Câu trả lời mang tính chất tham khảo:

Sau khi BLTTHS năm 2003 được ban hành đã đảm bảo tốt hơn quyền lợi và nghĩa vụ của người bị hại. Tuy nhiên hiện nay các quy định về quyền và nghĩa vụ của người bị hại cũng bộc lộ nhiều điểm hạn chế.

1. Làm sáng tỏ hơn khái niệm người bị hại

Hiện nay pháp luật chỉ quy định người bị hại là con người cụ thể còn tổ chức, pháp nhân bị tội phạm trực tiếp xâm hại chỉ tham gia với tư cách là nguyên đơn dân sự. Quy định như vậy là hạn chế chủ thể trong khái niệm người bị hại. Bởi vì trong thực tiễn, pháp nhân tổ chức cũng có thể bị thiệt hại cả về vật chất và tinh thần. Pháp luật hiện hành quy định tổ chức, pháp nhân bị tội phạm xâm hại thì tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn dân sự. như vậy thì không có sự phân biệt là kẻ phạm tội trực tiếp hay gián tiếp xâm hại.

Từ lập luận trên có thể đề xuất khái niệm người bị hại như sau: người bị hại là cá nhân cơ quan tổ chức bị thiệt hại về vật chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra.

2. Sửa đổi và bổ sung các quy định liên quan đến đại diện hợp pháp của người bị hại

Khoản 2 điều 51 BLTTHS quy định “ người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ có quyền…” như vậy có thể hiểu là trong một vụ án có sự tham gia của đại diện hợp pháp của người bị hại thì chỉ một trong hai người ( người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại) có các quyền quy định tại khoản 2 điều 51. Như vậy là chưa hợp lý vì dù việc tham gia tố tụng của những người này đều có chung mục đích là bảo vệ quyền lợi của người bị hại nhưng các tư cách tố tụng đó lại có tính độc lập tương đối. người bị hại có những hạn chế nhất định khi tham gia tố tụng nên phải cần đến người đại diện hợp pháp. Tuy nhiên dù có sự tham gia của người đại diện hợp pháp thì người bị hại vẫn có quyền độc lập của mình với tư cách tố tụng đã được pháp luật xác định. Vì vậy nhà làm luật dùng từ “ hoặc” chưa thực sự chính xác.

Cần sửa đổi khoản 2 điều 51 BLTTHS năm 2003 như sau: “ người bị hại và đại diện hợp pháp của họ có quyền…”

Tại điều 51 BLTTHS năm 2003 chỉ mới quy định về trường hợp người bị hại chết mà chưa có quy định về trường hợp người bị hại mất tích. Nếu trong trường hợp người bị hại mất tích thì đại diện hợp pháp của họ có được tham gia tố tụng và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người bị hại không? Để kịp thời giải quyết vụ án cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại và gia đình họ thì cần quy định cho người đại diện hợp pháp của người bị hại bị mất tích có các quyền của người bị hại.

3. Bổ sung các quy định liên quan đến quyền khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại

Tại khoản 1 điều 105 thì chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự chỉ có thể là người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên,người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. như vậy, người đại diện hợp pháp của người bị hại trong trường hợp người bị hại chết cũng không có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự vì thế không đảm bảo được quyền lợi của họ. vì thế có thể bổ sung khoản 1 điều 105 BLTTHS năm 2003 như sau: “những vụ án về các tội phạm quy định tại… chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại trong trường hợp người bị hại chết, người bị hại chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần, thể chất.”

Trên thực tế còn tồn tại người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất tinh thần nhưng không có người đại diện hợp pháp. Ví dụ như trẻ em lang thang cơ nhỡ…khi bị xâm hại thì họ không thể làm đơn yêu cầu khởi tố vì pháp luật không quy định nên không thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì thế pháp luật nên quy định thêm người có quyền yêu cầu khởi tố vụ án là tổ chức xã hội cưu mang người bị hại.

Bên cạnh đó pháp luật cần bổ sung thêm quy định về quyền chủ động khởi tố của cơ quan điều tra. Vì trong nhiều trường hợp người bị hại rất muốn yêu cầu khởi tố vụ án nhưng bị đe dọa nên không dám yêu cầu khởi tố trong khi theo khoản 1 điều 105 BLTTHS thì yêu cầu khởi tố hay không là phụ thuộc vào ý chí của người bị hại.

Vì lý do trên nên bổ sung khoản 1 điều 105 BLTTHS như sau: “trong trường hợp có căn cứ xác định người bị hại bị cưỡng bức, ép buộc làm cho họ không thể yêu cầu khởi tố vụ án hình sự thì cơ quan điều tra vẫn có thể ra quyết định khởi tố vụ án”

4. Quy định về rút yêu cầu khởi tố vụ án khi vụ án có nhiều bị can, bị cáo

Khoản 2 điều 105 BLTTHS quy định : “ trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa so thẩm thì vụ án phải được đình chỉ”. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là đối với những vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại mà có nhiều bị can, bị cáo và người bị hại chỉ rút yêu cầu với một hoặc một số bị can, bị cáo mà không phải tất cả bị can, bị cáo thì giải quyết như thế nào? Nếu cứ tiếp tục tiến hành tố tụng với những bị can, bị cáo còn lại thì không đảm bảo được tính bình đẳng giữa các bị can, bị cáo trong cùng một vụ án và không đảm bảo được tính nghiêm minh của pháp luật.

Vì vậy khoản 2 điều 105 BLTTHS có thể được bổ sung như sau: “ trong trường hợp vụ án có nhiều bị can bị cáo nếu người yêu cầu khởi tố rút yêu cầu đối với một hoặc một số bị can bị cáo thì không tiến hành tố tụng với các bị can, bị cáo còn lại và vụ án phải được đình chỉ”

5. Bổ sung quy định về quyền kháng cáo của người bị hại và đại diện hợp pháp của người bị hại

Điểm e khoản 2 điều 51 BLTTHS quy định: “ người bị hại có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi thường cũng như về hình phạt đối với bị cáo.” Như vậy quy định này chỉ cho phép người bị hại kháng cáo trong phạm vi phần bồi thường và phần hình phạt. phần dân sự cũng như các vấn đề liên quan đến tội danh, khung hình phạt..nếu không đồng tình với quyết định của tòa án thì người bị hại không có quyền kháng cáo. Trong khi đó điều 231 BLTTHS lại quy định : “Bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp phápcủa họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm.” theo quy định này thì người bị hại có quyền kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. điều này mâu thuẫn với quy định của điểm e khoản 2 điều 51 BLTTHS là chỉ giới hạn trong phần bồi thường thiệt hại và trong phần hình phạt. vấn đề đặt ra ở đây là khi gặp trường hợp như vậy cơ quan có thẩm quyền giải quyết như thế nào?

Do đó nên bổ sung khoản 2 điều 51 BLTTHS theo hướng người bị hại và đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo toàn bộ bản án, quyết định của tòa án nếu xét thấy quyết định của tòa án cấp sơ thẩm chưa chính xác ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình

6. Bổ sung về quyền tham gia phiên tòa và trình bày ý kiến tại phiên tòa.

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 điều 51 BLTTHS thì người bị hại có quyền tham gia phiên tòa và trình bày ý kiến tại phiên tòa. Ngoài ra theo khoản 2 điều 207 BLTTHS năm 2003 thì : “ những người tham gia phiên tòa cũng có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần được sáng tỏ”. Theo bộ luật hiện hành người bị hại không có quyền trực tiếp đặt câu hỏi với bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong thủ tục xét hỏi mà chỉ có quyền đề nghị với chủ tọa phiên tòa hỏi thêm những tình tiết cần làm sáng tỏ. đề nghị này không biết được chủ tọa đồng ý hay không và nếu được chấp thuận thì chưa chắc đã đúng ý định của người bị hại.

Vì vậy có thể sửa đổi điểm đ khoản 2 điều 51 BLTTHS theo hướng người bị hại có quyền tham gia phiên tòa, trình bày ý kiến tại phiên tòa và đề nghị chủ tọa phiên tòa cho phép hỏi thêm hoặc đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần được sáng tỏ.

7. Bổ sung quy định về nghĩa vụ có mặt của người đại diện hợp pháp của người bị hại theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng.

Khoản 5 điều 51 BLTTHS quy định : “ trong trường hợp người bị hại chết thì người đại diện hợp pháp của họ có những quyền được quy đinh tại điều này”. Như vậy có thể hiểu rằng người đại diện hợp pháp của người bị hại chỉ được hưởng quyền mà không phải gánh vác nghĩa vụ. như vậy là không hợp lý vì muốn được hưởng quyền lợi thì phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định. Việc người bị hại phải có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng là cần thiết và ảnh hưởng tới việc giải quyết vụ án. Do đó có thể bổ sung khoản 5 điều 51 như sau : “Trong trường hợp người bị hại chết thì người đại diện hợp pháp của họ có những quyền được quy định tại điều này và phải có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án”

8. Bổ sung quy định về trường hợp người bị hại từ chối giám định mà không có lý do chính đáng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự

Tại khoản 4 Điều 51 BLTTHS. Theo đó, “Người bị hại phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; nếu từ chối khai báo mà không có lý do chính đáng thì có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của Bộ luật hình sự.”. Như vậy, người bị hại có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi họ từ chối khai báo mà không có lý do chính đáng. Việc từ chối khai báo rõ ràng khác với việc từ chối giám định. Trong khi từ chối khai báo không nghiêm trọng bằng từ chối giám định bởi vì nếu người bị hại từ chối khai báo thì cơ quan, người tiến hành tố tụng có thể sử dụng tài liệu, chứng cứ từ các nguồn chứng cứ khác như lời khai của người tham gia tố tụng khác, vật chứng…, nhưng việc người bị hại từ chối giám định thì rõ ràng căn cứ để khởi tố vụ án không được đảm bảo, chưa nói đến việc không xử lý được trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Cho nên, người bị hại từ chối khai báo thì có thể bị xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 Bộ luật Hình sự thì việc người bị hại thực hiện hành vi nguy hiểm hơn là từ chối giám định lại không thể xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự là chưa phù hợp.

Vì vậy, theo cần bổ sung hành vi từ chối giám định của người bị hại vào Điều 308 Bộ luật Hình sự. ngoài ra khoản 4 điều 51 BLTTHS có thể sửa đổi bổ sung như sau: “Bị hại nếu từ chối hoặc trốn tránh việc khai báo, giám định, cung cấp tài liệu mà không có lý do chính đáng thì có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của Bộ luật hình sự”

Văn bản tham khảo:

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 không quy định dẫn giải đối với người bị hại, dẫn đến trường hợp bị hại không có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; từ chối giám định… nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng không cưỡng chế được, làm cho việc xử lý vụ án bị kéo dài hoặc bế tắc.

Khắc phục tình trạng trên, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định cụ thể các trường hợp phải trưng cầu giám định và dẫn giải đối với người bị hại như sau:

Tại khoản 4 Điều 206 quy định về các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định, trong đó có quy định đối với trường hợp về “Tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khỏe hoặc khả năng lao động”.

Tại điểm a khoản 4 Điều 62 quy định về trường hợp đối với người bị hại như sau:

“Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải”…

Tại điểm b khoản 2 Điều 127 quy định đối với trường hợp áp giải, dẫn giải như sau: “Người bị hại trong trường hợp họ từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan”…

Như vậy, theo các quy định nói trên, thì các trường hợp gây thương tích, tổn hại sức khỏe cho người khác mà người bị hại có đơn yêu cầu xử lý thì cơ quan có thẩm quyền trưng cầu giám định là chuyện đương nhiên. Còn các trường hợp gây thương tích, tổn hại sức khỏe cho người khác có khả năng phải xử lý hình sự, nhưng người bị hại từ chối giám định, thì cơ quan có thẩm quyền bắt buộc phải trưng cầu giám định. Nếu người bị hại từ chối việc giám định theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền thì phải dẫn giải để giám định./.

Lê Đức Khanh

VKSND Thừ Thiên Huế



Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

(Kiemsat.vn) – Trong khuôn khổ hội nghị toàn ngành Kiểm sát nhân dân tập huấn các đạo luật mới về lĩnh vực tư pháp, ông Tống Anh Hào, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã trực tiếp thuyết trình những nội dung cơ bản của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Sau đây là lược ghi bài giảng của Phó Chánh án Tống Anh Hào, do biên tập viên của Kiemsat.vn thực hiện.

