứng minh rằng, Quyết định sơ bộ của Hội đồng trọng tài ICC là một phán quyết trọng tài mà không phải là quyết định trọng tài. Nếu có đủ cơ sở để chứng minh như vậy, Tòa án sẽ tiến hành thành lập Hội đồng xét đơn và mở phiên họp để OB được tham gia quá trình xét đơn để bảo vệ quyền lợi của mình.

(22). Theo khoản 4 Điều 343 Bộ luật Tố tụng dân sự, “quyết định của Trọng tài nước ngoài chỉ được thi hành tại Việt Nam sau khi được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành”.

(23). Theo khoản 1 Điều 66 Luật Trọng tài thương mại, “hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài theo quy định tại Điều 69 của Luật này, bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài”. Với quy định này, nếu không có yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, phán quyết trọng tài được thi hành ở Việt Nam như bản án của Tòa án mà không cần phải qua thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.

(24). Về những điểm khác nhau đối với hai loại phán quyết (quyết định) này, xem Đỗ Văn Đại và Trần Hoàng Hải, sđd, phần số 329 và tiếp theo.

(25). “Quyết định của Trọng tài nước ngoài là quyết định được tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam của Trọng tài nước ngoài do các bên thoả thuận lựa chọn để giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật kinh doanh, thương mại, lao động”

(26). Về vụ việc này, xem Đỗ Văn Đại và Trần Hoàng Hải, Tuyển tập bản án, quyết định của Tòa án Việt Nam về trọng tài thương mại, Nxb. Lao động 2010, quyết định số 44 và 45.

(27). Theo khoản 6 Điều 44 Luật Trọng tài thương mại, “trong trường hợp Toà án quyết định vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, không có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, Hội đồng trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp”.

(28). Về chủ đề này, xem Đỗ Văn Đại và Trần Hoàng Hải, Pháp luật Việt Nam về…, sđd, phần số 397; Rodrigo BORDACHAR URRUTIA, Conférence de l’ICC YAF sur la reconnaissance et exécution des sentences arbitrales annulées au siège de l’arbitrage, Santiago du Chili, 28mars 2012: Cahiers de l’arbitrage, 01/4/2012 n° 2, tr. 468.

(29). Hiện nay còn khá nhiều luật gia Việt Nam cho rằng phán quyết trọng tài đã bị hủy ở Việt Nam sẽ không có giá trị ở nước ngoài (tại Hội thảo tổ chức ở Thành phố Hồ Chí Minh vào cuối năm 2009 về hủy quyết định trọng tài, rất nhiều luật gia đã phản đối việc chúng tôi cho rằng phán quyết trọng tài bị hủy ở Việt Nam vẫn có thể được công nhận và cho thi hành ở nước ngoài nếu pháp luật nước ngoài cho phép điều này).

(30). Trong thực tế, đối với cùng một vụ việc, đã xảy ra trường hợp Tòa án nước này cho rằng Trọng tài có thẩm quyền nhưng Tòa án nước khác theo hướng Trọng tài không có thẩm quyền do không có thỏa thuận trọng tài (xem Gilles CUNIBERTI, Divergence d’appréciation entre juges français et anglais du contrôle sur l’existence d’une convention d’arbitrage: Cahiers de l’arbitrage, 01/4/2011 n° 2, tr. 433). Điều này phần nào cho thấy có nhiều vấn đề mà hướng giải quyết không phụ thuộc vào việc người được yêu cầu giải quyết có quyền hay không có quyền quyết định mà phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người quyết định.

PGS.TS. Đỗ Văn Đại

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hôn nhân trong thời đại ngày  nay được hình thành trên cơ sở tình yêu chân chính, hai bên nam nữ yêu thương nhau và mong muốn tiến tới hôn nhân. Nên việc kết hôn của họ là tự nguyện. Đây là điều hết sức quan trọng và cần thiết để có thể duy trì một cuộc hôn nhân bền vững và hạnh phúc. Chính vì vậy, nguyên tắc kết hôn tự nguyện là nguyên tắc được đặt lên hàng đầu, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, cụ thể tại Điều 36 của Hiến pháp 2013 đã quy định:
“Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.”

Và đây cũng nguyên tắc cơ bản và xuyên suốt của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 (Khoản 1, Điều 2 Luật này).

Do đó, nếu như có sự lừa dối để kết hôn hay cưỡng ép kết hôn thì sẽ không đem lại hạnh phúc trong quan hệ vợ chồng và nó vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tự nguyện. Đây cũng chính là một trong những căn cứ để hủy kết hôn trái pháp luật. Vậy thế nào là hủy kết hôn trái pháp luật? Cưỡng ép kết hôn là gì? Và như thế nào là sự lừa dối để kết hôn. Hãy cùng tìm hiều trong bài viết này.

Để hiểu rõ hủy kết hôn trái pháp luật là gì, trước hết ta cần biết thế nào là kết hôn trái pháp luật. Kết hôn trái pháp luật là việc nam nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một hoặc cả hai bên vi phạm các điều kiện kết hôn. Cụ thể các điều kiện kết hôn như sau:
– Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên

  • Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định

  • Không bị mất năng lực hành vi dân sự

  • Không thuộc các trường hợp cấm kết hôn, như: kết hôn giả tạo; tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;  người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ; kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.

Hôn nhân vi phạm những điều trên là  hôn nhân trái pháp luật và sẽ không được pháp luật thừa nhận, do đó cá nhân, tổ chức có liên quan có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật này. Việc lừa đối để kết hôn hay cưỡng ép để kết hôn vi phạm nguyên tắc tự nguyện , hay nói cách khác là vi phạm các điều kiện kết hôn nên nó chính là căn cứ để hủy kết hôn trái pháp luật.

  1. Những biểu hiện của cưỡng ép kết hôn và lừa dối để kết hôn.

a. Cưỡng ép kết hôn: Là hành vi buộc người khác phải kết hôn trái với nguyện vọng của họ bằng việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc các hành vi khác. Được hướng dẫn cụ thể tại Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 về hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Mặc dù Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã hết hiệu lực nhưng đến nay nghị quyết này vẫn còn hiệu lực và vẫn được sử dụng. Theo đó, cưỡng ép kết hôn có hai trường hợp:

  • Một bên ép buộc : Một trong hai bên nam nữ đã đe dọa dùng vũ lực hoặc uy hiếp tinh thần hoặc dùng vật chất để ép buộc bên còn lại kết hôn với mình.
  • Bị người khác cưỡng ép kết hôn: Một hoặc cả hai bên nam, nữ bị người khác kết hôn như bố mẹ của người nữ do nợ của người nam một khoản tiền nên  đã cưỡng ép con gái mình phải kết hôn với người nam để trả nợ, do bố mẹ của hai bên có hứa hẹn với nhau nên cưỡng ép con của họ phải kết hôn với nhau…

Ngoài ra hành vi Cưỡng ép kết hôn còn được hướng dẫn tại tại điểm 2 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25 tháng 9 năm 2001 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng các quy định tại Chương XV “Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình” của Bộ luật hình sự năm 1999 thì:

Hành vi cưỡng ép kết hôn được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn khác nhau như hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc thủ đoạn khác.

  • Hành hạ, ngược đãi là đối xử tàn ác, tồi tệ đối với người khác gây đau khổ về thể xác hoặc tinh thần kéo dài, như: thường xuyên đánh đập (có thể không gây thương tích), giam hãm, bắt nhịn ăn, nhịn uống, bắt chịu rét, nhiếc móc, làm nhục v.v… nhằm mục đích cưỡng ép việc kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ. Cần lưu ý rằng, hành vi hành hạ, ngược đãi là thủ đoạn của tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, cho nên không truy cứu trách nhiệm hình sự thêm về tội hành hạ, ngược đãi quy định tại Điều 110 hoặc Điều 151 Bộ luật hình sự.

  • Uy hiếp tinh thần là đe dọa sẽ gây thiệt hại đến tính mạng, sức  khỏe, danh dự, tài sản hoặc lợi ích thiết thân của người bị đe dọa làm cho người đó có căn cứ để lo sợ thực sự mà phải chịu khuất phục như đe dọa sẽ đốt nhà, giết người thân, tiết lộ bí mật đời tư của người bị đe dọa , bố mẹ hoặc người thân trong gia đình đe dọa sẽ tự tử nếu hai bên nam nữ lấy nhau, con  đe dọa là sẽ bỏ nhà hoặc tự tử nếu bố, mẹ lấy vợ, lấy chồng mới…

  • Yêu sách của cải là đòi hỏi của cải một cách quá đáng, không nhân nhượng và coi đó là một trong những điều kiện để được kết hôn nhằm cản trở hôn nhân tự nguyện giữa đôi bên nam nữ.

  • Thủ đoạn khác có thể là buộc một bên hoặc cả hai bên đi xa nhằm chia rẽ họ; bắt cóc người không muốn lấy mình làm vợ hoặc làm chồng để buộc họ phải kết hôn trái ý muốn; một bên gia đình tiến hành dựng vợ, gả chồng cho người thân của mình với người khác trái với ý muốn của người đó nhằm chia rẽ người thân đó với người mà họ muốn tự nguyện kết hôn; v.v…

Do đó, hành vi cưỡng ép kết hôn không những vi phạm nguyên tắc kết hôn tự nguyện, làm căn cứ để hủy kết hôn trái pháp luật mà hành vi này có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm cụ thể nếu như là lần đầu thì sẽ bị xử lý hành chính, mức xử phạt là bị phạt cảnh cáo hoặc bị xử phạt từ 100.000.000đ đến 300.000.000đ (Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình.) , nếu đã bị xử lý hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Điều 146 Bộ Luật hình sự, theo đó người có hành vi cưỡng ép kết hôn sẽ bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

b.Lừa dối để kết hôn

Là việc một trong hai bên nam, nữ nói sai sự thật về mình để bên kia lầm tưởng để kết hôn như lừa đối nếu kết hôn sẽ xin việc làm phù hợp hoặc nếu kết hôn sẽ bảo lãnh ra nước ngoài, không có khả năng sinh lý nhưng cố tình giấu, biết mình bị nhiễm HIV nhưng cố tình giấu…

Vậy nếu như một người khi mới kết hôn xong mới biết vợ mới cưới mang thai con của người khác chứ không phải của mình thì có phải là lừa dối để kết hôn không?. Ở đây cần xác định rõ là có hành vi lừa đối ở đây không, nếu như người vợ nói dối người chồng đây là đứa con của anh ta để được kết hôn thì là hành vi lừa dối. Tuy nhiên nếu như người chồng nhầm tưởng đó là đứa con của mình nên đã yêu cầu kết hôn, và người vợ đồng ý thì đây chưa chắc là hành vi lừa dối.

  1. Quyền yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật và hướng giải quyết của Tòa án

Người có quyền yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật trong trường hợp này là Người bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn hoặc họ có thể đề nghị các cá nhân, tổ chức sau: Cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái pháp luật; cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật. Khi nhận được yêu cầu này thì Tòa án có hai hướng giải quyết:

  • Nếu sau khi bị ép buộc, bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép kết hôn mà cuộc sống không có hạnh phúc, không có tình cảm vợ chồng, thì quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật.

  • Nếu sau khi bị ép buộc, bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép kết  hôn mà bên bị ép buộc, bị lừa dối hoặc  bị cưỡng ép đã biết, nhưng đã thông cảm, tiếp tục chung sống hòa thuận thì không quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật. Nếu mới phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn thì Tòa án thụ lý vụ án để giải quyết ly hôn theo thủ tục chung.

Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc hủy kết hôn tái pháp luật là trong thời hạn một năm, kể từ ngày biết quyền  lợi của mình bị xâm hại, làm phát sinh yêu cầu. (Khoản 2, Điều 159 BLTTDS)

  1. Hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật là:
  • Về quan hê nhân thân: Bên cạnh ly hôn, thì hủy kết hôn trái pháp luật cũng dẫn đến chấm dứt quan hệ hôn nhân. Tuy nhiên, điểm khác giữa chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa ly hôn và hủy kết hôn trái pháp luật. Nếu như ly hôn thì kể từ ngày có quyết định của Tòa án về việc ly hôn thì hai bên coi như chấm dứt quan hệ hôn nhân nhưng trước đó họ từng tồn tại quan hệ hôn nhân và được pháp luật bảo vệ , còn hủy kết hôn trái pháp luật thì trước khi có quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì quan hệ hôn nhan của họ là trái pháp luật, không được Nhà nước thừa nhận,hay nói cách khác là kể từ thời điểm các bên bắt đầu chung sống với nhau cho đến khi tòa hủy kết hôn trái pháp luật thì hai người chưa từng phát sinh và tồn tại hôn nhân hợp pháp.
  • Về quan hệ giữa cha, mẹ và con: Quyền lợi của con được giải quyết như trường hợp ly hôn.
  • Về quan hệ tài sản: Tài sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó, tài sản chung được chia theo nguyên tắc thỏa thuận của các bên, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên, ưu tiên bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và con.

Căn cứ pháp lý

  • Luật hôn nhân và gia đình 2014 ngày 19/62014 có hiệu lực từ ngày 1/1/2015.
  • Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25 tháng 9 năm 2001 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng các quy định tại Chương XV “Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình” của Bộ luật hình sự năm 1999
  • Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 về hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Chức năng của văn bản quản lý nhà nước, những chức năng cơ bản nhất, thông tin, quản lý, pháp lý, thống kê, xã hội,…

1) Chức năng thông tin:

  • Là chức năng cơ bản nhất , bao gồm việc ghi lại các thông tin quản lý , truyền đạt các thông tin đó ; giúp các cơ quan thu nhận các tin cần thiết cho hoạt động quản lý, đánh giá các thông tin thu được qua các hệ thống truyền đạt thông tin khác ,
  • Để đảm bảo chức năng thông tin , phải quan tâm đến khả năng tiếp cận thông tin qua văn bản thuận lợi hay không ; những thông tin đó được sử dụng như thế nào?
  • Dưới dạng văn bản , thông tin thường gồm 3 loại : thông tin quá khứ (liên quan đến sự việc đã được giải quyết), chức năng hiện tại (liên quan đến sự việc đang xảy ra hàng ngày); thông tín dự báo ( mang tính KH tương lai, dự báo chiến lược)

2) Chức năng quản lý :

  • Được thể hiện ở chỗ là công cụ , phương tiện để tổ chức có hiệu quả công việc (trong cơ quan hành chính nhà nước là công cụ tổ chức các hoạt động quản lý , ví dụ thông tư , chỉ thị , quyết định , điều lệ thông báo…)
  • Để đảm bảo chức năng quản lý , văn bản phải đảm bảo được khả năng thực thi của cơ quan nhận được (tính hiệu quả khả thi của văn bản )
  • Từ góc độ chức năng quản lý , văn bản quản lý hành chính nhà nước gồm 2 loại:
  • Những văn bản là cơ sở tạo nên tính ổn định của bộ máy lãnh đạo và quản lý (xác định chức năng , nhiệm vụ , quyền hạn vị trí của mỗi cơ quan cơ quan ; xác lập mối quan hệ, điều kiên hoạt động , ví dụ nghị định , nghị quyết , quyết định thành lập , điều lệ…)
  • Những văn bản giúp cho cơ quan quản lý hành chính nhà nước tổ chức các hoạt động cụ thể theo quyền hạn của mình (quyết định , chỉ thị , thông báo , công văn , báo cáo…)

3) Chức năng pháp lý:

  • Là cơ sở pháp lý để giải quyết các nhiệm vụ cụ thể trong quản lý hành chính nhà nước (văn bản ghị lại và truyền đạt các quy phạm pháp luật và các quyết định hành chính )
  • Thể chế trên hai phương diện: chứa đựng các quy phạn pháp luật ; là căn cứ pháp lý để thực hiện nhiệm vụ cụ thể (ngoài ra tùy thuộc từng loại văn bản còn thể hiện trong việc xác lập mối quan hệ giữa các cơ quan thuộc bộ máy hành chính nhà nước , khi xây dựng và ban hành phải cẩn thận , chuẩn mực
  • Các văn bản biểu hiện tính chất pháp lý không giống , có những văn bản chỉ mang tính thông tin quản lý thông thường , có loại mang tính cưỡng chế thực hiện.

4) Các chức năng khác :

  • Chức năng văn hóa xã hội
  • Chức năng thống kê

Trong bộ hoặc các cơ quan ngang bộ có các loại văn bản sau đã được sử dụng :

  • Văn bản QPPL dưới luật ;QĐ, chỉ thị ,thông tư
  • Văn bản hành chính thông thường: công văn báo cáo  ,thông báo , tờ trình , biên bản , đề án…..

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

1.Yêu cầu bán tài sản để thi hành án

Cuối 2009, tôi đặt cọc cho ông Hương 200 triệu đồng để mua căn nhà đứng tên ông (giá 2 tỷ đồng), sau đó vì ông Hương vi phạm hợp đồng nên tôi không mua nữa và đòi cọc lại. Đầu 2010, tôi kiện ra Toà án quận. Trước Toà, ông Hương cam kết sau khi bán được nhà sẽ trả lại cọc. Sau đó Toà ra quyết định công nhận sự hoà giải của hai bên, đồng ý huỷ hợp đồng đặt cọc, và ông Hương phải trả lại tiền cọc cho tôi. Quyết định của Toà còn nói rõ tôi có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án tổ chức thi hành án theo các Điều 7, 30, 31, 32 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Nhưng suốt 2 năm qua ông Hương không chịu bán nhà để trả lại cọc cho tôi như đã thoả thuận trước Toà lấy lý do là đợi đường đất trước nhà lên đường nhựa để bán với giá cao hơn. Nay tôi có thể yêu cầu, cơ quan thi hành án kê biên phát mãi căn nhà của ông Hương để thu hồi số tiền trên hay không? (trong quyết định của Toà không có điều khoản nào cho phép phong toả cũng như kê biên phát mãi tài sản của ông Hương, hiện ông Hương chỉ có một tài sản duy nhất là căn nhà trên).

Gửi bởi: Lê Huy Nhu

Trả lời có tính chất tham khảo

Trường hợp ông hỏi, ông nêu Toà ra quyết định công nhận sự hoà giải của hai bên, đồng ý huỷ hợp đồng đặt cọc và ông Hương phải trả lại tiền cọc cho ông, tuy nhiên ông chưa nêu rõ quyết định công nhận thỏa thuận của Tòa án có công nhận nội dung ông Hương “sau khi bán được nhà sẽ trả lại cọc” cho ông hay không.

Vì vậy:

1. Nếu quyết định công nhận thoả thuận của Tòa án có tuyên rõ nội dung sau khi ông Hương bán được nhà sẽ trả tiền đặt cọc cho ông thì cơ quan thi hành án dân sự không thể cưỡng chế kê biên, bán đấu giá tài sản để thi hành án cho ông nếu ông Hương chưa bán được nhà, vì Tòa án đã tuyên điều kiện trả tiền cho ông sau khi ông Hương bán được nhà.

2. Trường hợp Toà ra quyết định công nhận sự hoà giải của hai bên, đồng ý huỷ hợp đồng đặt cọc và ông Hương phải trả lại tiền cọc cho ông, nhưng không có nội dung công nhận thỏa thuận ông Hương “sau khi bán được nhà sẽ trả lại cọc cho ông”, thì ông có quyền yêu cầu Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với ông Hương, kể cả việc cưỡng chế kê biên, bán đấu giá ngôi nhà của ông Hương theo quy định tại khoản 2 Điều 9, Điều 72 Luật Thi hành án dân sự và Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự.

Các văn bản liên quan:

Nghị định 58/2009/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự


2.Thu tiền của người được thi hành án để nộp tiền án phí

Quyết định thi hành án buộc ông Nguyên Văn A phải tháo dỡ toàn bộ tài sản nằm trên phần đất 100m2 thuộc tờ bản đồ số 7B, số thửa 125A để trả ông Nguyễn Văn H và ông H có nghĩa vụ nộp tiền hỗ trợ để ông A phá dỡ là 20.000.000đ. Ngày 15/10/2011 ông Nguyễn Văn H có đơn yêu cầu thi hành án và Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện T đã ra quyết định thi hành án hai khoản trên và ông H đã tự nguyện nộp số tiền 20.000.000đ tại cơ quan thi hành án. Quá trình giải quyết việc thi hành án đến ngày 05/3/2012 ông H có đơn không yêu cầu chi cục thi hành án phải thi hành khoản phá dỡ công trình, rút đơn yêu cầu thi hành án Chi cục Thi hành án huyện T đã ra quyết định đình chỉ phần phá dỡ và ông H xin được rút lại số tiền 20.000.000đ đã nộp. Vậy Chi cục thi hành án huyện T có trả lại số tiền trên cho ông H không? Cơ sở pháp lý nào? Hiện ông A không nhận tiền và cũng không có ý kiến gì về khoản tiền trên? Hiện ông A đang phải thi hành khoản tiền án phí là 22.000.000đ nhưng không nộp, cơ quan thi hành án huyện T có khấu trừ số tiền trên sang án phí được không?

Gửi bởi: Tue Minh

Trả lời có tính chất tham khảo

Nếu nội dung vụ việc đúng như bạn nêu, thì ông H vừa là người được thi hành án, vừa là người phải thi hành án, nhưng quyền và nghĩa vụ đã được phân định rõ ràng, độc lập nhau.

Nghĩa vụ phải thi hành án của ông H là nộp tiền hỗ trợ để ông A phá dỡ là 20.000.000 đồng. Ông H đã làm đơn yêu cầu thi hành án và tự nguyện nộp số tiền 20.000.000 đồng. Trong trường hợp này, trong thời hạn không quá 10 ngày kể từ ngày thu tiền thi hành án, cơ quan thi hành án phải tiến hành chi trả cho các đối tượng được thi hành án theo thứ tự quy định tại Điều 47 Luật Thi hành án dân sự, thu phí thi hành án theo quy định tại Thông tư liên tịch số 144/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 22 tháng 09 năm 2010 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp và có biện pháp xử lý các khoản tiền, tồn đọng theo các hình thức đối với những khoản tiền đã báo gọi nhưng đương sự chưa đến nhận hoặc chưa xác định được địa chỉ của người nhận, hoặc trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày thông báo mà đương sự không đến nhận, thì cơ quan thi hành án làm thủ tục đứng tên gửi số tiền đó vào ngân hàng theo loại tiền gửi tiết kiệm 01 tháng cho đến khi đương sự đến nhận tiền. Cơ quan thi hành án phải mở sổ theo dõi ghi thông tin về sổ tiết kiệm cùng với tên người được thi hành án, tên bản án, tên quyết định thi hành án. Phần lãi suất tiền gửi tiết kiệm sẽ được cộng vào số tiền gửi ban đầu và trả cho đương sự. Trường hợp hết thời hạn 05 năm kể từ ngày thông báo mà người được thi hành án không đến nhận thì cơ quan thi hành án làm thủ tục chuyển nộp số tiền đó vào Ngân sách Nhà nước. Cơ quan thi hành án mở tài khoản tại ngân hàng để gửi đối với khoản tiền gửi không đủ điều kiện để lập sổ tiết kiệm.

Do đó, số tiền 20.000.000 đồng ông H nộp trả ông A là của ông A, cơ quan thi hành án không trả ông H. Ông A phải thi hành khoản tiền án phí là 22.000.000 đồng nhưng không tự nguyện thi hành án, thì cơ quan thi hành án có quyền thu số tiền 20.000.000 đồng để thi hành khoản án phí của ông A và cần thông báo chi tiết, cụ thể cho ông A biết.

Các văn bản liên quan:

Thông tư liên tịch 144/2010/TTLT-BTC-BTP Hướng dẫn về chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án dân sự

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS


3.Việc cưỡng chế kê biên tài sản là đúng hay sai

Bố mẹ tôi ly hôn vào năm 2000. Trong bản án của tòa án công nhận mẹ tôi được quyền quản lý sử dụng toàn bộ diện tích đất 200m2, tuy nhiên mẹ tôi phải trả lại khoản chênh lệch cho bố tôi là 9.000.000đ. Do hoàn cảnh lúc đó mẹ tôi chưa có tiền để đưa cho bố tôi ngay nên mẹ tôi chỉ đưa trước 1.000.000đ, số tiền còn lại mẹ tôi đã làm giấy cam kết (có xác nhận của địa phương) trả từ từ cho bố tôi trong một thời gian ngắn. Đến năm 2001, cơ quan thi hành án đã xuống nhà tôi cưỡng chế kê biên tài sản của mẹ tôi mà không hề có bất cứ giấy tờ gì nhằm thông báo lý do hay căn cứ để kê biên. Tôi muốn hỏi việc làm đó của cơ quan thi hành án là đúng hay sai?

Gửi bởi: Nguyễn Minh Tấn

Trả lời có tính chất tham khảo

Nội dung bạn hỏi liên quan đến một số vấn đề, chúng tôi trao đổi như sau:

1. Về việc tự nguyện thi hành án:

Theo trình bày của bạn, mẹ bạn có quyền sử dụng diện tích đất 200m2 và có nghĩa vụ trả cho bố bạn 9.000.000 đồng, nếu mẹ bạn không tự nguyện thi hành án trả đủ số tiền này thì bị cưỡng chế thi hành theo quy định của pháp luật. Mẹ bạn đã đưa cho bố bạn 1.000.000 đồng, số tiền còn lại cam kết trả từ từ trong thời gian ngắn có xác nhận của địa phương, nhưng quan trọng là phải được sự đồng ý của bố bạn. Bố bạn không đồng ý và đề nghị cơ quan thi hành án dân sự thi hành án thì việc cơ quan thi hành án kê biên, xử lý tài sản của mẹ bạn để thi hành án là có căn cứ, phù hợp pháp luật.

2. Về thủ tục kê biên, xử lý tài sản:

Về nguyên tắc, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án phải thực hiện đúng trình tự, thủ tục do pháp luật về thi hành án dân sự quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ “quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự” và các văn bản pháp luật liên quan (thời điểm năm 2001 áp dụng Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 21/4/1993, Nghị định số 69/CP ngày 18/10/1993 của Chính phủ và các văn bản pháp luật liên quan lúc đó). Theo đó, việc cưỡng chế kê biên tài sản phải công khai, thông báo chặt chẽ và có căn cứ.

Chúng tôi chỉ lưu ý rằng người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án thì phải đúng trình tự, thủ tục và có căn cứ.

Các văn bản liên quan:

Nghị định 58/2009/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự

Pháp lệnh 13/2004/PL-UBTVQH11 Thi hành án dân sự

Nghị định 69/CP Quy định thủ tục thi hành án dân sự

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS


4.Thoả thuận giao tài sản để thi hành án

Ông H có nghĩa vụ phải trả nợ cho tôi số tiền 500 triệu đồng theo Quyết định của Tòa án. Qua tìm hiểu tôi được biết ông H có tài sản là nhà và đất ở đã đượccấp giấy chứng nhận QSD đất. Năm 2009 UBND tỉnh có Quyết định thu hồi toàn bộ diện tích đất theo giấy chứng nhận QSD đất của ông H để thực hiện một dự án, đất và tài sản trên đất đã được Ban quản lý dự án xác định giá trị để đền bù cho ông H khi ông H thực hiện bàn giao mặt bằng. Nay UBND tỉnh lại có Quyết định tạm dừng thực hiện dự án. Hiện tại ông H vẫn chưa bàn giao mặt bằng cho Ban quản lý dự án và chưa nhận các khoản tiền đền bù, ông H vẫn đang quản lý sử dụng nhà đất nói trên. Nay ông H có đề nghị với tôi xin được giao tài sản là nhà đất trong diện giải tỏa đền bù nói trên cho tôi để cấn trừ số tiền nợ, mọi nghĩa vụ vàquyền lợi phát sinh từ việc giải tỏa đền bù tôi được hưởng tất cả, đề nghị nêu trên của ông H có phù hợp với pháp luật không ? Tôi và ông H phải làm các thủ tục gì để theo qui định của nhà nước để đảm bảo tài sản đó thuộc về tôi?

Gửi bởi: Trương Mười

Trả lời có tính chất tham khảo

Nhà nước khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án. Điều 6 Luật Thi hành án dân sự quy định đương sự có quyền thoả thuận về việc thi hành án, nếu thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Kết quả thi hành án theo thoả thuận được công nhận. Theo yêu cầu của đương sự, Chấp hành viên có trách nhiệm chứng kiến việc thoả thuận về thi hành án. Trường hợp đương sự không thực hiện đúng thoả thuận thì có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung bản án, quyết định.

Điều 3 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ “quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự” quy định việc thỏa thuận về thi hành án của đương sự phải được lập thành văn bản nêu rõ thời gian, địa điểm, nội dung thỏa thuận, có chữ ký của các bên tham gia thỏa thuận và xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tiến hành việc thỏa thuận.

Trường hợp người phải thi hành án có yêu cầu về việc thi hành án khác với nội dung bản án, quyết định đã tuyên và được người được thi hành án chấp thuận thì việc thi hành án được thực hiện theo yêu cầu đó. Việc thỏa thuận trước khi yêu cầu cơ quan thi hành án tổ chức thi hành do các đương sự tự nguyện thực hiện.

Sau khi Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ban hành quyết định thi hành án, đương sự có quyền yêu cầu Chấp hành viên chứng kiến việc thỏa thuận. Chấp hành viên được giao giải quyết việc thi hành án có trách nhiệm chứng kiến và ký tên vào văn bản thỏa thuận. Trường hợp thỏa thuận vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì Chấp hành viên có quyền từ chối nhưng phải lập biên bản và nêu rõ lý do. Người yêu cầu Chấp hành viên chứng kiến việc thỏa thuận ngoài trụ sở cơ quan thi hành án dân sự mà phát sinh chi phí thì phải thanh toán các chi phí hợp lý cho cơ quan thi hành án dân sự.

Trường hợp đương sự không tự nguyện thực hiện theo đúng nội dung đã thỏa thuận thì cơ quan thi hành án dân sự căn cứ nội dung bản án, quyết định; đơn yêu cầu thi hành án và kết quả đã thi hành theo thỏa thuận để ra quyết định thi hành án.

Trường hợp cơ quan thi hành án dân sự đang tổ chức thi hành án mà đương sự thỏa thuận về việc không yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định thì căn cứ thỏa thuận của đương sự, cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định đình chỉ thi hành án đối với phần thỏa thuận không yêu cầu thi hành theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 của Luật Thi hành án dân sự, trừ trường hợp thỏa thuận vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, không đúng với thực tế, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba hoặc nhằm trốn tránh phí thi hành án. Trường hợp thỏa thuận nêu trên được thực hiện sau khi tài sản đã được bán hoặc giao cho người khác nhận để thi hành án thì phải được sự đồng ý của người mua được tài sản hoặc người nhận tài sản để thi hành án.

Do vậy, trường hợp ông nêu, ông có quyền thoả thuận không trái pháp luật với ông H về phương thức thi hành án bằng việc nhận tài sản để thi hành án. Ông và ông H làm văn bản thoả thuận, đề nghị Chấp hành viên chứng kiến thoả thuận đó để các ông thực hiện với nhau. Do tài sản là nhà đất thuộc diện thu hồi giải toả, do đó việc thoả thuận của các ông cần công khai, có sự chứng kiến của chính quyền cơ sở và Ban quản lý dự án để thuận lợi cho ông trong việc nhận tiền đền bù tài sản sau này nếu dự án được thực hiện.