1. Quan điểm chỉ đạo xây dựng BLTTDS năm 2015

– Thể chế hóa quan điểm của Đảng được nêu trong Nghị quyết số 48, 49; kết luận số 72,92 của Bộ Chính trị. BLTTDS mới phải thể hiện tính công khai, minh bạch; xây dựng mô hình tố tụng xét hỏi kết hợp với tranh tụng.

– Cụ thể các quy định của Hiến pháp năm 2013 vào BLTTDS.

– Phải đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với các Bộ luật, đạo luật khác.

– Xây dựng BLTTDS trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành BLTTDS năm 2004.

– Phải đảm bảo tính khả thi, hạn chế việc hướng dẫn.

– Phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập.

2. Những nội dung cơ bản của Bộ luật.

Bộ luật TTDS 2015 gồm 517 điều. Trong đó: sửa đổi là 350 điều, bổ sung 104 điều, bỏ 7 điều so với BLTTDS 2004. Phần chung là phần được sửa đổi, bổ sung nhiều nhất.

2.1. Về nguyên tắc chung: Sửa 4 vấn đề lớn.

– Khoản 2 Điều 4: Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng: Liên quan đến vấn đề này BLDS năm 2015 đã quy định rõ nguyên tắc giải quyết các vụ việc dân sự đó là: Tòa án áp dụng tương tự pháp luật, tập quán, nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự, án lệ và lẽ công bằng.

– Điều 13: Vai trò, nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tố tụng: Đề cao xét xử công khai, nhưng cũng tôn trọng một số trường hợp đặc biệt cần xét xử kín; quy định về trách nhiệm bồi thường nhà nước của người tiến hành tố tụng khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình có hành vi trái pháp luật.

– Bổ sung trường hợp người tham gia tố tụng là người khuyết tật nghe, nói hoặc khuyết tật nhìn có quyền dùng ngôn ngữ, ký hiệu, chữ dành riêng cho người khuyết tật và phải có người biết ngôn ngữ, ký hiệu, chữ dành riêng cho người khuyết tật để dịch lại.

– Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự: Sửa đổi từ tranh luận thành tranh tụng.

+ Tranh tụng từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến khi giải quyết xong vụ án.

+ Quy định rõ hơn trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có quyền thu thập chứng cứ.

+ Chứng cứ phải được công khai

+ Phiên tòa xét xử tranh tụng phải đảm bảo dân chủ, đề cao vai trò của người tham gia tố tụng (vì tranh tụng tập trung nhất là ở phiên tòa) và phán quyết của Tòa án phải dựa trên kết quả của tranh tụng.

2.2. Những nội dung sửa đổi, bổ sung.

– Về thẩm quyền của Tòa án:

+ Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng. (Khoản 2 Điều 4)

+ Tất cả các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại và lao động đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

+ Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết. Tòa án đưa cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền ban hành quyết định cá biệt trái pháp luật tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

+ Điểm mới bổ sung là TAND cấp huyện có Tòa chuyên trách là Tòa gia đình và người chưa thành niên (TAND cấp tỉnh đương nhiên có Tòa chuyên trách này).

– Người tiến hành tố tụng:

+ Bổ sung thêm chức danh tư pháp là Thẩm tra viên và Kiểm tra viên.

+ Bổ sung thêm thẩm quyền của Chánh án là: Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật nếu phát hiện có dấu hiệu trái Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên.

+ Cụ thể hóa quyền của Kiểm sát viên (Điều 58): Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu; kiểm sát việc thụ lý giải quyết vụ việc dân sự; yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ và có quyền thu thập tài liệu chứng cứ theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm; đề nghị Viện trưởng VKS có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật.

– Thủ tục rút gọn: Quy định mới về thủ tục rút gọn là việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn do 01 Thẩm phán thực hiện.

– Người tham gia tố tụng:

+ Đương sự: Bổ sung thêm người yêu cầu giải quyết việc dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự.

+ Quyền và nghĩa vụ của đương sự: Điểm mới là có quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ; có quyền được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình; đương sự có nghĩa vụ gửi bản sao tài liệu, chứng cứ cho các đương sự khác.

+ Sửa đổi quy trình đối với người tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự: Bổ sung thêm đại diện của tổ chức đại diện tập thể người lao động là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động trong vụ việc lao động.

+ Bổ sung thủ tục đề nghị Tòa án làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

+ Người đại diện: Có thể là cá nhân hoặc pháp nhân; đối với tổ chức đại diện tập thể lao động là người đại diện theo pháp luật cho tập thể người lao động khi được người lao động ủy quyền.

– Chứng cứ: Chương 7. Chứng cứ được quy định theo hướng đảm bảo việc tranh tụng.

+ Điều 91: Người khởi kiện phải có nghĩa vụ chứng minh. Tuy nhiên, người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ mà các tổ chức, cá nhân này phải có nghĩa vụ chứng minh; người lao động có quyền yêu cầu Tòa án yêu cầu người sử dụng lao động phải chứng minh trong trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động; một số trường hợp thì bị đơn phải có nghĩa vụ chứng minh để bảo vệ quyền lợi cho người yếu thế.

+ Xác định chứng cứ: Trên cơ sở kế thừa luật cũ thì BLTTDS 2015 ghi nhận thông điệp, dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật; văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng do người có chức năng lập tại chỗ, văn bản công chứng, chứng thực được coi là chứng cứ nếu thu thập, công chứng, chứng thực đúng quy định của pháp luật.

+ Điều 96 – Giao nộp tài liệu, chứng cứ: Được quy định chặt chẽ về thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, nếu không đầy đủ thì Tòa án có quyền yêu cầu đương sự cung cấp thêm, nếu đương sự không cung cấp hoặc cung cấp sau khi vụ án được đưa ra xét xử thì Tòa án chỉ chấp nhận là chứng cứ khi có lý do chính đáng. Đương sự có quyền giao nộp thêm chứng cứ ở tất cả các giai đoạn của quá trình giải quyết thì vẫn được chấp nhận. Khi đương sự giao nộp tài liệu , chứng cứ cho Tòa án thì họ phải sao gửi tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác để đảm bảo chứng cứ công khai.

+ Xác minh, thu thập chứng cứ (Điều 97): Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình thu thập tài liệu, chứng cứ. Trong trường hợp không thu thập được thì yêu cầu Tòa án thu thập thông qua trưng cầu giám định, định giá tài sản… Điều này thể hiện trách nhiệm, vai trò của Tòa án, Thẩm phán trong thu thập tài liệu, chứng cứ.

– Các biện pháp tạm thời: BLTTDS 2015 bổ sung thêm 4 biện pháp tạm thời như sau: Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ; cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình; tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu; bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án.

– Chi phí tố tụng: Bổ sung thêm tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài. Nếu đương sự không nộp chi phí tố tụng thì coi như bỏ yêu cầu của mình.

– Tống đạt văn bản: Bổ sung thêm thủ tục cấp, tống đạt, thông báo bằng phương tiện điện tử.

– Thụ lý, xét xử sơ thẩm:

+ Bổ sung thêm quyền khởi kiện của tổ chức đại diện tập thể lao động trong trường hợp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động hoặc khi được người lao động ủy quyền; tổ chức xã hội tham gia bảo vệ người tiêu dùng; cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.

+ Phương thức gửi đơn: Bổ sung phương thức gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử qua cổng thông tin điện tử của Tòa án.

+ Quy định chặt chẽ hơn thủ tục nhận và xử lý đơn khởi kiện: Khi nhận đơn Tòa án phải có trách nhiệm cấp ngay giấy xác nhận đã nhận đơn cho người khởi kiện; nhận đơn qua đường bưu điện thì trong 2 ngày làm việc phải gửi thông báo nhận đơn của người khởi kiện; nhận đơn bằng gửi trực tuyến thì phải thông báo ngay việc nhận đơn cho người khởi kiện qua cổng thông tin điện tử của Tòa án. Trong thời hạn 3 ngày Tòa án phải phân công Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện, trong thời hạn 5 ngày Thẩm phán phải đưa ra quyết định.

+ Trả đơn khởi kiện: Bổ sung trường hợp nguyên đơn đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện nhưng họ thường xuyên thay đổi địa chỉ mà không thông báo thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.

+ Về khiếu nại, kiến nghị: Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện, người khởi kiện có quyền khiếu nại. Trong thời gian 5 ngày làm việc kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải mở phiên họp xem xét giải quyết và có sự tham gia của Viện kiểm sát. Điểm mới là Viện kiểm sát phải tham gia phát biểu ý kiến về việc trả lại đơn của Tòa, Tòa án phải ra quyết định về vấn đề này.

– Chuẩn bị xét xử sơ thẩm: Sửa đổi một số điều sau:

+ Thời hạn chuẩn bị xét xử: Quy định rõ hơn nhiệm vụ của Thẩm phán trong giai đoạn này; có thời hạn rút ngắn hơn; quy định thời hạn đối với giải quyết vụ án có yếu tố nước ngoài.

+ Phiên họp và hòa giải công khai chứng cứ: Tùy theo từng trường hợp để tách riêng hoặc nhập cả hai nội dung này, mục đích giảm bớt đi thủ tục tố tụng.

+ Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự: Khi lý do tạm đình chỉ không còn thì Thẩm phán phải ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự.

+ Đình chỉ giải quyết vụ án: Bổ sung thêm một số trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án như: Đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, HTX; nguyên đơn không nộp chi phí tố tụng; nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện.

– Phiên tòa sơ thẩm:

+ Về sự vắng mặt: Trước đây chưa quy định rõ, nhưng lần này BLTTDS 2015 quy định rõ, cụ thể về đương sự vắng mặt lần thứ nhất; Kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử, không hoãn phiên tòa.

+ Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm: Trước tiên là trình bày của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích của nguyên đơn trình bày trước, sau đó đến bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích của bị đơn); hỏi đáp tại phiên tòa theo thứ tự: nguyên đơn, bị đơn, người tham gia tố tụng khác, chủ tọa phiên tòa, hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên; tranh luận.

+ Tòa án có vai trò tổ chức, tạo điều kiện cho các đương sự thực hiện tranh tụng, không hạn chế thời gian. Tòa án có quyền dừng lại việc phát biểu những vấn đề không liên quan đến vụ án.

+ Tạm ngừng phiên tòa: Quy định mới là tạm ngừng trong thời hạn không quá 1 tháng và phải ghi vào biên bản phiên tòa trong trường hợp do tình trạng sức khỏe, do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan… (Khoản 1 Điều 259). Nếu quá thời hạn này thì Tòa tạm đình chỉ giải quyết vụ án.

+ Phát biểu của Kiểm sát viên: Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và của người tham gia tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.

– Phiên tòa phúc thẩm:

+ Giao nộp tài liệu, chứng cứ: Đương sự có quyền bổ sung tài liệu tài liệu, chứng cứ mới thì không cần giải thích lý do; nhưng với tài liệu, chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không giao nộp, thì nay giao nộp phải có lý do chính đáng.

+ Thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự: Vẫn có kháng cáo, kháng nghị xét xử theo các cấp.

– Giám đốc thẩm:

+ Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao xét xử giám đốc thẩm bằng HĐXX gồm 3 Thẩm phán; Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao xét xử giám đốc thẩm bằng HĐXX gồm 5 Thẩm phán.

+ Đối với vụ án có tính chất phức tạp (những vấn đề quy định trong vụ án chưa rõ ràng, chưa được hướng dẫn áp dụng; việc đánh giá chứng cứ còn nhiều ý kiến khác nhau; liên quan đến lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước, quyền con người, quyền công dân) thì phải xét xử tập thể là toàn thể Ủy ban Thẩm phán, Hội đồng Thẩm phán.

+ Điểm mới là khi xét xử giám đốc thẩm khi xét thấy cần thiết, Tòa án triệu tập đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự; người tham gia tố tụng khác có liên quan, nhưng nếu họ vắng mặt thì vẫn tiến hành phiên tòa.

+ BLTTDS năm 2015 cho phép giám đốc thẩm sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật với 2 điều kiện: Tài liệu, chứng cứ đã đầy đủ, rõ ràng, có đủ căn cứ để làm rõ các tình tiết trong vụ án và việc sửa bản án, quyết định bị kháng nghị không làm ảnh hướng đến quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.

– Việc dân sự:

+ Việc nộp đơn, thụ lý như quy định cho vụ án dân sự. Thời hạn giải quyết chung cho các việc dân sự là 01 tháng. Khi mở phiên họp có sự tham gia của Viện kiểm sát, nếu Viện kiểm sát vắng mặt vẫn tiếp tục xem xét giải quyết. Người yêu cầu, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo, VKS có quyền kháng nghị yêu cầu Tòa án trên một cấp trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm (trừ một số trường hợp).