Các văn bản liên quan:

Nghị định 58/2009/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS


5.Không làm Chấp hành viên thì không được hưởng phụ cấp thâm niên nghề

Những người thời gian trước đã có hưởng phụ cấp thâm niên nghề và phụ cấp Chấp hành viên ở cơ quan thi hánh án dân sự, nhưng thời gian sau này không được bổ nhiệm lại Chấp hành viên nữa thì có được hưởng phụ cấp thâm niên nghề không?

Gửi bởi: Đoan Thi Thuy

Trả lời có tính chất tham khảo

Phụ cấp thâm niên nghề đối với chức danh Chấp hành viên được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 76/2009/NĐ-CP ngày 15/9/2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ “về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang” và Thông tư liên tịch số 04/2009/TTLT-BNV-BTC ngày 24/12/2009 Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính “hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên đối với cán bộ, công chức đã được xếp lương theo ngạch hoặc chức danh chuyên ngành tòa án, kiểm sát, kiểm toán, thanh tra, thi hành án dân sự và kiểm lâm” và hướng dẫn tại Công văn số 566/BTP-TCTHA ngày 09/3/2010 của Bộ Tư pháp.

Về nguyên tắc, phụ cấp này áp dụng đối với thời gian là Chấp hành viên và đối với người hiện còn đang là Chấp hành viên. Phụ cấp này không được tính để đóng bảo hiểm xã hội. Vì vậy, những người đã hưởng phụ cấp thâm niên nghề và phụ cấp Chấp hành viên ở cơ quan thi hánh án dân sự, nhưng thời gian sau này không được bổ nhiệm lại Chấp hành viên nữa thì không còn cơ sở để được hưởng phụ cấp thâm niên nghề.

Tuy nhiên, nếu sau thời gian nhất định, người đó lại được bổ nhiệm Chấp hành viên thì người đó chỉ không được hưởng phụ cấp thâm niên nghề trong khoảng thời gian người đó không là Chấp hành viên.

Các văn bản liên quan:

Thông tư liên tịch 04/2009/TTLT-BNV-BTC Hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên nghề đối với cán bộ, công chức đã được xếp lương theo các ngạch hoặc chức danh chuyên ngành tòa án, kiểm sát, kiểm toán, thanh tra, thi hành án dân sự và kiểm lâm

Nghị định 76/2009/NĐ-CP Về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS


6.Xử lý quyền sử dụng đất của hộ gia đình để thi hành án

Bản án tuyên: buộc bà Nguyễn Thị A phải thi hành cho 22 nguyên đơn với tổng số tiền gần 1 tỷ đồng. Qua xác minh bà A có tài sản là QSD đất đứng tên được cấp là hộ bà Nguyễn Thị A. Tuy nhiên, hộ bà A có 03 thành viên, gồm ông B, bà A và 01 người con trưởng thành. Cơ quan THA tiến hành kê biên QSD đất nhưng không xử lý là tài sản chung của hộ bà A, mà cho rằng tài sản phải xử lý là tài sản của bà A. Xin hỏi: trường hợp này có được xem là tài sản chung của cả 03 người không, căn cứ pháp lý? Vậy cơ quan thi hành án xử lý như vậy là đúng hay sai?

Gửi bởi: Nguyen Van Tam

Trả lời có tính chất tham khảo

Căn cứ quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 thì tài sản của hộ gia đình là tài sản chung của các thành viên trong gia đình. Do vậy, quyền sử dụng đất được cấp là hộ gia đình bà Nguyễn Thị A, hộ gia đình bà A có 03 thành viên thì cơ quan thi hành án chỉ được xử lý phần tài sản của bà A trong khối tài sản chung đó để thi hành án.

Cơ quan thi hành án dân sự phải xác định phần tài sản chung của bà A trong khối tài sản chung của hộ gia đình căn cứ Điều 74 Luật Thi hành án dân sự. Theo đó, trước khi cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung của người phải thi hành án với người khác, kể cả quyền sử dụng đất, Chấp hành viên phải thông báo cho chủ sở hữu chung biết việc cưỡng chế.

Chủ sở hữu chung có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án xác định phần sở hữu của họ đối với tài sản chung. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, nếu chủ sở hữu chung không khởi kiện thì người được thi hành án hoặc Chấp hành viên có quyền yêu cầu Toà án xác định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để bảo đảm thi hành án. Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu chung của vợ, chồng thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết. Trường hợp vợ hoặc chồng không đồng ý thì có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày phần sở hữu được Chấp hành viên xác định. Hết thời hạn trên, đương sự không khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành xử lý tài sản và thanh toán lại cho vợ hoặc chồng của người phải thi hành án giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu của họ.

Tài sản kê biên thuộc sở hữu chung đã xác định được phần sở hữu của các chủ sở hữu chung được xử lý như sau:

– Đối với tài sản chung có thể chia được thì Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế phần tài sản tương ứng với phần sở hữu của người phải thi hành án;

– Đối với tài sản chung không thể chia được hoặc nếu việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với toàn bộ tài sản và thanh toán lại cho chủ sở hữu chung còn lại giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu của họ.

Khi bán tài sản chung, chủ sở hữu chung được quyền ưu tiên mua tài sản.

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự


7.Có được ra quyết định tiếp tục thi hành án không?

Quyết định của Tòa án buộc Nguyễn Văn A phải trả cho Nguyễn Thị B số tiền là 10.000.000 đồng. Bản án có hiệu lực pháp luật, Nguyễn Thị B có đơn yêu cầu thi hành án. Trong quá trình giải quyết, Nguyễn Thị B đã tự nguyện rút đơn yêu cầu THA. Sau khi nhận được đơn của Nguyễn Thị B, Chi cục THADS huyện H đã ra Quyết định đình chỉ THA. Sau đó Nguyễn Thị B lại tiếp tục có đơn yêu cầu THA. Như vậy Chi cục THADS huyện H có tiếp tục thụ lý giải quyết được không? Hiện nay vẫn chưa có văn bản nào hướng dẫn về trường hợp này, rất mong được quý Báo trả lời để chúng tôi tham khảo giải quyết vụ án.

Gửi bởi: Nguyễn Đức Hiếu

Trả lời có tính chất tham khảo

Đình chỉ thi hành án là việc cơ quan thi hành án ngừng hẳn việc thi hành bản án, quyết định dân sự khi có những căn cứ theo quy định của pháp luật. Đặc điểm của đình chỉ thi hành án là việc chấm dứt thi hành đối với các bản án, quyết định dân sự. Việc thi hành án sau khi bị đình chỉ sẽ không được đưa ra thi hành nữa, các bên đương sự cũng chấm dứt mọi quyền và nghĩa vụ của họ đã tuyên trong bản án, kể cả nghĩa vụ đối với Nhà nước, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Cơ quan thi hành án chỉ ra quyết định đình chỉ thi hành án khi có những căn cứ theo quy định của pháp luật.

Điều 50 Luật Thi hành án dân sự quy định Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định đình chỉ thi hành án trong các trường hợp sau đây:

a) Người phải thi hành án chết không để lại di sản hoặc theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của người đó theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế;

b) Người được thi hành án chết mà theo quy định của pháp luật quyền và lợi ích của người đó theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế hoặc không có người thừa kế;

c) Đương sự có thoả thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự không tiếp tục việc thi hành án, trừ trường hợp việc đình chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba;

d) Bản án, quyết định bị hủy một phần hoặc toàn bộ;

đ) Người phải thi hành án là tổ chức đã bị giải thể, không còn tài sản mà theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của họ không được chuyển giao cho tổ chức khác;

e) Có quyết định miễn hoặc giảm một phần nghĩa vụ thi hành án;

g) Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với người phải thi hành án;

h) Người chưa thành niên được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định đã thành niên.

Thời hạn ra quyết định đình chỉ thi hành án là 05 ngày làm việc, kể từ ngày có căn cứ đình chỉ thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều này.

Các trường hợp trên, có trường hợp người được thi hành án không còn quyền yêu cầu (đối với phần bản án, quyết định đã bị hủy) hoặc không thể yêu cầu (do người phải thi hành án chết mà không để lại di sản hoặc nghĩa vụ thi hành án không được chuyển giao cho người khác).

Luật Thi hành án dân sự cũng quy định trường hợp cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định đình chỉ thi hành án khi đương sự có thoả thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự không tiếp tục việc thi hành án, trừ trường hợp việc đình chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba (điểm c khoản 1 Điều 50). Trong trường hợp này, các bên đương sự vẫn được quyền tiếp tục thi hành án không thông qua cơ quan thi hành án dân sự.

Vì vậy, đối với trường cơ quan thi hành án đã ra quyết định đình chỉ thi hành án do người được thi hành án có văn bản tự nguyện rút đơn yêu cầu thi hành án, yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự không tiếp tục việc thi hành án thì sau đó họ có quyền tự thi hành với nhau, nhưng không có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án thi hành lại, trừ trường hợp việc đình chỉ thi hành án không đúng pháp luật.

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS


8.Có quyền kê biên tài sản mà người phải thi hành án chuyển nhượng sau khi có quyết định của Toà án?

Ngày 03/10/2011 Toà án nhân dân thành phố H đã ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự về việc thanh toán nợ. Theo quyết định thì bà A phải thanh toán cho bà B số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng). Bà B đã làm đơn yêu cầu thi hành án vào ngày 23/4/2012, Cơ quan thi hành án đã thụ lý và tiến hành xác minh. Qua xác minh, được biết gia đình bà A có 01 lô đất tại thành phố H, lô đất trên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2006, GCNQSDĐ mang tên bà A và ông H (ông H là chồng bà A). Ngày 04/10/2011 bà A và ông H đã làm hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ cho vợ chồng ông T và bà L tại phòng công chứng. Hiện tại ông T và bà L đã làm thủ tục đăng ký QSDĐ tại văn phòng đăng ký QSDĐ và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vậy cơ quan thi hành án có được kê biên tài sản là quyền sử dụng đất trên theo Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTB-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 hay không?

Gửi bởi: Pham Thi Van Anh

Trả lời có tính chất tham khảo

Khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao “hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự” quy định: Kể từ thời điểm có bản án, quyết định sơ thẩm mà người phải thi hành án bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố tài sản của mình cho người khác, không thừa nhận tài sản là của mình mà không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên để thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu có tranh chấp thì Chấp hành viên hướng dẫn đương sự thực hiện việc khởi kiện tại Toà án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo mà không có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án xử lý tài sản để thi hành án.

Kể từ thời điểm có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc trong trường hợp đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án mà tài sản bị bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố cho người khác, người phải thi hành án không thừa nhận tài sản là của mình thì bị kê biên, xử lý để thi hành án.

Đối chiếu với quy định nêu trên, trường hợp bạn hỏi, ngày 03/10/2011 Toà án nhân dân thành phố H đã ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự về việc thanh toán nợ, theo quyết định thì bà A phải thanh toán cho bà B số tiền 100.000.000 đồng. Ngày 04/10/2011 bà A và ông H đã làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông T và bà L tại Phòng công chứng, hiện tại ông T và bà L đã làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà A chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng không sử dụng tiền đó để thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự có quyền kê biên tài sản của bà B đã chuyển nhưọng cho người khác sau khi có quyết định của Toà án.

Khi kê biên tài sản của bà A, thủ tục giải quyết yêu cầu về việc xác định quyền sở hữu, phân chia tài sản hoặc giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản phát sinh trong quá trình thi hành án thuộc thẩm quyền của Toà án theo khoản 4 Điều 179 Luật Thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thông báo mà không có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án xử lý tài sản theo quy định của pháp luật, trường hợp có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án chỉ xử lý tài sản khi có bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Các văn bản liên quan:

Thông tư liên tịch 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự


9.Các đương sự có quyền thoả thuận phương thức thi hành án

Năm 2005, công ty A có ký kết hợp đồng đổi đất lấy nền nhà với ba mẹ tôi. Trong hợp đồng, ba mẹ tôi thỏa thuận giao cho công ty A 7.000m2 đất, đồng thời công ty A sẽ giao lại cho ba mẹ tôi 08 lô đất nền liền kề và cam kết đến 30/8/2006 sẽ giao đất nền hoàn chỉnh có đầy đủ cơ sở hạ tầng mà không phải thanh toán thêm bất kỳ khoản chi phí nào. Sau khi ba mẹ tôi giao đất, đến tháng 08/2006 công ty A giao cho ba mẹ tôi 04 lô đất. Đến năm 2009, ba mẹ tôi vẫn không nhận được 04 lô đất còn lại nên ba mẹ tôi có làm đơn khởi kiện ra Toà án huyện về việc vi phạm hợp đồng của công ty A, Toà án huyện ra quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa ba mẹ tôi với công ty A, công ty A cam kết sẽ hoàn thành 04 lô đất nền trong thời hạn 01 năm. Năm 2011, ba mẹ tôi vẫn chưa nhận được 04 lô đất này, nên có đơn yêu cầu thi hành án gửi đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện. Chi cục Thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án, yêu cầu công ty A phải hoàn thành và giao cho ba mẹ tôi 04 lô đất còn lại trong thời hạn 15 ngày. Cho đến nay ba mẹ tôi vẫn không nhận được 04 lô đất trên. Được biết công ty A hiện tại không còn khả năng hoàn thành và giao lại 04 lô đất này cho ba mẹ tôi, vậy tôi có thể yêu cầu công ty A thay vì giao đất nền cho ba mẹ tôi thì có thể thay bằng việc quy đổi giá trị 04 lô đất nền trên thành tiền được không? Có phương hướng giải quyết nào khác không? Mong được sự giúp đỡ, tôi xin cảm ơn!

Gửi bởi: Phạm Thành Luân

Trả lời có tính chất tham khảo

Trường hợp bạn hỏi, quyết định của Toà án công nhận sự thỏa thuận giữa ba mẹ bạn với công ty A, công ty A cam kết sẽ hoàn thành 04 lô đất nền trong thời hạn 01 năm. Năm 2011, ba mẹ bạn vẫn chưa nhận được 04 lô đất này, nên có đơn yêu cầu thi hành án gửi đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện, Chi cục Thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án, yêu cầu công ty A phải hoàn thành và giao cho ba mẹ bạn 04 lô đất còn lại trong thời hạn 15 ngày là đúng với nội dung quyết định của Toà án và phù hợp với pháp luật.

Tuy nhiên, theo bạn nêu thì công ty A không còn khả năng hoàn thành và giao lại 04 lô đất này cho ba mẹ bạn, do đó việc thi hành án theo đúng quyết định của Toà án là không thực hiện được.

Vì vậy, ba mẹ bạn cần thoả thuận với công ty A về phương thức thi hành án sao cho thuận lợi nhất, trong đó có thể là phương án công ty A thay vì giao đất nền cho ba mẹ bạn thì có thể thay bằng việc quy đổi giá trị 04 lô đất nền trên thành tiền hoặc phương án khác phù hợp với điều kiện của hai bên. Tuy nhiên, việc thoả thuận này phải hoàn toàn do hai bên tự nguyện, không trái đạo đức xã hội, vi phạm pháp luật hoặc ảnh hưởng đến lợi ích của người thứ ba. Nếu thoả thuận được thì có thể đề nghị cơ quan thi hành án dân sự chứng kiến thoả thuận đó để kết thúc việc thi hành án.

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự


10.Trách nhiệm của Ngân hàng trong thi hành án dân sự

Trường hợp Cục Thi hành án dân sự TPHCM đã có văn bản đề nghị Ngân hàng Nhà nước – Chi nhánh Hà nội hỗ trợ thi hành án đối với bản án đã có hiệu lực pháp luật bằng việc phong tỏa tài khoản hoặc giữ tài sản đối với Ngân hàng (người bị thi hành án), nhưng đến nay đã 02 tháng kể từ ngày Ngân hàng Nhà nước – Chi nhánh Hà Nội nhận văn bản của Cục Thi hành án dân sự mà vẫn không có văn bản trả lời. Xin hỏi, theo quy định của pháp luật hiện hành, có quy định nào bắt buộc Ngân hàng Nhà nước – Chi nhánh Hà Nội phải trả lời cho Cục Thi hành án đối với vụ việc nêu trên hay không? Trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước – Chi nhánh Hà Nội trong trường hợp không trả lời và chậm trễ trả lời dẫn đến thiệt hại đến lợi ích của đương sự thì xử lý như thế nào?

Gửi bởi: Bùi Xuân Đức

Trả lời có tính chất tham khảo

Điều 176 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định trách nhiệm của Kho bạc nhà nước, ngân hàng và tổ chức tín dụng khác trong thi hành án dân sự:

1. Cung cấp đúng, đầy đủ, kịp thời thông tin, số liệu về tài khoản của người phải thi hành án theo yêu cầu của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự.

2. Thực hiện nghiêm chỉnh, kịp thời yêu cầu của Chấp hành viên về phong tỏa tài khoản, phong toả tài sản; khấu trừ tiền trong tài khoản; giải toả việc phong toả tài khoản, phong toả tài sản của người phải thi hành án.

3. Thực hiện đầy đủ yêu cầu khác của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự theo quy định của Luật này.

Phong tỏa tài khoản là một biện pháp tạm thời được quy định tại Điều 67 Luật Thi hành án dân sự. Theo đó, việc áp dụng biện pháp này do Chấp hành viên thực hiện theo trình tự, thủ tục và thời hạn chặt chẽ. Việc phong toả tài khoản được thực hiện trong trường hợp cần ngăn chặn việc tẩu tán tiền trong tài khoản của người phải thi hành án. Khi tiến hành phong toả tài khoản, Chấp hành viên phải giao quyết định phong toả tài khoản cho cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản của người phải thi hành án. Cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản phải thực hiện ngay quyết định của Chấp hành viên về phong toả tài sản quy định tại khoản 3 như sau: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định phong toả tài khoản, Chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản quy định tại Điều 76 của Luật này”. Do vậy, Chấp hành viên phát hiện được tiền trong tài khoản tại ngân hàng và áp dụng biện pháp bảo đảm hoặc biện pháp cưỡng chế thi hành án thì ngân hàng có trách nhiệm thực hiện, tuy nhiên nếu không áp dụng đúng biện pháp nêu trên thì không có căn cứ bắt buộc ngân hàng chịu trách nhiệm thực hiện giữ tiền của khách hàng giao dịch với ngân hàng.

Vì vậy, để bảo đảm quyền lợi của người được thi hành án và hiệu quả của việc thi hành án thì người được thi hành án, Chấp hành viên cần tích cực xác minh, phát hiện tiền của người phải thi hành án có trong tài khoản tại ngân hàng. Chấp hành viên kịp thời áp dụng biện pháp bảo đảm phong toả tài khoản và biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành án tại ngân hàng, đồng thời cũng nên tạo mối quan hệ phối hợp tốt với các ngân hàng để thực hiện tốt việc phát hiện, xử lý tiền của người phải thi hành án có tại ngân hàng.

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Công ty Luật LVN cung cấp: Những yêu cầu khi soạn thảo thông báo

Luật sư Tư vấn trực tuyến – Gọi ngay 1900.0191


Những yêu cầu khi soạn thảo thông báo

Thông báo là hình thức văn bản để thông báo tin về nội dung và kết quả hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước. Thông báo dùng để truyền đạt kịp thời các quyết định , mệnh lệnh của cơ quan thẩm quyền . một số trường hợp thông báo còn dùng để thông tin nội dung , ý kiến chỉ đạo của cấp trên

Cần lưu ý ; thông báo thay đổi cho quyết định , chỉ thị vì thông báo là hình thức văn bản không mang tính ra lệnh , bắt buộc .

  • Kết cấu của thông báo:
  • Phần mở đầu
  • Đi thẳng vào nội dung cần thông báo hoặc nhắc lại tên văn bản hay cuộc họp có nội dung cần thông báo .
  • Nếu cần đưa ra mệnh lệnh , chỉ đạo quyết định
  • Phần nội dung
  • Nêu vấn đề cần thông báo
  • Diễn đạt theo phần mục để dễ hiểu
  • Phần kết thúc
  • Nhắc lại yêu cầu của thông báo để đối tượng liên quan thực hiện

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Luật đấu thầu số: 43/2013/QH13 gồm có 13 chương, 98 điều. có hiệu lưc thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2014.

Chương 1: quy định chung gồm 19 điều (điều 1-19)

  • Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, và các khái niệm cơ bản trong đấu thầu
  • Áp dụng luật đấu thầu, điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế
  • Tư cách hợp lệ của nhà thầu, nhà đầu tư
  • Bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu
  • Điều kiện phát hành hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu
  • Thông tin về đấu thầu
  • Ngôn ngữ sử dụng trong đấu thầu, đồng tiền dự thầu
  • Bảo đảm dự thầu
  • Thời gian trong quá trình lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư
  • Chi phí trong đấu thầu
  • Ưu đãi trong lựa chọn nhà thầu
  • Đấu thầu quốc tế
  • Điều kiện đối với cá nhân tham gia hoạt động đấu thầu
  • Các trường hợp hủy thầu
  • Trách nhiệm khi hủy thầu
  • Đào tạo, bồi dưỡng về đấu thầu

Chương 2: hình thức, phương thức lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư và tổ chứ đấu thầu chuyên nghiệp. gồm 3 mục, 13 điều (điều 20- 32)

  • Mục 1: hình thức lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư
  • Đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế
  • Chỉ định thầu
  • Chào hàng cạnh tranh,mua sắm trực tiếp, tự thực hiện
  • Lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt
  • Tham gia thực hiện của cộng đồng
  • Mục 2: phương thức lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư
  • Phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ, phương thức một gia đoạn hai túi hồ sơ.
  • Phương thức hai giai đoạn một túi hồ sơ, phương thức hai giai đoạn hai túi hồ sơ.
  • Mục 3: tổ chức đấu thầu chuyên nghiệp
  • Tổ chức đấu thầu chuyên nghiệp

Chương 3: kế hoạch và quy trình lựa chọn nhà thầu. gồm 6 điều (33-38)

  • Nguyên tắc lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu
  • Lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu
  • Nội dung kế hoạch lựa chọn nhà thầu đối với từng gói thầu
  • Trình duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu
  • Thẩm định và phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu
  • Quy trình lựa chọn nhà thầu

Chương 4:phương pháp đánh hía hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất, xét duyệt trúng thầu. gồm 5 điều (39-43)

  • Phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu đối với gói thầu cung cấp dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp.
  • Phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu đối với gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn
  • Phương pháp đánh giá hồ sơ đề xuất
  • Xét duyệt trúng thầu đối với đấu thầu cung cấp dịch vụ tư vấn
  • Xét duyệt trúng thầu đối với đấu thầu cung cấp dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp.

Chương 5: mua sắm tập trung, mua sắm thường xuyên, mua thuốc, vật tư y tế, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công. Gồm 4 mục, 11 điều (44-54).

  • Mục 1: mua sắm tập trung
  • Qui định chung về mua sắm tập trung
  • Thỏa thuận khung
  • Mục 2: mua sắm thường xuyên
  • Điều kiện áp dụng
  • Tổ chức lựa chọn nhà thầu
  • Mục 3: mua thuốc, vật tư, y tế
  • Lựa chọn nhà thầu cung cấp thuốc, vật tư y tế
  • Mua thuốc tập trung
  • Ưu đãi mua thuốc
  • Trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong đấu thầu thuốc, y tế.
  • Thanh toán chi phí mua thuốc, vật tư y tế
  • Cung cấp sản phẩm, dịch vụ công
  • Hình thức, quy trình lựa chọn nhà thầu

Chương 6: lựa chọn nhà đầu tư. Gồm 5 điều (55-59)

  • Kế hoạch, quy trình lựa chọn nhà đầu tư
  • Trình, thẩm định, phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà đầu tư, hồ sơ mời sơ tuyển, kết quả sơ tuyển, hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu và kết quả lựa chọn nhà đầu tư.
  • Phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu
  • Xét duyệt trúng thầu trong lựa chọn nhà đầu tư.

Chương 7:lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư qua mạng. gồm 2 điều ( 60,61)

  • Lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư qua mạng
  • Yêu cầu đối với hệ thống mạng đấu thầu quốc gia.

Chương 8: hợp đồng. gồm 2 mục, 10 điều(62-72)

  • Mục 1: hợp đồng với nhà thầu
  • Loại hợp đồng
  • Hồ sơ hợp đồng
  • Điều kiện ký kết hợp đồng
  • Hợp đồng với nhà thầu được lựa chọn
  • Bảo đảm thực hiện hợp đồng
  • Nguyên tắc điều chỉnh hợp đồng.
  • Mục 2: hợp đồng với nhà đầu tư
  • Loại hợp đồng
  • Hồ sơ hợp đồng
  • Điều kiện ký kết hợp đồng
  • Hợp đồng với nhà đầu tư được lựa chọn
  • Bảo đảm thực hiện hợp đồng

Chương 9:trách nhiệm của các bên trong lựa chọn nhà thầu,nhà đầu tư. Gồm 8 điều ( 73-80)

  • Trách nhiệm của người có thẩm quyền
  • trách nhiệm của chủ đầu tư
  • trách nhiệm của bên mời thầu
  • trách nhiệm của tổ chuyên gia
  • trách nhiệm của nhà thầu, nhà đầu tư
  • trách nhiệm của tổ chức thẩm định
  • trách nhiệm của bên mời thầu tham gia hệ thống mạng đấu thầu quốc gia
  • trách nhiệm của nhà thầu, nhà đầu tư tham gia hệ thống mạng đấu thầu quốc gia.

Chương 10: quản lí nhà nước về hoạt động đấu thầu. gồm 8 điều (81-88)

  • nội dung quản lí nhà nước về hoạt động đấu thầu
  • trách nhiệm của chính phủ, thủ tướng chính phủ
  • trách nhiệm của bộ kế hoạch và đầu tư
  • trách nhiệm của bộ, cơ quan ngang bộ và ủy ban nhân dân các cấp
  • trách nhiệm của tổ chức vận hành hệ thống mạng đấu thầu quốc gia
  • xử lý tình huống
  • thanh tra, kiểm tra và giám sát hoạt động đấu thầu
  • khiếu nại và tố cáo

Chương 11: hành vi bị cấm và xử lí vi phạm về đấu thầu. gồm 2 điều (89,90)

  • các hành vi bị cấm trong đấu thầu
  • xử lí vi phạm

Chương 12: giải quyết kiến nghị và tranh chấp trong đấu thầu. gồm 2 mục, 4 điều (91-94)

  • mục 1: giải quyết kiến nghị trong đấu thầu
  • giải quyết kiến nghị trong đấu thầu
  • quy trình giải quyết kiến nghị
  • mục 2: giải quyết tranh chấp trong đấu thầu tại tòa án.
  • Nguyên tắc giải quyết
  • Quyền yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Chương 13: điều khoản thi hành. Gồm 2 điều (95,96)

  • Hiệu lực thi hành
  • Quy định chi tiết.

Các nghị định liên quan

  1. Nghị định số: 63/2014/NĐ-CP về lựa chọn nhà thầu
  2. Nghị định số: 30/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của luật đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư. Có hiệu lực từ ngày: 17/03/2015

………………

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hiện nay, ở một số thành phố lớn, hoạt động thuê nhà diễn ra ngày càng nhiều và trở nên phổ biến. Mọi người thuê nhà với nhiều mục đích khác nhau: để ở, để làm trụ sở công ty, cửa hàng buôn bán, kho chứa hàng… Tuy nhiên, để đảm bảo tính pháp lý trong hoạt động thuê nhà thì không phải ai cũng hiểu rõ. Theo quy định tại Điều 492 Bộ luật dân sự năm 2005 có quy định về Hình thức hợp đồng thuê nhà ở: “Hợp đồng thuê nhà ở phải được lập thành văn bản, nếu thời hạn thuê từ sáu tháng trở lên thì phải có công chứng hoặc chứng thực và phải đăng ký, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.” Trên thực tế,  hoạt động thuê nhà thường có thời hạn thuê từ 6 tháng trở lên, rất ít trường hợp thuê nhà trong thời gian ngắn hạn dưới 6 tháng. Câu hỏi đặt ra, đó là: Các hợp đồng thuê nhà từ 6 tháng trở lên có bao nhiêu hợp đồng có công chứng hoặc chứng thực và đăng ký? Tình trạng không thực hiện đúng hình thức hợp đồng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân.

Thứ nhất, do sự kém hiểu biết của đa số người dân là bên cho thuê, coi nhẹ việc thực hiện hợp đồng và có thể có ý nghĩ cho rằng điều quan trọng là việc thỏa thuận giữa hai bên.

Thứ hai, bên cho thuê hiểu về quy định này, tuy nhiên việc thực hiện theo quy định sẽ kéo theo nhiều vấn đề ảnh hướng đến kinh tế của họ. Khi hợp đồng thuê nhà được công chứng hay chứng thực và đăng ký, cơ quan có thẩm quyền sẽ quản lý được các vấn đề: thu nhập cá nhân, thu nhập doanh nghiệp… Lợi nhuận phát sinh từ việc cho thuê nhà, cá nhân hay tổ chức sẽ phải thực hiện nghĩa vụ đóng thuế. Vấn đề đặt ra: Làm thế nào để cơ quan Nhà nước kiểm tra, rà soát, khắc phục được tình trạng này để điều chỉnh quy định của pháp luật phù hợp hơn với đời sống nhân dân.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quyền con người

Về lí luận cũng như trên thực tế, nhân quyền hay quyền cơ bản của con người là những quyền không thể thiếu để cá nhân có thể tồn tại và phát triển bình thường với tư cách là một thành viên của cộng đồng xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Có nhiều quan điểm khác nhau về quyền con người tuy nhiên định nghĩa trong văn phòng cao ủy của LHQ thường được trích dẫn nguyên văn bởi các nhà nghiên cứu, theo đó: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người”.

Trong thế giới hiện đại, quyền cơ bản của con người bao gồm: quyền sống và quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, uy tín, nhân phẩm của con người được tôn trọng, quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng, tự do lập hội, quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền lao động và quyền phát triển tài năng, quyền nghỉ ngơi, quyền có cơm ăn áo mặc và được học hành, chăm sóc sức khỏe, bảo hiểm xã hội… Các quyền cơ bản của con người chỉ có thể được bảo đảm thực hiện và tôn trọng trong điều kiện có hòa bình, an ninh quốc tế ổn định, môi trường sống được bảo đảm trong sạch, an ninh vững chắc và nền dân chủ thực sự.

Luật quốc tế về quyền con người

Luật nhân quyền quốc tế là một tập hợp các tiêu chuẩn quốc tế về các quyền và tự do cơ bản cho mọi cá nhân và những đặc thù áp dụng cho một số nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Do tính chất rộng lớn của vấn đề và quy định tổng quát trong các văn kiện quốc tế về nhân quyền nên quan điểm về số lượng (và kèm theo đó là tên gọi) của các quyền ít nhiều khác nhau. Những quyền và tự do cơ bản của cá nhân được chia thành hai nhóm

– Nhóm quyền dân sự, chính trị bao gồm như: quyền sống, quyền nói, quyền tự do và an ninh cá nhân, Quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng; quyền có quốc tịch, quyền có tên, quyền sở hữu tài sản….

– Nhóm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa bao gồm như: Quyền được bảo đảm điều kiện làm việc an toàn và công bằng; quyền được học tập; quyền có mức sống thích đáng; quyền được hưởng mức độ sức khỏe cao nhất có thể đạt được…. Tóm lại, đảm bảo pháp lý bảo vệ quyền con người là hệ thống các quy định trong hệ thống pháp luật nhằm cụ thể hóa, bảo đảm thực hiện bảo vệ quyền con người và cơ chế bảo đảm thực hiện các quy định đó trong thực tiễn đời sống.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Theo quy định của Luật Trồng trọt 2018 và Nghị định số 94/2019/NĐ-CP, xuất và nhập khẩu giống cây trồng là hoạt động bắt buộc phải được cấp phép.

Đất nước ta là một đất nước nông nghiệp, vì thế việc buôn bán xuất nhập khẩu giống cây trồng cũng được coi là một ngành kinh tế mũi nhọn. Tuy nhiên, để đáp ứng các nhu cầu đề ra của xã hội cũng như quản lý chặt chẽ các hoạt động chỉ nằm trong một khuôn khổ nhất định. Việc xuất, nhập khẩu nhằm đưa các giống cây địa phương ra khu vực và đưa các giống cây mới về khai thác sử dụng cần phải được sự cho phép của Cục trồng trọt theo quy định.

Điều kiện Xuất khẩu giống cây trồng

Theo quy định tại Điều 28 Luật Trồng trọt 2018 thì chỉ những giống cây đã được cấp quyết định công nhận lưu hành hoặc tự công bố lưu hành và không thuộc Danh mục nguồn gen giống cây trồng cấm xuất khẩu mới được tiến hành xuất khẩu.



Danh mục nguồn gen giống cây trồng cấm xuất khẩu sẽ được nhà nước công bố theo từng thời kỳ cụ thể.

Cụ thể như sau:

Điều 28. Xuất khẩu giống cây trồng

1. Giống cây trồng đã được cấp quyết định công nhận lưu hành hoặc tự công bố lưu hành và không thuộc Danh mục nguồn gen giống cây trồng cấm xuất khẩu được xuất khẩu và thực hiện theo quy định của pháp luật về thương mại, quản lý ngoại thương.
2. Giống cây trồng và hạt lai của giống cây trồng chưa được cấp quyết định công nhận lưu hành hoặc tự công bố lưu hành và không thuộc Danh mục nguồn gen giống cây trồng cấm xuất khẩu chỉ được xuất khẩu phục vụ nghiên cứu, khảo nghiệm, quảng cáo, triển lãm, trao đổi quốc tế không vì mục đích thương mại và phải được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho phép.
3. Chính phủ quy định hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp phép xuất khẩu giống cây trồng quy định tại khoản 2 Điều này.

Thủ tục cấp phép xuất khẩu giống cây trồng

Để xin phép xuất khẩu giống cây trồng, thương nhân cần làm hồ sơ và gửi tới Cục trồng trọt – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Hồ sơ sẽ được xử lý trong thời hạn 13 ngày làm việc. Nếu hồ sơ hợp lệ và thẩm định đạt, thương nhân sẽ được cấp Giấy phép xuất khẩu theo Mẫu số 03.XK Phụ lục VIII ban hành kèm theo Nghị định số 94/2019/NĐ-CP; đồng thời đăng thông tin trên cổng thông tin điện tử của Bộ Nông nghiệp.

Cụ thể thủ tục được quy định tại Điều 11 của Nghị định số 94/2019/NĐ-CP:

Điều 11. Hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp phép xuất khẩu giống cây trồng theo quy định tại khoản 2 Điều 28 Luật Trồng trọt

1. Hồ sơ:
a) Văn bản đề nghị cấp phép xuất khẩu theo Mẫu số 01.XK Phụ lục VIII ban hành kèm theo Nghị định này.
b) Tờ khai kỹ thuật (mỗi giống chỉ nộp một lần khi xuất khẩu lần đầu) theo Mẫu số 02.XK Phụ lục VIII ban hành kèm theo Nghị định này.
c) Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận Đầu tư hoặc Chứng minh thư nhân dân hoặc Căn cước công dân đối với cá nhân đăng ký xuất khẩu.
d) Bản sao thỏa thuận hợp tác bằng tiếng nước ngoài kèm theo bản dịch công chứng sang tiếng Việt đối với trường hợp xuất khẩu phục vụ nghiên cứu, khảo nghiệm, hợp tác quốc tế.
đ) Giấy xác nhận hoặc Giấy mời tham gia hội chợ, triển lãm của đơn vị tổ chức đối với trường hợp xuất khẩu để tham gia hội chợ, triển lãm.
2. Trình tự, thủ tục cấp phép xuất khẩu giống cây trồng:
a) Tổ chức, cá nhân nộp hồ sơ đến Cục Trồng trọt. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Cục Trồng trọt tổ chức thẩm định; thông báo cho tổ chức, cá nhân trong trường hợp hồ sơ cần sửa đổi, bổ sung. Trường hợp tổ chức, cá nhân không hoàn thiện hồ sơ trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Cục Trồng trọt, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm nộp lại hồ sơ theo quy định tại khoản 1 Điều này.
b) Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Cục Trồng trọt tổ chức thẩm định hồ sơ, cấp Giấy phép xuất khẩu theo Mẫu số 03.XK Phụ lục VIII ban hành kèm theo Nghị định này; đăng thông tin trên cổng thông tin điện tử của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Cục Trồng trọt. Trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Điều kiện Nhập khẩu giống cây trồng

Việc nhập khẩu giống cây trồng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Bởi lẽ, không phải loại cây nào cũng đem lại hiệu quả tuyệt đối. Mặt khác khi xuất hiện giống cây mới sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ tới hệ sinh thái khu vực. Đôi khi là những phản ứng tiêu cực, vì thế việc quản lý chặt chẽ của cơ quan chuyên môn là vô cùng cần thiết.

Thương nhân muốn nhập khẩu giống cây trồng về Việt Nam cần phải được kiểm tra nhà nước về chất lượng do cơ quan quản lý chuyên ngành về trồng trọt thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức thực hiện.

Điều kiện được quy định cụ thể tại Điều 29 Luật Trồng trọt 2018:

Điều 29. Nhập khẩu giống cây trồng

1. Giống cây trồng, hạt bố mẹ để sản xuất hạt lai của giống cây trồng đã được cấp quyết định công nhận lưu hành hoặc tự công bố lưu hành; hạt giống bố mẹ để sản xuất hạt lai phục vụ xuất khẩu được nhập khẩu và thực hiện theo quy định của pháp luật về thương mại, quản lý ngoại thương.
Trường hợp nhập khẩu phục vụ mục đích mua bán phải có hồ sơ, tài liệu đáp ứng các quy định tại khoản 1 Điều 23 và khoản 1 Điều 26 của Luật này.
2. Giống cây trồng chưa được cấp quyết định công nhận lưu hành hoặc tự công bố lưu hành chỉ được nhập khẩu phục vụ nghiên cứu, khảo nghiệm, quảng cáo, triển lãm, trao đổi quốc tế và phải được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho phép.
3. Giống cây trồng nhập khẩu phục vụ sản xuất, mua bán phải được kiểm tra nhà nước về chất lượng do cơ quan quản lý chuyên ngành về trồng trọt thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức thực hiện và đạt yêu cầu về chất lượng, trừ trường hợp sau đây:
a) Hạt bố mẹ để sản xuất hạt lai của giống cây trồng;
b) Giống cây trồng chưa được cấp quyết định công nhận lưu hành hoặc tự công bố lưu hành nhập khẩu theo quy định tại khoản 2 Điều này;
c) Giống cây trồng tạm nhập, tái xuất hoặc quá cảnh hoặc chuyển khẩu;
d) Giống cây trồng gửi kho ngoại quan.
4. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định trình tự, thủ tục kiểm tra nhà nước về chất lượng giống cây trồng nhập khẩu.
5. Chính phủ quy định hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp phép nhập khẩu giống cây trồng.

Thủ tục cấp phép nhập khẩu giống cây trồng

Để có thể được cấp phép nhập khẩu giống cây trồng, tổ chức, cá nhân phải lập văn bản đề nghị nhập khẩu theo mẫu kèm theo các tờ khai kỹ thuật, Bản sao thỏa thuận các bên (trong trường hợp quy định), Giấy mời tham gia (trong trường hợp quy định).

Hồ sơ được gửi tới Cục trồng trọt với thời gian xử lý là 15 ngày làm việc.

Điều 12. Hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp phép nhập khẩu giống cây trồng theo quy định tại khoản 2 Điều 29 Luật Trồng trọt

1. Hồ sơ:
a) Văn bản đề nghị nhập khẩu theo Mẫu số 01.NK Phụ lục IX ban hành kèm theo Nghị định này.
b) Tờ khai kỹ thuật (mỗi giống chỉ nộp một lần khi nhập khẩu lần đầu) theo Mẫu số 02.NK Phụ lục IX ban hành kèm theo Nghị định này.
c) Bản sao thỏa thuận hợp tác giữa các bên đối với trường hợp nhập khẩu phục vụ nghiên cứu, khảo nghiệm, hợp tác quốc tế.
d) Giấy xác nhận hoặc Giấy mời tham gia hội chợ, triển lãm của đơn vị tổ chức đối với trường hợp nhập khẩu để tham gia hội chợ, triển lãm.
2. Trình tự, thủ tục cấp phép nhập khẩu giống cây trồng:
a) Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Cục Trồng trọt tổ chức thẩm định hồ sơ; thông báo cho tổ chức, cá nhân trong trường hợp hồ sơ cần sửa đổi, bổ sung. Trường hợp tổ chức, cá nhân không hoàn thiện hồ sơ trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Cục Trồng trọt, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm nộp lại hồ sơ theo quy định tại khoản 1 Điều này.
b) Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Cục Trồng trọt tổ chức thẩm định, cấp Giấy phép nhập khẩu giống cây trồng theo Mẫu số 03.XK Phụ lục VIII ban hành kèm theo Nghị định này; đăng tải thông tin trên cổng thông tin điện tử của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Cục Trồng trọt. Trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
3. Giống cây trồng biến đổi gen sau khi được cấp Giấy chứng nhận an toàn sinh học, Giấy xác nhận thực vật biến đổi gen đủ điều kiện sử dụng làm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi theo quy định của pháp luật về đa dạng sinh học được nhập khẩu với mục đích khảo nghiệm để đăng ký cấp Quyết định công nhận lưu hành giống cây trồng thực hiện theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này; Điều 4 Nghị định này và Điều 15 của Luật Trồng trọt.

Trên đây là tổng hợp tất cả các điều kiện để tổ chức, đơn vị, cá nhân thực hiện hoạt động xuất, nhập khẩu nguồn giống cây nông nghiệp, cây cảnh phục vụ nhu cầu kinh doanh, nghiên cứu, triển lãm.

Nếu còn bất cứ thắc mắc nào, các bạn có thể liên hệ Hotline 1900.0191 để được chúng tôi giải đáp. Xin cảm ơn!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hạch toán rõ các chi phí liên quan trong toàn bộ quá trình đăng ký sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, thương hiệu, logo.

Năm 2006, với sự ra đời của Luật sở hữu trí tuệ, các vấn đề về sở hữu công nghiệp bắt đầu được chú trọng hơn tại Việt Nam. Khác với trước đây, khi chưa có các quy định cụ thể rõ ràng, quyền trí tuệ là một trong những quyền khó hình dung nhất và thường xuyên có sự xâm phạm bóp méo, làm giảm tính sáng tạo, tư duy của đại đa số nghệ sĩ, nghệ nhân, tác giả trên tất cả các khía cạnh.

Hạch toán chi phí đăng ký nhãn hiệu
Hạch toán chi phí đăng ký nhãn hiệu

Giờ đây, việc đăng ký đối với sản phẩm được tạo ra bởi trí lực, thời gian, công sức, độc đáo của bản thân là hoàn toàn dễ dàng. Đem lại rất nhiều giá trị cho kho tàng kiến thức nói chung và quyền lợi của chủ sở hữu nói riêng.

Vậy, các chi phí phải bỏ ra để đăng ký nhãn hiệu sẽ bao gồm những gì, hạch toán ra sao.

Theo Nghị định số 103/2016/NĐ-CP ban hành ngày 22 tháng 9 năm 2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp.

Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN ban hành ngày 14 tháng 02 năm 2007 hướng dẫn thi hành nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006.

Thông tư số 16/2016/TT-BKHCN ban hành ngày 30 tháng 06 năm 2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của thông tư số 01/2007/TT-BKHCN ngày 14/02/2007.

Chi phí nhằm các mục đích sau đây là chi phí hạch toán đăng ký nhãn hiệu:

  • Chi phí cho việc sáng tạo ra sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí;
  • Chi phí cho việc thiết kế mẫu nhãn hiệu, thương hiệu, mẫu biểu tượng (logo) doanh nghiệp;
  • Chi phí cho việc thực hiện các thủ tục đăng ký, duy trì, gia hạn quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, bao gồm cả thực hiện các thủ tục đó ở nước ngoài;
  • Chi phí cho việc thực hiện các biện pháp bảo mật bí mật kinh doanh, bảo vệ quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý;
  • Chi phí cho việc trả thù lao cho tác giả;
  • Chi phí cho việc mua quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, bí mật kinh doanh;

Chúc các bạn nhanh chóng có được quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ của mình.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quyết định số 89/2005/QĐ-BNN hết hiệu lực, chính thức bãi bỏ thủ tục xin giấy phép kinh doanh giống cây trồng. Hiện nay theo quy định mới nhất của Luật Trồng trọt 2018 và Nghị định số 94/2019/NĐ-CP, việc sản xuất, mua bán giống cây trồng, đại lý giống cây trồng, kinh doanh cây giống, hạt giống chỉ phải thực hiện thông báo tới Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Theo quy định tại Khoản 5 Điều 2 Luật Trồng trọt 2018 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 19 tháng 11 năm 2018:

Giống cây trồng là một quần thể cây trồng có thể phân biệt dễ dàng với quần thể cây trồng khác thông qua sự biểu hiện của ít nhất là một đặc tính và di truyền được cho đời sau; đồng nhất về hình thái, ổn định qua các chu kỳ nhân giống; có giá trị canh tác, giá trị sử dụng; bao gồm giống cây nông nghiệp, giống cây dược liệu, giống cây cảnh và giống nấm ăn.

Vật liệu nhân giống là cây hoặc bộ phận của cây, nấm ăn hoặc bộ phận của nấm ăn có thể phát triển thành một cá thể mới, dùng để nhân giống hoặc để gieo trồng.

Điều kiện sản xuất, buôn bán giống cây trồng

Điều 22, Điều 23 Luật Trồng trọt về sản xuất, buôn bán giống cây trồng kết hợp với các quy định của các Bộ luật, văn bản tương đương cùng điều chỉnh vấn đề này.

Khi kinh doanh giống cây trồng trước hết phải đảm bảo các điều kiện sau:

  • Có đăng ký kinh doanh (Đăng ký Doanh nghiệp hoặc Hộ kinh doanh cá thể);
  • Có đăng ký hoạt động ngành nghề kinh doanh giống cây (bao gồm cả cây ăn quả, cây lâu năm, cây nông sản, cây cảnh, nấm ăn);
  • Có địa điểm bán hàng, giao dịch rõ ràng, hợp pháp;
  • Có hệ thống sổ sách, chứng từ, hóa đơn đảm bảo được việc truy xuất nguồn gốc giống cây, sản phẩm cây trồng mà mình kinh doanh;

Tổ chức, cá nhân sản xuất giống cây trồng phải đáp ứng các điều kiện sau:

  • Có giống cây trồng hoặc được ủy quyền của tổ chức, cá nhân có giống cây trồng;
  • Giống cây trồng phải đã được cấp quyết định công nhận lưu hành hoặc đã tự công bố lưu hành giống cây trồng;
  • Có hoặc thuê địa điểm, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị theo tiêu chuẩn quốc gia về phương pháp sản xuất giống cây trồng; trường hợp không có tiêu chuẩn quốc gia thì áp dụng tiêu chuẩn cơ sở (phải có văn bản, căn cứ chứng minh);
  • Sản xuất giống cây trồng được thực hiện theo phương pháp nhân giống hữu tính và phương pháp nhân giống vô tính theo tiêu chuẩn quốc gia về sản xuất giống cây trồng; trường hợp không có tiêu chuẩn quốc gia thì áp dụng tiêu chuẩn cơ sở.
  • Cây, vườn cây cung cấp vật liệu phục vụ nhân giống vô tính, hạt lai đa dòng đối với cây ăn quả lâu năm, cây công nghiệp lâu năm phải được cấp Quyết định công nhận cây đầu dòng, Quyết định công nhận vườn cây đầu dòng theo quy định tại Điều 24 của Luật Trồng trọt 2018.

Thủ tục xin giấy phép kinh doanh giống cây trồng

Theo hướng dẫn của Nghị định số 94/2019/NĐ-CP, thương nhân không còn phải xin giấy phép kinh doanh giống cây trồng. để thực hiện kinh doanh giống cây trồng, tổ chức, cá nhân chỉ cần gửi thông báo qua thư điện tử hoặc gửi trực tiếp hoặc gửi qua đường bưu điện tới Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nơi buôn bán giống cây trồng.

Tại Điều 8 Nghị định này ghi nhận cụ thể như sau:

Điều 8. Quy định chi tiết điều kiện về sản xuất, buôn bán giống cây trồng

Tổ chức, cá nhân sản xuất, buôn bán giống cây trồng phải đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 22 của Luật Trồng trọt và một số quy định chi tiết sau đây:
1. Trước khi buôn bán giống cây trồng, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm gửi thông báo qua thư điện tử hoặc gửi trực tiếp hoặc gửi qua đường bưu điện tới Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nơi buôn bán giống cây trồng các thông tin sau: Địa chỉ giao dịch, tên chủ cơ sở hoặc người đại diện hợp pháp, điện thoại liên hệ để đăng tải trên cổng thông tin điện tử của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
2. Tổ chức, cá nhân buôn bán giống cây trồng phải có hồ sơ bảo đảm truy xuất nguồn gốc lô giống cây trồng, gồm: Thông tin về hợp đồng, hóa đơn mua bán lô giống; hồ sơ chất lượng lô giống, nhãn phù hợp quy định tại Điều 10 Nghị định này.
Đối với giống cây công nghiệp, cây ăn quả lâu năm phải có thêm thông tin về nguồn vật liệu nhân giống đã sử dụng, tiêu chuẩn công bố áp dụng, số lượng cây, thời gian giao nhận cây.

Hồ sơ xin giấy phép kinh doanh giống cây trồng được lập thành 01 bộ hồ sơ, có thể gửi trực tiếp hoặc qua các phương pháp bưu chính. Tuy nhiên cần đảm bảo:

Điều 2. Quy định chung về thực hiện thủ tục hành chính trong Nghị định này

1. Nộp hồ sơ thực hiện thủ tục hành chính: Tùy theo điều kiện tiếp nhận, trả kết quả của cơ quan giải quyết thủ tục hành chính, tổ chức, cá nhân nộp hồ sơ trực tiếp hoặc gửi qua dịch vụ bưu chính hoặc qua môi trường mạng (cơ chế một cửa quốc gia, dịch vụ công trực tuyến, phần mềm điện tử, email, fax):
a) Trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp, qua dịch vụ bưu chính: Các thành phần hồ sơ phải là bản chính hoặc bản sao có chứng thực hoặc bản sao xuất trình bản chính để đối chiếu hoặc bản sao có đóng dấu của cơ sở đối với văn bản do cơ sở ban hành.
b) Trường hợp nộp hồ sơ qua môi trường mạng: Các thành phần hồ sơ phải được scan, chụp từ bản chính.
2. Số lượng hồ sơ: 01 bộ.
3. Thời gian trả lời tính đầy đủ của thành phần hồ sơ:
a) Trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp: Cơ quan giải quyết thủ tục hành chính kiểm tra thành phần hồ sơ và trả lời ngay khi tổ chức, cá nhân đến nộp hồ sơ.
b) Trường hợp nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính hoặc qua môi trường mạng: Trong thời hạn không quá 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan giải quyết thủ tục hành chính xem xét tính đầy đủ, nếu hồ sơ chưa đầy đủ theo quy định, cơ quan giải quyết thủ tục hành chính thông báo cho tổ chức, cá nhân biết để bổ sung.
4. Cách thức nộp phí, lệ phí thực hiện thủ tục hành chính: Tổ chức, cá nhân nộp phí, lệ phí theo quy định hiện hành trực tiếp tại cơ quan giải quyết thủ tục hành chính hoặc bằng hình thức chuyển khoản hoặc qua dịch vụ khác theo quy định của pháp luật.
5. Cách thức trả kết quả: Cơ quan giải quyết thủ tục hành chính thực hiện trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính trực tiếp tại nơi nhận hồ sơ hoặc gửi qua dịch vụ bưu chính hoặc qua môi trường mạng.
6. Trong Nghị định này có nội dung quy định khác với quy định nêu tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này thì thực hiện theo quy định đó.
7. Trường hợp hồ sơ là bản bằng chữ nước ngoài phải có bản dịch ra tiếng Việt được công chứng hoặc bản dịch ra tiếng Việt có xác nhận của cơ quan dịch thuật.
8. Tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm về tính xác thực của hồ sơ đã nộp.

Những giống cây nông nghiệp, cây cảnh, cây ăn quả được phép kinh doanh

Trước khi đi đến với quy định này, các bạn cần nắm được khái niệm thế nào là loài cây trồng chính:

Loài cây trồng chính là loài cây được trồng phổ biến, có tầm quan trọng trong phát triển kinh tế, cần được quản lý chặt chẽ.

Theo quy định tại Điều 13 Luật Trồng trọt 2018 có ghi nhận:

Điều 13 Luật Trồng trọt 2018

1. Giống cây trồng thuộc loài cây trồng chính chỉ được phép sản xuất, buôn bán, xuất khẩu, nhập khẩu sau khi được cấp Quyết định công nhận lưu hành giống cây trồng quy định tại Điều 15 của Luật này hoặc cấp Quyết định công nhận lưu hành đặc cách giống cây trồng quy định tại Điều 16 của Luật này, trừ trường hợp phục vụ nghiên cứu, khảo nghiệm, triển lãm, trao đổi quốc tế hoặc sản xuất hạt lai để xuất khẩu.
2. Giống cây trồng không thuộc loài cây trồng chính chỉ được phép sản xuất, buôn bán, xuất khẩu, nhập khẩu khi tổ chức, cá nhân tự công bố lưu hành giống cây trồng theo quy định tại Điều 17 của Luật này, trừ trường hợp phục vụ nghiên cứu, khảo nghiệm, quảng cáo, triển lãm, trao đổi quốc tế và sản xuất hạt lai để xuất khẩu. Trường hợp tổ chức, cá nhân có nhu cầu đăng ký cấp Quyết định công nhận lưu hành giống cây trồng thì thực hiện theo quy định tại Điều 15 của Luật này hoặc cấp Quyết định công nhận lưu hành đặc cách giống cây trồng thì thực hiện theo quy định tại Điều 16 của Luật này.
3. Tổ chức, cá nhân Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài có văn phòng đại diện, chi nhánh công ty hoạt động trong lĩnh vực giống cây trồng tại Việt Nam có quyền đứng tên đăng ký cấp quyết định công nhận lưu hành hoặc tự công bố lưu hành giống cây trồng.
4. Việc cấp Quyết định công nhận lưu hành giống cây trồng được thực hiện đồng thời với việc cấp Bằng bảo hộ giống cây trồng khi tổ chức, cá nhân đứng tên đăng ký công nhận lưu hành giống cây trồng đề nghị và đáp ứng các điều kiện về bảo hộ giống cây trồng theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.
5. Giống cây trồng thuộc loài cây trồng chính phải được khảo nghiệm do tổ chức khảo nghiệm độc lập được công nhận đủ điều kiện (sau đây gọi là tổ chức khảo nghiệm giống cây trồng) thực hiện trước khi cấp hoặc gia hạn Quyết định công nhận lưu hành giống cây trồng, trừ trường hợp giống cây trồng được cấp Quyết định công nhận lưu hành đặc cách giống cây trồng quy định tại Điều 16 của Luật này.
Giống cây cảnh thuộc loài cây trồng chính không phải thực hiện khảo nghiệm theo quy định tại khoản 2 Điều 18 của Luật này.
6. Trong từng thời kỳ, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành, sửa đổi, bổ sung Danh mục loài cây trồng chính.

Với việc bỏ thủ tục cấp phép kinh doanh giống cây trồng, giờ đây các đơn vị đã có thể thỏa sức thực hiện mua bán phát triển sự đa dạng, tiềm lực của đất nước về nông nghiệp. Tuy nhiên vẫn cần hết sức lưu ý nghiên cứu để nắm được những quy định cụ thể, tránh việc sai phạm dẫn tới những thiệt hại cho cá nhân và gia đình.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Chủ tịch Hồ Chí Minh – danh nhân văn hóa thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, những công lao của người vô cùng to lớn, đã góp phần đưa cuộc cách mạng của nhân dân ta đến thắng lợi cuối cùng. Một trong những công lao đó chính là việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã trở thành nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Trong diễn văn kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương (03/02/1930 – 03/02/1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương (Đảng Cộng sản Việt Nam – Chương trình tóm tắt của Đảng) vào đầu năm 1930“. Điều đó chứng tỏ tiền đề ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam bào gồm: một là, chủ nghĩa Mác – Lênin; hai là, phong trào công nhân gắn liền với phong trào yêu nước Việt Nam; ba là, những hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh vào những năm cuối của thập niên 20 và đầu năm 1930.

1. Chủ nghĩa Mác – Lênin

C.Mác và V.I.Lênin chủ yếu quan tâm đến vấn đề thành lập Đảng Cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây, với nhiệm vụ chủ yếu là lãnh đạo giai cấp vô sản và quần chúng lao động làm cách mạng vô sản hay cách mạng xã hội chủ nghĩa, trực tiếp lật đổ chế độ tư bản và tiến lên xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, trong đó không còn áp bức, bóc lột, không còn bất bình đẳng và bất công, cong người được giải phóng hoàn toàn và được tạo mọi điều kiện cần thiết để tự do phát triển hết những khả năng sẵn có của mình.

Theo Mác – Lênin, “Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân phương Tây“. Chủ nghĩa Mác là học thuyết xã hội thực sự nhân đạo và là hệ tư tưởng khoa học của giai cấp vô sản, có mục tiêu, nguyên lý, quy luật chung cho tất cả các nước và dân tộc. Chủ nghĩa Mác trang bị thế giới quan, phương pháp luận cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động, chỉ ra con đường, phương thức tiến hành thắng lợi cách mạng vô sản. Nó trở thành lực lượng vật chất khi thâm nhập được vào trong quần chúng.  Còn giai cấp công nhân phương Tây là lực lượng tiên tiến trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; có ý thức tổ chức kỉ luật và tinh thần tự giác cao độ; có tri thức, trình độ khoa học, kĩ thuật và dễ tiếp thu cái mới; ra đời sớm, đông đảo về số lượng, lại được rèn luyện, thử thách trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và có vai trò gánh vác sứ mệnh lịch sử giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội.

Tuy nhiên, để hoàn thành sứ mệnh của mình, giai cấp công nhân phương Tây phải có một chính Đảng lãnh đạo. Đảng đó phải được tổ chức chặt chẽ theo những nguyên tắc đảng kiểu mới của Lênin và tuyệt đối trung thành với lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Không giống như Mác – Lênin, Hồ Chí Minh quan tâm trước hết đến việc xây dựng Đảng Cộng sản ở những nước thuộc địa, lạc hậu, kinh tế kém phát triển và những tàn tích phong kiến còn rất nặng nề, với nhiệm vụ lãnh đạo giai cấp vô sản và quần chúng lao động làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân hay làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, nghĩa là phải giải quyết đồng thời hai mâu thuẩn chủ yếu của cách mạng bấy giờ là mâu thuẫn giữa dân tộc với thực dân xâm lược và mâu thuẩn trong nội bộ dân tộc giữa tư sản, phong kiến với công nhân, nông dân nhằm giải phóng dân tộc, đem lại ruộng đất cho dân cày và dân chủ cho nhân dân.

Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, không thể áp dụng nguyên công thức của Mác – Lênin về thành lập Đảng Cộng sản vào Việt Nam. Bởi giai cấp công nhân Việt Nam còn nhiều hạn chế như số lượng ít (chiếm 1% dân số) lại phân bố rải rác trên nhiều khu vực, yếu về kinh tế, thấp bé về chính trị, đại bộ phận xuất thân từ nông dân nên còn mang nguyên đặc điểm tiểu nông, trình độ còn non kém. Do đó, phải tìm kiếm thêm cơ sở hiện thực từ phong trào thực tiễn của dân tộc. Dân tộc Việt Nam có bề dày lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm và áp bức bóc lột, trong khi đó, phong trào đấu tranh cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX lại đang bế tắc về tư tưởng lý luận. Cơ sở hiện thực đó chính là tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất của dân tộc Việt Nam, là chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam.

Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản ở Việt Nam phải là lực lượng tiên tiến trong dân tộc, có khả năng đề ra đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn; có khả năng vận động, quy tụ, tập hợp lực lượng toàn dân tộc, củng cố khối đoàn kết toàn dân, lãnh đạo, tổ chức quần chúng làm cách mạng và làm cho cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ngày càng mở rộng và mạnh mẽ để đi đến thắng lợi cuối cùng và có khả năng gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng vô sản thế giới.

Hồ Chí Minh đã không vận dụng một cách rập khuôn, giáo điều chủ nghĩa Mác – Lênin mà có sự sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh các nước thuộc địa mà cụ thể là Việt Nam.

2. Phong trào công nhân và phong trào yêu nước

a, Phong trào công nhân

Đầu thế kỉ XX, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam phát triển rộng rãi và mạnh mẽ, là một trong những yếu tố thành lập nên Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930.

Giai cấp công nhân ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp (1897 – 1914) và tăng nhanh về số lượng cũng như chất lượng trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp ở Đông Dương (1919 – 1929). Cho đến năm 1929, số lượng công nhân đã tăng lên hơn 22 vạn, tập trung tại các khu công nghiệp lớn như Vinh – Bến Thủy, Hải Phòng, Nam Định… Giai cấp công nhân Việt Nam mang những đặc điểm của công nhân quốc tế và cả những đặc điểm riêng. Tuy còn có những hạn chế như đã nói ở trên, giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp tiên tiến nhất trong hình thức sản xuất xã hội; sống và làm việc tập trung; có ý thức tổ chức và kỉ luật, có tinh thần tự giác cao độ; có tri thức, kiến thức khoa học, kĩ thuật và dễ tiếp thu cái mới; có mối quan hệ tự nhiên gắn bó với nông dân nên dễ dàng hình thành liên minh công – nông, chịu ba tầng áp bức bóc lột của thực dân, phong kiến và tư sản nên là có lòng căm thù thực dân cao độ, có tinh thần cách mạng triệt để nhất lại thừa kế truyền thống yêu nước quý báu của dân tộc nên có khả năng tiến hành cách mạng và đưa cách mạng đến thắng lợi. Đây là lực lượng giữ vai trò lãnh đạo cách mạng. Các phong trào công nhân tiêu biểu như bãi công của công nhân đồn điền cao su Phú Riềng, nhà máy cưa Bến Thủy, nhà máy tơ Nam Định… Đặc biệt, tháng 8 năm 1925, cuộc bãi công của thợ máy xưởng Ba Son ngăn chiến hạm chở binh lính Pháp sang đàn áp phong trào của công nhân Trung Quốc đã thể hiện sự đoàn kết quốc tế trong đấu tranh.

b, Phong trào yêu nước

Bên cạnh giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh nhận thấy ở Việt Nam lại có những phong trào yêu nước rộng lớn lôi cuốn được mọi tầng lớp nhân dân, chủ yếu là nông dân, vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, phong kiến.Giai cấp nông dân có lòng căm thù thực dân, phong kiến cao độ, có tinh thần dũng cảm trong chiến đấu, là lực lượng nòng cốt của phong trào yêu nước và có kinh nghiệm trong đấu tranh. Còn các tầng lớp, bộ phận khác tham gia phong trào yêu nước không phải là lực lượng nòng cốt mà với vai trò và tư cách khác nhau tùy theo lợi ích của họ quy định.