+ Thuận tình ly hôn: Trước đây chưa quy định rõ trình tự, thủ tục thuận tình ly hôn. Chương 20 của BLTTDS 2015 đã quy định trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, theo đó Tòa án vẫn tiến hành hòa giải.

+ Theo BLTTDS năm 2015 thì ly hôn là thủ tục đặc thù có Tòa án chuyên trách riêng. Thẩm phán được phân công tìm hiểu quá trình dẫn đến ly hôn, sau đó hòa giải. Nếu hòa giải thành thì đình chỉ việc dân sự, nếu hòa giải không thành thì giải quyết ly hôn theo tố tụng dân sự.

– Công nhận thỏa thuận ngoài Tòa án:

+ Tòa án khuyến khích thương lượng, thỏa thuận ngoài Tòa án. Tòa án công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án với điều kiện: Các bên tham gia thỏa thuận có đầy đủ năng lực hành vi dân sự; là người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận; một hoặc hai bên có đơn yêu cầu Tòa án công nhận và nội dung thỏa thuận hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Người yêu cầu công nhận kết quả thỏa thuận ngoài Tòa án phải gửi đơn đến Tòa án trong thời hạn 6 tháng.

– Vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài:

+ Thời hạn: Quy định thời hạn dài hơn thủ tục thông thường. Khi gửi thông báo thụ lý vụ án thì Tòa án phải nêu rõ thời gian, địa điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, mở lại phiên họp hòa giải, mở phiên tòa và mở lại phiên tòa cho đương sự ở nước ngoài.

+ Tống đạt giấy tờ ra nước ngoài: Theo Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia; hoặc qua đường ngoại giao; bưu điện. Tống đạt giấy tờ cho công dân Việt Nam ở nước ngoài thì qua đường bưu điện hoặc cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài; đương sự ở nước ngoài nhưng có chi nhánh, văn phòng đại diện ở Việt Nam thì tống đạt qua văn phòng, đại diện đó hoặc qua người đại diện ở trong nước.

+ Các phương thức tống đạt trên không có kết quả thì Tòa án tiến hành niêm yết công khai tại trụ sở cơ quan đại diện của Việt Nam tại nước ngoài, Tòa án đang giải quyết vụ việc hoặc nơi cư trú cuối cùng của đương sự tại Việt Nam trong thời gian 1 tháng và thông báo trên cổng thông tin điện tử của Tòa án, của cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài hoặc có thể thông qua kênh phát thanh hoặc đài truyền hình dành cho người nước ngoài.

– Sự tham gia của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự.

+ Điều 21 BLTTDS 2015 quy định các trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa, phiên họp.

+ Kiểm sát hoạt động tư pháp từ khi Tòa án nhận đơn của đương sự cho đến khi giải quyết xong vụ án. Viện kiểm sát tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc đương sự là người chưa thành niên, người bị mất, hạn chế

+ Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.

+ Tất cả các phiên tòa sơ thẩm phải có Viện kiểm sát tham gia, nếu đại diện Viện kiểm sát vắng mặt thì Tòa vẫn xét xử.

+ Phiên tòa phúc thẩm: Nếu không có kháng nghị, Viện kiểm sát vắng mặt thì Tòa vẫn xử; nếu có kháng nghị thì phải có mặt của Viện kiểm sát thì Tòa mới xử.

+ Tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm: Nếu Viện kiểm sát vắng mặt thì Tòa không xử, hoãn phiên tòa.

– Kiểm sát viên:

+ Phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm: Kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ, yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ.

+ Phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm: Kiểm sát viên thu thập tài liệu, chứng cứ.

3. Nghị quyết hướng dẫn thi hành.

+ Đối với những vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động đã được Tòa án thụ lý trước ngày 01 tháng 7 năm 2016, nhưng kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016 mới giải quyết theo thủ tục sơ thẩm thì áp dụng các quy định của Bộ luật này để giải quyết;

+ Đối với những vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động đã được Tòa án giải quyết theo thủ tục sơ thẩm trước ngày 01 tháng 7 năm 2016, nhưng kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016 mới giải quyết theo thủ tục phúc thẩm thì áp dụng các quy định của Bộ luật này để giải quyết;

+ Đối với những bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động đã có hiệu lực pháp luật mà bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trước ngày 01 tháng 7 năm 2016 nhưng kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016 mới giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì áp dụng các quy định của Bộ luật này để giải quyết;

+ Đối với những bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động đã có hiệu lực pháp luật trước ngày 01 tháng 7 năm 2016 mà kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016 người có thẩm quyền kháng nghị mới kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, thì căn cứ để thực hiện việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và việc giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm được thực hiện theo quy định của Bộ luật này;

+ Đối với những vụ việc hôn nhân và gia đình đã được Tòa án thụ lý giải quyết trước ngày 01 tháng 7 năm 2016 thì Tòa án đã thụ lý tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không chuyển cho Tòa gia đình và người chưa thành niên giải quyết;

+ Khi giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, Tòa án tiếp tục áp dụng quy định của các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về án phí, lệ phí Tòa án, chi phí tố tụng khác cho đến khi có quy định mới của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Đối với vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì áp dụng mức án phí thấp hơn so với mức án phí áp dụng đối với vụ án giải quyết theo thủ tục thông thường./.

Nguyễn Thị Thu Hải (lược ghi)

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Việc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng xuất phát từ nhu cầu cần được bảo vệ của đương sự tại các phiên tòa. Theo quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2010 thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và được Toà án chấp nhận tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Việc được Tòa án chấp nhận ở đây được hiểu là bằng việc họ được cấp Giấy chứng nhận người bào chữa.

 

Tại Điều 61 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp phápcủa đương sự là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; khi có yêu cầu của đương sự và được Tòa án làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được quy định như sau:

“4. Khi đề nghị Tòa án làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người đề nghị phải xuất trình các giấy tờ sau đây:

a) Luật sư phải xuất trình các giấy tờ quy định tại khoản 2 Điều 27 của Luật luật sư;

b) Trợ giúp viên pháp lý hoặc người tham gia trợ giúp pháp lý xuất trình văn bản cử người thực hiện trợ giúp pháp lý của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc thẻ luật sư;

c) Công dân Việt Nam có đủ điều kiện quy định tại điểm c khoản 2 Điều này xuất trình giấy yêu cầu của đương sự và giấy tờ tùy thân.

5. Sau khi kiểm tra giấy tờ và thấy người đề nghị có đủ điều kiện làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều này thì trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề nghị, Tòa án phải vào sổ đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và xác nhận vào giấy yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Trường hợp từ chối đăng ký thì Tòa án phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người đề nghị”.

Thanh Huyền

 
 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thuế vừa là phạm trù kinh tế, vừa là phạm trù lịch sử. Lịch sử xã hội loài người đã chứng minh rằng thuế ra đời là một tất yếu khách quan, gắn với sự hình thành và phát triểncủa nhà nước. Để duy trì sự tồn tại đồng thời với việc thực hiện các chức năng của mình, nhà nước cần có nguồn vậtchất để thực hiện những chi tiêu có tính chất xã hội. Bằngquyền lực chính trị, nhà nước thu một bộ phận của cải xã hội để có được nguồn vật chất đó. Quan hệ thu; nộp nhữngnguồn vật chất này chính là thuế. Thu thuế được thực hiện từ hình thức thu bằng hiện vật chuyển dần sang thu dưới hìnhthức giá trị. Điều đó cũng có nghĩa, thuế xuất hiện ban đầucó hình thức biểu hiện rất đơn giản. Thuế xuất hiện từ lâu đời và có vai trò quan trọng đối với một quốc gia.

Qua bài tập lớn học kỳ em muốn trình bày những hiểu biết về: “Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay – Các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò đó trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế”.

 

I.Một số hiểu biết về thuế.

1.Khái niệm chung về thuế.

Các Mác viết “Thuế  là cơ sở kinh tế của bộ máy nhà nước, là thủ đoạn đơn giản để kho bạc thu được tiền hay tài sản của người dân để dùng vào việc chi tiêu của nhà nước”.

Có nhiều quan điểm đưa ra những khái niệm về thuế khác nhau như:

_Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinhtrên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành, không mang tínhchất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Thuế khôngphải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội do chính con người định ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật.

_ Thuế là khoản đóng góp bằng tiền mà các tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện phải nộp cho Ngân sách nhà nước theo nguyên tắc không hoàn trả trên cơ sở pháp luật.

Như vậy: Có thể hiểu một cách khái quát: Thuế là khoản thu nộp mang tính bắt buộc mà các tổ chức, cá nhân phải nộp khi có những điều kiện nhất định.

2 Đặc điểm của Thuế.

  • Thuế do Quốc hội lập ra dưới hình thức 1 đạo luật – là hình thức văn bản có tính pháp lý cao nhất do cơ quan quyền lực cao nhất, cơ quan lập pháp đặt ra.

  • Thuế luôn mang tính chất bắt buộc:  Thuế được thu để tạo quỹ Ngân sách nhà nước chi dùng cho việc chung, mọi công dân đủ điều kiện phải đóng thuế. Việc bỏ ra một khoản tiền để đóng thuế không mang lại lợi ích trực tiếp cho người nộp thuế nhưng họ vẫn phải nộp bởi nguồn thu từ thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách nhà nước, thiếu nguồn thu này Nhà nước không thể tồn tại. Vì vậy, Nhà nước sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với công dân không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.

  • Thuế mang tính chất không hoàn trả trực tiếp và tương xứng. Công dân phải đóng thuế khi đủ điều kiện và họ không nhận được bất cứ lợi ích trực tiếp gì từ việc đóng thuế, tuy nhiên có sự hoàn trả gián tiếp thông qua việc Nhà nước sử dụng thuế cho các nhu cầu chung của xã hội. Đặc điểm này của Thuế giúp ta phân biệt với phí và lệ phí, vì phí và lệ phí có sự bù đắp, người đóng phí và lệ phí sẽ nhận được lợi ích trực tiếp từ việc đóng phí và lệ phí.

  • Thuế luôn gắn với quyền lực nhà nước, là hai phạm trù không thể tách rời: Nhà nước là chủ thể duy nhất đặt ra các khoản thuế và ngược lại thuế là phương tiện vật chất chủ yếu để duy trì quyền lực nhà nước.

  1. Các nguyên tắc cơ bản của thuế.
  • Nguyên tắc công bằng: Tất cả các đạo luật thuế đều đưa ra điều kiện đối với đối tượng nộp thuế, bất kỳ công dân nào đáp ứng các điều kiện này thì phải nộp thuế, không phân biệt giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp…. Ngoài ra khi xây dựng các khoản thuế Nhà nước chỉ nhằm vào các đối tượng có khả năng đóng thuế.

  • Nguyên tắc minh bạch, rõ ràng, cụ thể:

  • Nguyên tắc thuận tiện cho người nộp thuế.

  • Nguyên tắc đơn giản, dễ tính toán.

  • Nguyên tắc hiệu quả.

Ở Việt Nam trong quá trình xây dựng hệ thống thuế đòi hỏi phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau:

  • Về mặt tài chính thuế phải là phương tiện chủ yếu tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.

  • Về mặt kinh tế thuế phải là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.

  • Về mặt hành thu phương pháp tính toán các loại thuế phải dễ tính, dễ hiểu, dễ kiểm tra.

  • Về mặt xã hội thuế phải thực hiện công bằng xã hội.

  • Về mặt pháp lý thuế phải đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong hoạt động thu nộp thuế.

  1. Phân loại thuế.

Thuế được chia làm 2 loại thuế trực thu và thuế gián thu:

  • Thuế trực thu: là loại thuế nhằm điều tiết thu nhập trực tiếp của người nộp thuế. Đối với thuế trực thu người nộp thuế cũng là người chịu thuế, bất lợi cho chính người nộp thuế.

Thuế trực thu mang tính chất công bằng hơn, chỉ nhằm vào người có thu nhập.

Vd: Thuế Thu nhập doanh nghiệp,Thuế Thu nhập đối với người có thu nhập cao.

  • Thuế gián thu: là loại thuế nhằm điều tiết thu nhập của người tiêu dùng thông qua giá cả hàng hoá, dịch vụ. Đối với thuế gián thu người nộp thuế không phải là người chịu thuế, người chịu thuế là người tiêu dùng cuối cùng hàng hoá, dịch vụ bị đánh thuế.