Phong trào yêu nước có ưu điểm đông về lực lượng; hùng hậu về sức mạnh; có nhiều kinh nghiệm và được thử thách qua các cuộc đấu tranh của dân tộc. Tuy nhiên phong trào còn nhiều hạn chế, chưa có một hệ tư tưởng cách mạng dẫn đường; sự liên kết lỏng lẻo, thiếu tổ chức và đường lối cách mạng đúng đắn. Từ phong trào Cần Vương, đến phong trào Đông Du, Duy Tân… và phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX, cuối cùng đều thất bại, “đất nước lâm vào tình hình đen tối tưởng như không có đường ra”. Người cho rằng con đường của Phan Bội Châu chẳng khác gì “Đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Con đường của Phan Châu Trinh cũng chẳng khác gì “Xin giặc rủ lòng thương”. Con đường của Hoàng Hoa Thám tuy có phần thực tế hơn nhưng vẫn còn mang nặng cốt cách phong kiến. Các phong trào này chưa đáp ứng được yêu cầu của cách mạng, chưa giải quyết được hai mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội bấy giờ là mâu thuân dân tộc và mâu thuẫn giai cấp. Vào thời điểm đó, những phong trào yêu nước chưa có lý luận khoa học cách mạng dẫn đường và không có khả năng tiến hành cuộc cách mạng đến thắng lợi.

c, Sự kết hợp chặt chẽ giữa phong trào công nhân và phong trào yêu nước

Việc kết hợp phong trào yêu nước của đông đảo quần chúng nhân dân với phong trào công nhân ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử, kết hợp điểm mạnh của hai phong trào này  mới tạo ra được sức mạnh to lớn, tạo thành tiền đề lý luận cho việc thành lập Đảng Cộng sản. Nếu phong trào công nhân không gắn bó chặt chẽ với phong trào yêu nước, không trở thành nòng cốt của phong trào yêu nước, thì cũng không đủ lực lượng để mở rộng cuộc đấu tranh và đưa cuộc đấu tranh đi đến thắng lợi, còn nếu phong trào yêu nước không được dẫn dắt bởi giai cấp công nhân với đội tiên phong Đảng cộng sản thì cuộc đấu tranh đó cũng không thể đi đến thắng lợi hoàn toàn. Việc kết hợp phong trào công nhân và phong trào yêu nước là sự sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh bổ sung vào học thuyết Mác – Lênin về xây dựng đảng, từ đó dẫn tới hệ luận điểm: “không phải mọi người yêu nước đều là cộng sản, nhưng việc tiếp nhận đường lối của Đảng cộng sản lại là điều kiện cần thiết để xác định được mục tiêu yêu nước đúng đắn; còn mỗi người cộng sản trước hết phải là người yêu nước, hơn nữa phải là người yêu nước tiêu biểu, phải thường xuyên truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm, đường lối của Đảng trong nhân dân và lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối đó“. Điều đó phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam cũng như các nước thuộc địa cũng như các nước chậm phát triển, tiền tư bản đang đi vào con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Việc kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng phải đúng vào thời điểm từ những năm cuối của thập niên 20 đến đầu năm 1930. Hơn nữa, việc kết hợp ấy phải gắn liền với những hoạt động thực tiễn phong phú của Hồ Chí Minh mới đưa đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp với tính quy luật phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc và đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam.

3. Những hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh tiến tới thành lập Đảng

Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước và hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh không những đã nhận thức được tầm quan trọng và vai trò của một chính đảng cách mạng, mà còn chuyển nhận thức đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Theo Người, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng đó phải là quần chúng cách mạng được giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo theo một đường lối chính trị đúng đắn thì mới trở thành sức mạnh to lớn.

Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc được tiếp xúc với Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Luận cương của Lênin đã chỉ cho Nguyễn Ái Quốc con đường giành độc lập cho dân tộc và tự do cho đồng bào. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản“. Cách mạng giải phóng dân tộc được dẫn dắt bằng hệ tư tưởng Mác – Lênin nghĩa là do Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo để “trong thì vận động, tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy“, lãnh đạo thực hiện hai giai đoạn của cách mạng Việt Nam là làm “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đảng phải được vũ trang bằng lý luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin và phải được xây dựng theo những nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Với nhận thức đó, từ rất sớm, trong những hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc tìm kiếm cơ sở hiện thực để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tại Đại hội của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc đã biểu quyết tán thành Quốc tế thứ ba và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Kể từ đó, Nguyễn Ái Quốc đi sâu nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, chế độ Xô viết mới ra đời và tích cực tham gia nhiều hoạt động của Quốc tế Cộng sản. Hội liên hiệp thuộc địa thành lập năm 1921 có nhiệm vụ tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin về các nước thuộc địa; củng cố tinh thần đoàn kết của nhân dân các nước thuộc địa với nhau và cổ vũ tinh thần đấu tranh chống thực dân, đế quốc của họ. Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông thành lập năm 1925. Đó là những tổ chức quốc tế đầu tiên của phong trào giải phóng dân tộc, mà Nguyễn Ái Quốc vừa là người khởi xướng, vừa là người tổ chức, người lãnh đạo với vai trò chủ yếu nhất.

Để tiến tới thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam, Người đã tích cực chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ chức.

Về chính trị tư tưởng, Người đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện lịch sử cụ thể của nước Việt Nam thuộc địa, xây dựng nên lí luận cách mạng giải phóng dân tộc, diễn đạt nó thành tiếng nói của dân tộc Việt Nam để truyền bá cho nhân dân Việt Nam. Những tư tưởng cách mạng của Người được thể hiện qua nhiều tờ báo và các bài tham luận tại Quốc tế Cộng sản: Các báo ở Pháp từ năm 1921 đến tháng 6 – 1923 như báo Người cùng khổ (của Hội liên hiệp thuộc địa ở Pari), Nhân đạo (của Đảng Cộng sản Pháp), Đời sống công nhân (của Tổng Liên đoàn Lao động Pháp); Các báo ở Liên Xô từ năm 1923 đến năm 1924 như báo Sự thật (của Đảng Cộng sản Liên Xô), tạp chí Thư tín Quốc tế, qua một số bài tham luận tại hội nghị, đại hội quốc tế như Hội nghị Quốc tế Nông dân (10 – 1923), nhất là Đại hội V của Quốc tế Cộng sản năm 1924. Đặc biệt qua hai tác phẩm: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) và Đường cách mệnh (1927). Những tư tưởng đó là ánh sáng soi đường cho lớp thanh niên yêu nước Việt Nam đầu thế kỉ XX đang đi tìm chân lí cứu nước, là ngọn cờ hướng đạo phong trào cách mạng Việt Nam trong thời kì vận động thành lập Đảng, đồng thời cũng đặt nền móng để xây dựng cương lĩnh cách mạng Việt Nam sau này.

Về mặt tổ chức, tháng 6 – 1925, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Đây là tổ chức yêu nước có khuynh hướng cộng sản, một tổ chức quá độ để tiến tới thành lập Đảng Cộng sản, một bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã đào tạo một đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Từ năm 1925 đến năm 1927, Người đã mở các lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu. Sau các khóa học, một số được cử đi học ở trường Quân sự Hoàng Phố và trường Đại học Phương Đông, còn phần lớn trở về nước hoạt động, tuyên truyền lí luận cách mạng trong quần chúng và xây dựng hệ thống tổ chức của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.

Những chuẩn bị trên của Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho sự gặp gỡ tất yếu của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam với tư tưởng cách mạng tiên tiến nhất của thời đại là chủ nghĩa Mác – Lênin, làm cho phong trào chuyển dần từ tự phát sang tự giác.

Ở Việt Nam, nếu chỉ kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước thì vẫn chưa ra đời được Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1929, nước ta xuất hiện ba tổ chức cộng sản, đó là: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Ba tổ chức này có chung mục tiêu, lí tưởng nhưng lại hoạt động riêng rẽ, thậm chí còn công kích nhau, làm cho phong trào cách mạng có nguy cơ bị chia rẽ. Trong khi đó, Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã tỏ ra không còn đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Yêu cầu cấp thiết lúc này là phải thống nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất.

Trước tình hình đó, cuối năm 1929 Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm sang Trung Quốc để thống nhất các tổ chức cộng sản. Với tư cách là đại biểu của Quốc tế Cộng sản, người có quyền quyết định mọi vấn đề của cách mạng Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản tại Hương Cảng (Cửu Long, Trung Quốc) đầu năm 1930. Bằng nhãn quan chính trị sắc bén và uy tín tuyệt đối, Người đã đưa Hội nghị đến thành công, thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, mà trực tiếp là từ học thuyết xây dựng Đảng kiểu mới của Lênin để nghiên cứu tình hình thực tế ở Việt Nam và tổng kết cơ sở hiện thực ở Việt Nam thành tư tưởng, lý luận bổ sung vào học thuyết Mác – Lênin. Chính vì vậy, Đảng Cộng sản ra đời là từ nhu cầu tất yếu của cách mạng Việt Nam, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử dân tộc. Từ khi có Đảng, mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam luôn gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của Đảng, mà minh chứng rõ nhất là thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cũng như công cuộc đổi mới sau này.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Phân tích những ví dụ cụ thể gắn với vấn đề phân loại hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật.

I. Khái niệm

  1. Khái niệm chuần mực pháp luật

Chuẩn mực pháp luật là những quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, định hướng cho hành vi ứng xử của các cá nhân và các nhóm xã hội.­­[1,tr.244]

  1. Khái niệm sai lệch chuẩn mực pháp luật

Sai lệch chuẩn mực pháp luật là hành vi của một cá nhân hay nhóm xã hội nào đó thực hiện một hành vi vi phạm các nguyên tắc, quy định của chuẩn mực pháp luật (hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật). Dưới góc độ luật học, hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật chính là hành vi vi phạm pháp luật. Hành vi này có các dấu hiệu cơ bản: là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật, có lỗi của chủ thể và chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý.[1,tr.244]

II. Phân loại hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật

  1. Căn cứ vào nội dung, tính chất của các chuẩn mực pháp luật bị xâm hại

Dựa vào căn cứ trên thì gồm có hành vi sai lệch tích cực và hành vi sai lệch tiêu cực.

Hành vi sai lệch tích cực là những hành vi (có thể là cố ý hoặc vô ý) vi phạm, phá vỡ hiệu lực của các chuẩn mực pháp luật đã lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp với thực tế xã hội hoặc không còn được nhà nước và xã hội thừa nhận.[1,tr.244]

Ví dụ, Từ ngày 26/3, công nhân Công ty trách nhiệm hữu hạn Pouyuen Việt Nam (100% vốn Đài Loan), có trụ sở tại quận Bình Tân, TP HCM, và một số doanh nghiệp ở Long An, Tây Ninh, Tiền Giang, đã ngừng việc tập thể phản đối quy định tại Điều 60 của Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 (được Quốc hội thông qua ngày 20/11/2014 và có hiệu lực từ 1/1/2016).

Theo Điều 60, người lao động không được nhận hỗ trợ một lần ngay sau khi nghỉ việc như Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 mà phải đợi đến tuổi nghỉ hưu. Trong thời gian chấm dứt hợp đồng, người lao động được hưởng chế độ trợ cấp thất nghiệp, tư vấn việc làm… Đến khi người lao động trở lại làm việc, thời gian đóng bảo hiểm xã hội sẽ được cộng dồn, tích luỹ đủ để đến tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu theo quy định.[5]

Ở nước ta hiện nay, việc người dân xuống đường biểu tình chưa được hợp pháp hóa, vì vậy hành vi biểu tình đã vi phạm pháp luật, tuy nhiên cũng từ đó mà đã giúp nhà nước ta nhìn lại quy định của pháp luật có những bất cập, không phù hợp với thực tiễn. Lãnh đạo Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã đối thoại với công nhân, cam kết đề nghị Chính phủ, Quốc hội sửa Điều 60 theo hướng linh hoạt, cho phép lao động được hưởng bảo hiểm xã hội một lần sau khi nghỉ việc. Cụ thể, tại kỳ họp của Quốc hội, Quốc hội đã thảo luận và thông qua nghị quyết về Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội theo đúng tinh thần để người lao động lựa chọn nhận hưởng BHXH một lần đối với người lao động tham gia BHXH bắt buộc sau 1 năm nghỉ việc và người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện nhưng không tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội. Như vậy, mặc dù xuất phát từ hành vi sai lệch, nhưng người lao động đã giúp cho cơ quan chức năng phải nhìn nhận lại và coi trọng ý kiến của người lao động trong bảo vệ quyền lợi mà người lao động muốn hướng tới. Do đó, đây là một trường hợp hành vi sai lệch tích cực.

Hành vi sai lệch tiêu cực là những hành vi (cố ý hoặc vô ý) vi phạm, phá vỡ hiệu lực, sự tác động của các chuẩn mực pháp luật hiện hành, có nội dung, tính chất phù hợp, tiến bộ, đang phổ biến, thịnh hành và được nhà nước, các cộng đồng người thừa nhận rộng rãi trong xã hội.[1,tr.245]

Ví dụ, Trong năm 2015 và đầu năm 2016 đã xảy ra 6 vụ ném đá vào các phương tiện khi đang lưu thông trên cao tốc TPHCM – Long Thành – Dầu Giây, đoạn qua địa bàn tỉnh Đồng Nai.

Đây là con số mà Công ty CP Dịch vụ kỹ thuật đường cao tốc Việt Nam (VEC E) vừa công bố. Theo báo cáo của VEC E thì hiện nay trên tuyến xuất hiện tình trạng ném đá vào xe đang lưu thông với tốc độ cao. Một số đối tượng tụ tập trên cầu vượt để ném xuống xe làm hư hỏng kính, gây nguy hiểm cho người trên xe.[6] Như vậy, hành vi ném đá vào các phương tiện đang lưu thông trên đường cao tốc như nói trên là hành vi gây nguy hiểm nghiêm trọng cho những người trên xe, và những người tham gia giao thông, hành vi vi phạm pháp luật, có thể bị xử lý về hình sự theo quy định tại Điều 143 BLHS . Đây là một trong những trường hợp hành vi sai lệch tiêu cực, làm trái với những quy định của pháp luật với mục đích xấu, không đóng góp vào việc hoàn thiện bộ máy pháp.

  1. Căn cứ vào thái độ, tâm lí chủ quan của người thực hiện hành vi sai lệch

Dựa vào căn cứ trên thì gồm có hành vi sai lệch chủ động và hành vi sai lệch thụ động.

Hành vi sai lệch chủ động là hành vi có ý thức, có tính toán, cố ý (trực tiếp hay gián tiếp) vi phạm, phá vỡ hiệu lực của các chuẩn mực pháp luật, dù chuẩn mực đó đã lạc hậu, lỗi thời hay còn đang tiến bộ, phù hợp.[1,tr.245]  Họ có thể nhận thức được yêu cầu của cộng đồng nhưng họ cứ hành động theo ý họ mặc dù biết không phù hợp.

Ví dụ, vào khoảng trung tuần tháng 4/2016, tại một lớp học của trường này, một nữ sinh mặc đồng phục của trường đã dùng tay đánh mạnh nhiều cái vào mặt một nữ sinh khác ngay trong lớp học.

Chứng kiến hành vi phản cảm đó, thay vì can ngăn, nhiều học sinh đứng nhìn, thậm chí có em dùng điện thoại di động ghi hình và sau đó phát tán trên mạng xã hội Facebook. Đoạn Clip dài khoảng trên 2 phút được tung lên mạng xã hội gây sốc cho nhiều người.

Theo lãnh đạo Trường THPT Đại Ngãi, sau khi phát hiện ra đoạn clip nói trên, nhà trường đã báo phối hợp với công an xác minh làm rõ và xác định nữ sinh đánh bạn là em N.N.Q, còn nữ sinh bị đánh là em P.T.T.N. Vụ việc xảy ra tại lớp 10A10 vào ngày 12/4. Một số em học sinh thấy đánh nhau nên quay clip rồi đưa lên mạng xã hội.

Sau khi xác định được học sinh đánh nhau, nhà trường đã mời phụ huynh của các em nói trên đến làm việc. Tại buổi gặp gỡ, nữ sinh N.N.Q thừa nhận mình đánh bạn là nhầm vì nghĩ bạn N có tình cảm yêu đương với người bạn trai cùng trường của mình.

Trước đó, trên facebook lan truyền một đoạn clip dài hơn 2 phút ghi lại hình ảnh một nữ sinh lớp 10 đánh hàng chục bạt tay vào mặt một bạn nữ cùng lớp ngay tại phòng học trước mặt nhiều bạn khác trong lớp.[7] Hành vi trên đây là một hành vi sai lệch chủ động, vi phạm nghiêm trọng đạo đức học đường, đạo đức xã hội.

Đối với hành vi sai lệch này cần có sự giáo dục thường xuyên của cộng đồng để mọi người có trách nhiệm tôn trọng các chuẩn mực xã hội. Trường hợp cần thiết phải sử dụng biện pháp cưỡng chế và thậm chí áp dụng biện pháp trừng phạt. Để khắc phục hành vi sai lệch chủ động này cần phải có sự vận động tuyên truyền, giáo dục thường xuyên và rộng rãi, tạo dư luận lành mạnh của cộng đồng để mọi người hiểu và tôn trọng các chuẩn mực xã hội, tôn trọng pháp luật nhà nước. Hệ thống các chuẩn mực phải được củng cố và đảm bảo sức mạnh để điều chỉnh hành vi của cá nhân trong cộng đồng.

Hành vi sai lệch thụ động là hành vi vô ý, không mong muốn vi phạm, phá vỡ tính ổn định, sự tác động của các chuẩn mực pháp luật.[1,tr.245] Đặc trưng của loại hành vi sai lệch này là người sai lệch không biết hành vi của mình là sai lệch, nguyên nhân là do họ không nắm vững chuẩn mực hoặc do hiểu sai các chuẩn mực.

Ví dụ, “Dọ-tơm-amí” và “Joă ană” (chôn con theo mẹ và đạp cho chết) là 2 hủ tục hoang dã gây nên nhiều cái chết oan khốc cho trẻ sơ sinh. Khởi nguyên, tục “dọ tơm amí” chỉ quẩn quanh trong một số buôn làng của đồng bào Bana, Jơ rai, Jẻ Triêng, những sắc tộc bản địa đông đúc sinh sống lâu đời trên cao nguyên Gia Lai – Kon Tum, phía bắc Tây Nguyên. Nhưng sau đó, theo những nhóm người ly tán, giao thoa, tục “dọ tơm amí” lan nhiễm qua cả những cộng đồng Xêđăng, S’rá, và vài nhánh Ê đê ở những vùng nghèo khó nhất.

Theo hủ tục này, nếu người mẹ chẳng may chết khi vượt cạn thì trẻ sơ sinh phải bị bỏ xuống huyệt chôn theo mẹ. Trẻ đã vài tuần, thậm chí đầy tháng tuổi mà mẹ ốm chết vì kiệt sức, hậu sản, thì đứa trẻ cũng bị chôn sống theo, hoặc bị vứt bỏ giữa bãi tha ma cho chết mòn, cho thú dữ ăn thịt.

Buôn làng càng thiếu thốn lạc hậu, hủ tục càng phổ biến vì đồng bào không biết cách nuôi dưỡng hài nhi thiếu sữa mẹ, luôn tin đứa bé đã làm cho mẹ chết cần phải theo mẹ về cõi ma mới mong được chăm sóc tốt hơn…[8] Do thiếu hiểu biết pháp luật, và các hủ tục lạc hậu đã làm cho những người dân trong cộng đồng dân tộc ít người trên thực hiện hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật và các chuẩn mực pháp luật, chuẩn mực xã hội.

  1. Căn cứ vào nội dung, tính chất của các chuẩn mực pháp luật bị xâm hại và vào thái độ, tâm lí chủ quan của người thực hiện hành vi sai lệch

Dựa vào căn cứ trên thì chúng ta sẽ có thêm bốn loại hành vi sau đây:

– Hành vi sai lệch chủ động – tích cực là hành vi cố ý vi phạm, phá vỡ sự tác động của các chuẩn mực pháp luật đã lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp với yêu cầu của đời sống xã hội hiện tại.[1,tr.246]

Ví dụ, câu chuyện về bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc, đồng chí Kim Ngọc – cha đẻ của mô hình khoán. Ngày 10/09/1966, Ban thường vụ Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc ra nghị quyết về “Một số vấn đề quản lý lao động trong hợp tác xã hiện nay”. Theo nghị quyết này, đối với một số khâu trong quá trình canh tác mà xã viên có thể đảm nhiệm hiệu quả như cấy, chăm bón lúa (làm cỏ, bón phân, tát nước…) và thu hoạch, thì giao cho xã viên diện tích phải làm, kèm theo mức khoán số công điểm được ăn chia, sản lượng phải đạt và nộp cho hợp tác xã. Với cách làm như vậy, xã viên làm tốt, vượt mức khoán thì họ được hưởng lợi hoàn toàn, nên xã viên hăng hái, chăm chỉ tham gia sản xuất. Khả năng tự chủ của hộ gia đình lại được phát huy, mọi tiềm năng lao động lại được tận dụng.[9]

Ta có thể thấy, việc triển khai “khoán hộ” ở Vĩnh Phúc không được sự đồng thuận, và bị coi là sự vượt rào. Theo Thông tri số 224-TT/TW ngày 12/12/1968 của Ban Bí thư Trung ương Đảng “Về chấn chỉnh công tác ba khoán và quản lý ruộng đất của hợp tác xã sản xuất nông nghiệp ở một số địa phương” đã chấn chỉnh việc triển khai khoán hộ ở Vĩnh Phúc. Khoán hộ bị coi là buông lỏng quản lý, khoán trắng ruộng đất, khoán trồng trọt, khoán chăn nuôi, khoán cả công cụ sản xuất cho hộ dẫn đến tư hữu hoá tư liệu sản xuất, “trái với đường lối hợp tác hoá nông nghiệp của Đảng”, phá vỡ nguyên tắc quản lý XHCN, phục hồi kinh tế cá thể…, vì vậy việc khoán hộ ở Vĩnh Phúc không được ủng hộ. Bí thư Đảng uỷ tỉnh Vĩnh Phúc là ông Kim Ngọc sau đó đã “Quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, đưa phong trào hợp tác hoá xã và sản xuất nông nghiệp của tỉnh Vĩnh Phú vững bước tiến lên” (tháng 6/1969) Sau Vĩnh Phúc, Hải Phòng là địa phương thứ 2 công khai thực hiện khoán hộ, khoán sản phẩm, bỏ khoán việc. Tháng 06/1980, huyện uỷ Đồ Sơn ra nghị quyết số 05 giao ruộng đến xã viên, ngày 27/06/1980, Thành uỷ Hải Phòng ra nghị quyết số 24, công khai chuyển 06 huyện ngoại thành sang khoán sản phẩm, bỏ khoán việc.

Ngày 21/10/1980, Ban Bí thư trung ương Đảng ra nghị quyết số 22 TB-TW cho ý kiến về công tác khoán trong hợp tác xã và đội sản xuất, ghi nhận và đánh giá những tác dụng tích cực của hình thức khoán mới, cho phép các địa phương thử nghiệm các hình thức khoán sản phẩm với cây lúa. Dựa trên những kinh nghiệm thực tiễn với hiệu quả tích cực ở một số địa phương và Báo cáo của một số cơ quan chuyên ngành nghiên cứu về các hình thức khoán trong nông nghiệp, Đảng ta đã dần thừa nhận hình thức Khoán, và cụ thể là thông qua việc ban hành các Nghị quyết về Khoán 100 và khoán 10. Hiện nay, đất đai đã được giao cho nhân dân sử dụng. Như vậy có thể thấy, đóng góp của bí thư Kim Ngọc là một đóng góp quan trọng, giúp cho đẩy mạnh phát triển kinh tế và khắc phục các khó khăn của đất nước trong thời kì đất nước khó khăn, mặc dù thời điểm đó, việc làm của ông chưa được công nhận, đi trái với chuẩn mực, nhưng đây là việc làm sai lệch nhưng nó lại mang ý nghĩa tích cực cho đất nước.

– Hành vi sai lệch chủ động – tiêu cực là hành vi cố ý vi phạm, phá vỡ hiệu lực của các chuẩn mực pháp luật hiện hành mang tính chất tiến bộ, phù hợp, đang phổ biến, thịnh hành và được nhà nước, xã hội thừa nhận rộng rãi.[1,tr.246]

Ví dụ, năm 2011 dư luận không khỏi bàng hoảng và phẫn nộ về vụ án cướp tiệm vàng của Lê Văn Luyện. Khoảng 2h ngày 24/8/2011, Lê Văn Luyện đột nhập vào tiệm vàng Ngọc Bích (ở phố Sàn, Bắc Giang). Trong qua trình cướp tiệm vàng, Y đã tàn nhẫn giết chết hai vợ chồng chủ tiệm vàng Ngọc Bích và con gái út còn cháu Bích (con gái lớn chưa đầy 10 tuổi của vợ chồng chủ tiệm) thì bị y chém lìa tay phải, để rồi lấy sạch số vàng bày trong tủ kính bán hàng (trị giá 1,2 tỷ đồng) rồi tẩu thoát khỏi hiện trường. Chiều 31/8/2011, Y bị cảnh sát bắt giữ.[9] Tuy nhiên, Luyện bị tuyên 18 năm tù mặc dù thực hiện hành vi phạm tội đặc biệt nguy hiểm, điều này là do quy định của pháp luật hình sự về người chưa thành niên bởi khi thực hiện hành vi trên Luyện chưa đủ 18 tuổi. Việc Luyện hưởng án tù 18 năm đã gây lên làn sóng phẫn nộ trên dư luận.

– Hành vi sai lệch thụ động – tích cực là hành vi vô ý vi phạm, phá vỡ sự tác động của chuẩn mực pháp luật đã lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp với yêu cầu của đời sống xã hội.[1,tr.246]

Ví dụ, như những người bị mắc bệnh mù màu, khi họ tham gia giao thông khi đến đèn đỏ họ không nhận ra họ vẫn tiếp tục đi như vậy do có khuyết tật về mắt  nên đẫn đến hành vi vi phạm pháp luật. Hay những người bị tâm thần họ không kiểm soát hành vi của mình không nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật như khi cầm dao giết người nhưng họ không biết là vi phạm. Nghiên cứu các khuyết tật về tâm – sinh lý ở những cá nhân có hành vi phạm pháp, phạm tội có tác dụng rất lớn trong việc phát hiện và làm sáng tỏ những nguyên nhân dẫn tới các hành vi vi phạm pháp luật. Nó giúp cho các cơ quan bảo vệ pháp luật tùy theo từng trường hợp phạm pháp cụ thể mà đưa ra những kết luận đúng đắn về nguyên nhân, mục đích hay động cơ phạm pháp phạm tôi; từ đó mà xác định đúng người đúng tội và vận dụng các biện pháp xử lý, áp dụng khung hình phạt phù hợp. Thực hiện nguyên tắc không xử oan người vô tội, người không bị coi là tội phạm, đồng thời cũng không để lọt lưới kẻ phạm tội; đảm bảo tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật.

Như vậy, mặc dù có hành vi sai lệch xảy ra, nhưng hành vi sai lệch này giúp cho cơ quan nhà nước nhìn nhận lại về việc xử phạt phải dựa vào nguyên tắc lỗi khách quan, không phải khi nào có hành vi phạm tội, thì người có hành vi đó phải chịu hình phạt.

– Hành vi sai lệch thụ động – tiêu cực là hành vi vô ý vi phạm, phá vỡ hiệu lực của các chuẩn mực pháp luật tiến bộ, phù hợp, đang phổ biến, thịnh hành và được thừa nhận rộng rãi trong xã hội.[1,tr.246]

Ví dụ, Trong quá trình vận động và phát triển của xã hội, có những quan điểm, quan niệm chỉ có giá trị, ý nghĩa thực tiễn, xã hội chỉ được coi là đúng trong các xa hội trước đây; còn trong xã hội ngày nay, chúng tỏ ra không còn phù hợp, bị coi là quan niệm sai lệch cả về nội dung và tính chất. Tuy nhiên, vẫn có những cá nhân, nhóm xã hội nào đó làm theo các quan niệm sai lệch đó nên dẫn vi phạm chuẩn mực pháp luật hiện hành, tức là đã thực hiện một hành vi sai lệch.

Chẳng hạn như trong xã hội truyền thống có quan niệm “phép vua thua lệ làng”. Quan niệm này chỉ phù hợp nhất định trong điều kiện xã hội phong kiến trước đây, còn trong xã hội hiện nay, quan niệm này bị coi là quan niệm sai lệch cả về nội dung và tính chất. Một mặt, quan niệm này đề cao vi trí “lệ làng”  mà trong đó nhiều quy định của lệ làng không phù hợp với đạo đức hiện nay trái quy định của pháp luật hiện hành. Ví dụ như trước đây chúng ta có quy định của “lệ làng” như các cô gái chưa có chồng mà có thai thì sẽ cạo đầu bôi vôi và cho trôi sông, như thế quy định này là xâm phạm đến tính mạng danh dự của con người và vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Mặt khác, quan niệm “phép vua thua lệ làng” hạ thấp uy tín, vai trò của pháp luật do nhà nước ban hành; cản trở công tác thực thi, đưa pháp luật vào đời sống xã hội nông thôn, ảnh hưởng tiêu cực tới ý thức pháp luật của người dân nông thôn. Nếu cộng đồng làng xã nào đó vận dụng quan niệm “phép vua thua lệ làng” trong giải quyết các vấn đề phát sinh trong xã hội hiện nay thì rất có thể điều đó sẽ đưa họ tới hành vi vi phạm pháp luật. Ví dụ như các tập tục của một vùng dân tục nào đó trong lĩnh vực hôn nhân như tảo hôn ép cưới hỏi …..

Ta có thể thấy những hành vi trên, lấy hành vi tảo hôn là một ví dụ cụ thể thì đây là hành vi không những vi phạm pháp luật hôn nhân và gia đình mà nó còn để lại những hệ lụy hết sức nghiêm trọng đối với chất lượng cuộc sống của chính những gia đình “trẻ con”, rộng hơn là của cộng đồng dân cư khu vực đó. Việc thiếu hiểu biết về pháp luật hôn nhân và gia đình chính là nguyên nhân dẫn tới hành vi vô ý vi phạm pháp luật. Do đó, vấn đề tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại miền núi, vùng sâu vùng xa là việc làm hết sức cần thiết.

Từ cơ chế này cho thấy, khi phát hiện ra có những quan niệm sai lệch về đặc điểm, nội dung, tính chất hay phạm vi áp dụng của một bộ luật hay văn bản pháp luật nào đó, hoặc những quan niệm sai lệch có thể dẫn tới hành vi vi phạm pháp luật, thì các cơ quan chức năng của Nhà nước phải sớm có biện pháp định hướng, giải thích, điều chỉnh lại những quan niệm sai lệch đó để kịp thời ngăn chặn những hành vi phạm pháp, phạm tội có thể xảy ra, góp phần hình thành những hành vi cư xử hợp pháp, hợp đạo đức của công dân.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Khái niệm cơ quan nhà nước

Cơ quan nhà nước là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, bao gồm các thiết chế tập thể hoặc cá nhân được giao những quyền hạn và nghĩa vụ nhất định để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước.