Thuế gián thu mang tính chất ít công bằng hơn. Tất cả mọi người giàu hay nghèo đều phải nộp thuế khi sử dụng hàng hoá, dịch vụ.

VD: Thuế giá trị gia tăng.

  1. Các sắc thuế của Việt nam hiện nay.
  • Luật thuế thu nhập doanh nghiệp

  • Luật thuế giá trị gia tăng

  • Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

  • Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất

  • Luật thuế tiêu thụ đặc biệt.

  • Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp

  • Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.

  • Pháp lệnh phí và lệ phí.

  • Thuế môn bài

  • Pháp lệnh thuế tài nguyên.

  • Pháp lệnh thuế nhà đất.

  1. Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay.

1 Tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.

_Thuế là nguồn thu chính của ngân sách Nhà nước, hàng năm nguồn thu từ thuế chiếm trên 90% tổng thu Ngân sách nhà nước.

_Là nguồn thu ổn định của ngân sách Nhà nước, thuế là khoản thu mang tính luật pháp thể hiện tính cưỡng chế cao.

_Chủ thể nộp thuế rộng nên tỷ lệ động viên vào ngân sách Nhà nước cao.

_Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với các pháp nhân và thể nhân trong xã hội.Việc các chủ thể nộp thuế -thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn tài chính quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân sách Nhà nước.

_Cũng như pháp luật nói chung, Pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất của sự điều chỉnh quan hệ pháp luật thu – nộp thuế là  nhằm tạo lập qũy ngân sách Nhà nước.

Hầu hết ở các quốc gia, thuế là hình thức chủ yếu mà pháp luật quy định để thu ngân sách Nhà nước.

_Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu nội bộ của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xuất phát từ phạm vi hoạt động mà đòi hỏi Nhà nước phải ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật thuế để tập trung nguồn tài chính vào ngân sách Nhà nước từ đó mới đáp ứng được nhu cầu chi ngày càng tăng.

_Thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hiện nay nguồn thu nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chuyển thành có vay có trả. Trước tiên, thuế là một công cụ quan trọng để góp phần ổn định trật tự xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc phát triển lâu dài.

2 Điều tiết nền kinh tế

  • Thuế là công cụ tài chính điều tiết nền kinh tế. Đây là vai trò có tính chất quyết định của thuế. Sử dụng công cụ thuế, nhà nước có thể mở rộng hoặc thu hẹp một ngành kinh tế nào đó. Để  phát triển một ngành kinh tế nhà nước sử dụng biện pháp:  đánh thuế thấp, thu hẹp phạm vi chủ thể nộp thuế, mở rộng diện miễn, giảm thuế. Để thu hẹp một ngành kinh tế nhà nước sử dụng biện pháp: đánh thuế cao, mở rộng phạm vi chủ thể nộp thuế, giảm diện miễn, giảm thuế.

  • Thuế là công cụ điều chỉnh giá cả thị trường, hạn chế lạm phát: Khi giá cả một loại hàng hoá nào đó trên thị trường tăng lên, Nhà nước có thể điều chỉnh giá bằng cách giảm thuế đối với mặt hàng đó và ngược lại; Để kiềm chế tốc độ lạm phát nhà nước có thể giảm thuế.

  • Thuế là công cụ để Nhà nước thực hiện  bảo hộ nền sản xuất trong nước. Nhà nước hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng thông qua sự phân bổ và sử dụng các nguồn lực. Nó là đòn bẩy kinh tế quantrọng, kích thích hiệu quả sản xuất kinh doanh.

_Ngoài việc huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, pháp luật thuế còn

có vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Ðiều 26 Hiến pháp 1992 ghi nhận: Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách. Là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật thuế đóng vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Thông qua việc ban hành và thực hiện pháp luật thuế, Nhà nước thể chế hoá và thực hiện chính sách điều tiết đối với nền kinh tế, điều tiết thu nhập và tiêu dùng xã hội.

_Ðiều tiết đối với nền kinh tế là yêu cầu khách quan, thường xuyên của Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế, phạm vi đối tượng nộp thuế, thuế suất, miễn giảm thuế…Nhà nước chủ động phát huy vai trò điều tiết đối với nền kinh tế. Vai trò này của pháp luật thuế được thể hiện ở chỗ pháp luật thuế là công cụ tác động đến tư duy đầu tư, hành vi đầu tư của các chủ thể kinh doanh, hành vi tiêu dùng của các thành viên trong xã hội. Dựa vào công cụ thuế, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc đầu tư, tiêu dùng.

_Thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước chủ động can thiệp đến cung – cầu của nền kinh tế. Sự tác động của Nhà nước để điều chỉnh cung – cầu của nền kinh tế một cách hợp lý sẽ có tác động lớn đến sự ổn định và tăng trưởng kinh tế. Bằng các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước tác động tích cực đến cung – cầu của nền kinh tế trong tất cả các giai đoạn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.

_Ðiều tiết tiêu dùng là hoạt động quan trọng của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước tác động đến các quan hệ tiêu dùng của xã hội. Nhằm hạn chế việc tiêu dùng đối với một số hàng hóa, dịch vụ, Nhà nước tăng thuế suất thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu…đối với việc sản xuất kinh doanh,tiêu dùng các loại hàng hóa đó.

_Ðể thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước và khuyến khích xuất khẩu, pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có các quy định khuyến khích hoặc hạn chế việc xuất, nhập khẩu đối với một số hàng hóa. Sự khuyến khích hoặc hạn chế này thể hiện tập trung ở biểu thuế áp dụng có tính chất phân biệt đối với các loại hàng hóa xuất nhập khẩu.

_Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thịtrường tất yếu dẫn đến tình trạng suy thoái về tài chính ở một số doanh nghiệp. Ðối với những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến khích, ngoài các quy định chung, pháp luật thuế còn có các quy định ưu đãi, miễn, giảm thuế nhằm khắc phục sự suy thoái về tài chính, tạo sự ổn định và phát triển của các doanh nghiệp.

_Thuế góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong nước để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu.Thông qua pháp luật thuế, Nhà nước có tác động tích cực trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở tận dụng và sử dụng hợplý và có hiệu qủa các nguồn lực của đấtnước trong việc điều chỉnh cung – cầu và cơ cấu kinh tế.

3.Thuế là công cụ để điều tiết thu nhập, hướng dẫn tiêu dùng và thực hiện công bằng xã hội.

  • Nhà nước đánh thuế cao đối với mặt hàng cần hạn chế tiêu dùng và đánh thuế thấp đối với mặt hàng thiết yếu, khuyến khích tiêu dùng.

  • Quy định về thuế suất luỹ tiến trong thuế thu nhập thể hiện người có thu nhập cao thì nộp thuế nhiều, người có thu nhập thấp thì nộp thuế ít.

  • Nguồn thuế thu được, một phần được sử dụng để phân phối lại cho các đối tượng chính sách, khó khăn trong xã hội.

_Pháp luật thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công bằng xã hội.  Hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất chung cho các ngànhnghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thế nhân và pháp nhân.   Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính sách động viên giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có những điều kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đẳng và công bằng.

_Vai trò điều tiết thu nhập của pháp luật thuế thể hiện ở sự tác động của pháp luật thuế đối với các quan hệ phân phối và sử dụng thu nhập trong xã hội.

_Sự vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng đồng bộ nhiều công cụ khác nhau để khắc phục những sự mất cân đối về mặt xã hội trong đó có mất cân đối về thu nhập. Nhà nước sử dụng pháp luật thuế làm công cụ để điều hòa vĩ mô thu nhập trong xã hội. Sự điều tiết này thể hiện ở chổ thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước thực hiện việc điều tiết thu nhập của các đối tượng nộp thuế và các thành viên trong xã hội. Sự thay đổi của pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế trong hệ thống thuế, về thuế suất… đều có tác động đến thu nhập và sử dụng thu nhập trong xã hội.

_Hiện nay, xu hướng chung của các quốc gia là xây dựng các quy phạm pháp

luật thuế theo hướng hội nhập quốc tế, đơn giản hóa cơ cấu hệ thống thuế và thuế suất…Tuy vậy, việc thực hiện xu hướng chung đó không làm triệt tiêu vai trò của pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường.

Như vậy: Thuế có vai trò quan trọng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cả về mặt phục vụ yêu cầu chuyển hướng cơ cấu hợp lý, tiến bộ, hiện đại hạn chế tính cạnh tranh không lành mạnh, tính tự phát, tiêu cực của cơ chế thị trường, cả về mặt thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế  nhanh chóng có lợi cho quốc kế dân sinh, tăng trưởng và phát triển kinh tế.

 

III. Các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của thuế trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

1.Thực trạng thuế ở Việt Nam.

_ Năng lực thuế thấp: chiếm tỷ trọng còn hạn chế trong tổng thu ngân sách nhà nước khoảng 60% trong khi đó các nước phát triển trên 90%(các nước Bắc âu trên 95%).Trong đó thì  Thuế nhập khẩu đóng góp tới 1/3 tổng thu ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, khoản thu này đang giảm đi do các hiệp định tự do hóa thương mại mà Việt Nam đang tham gia.

Thu từ thuế gián thu chiếm tỷ trọng lớn trong đóng góp ngân sách nhà nước, 46% trong giai đoạn 2001-2005.Các loại thuế gián thu ở Việt Nam bao gồm thuế xuất khẩu-nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, phí xăng, dầu.   Kể từ khi gia nhập WTO, thu thuế về xuất nhập khẩu, tiêu thụ đặc biệt và VAT hàng nhập khẩu bị giảm sút do cam kết hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Việc cắt giảm thuế quan theo các hiệp định đã ký kết dẫn đến tổng thu nhập nhập khẩu giảm theo.

Kinh tế thế giới khủng hoảng,và kinh tế Việt Nam cũng chịu tác động

mạnh,theo dự kiến thì tăng trưởng kinh tế năm 2009 chỉ đạt 5-6% (giảm khoảng 0,5-1,5%so với mức quốc hội thông qua). Chỉ số giá tiêu dùng tăng dưới 9%, sẽ làm cho Ngành thuế quản lý năm 2009 giảm thu khoảng 5-7%so với dự toán được giao.

Ngoài ra chính sách giãn thuế và giảm thuế cũng đã làm cho giảm thu thuế

5-6% so với được giao.thêm nữa là giá cả của dầu thô dao động trong khoảng 70USD cũng làm giảm thu ngân sách.

_Thất thu thuế lớn: Mặc dù ngành thuế ngày càng có nhiều nỗ lực, nhưng các biện pháp chống thất thu thuế chưa hữu hiệu, mới tận thu được với các đơn vị và công dân gương mẫu trong nghĩa vụ thuế, còn những người cố tình trốn thuế thì không bị chế tài. Tình trạng này không những thể hiện trong thuế thu nhập cá nhân (đối với người có thu nhập cao) mà thể hiện rất dễ thấy trong thuế giá trị gia tăng. Rất nhiều doanh nghiệp, khách sạn, cửa hàng… không làm hóa đơn cho khách hàng, còn khách hàng thì rất nhiều người cũng không có nhu cầu lấy hóa đơn (trừ những doanh nghiệp cần có hóa đơn để khấu trừ thuế giá trị gia tăng).

Phần lớn khoản doanh thu không nhỏ đó Nhà nước không thu được thuế, cả thuế giá trị gia tăng lẫn thuế thu nhập doanh nghiệp. Tình trạng đó không những gây tổn hại cho lợi ích của đất nước mà còn tạo ra sự bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế của công dân, vô hình trung tạo thêm sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp.

_ Đang còn nhiều yếu kém và tiêu cực: Thủ tục thuế còn nhiều khoản chồng chất,giấy tờ còn gây nhiều phiền hà cho người nôp thuế.

Bộ máy quản lý nhà nước về thuế còn nhiều yếu kém,dẫn đến sai phạm trong

thu thuế và thất thu cho ngân sách nhà nước như đã nói ở trên.  Xảy ra tiêu cực trong 1 bộ phân cán bộ thuế,làm ảnh hưởng xấu đến ngành thuế.

2.Nguyên nhân. 

  • Chính sách thuế chưa hợp lý:quá phức tạp,chưa dễ hiểu và dễ áp dụng.

Chính sách thuế vẫn còn phức tạp, một số sắc thuế còn nhiều mức thuế suất, lồng ghép nhiều chính sách xã hội, nhiều mức miễn giảm thuế làm hạn chế tính trung lập của thuế.

  • Trình độ chuyên môn và nhận thức của cán bộ thuế thấp dưới mức cần thiết để tính toán thu đúng,thu đủ trong khi mà phẩm chất nghề nghiệp chưa tốt cho nên còn tiếp tay,bảo kê cho tư thương.