Đặc điểm cơ bản của cơ quan nhà nước

_Là một tổ chức công quyền có tính độc lập tương đối với các tổ chức nhà nước khác, một tổ chức cơ cấu bao gồm những cán bộ, công chức được giao những quyền hạn nhất định để thực hiện nhiệm vụ và chức năng nhà nước theo quy định của pháp luật.

_Chỉ có cơ quan nhà nước mới có quyền lực nhà nước và thực hiện quyền của nhân dân, giải quyết các vấn đề quan hệ công dân, mỗi cơ quan nhà nước đều do pháp luật quy định, đó là tổng thể những quyền hạn và nghĩa vụ mang tính quyền lực- pháp lí mà nhà nước trao để thực hiện nhiệm vụ, chức năng nhà nước.

_Thẩm quyền của cơ quan nhà nước có những giới hạn về không gian, về thời gian có hiệu lực, về đối tượng chịu sự tác động và phụ thuộc vào địa vị pháp lí của nó trong bộ máy nhà nước.

_Mỗi cơ quan nhà nước có hình thức, phương pháp hoạt động riêng do pháp luật quy định.

_Các loại cơ quan nhà nước ở nước ta gồm:

+Các cơ quan quyền lực nhà nước: Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.

+Các cơ quan hành chính nhà nước: Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp và các cơ quan chuyên môn thuộc UBND.

+Các cơ quan xét xử: TAND tối cao, TAND địa phương, TA quân sự, TA đặc biệt, TA khác do luật định.

+Các cơ quan kiểm sát: VKSND tối cao, VKSND quân sự, VKSND địa phương.

+Chủ tịch nước: là 1 chức vụ nhà nước, một cơ quan đặc biệt thể hiện sự thống nhất của quyền lực, hoạt động thực hiện cả 3 quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp…

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Phân tích tính hợp pháp và hợp lý của quyết định hành chính

Cơ quan quản lý hành chính nhà nước với tư cách là cơ quan hành pháp được trao một khối lượng quyền hạn rất lớn để thực hiện các nghĩa vụ và chức năng quản lý hành chính nhà nước. Trong đó, quyền ra quyết định hành chính là quyền đặc biệt quan trọng – nó phản ánh trực tiếp ý chí của nhà nước. Một quyết định hành chính khi ban hành có đảm bảo được tính hiệu quả cũng như hiệu lực của quyết định hay không thì bản thân các quyết định đó phải đáp ứng được yêu cầu về tính hợp pháp cũng như tính hợp lý. Vì vậy, tính hợp pháp và hợp lý là những đòi hỏi không thể thiếu đối với bất kỳ quyết định hành chính nào.


MỤC LỤC BÀI VIẾT

Nội dung
I. Những vấn đề lý luận cơ bản về quyết định hành chính
1. Khái niệm quyết định hành chính
2. Đặc điểm của quyết định hành chính nhà nước
II. Những yêu cầu về tính hợp pháp và hợp lý của quyết định hành chính
1. Thế nào là  tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính
2. Yêu cầu về tính hợp pháp của quyết định hành chính
2.1. Quyết định hành chính được ban hành bởi các chủ thể có thẩm quyền
2.2. Quyết định hành chính không trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên
2.3. Quyết định hành chính phải được ban hành đúng hình thức do pháp luật quy định
2.4. Quyết định hành chính cần được ban hành đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định
3. Yêu cầu về tính hợp lý của quyết định hành chính

3.1. Yêu cầu quyết định hành chính phải bảo đảm giữa lợi ích của nhà nước và nguyện vọng của nhân dân

3.2. Yêu cầu quyết định hành chính phải bảo đảm tính hệ thống toàn diện

3.3. Yêu cầu về ngôn ngữ quyết định hành chính

3.4. Yêu cầu về tính kịp thời của quyết định hành chính

4. Mối quan hệ giữa tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính
III. Tính hợp pháp và hợp lý của các quyết định hành chính hiện nay, một số nhận xét
Kết luận

Phân tích tính hợp pháp và hợp lý của quyết định hành chính
Phân tích tính hợp pháp và hợp lý của quyết định hành chính

NỘI DUNG

I.Những vấn đề lý luận cơ bản về quyết định hành chính :

1.Khái niệm quyết định hành chính :

Hiện nay, có nhiều quan điểm trong việc đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh về quyết định hành chính. Tuy nhiên, trên cơ sở vị trí của quyết định hành chính, cũng như chủ thể ban hành nó,… ta có thể hiểu : quyết định hành chính là một dạng của quyết định pháp luật, nó là kết quả sự thể hiện ý chí quyền lực nhà nước thông qua những hành vi của các chủ thể được thực hiện quyền hành pháp trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước tiến hành theo một trình tự dưới những hình thức nhất định theo quy định của pháp luật, nhằm đưa ra những chủ trương, biện pháp, đặt ra các quy tắc xử sự hoặc áp dụng những quy tắc đó giải quyết một công việc cụ thể trong đời sống xã hội nhằm thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước. Đây có thể xem là câu trả lời khái quát và phù hợp nhất cho câu hỏi : quyết định hành chính là gì ?

2.Đặc điểm của quyết định hành chính nhà nước :

Quyết định hành chính là một dạng của quyết định pháp luật, nên nó cũng có những đặc điểm chung như những quyết định pháp luật khác. Đó là tính ý chí nhà nước, tính quyền lực nhà nước và mang tính pháp lý.

Bên cạnh đó, quyết định hành chính cũng mang một số đặc điểm riêng so với các quy phạm pháp luật khác :

– Thứ nhất : quyết định hành chính mang tính dưới luật. Quyết định hành chính ban hành trên cơ sở pháp luật, không được trái với luật và được ban hành nhằm hướng dẫn thi hành luật, cụ thể hóa và chi tiết hóa pháp luật.

– Thứ hai : quyết định hành chính là những quyết định do nhiều chủ thể quản lý hành chính nhà nước ban hành như các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, những cá nhân có thẩm quyền trong các cơ quan…

– Thứ ba : quyết định hành chính mang tính chấp hành – điều hành. Cơ quan quản lý nhà nước ban hành quyết định hành chính để thực hiện các nghĩa vụ, chức năng quản lý hành chính nhà nước, đó là chấp hành các văn bản pháp luật của cơ quan quyền lực nhà nước và điều hành hoạt động của các đối tượng chịu sự quản lý.

– Thứ tư : xuất phát từ những đặc điểm của quản lý hành chính nhà nước, quyết định hành chính có những mục đích và nội dung rất phong phú.

Có thể nói quyết định hành chính chiếm một vị trí trung tâm trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Thông qua quyết định hành chính mà nhà nước hoạch định chủ trương, đường lối, nhiệm vụ lớn cho hoạt động quản lý hành chính nhà nước; đặt ra, bãi bỏ hoặc sửa đổi các quy phạm pháp luật hay có thể làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật,…Từ đó, thiết lập các trật tự, định ra khuôn khổ để thực hiện các hoạt động hành chính cụ thể.

II.Những yêu cầu về tính hợp pháp và hợp lý của quyết định hành chính :

1.Thế nào là tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính ?

Một quyết định hành chính khi ban hành cần phải mang tính hợp pháp và tính hợp lý. Có thể hiểu tính hợp pháp là sự phù hợp của quyết định hành chính với các quy phạm pháp luật về thẩm quyền ban hành, hình thức, nội dung, thủ tục, thời hạn ban hành quyết định hành chính. Tính hợp lí được hiểu là sự phù hợp của quyết định với quy luật khách quan của đời sống xã hội, những điều kiện thực tế trong đó quyết định hành chính ra đời. Như vậy tính hợp pháp chủ yếu quyết định giá trị pháp lý còn tính hợp lý chủ yếu quyết định giá trị thực tế.

2.Yêu cầu về tính hợp pháp của quyết định hành chính :

2.1. Quyết định hành chính được ban hành bởi các chủ thể có thẩm quyền :

Ban hành quyết định hành chính đúng thẩm quyền, nghĩa là nội dung của quyết định đó chỉ quy định hoặc giải quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền của chủ thể đã được pháp luật xác định.

  • Thẩm quyền ban hành quyết định hành chính về mặt hình thức : là thẩm quyền của mỗi cơ quan được ban hành những loại quyết định hành chính nào do pháp luật quy định. Pháp luật quy định cơ quan nào có thẩm quyền ban hành loại quyết định hành chính gì là căn cứ vào chức năng, quyền hạn của cơ quan đó với quan niệm rằng khi ban hành các loại quyết định đó từng cơ quan có thể thực hiện tốt nhất công việc của mình. Ví dụ căn cứ vào điều 109 Hiến pháp 1992 và Điều 1 Luật tổ chức chính phủ 2001 thì thẩm quyền của Chính phủ là ban hành những Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ hay những quyết định, chỉ thị của thủ tướng Chính phủ để đề ra những chủ trương, chính sách, giải pháp lớn về quản lý hành chính đối với cả nước, một vùng hoặc một đơn vị hành chính nhất định như: Nghị quyết số 32/2007/NQ-CP của Chính phủ nhằm kiềm chế tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông ở Việt Nam; Nghị định 93/2008/NĐ-CP ngày 22-8-2008 Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ tư pháp.
  • Thẩm quyền ban hành quyết định hành chính về mặt nội dung : thể hiện ở chỗ mỗi cơ quan được quyền ban hành quyết định hành chính về những vấn đề gì, với tính chất, mức độ nào, tới đối tượng và khách thể quản lý cụ thể nào, trong giới hạn lãnh thổ và thời gian nào. Theo Điều 116 Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) và Luật tổ chức Chính phủ 2001 (Điều 6, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28) thì Bộ và cơ quan ngang bộ là cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn ở trung ương nên có thể ban hành các quyết định hành chính thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nước về một ngành, đa ngành hoặc lĩnh vực công tác trên phạm vi toàn quốc. Ví dụ, Bộ trưởng Bộ tư pháp được ban hành các quyết định hành chính “thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: công tác xây dựng và thi hành pháp luật; kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi hành án dân sự; hành chính tư pháp; bổ trợ tư pháp và các công tác tư pháp khác trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ” (Điều 1 Nghị định 93/2008/NĐ-CP) như Quyết định 04/2008/QĐ-BTP ngày 19-03-2008 Về việc ban hành Quy chế xét tặng Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp Tư pháp”, Thông tư 06/2007/TT-BTP ngày 05-07-2007 Hướng dẫn thực hiện một số thủ tục hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự,…).

Việc ban hành quyết định hành chính đúng thẩm quyền sẽ tránh được tình trạng chồng chéo, dẫm chân lên nhau, cùng một công việc mà có nhiều chủ thể tham gia, từ đó giúp cho việc giải quyết mọi công việc được nhanh chóng, chính xác và gọn nhẹ, tránh lạm quyền hay trốn tránh trách nhiệm. Việc phân định rõ thẩm quyền cũng sẽ tạo điều kiện để các chủ thể quản lý hợp tác ban hành các quyết định hành chính dễ dàng hơn.

2.2. Quyết định hành chính không trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên :

  • Quyết định hành chính có hiệu lực pháp lý thấp phải phù hợp với các quyết định có hiệu lực pháp lý cao hơn.

Hệ thống pháp luật Việt Nam gồm nhiều văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao, thấp khác nhau, trong đó văn bản có hiệu lực pháp lý thấp phải phù hợp với văn bản có hiệu lực pháp lý cao. Tính hợp pháp về nội dung của quyết định hành chính cá biệt biểu hiện ở sự phù hợp của quyết định hành chính so với các văn bản pháp luật chứa đựng văn bản pháp luật được chọn để áp dụng. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý khác nhau quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì quyết định hành chính phải phù hợp với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn, nếu các văn bản đó do cùng một cơ quan ban hành mà có quy định khác nhau thì quyết định hành chính cá biệt phải phù hợp với văn bản được ban hành sau (Điều 80 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật). Ví dụ: Nghị định của Chính phủ số 96/2007/NĐ-CP ngày 06-06-2007 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Điện ảnh phải phù hợp với Luật Địên ảnh 2006 do Quốc hội ban hành.

  • Nội dung quyết định hành chính phải hài hòa, thống nhất với các quyết định hành chính có cùng hiệu lực pháp lý.

Các quyết định hành chính có cùng hiệu lực pháp lý có nội dung không thống nhất với nhau thì một cách tự nhiên không có quyết định nào có khả năng làm mất hiệu lực của quyết định khác, trừ trường hợp quyết định sau được dùng để sửa đổi, thay thế, bãi bỏ quyết định trước hoặc các quyết định này do cùng một cơ quan ban hành thì quyết định được ban hành sau có khả năng làm mất hiệu lực của quyết định được ban hành trước. Trong trường hợp các quyết định hành chính có hiệu lực pháp lý ngang nhau và cùng có hiệu lực thi hành mà nội dung không hài hòa, thống nhất với nhau thì sẽ gây khó khăn cho việc thực hiện pháp luật và tất nhiên sẽ không tạo ra hiệu quả tốt cho việc quản lý hành chính.

  • Các quyết định hành chính trong cùng một loại phải thống nhất với nhau. Mỗi quyết định hành chính gồm nhiều quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ gần gũi với nhau phát sinh trong một lĩnh vực xã hội cụ thể. Giữa các quy phạm pháp luật trong cùng một quyết định có thể có những quan hệ với nhau về nhiều phương diện. Các quy phạm này nếu không thống nhất có thể vô hiệu hóa lẫn nhau, gây khó khăn trong việc thực hiện chúng. Ví dụ Nghị quyết của Quốc hội số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 về việc thi hành luật hôn nhân và gia đình năm 2000 phải thống nhất với Nghị định của Chính phủ số 70/2001/ NĐ – CP ngày 3/10/2001 quy định chi tiết thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

2.3. Quyết định hành chính phải được ban hành đúng hình thức do pháp luật quy định :

Quyết định hành chính là một hình thức ban hành văn bản pháp luật của các cơ quan quản lí hành chính Nhà nước, đòi hỏi phải ban hành đúng tên gọi và hình thức được pháp luật quy định.

  • Yêu cầu về tên loại của quyết định hành chính : Quyết định được ban hành đúng tên loại, trước hết là không sử dụng tên loại của các văn bản hành chính thông dụng. Ngoài ta, pháp luật còn quy định mỗi loại quyết định hành chính được dùng để quy định những vấn đề gì?
  • Yêu cầu về thể thức và bố cục của quyết định : Thể thức của quyết định gồm quốc hiệu, tên cơ quan, tổ chức ban hành quyết định; tên loại và trích yếu của quyết định; nội dung quyết định, công vụ, họ tên, chữ ký của người có thẩm quyền, dấu cơ quan, tổ chức; nơi nhận; dấu chỉ mức độ khẩn, mật độ quyết định. Ở mức độ nào đó thì những thông tin này cho phép đánh giá quyết định có hợp pháp hay không về mặt hình thức, nội dung, thẩm quyền ban hành.
  • Bố cục của quyết định cũng góp phần trong việc thể hiện và chuyển tải nội dung tới người đọc. Pháp luật cũng quy định về bố cục của từng loại quyết định tương ứng với vai trò của chúng trong quản lý. Những quy định này tạo nên sự thống nhất trong việc trình bày nội dung của từng loại quyết định. Bố cục của các quyết định hành chính được quy định cụ thể trong Thông tư Liên tịch số 55/2005/TTLT-BNV-VPCP ngày 06 tháng 5 năm 2005 của Bộ Nội vụ và Văn phòng Chính phủ hướng dẫn về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản.

2.4. Quyết định hành chính cần được ban hành đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định :

Thủ tục là số lượng các hoạt động cụ thể cần thực hiện để tiến hành hoạt động quản lí nhất định. Một quyết định hành chính ban hành đúng thủ tục là một quyết định được ban hành theo quy trình đầy đủ do pháp luật quy định và phải ban hành tuân thủ đúng trình tự các giai đoạn, các bước, các khâu được pháp luật quy định. Các thủ tục này được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành. Một quyết định hành chính được ban hành đúng trình tự, thủ tục vừa đảm bảo đạt được mục đích đề ra vừa tránh sự lạm quyền của chủ thể quản lí. Ví dụ như khi xây dựng, ban hành quyết định hành chính của Chính phủ thì trước khi dự thảo được trình Chính phủ phải được Bộ tư pháp thẩm tra.

Trình tự xây dựng và ban hành quyết định hành chính nói chung thông thường phải trải qua các bước: sáng kiến ban hành quyết định; dự thảo quyết định; trình dự thảo; truyền đạt ý kiến. Có nhiểu loại quyết định hành chính, nếu căn cứ vào tính chất pháp lí, nội dung thì quyết định hành chính được chia làm 3 loại: quyết định chủ đạo, quyết định quy phạm, quyết định cá biệt. Với mỗi loại quyết định hành chính thì sẽ có những trình tự, thủ tục ban hành khác nhau được quy định trong luật.

Quyết định chủ đạo là những quyết định nhằm đưa ra những chủ trương chính sách, giải pháp lớn về quản lý hành chính đối với cả nước, một vùng hoặc đối với một đơn vị hành chính nhất định. Quyết định quy phạm nhằm ban hành những quy tắc xử sự, xác định các quyền và nghĩa vụ cho các đối tượng liên quan, tạo ra một khuôn khổ pháp lí trong đó các chủ thể của pháp luật hành chính sẽ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Với nội dung như vậy nên hai loại quyết định này thường phải có nhiều chủ thể tham gia, có nhiều bước, có nội dung, thời hạn rõ ràng quy định trong luật.

Thể hiện rõ trong trình tự xây dựng và ban hành quyết định của Thủ tướng chính phủ: dự thảo quyết định, chỉ thị của thủ tướng giao và chỉ đạo cơ quan soạn thảo. Cơ quan này có trách nhiệm xây dựng dự thảo và tùy theo tính chất, nội dung của dự thảo tổ chức lấy ý kiến các thành viên chính phủ, của chủ tịch hội đồng nhân dân, chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan. Bộ tư pháp có trách nhiệm tham gia ý kiến bằng văn bản về các dự thảo quyết định, chỉ thị của thủ tướng. Sau đó, cơ quan soạn thảo sẽ tiếp tục chỉnh lý dự thảo và báo cáo thủ tướng về ý kiến của cơ quan, tổ chức các nhân hữu quan. Thủ tướng sẽ là người trực tiếp xem xét để ký quyết định, chỉ thị.

Quyết định cá biệt: trên cơ sở hai quyết định trên, quyết định hành chính cá biệt được ban hành nhằm mục đích hướng đến việc cho các chủ thể thực hiện được các quyền cũng như nghĩa vụ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Với đặc điểm là phải giải quyết nhanh chóng trên thực tế các vụ việc nên thủ tục của ban hành quyết định này ít phức tạp hơn. Ví dụ: Khi  người đứng đầu một cơ quan sử dụng cán bộ, công chức muốn ra một quyết định cho nghỉ hưu phải tuân theo trình tự Điều 6: thông báo nghỉ hưu, điều 7 Quyết định nghỉ hưu (theo nghị định số 143/2007/NĐ-CP về thủ tục thực hiện nghỉ hưu đối với cán bộ công chức đủ điều kiện nghỉ hưu)

3.Yêu cầu về tính hợp lý của quyết định hành chính :

3.1. Yêu cầu quyết định hành chính phải bảo đảm giữa lợi ích của nhà nước và nguyện vọng của nhân dân :

Quyết định hành chính phải bảo đảm hài hòa giữa lợi ích nhà nước, tập thể và cá nhân. Không nên ra các quyết định hành chính vì mang lợi ích công cộng mà gây thiệt hại cho công dân. Ngược lại, tránh tình trạng vì vụ lợi cho một tập thể mà gây tổn hại cho cả xã hội. Yêu cầu này đòi hỏi sự cân đối hợp lý lợi ích giữa nhà nước và xã hội, coi lợi ích của xã hội và lợi ích của công dân làm tiêu chí đánh giá tính hợp lý của một quyết định hành chính.

3.2. Yêu cầu quyết định hành chính phải bảo đảm tính hệ thống toàn diện

Hiện nay, cùng với sự phát triển của xã hội, các đối tượng quản lý của quản lý hành chính ngày càng đông đảo và phức tạp. Bởi vậy, khi ban hành một quyết định hành chính để quản lý xã hội cần phải tính hết các hậu quả không chỉ về kinh tế mà còn về chính trị – xã hội; về mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài; kết quả, mục tiêu cần đạt với điều kiện và khả năng thực hiện. Không những các biện pháp đề ra trong cùng một quyết định mà cả các văn bản có liên quan khác cũng đều phải phù hợp và đồng nhất với nhau.

3.3. Yêu cầu về ngôn ngữ quyết định hành chính :   

Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng đối với chất lượng và hiệu quả điều chỉnh của quyết định hành chính. Ngôn ngữ trong quyết định hành chính phải nghiêm túc và trang trọng. Điều này sẽ không tạo tâm lý coi thường của người đọc. Ngoài ra, vì đối tượng chịu sự quản lý thực hiện quyết định không phải là thực hiện điều chủ thể quản lý muốn thể hiện trong quyết định mà thực hiện điều đối tượng chịu sự quản lý tiếp nhận khi đọc được quyết định nên ngôn ngữ phải chính xác và dễ hiểu nhằm mục đích giúp người đọc dễ tiếp thu.

3.4. Yêu cầu về tính kịp thời của quyết định hành chính :

Một quyết định hành chính có hiệu lực và khả năng thực thi cao khi nó được ban hành đúng lúc, hợp với nhu cầu quản lý. Chủ thể quản lý phải chọn thời điểm thích hợp để tiến hành những hoạt động tương ứng nhằm tạo ra quyết định có chất lượng cao hoặc giải pháp tốt nhất cho những vấn đề quản lý liên quan. Việc làm này có ý nghĩa vô cùng quan trọng và ảnh hưởng tới hiệu quả thực hiện quyết định hành chính.

4.Mối quan hệ giữa tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính :

Tính hợp pháp và hợp lí gắn bó với nhau cả về nội dung và hình thức như là một chỉnh thể thống nhất mà nếu thiếu một trong các yêu cầu đó thì việc ban hành quyết định hành chính sẽ không đạt được mục đích. Hai thuộc tính này gắn bó, bổ sung và hỗ trợ cho nhau, nếu như chỉ có tính hợp pháp thì quyết định hành chính trong nhiều trường hợp không phát huy được hiệu lực của nó và xa rời với tình hình thực tế, xa rời nhận thức của nhân dân. Ví dụ: Quyết định số 62/2001/QĐ-UBND ngày 23/7/2001 của UBND TP. Hồ Chí Minh về ban hành kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu ba giảm: giảm ma túy, mại dâm và tội phạm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2001-2005.(1) Quyết định này được ban hành phù hợp với các quy định của cơ quan nhà nước ở trung ương nhưng tính hợp lý thì vận dụng chưa được nhuần nhuyễn.

 Ngược lại, nếu chỉ có tính hợp lý thì không bảo đảm cho pháp chế xã hội chủ nghĩa được thực thi, không tạo được tính quyền lực nhà nước cũng như tính nghiêm minh của pháp luật trong các quyết định hành chính. Đơn cử như Quyết định 107/2003/QĐ-UBND ngày 27/6/2003 của UBND TP. Hồ Chí Minh cho phép “Tổ quản lý trật tự đô thị có nhiệm vụ lập biên bản và đình chỉ hành vi vi phạm hành chính”.(2) Những việc làm này đã gây rối loạn hệ thống pháp luật nhà nước, chưa kể việc sử dụng biện pháp mạnh của mỗi địa phương còn thể hiện sự vi phạm trật tự kỷ cương, phép nước ngay trong bộ máy nhà nước và vi phạm quyền công dân.

Tuy nhiên, mặc dù hai thuộc tính này có mối khăng khít như vậy nhưng có thể thấy có những trường hợp dù quyết định hành chính chứa đựng tính hợp pháp nhưng chưa chắc chứa đựng tính hợp lý; nhưng tính hợp lý chưa chắc đã chứa đựng tính hợp pháp.

III. Tính hợp pháp và hợp lý của các quyết định hành chính hiện nay – một số nhận xét :

Thực tiễn cho thấy trong việc tuân thủ thẩm quyền, thủ tục thì các cơ quan hành chính nhà nước đã tuân thủ và thực hiện khá đầy đủ những quy định của pháp. Thực hiện tốt những quy định về thẩm quyền góp phần nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước, đảm bảo tính minh bạch tạo tiền đề cho người có thẩm quyền ban hành đúng pháp luật. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động quản lý hành chính nhà nước nói chung và trong quyết định hành chính nói riêng cũng đã có nhiều kết quả tốt. Thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát mà đã kịp thời phát hiện kịp thời những vi phạm pháp luật. Nhìn chung các cơ quan hành chính nhà nước đã phát hiện kịp thời và có các biện pháp xử lí đối với những vi phạm. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được thì vẫn còn tồn tại một số mặt tiêu cực, cụ thể :

Thực tế hoạt động ban hành quyết định hành chính cho thấy nhiều quyết định hành chính đã và đang được ban hành không đúng thầm quyền của chủ thể được phép ban hành. Theo thống kê của Bộ Tư pháp, qua kiểm tra 1.506 văn bản pháp luật đã ban hành của cấp bộ và địa phương trong năm 2007, phát hiện 320 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật. Năm 2008, kiểm tra 1.968 văn bản thì phát hiện 490 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật (trong đó có 93 văn bản cấp bộ và 397 văn bản của địa phương). Như vậy, khoảng từ 20-25% số văn bản được kiểm tra có dấu hiệu vi phạm. (3)

Việc ban hành quyết định hành chính trái với thẩm quyền ban hành của chủ thể đa số xảy ra ở những cơ quan hành chính nhà nước cấp địa phương như UBND xã, phường, UBND quận, huyện và UBND tỉnh, thành phố. Ví dụ như quyết định hành chính số 721/QĐ-UB ngày 29/7/2005 được ban hành bởi Phó Chủ Tịch UBND quận Hai Bà Trưng về việc xử lý tranh chấp đất đai đã có sổ đỏ giữa bà Phạm Thị Sâm và bà Lê Thị Hường. Theo quy định của Luật Đất đai, những tranh chấp về đất đai đã có “sổ đỏ” phải do Toà án giải quyết. Vì vậy, việc ông Tuấn ra quyết định hành chính số 721 là trái thẩm quyền. (4)

Có những quyết định hành chính lại trái Hiến Pháp, Luật cũng như các văn bản của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Ví dụ như Thông tư số 02/2003/TT-BCA (C11) của Bộ Công An quy định “… Mỗi người chỉ được đăng ký 1 xe mô tô hoặc xe gắn máy”. Đây là một quyết định hành chính trái Hiến Pháp và Bộ Luật Dân Sự 2005 bởi nó hạn chế quyền sở hữu của công dân trong khi Hiến Pháp và Bộ Luật Dân Sự thừa nhận việc công dân có quyền sở hữu tài sản. Điều 58 của Hiến Pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt …” và Điều 211 Bộ Luật Dân Sự thừa nhận hình thức sở hữu tư nhân. (5)

Nhiều quyết định hành chính sau khi ban hành đã bị người dân khiếu kiện ra tòa như quyết định hành chính số 4993/QĐ-UB ngày 17/11/2003 do Phó chủ tịch UBND thành phố Nguyễn Văn Đua ký ban hành về việc “Thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 15676/2000 ngày 18/12/2000 của UBND TPHCM cấp cho ông, bà Nguyễn Văn Đô – Lý Muội” đối với căn nhà số 260/11 đường Bà Hom, Phường 13, Quận 6. (6)

Bên cạnh đó, nhiều quyết định hành chính có nội dung trái pháp luật, không thống nhất với các quy định có cùng giá trị pháp lý. Ví dụ: Tại Thành phố Hồ Chí Minh, khi quy định về việc quy hoạch những khu vực nào được phép kinh doanh ngành nhạy cảm (karaoke, matxa, khách sạn..) về việc cấp giấy phép kinh doanh, có hai Công văn quy định về vấn đề này, một công văn quy định “ Nếu hỏi quận mà sau năm ngày không trả lời thì Sở vẫn có quyền cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh”, một Công văn quy định “ Nếu hỏi quận mà sau 5 ngày không thấy trả lời thì không được cấp”.(7) Đây không chỉ là trường hợp dùng văn bản hành chính để đặt ra quy phạm pháp luật (sai hình thức quyết định) mà còn có sự trái ngược giữa các quy định khiến cho người thi hành không biết phải làm như thế nào.

Bên cạnh đó, có nhiều quyết định hành chính ban hành không đúng hình thức pháp luật quy định. Trường hợp quyết định hành chính có sai sót về kĩ thuật tương đối phổ biến; trong số 522 văn bản có dấu hiệu vi phạm pháp luật (trong  tổng số 1702 văn bản được kiểm tra năm 2005) có 109 văn bản sai căn cứ pháp lý, 170 văn bản sai kĩ thuật trình bày, năm 2006 Bộ tư pháp tự kiểm tra 16 văn bản do mình ban hành thì có 5 văn bản sai về thể thức, kĩ thuật trình bày, trong số 3808 văn bản Bộ tư pháp kiểm tra theo chức năng cũng có 148 văn bản sai về thể thức và kĩ thuật trình bày.(8)

Ví dụ: Công văn số 393/UBND-NC của UBND tỉnh Đồng Nai ngày 18/1/2006 hướng dẫn sử dụng đơn thư khiếu nại thuộc lĩnh vực bồi thường giải tỏa, hướng dẫn các địa phương thuộc tỉnh khi giải quyết một số khiếu nại về đất đai thì không ban hành quyết định giải quyết khiếu nại mà chỉ ban hành văn bản trả lời giải thích. Đây là trường hợp quyết định hành chính được ban hành không đúng hình thức và có nội dung trái pháp luật (trái với Điều 39 Luật khiếu nại, tố cáo). (9)

Bên cạnh tính hợp pháp thì tính hợp lý của quyết định hành chính ở nước ta hiện nay cũng là một vấn đề bức xúc. Có những quyết định hành chính hợp pháp song lại không hợp lý bởi nó không xuất phát từ lợi ích của nhân dân và không có tính khả thi cao. Cụ thể như quyết định hạn chế việc đăng ký xe máy trên 7 quận nội thành của UBND thành phố Hà Nội. (10) Đây không những là một quyết định trái hiến pháp và Luật mà đây còn là một quyết định không xuất phát từ lợi ích của nhân dân và không có tính khả thi cao.

Ngoài ra, ngôn ngữ ở một số văn bản quyết định hành chính không rõ ràng, tạo sự dễ hiểu cho người đọc. Ví dụ Quyết định số 41/2001/QĐ-UBND ngày 17/5/2001 của UBND TP. Hồ Chí Minh về kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu ba giảm: giảm tội phạm, ma túy và tệ nạn mại dâm trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh năm 2001 lúc thì sử dụng thuật ngữ “gái mại dâm”, lúc lại sử dụng thuật ngữ “gái mãi dâm”. Theo Từ điển Hán Việt, “mại” là bán, còn “mãi” là mua. Tương tự, “mại dâm” là hành động bán dâm còn “mãi dâm” là hành động mua dâm (11). Vì vậy, khi viết “gái mãi dâm” là một cụm từ không chính xác, do trên thực tế chỉ có gái mại dâm – tức những người phụ nữ làm nghề bán dâm, rất ít khi thấy những người phụ nữ làm việc ngược lại là đi mua dâm. Hơn nữa, đó cũng không phải là đối tượng quyết định này hướng tới.