  • Sự phát triển của nên kinh tế ở mức thấp gây khó khăn cho việc tính

toán thu thuế,hệ thống kế toán,kiểm toán và chứng từ sổ sách cũng chưa

phát triển

  • Nhận thức của quần chúng còn hạn chế.

Từ thực trạng và nguyên nhân trên, ta có đưa ra các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của thuế trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

  1. Các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của thuế trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

_Cải tiến và hoàn thiện chính sách thuế ,hệ thống luật pháp nói chung và luật thuế nói riêng.

_Kiên quyết chống thất thu, nâng cao trình độ nghiệp vụ và nhận thức của mỗi cán bộ thu thuế, mặt khác cũng tăng cường thanh tra kiểm tra để phát hiện và xử lý ngay sai phạm.

_Cơ quan thuế các cấp sẽ thường xuyên tổ chức rà soát, đánh giá phân tích, dự báo những yếu tố ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách nhà nước trên địa bàn, làm rõ những khoản còn thất thoát, các nguồn thu còn tiềm năng.

_Tăng cường công tác phân tích, dự báo những tác động bất lợi từ việc suy giảm kinh tế, những tác động bất thường của giá cả, thị trường tín dụng trên thế giới và trong nước tác động đến tình hình thu nộp ngân sách nhà nước của khối doanh nghiệp để có những đề xuất, kiến nghị giải pháp kinh tế vĩ mô ngăn chặn đà suy giảm nguồn thu ngân sách nhà nước.

_Ngành Thuế tiếp tục theo dõi, phát hiện để có ý kiến đề nghị với các ngành, các cấp có thẩm quyền tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về vốn, thị trường, giá cả, xử lý kịp thời các cơ chế chính sách gây ảnh hưởng xấu đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân đẩy mạnh hoạt động đầu tư, phát triển hình sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

­_Đặc biệt, công tác thanh tra, kiểm tra cần được ngành Thuế đẩy mạnh. Theo đó, ngành Thuế sẽ đẩy mạnh việc kiểm soát, xử lý triệt để các khoản nợ đọng thuế, trình cấp có thẩm quyền các biện pháp xử lý vướng mắc về nợ thuế, tập trung lực lượng triển khai các biện pháp thu hồi nợ thuế; triển khai các biện pháp cưỡng chế nợ thuế để thu hồi nợ đọng. Tổng cục Thuế đã giao chỉ tiêu và biện pháp thu nợ cho từng Cục Thuế để triển khai thực hiện.

_Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế để lựa chọn những đối tượng có dấu hiệu gian lận thuế, bổ sung vào kế hoạch thanh tra, kiểm tra, đặc biệt tập trung vào nhóm doanh nghiệp lớn, các Tập đoàn, Tổng công ty, các địa bàn trọng điểm có số thu lớn, các ngành hàng, các lĩnh vực, các loại hình tổchức có dấu hiệu thất thu lớn. Tổng hợp, rà soát kết quả sau thanh tra để có biện pháp xử lý đôn đốc, thu hồi kịp thời các khoản mà thanh tra đã kết luận vào nộp ngân sách nhà nước.

_Hệ thống hóa sổ sách chứng hoạt động kế toán kiểm toán.

_Tuyên truyền giáo dụa nhận thức của đối tượng chịu thuế kết hợp với thực hiện nghĩa vụ đóng thuế. Thực tế cho thấy rằng, một chính sách thuế dù được hoàn thiện đến đâu nhưng nếu các chủ thể của các quan hệ thuế không nắm bắt được những quy định cụ thể  trong các quy phạm pháp luật thuế thì chính sách thuế sẽ khó có tính khả thi. Chính vì vậy, việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật thuế có ý nghĩa rất quan trọng, quyết định sự vận dụng thành công hay không của chính sách thuế vào thực tiễn cuộc sống,có như vậy mới nâng cao ý thức của các  chủ thể.

_Đẩy mạnh dịch vụ tư vấn thuế: Để hiểu một cách cặn kẽ và thực hiện đúng đắn các quy định của chính sách thuế là một vấn đề không phải đơn giản đối với các đối tượng nộp thuế, nhất là khi thực hiện áp dụng cơ chế quản lý thu nộp thuế theo phương thức các đối tượng nộp thuế nào tự kê khai, tự tính và tự nộp thuế, bởi trong thực tiễn không phải đối tượng nộp thuế cũng có thể hiểu biết, nắm rõ và thực hiện đúng nghĩa vụ thuế của mình với Nhà nước. Do vậy, việc cung cấp dịch vụ tư vấn thuế là nhu cầu rất thiết thực của các đối tượng nộp thuế trong điều kiện hiện nay. Do vậy, việc khuyến khích hình thành và phát triển hoạt động dịch vụ tư vấn thuế không chỉ là nhiệm vụ của ngành thuế mà đó còn là nhiệm vụ chung của các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức xã hội nhằm giúp cho các đối tượng nộp thuế hiểu biết rõ, kịp thời về chính sách thuế hiện hành của Nhà nước, hỗ trợ các đối tượng nộp thuế từ khâu đăng ký, kê khai nộp thuế, lập sổ sách kế toán, chứng từ hóa đơn về thuế, tính toán mức thuế và các khoản thuế phải nộp, … Đồng thời góp phần nâng cao ý thức chấp hành chính sách pháp luật, chấp hành nghĩa vụ thuế với Nhà nước của các đối tượng nộp thuế, góp phần nâng cao tính khả thi của chính sách thuế.

_Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, khi Việt Nam gia nhập WTO, thuế là 1 vấn đề cần được quan tâm, cần phải phát huy vai trò của thuế trong hội nhập kinh tế quốc tế.  Thực tế cho thấy: Việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết WTO và tham gia các khu vực mậu dịch tự do sẽ ảnh hưởng nhiều đến nguồn thu ngân sách. Điều này cũng dễ hiểu khi số thu thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam hiện chiếm một tỷ trong khá lớn so với các nước đang phát triển; khoảng 13% tổng thu ngân sách từ phí và lệ phí. Bộ Tài chính đã dự tính, việc cắt giảm thuế sẽ làm giảm khoảng 10% số thu từ hoạt động xuất nhập khẩu.

Như vậy: việc cắt giảm thuế cần phải cân nhắc kỹ lưỡng để đưa nền kinh tế trong nước phát triển, cắt giảm thuế hợp lý sao cho ngân sách nhà nước không bị thâm hụt, không bị ảnh hưởng nhiều và các doanh nghiệp trong nước vẫn có điều kiện phát triển và cạnh tranh đối với doanh nghiệp nước ngoài.

KẾT LUẬN.

Thuế có vai trò vô cùng quan trọng đối với 1 quốc gia, 1 nền kinh tế của 1 quốc gia. Hội nhập kinh tế quốc tế  tạo ra những cơ  hội to lớn cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhưng cũng mang đến những thách thức không nhỏ đối với một nước đang phát triển ở trình độ thấp như nước ta hiện nay. Để  tận dụng cơ hội và để giảm thiểu những thách thức, Nhà nước phải sử  dụng có hiệu quả những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, trong đó thuế là một công cụ hết sức quan trọng.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Vướng mắc trong thụ lý yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật và thụ lý ly hôn

23/01/2013

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2001 và nhiều văn bản hướng dẫn được ban hành đã tạo ra cơ sở pháp lý để các cơ quan giải quyết các tranh chấp. Tuy nhiên, vào thời điểm Luật này được ban hành thì chưa có Bộ luật Tố tụng dân sự. Hiện nay, nhiều quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung vào năm 2010 nhưng còn mang tính tình thế, nên nhiều quy định của hai văn bản luật này thiếu thống nhất dẫn đến việc áp dụng pháp luật tùy tiện làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể liên quan

1. Về người có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật

Khoản 2 Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 9 và Điều 10 của Luật này”. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 không quy định quyền khởi kiện vụ án dân sự, nên Viện kiểm sát nhân dân không có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật. Vì vậy, khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình cần bỏ quyền khởi kiện của Viện kiểm sát nhân dân cho phù hợp.

Điều 162 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định: “Cơ quan dân số và trẻ em, Hội Liên hiệp Phụ nữ trong phạm vi, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình trong trường hợp Luật Hôn nhân và gia đình quy định”.

Theo khoản 3 Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình, thì Ủy ban Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em (nay là Ủy ban Dân số, gia đình và trẻ em), Hội Liên hiệp Phụ nữ có quyền yều cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật. Trước đây, theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Tòa án thụ lý yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật là vụ án dân sự (vừa giải quyết chấm dứt quan hệ trái pháp luật, vừa giải quyết tài sản, nuôi con). Hiện nay, theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, thì hủy việc kết hôn trái pháp luật là yêu cầu về hôn nhân gia đình (việc dân sự), trong khi đó, Điều 162 Bộ luật Tố tụng dân sự lại chỉ giới hạn quyền khởi kiện “vụ án”. Sự thiếu thống nhất giữa Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau: Cách hiểu thứ nhất, hiện nay việc hủy kết hôn trái pháp luật (mặc dù là việc dân sự) nhưng Ủy ban Dân số, gia đình và trẻ em, Hội Liên hiệp Phụ nữ vẫn có quyền khởi kiện tại Tòa án vì lợi ích chung để được bảo vệ lợi ích của các chủ thể do họ “không biết” hoặc “không dám” yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật; Cách hiểu thứ hai, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 chỉ quy định quyền khởi kiện vụ án nên việc dân sự không thuộc thẩm quyền của cơ quan này, mặt khác, Điều 312 của Bộ luật Tố tụng dân sự chỉ đề cập về đơn yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự của mình chứ không yêu cầu khởi kiện vì lợi ích chung. Vì vậy, nếu các cơ quan, tổ chức trên khởi kiện yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện do không đúng thẩm quyền.

Theo chúng tôi, cần sửa đổi quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cho thống nhất với Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, mặt khác Điều 162 Bộ luật Tố tụng dân sự cũng cần điều chỉnh quyền khởi kiện vụ, việc dân sự để mở rộng phạm vi quyền khởi kiện vì lợi ích chung.

2. Quyền yêu cầu ly hôn (trong trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn)

Điều 87 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về thụ lý đơn yêu cầu ly hôn, quy định: “Tòa án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Trường hợp không có đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn, thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật này; nếu có yêu cầu về quyền nuôi con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 17 Luật này”.

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định những tranh chấp về hôn nhân gia đình (tại Điều 27) và những yêu cầu về hôn nhân gia đình (Điều 28) thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bên cạnh đó, theo Nghị quyết số 35/2010/QH10 của Quốc hội về thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2010, thì những trường hợp chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn nhưng không vi phạm các điều kiện kết hôn khác tính theo mốc thời gian trước ngày 03/01/1987 được công nhận là vợ chồng; từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001 phải đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm và từ ngày 01/01/2001 thì không được công nhận là vợ chồng. Hiện nay, việc thụ lý giải quyết các trường hợp có đơn yêu cầu ly hôn theo mốc thời gian mà Nghị quyết 35 của Quốc hội quy định còn lúng túng, cụ thể:

Đối với trường hợp chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn nhưng không vi phạm các điều kiện kết hôn khác trước ngày 03/01/1987 không có giấy chứng nhận kết hôn, nên thông thường đưa ra các chứng cứ (sổ hộ khẩu, giấy khai sinh con chung của hai người,…) hoặc có xác nhận của Ủy ban nhân dân nơi cư trú thì được Tòa án thụ lý. Thực tế, có những trường hợp chuyển địa điểm cư trú hoặc Ủy ban nhân dân không xác nhận, thì rất khó khăn để được Tòa án thụ lý vụ án ly hôn.

Đối với trường hợp chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn nhưng không vi phạm các điều kiện kết hôn từ ngày 01/01/2001 thì còn lúng túng, chẳng hạn: Anh Hòa và chị Thanh (cư trú tại thành phố M) chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2004 không có đăng ký kết hôn. Hai người sinh được một người con chung là cháu Tân vào năm 2006. Năm 2008, anh Hòa vào thành phố Hồ Chí Minh làm ăn có quen biết với chị Thoa và tháng 9/2011 đưa chị Thoa về quê (thành phố M) đăng ký kết hôn. Chị Thanh đến đánh ghen và có đơn gửi Uỷ ban nhân dân các cấp yêu cầu không được đăng ký kết hôn vì chị đang là vợ hợp pháp. Uỷ ban nhân dân tiến hành hòa giải để anh Hòa và chị Thanh giải quyết ổn thỏa chuyện gia đình mới tiến hành đăng ký kết hôn với chị Thoa. Vì vậy, tháng 2/2012 anh Hòa có đơn gửi Tòa án thành phố M yêu cầu ly hôn với chị Thanh. Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện vì không xuất trình được giấy đăng ký kết hôn. Anh Hòa khiếu nại theo pháp luật tố tụng dân sự về việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án. Hiện nay, có các ý kiến khác nhau như sau: Ý kiến thứ nhất cho rằng, Tòa án thụ lý yêu cầu ly hôn theo Điều 87 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, sau đó tuyên bố không công nhận vợ chồng theo khoản 1 Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình; Ý kiến thứ hai cho rằng, nếu thụ lý yêu cầu ly hôn là sai vì đoạn 2 Điều 87 chỉ ghi Tòa án “thụ lý” mà không rõ thụ lý yêu cầu gì? Nếu Tòa án thụ lý yêu cầu ly hôn thì phải có giấy tờ chứng minh là vợ chồng, chứ không thể thụ lý tùy tiện; Ý kiến thứ ba cho rằng, phải xem xét hai trường hợp: Nếu anh Hòa chỉ yêu cầu giải quyết quan hệ nhân thân (tuyên bố chấm dứt quan hệ với chị Thanh) thì không xem xét giải quyết. Việc Tòa án tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng là không cần thiết, vì thực chất họ không phải là vợ chồng thì Tòa án tuyên bố không có ý nghĩa; nếu anh Hòa yêu cầu giải quyết việc nuôi con hoặc tranh chấp tài sản chung thì xem xét giải quyết (hậu quả của việc sống chung) mà thôi.

Chúng tôi cho rằng, ý kiến thứ ba là hợp lý, vì Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định không rõ ràng về điều kiện đăng ký kết hôn. Từ ngày 01/01/2001, pháp luật quy định điều kiện đăng ký kết hôn là bắt buộc nên mọi trường hợp phải tuân theo, nếu nam nữ chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn thì phải biết, buộc phải biết về hậu quả xảy ra. Vì vậy, Tòa án không cần tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng nữa mà chỉ giải quyết hậu quả phát sinh (nuôi con, tài sản) nếu có yêu cầu. Vì vậy, theo chúng tôi, đoạn 2 Điều 87 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không phù hợp với thực tế hiện nay.

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (đều được sửa đổi, bổ sung năm 2010) là cơ sở pháp lý để Tòa án giải quyết các vụ việc hôn nhân gia đình. Để sửa đổi các quy định của các luật này một cách toàn diện, cần có quá trình tập hợp, rà soát lại những quy định thiếu thống nhất, chồng chéo nhau. Trong thời gian chờ sửa đổi, bổ sung, thì Tòa án nhân dân dân tối cao có các văn bản hướng dẫn thi hành để cho các địa phương áp dụng thống nhất pháp luật.

TS. Đoàn Đức Lương

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số vấn đề về việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án

29/03/2013

Biện pháp bảo đảm được hiểu là những chế tài theo quy định của pháp luật do chấp hành viên tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự áp dụng nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án.

Đây là một điểm mới được Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định. Trước đây các Pháp lệnh về thi hành án dân sự (Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, 1993,…) không quy định các biện pháp bảo đảm thi hành án. Luật Thi hành án dân sự năm 2008 giành hẳn Mục 1 Chương IV để quy định về các biện pháp bảo đảm cho thấy tính cấp thiết và quan trọng của các biện pháp này trong công tác thi hành án dân sự. Và thực tế cũng cho thấy, các biện pháp bảo đảm thi hành án đã mang lại những khởi sắc nhất định trong công tác thi hành án dân sự.

Tuy nhiên, biện pháp này vẫn còn nhữnghạn chế, khó khăn nhất định. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến một số vấn đề đang là tâm điểm khó khăn của chấp hành viên qua thực tiễn tổ chức áp dụng biện pháp này.

Thứ nhất, xét một cách tổng thể thì biện pháp bảo đảm thi hành án không khác nhiều so với biện pháp kê biên ngay (theo Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004). Điều khác biệt cơ bản là có sự phân định rạch ròi về bản chất của các biện pháp này (biện pháp bảo đảm mới ở giai đoạn ngăn chặn, khác với biện pháp kê biên ngay ở giai đoạn cưỡng chế). Tuy nhiên, biện pháp bảo đảm lại quy định các dấu hiệu “…tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án…”(1) như biện pháp kê biên ngay của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004.Những dấu hiệu này trước đây đã từng cản trở chấp hành viên áp dụng biện pháp kê biên ngay vì rất khó xác định dấu hiệu, nhưng lại dễ dàng cho đương sự khiếu nại, và để an toàn, chấp hành viên rất ít khi áp dụng biện pháp kê biên ngay. Cho đến nay, chưa có thống kê trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2008 và từ khi Luật Thi hành án dân sự có hiệu lực đến nay có bao nhiêu vụ việc được áp dụng biện pháp kê biên ngay và áp dụng biện pháp bảo đảm. Nhưng theo chúng tôi tìm hiểu, qua thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Long An, Đồng Nai, Bình Phước,… rất ít chấp hành viên áp dụng các biện pháp này. Lý do được đưa ra là biện pháp bảo đảm thi hành án còn rườm rà hơn cả biện pháp kê biên ngay vì phải thực thi quá nhiều thủ tục như trong trường hợp thu giữ tài sản trong thời hạn 15 ngày phải xác minh, thông báo, áp dụng biện pháp cưỡng chế, hoặc trả lại tài sản trong trường hợp đương sự chứng minh tài sản không thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án,..

Thứ hai, việc áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản theo quy định tại Điều 67 Luật Thi hành án dân sự năm 2008: “Việc phong toả tài khoản được thực hiện trong trường hợp cần ngăn chặn việc tẩu tán tiền trong tài khoản của người phải thi hành án…”(2).

Biện pháp này xét trên khía cạnh lý thuyết thì rất ưu điểm, vì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày người phải thi hành án nhận được quyết định thi hành án phải tự nguyện thi hành và để phòng ngừa người phải thi hành án tẩu tán, biện pháp này cho phép chấp hành viên được quyền phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án để đảm bảo việc thi hành án sau này. Tuy nhiên, biện pháp này cũng rất ít khi được chấp hành viên áp dụng, bởi lẽ, có các khó khăn sau đây:

Một là, các kho bạc, ngân hàng, tổ chức tín dụng thường từ chối cung cấp số tài khoản, số dư tài khoản cho cơ quan thi hành án dân sự với những lý do rất tế nhị và rất khó để quy trách nhiệm. Và càng khó khăn hơn cho người được thi hành án xác định và cung cấp cho cơ quan thi hành án dân sự số tài khoản, số dư tài khoản của người phải thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự làm căn cứ tổ chức thi hành (ra quyết định phong tỏa tài khoản).

Hai là, trong trường hợp chấp hành viên xác định được số tài khoản, số dư tài khoản của người phải thi hành án hoặc người được thi hành án cung cấp được cho cơ quan thi hành án dân sự số tài khoản, số dư tài khoản của người phải thi hành án thì trong khoảng thời gian tự nguyện thi hành án chấp hành viên vẫn có thể vận dụng các quy định khác của pháp luật để thực thi. Trong trường hợp này, chấp hành viên có thể vận dụng quy định tại Điều 11 Luật Thi hành án dân sự năm 2008(3), theo đó chấp hành viên lập biên bản với đại diện kho bạc, ngân hàng, tổ chức tín dụng về việc thi hành án và yêu cầu kho bạc, ngân hàng, tổ chức tín dụng đó tạm giữ đủ số tiền phải thi hành án để đảm bảo việc thi hành án mà không nhất thiết phải ra quyết định phong tỏa – tốn thời gian, công sức và không kịp thời. Bởi vì, ra được quyết định phong tỏa, “tìm” được người đại diện hợp pháp của kho bạc, ngân hàng, tổ chức tín dụng để tống đạt quyết định là cả một vấn đề nan giải.

Ba là, khó khăn về thời gian xử lý quyết định phong tỏa tài khoản. Theo quy định tại khoản 3 Điều 67 thì: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định phong toả tài khoản, chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng chế …”(4). Vấn đề đặt ra là trong thời gian này đương sự – người phải thi hành án chưa hết quyền thỏa thuận thi hành án “Đương sự có quyền thoả thuận về việc thi hành án, nếu thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Kết quả thi hành án theo thoả thuận được công nhận….”(5). Hơn thế nữa, đương chưa mất quyền/hết thời gian tự nguyện thi hành án theo quy định tại Điều 8 và Điều 45 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Như vậy, việc chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế là vi phạm nghiêm trọng đến quyền của người phải thi hành án. Bởi vì, quy định tại khoản 2 Điều 45 là cho phép chấp hành viên được áp dụng các biện pháp bảo đảm chứ không phải là biện pháp cưỡng chế. Thủ tục cưỡng chế vẫn phải tuân theo trình tự luật định.

Các nhà làm luật đã đưa ra những quy phạm pháp luật thiếu rõ ràng, và để an toàn nếu có áp dụng biện pháp này, chấp hành viên đều phải vượt rào – vi phạm thời hạn 05 ngày để đảm bảo đúng trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành án.

Theo chúng tôi, với trường hợp trên, biện pháp cưỡng chế – khấu trừ ngay vào tài khoản của người phải thi hành án (như quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004)lại mang tính hiệu quả và tiết kiệm nhất – nếu không có sự phân định quá rạch ròi về biện pháp bảo đảm và biện pháp cưỡng chế như Luật Thi hành án dân sự đã quy định.

Thứ ba, đối với biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự theo quy định tại Điều 68 Luật Thi hành án dân sự thì: “Chấp hành viên đang thực hiện nhiệm vụ thi hành án có quyền tạm giữ hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hỗ trợ để tạm giữ tài sản, giấy tờ mà đương sự đang quản lý, sử dụng…”(6).

Những quy định nêu trên tưởng chừng như rất thuận lợi cho chấp hành viên thực thi, nhưng những ai đã thực hiện mới nhận thấy hết những vất vả, khó khăn.

Khó khăn đầu tiên là khi thực hiện biện pháp này phải cần có sự hỗ trợ lực lượng như: Công an, viện kiểm sát, chính quyền địa phương,… nhưng công an và viện kiểm sát đều từ chối với lý do là không có hướng dẫn hỗ trợ, kiểm sát hoạt động này. Thực vậy, đến nay chỉ có văn bản hướng dẫn về hỗ trợ cưỡng chế (Quyết định số 1501/2008/QĐ-BCA (C11), ngày 10/9/2008 của Bộ trưởng Bộ Công an ban hành quy trình hỗ trợ cưỡng chế thi hành án dân sự của lực lượng bảo vệ và hỗ trợ tư pháp thuộc Công an nhân dân) chứ chưa có văn bản nào hướng dẫn hỗ trợ lực lượng cho biện pháp bảo đảm.

Khó khăn thứ hai là chấp hành viên phải xác định được dấu hiệu: Tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án để có căn cứ tạm giữ. Chúng tôi xin nêu một vụ việc là người phải thi hành án đến trụ sở cơ quan thi hành án bằng xe gắn máy, trong khi nghĩa vụ thi hành án tương xứng với chiếc xe trên, chấp hành viên tạm giữ chiếc xe để đảm bảo thi hành án. Đương sự cho rằng không có ý tẩu tán, hủy hoại hay trốn tránh việc thi hành án và chống đối quyết liệt. Trong trường hợp trên chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự phải xử lý như thế nào? đang được luật bỏ ngỏ. Và vấn đề sẽ thực sự phức tạp nếu không được sự kiểm sát của viện kiểm sát, không được sự hỗ trợ của lực lượng công an thì uy tín và tính nghiêm minh của pháp luật sẽ bị xâm phạm. Theo chúng tôi, để đảm bảo việc áp dụng khả thi điều luật này, nên chăng cũng cần phải có quy định rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ hỗ trợ của viện kiểm sát và công an.

Khó khăn thứ ba là theo quy định thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tạm giữ tài sản, giấy tờ, chấp hành viên ra một trong các quyết định hoặc là áp dụng biện pháp cưỡng chế nếu xác định được tài sản, giấy tờ tạm giữ thuộc sở hữu của người phải thi hành án; hoặc trả lại tài sản tạm giữ cho đương sự trong trường hợp đương sự chứng minh tài sản, giấy tờ tạm giữ không thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án.