Như vậy, có thể thấy, việc đảm bảo tính hợp pháp và hợp lý của quyết định hành chính hiện nay còn nhiều bất cập. Tình trạng quyết định hành chính được ban hành trái thẩm quyền, trái pháp luật vẫn còn tồn tại ở nhiều địa phương trên cả nước. Bởi vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là các giải pháp để nâng cao tính hợp pháp và hợp lý của các quyết định hành chính.

KẾT LUẬN

Có thể nói quyết định hành chính là một phương tiện không thể thiếu của hoạt động quản lý hành chính nhà nước, tạo thành “xương sống”, nền tảng của sự  điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động quản lý, giúp bộ máy hành chính nhà nước hoạt động hài hòa, các quyền và nghĩa vụ của công dân được thực thi trên thực tế,…Tuy nhiên, hiện nay vấn đề bảo đảm tính hợp pháp và hợp lý của quyết định hành chính còn nhiều bất cập. Những hạn chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như quyết định hành chính chưa được ban hành theo trình tựm thủ tục luật định; việc phân định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cơ quan QLNN giữa các cấp như trung ương và địa phương, trong từng ngành vẫn chưa rõ, thậm chí, mâu thuẫn, chồng chéo; do trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền nói riêng còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra hay do việc xử lý đối với chủ thể khi ban hành quyết định hành chính sai vẫn chưa thực sự tạo được tính răn đe;…..

Để một quyết định hành chính phát huy được vai trò của mình trên thực tế thì cần phải tiến hành các giải pháp như : Nghiên cứu kĩ các quy định của pháp luật hiện hành để xác định được thẩm quyền của các cơ quan hành chính trong việc ban hành các quyết định hành chính; Thực hiện tốt chế độ bầu, tuyển chọn, bổ nhiệm, bãi nhiệm đối với các cán bộ, công  chức của bộ máy hành chính nhà nước để có thể lựa chọn những người đủ đức đủ tài, có bản lĩnh chính trị vững vàng; Những quyết định hành chính quan trọng nên được đưa ra công luận xin ý kiến nhân dân. Nên chăng, Quốc hội sớm ban hành Luật trưng cầu ý dân, trong đó quy định rõ những vấn đề nào cần phải xin ý kiến của nhân dân, quy trình sửa đổi, tiếp thu ý kiến của nhân dân… trong công tác xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật; Công tác tổng kết, đánh giá, rà soát và hệ thống hoá các quyết định hành chính phải được tiến hành thường xuyên và nghiêm túc, từ đó đình chỉ, sửa đổi và bãi bỏ quyết định không hợp pháp, không còn phù hợp với thực tiễn, đồng thời bổ sung những quy định mới đáp ứng yêu cầu thực tiễn bảo đảm được tính hợp pháp nhằm giữ vững pháp chế xã hội chủ nghĩa, đồng thời cần đảm bảo tính hợp lý để những quyết định này thực sự bảo vệ lợi ích của nhân dân. (12)


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, NXB Công an nhân dân, 2010.
  2. Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội, 2005;
  3. Học viện hành chính quốc gia, Giáo trình luật hành chính và tài phán hành chính, Nx. Giáo dục, Hà Nội, 2005;
  4. Hiến pháp Việt Nam năm 1992;
  5. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008;
  6. Luật khiếu nại, tố cáo 1998 (được sửa đổi, bổ sung năm 2004 và 2005);
  7. Luật tổ chức Chính phủ 2001;
  8. Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003;
  9. Nghị định của Chính phủ số 179/2007/NĐ-CP ngày 3/12/2007 ban hành quy chế làm việc của Chính phủ;
  10. Nguyễn Gia Huy, Nâng cao quyền lực, năng lực, hiệu lực quản lí nhà nước – Nâng cao hiệu lực pháp luật, Nxb. Lao động, Hà Nội, 1994;

PHỤ LỤC

(1) Nguồn : http://sotuphap.thaibinh.gov.vn/ct/news/Lists/PhongChongTNXH/

Quyết định số 62/2001/QĐ-UBND ngày 23/7/2001 của UBND TP. Hồ Chí Minh về ban hành kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu ba giảm: giảm ma túy, mại dâm và tội phạm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2001-2005. Quyết định này nêu lên các biện pháp, giải pháp phòng, chống, ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tệ nạn mại dâm nhưng chủ yếu tăng cường xử lý đối với chủ chứa, môi giới, bảo kê và đặc biệt là xử lý nghiêm đối với người bán dâm, trong khi đó lại “buông lỏng” người mua dâm. Quyết định này được ban hành phù hợp với các quy định của cơ quan nhà nước ở trung ương nhưng tính hợp lý thì vận dụng chưa được nhuần nhuyễn. Việc xử phạt nặng đối với người bán dâm là chưa hợp lý. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã lập luận rằng: chừng nào còn có cầu, thì cung vẫn sẽ tồn tại nên các nước này tập trung xử phạt nặng đối với người mua dâm. Vì thế, hiệu quả đạt được trong công tác phòng, chống mại dâm là rất cao.

(2) Nguồn : http://sotuphap.thaibinh.gov.vn/ct/news/Lists/PhongChongTNXH/  

(3) Nguồn :  http://antg.cand.com.vn/News/PrintView.aspx?ID=69085

(4) Nguồn : http://www.tienphong.vn/Phap-Luat/61930/Huy-quyet-dinh-trai-phap-luat-cua-UBND-quan.html.

Cụ thể như sau, năm 1992, gia đình bà Phạm Thị Sâm mua căn nhà ở số 23 phố Thịnh Yên (có nhiều hộ sinh sống) với diện tích: 40,5m2 (có 6,9m2 lối đi riêng). Việc mua bán có xác nhận của UBND phường và các hộ trong số nhà 23. Năm 2004,  bà Sâm được UBND quận HBT cấp “sổ đỏ”, trong đó ghi nhận rõ có ngõ đi riêng nói trên. Nhưng ngay sau đó, bà Hường (hộ liền kề) đã khiếu kiện lên UBND quận, đòi quyền sử dụng chung vào lối đi này. Ông Lâm Anh Tuấn, Phó Chủ tịch UBND quận đã ra Quyết định số 721/QĐ – UB ngày 29/7/2005 “cho bà Lê Thị Hường được khôi phục quyền sử dụng chung diện tích 6,9m2, đồng thời điều chỉnh diện tích đã cấp “sổ đỏ” cho bà Sâm (huỷ diện tích ngõ đi trong “sổ đỏ”). Có thể thấy quyết định hành chính của ông Tuấn là trái thẩm quyền ban hành của chủ thể.

(5) Nguồn : http://www.luatviet.org/Home/ nghien- cuu- trao- doi/hanh- chinh/ 2009 / 8119 /Ve-tinh-hop-phap-hop-ly-trong-quyet-dinh-quan-ly-nha.aspx

(6) Nguồn : http://vietbao.vn/An-ninh-Phap-luat/Them-mot-quyet-dinh-hanh-chinh-cua-UBND-TPHCM-bi-nguoi-dan-kien-ra-toa/45134874/218/

Quyết định này được ký theo đề nghị của Giám đốc Sở Địa chính – Nhà đất (nay là Sở Xây dựng) và UBND quận 6. Theo đó, vào tháng 4/1997, giải quyết tranh chấp phần diện tích hẻm chung giữa hai căn hộ 260/11 và 260/13, UBND quận 6 đã ban hành quyết định xác định phần diện tích tranh chấp là thuộc diện Nhà nước quản lý. Nhưng khi gia đình ông bà Nguyễn Văn Đô – Lý Muội lập thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở (sổ hồng) đối với nhà 260/11, Phòng Quản lý đô thị quận 6 đã không nêu rõ thông tin này, dẫn đến việc các cơ quan có liên quan đã trình UBND TP.HCM cấp “sổ hồng” cho nhà 260/11, trong đó có phần diện tích hẻm do Nhà nước quản lý. Đương sự cho rằng việc UBND TPHCM thu hồi “sổ hồng” của ngôi nhà là trái pháp luật nên đã phát đơn kiện ra tòa. Đương sự cũng cho rằng họ hoàn toàn không lấn chiếm diện tích được UBND quận 6 xác định “do Nhà nước quản lý” nói trên mà đó là phần công trình phụ của ngôi nhà, có đóng thuế đầy đủ và sử dụng hơn 40 năm nay. Hiện nay vụ kiện đã được Tòa hành chính TAND TP.HCM thụ lý để giải quyết theo thẩm quyền.

(7) Nguồn : http://www.baomoi.com/Kinh-doanh-nganh-nghe-nhay-cam-tai-TP-Ho-Chi-Minh-Quan-ly-chat-che-de-han-che-te-nan/58/5703493.epi

(8) Nguồn : http://luatviet.org/Home/nghien-cuu-trao-doi/hanh-chinh/2009/8119/Ve-tinh-hop-phap-hop-ly-trong-quyet-dinh-quan-ly-nha.aspx

(9) Nguồn : http://www.baomoi.com/Home/Dau- Tu- Quy -Hoach /nguoicaotuoi. org. vn /Du-an-Dau-tu-xay-dung-va-kinh-doanh-ha-tang-ki-thuat-Khu-Cong-nghiep-Song-May-tinh-Dong-Nai-Nguoi-dan-chua-dong-thuan-tai-sao/6198890.epi

(10) Nguồn : http://vietbao.vn/Xa-hoi/2008-Ha-Noi-ngung-dang-ky-xe-quan-Long-Bien-Hoang-Mai/10859115/157/

(11) Nguồn : http://sotuphap.thaibinh.gov.vn/ct/news/Lists/PhongChongTNXH/

(12) Nguồn : Nguyễn Gia Huy, Nâng cao quyền lực, năng lực, hiệu lực quản lí nhà nước – Nâng cao hiệu lực pháp luật, Nxb. Lao động, Hà Nội

 


SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Khi nói đến đạo đức là chúng ta nghĩ ngay đến những chuẩn mực của xã hội về quan niệm đối nhân xử thế giữa con người với con người. Đó là những quan niệm về thiện-ác, ở hiền gặp lành, lương tâm, trách nhiệm, công bằng…lối sống lành mạnh phát huy được truyền thống của dân tộc. Không chỉ là đạo đức đơn thuần mà những quan niệm đó đã được pháp luật ghi nhận và trở thành những nguyên tắc cơ bản của con người phải thực hiện trong xã hội hiện nay. Vậy chuẩn mực “đạo đức”, “ xã hội” là gì và mối liên hệ của chúng trong cuộc sống hiện nay ở Việt Nam như thế nào?. Sau đây chúng ta hãy đi tìm hiểu thông qua những ví dụ cụ thể.

I, Cơ sở lí luận

1, khái niệm chuẩn mực đạo đức

“ Chuẩn mức đạo đức là hệ thống các quy tắt, yêu cầu, đòi hỏi đối với hành vi xã hội của con người, trong đó xác lập những quan điểm, quan niệm chung về công bằng và bất công về cái thiện và cái ác, danh dự và trách nhiệm và những phạm trù khác thuộc đời sống đạo đức tinh thần xã hội”.

2, Các đặc điểm của chuẩn mực đạo đức

 Chuẩn mực đạo đức là loại chuẩn mực xã hội bất hành văn, nghĩa là các quy tắc, yêu cầu của nó không được ghi chép bằng văn bản dưới một văn bản hay bộ luật đạo đức nào cả. Nó tồn tại dưới hình thức giá trị đạo đức những bài học về luân thường đạo lí, cách ứng xử của con người trong cuộc sống thường ngày. Các chuẩn mực đạo đức thường được củng cố, giữ gìn và phát triển thông qua giáo dục truyền miệng, thông qua giáo dục từ gia đình, xã hội hóa cá nhân và dược truyền từ đời nay sang đời khác. Trong lịch sử chuẩn mực đạo đức đã được hình thành từ rất sớm, từ khi hiện tượng nhà nước còn chưa xuất hiện. Trong xã hội hiện nay chuẩn mực đạo đức đóng một vai trò rất quan trọng trong việc chi phối hành vi của con người.

Chuẩn mực đạo đức mang tính giai cấp. mặc dù tính gia cấp của nó không mạnh mẽ như tính giai cấp của chuẩn mực pháp luật. Tính giai cấp của chuẩn mực đạo đức thể hiện ở chỗ nó được sinh ra nhằm củng cố, bảo vệ hay phục vụ cho các nhu cầu lợi ích vật chất, hay tinh thần của gia cấp này hay giai cấp khác trong xã hội. Chuẩn mực đạo đức được bảo đảm thực hiện trong thực tế xã hội nhờ vào các nhóm yếu tố khách quan và chủ quan.

     + Yếu tố chủ quan là các yếu tố tồn tại thường trực trong ý thức, quan điểm của mỗi cá nhân, chi phối điều khiển hành vi đạo đức của họ. Những thói quen, nếp sống, sinh hoạt hang ngày của mỗi người chúng được lặp đi lặp lại hàng ngày, đã trở thành cái thường trực trong mỗi người và điều khiển hành vi đạo đức của họ một cách tức thời, gần như mang tính tự động. Sự tự giác tự nguyện của mỗi người trong thực hiện hành vi đạo đức phù hợp với quy tắc của chuẩn mực đạo đức. Sức mạnh nội tâm, chịu sự chi phối bởi lương tâm. Lương tâm của một con người được coi như một tòa án đặc biệt, chuyên phán xét các hành vi sai trái không phù hợp với chuẩn mực đạo đức. Một hành vi sai với chuẩn mực đạo đức sẽ bị lương tâm cắn rứt. Đây là một cơ chế đặc biệt của việc thực hiện chuẩn  mực đạo đức.

    + Yếu tố khách quan là nhứng yếu tố bên ngoài ý thức của mỗi con người, nhưng lại giữ vai trò chi phối, điều chỉnh hành vi đạo đức của họ, hoặc ít nhất cũng tác động đến việc tuân thủ đạo đức. Sự tác động ảnh hưởng của các thuần phong mỹ tục trong xã hội. hành vi đạo đức của những người xung quanh tối ý thức và hành vi đạo đức của mỗi cá nhân. Đây là biểu hiện của quá trình tâm lý bắt chước. Tâm lý bắt chước có tác dụng tích cực trong việc thúc đẩy các nhân thực hiện hành vi đạo đức đã được định hình một cách đúng đắn. Sức mạnh của dư luận xã hội trong việc định hướng và điều chỉnh các hành vi đạo đức của con người.Dư luận xã hội là một cơ chế đặc biệt để điều chỉnh hành vi đạo đức của con người.  Nó được coi là búa rìu của xã hội, như một thứ luật bất hành văn tác động lên án những hành vi đạo đức của con người mà đi trái với chuẩn mực, vô đạo đức hay đề cao những hành vi tích cực. Chuẩn mực đạo đức được sinh ra từ những mâu thuẫn được quy định về mặt vật chất giữa các lợi ích chung và lợi ích riêng. Nó được biểu hiện ra bằng hành động suy nghĩ của con người thể hiện nhân cách và hoàn thiện bản thân mình.

3,  Khái niệm pháp luật

“ Pháp luật là hệ thống các quy phạm có tính bắt buộc, do nhà nước ban hành, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, là công cụ sắc bén để thực hiện quyền lực nhà nước’’. Ngoài việc bảo đảm trật tự xã hội vì lợi ích xã hội, pháp luật còn duy trì địa vị và lợi ích của giai cấp thống trị.

4, Đạo đức và pháp luật có những điểm thống nhất sau đây.

Pháp luật và đạo đức đều có chung mục tiêu. Đây là những phương tiện điều chỉnh quan trọng bậc nhất của các quan hệ xã hội và hành vi của con người. Pháp luật và đạo đức đảm bảo cho xã hội tồn tại và phát triển một cách ổn định. Điều chỉnh những quan hệ phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng xã hội và giai cấp thống trị. Pháp luật và đạo đức còn là công cụ hướng hành vi con người vào một trật tự nhất định đảm bảo cho sự ổn định chung của toàn xã hội. Ngoài ra chúng còn mang tính quy phạm phổ biến, là một khuôn mẫu chuẩn mực trong hành vi của con người. Pháp luật và đạo đức tác động đến tất cả cá nhân, tổ chức trong xã hội và tất cả những lĩnh vực của đời sống. Để có được phạm vi ảnh hưởng lớn như vậy pháp luật và đạo đức cần phải phù hợp với tiêu chuẩn xã hội nhất định.  Pháp luật và đạo đức đều phản ánh sự tồn tại của xã hội qua các thời kì lịch sử. Chúng còn là các nhân tố chi phối đời sống xã hội.

5, Những điển khac nhau cơ bản của chuẩn mực đạo đức và chuẩn mực xã hội

Bên cảnh những điểm giống nhau thì pháp luật và đạo đức còn khác nhau ở những điểm cơ bản. Con đường hình thành của pháp luật là dựa trên sự phát triển pháp lí của nhà nước còn con đường hình thành của đạo đức là do tự phát do các cá nhân và cộng đồng. Hình thức thể hiện của đạo đức đa dạng hơn hình thức thể hiện của pháp luật. Đạo đức thể hiện qua các hình thức bất hành văn còn pháp luật có những quy phạm rõ rang được quy định trong các bộ luật.

  Đạo đức có nguồn gốc và giá trị lâu dài khi con người ý thức được hành vi của mình là sai thì họ có thể tự mình đều chỉnh hành vi đó. Còn pháp luật là cưỡng chế dù muốn hay không thì các chủ thể không được lạm những gì trái với các quy định của pháp luật. Pháp luật được thực hiện một cách nghiêm chỉnh thông qua các cơ quan nhà nước còn đạo đức được thực hiện qua “ Tòa án lương tâm”.

II, Mối quan hệ giữa chuẩn mực đạo đức và chuẩn mực pháp luật thông qua những ví dụ cụ thể

Đạo đức tác động đến những quy định của hệ thống pháp luật. Bất kì hệ thống pháp luật nào ra đời cũng tồn tại trên những nền tảng chuẩn mực đạo đức nhất định. Những quan điểm, chuẩn mực đạo đức đóng vai trò làm tiền đề cho những quy định của pháp luật. Sự tác động của đạo đức khiến đến sự hình thành pháp luật ở nhiều cấp độ. Ở cấp độ thấp thì xây dựng pháp luật không được trái với chuẩn mực đạo đức ( ví dụ như điều 41 BLDS 2005 quy định về quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình). Đây là một chuẩn mực đạo đức có từ xa xưa, một truyền thống tốt đẹp của dân tộc thể hiện tình cảm găn bó giữa những thành viên trong gia đình, được truyền từ đời này sang đời khác và bây giờ đã được pháp luật quy định đây là một quyền nhân thân của con người. Nếu như con cái mà đối xử không tốt ngược đãi, hắt hủi cha mẹ hay cha mẹ bỏ rơi hành hạ con cái là đều trái với những chuẩn mực đạo đức và trái với quy định của pháp luật. Ở cấp độ cao hơn đạo đức đã trở thành tập quan pháp, tiền lệ pháp để giải quyết những vụ việc tương tự mà không có pháp luật điều chỉnh.

Trong xã hội hiện nay đạo đức của giai cấp thống trị có ảnh hưởng đến pháp luật một cách mạnh mẽ vì bộ máy nhà nước được hình thành là dựa trên những thành viên trong giai cấp thống trị. Những chuẩn mực đạo đức truyền thống đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc xây dựng pháp luật như tinh dân tộc. ( ví dụ điều 1 Hiến Pháp 2013 đã quy định: “ Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời”. Xuất phát từ tinh thần yêu nước, chuộm hòa bình của nhân dân ta từ ngàn đời xưa thể hiện qua các cuộc kháng chiển chống quân xâm lược thì pháp luật đã quy định đây là quyền bất khả xâm phạm, quyền dân tộc vô cùng thiêng liêng.

   Đạo đức tác động đến việc thực hiện của các chủ thể, sự phù hợp của đạo đức của pháp luật, nếu như pháp luật được xây dựng phù hợp với đạo đức thì việc thực hiện nó sẽ dễ dàng, nghiêm chỉnh hơn. ( ví dụ: Truyền thống yêu nước là một truyền thống vô cùng quý báu của dân tộc ta, nó được mọi thế hệ người dân Việt Nam lưu truyền và đã đi sâu vào tiềm thức của mỗi con người rồi thì việc đi nghĩa vụ quân sự đối với công dân nam khi đủ 18 tuổi thực hiện một cách nghiêm chỉnh mà không hề chống đối). Mỗi khi nước nhà có kẻ thù nhăn nhè, xâm phạm chủ quyền Tổ quốc thì tinh thần yêu nước lại trỗi dậy mà không cần đến sự quy định của bất cứ điều luật nào. Như vậy cho thấy truyền thống đạo đức có một sức mạnh vô cùng to lớn, nếu pháp luật đưa ra các quy định phù hợp thì việc thực hiện rất hiệu quả. Còn những quy định trái với chuẩn mực đạo đức thì sẽ bị phản đối gay gắt của cộng đồng và nếu có thực hiện thì cũng chỉ mang tính chất qua loa, đối phó mà không có hiệu quả.

 Thêm vào đó ý thức của cá nhân cũng góp phần vào thực hiện pháp luật có hiệu quả hay không, đạo đức là một môi trường rất tốt để cảm nhận và tiếp thu thực hiện pháp luật.  Những con người có ý thức đạo đức cao thì việc họ thực hiện pháp luật một cách rất nghiêm chỉnh còn những người có ý thức đạo đức kém thì việc thực hiện pháp luật là không tốt. ( Ví dụ: một người có phẩm chất đạo đức tốt thì họ sẽ không bao giờ thực hiện hành vi trộm cấp của người khác, còn những có nhận thức kém và đạo đức không tốt thì họ sẽ thực hiện những hành vi trái pháp luật mà không hề cảm thấy tội lỗi ).

 Ngoài ra pháp luật cũng góp một phần không hề nhỏ đến việc giữ gìn và phát triển các chuẩn mực đạo đức. Pháp luật đảm bảo hỗ trợ chúng được thực hiện thông qua những biện pháp của nhà nước. ( Ví dụ khoản b, điều 643 Người không được quyền hưởng di sản là người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản). Tức là khi được nhân di sản của người để lại di sản thì những người được nhân phải xem xét lại hành vi của mình xem có phù hợp với chuẩn mực đạo đức không. Và pháp luật chỉ đảm đảo những giá trị ấy được thực hiện một cách nghiêm chỉnh hơn mà thôi. Hay trong luật hình sự đã quy định người nào nhìn thấy người khác trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng có thể cứu giúp mà không cứu giúp dấn đến hậu quả là người đó chết thì người nhìn thấy có điều kiện mà không giúp dó phải chịu trách nhiệm hình sự, đây cũng là xuất phát từ đạo đức của con người mà pháp luật quy định.

 Mặt khác pháp luật cũng đóng vai trò loại bỏ những quan điểm lạc hậu của đạo đức đã không còn phù hợp nữa,đi ngược với sự phát triển của xã hội, ngăn chặn việc tha hóa xuống cấp của đạo đức… ( ví dụ quan niện của ngày xưa là “ trọng nam khinh nữ” nhưng luật Bình đẳng giới 2006 đã quy định về vấn đề này nam nữ là bình đẳng). Điều 40 BLDS đã quy định “ quyền bình đẳng của vợ chồng” xóa bỏ quan niện gia trưởng của truyền thống không còn phù hợp với cuộc sống hiện tại nữa. Một số lối sống xa hoa chỉ biết hưởng thụ của một số quan lại lợi dụng chức quyền mà tham nhũng cũng được pháp luật nghiêm trị một cách triệt để ( luật chống tham nhũng).

 Thông qua những quy định cụ thể pháp luật không cho phép hoặc cấm những hành vi thực hiện những tư tưởng, quan niệm đạo đức xưa cũ lạc hậu, không phù hợp với cuộc sống hiện đại. Ngay nay quá trình hội nhập ngày càng được mở rộng kéo theo đó là những hành vi, lối sống làm hủy hoại đạo đức, trái với thuần phong mỹ tục thì pháp luật can thiệp và giải quyết để không làm mất đi những giá trị tốt đẹp.

 Ở nước ta hiện nay vị trí vai trò của đạo đức của pháp luật đang được nhìn nhận và thực hiện một cách rất đúng đắn và tích cực. Pháp luật được xây dựng để trở thành công cụ hữu hiệu để giúp nhà nước quản lí những mối quan hệ xã hội. Nhưng xã hội là vô cùng rộng lớn chỉ có pháp luật thôi thì chưa đủ mà còn phải nhờ vào các công cụ phương tiện khác để quản lí, trong đó các chuẩn mực đạo đức góp một phần không hề nhỏ. Vì vậy, Đảng ta đã nhận định “ Quản lí nhà nước bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức”. Do pháp luật được xây dựng trên cơ sở đạo đức của nhân dân nên pháp luật không những thể hiện tư tưởng đạo đức của cách mạng, các đạo đức của dân tộc mà còn là ý chí nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân lao động. Điều 2 Hiến Pháp 2013 đã quy định “ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân”. Pháp luật phải vì lợi ích chung của toàn thể nhân dân, xây dựng pháp luật không được tách khỏi lợi ích và ý chí của nhân dân.

 Tinh thần đạo đức của nhân dân ta được pháp luật phản ánh rất rõ qua những điều luật. Những chính sách pháp luật về an sinh xã hội như ( chính sách cho người nghèo, người có công với cách mạng, bà mẹ Việt Nam anh hùng, người tàn tật…) được nhà nước và pháp luật rất quan tâm. Đạo đức gtrong xã hội thực sự bổ sung và lamg hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật.

  Chuẩn mực đạo đức và chuẩn mực xã hội tùy khác nhau về phạm vi tác động, cơ chế tác động tới các mối quan hệ xã hội nhưng chúng có chung một mục đích là điều tiết, điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội. Mối quan hệ giữa chuẩn mực đạo đức và chuẩn mực pháp luật là mối quan hệ qua lại, hỗ trợ lẫn nhau, bổ sung cho nhau trong quá trình điều chỉnh hành vi của con người. Có thể nói là phạm vi điều chỉnh của các chuẩn mực đạo đức rộng hơn bởi tất cả những gì liên quan đên đạo đức thì nó đều điều chỉnh. Còn chuẩn mực xã hội thì điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội sâu hơn như phân ra từng ngành luật, bộ luật để điều chỉnh ( luật hình sự, dân sự, hành chính…)

Trong một số trường hợp định hướng đạo đức muốn được bổ biến rộng rãi trong xã hộithì phải thông qua những quy định pháp luật để thực hiện. ( ví dụ các truyền thống về tín ngưỡng, tôn giáo các giá trị văn hóa muốn được phát triển thì phải thông qua những chính sách pháp luật của nhà nước).

 Như vậy ta có thể thấy chuẩn mực đạo đức và chuẩn mực xã hội luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau không thể tách rời được. Như ta có thể thấy được khủng hoảng xã hội thường được biểu hiện ở các quan hệ đạo đức trong xã hội. Khủng hoảng đạo đức có thể tác động tiêu cực đến các mặt khác nhau của đời sống xã hội như trong lĩnh vực kinh tế ( Ví dụ: nạn tham nhũngcó thể phá hoại các quan hệ kinh tế từ chỗ là một vấn nạn đạo đức là biểu hiện của thói tham lam vô độ, ích kỉ tột cùng, hành vi vô đạo đức của một bộ phận lãnh đạo…). Nạn tham nhũng đã trở thành vấn nạn của xã hội, ảnh hưởng đến dự luận xã hội gây bức xúc trong xã hội. Về kinh tế nạn tham nhũng làm ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế như làm cạn kiệt công quỹ, thất thu ngân sách nhà nước, kìn hãn sự phát triển của kinh tế. Đây là một vấn nạn đi ngược lại với chuẩn mực đạo đức và chuẩn mực xã hội làm mất niền tin của nhân dân vào nhà nước vào chính quyền. Đây là một tội rất nặng được quy định trong Luật Hình Sự, dự thảo luật hình sự đang xem xét có cho tội tham nhũng bị mức án phạt là tử hình hay không?.

Nói tóm lại chuẩn mực đạo đức và chuẩn mực pháp luật có mối quan hệ mất thiết với nhau cái này làm nền tảng cho cái kia phát triển và ngược lại. Đạo đức luôn hướng con người đa sống tốt đẹp hơn, luôn hướng con người đến chân-thiện-mỹ… để trở thành những người có ích cho xã hội. Nhưng không phải chuẩn mực đạo đức  nào cũng tốt cùng phù hợp với cuộc sống mà pháp luật cần phân biệt đâu là chuẩn mực đạo đức tốt để phát triển đâu là những mặt cần phải bài trừ để xã hội phát triển một cách lành mạnh. Qua những phân tích và ví dụ trên chúng ta có thể nhận thấy được tầm quan trọng của đạo đức trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật. Và vai trò của pháp luật trong việc giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Đạo đức và pháp luật không thể thiếu trong xã hội của cúng ta.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Vai trò của ngành tâm lý học
Vai trò của ngành tâm lý học

Vai trò của ngành tâm lý học

MỞ ĐẦU

      Từ khi loài người có nhận thức cũng là lúc họ bắt đầu có tâm lý, vậy tâm lý thực chất là gì và có vai trò tác động như thế nào đối với đời sống con người. Tôi xin được định nghĩa như sau, tâm lý học là ngành khoa học nghiên cứu hành vi, tinh thần và tư tưởng của con người (cụ thể đó là những cảm xúc, ý chí và hành động). Tâm lý học cũng chú tâm đến sự ảnh hưởng của hoạt động thể chất, trạng thái tâm lý và các yếu tố bên ngoài lên hành vi và tinh thần của con người.Vậy tâm lý học nói chung là “khoa nghiên cứu những hành vi và những tiến trình tâm thần của con người”.Tâm lý học vừa được nghiên cứu một cách khoa học lẫn phi khoa học. Tâm lý học chủ đạo ngày nay đa phần đặt nền tảng trê thuyết chứng thực, thông qua những phân tích định lượng và sử dụng những phương pháp khoa học để thử và bác bỏ những giả thuyết. Tâm lý học sử dụng và tiếp thu kiến thức thu thập được từ nhiều ngành khoa học khác để hiểu và lý giải hành vi của con người.

NỘI DUNG

I. Vài nét về vai trò của tâm lý học trong lịch sử quá trình hình thành của môn khoa học này :

    Từ đầu thế kỷ XIX trở đi, cùng với sinh vật học và các khoa học khác, sinh lý học giác quan và sinh lý học bộ não có những bước phát triển quan trọng. Sinh lý học và hình thái học hệ thần kinh đã tìm ra những hoạt đong riêng biệt của dây thân kinh cảm giác,các vùng ở não điều khiển sự vận động của thân thể. Vật lý học đã giải thích rõ ràng hiện tượng tâm lý đơn giản là cảm giác bằng cách tìm ra quy luật kích thích sự vật bên ngoài đối với giác quan tạo điều kiện cho tâm lý học trở thành một khoa học độc lập. Những thành tựu của sinh vật học và sinh lý học cho thấy rõ con người đã sinh ra từ hệ thống thống nhất của thế giới muôn loài và xét về tính chất thì con người cũng là một cá thể sinh vật.