Tuy nhiên, tại Điều 89 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 cũng có quy định: “Trước khi kê biên… tài sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật, chấp hành viên yêu cầu cơ quan đăng ký cung cấp thông tin về tài sản, giao dịch đã đăng ký”(7). Và theo quy định này, thì thời hạn xác minh, cung cấp thông tin không phải hoàn toàn dựa vào chấp hành viên mà phần lớn phụ thuộc vào các cơ quan có liên quan trong việc cung cấp thông tin. Thực tiễn cho thấy, việc trả lời xác minh, cung cấp thông tin cho cơ quan thi hành án dân sự của các cơ quan có liên quan không phải bao giờ cũng nhanh chóng mà đa phần là chậm trễ, và nhanh nhất cũng 20 đến 30 ngày, còn chậm thì chưa biết đến bao giờ.

Theo chúng tôi để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của chế định bảo đảm thi hành án, rất cần một sự tổng kết thực tiễn áp dụng biện pháp bảo đảm trên phạm vi cả nước để có những hướng dẫn, bổ sung phù hợp với thực tiễn và tháo gỡ những khó khăn cho người áp dụng.

ThS. Đinh Duy Bằng

Tài liệu tham khảo:

(1). Khoản 1 Điều 66 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

(2). Điều 67 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

(3). Điều 11 Luật Thi hành án dân sự quy định: “1. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong việc thi hành án.

2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên theo quy định của Luật này.

Mọi hành vi cản trở, can thiệp trái pháp luật đối với hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên đều bị xử lý theo quy định của pháp luật”.

(4). Khoản 3 Điều 67 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

(5). Khoản 1 Điều 6 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

(6). Điều 68 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

(7). Khoản 1 Điều 89 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

(Kiemsat.vn) – Sau đây, Ban biên tập Kiemsat.vn lược ghi bài thuyết trình của hai chuyên gia: Ông Trần Văn Dũng, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự, Bộ Tư pháp và ông Nguyễn Công Long, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật, Văn phòng Quốc hội, giới thiệu về những nội dung cơ bản của Bộ luật hình sự năm 2015

I. NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG PHẦN CHUNG

(Phần thuyết trình của ông Trần Văn Dũng, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự, Bộ Tư pháp)

Bộ luật Hình sự năm 2015 được xác định là sửa đổi căn bản và toàn diện. Trong tổng số 426 điều của Bộ luật thì có 72 điều mới, 362 điều được sửa đổi, 17 điều giữ nguyên, 07 điều bãi bỏ. Những điểm mới cơ bản cần chú ý trong Phần chung của Bộ luật đó là:

1. Bổ sung quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại

Sự cần thiết phải quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân:

Tình hình vi phạm pháp luật do pháp nhân thực hiện diễn ra phức tạp và ngày càng nghiêm trọng, đặc biệt là các hành vi gây ô nhiễm môi trường, buôn lậu, trốn thuế, sản xuất, vận chuyển, buôn bán hàng giả, hàng cấm, trốn đóng bảo hiểm cho người lao động. Trong khi đó, để xử lý các hành vi này chỉ có xử phạt vi phạm hành chính cao nhất là đến 2 tỷ đồng. Như vậy, với hình thức xử phạt này là chưa tương xứng với những thiệt hại do pháp nhân gây ra. Hơn nữa, muốn được bồi thường thì việc tự chứng minh thiệt hại là rất khó khăn.

Hiện nay, trên thế giới có 120 nước đã quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân; việc nước ta quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân là tạo ra sự bình đẳng giữa doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài đầu tư với doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam đầu tư.

Việc quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân chính là việc nội luật hóa các Công ước quốc tế mà Việt nam là thành viên.

Cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân (Điều 75):

Dựa trên dấu hiệu hành vi của cá nhân:

– Hành vi phạm tội đó thực hiện mang danh nghĩa của pháp nhân;

– Hành vi phạm tội mang lại lợi ích cho pháp nhân;

– Hành vi phạm tội thực hiện theo sự chỉ đạo hoặc chấp thuận của pháp nhân;

– Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS.

Tại khoản 2 Điều 75 BLHS quy định, việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân.

Loại tội mà pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự:

Điều 76 BLHS quy định 31 tội phạm trong lĩnh vực kinh tế và môi trường mà pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự.

Hệ thống hình phạt đối với pháp nhân: Phạt tiền; đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc vĩnh viễn; cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; cấm huy động vốn.

Xóa án tích:

Điều 89 BLHS quy định, pháp nhân thương mại bị kết án đương nhiên được xóa án tích nếu trong thời hạn 2 năm kể từ khi chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án mà pháp nhân thương mại không thực hiện hành vi phạm tội mới.

2. Giảm hình phạt tử hình

Một là, giảm số lượng điều không áp dụng hình phạt tử hình

Hai là, bổ sung đối tượng không áp dụng hình phạt tử hình là người từ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử;

Ba là, mở rộng thêm 02 trường hợp không thi hành án tử hình:

– Thứ nhất, người từ đủ 75 tuổi trở lên;

– Thứ hai, người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.

3. Chính sách xử lý đối với người dưới 18 tuổi

Trước đây, trong quá trình cân nhắc để xử lý người chưa thành niên phạm tội, nếu xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt thì Tòa án có thể áp dụng các biện pháp có tính chất giáo dục, áp dụng các biện pháp tư pháp; nay BLHS 2015 đã đổi quan điểm xử lý đối với người dưới 18 tuổi là trong quá trình cân nhắc xử lý trước tiên xem đối tượng này có thể áp dụng các biện pháp giáo dục cải tạo, các biện pháp tư pháp hay không, sau đó mới bàn đến việc áp dụng hình phạt.

Về phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của người đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, BLHS năm 2015 quy định đối tượng này chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 29 tội; đồng thời quy định rõ hơn trách nhiệm hình sự đối với người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi.

Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung 03 biện pháp có tính chất giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi khi họ thực hiện tội phạm mà cơ quan có thẩm quyền xét thấy không cần thiết phải áp dụng trách nhiệm hình sự: Khiển trách, hòa giải tại cộng đồng, giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

4. Thay thế tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng băng 9 tội danh mới.

5. Bổ sung 03 trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự: Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội; rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ; thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên.

6. Miễn trách nhiệm hình sự

Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự chia làm 02 loại:

Đương nhiên miễn trách nhiệm hình sự: Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ:

– Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội;

– Khi có quyết định đại xá.

Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 29 BLHS 2015.

Đáng chú ý, BLHS 2015 đã bổ sung thêm một căn cứ mới để có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người phạm tội đáp ứng đầy đủ các điều kiện tại khoản 3 Điều 29.

7. Bộ luật Hình sự năm 2015 vẫn duy trì chế định chuẩn bị phạm tội nhưng đã thu hẹp lại ở một số tội (Điều 14).

II. NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG PHẦN CÁC TỘI PHẠM CỤ THỂ

(Phần thuyết trình của ông Nguyễn Công Long, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật Văn phòng Quốc hội)

Phần các tội phạm cụ thể trong BLHS năm 2015 gồm 317 điều (313 tội danh), chia thành 13 chương, tăng hơn rất nhiều so với Phần này trong BLHS năm 1999. Cụ thể, tăng 40 tội danh (bổ sung 30 tội danh mới, 10 tội danh là do tách ra).

BLHS mới cũng đã bỏ 8 tội: Tội hoạt động phỉ, tội đăng ký kết hôn trái pháp luật, tội kinh doanh trí phép, tội vi phạm các quy định của Nhà nước về kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế…

Việc bỏ 8 tội danh trên xuát phát từ những căn cứ khác nhau: Có những tội thì phi hình sự hóa, bỏ hẳn, ví dụ tội sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng, tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế; còn các tội khác là có sự chuyển hóa.

– Trong Phần các tội phạm đã cụ thể hóa được các tình tiết mang tính chất định tính, như: Số lượng nhiều, số lượng lớn, số lượng rất lớn…; tuy nhiên vẫn còn khoảng 8 khung hình phạt có các tình tiết mang tính chất định tính, vì xuất phát từ đặc điểm của tội phạm đó, như một số tội về xâm phạm an ninh quốc gia, một số tội về tội phạm chiến tranh.

– Thu hẹp khoảng cách về khung hình phạt, khắc phục khung hình phạt quá rộng như trước đây, dễ dẫn đến việc lạm dụng khi áp dụng, khoảng cách từ mức hình phạt thấp nhất đến mức hình phạt cao nhất trong một khung là khoảng 5 – 6 năm.

– Tăng hình phạt tiền, giảm hình phạt tù theo định hướng cải cách tư pháp; trong 313 tội danh thì có đến 455 khung hình phạt quy định hình phạt tiền, Bộ luật Hình sự hiện hành chỉ có 201; mức phạt tiền cũng đã tăng: Cá nhân cao nhất là 5 tỷ; pháp nhân cao nhất là 20 tỷ.

Chương XIII: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia

Một số điểm mới đáng lưu ý: Bỏ tội hoạt động phỉ vẫn đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm; bổ sung tội cướp biển (Điều 302); sửa đổi cơ bản cấu thành của Điều 88 – Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam BLHS hiện hành.

Chương XIV: Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người

Chương này được sửa đổi để nội luật hóa các Công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên nhằm bảo vệ tốt hơn sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; đồng thời có những quy định tạo hành lang pháp lý để khuyến khích người dân tham gia phòng chống tội phạm.

Điều 126. Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội quy định trường đã mở rộng chủ thể không chỉ trong phòng vệ chính đáng mà còn trong khi bắt giữ tội phạm.

Điều 134 . Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã bổ sung các tình tiết như thế nào là đặc biệt nghiêm trọng, bổ sung tình tiết gây thương tích ở vùng mặt. Trong cấu thành cơ bản có bổ sung tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý gây thương tích.

Đối với tội hiếp dâm và tội cưỡng dâm, về hành vi khách quan thì không chỉ giao cấu mà còn gồm các hành vi khác.

Các tội mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi đã mô tả cụ thể các hành vi coi là mua bán người.

Chương này còn bổ sung tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người (Điều 154).

Chương XV: Các tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do, dân chủ của công dân

Điều 160. Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân đã bổ sung hành vi xâm phạm quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân.

Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân đã làm rõ được mức độ gây thiệt hại; trước đây chỉ quy định là gây thiệt hại nghiêm trọng nhưng trong BLHS 2015 đã cụ thể hóa tình tiết này, ví dụ như tổ chức lại bầu cử, tổ chức lại trưng cầu ý dân.

Điều 165. Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới; trước đây là xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ, nay quy định là Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới, nghĩa là trên yếu tố giới mà xử lý, tránh việc kỳ thị về giới.

Điều 167. Tội xâm phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, quyền biểu tình của công dân đã xử lý các hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác cản trở công dân thực hiện quyền tự do ngôn luận.

Chương XVI: Các tội xâm phạm sở hữu

Trong cách thức xử lý đối với các tội thuộc Chương này có sự điều chỉnh nhằm bảo đảm sự thống nhất chung trong hệ thống pháp luật.

Bỏ hình phạt tử hình trong tội cướp tài sản nhằm giảm bớt hình phạt tử hình; hơn nữa mục đích phạm tội là tài sản mà không phải là tính mạng con người.

Đối với tội trộm cắp và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trong thực tiễn xử lý có rất nhiều vấn đề đặt ra, nên lần này đã tập trung sửa đổi về mặt cấu thành tội phạm để giải quyết vướng mắc từ thực tiễn, như tình trạng trộm chó ở vùng nông thôn đang diễn ra phức tạp.

Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đã giải quyết được vướng mắc, hiện nay đã sửa căn bản, bổ sung tình tiết đến hạn trả tài sản nhưng cố tình không trả thì có thể xử lý được về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Chương XVIII: Tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế

Chương này chia làm 3 mục:

Một là Mục các tội phạm sản xuất kinh doanh, về đường lối xử lý là tăng mạnh hình phạt tiền (cá nhân lên 5 tỷ, pháp nhân lên 20 tỷ); tuy nhiên hình phạt tiền được áp dụng một cách có chọn lọc, phân hóa xử lý, ví dụ như các tội có tác động trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe con người thì sẽ không áp dụng hình phạt tiền mà sẽ áp dụng hình phạt tù ngay, ví dụ: Tội sản xuất hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh.

Hai là Mục các tội phạm thuế, tài chính ngân hàng, chứng khoán; đối với tội trốn thuế đã có quy định định nghĩa về hành vi trốn thuế.