     Cuối thế kỷ XIX, tâm lý học tách ra khỏi triết học thành một khoa học riêng với tính cách là khoa học thực nghiệm,chủ trương dùng phương pháp thực nghiệm và mô tả của vật lý học và sinh lý học để nghiên cứu những hiện tượng tâm lý đơn giản như cảm giác, tri giác, chú ý, trí nhớ, thói quen… Người sáng lập của ngành tâm lý học là Wilhelm Wundt. Vào năm 1879 ông thiết lập phòng thí nghiệm tâm lý học đầu tiên ở Leipzig, Đức. Ông tách Tâm lý học ra khỏi các khoa học khác, từ đây tâm lý học trở thành khoa học độc lập. Ông là người theo chủ nghĩa cấu trúc ghestal, quan tâm đến những gì tạo thành ý thức và mong muốn phân loại não ra thành những mảng nhỏ khác nhau để nghiên cứu từng phần riêng biệt.

     Những người đóng góp cho tâm lý học trong những ngày đầu tiên bao gồm Hermann Ebbinghaus (người tiên phong nghiên cứu trí nhớ), Ivan Petrovich Pavlov (người Nga đã phát hiện ra quá trình học hỏi thông qua những điều kiện kinh điển-phản xạ có điều kiện, là khái niệm quan trọng trong nghiên cứu tâm lý cấp cao con người – (“sinh lý thần kinh cấp cao”) và Sigmund Freud. Freud là người Áo đã có rất nhiều ảnh hưởng đến môn tâm lý học. Thuyết của Freud cho rằng cấu trúc hành vi người được thúc đẩy bởi các thành tố cơ bản là ý thức-tiềm thức-vô thức, dựa trên cơ chế “thỏa mãn và dồn nén”

     Nguồn gốc của từ tâm lý học (psychology) là psyche (tâm lý) rất gần giống với “soul” (linh hồn) trong tiếng Hy Lạp, và tâm lý học trước đây đã được coi như một nghiên cứu về linh hồn (với ý nghĩa tôn giáo của thuật ngữ này), trong thời kỳ Thiên Chúa Giáo. Tâm lý học được xem là một ngành y khoa được Thomas Willis nhắc đến khi nói về tâm lý học ( trong Doctrine of the Soul) với các thuật ngữ về chức năng não, một phần của chuyên luận giải phẫu 1862 của ông là “De Anima Brutorum” (“Hai thuyết trình về Linh hồn của Brutes”).Thuật ngữ Tâm lý học được dùng lần đầu tiên trong “Yucologia hoc est de hominis perfectione, anima, ortu”, do nhà triết học kinh điển người Đức Rudlof Goeckel  ( La tinh hóa Rudolph Goclenius 1547-1628 ) viết ra, được phát hành tại Marburg vào năm 1590. Tuy nhiên, thuật ngữ này đã được nhà nhân văn học người CroatiaMarko Marulić (1450-1524) dùng trong thực tế từ sáu thập kỷ trước đó trong tiêu đề của chuyên luận La tinh của ông “Psichiologia de ratione animae humanae”. Mặc dù chính chuyên luận không được bảo tồn, tiêu đề của nó xuất hiện trong danh sách các công trình của Marulic được người đồng nghiệp trẻ hơn của ông là Franjo Bozicevic-Natalis biên dịch trong “Vita Marci Maruli Spalatensis” của mình (Krstić, 1964). Điều này tất nhiên có thể không phải là việc sử dụng đầu tiên, nhưng nó là việc sử dụng được ghi lại trên tài liệu sớm nhất hiện tại biết được.Thuật ngữ đã bắt đầu được dùng rộng rãi kể từ khi nhà triết học duy tâm người Đức Christian Wolff (1679-1754) dùng nó trong Psychologia empirica and Psychologia rationalis của ông (1732-1734). Sự phân biệt giữa tâm lý học kinh nghiệm (empirical) và lý trí (rational) này được đề cập trong Encyclodedie của Diderot và được Maine de Biran phổ cập tại Pháp.

II. Vai trò của tâm lý học trong một số lĩnh vực đối với đời sống:

1) Tâm lý học sư phạm  

     Là lĩnh vực tâm lý nghiên cứu các quy luật tâm lý trong huấn luyện và giáo dục, chủ yếu tại các trường phổ thông. Hoạt động của lĩnh vực tâm lý này trong nhà trường có tác dụng nâng cao chất lượng học tập của học sinh, nhất là đối với những trẻ có khó khăn về học tập, vạch hướng cho hoạt động sư phạm của các thầy cô giáo thông qua việc cung cấp những thông tin về mặt tâm lý của học sinh, tạo điều kiện thích nghi hóa nội dung giảng dạy theo các khả năng của từng em riêng biệt.

2) Tâm lý học lao động

     Là lĩnh vực nghiên cứu các đặc điểm của tâm lý trong các loại hạt động lao động nhằm hợp lý hoá quá trình lao động và đào tạo dạy nghề.Tâm lý học lao động là một chuyên ngành của khoa học tâm lý ra đời và phát triển như  là một nhu cầu khách quan của thực tiễn cuộc sống. Tâm lý học lao động  có vai trò cung cấp những tri thức về tâm lý con người trong hoạt động lao động, những mối quan hệ giữa con người với nghề nghiệp, với môi trường lao động và giữa con người với con người,tạo điều kiện cho người lao động chọn được một công việc phù hợp với mình mà đôi khi tự bản thân không nhận ra được. Cụ thể là tìm hiểu, khai thác tâm lý sinh viên chê doanh nghiệp nhà nước là vì lý do gì, nghiên cứu độ hài lòng của người lao động làm lời giải cho bài toán nhân lực, xử lý các trường hợp bị căng thẳng bế tắc trong công việc,… từ đó đưa ra các biện pháp tâm lý tương ứng để giải quyết. Trong lĩnh vực lao động, tâm lý học đóng vai trò khá quan trọng vì đa số chúng ta hiện nay đều chọn nghề theo ý thích , và hiệu quả làm việc có tốt hay không cũng phần nhiều dựa vào sự say mê, yêu nghề và mức độ tập trung của người đó trong công việc,… mà những yếu tố này đều đa số là yếu tố tâm lý.

3) Tâm lý học kỹ sư

     Là lĩnh vực nghiên cứu các lĩnh vực tác động lẫn nhau giữa con người và kỹ thuật mới nhằm làm cho kỹ thuật hiện đại thích ứng với năng lực tâm lý của con người, thích ứng với kỹ thuật ngày càng phát triển. Tâm lý học trong lĩnh vực này  có vai trò xác định những người có khả năng sáng tạo, tiếp thu kỹ thuật mới và những người bảo thủ, yêu thích phát huy những truyền thống tốt đẹp, từ đó có thể xác định trọn lựa cho từng kỹ sư lĩnh vực mà người đó có khả năng, việc này sẽ tạo ra những thành công nhất định trong quá trình tiếp thu công nghệ kỹ thuật hiện đại hiện nay mà vẫn giữ và phát triển những nét văn hoá truyền thống.

4) Tâm lý học quản lý

     Là một khoa học tổng hợp sử dụng các kiến thức tâm lý, đó là các quy luật của hoạt động tâm lý con người, sử dụng đến các quy luật tâm lý xã hội và sử dụng các tư liệu, các ngành sư phạm học dùng để giáo dục và trang bị những kiến thức về tâm lý cho những cán bộ lãnh đạo làm công tác quản lý. Sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật diễn ra mạnh mẽ trong lĩnh vực sản xuất kèm theo sự tăng lên những đòi hỏi về chức năng trí tuệ của con người và những tính chất đặc biệt về cảm xúc – lý trí của nhân cách. Sự phát triển đa dạng và ngày càng phong phú của các vấn đề xã hội và con người đòi hỏi một trình độ quản lý xã hội cao hơn. Tâm lý học quản lý là một chuyên ngành của tâm lý học có nhiệm vụ góp phần đặt cơ sở khoa học cho việc tối ưu quá trình lãnh đạo – quản lý, là cơ sở khoa học quan trọng để xác định phương thức quản lý. Tâm lý học quản lý, mặt khác, nghiên cứu những đặc điểm tâm lý học – xã hội, đặc điểm nhân cách nhằm đạt hiệu quả thiết thực trong quản lý vì lợi ích xã hội, tập thể và con người. Công tác quản lý, dù là quản lý xã hội hay quản lý kinh tế đều là quản lý con người. Trong đó, trước hết là việc sử dụng, điều khiển và đánh giá con người. Cụ thể :

     – Ở bất cứ công việc nào trong họat động quản lý, ta đề phải dựa vào tâm lý con người, chú ý đến yếu tố con người.

     – Trong công tác tổ chức, việc bố trí, đề cử cán bộ phải dựa vào năng lực, định mức, tính tình của người đó mới chính xác hiệu quả, phát huy năng lực của người đó và sức mạnh của tập thể.

       -Khi xây dựng kế họach họat động của đơn vị, một trong những cơ sở quan trọng là dựa trên khả năng, trình độ, đặc điểm của các bộ – công nhân viên trong đơn vị.

      – Đứng trước một hành động của cán bộ công nhân viên dưới quyền, người lãnh đạo muốn đánh giá chính xác, hợp lý, cần phải nắm được nguyên nhân, hòan cảnh xảy ra hành động, mức độ hành động… Nhiều trường hợp người lãnh đạo cần phải dự đóan được hành vi, phản ứng của người dưới quyền trong những tình huống quyết định.

      -Việc ra một quyết định, một mệnh lệnh nào đó phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của người lãnh đạo (trình độ, năng lực quảnlý, sự nhận thức về yâu cầu và nhiệm vụ công tác, nhằm nắm vững tình hình đơn vị), phụ thuộc rất nhiều vào phẩm chất đạo đức của người lãnh đạo (sự dũng cảm, tính quyết đoán, tinh thần tập thể và trách nhiệm…)

      -Con người tiếp nhận những tác động quản lý, trình độ nhận thức, khả năng, tâm tư, tình cảm, đạo đức, tư cách, động cơ, thái độ, trạng thái tâm lý… Thậm chí việc tiếp nhận đó còn phụ thuộc vào cả mối quan hệ giữa họ với người lãnh đạo hoặc tính chất sự tác động của con người lãnh đạo (ví dụ: mệnh lệnh có hợp lý hay không, sự đánh giá kiểm tra việc thực hiện mệnh lệnh, quan hệ thân tình giữa họ với người lãnh đạo…).

5) Tâm lý học pháp lý

    Là lĩnh vực nghiên cứu các hiện tượng tâm lý và quy luật tâm lý xuất hiện trong những dạng hoạt động của cá nhân mà những dạng hoạt động này được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật. Tâm lý trong lĩnh vực này giúp chúng ta nghiên cứu cách suy nghĩ và lý do vi phạm pháp luật của các cá nhân cụ thể từ đó đưa ra những phương pháp xử lý thích hợp; đồng thời cũng biết được chiều hướng phát triển của các hiện tượng tâm lý đối với từng loại tội phạm nhất định, điều này giúp các cơ quan chức năng cảnh báo những xu thế phát triển xấu, thiếu lành mạnh cho cộng đồng xã hội và sớm phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật để điều chỉnh tránh gây ra những hậu quả nghiêm trọng.

    Trong thực tế còn có rất nhiều ngành tâm lý học chuyên biệt khác nhau như : tâm lý học trẻ em, tâm lý học lứa tuổi, tâm lý học nghệ thuật, tâm lý học vũ trụ, tâm lý học quân sự, tâm lý học xã hội, tâm lý học tội phạm, tâm lý học thể thao, tâm lý học pháp y, tâm lý học tư pháp,…và từ những phân tích trên chúng ta không thể phủ nhận vai trò, sự cần thiết của tâm lý học đối với đời sống hiện nay.

  III. Vai trò của tâm lý học đối với hoạt động thực tiễn của cá nhân :

    Như chúng ta đã thấy tâm lý học len lỏi vào mọi khía cạnh của đời sống và tác động đến chúng một cách đáng kể. Với kinh nghiệm của cá nhân tôi đã rất nhiều lần trong các hoạt động tập thể, và những quyết định lớn tôi phải sử dụng đến phương pháp tâm lý để giúp mình nhận thức một cách đúng đắn vấn đề. Cụ thể như khi hoạt động nhóm tôi phải bảo vệ ý kiến của mình trước các bạn trong nhóm, phải tranh luận để mọi người hiểu ý kiến của tôi, khi đó tôi phải sử dụng đến trình độ tâm lý không hoàn thiện của mình để biết cách  không tạo ra một cuộc tranh cãi quá gay gắt, để hiểu cách suy nghĩ của đối phương từ đó giải thích cho dễ hiểu và thống nhất ý kiến của tất cả mọi người. Cũng có thể trở lại thời gian xa hơn, khi tôi còn ngồi trên ghế nhà trường và sắp bước vào một kỳ thi quốc gia lớn, vấn đề lớn của tất cả chúng tôi nói chung không phải là mình phải học cái gì, ôn gì, mà thực chất là mình phải chọn nghề gì, nghề gì mà mình thực sự thích thú, có thể gắn bó cả đời. Với các bạn học sinh và với tôi nói riêng đây quả là một quyết định khó khăn, và vào lúc đó cũng xuất hiện rất nhiều trào lưu định hướng theo số đông nên tâm lý tôi khá rung động, không rõ phải làm gì, phương pháp tôi nghĩ đến lúc đó chính là tư vấn tâm lý tại văn phòng riêng về chức năng này trong trường, quả thật nó đã đem lại cho tôi những lời khuyên rất tuyệt vời và là lý do để tôi theo học tại đây lúc này. Theo tôi vai trò của tâm lý học là không thể thay thế được, nhờ nó chúng ta hiểu rõ hơn về chính những cảm xúc của chúng ta, giúp chúng ta nhìn ra những  khả năng của mình khi tâm trạng bị rối bời, và hơn thế nữa tâm lý học giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những người xung quanh, và có thể đem lại rất nhiều thành công trong công việc.

 

KẾT LUẬN

      Ngày nay vai trò của con người trong hệ thống quản lý ngày càng cao hơn và quan trọng hơn. Dù khoa học kĩ thuật phát triển đến thế nào đi nữa, nhân tố con người vẫn là quyết định. Hơn nữa sự phát triển của khoa học kĩ thuật lại còn đòi hỏi nhân lực lao động của con người ngày càng cao hơn: sự vận động của tay chân, của cơ quan cảm giác phải chính xác hơn, tinh tế hơn, năng lực tư duy phải phát triển hơn; ý thức tổ chức kĩ thuật càng có ý nghĩa hơn… Như vậy, trong hệ thống quản lý, yếu tố con người càng trở nên quyết định hơn, mà có con người là có cảm xúc, ý chí, ý thức nói chung là tâm lý, chính vì vậy tâm lý học là bộ môn khoa học có tầm quan trọng rất lớn và sẽ ngày càng cần thiết hơn trong đời sống xã hội nói chung và cá nhân nói riêng.

Danh mục tài liệu thao khảo:

  • Giáo trình tâm lý học đại cương
  • Trang web gov.vn

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

  • Khái niệm biên bản

– Biên bản là loại văn bản ghi chép lại một việc , một hoạt động theo đúng thời gian , không gian , trạng thái mà sự việc , hành động diễn ra. biên bản hội nghị có tác dụng miêu tả diễn biến , ghi lại các ý kiến kết lận ,quyết định của hội nghị

– Trong quản lý nhà nước , biên bản còn là cơ sở pháp lý để cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nghị quyết , quyết định , chỉ thị ,thông báo trong quá trình điều hành quản lý nhà nước .

* Yêu cầu của biên bản

– Biên bản phải ghi nhận lại sự việc một cách đầy đủ , chính xác , trung thực và khách quan. người lập biên bản , ở chừng mực nào đố , là người có thẩm quyền và chịu trách nhiệm trước pháp luật khi lập biên bản

* Loại biên bản

– Biên bản ghi lại sự kiện sự cố.

  • Biên bản bàn giao nghiệm thu , kiểm kê tài sản.

– Biên bản hội nghị

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013

Ai sinh ra trên thế giới đều được hưởng món quà của tạo hóa  đó là quyền con người, đây không còn là khái niệm xa lạ trong lịch sử pháp luật của nhân loại. Tư tưởng này được thể hiện trong bản tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ năm 1776 đã được chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong trong bản tuyên ngôn độc lập nước ta, được đọc vào ngày 2/9/1945 trước toàn thế giới: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Đất nước ta đã trải qua lịch sử đấu tranh, xây dựng và phát triển đất nước cùng với các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013. Trong mỗi giai đoạn lịch sử,  các bản Hiến pháp pháp trên đã ghi dấu lại sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Trên cơ sở nhận thức pháp lý ngày càng sâu sắc và thực hiện công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, Hiến pháp 2013 một lần nữa lại khẳng định việc thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ quyền con người một cách mạnh mẽ, rõ ràng và hiện đại nhất.

Mục tiêu quan trọng nhất của Hiến pháp 2013 là tiếp tục phát huy dân chủ, bảo đảm quyền công dân, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền con người, quyền công dân, đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ trong tư duy lý luận của Đảng và Nhà nước ta trong một loạt vấn đề của Đảng và sự nghiệp đổi mới đất nước trong đó có vấn đề quyền con người, quyền công dân.Chỉ thị số 12/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng năm 1992 về vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta xác định quyền con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển, là bản chất của chế độ ta, Chỉ thị xác định: “Đối với chúng ta, vấn đề quyền con người được đặt ra xuất phát từ mục tiêu của Chủ nghĩa xã hội, từ bản chất của chế độ ta và bao quát rộng rãi nhiều lĩnh vực, từ chính trị, tư tưởng, văn hóa đến kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng…”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) cũng chỉ rõ: “quan tâm hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết”. Khẳng định mạnh mẽ bản chất nhà nước ta là nhà nước thực hiện chủ quyền nhân dân, thực hành dân chủ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân và bảo đảm quyền lực của nhân dân, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ. Tất cả quyền Nhà nước thuộc về nhân dân..

Nếu Hiến pháp năm 1992 (Điều 6) quy định nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dânnghĩa là chỉ thông qua hình thức dân chủ đại diện thì Hiến pháp năm 2013 (Điều 6) quy định rõ những cách thức để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Quy định này của Hiến pháp năm 2013 đặt nền tảng cho việc hoàn thiện một hình thức dân chủ cao nhất là chế định bầu cử, qua đó, thực hiện đầy đủ hơn, thực chất hơn quyền bầu cử của công dân và trách nhiệm của đại biểu dân cử. Hiến pháp năm 2013 quy định Hội đồng bầu cử quốc gia như một thiết chế hiến định độc lập để thực hiện quyền công dân quan trọng này. Nếu như tại Điều 83 của Hiến pháp năm 1992 trước đây quy định: “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp” và Điều 147 quy định: “Chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp” thì từ nhận thức mới về quyền lập hiến, chủ quyền nhân dân, quyền con người và quyền công dân, Hiến pháp năm 2013 đã bỏ nội dung trên và thay vào đó là quy định về sự kết hợp giữa thẩm quyền lập hiến của Quốc hội, sáng kiến lập hiến của các cơ quan Nhà nước, của đại biểu Quốc hội với quyền lập hiến của nhân dân dưới hình thức trưng cầu ý dân về Hiến pháp tại khoản 4 Điều 120 “…việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định”.  Như vậy, Hiến pháp năm 2013 mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, khẳng định mạnh mẽ chủ quyền nhân dân. Quyền làm chủ của nhân dân (hay chủ quyền nhân dân) đã được ghi nhận ngay từ Hiến pháp năm 1946, đến Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân thông qua một loạt quy định: Trong Lời nói đầu nêu rõ chủ thể xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp là nhân dân; Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân… Những nội dung này tạo nền tảng vững chắc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân ở nước ta.

Hiến pháp năm 2013 thúc đẩy việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nhà nước pháp quyền phải là nhà nước mà trong đó các quyền con người được ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm. Theo nghĩa đó, thúc đẩy nhà nước pháp quyền cũng có nghĩa là thúc đẩy sự tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người

Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) đã bổ sung tại Điều 2 một nội dung quan trọng, đó là cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI năm 2011 của Đảng khẳng định sự cần thiết phải xác định rõ ràng thiết chế tổ chức quyền lực và cần thiết bổ sung nội dung kiểm soát quyền lực vào thành một yếu tố mới của cơ chế quyền lực nhà nước ở nước ta. Hiến pháp năm 2013 đã hiến định nội dung mới này, xác định rõ ba bộ phận của quyền lực nhà nước, trong đó Quốc hội  là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước; Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp; Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Đáng chú ý là khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung “kiểm soát” vào thiết chế tổ chức quyền lực để bảo đảm tổ chức bộ máy được tổ chức có hiệu lực, hạn chế lạm quyền dẫn đến vi phạm quyền con người, quyền công dân: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Hiến pháp năm 2013 xác định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, sứ mệnh của Tòa án nhân dân được xác định là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Đây là những điểm mới có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử lập hiến Việt Nam, khẳng định những nguyên tắc của một nền tư pháp hiện đại vì con người, cụ thể là nguyên tắc hai cấp xét xử mà thực chất là một bảo đảm để thúc đẩy quyền của người bị buộc tội được yêu cầu xem xét lại bản án; nguyên tắc về quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự; nguyên tắc về sự tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân. Những nguyên tắc trên đây phản ánh tính dân chủ và đề cao quyền tiếp cận công lý của người dân, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tư pháp.

Vì vậy, Hiến pháp năm 2013 đã nêu rõ chủ thể và nội dung quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

Thứ nhất, về tên Chương, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, “quyền con người” đã trở thành tên gọi của Chương, thay vì chỉ gọi là “quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” như Hiến pháp năm 1992 và các bản Hiến pháp trước đó. Sự bổ sung cụm từ “quyền con người” là điểm nhấn quan trọng, có ý nghĩa rất lớn trong bối cảnh xây dựng, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Đây không chỉ đơn thuần là sự bổ sung một cụm từ mang tính chất kỹ thuật lập hiến, mà còn phản ánh tư duy phát triển, phù hợp với xu hướng của dân tộc, thời đại và nhân loại. Bên cạnh đó, cũng xóa bỏ ranh giới còn chưa rõ ràng giữa khái niệm về quyền con người và quyền công dân (quyền con người là quyền tự nhiên, bất cứ ai cũng có quyền đó; quyền công dân là quyền của những người có quốc tịch Việt Nam), ghi nhận việc mở rộng các chủ thể của quyền, khẳng định chủ thể rộng nhất của quyền con người là mọi cá nhân, mọi người đều được hưởng. Việc thay đổi tên Chương từ “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” thành “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” trong Hiến pháp năm 2013 còn thể hiện sự nỗ lực và cam kết mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.

Thứ hai, Chương quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được đưa lên và đặt trang trọng tại Chương II, ngay sau Chương I quy định về chế độ chính trị. Đây cũng không chỉ đơn thuần là sự thay đổi số học về vị trí các chương mang tính chất kỹ thuật lập hiến, mà còn thể hiện sự thay đổi về nhận thức lý luận, tư duy lập hiến, là sự khẳng định giá trị, vai trò quan trọng của quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đề cao nguyên tắc Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, chủ quyền tối cao thuộc về Nhân dân, đồng thời cũng phản ánh thực tiễn đổi mới toàn diện, hội nhập sâu rộng, tiến bộ và phát triển của đất nước ta, thể hiện nhất quán đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

Thứ ba, với quy định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (khoản 1 Điều 14), Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện sự phát triển quan trọng về nhận thức lý luận và tư duy lập hiến trong việc ghi nhận quyền con người, quyền công dân so với Hiến pháp năm 1992 (chỉ ghi nhận quyền con người về chính trị, dân sự và kinh tế, văn hóa, xã hội được thể hiện ở các quyền công dân). Điểm nhấn của nội dung này là việc bổ sung nguyên tắc “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (khoản 2 Điều 14).

Đây chính là điều kiện để bảo đảm tính hiện thực của quyền con người, quyền công dân, bảo đảm sự cân bằng, minh bạch và lành mạnh giữa các lợi ích trong mối quan hệ giữa Nhà nước với con người, công dân, cá nhân và phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên; hạn chế tối đa bất cứ sự lạm dụng hay tùy tiện nào tước đi hay hạn chế các quyền và tự do vốn có của mọi người bởi các cơ quan nhà nước.

Thứ tư, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn các nguyên tắc về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo hướng: quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội (Điều 15 và Điều 16). Nguyên tắc hiến định này vừa khẳng định sự thống nhất chặt chẽ giữa quyền và nghĩa vụ, vừa đặc biệt nhấn mạnh đến việc thực hiện quyền của người này không thể là sự chối bỏ, phủ nhận hay xâm phạm đến quyền của người khác; nói khác đi, việc tôn trọng các quyền tự do của mỗi người phải đặt trong mối quan hệ với việc tôn trọng quyền và tự do của người khác.

Thứ năm, so với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung 05 quyền hoàn toàn mới và sửa đổi, bổ sung trên 30 quyền còn lại.

– Về các quyền hoàn toàn mới, với 05 điều cụ thể: Điều 19 (quyền sống), Điều 40 (quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó), Điều 41 (quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa), Điều 42 (quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp), Điều 43 (quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường), Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định sự phát triển mạnh mẽ trong chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Các quyền này đều nằm trong hai nhóm quyền cơ bản được ghi nhận trong các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên  và là các quyền vô cùng thiết yếu đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi người với tư cách là thành viên của cộng đồng nhân loại và với tư cách là cá nhân.

Trong 05 quyền mới được hiến định lần này, có thể nói việc hiến định quyền sống được coi là bước tiến rõ rệt đối với những cam kết của Việt Nam trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền sống của tất cả mọi người, trong đó có cả các nhóm người dễ bị tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật…

Bên cạnh quyền sống, con người còn cần đến nhu cầu và điều kiện để phát triển. Quyền được phát triển gắn liền với việc tiếp cận, nghiên cứu, thụ hưởng các giá trị vật chất, tinh thần và những thành quả của khoa học – công nghệ, văn học, nghệ thuật, các giá trị văn hóa. Chính vì thế, việc hiến định các quyền về nghiên cứu khoa học – công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật, về văn hóa là hết sức cần thiết, giúp ích cho việc nâng cao chất lượng cuộc sống và mục tiêu hướng tới của quá trình phát triển của mọi người.

Thực tiễn gần 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế của nước ta cho thấy, tình trạng suy thoái và ô nhiễm môi trường đã và đang là nguyên nhân trực tiếp đe dọa đến sự sống, sức khỏe, sự phát triển của mọi người. Vì vậy, quyền sống và quyền phát triển của mọi người không thể tách rời với quyền về môi trường. Điều 43 Hiến pháp năm 2013 quy định “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”. Quyền về môi trường là một loại quyền mới trong hệ thống các quyền con người, trong khi nhiều quốc gia trên thế giới chưa hiến định quyền này thì quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền môi trường lại càng có ý nghĩa sâu sắc, thể hiện sự tiến bộ, phát triển rõ rệt của Việt Nam trên trường quốc tế.

Ở một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam, quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp của công dân là nhu cầu và là yếu tố bảo đảm bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển giữa các dân tộc. Xác định rõ vấn đề này, Điều 42 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”.

– Về các quyền được sửa đổi, bổ sung. Cùng với việc hiến định các quyền mới, Hiến pháp năm 2013 còn sửa đổi, bổ sung hơn 30 điều cụ thể trong Chương quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Những sửa đổi, bổ sung này là một bước tiến mới trong việc hiến định các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; là sự phản ánh thành tựu của gần 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước, thể hiện trách nhiệm ngày càng cao của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân với những thiết chế, cơ chế hiệu lực, hiệu quả, trong đó đáng chú ý là cơ chế thực hiện quyền dân chủ trực tiếp như quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác (Điều 20), quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình (Điều 21), quyền có nơi ở hợp pháp (Điều 22), quyền tiếp cận thông tin (Điều 25), quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34), quyền kết hôn, ly hôn (Điều 36) v.v…

Khẳng định thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm là một quyền bất khả xâm phạm của mọi người, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên khẳng định mọi người không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất cứ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm (khoản 1 Điều 20). Quy định này thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm cho mọi người được hưởng quyền bất khả xâm phạm về thân thể, đồng thời cũng thể hiện cam kết trong việc thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người mà Quốc hội khóa XIII đã phê chuẩn tại kỳ họp thứ 8.

– Về các nghĩa vụ cơ bản của công dân, Hiến pháp năm 2013 giữ nguyên như quy định của Hiến pháp năm 1992, như công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc (Điều 44); công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân (Điều 45); công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt cộng đồng (Điều 46).

Riêng nghĩa vụ nộp thuế đã sửa đổi về chủ thể, thay cụm từ “công dân” bằng cụm từ “mọi người” cho phù hợp (mọi người có nghĩa vụ nộp thuế theo luật định chứ không chỉ có công dân Việt Nam như quy định tại Điều 80 của Hiến pháp năm 1992). Bên cạnh đó, tại Chương II của Hiến pháp năm 2013 cũng còn một số điều quy định quyền gắn với nghĩa vụ cơ bản của công dân, như quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh (Điều 38), quyền và nghĩa vụ học tập của công dân (Điều 39); quyền và nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc (Điều 45) v.v… 

Thứ sáu, Hiến pháp năm 2013 đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm việc thực hiện các quyền con người, quyền công dân, nhất là các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội, như:

“Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo” (khoản 2 Điều 24), “Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội” (khoản 2 Điều 26), “Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân (khoản 2 Điều 28); “Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em” (khoản 2 Điều 36); “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục”, “Thanh niên được Nhà nước, gia đình và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân…”, “Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Điều 37)…

Cùng với việc nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm việc thực hiện các quyền con người, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung các thiết chế độc lập nhằm tăng cường cơ chế thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, như hiến định Hội đồng Bầu cử quốc gia (Điều 117) và bổ sung quy định “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định” (đoạn 2, khoản 2 Điều 119).

 Đoàn Thị Ngọc Hải

______________________

Danh mục tài liệu tham khảo

1.Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp 2013;

2. Xem: bài viết của nhà giáo ưu tú Chu Hồng Thanh “Một số điểm mới về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”;

3. Xem: bài viết của tác giả Lê Tranh Hùng “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến năm 2013”;

4. Xem: bài viết của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Hân “Ghi nhận mới về quyền con người trong Hiến pháp năm 2013”;

5. Xem: bài viết của tác giả Bình Sơn “Quyền con người được chú trọng trong hoạt động Lập pháp”;

6. Một số bài viết từ nguồn intenet.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Khái niệm công dân

Công dân là sự xác định một thể nhân về mặt pháp lý thuộc về một nhà nước nhất định. Từ việc xác định này, công dân của một quốc gia được hưởng chủ quyền của nhà nước đó và được nhà nước bảo hộ quyền lợi khi ở trong nước cũng như khi ở nước ngoài.

Khái niệm quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân

Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là những quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp trên các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hoá, là cơ sở để thực hiện các quyền và nghĩa vụ cụ thể khác của công dân và cơ sở chủ yếu để xác định địa vị pháp lí của công dân.

Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được chia thành 3 nhóm là các quyền dân sự, chính trị; các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá và các nghĩa vụ cơ bản của công dân.

Đặc điểm quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân

+Thường được xuất phát từ các quyền tự do thiêng liêng và bất khả xâm phạm của con người như quyền được sống, quyền tự do, quyền được mưu cầu hạnh phúc…

+Nghĩa vụ cơ bản của công dân là nghĩa vụ tối thiểu công dân phải thực hiện đối với nhà nước và là tiền đề để đảm bảo cho các quyền cơ bản của công dân được thực hiện.

+Được quy định trong Hiến pháp, là cơ sở để xác nhận địa vị pháp lí của công dân.

+Là nguồn phát sinh các quyền và nghĩa vụ khác của công dân.

+Thể hiện tính dân chủ, nhân đạo và tiến bộ của nhà nước.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Đơn đề nghị tăng giá cước vận chuyển, cập nhật giá cước phí vận chuyển, đưa gửi hàng hóa, sản phẩm trong nước, ngoài nước.

Tổng quan Đơn đề nghị tăng giá cước vận chuyển

Đơn đề nghị tăng giá cước vận chuyển là văn bản của tổ chức, cá nhân (có thể là công ty vận chuyển, doanh nghiệp nào đó nhưng có khâu vận chuyển hàng hóa) đề nghị với đơn vị đối tác việc tăng giá cước vận chuyển…

Luật sư Tư vấn trực tuyến – Gọi ngay 1900.0191

Mẫu Đơn đề nghị tăng giá cước vận chuyển


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
——————–

……, ngày …. tháng …. năm 2018

ĐƠN ĐỀ NGHỊ TĂNG GIÁ CƯỚC VẬN CHUYỂN

KÍNH GỬI: …………………………………..

Căn cứ Hợp đồng kinh tế số…… được kí kết ngày…/…/…;

Căn cứ tình hình thực tế giá xăng dầu trên thế giới

Chúng tôi xin trình bày một vấn đề như sau:

Do ảnh hưởng của giá xăng dầu trên thế giờ, dẫn đến sự biến động về giá nguyên liệu sản xuất ………….nhập khẩu tăng cao bất thường từ thời điểm…… sau khi ký kết hợp đồng số…………. với quý đối tác. Cho nên, trên cơ sở những biến động đó, việc duy trì giá vận chuyển …………….cho dự án……… của công ty chúng tôi với quý đối tác sẽ dẫn đến những tổn thất vô cùng nặng nề cho phía công ty.

Do vậy, vì lý do trên, công ty chúng tôi kính đề nghị quý đối tác xem xét những vấn đề sau:

– Chấp thuận đối với đề xuất về nâng giá vận chuyển …………đã thỏa thuận trong hợp đồng trên cơ sở giá biến động trên thực tế hiện nay;

– Sắp xếp gặp mặt trao đổi, ký kết văn bản thỏa thuận thay đổi liên quan đến nội dung trên.

Kính mong quý đối tác xem xét và sớm có phản hồi cho phía công ty chúng tôi.

Trân trọng.

                                                                                                                     CÔNG TY……………………….

(Người đại diện theo pháp luật kí và đóng dấu)

DỊCH VỤ SOẠN THẢO ĐƠN, HỢP ĐỒNG, CÔNG VĂN CHỈ  500 NGÀN ĐỒNG -> GỌI NGAY 1900.0191

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Khái niệm, đặc điểm của chuẩn mực pháp luật và chuẩn mực thẩm mỹ

1. Chuẩn mực thẩm mỹ

a) Khái niệm chuẩn mực thẩm mỹ

Chuẩn mực thẩm mỹ là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi về mặt thẩm mỹ đối với hành vi xã hội của con người, tuân theo những quan điểm, quan niệm đang phổ biến, thừa nhận trong xã hội về cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài, cái anh hùng, cái tuyệt vời, được xác lập trong các quan hệ thẩm mỹ, trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật, trong lối sống và sinh hoạt… của các cá nhân và các nhóm xã hội.

b) Đặc điểm của chuẩn mực thẩm mỹ

Chuẩn mực thẩm mỹ là loại chuẩn mực xã hội bất thành văn: có nghĩa là các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi đối với hành vi thẩm mỹ của con người không được ghi chép thành văn bản dưới dạng “cẩm nang” hay “đạo luật” nào đó; mà chúng tồn tại, biến đổi, phát huy tác dụng bằng con đường truyền miệng, giáo dục, thông qua xã hội hóa cá nhân và lưu truyền qua các thể hệ. Trong quá trình đó, các quan niệm, giá trị, chuẩn mực thẩm mỹ được tích tụ, thẩm thấu vào trong nhận thức, kinh nghiệm của mỗi cá nhân, trở thành “khuôn mẫu hành vi” và bộc lộ thành hành vi thực tế khi con người tham gia vào các quan hệ thẩm mỹ nhất định.

Ví dụ như quan niệm về nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam được lưu truyền, tồn tại, phát huy thông qua con đường từ đời này truyền sang đời khác. Vẻ đẹp thanh cao, kín đáo trong tà áo dài truyền thống với những đức hạnh “công, dung, ngôn, hạnh” đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân nước Việt, để đến bây giờ, người Việt vẫn giữ những giá trị truyền thống đó làm khuôn mẫu đánh giá người phụ nữ trong các gia đình Việt.

Chuẩn mực thẩm mỹ mang tính lợi ích, gồm lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, nghĩa là các quan điểm. Quan niệm thẩm mỹ trước tiên phải xuất phát từ chỗ, nó mang lại hoặc đáp ứng những nhu cầu, lợi ích nhất định cho cộng đồng xã hội và cá nhân. Chẳng hạn, việc xây dựng một ngôi nhà, trước khi nói đến kiểu cách, kiến trúc đáp ứng yêu cầu thẩm mỹ, thì cần phải tính tới nhu cầu về diện tích sử dụng (lợi ích vật chất). Hoặc một vở diễn sân khấu được dàn dựng công phu, diễn viên đẹp, thể hiện hấp dẫn…, nhưng nội dung của nó phải để lại trong lòng công chúng thưởng thức nghệ thuật những trăn trở, suy tư về hiện thực cuộc sống, tính nhân văn, ý nghĩa giáo dục (lợi ích tinh thần). Hoặc là khi chúng ta xem một bộ phim truyền hình, có những hình ảnh đẹp, dàn diễn viên sinh đẹp, cuốn hút…, nhưng nội dung bộ phim ấy lại mang một ý nghĩa nhân văn vô cùng lớn, có thể là phản ánh hiện thực hoặc là có ý nghĩa giáo dục hay hướng con người tới những cái tốt đẹp, những cái đó khiến chúng ta, suy nghĩ, lắng đọng, nhìn nhận hiện thực khách quan, đó chính là giá trị lợi ích tinh thần mà bộ phim mang lại cho chúng ta.

Chuẩn mực thẩm mỹ luôn đòi hỏi phải bảo đảm tính hài hòa, nghĩa là các quy tắc, yêu cầu về thẩm mỹ phải luôn được đặt trong mỗi tương quan hài hòa với các điều kiện, hoàn cảnh kinh tế – xã hội nhất định, hoặc phải phù hợp từng tình huống cụ thể của đời sống. Ví dụ: ăn ngon, mặc đẹp, dùng hàng hiệu là nhu cầu thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ tất yếu của con người và nên được đáp ứng nếu điều kiện kinh tế – xã hội nói chung, khả năng tài chính của từng gia đình, cá nhân nói riêng cho phép. Nhưng nếu một sinh viên con nhà nghèo mà lại học đòi “sành điệu” thì đó có thể là nguyên nhân làm phát sinh hành vi tiêu cực, phạm tội vì nó vi phạm tính hài hòa.

Chuẩn mực thẩm mỹ luôn mang tính khái quát (tính hình tượng). Các quan niệm, quan điểm thẩm mỹ không đơn thuần xuất phát từ ý kiến chủ quan của mỗi người, mà chúng còn phản ánh ý chí chung của nhiều người, của đa số các thành viên trong xã hội, được họ thừa nhận; tán thành và làm theo. Với đặc trưng này, chuẩn mực thẩm mỹ được coi là hình tượng, khuôn mẫu, là “tấm gương” để mỗi cá nhân tự soi mình vào đó mà điều chỉnh hành vi thẩm mỹ sao cho phù hợp với các quy tắc, yêu cầu chung trong các mối quan hệ thẩm mỹ – xã hội.

Ví dụ như xã hội đặt ra những quan điểm về cái đẹp của người phụ nữ hiện đại, đề cao nét đẹp tao nhã, độc lập của người con gái… để mỗi cá nhân lấy đó làm chuẩn mực, làm khuôn mẫu, làm “gương” cho mình soi vào, và phấn đấu cũng như điều chỉnh hành vi, cách nói chuyện, đi đứng, ăn mặc phù hợp với nó, với nét đẹp thẩm mỹ mà xã hội đề cao.

2. Chuẩn mực pháp luật

a) Khái niệm:

 Chuẩn mực pháp luật là những quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, định hướng cho hành vi ứng xử của các cá nhân và các nhóm xã hội.

b) Đặc điểm của chuẩn mực pháp luật:

Tính quy định xã hội của pháp luật:

Dưới góc độ xã hội học pháp luật, tính quy định xã hội của pháp luật là một đặc trưng cơ bản của hiện tượng pháp luật. Đặc trưng này nói lên rằng, pháp luật trước hết được xem xét như một hiện tượng xã hội, nảy sinh từ các tiền đề có tính chất xã hội, phản ánh các quan hệ kinh tế,chính trị,văn hóa,xã hội của xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định, đặc biệt là quan hệ kinh tế.Trong mối quan hệ với kinh tế, pháp luật phụ thuộc vào kinh tế, thể hiện ở chỗ nội dung của pháp luật là do các quan hệ kinh tế-xã hội quyết định; chế độ kinh tế là cơ sở, nền tảng của pháp luật.

Pháp luật luôn phản ánh sự phát triển của chế độ kinh tế,nên nó không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển của chế độ kinh tế.Một khi chế độ kinh tế thay đổi thì sớm hay muộn sẽ kéo theo sự thay đỏi của pháp luật.Bên cạnh đó, pháp luật có sự tác động trở lại đối với sự tác động của kinh tế. Sự tác động đó mang tính tích cực khi pháp luật có nội dung tiến bộ, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị là lực lượng tiến bộ trong xã hội,phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế. Ngược lại, sự tác động mang tính tiêu cực khi pháp luật mang nội dung thoái bộ, lạc hậu, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị đã lỗi thời, muốn dùng pháp luật để duy trì các quan hệ kinh tế không còn phù hợp. Nội dung của pháp luật được quy định bởi tình hình, đặc điểm, các điều kiện về kinh tế, chính trị xã hội của quốc gia ở từng thời kì phát triển.

Trong xã hội luôn luôn tồn tại nhiều mối quan hệ xã hội với tính chất đa dạng và phức tạp. Vì vậy, mục đích xã hội của pháp luật là hướng tới điều chỉnh các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, pháp luật không thể điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội, mà chỉ có thể điều chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản, có tính phổ biến, điển hình, thông qua đó, tác động tới các quan hệ xã hội khác,định hướng cho các quan hệ đó phát triển theo những mục đích mà nhà nước đã xác định. Mọi sự thay đổi của pháp luật, suy cho cùng, đều xuất phát từ sự thay đổi của các quan hệ xã hội và chịu sự quyết định bởi chính thực tiễn xã hội. Điều đó nói lên bản chất xã hội của pháp luật.

Tính chuẩn mực của pháp luật:

Dưới góc độ nhìn của nhiều nhà xã hội học pháp luật thì pháp luật thường được tiếp cận nghiên cứu với tư cách một loại chuẩn mực xã hội. Vì vậy, tính chuẩn mực của pháp luật là một chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự, đó là những “khuôn mẫu”, “mực thước” được xác định một cách tương đối cụ thể, rõ ràng trong chừng mực có thể. Tính chuẩn mực của pháp luật nói lên giới hạn cần thiết mà nhà nước quy định để mọi chủ thể có thể xử sự một cách tự do trong khuôn khổ cho phép, thường biểu hiện dưới dạng “cái có thể”, “cái được phép” , “cái không được phép” và cái bắt buộc thực hiện”….Vượt khỏi giới hạn ,phạm vi đó là vi phạm pháp luật .Không thể có chuẩn mực pháp luật chung chung, trừu tượng, mà nó phải được thể hiện ra thành các quy tắc điều chỉnh hành vi. Bởi vậy, nếu không đặt ra các quy phạm pháp luật thì sẽ không có căn cứ pháp lí để đánh giá hành vi nào là hợp pháp và hành vi náo bất hợp pháp.

 Chuẩn mực pháp luật khác với các loại chuẩn mực xã hội khác ở một điểm cơ bản là nó mang tính cưỡng chế cuả nhà nước. Các chuẩn mực xã hội, khi được nhà nước thừa nhận, sử dụng và bảo đảm bằng khả năng cưỡng bức ,sẽ trở thành chuẩn mực pháp luật. Nếu nhà nước và các cơ quan của nó không còn thừa nhận và thực hiện, áp dụng các chuẩn mực đó nữa, tức là dưới góc độ lợi ích nhà nước nó trở nên vô vị thì lúc đó nó sẽ mất đi tính chất của một chuẩn mực pháp luật. Tuy không còn là một chuẩn mực pháp luật,nhưng nếu về mặt thực tiễn chuẩn mực đó vẫn sống, vẫn chi phối hành vi xã hội của con người thì tính chất chuẩn mực của nó lại mang tính chất phong tục, tập quán đạo đức hay thẩm mỹ chứ không phải là pháp luật nữa .

Chuẩn mực pháp luật thành văn đã hàm chứa trong nó các quy tắc xử sự mà trong phần lớn các trường hợp đã được thể hiện và thực hiện trong hành vi thực tế của con người. Chuẩn mực pháp luật được thực hiện chừng nào nó còn phù hợp với các quan hệ xã hội và các lợi ích của giai cấp thống trị nảy sinh từ các quan hệ xã hội này.Chuẩn mực pháp luật nào không còn phản ánh đúng các quan hệ xã hội nữa thì nhà nước ta phải thay đổi nó về mặt hình thức hoặc tước đi của nó sức mạnh. Rõ ràng ở đây không nói đến sự vi phạm các yêu cầu của chuẩn mực pháp luật trong tiến trình thực hiện nó ,mà nói đến quá trình hình thành những quan hệ xã hội thực tế ,trong quá trình đó thể hiện ra một nội dung chuẩn hóa mới xuất hiện (có thể mới chỉ trong thực tế áp dụng pháp luật được công bố chính thức) . Nếu chuẩn mực pháp luật thể hiện nhu cầu xã hội thì đứng đằng sau nó là chính quyền nhà nước với nhiệm vụ bảo vệ các quan hệ xã hội thống trị ,phù hợp với các quan hệ xã hội ấy, chuẩn mực tạo thành hành vi phù hợp với pháp luật, tức là cưỡng bức tuân theo nó. Sự thực hiện phổ biến tương ứng với các quan hệ xã hội thống trị đồng thời cũng là tính chuẩn mực. Các cơ quan thực hiện, áp dụng pháp luật thường quy định nội dung của một chuẩn mực pháp luật nhất định bằng con đường giải thích tương ứng với các quan hệ mới, trong khi các quan hệ mới về cơ bản lại được phản ánh cả trong lập pháp một cách thích hợp. Như vậy, tính hiệu lực của chuẩn mực pháp luật dựa trên không chỉ ý chí mà cả trên thực tế xã hội, không chỉ trong sự xuất hiên chuẩn mực pháp luật, mà cẩ trong việc tiếp tục thực hiện chuẩn mực pháp luật đó nữa.

Tính ý chí của pháp luật:

Pháp luật không phải là kết quả của sự tự phát hay cảm tính, mà bao giờ cũng là hiện tượng ý chí. Pháp luật thể hiện các quan hệ xã hội và ý chí giai cấp có gốc rễ từ trong các quan hệ xã hội được thể hiện ra trong hệ thống các chuẩn mực pháp luật. Xét về bản chất, ý chí của pháp luật là ý chí của giai cấp cầm quyền trong xã hội, được thể hiện rõ ở mục đích xây dựng pháp luật,  nội dung xây dựng pháp luật và dự kiến hiệu ứng của pháp luật khi triển khai vào thực tế.T ính ý chí nói lên mối quan hệ khăng khít giữa nhà nước và pháp luật, là hai thành tố của kiến trúc thượng tầng, cả hai hiện tượng nhà nước và pháp luật cùng có chung nguồn gốc phát sinh, phát triển. Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, nhưng quyền lực đó chỉ có thể được triển khai và phát huy có hiệu lực trên cơ sở các quy định của pháp luật. Chính vì vậy, nhà nước không thể tồn tại và phát huy quyền lực nếu thiếu pháp luật và ngược lại, pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và có hiệu lực khi nó dựa trên cơ sở sức mạnh của quyền lực nhà nước .

Vì vậy, không thể nói pháp luật đứng trên nhà nước hay nhà nước đứng trên pháp luật. Pháp luật không chỉ phản ánh bản chất giai cấp mà còn phản ánh các nhu cầu khách quan, phổ biến của các mối quan hệ xã hội. Do đó,nhà nước không thể ban hành pháp luật một cách tùy tiện, chủ quan, duy ý chí, không tính đến những nhu cầu, lợi ích của các giai cấp, tầng lớp xã hội. Khi những bộ phận nhất định của pháp luật trở nên lạc hậu, không phù hợp với thực tiễn xã hội thì nhà nước phải tiến hành sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ để ban hành văn bản pháp luật mới.

Tính cưỡng chế của pháp luật:

Pháp luật do nhà nước xây dựng,ban hành và bảo đảm thực hiện. Điều đó có nghĩa là pháp luật được hình thành và phát triển bằng con đường ngắn nhất.Với tư cách của mình, nhà nước là một tổ chức hợp pháp, công khai và có quyền lực bao trùm toàn xã hội. Nhà nước không chỉ xây dựng, ban hành pháp luật mà còn có các biện pháp tác động nhằm đảm bảo cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện thông qua việc nhà nước thường xuyên củng cố và hoàn thiện bộ máy công cụ thể hiện quyền lực nhà nước như quân đội,cảnh sát,toàn án,nhà tù…Đặc trưng này chỉ có ở pháp luật không có ở các loại chuẩn mực xã hội khác. Pháp luật được thể hiện trong nhiều biến thể hành vi của con người nếu tính đến bản chất giai cấp của nó.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số vấn đề về quy trình gia hạn, thu hồi, hủy bỏ các quyết định hành chính.

Ban hành Quyết định hành chính luôn gắn liền với việc gia hạn, thu hồi và hủy bỏ quyết định hành chính, khi không đáp ứng được đầy đủ các tiêu chí của Quyết định hành chính (các tiêu chí gồm: Trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành quyết định và nội dung quyết định).

Việc gia hạn, thu hồi hoặc hủy bỏ là những vấn đề thuộc phạm vi áp dụng, thực thi pháp luật, liên quan hiệu lực của quyết định hành chính. Về thực chất, việc thu hồi hoặc hủy bỏ một quyết định hành chính là xuất phát từ việc phát hiện và có căn cứ cho rằng Quyết định hành chính, là trái pháp luật và quyết định đó buộc phải bị chấm dứt hiệu lực. Và để chấm dứt hiệu lực của một quyết định hành chính, cơ quan nhà nước có thẩm quyết phải ra quyết định thu hồi hoặc hủy bỏ quyết định hành chính đó.

Vấn đề gia hạn, thu hồi và hủy bỏ quyết định hành chính là những vấn đề khó và phức tạp, vì vậy, cần đặt chúng trong tổng thể nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện pháp luật về ban hành và thực thi quyết định hành chính trong hoạt động của Nhà nước pháp quyền ở nước ta, để có thể đi sâu nghiên cứu trong mối quan hệ biện chứng với các vấn đề khác có liên quan, từ đó mới có cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc để đề xuất đầy đủ những yêu cầu và nội dung điều chỉnh pháp lý đối với các vấn đề này.

Tác giả Nguyễn Phước Thọ, Văn phòng Chính phủ đã có bài viết nghiên cứu về “Một số vấn đề về quy trình gia hạn, thu hồi, hủy bỏ quyết định hành chính”. Để hiểu hơn những nội dung mà tác giả đã đề cập, bạn đọc có thể xem thêm nội dung của bài viết được đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề 32 trang “Dự án Luật ban hành quyết định hành chính” tháng 12/2014.

Việt Tiến

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

_Phương pháp cho phép:

+Thường được sử dụng để quy định quyền của cá nhân, tổ chức, thẩm quyền của cơ quan nhà nước.

+Ví dụ: Công dân đủ từ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử, đủ từ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, HĐND.

_Phương pháp bắt buộc:

+Thường được sử dụng để quy định nghĩa vụ cho cá nhân, tổ chức hay cơ quan nhà nước.

+Ví dụ: Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân.

_Phương pháp cấm:

+Thường được sử dụng để ngăn chặn, không cho phép cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước làm những hành vi nhất định.

+Ví dụ: Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công lao động dưới độ tuổi lao động.

_Phương pháp xác lập những nguyên tắc mang tính định hướng:

+Được sử dụng khá nhiều, tuỳ thuộc vào đối tượng điều chỉnh của ngành luật Hiến pháp.

+Ví dụ: Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lí xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

1. Quy tắc ứng xử là gì

Quy tắc ứng xử là các chuẩn mực xử sự của cán bộ, công chức, viên chức… trong thi hành nhiệm vụ và trong quan hệ xã hội do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, phù hợp với đặc thù công việc trong từng lĩnh vực hoạt động và được công khai để nhân dân giám sát việc chấp hành.

2. Quy tắc xử sự chung là gì

Quy tắc xử sự chung là quy tắc không chỉ đích danh đối tượng thi hành, chỉ là những quy định mang tính khái quát chung áp dụng rộng rãi.

3. Quy tắc xử sự riêng là gì

Quy tắc xử sự riêng là quy tắc được ghi nhận đích danh cho một nhóm đối tượng cố định và chỉ có hiệu lực trong nhóm đối tượng này, những người không thuộc đối tượng trên không cần phải tuân thủ.

4. Phân biệt quy tắc xử sự chung và quy tắc xử sự riêng

quy tắc xử sự chung quy tắc xử sự riêng
-không chỉ đích danh đối tượng thi hành -chỉ đích danh đối tượng thi hành
– được sử dụng nhiều lần đối với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng và có hiệu lực trong phạm vi toàn quốc hoặc từng địa phương -được sử dụng một lần , cho một số đối tượng cụ thể
-khi sử dụng hiệu lực pháp lý không bị mất đi – tùy từng trường hợp nhất định
-mang tính chất bắt buộc chung đối với tất cả các cá nhân và tổ chức khi tham gia vào các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh – chỉ có đối tượng pháp lý đối với đối tượng cụ thể

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

_Định nghĩa Hiến pháp:

Hiến pháp là hệ thống các quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lí cao nhất của quốc gia, quy định những vấn đề cơ bản và quan trọng nhất về chủ quyền quốc gia, chế độ chính trị, chính sách kinh tế, văn hoá- xã hội, tổ chức quyền lực nhà nước, địa vị pháp lí của con người và công dân.

_Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của Hiến pháp:

+Gắn liền với sự ra đời của nền dân chủ tư sản, cùng với đó là sự xuất hiện của học thuyết phân chia quyền lực nhà nước để hạn chế tối đa sự lạm dụng quyền lực, để bảo vệ quyền con người.

+Sự ra đời và phát triển không ngừng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, cần phải thiết lập một mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân theo quy tắc bình đẳng, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, kết quả là sự phát triển của khoa học kĩ thuật trong đó có khoa học pháp lí.

+ Sau khi cách mạng tư sản bùng nổ, giai cấp tư sản nhận quyền lực từ giai cấp phong kiến, ban hành ra pháp luật trong đó có Hiến pháp để xác định địa vị thống trị của mình.

_Đặc điểm của Hiến pháp:

+Hiến pháp là đạo luật cơ bản, là luật mẹ, luật gốc vì vậy nó là nên tảng, là cơ sở để xây dựng và phát triển toàn bộ hệ thống pháp luật quốc gia.

+Hiến pháp là luật tổ chức, quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác định cách thức tổ chức và xác lập các mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước, quy định cấu trúc các đơn vị hành chính lãnh thổ và cách thức tổ chức chính quyền địa phương.

+Hiến pháp là luật bảo vệ các quyền con người và công dân, các quyền con người và quyền công dân quy định trong Hiến pháp là cơ sở pháp lí chủ yếu để nhà nước tôn trọng và đảm bảo thực hiện các quyền con người và công dân.

+Hiến pháp là luật có hiệu lực pháp lí tối cao, tất cả các văn bản pháp luật khác không được trái với Hiến pháp, bất kì một văn bản pháp luật nào trái với Hiến pháp đều bị huỷ bỏ.

_Phân loại Hiến pháp:

+Hiến pháp thành văn và hiến pháp không thành văn:

Hiến pháp thành văn có tính long trọng hơn, còn Hiến pháp không thành văn lại thuận tiện hơn ở thủ tục thông qua và sửa đổi.

    • Hiến pháp thành văn tức là các quy định Hiến pháp được viết thành văn bản nhất định, thống nhất với các tên Hiến pháp, hiến ước, tuyên ngôn hoặc không thống nhất mà bao gồm nhiều văn bản. Dù là một hay nhiều văn bản, các Hiến pháp thành văn có thủ tục thông qua một cách chính thức và được tuyên bố là đạo luật cơ bản của nhà nước. Hiện nay, tuyệt đại đa số các Hiến pháp đều là Hiến pháp thành văn.
    • Hiến pháp không thành văn là Hiến pháp thể hiện trong các quy phạm pháp luật, tập tục truyền thống, thông lệ, án lệ … Liên quan đến việc tổ chức quyền lực nhà nước. Chúng thường không được quy định thành văn bản riêng và không được tuyên bố hoặc ghi nhận là luật cơ bản của nhà nước. Hiện nay, còn một số ít các nước có loại Hiến pháp này là Anh, New Zealand…

+Hiến pháp cổ điển và hiến pháp hiện đại:

Hiến pháp cổ điển là Hiến pháp ghi nhận mối tương quan lực lượng chính trị – xã hội của giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến; còn Hiến pháp hiện đại là văn bản pháp lý ghi nhận mối tương quan lực lượng xã hội giữa giai cấp thống trị tư sản với một bên là nhân dân lao động.

    • Hiến pháp cổ điển là Hiến pháp được ban hành từ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX và những Hiến pháp tuy mới được ban hành gần đây song theo trường phái cổ điển. Trong những điều kiện lúc bấy giờ, các Hiến pháp nói chung là ngắn gọn, có nội dung chủ yếu là các quy định về phân chia quyền lực, ít các quy định về quyền tự do. Một số Hiến pháp cổ để vẫn tiếp tục tồn tại phải bổ sung, chỉnh lý cho phù hợp với tình hình hiện tại.
    • Ví dụ: Hiến pháp Mỹ là Hiến pháp đặc trưng cho Hiến pháp cổ điển, chỉ có 7 điều, tập trung vào việc quy định trình tự thành lập và thẩm quyền của các cơ quan nhà nước ở trung ương như Quốc hội, Tổng thống và Toà án tối cao, mối quan hệ giữa liên bang và các tiểu bang, trình tự sửa đổi Hiến pháp nhưng Hiến pháp Mỹ không hề có điều nào nói về các đảng phái chính trị, mặc dù các đảng phái chính trị chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống chính trị của Mỹ. Ngoài ra Hiến pháp của Vương quốc Nauy năm 1814, Vương quốc Bỉ 1831, Liên bang Thuỵ sĩ 1874… cũng là những Hiến pháp cổ điển.
    • Hiến pháp hiện đại là những Hiến pháp phần lớn được ban hành từ sau chiến tranh thế giới thứ hai với nội dung điều chỉnh được mở rộng. Trước cuộc đấu tranh đòi quyền dân chủ của các tầng lớp nhân dân lao động và cùng với sự ảnh hưởng của các nước xã hội chủ nghĩa mà các Hiến pháp đó ngoài những quy định cổ điển như trước đây về tổ chức bộ máy nhà nước còn chứa đựng nhiều điều khoản có nội dung dân chủ, quy định thêm các quyền tự do của công dân như bầu cử, quyền có việc làm, quyền bình đẳng nam nữ, quyền tham gia quản lý nhà nước…
    • Các nước có Hiến pháp hiện đại là Pháp (Hiến pháp 1946, 1958), Nhật Bản (1948), CHLB Đức (1949)…Hiến pháp các nước xã hội chủ nghĩa đều thuộc Hiến pháp hiện đại.

+Hiến pháp nhu tính và hiến pháp cương tính:

    • Hiến pháp nhu tính là Hiến pháp có thủ tục thông qua bình thường như mọi đạo luật và có thể được sửa đổi bởi chính cơ quan lập pháp, theo thủ tục thông qua các đạo luật bình thường. Ví dụ: Hiến pháp của Vương quốc Anh.
    • Hiến pháp cương tính là Hiến pháp được thông qua bởi một cơ quan đặc biệt là Quốc hội lập hiến chứ không phải là cơ quan lập pháp hoặc toàn dân biểu quyết. Thủ tục thông qua hoặc sửa đổi Hiến pháp cũng được quy định chặt chẽ hơn. Chẳng hạn việc thông qua bình thường chỉ cần quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội tán thành thì đối với Hiến pháp phải có 2/3 hoặc 3/4 tổng số đại biểu, hoặc hơn thế nữa sau khi đã được Quốc hội thông qua thì dự án phải được nhân dân bỏ phiếu phúc quyết…

+Hiến pháp tư sản và hiến pháp xã hội chủ nghĩa:

    • Hiến pháp xã hội chủ nghĩa có những đặc điểm chung sau: thiết lập một chính thể mới – chính thể xã hội chủ nghĩa; xác nhận rõ tính giai cấp của nhà nước xã hội chủ nghĩa; thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng mác-xít…

Hiến pháp tư sản chủ nghĩa có những đặc điểm sau: đều tìm mọi cách để che giấu bản chất giai cấp tư sản, nó luôn thể hiện quyền thống trị của mình dưới khái niệm “chủ quyền nhân dân”; đều ghi nhận, củng cố quyền chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất và hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa dưới những hình thức khác nhau; thường có một số quy định nhắm bảo đảm cho Hiến pháp được thực hiện. Trung tâm của những bảo đảm này là hoạt động của Toà án Hiến pháp hay Hội đồng Hiến pháp.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Nguồn của ngành Luật Hiến pháp Việt Nam, Luật Hiến pháp được xây dựng dựa trên những căn cứ nào?

_Nguồn của ngành luật Hiến pháp Việt Nam là những văn bản quy phạm pháp luật trong đó chứa các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo những mục tiêu định hướng cụ thể, phù hợp với ý chí của nhà nước.

_Nguồn của ngành Luật Hiến pháp được chia thành:

+Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội: Một số luật do Quốc hội ban hành như luật tổ chức Quốc hội, luật bầu cử đại biểu Quốc hội… Một số nghị quyết của Quốc hội như nghị quyết về chương trình xây dựng luật và pháp lệnh…

+Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội như: Nghị quyết về ban hành quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của các cơ quan nhà nước…

+Một số văn bản do Thủ tưởng Chính phủ, Chính phủ ban hành như: Nghị định về quy chế làm việc của Chính phủ; nghị định của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy các bộ, cơ quan ngang bộ…

+Một số nghị quyết do HĐND ban hành như: Nghị quyết thông qua nội quy kì họp của HĐND.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com