Ba là Mục các tội xâm phạm trật tự quản lý khác có điểm đáng chú ý là BLHS 2015 đã thay thế Điều 165 – Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng BLHS hiện hành bằng 09 tội danh mới thuộc các lĩnh vực: Quản lý cạnh tranh, đầu tư công; quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp; đấu thầu, đấu giá tài sản; kế toán; quản lý thuế; xây dựng; bồi thường thu hồi đất.

Chương XX: Các tội phạm ma túy

Chương này đã có sự phân hóa, tách ra một số tội danh, giảm bớt án tử hình đối với một số tội. Ngoài ra, trong cấu thành một số tội đã sửa đổi căn bản để làm rõ các hành vi phạm tội, ví dụ như trồng cây thuốc phiện.

Chương XXI: Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng

Chương này đã bổ sung một số tội về lĩnh vực viễn thông và công nghệ thông tin.

Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềmđể sử dụng vào mục đích trái pháp luật nhằm xử lý đối với hành vi viết phần mềm để tấn công mạng.

Điều 291. Tội thu thập, mua bán, tàng trữ công khai trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng; Tội cung cấp trái phép trên mạng máy tính, mạng viễn thông; Tội sử dụng trái phép tần số…

Chương này đã bổ sung tội cướp biển trong bối cảnh Việt Nam đã tham gia Công ước về Luật biển năm 1982.

Đối với các tội xâm phạm trật tự công cộng khác, BLHS 2015 đã sửa đổi tội đánh bạc, tội tổ chức đánh bạc theo hướng nâng định mức tiền dùng đánh bạc lên.

Chương XXIII: Các tội phạm về chức vụ

Chương này bao gồm 15 điều có một số sửa đổi, bổ sung: Sửa đổi các khái niệm, nâng mức tài sản chiếm đoạt, điều chỉnh mức hình phạt.

Để phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong Công ước của Liên Hợp quốc về chống tham nhũng, BLHS 2015 có sửa đổi khái niệm về tội phạm chức vụ, không chỉ xử lý đối với cán bộ, công chức mà cả các đối tượng khác nữa.

Chương XXIV: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp

Tất cả các điều trong Chương này đều sửa và bổ sung thêm hai điều mới, trong đó khái niệm hoạt động tư pháp đã được sửa; các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm sự đúng đắn của hoạt động tố tụng và thi hành án. Nhưvậy có thể thấy tính chất tác động đến các hoạt động tư pháp đã khác, không cần tác động trực tiếp đến một hoạt động cụ thể. Hoạt động tư pháp gồm hoạt động tố tụng và hoạt động thi hành án.

Tội dùng nhục hình (Điều 373) có định nghĩa lại về mặt cấu thành cũng như xác định chủ thể tội phạm, người nào trong quá trình hoạt động tố tụng, thi hành án hoặc thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mà dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm người khác dưới bất kỳ hình thức nào. Như vậy, chủ thể đã được mở rộng, không chỉ trong tố tụng mà còn trong thi hành án hoặc trong cơ sở giáo dưỡng, trường cai nghiện. Nhục hình không chỉ là hành vi tra tấn mà còn là hành vi đối xử vô nhân đạo, hạ nhục nhân phẩm. Trong điều luật còn bổ sung các tình tiết tăng nặng cụ thể.

Tội bức cung sửa đổi theo hướng mở rộng các chủ thể phạm tội, trước đây tội bức cung chỉ trong tố tụng hình sự, còn BLHS năm 2015 đã mở rộng cả trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính.

Chương này bổ sung 02 tội danh: Vi phạm các quy định về giam giữ; gây rối trật tự tại phiên tòa.

Chương XXV:Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu có điểm mới chú ý là đã bỏ tất cả hình phạt tử hình.

Văn Công(lược ghi)

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Mối quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự

23/01/2013

Với vị trí, chức năng rất quan trọng trong bộ máy Nhà nước ta, Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân có trách nhiệm phối hợp với nhau để giải quyết vụ án hình sự đúng đắn, khách quan theo luật định nhằm bảo vệ chế độ Nhà nước, bảo vệ nhân dân và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhận thức rõ tầm quan trọng của mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Toà án trong việc phòng ngừa và chống tội phạm, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã nhấn mạnh: “Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong hoạt động tố tụng trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, không hữu khuynh hoặc đùn đẩy trách nhiệm. Các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử cần thực hiện đúng thời hạn tố tụng như luật định”(1).

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 đều quy định trách nhiệm phối hợp giữa Toà án và Viện kiểm sát, với các cơ quan, tổ chức khác của Nhà nước trong hệ thống chính trị nhằm phòng ngừa và chống tội phạm có hiệu quả, xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm và vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp(2). Các cơ quan tiến hành tố tụng không những có trách nhiệm phối hợp với nhau mà còn phải phối hợp với các cơ quan nhà nước khác bằng những nội dung cụ thể, thiết thực được quy định tại Điều 26 và Điều 27 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003(3). Quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng hình sự còn có mục đích chung là tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, kiến nghị hoặc yêu cầu các cơ quan hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và phòng ngừa tội phạm. Mối quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự biểu hiện trên hai bình diện sau đây:

1. Mối quan hệ phối hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự

Các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung đều có chung nhiệm vụ là đấu tranh, phòng chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội và cùng có trách nhiệm là mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, tôn trọng quyền và lợi ích của công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Chính từ mục đích chung đó đã hình thành nên mối quan hệ phối hợp trong tố tụng hình sự giữa Viện kiểm sát và Toà án như là một vấn đề tất yếu. Mối quan hệ phối hợp đó cơ bản là quan hệ giữa chức năng xét xử và chức năng buộc tội. Bản thân hai chức năng này có quan hệ biện chứng, hữu cơ với nhau. Không thể xét xử nếu không có sự buộc tội, hay nói cách khác, ở đâu có buộc tội, thì ở đó phát sinh hoạt động xét xử và bào chữa. Nếu Viện kiểm sát làm tốt chức năng buộc tội thì hỗ trợ đắc lực cho chức năng xét xử và ngược lại thì tác dụng không tốt. Ngay từ khi thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ nhằm xác định tội trạng và khung hình phạt truy tố, cũng như thủ tục tố tụng được tiến hành chặt chẽ đặt nền móng cho Toà án thực hiện hiệu quả hoạt động tố tụng. Tại phiên toà, nếu kiểm sát viên làm tốt vai trò công tố nhà nước thì tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xét xử. Ngược lại Toà án thực hiện chức năng xét xử đúng đắn tạo điều kiện thuận lợi cho Viện kiểm sát thực hành quyền công tố nhà nước và kiểm sát hoạt động tư pháp.

Cơ sở của sự phối hợp là chỉ khi xảy ra việc giải quyết vụ án hình sự và dựa trên các nguyên tắc cơ bản Bộ luật Tố tụng hình sự đã định, trong đó là nguyên tắc xác định sự thật vụ án và nguyên tắc phối hợp giữa các cơ quan tố tụng hình sự với các cơ quan, tổ chức nhà nước. Bên cạnh đó quan hệ phối hợp giữa Toà án và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự còn xuất phát từ yêu cầu phải thực hiện đúng đắn thẩm quyền của người tiến hành tố tụng; việc thực hiện các quy định của pháp luật do có sự bất cập, chưa hoàn thiện, do đó đòi hỏi có sự phối hợp hoạt động để đạt hiệu quả trong hoạt động tố tụng và áp dụng thống nhất căn cứpháp luật, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm.

Trong những năm qua mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Toà án trong tố tụng hình sự được thực hiện trên cơ sở các thông tư liên ngành và các quy chế phối hợp về các vấn đề, như: Những trường hợp cần họp trù bị giữa Tòa án và Viện kiểm sát quy định tại Thông tư liên tịch số 01 ngày 8/12/1988 của Toà án nhân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao; nhằm giải quyết án trọng điểm, phức tạp theo Thông tư liên ngành số 01/TTLN-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 15/10/1994; về việc thông báo, gửi, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến người phạm tội tại Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC; về quan hệ phối hợp trong một số hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự quy định tại Thông tư số 01/2008/TTLT-VKSNDTC- TANDTC-BQP- BCA v.v… Về quy chế phối hợp được quy định trong Quy chế số 01/2006/QCPH giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, Bộ Công an… phối hợp trong công tác phòng, chống tham nhũng. Trên cơ sở các văn bản pháp luật liên ngành tư pháp trung ương xác định về các nội dung phối hợp giải quyết những vấn đề trong vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương xây dựng kế hoạch liên ngành phối hợp giải quyết những vấn đề cụ thể về tư pháp hình sự(4); định kỳ họp liên ngành Công an, Viện kiểm sát, Tòa án cấp tỉnh và huyện thống nhất giải quyết những vấn đề vướng mắc trong hoạt động tố tụng hình sự(5). Những năm gần đây, việc họp liên ngành của các cơ quan tố tụng hình sự chỉ tập trung bàn thống nhất tháo gỡ vướng mắc bất cập trong hoạt động của mình, phối hợp giải quyết án điểm, tổ chức phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp, không còn thống nhất định tội danh và bàn bạc những nội dung trong vụ án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung như trước đây. Do nhận thức về tính độc lập trong hoạt động tố tụng của thẩm phán và kiểm sát viên ngày càng cao nhằm tránh tình trạng “án bỏ túi” bị dư luận lên án.

2. Mối quan hệ chế ước giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, “Chế ước là hạn chế, quy định trong những điều kiện nhất định”(6). Cùng với quan điểm này tác giả Đỗ Ngọc Quang cho rằng: “Khái niệm chế ước có thể được hiểu như là sự tác động qua lại giữa các bên theo hướng khống chế lẫn nhau, kiềm chế sự vận động của nhau”(7). Các quan điểm này cho thấy, chế ước là sự tác động qua lại và kiềm chế lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong những điều kiện nhất định; trong hoạt động tố tụng hình sự là sự tác động qua lại giữa các chủ thể tham gia nhằm kiểm soát lẫn nhau việc tuân thủ pháp luật, tránh việc lạm quyền. Pháp luật nước ta xác lập quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát không những là quan hệ phối hợp mà còn là chế ước. Sự tác động qua lại của hai chủ thể này trong những điều kiện nhất định giúp cho việc thực thi công vụ đúng đắn, tránh lạm quyền. Nói cụ thể ra là đảm bảo cho hoạt động tố tụng hình sự tránh sai sót, vi phạm pháp luật dẫn đến việc xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, nhà nước và xã hội.

Quan hệ chế ước giữa các chủ thể đó thể hiện ở chỗ: Khi Viện kiểm sát là cơ quan có độc quyền truy tố một người ra toà nhưng việc kết tội lại thuộc về Toà án. Tại phiên toà xét xử nhân danh nhà nước thực hành quyền công tố, nhưng kiểm sát viên chỉ đưa ra ý kiến đề xuất quan điểm giải quyết vụ án còn quyết định về tội trạng, mức hình phạtvẫn là hội đồng xét xử. Nhưng mọi hoạt động xét xử của Toà án phải đảm bảo đúng yêu cầu là có truy tố về hành vi về con người thì mới được xét xử. Toà án không thể tuỳ tiện làm trái thủ tục tố tụng, do đó pháp luật quy định Viện kiểm sát ngoài chức năng công tố còn có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, đó là giám sát việc tuân thủ của hội đồng xét xử tại phiên toà, cũng như giám sát hoạt động tố tụng của người có thẩm quyền. Trong trường hợp vi phạm thủ tục tố tụng tại phiên toà thì kiểm sát viên có quyền ý kiến trực tiếp, ví dụ: Hội đồng xét xử không hỏi người tham gia tố tụng có ý kiến về việc có yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng thì kiểm sát viên đề nghị hội đồng xét xử hỏi. Mặt khác sau khi xét xử Viện kiểm sát có quyền ban hành kiến nghị yêu cầu Toà án khắc phục vi phạm pháp luật trong hoạt động xét xử hoặc ban hành kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm để giải quyết lại vụ án khi có căn cứ luật định. Như vậy có thể thấy, dù Toà án có quyền độc lập trong việc phán quyết, tuy nhiên nếu trái pháp luật thì Viện kiểm sát có quyền kiến nghị, kháng nghị để đảm bảo cho việc chấp hành pháp luật của Toà án. Pháp luật nước ta còn quy định, nếu kiến nghị của Viện kiểm sát không được Toà án tiếp thu, thì Viện kiểm sát có quyền kiến nghị Toà án cấp trên và báo cáo Viện kiểm sát cấp trên để kiến nghị được đảm bảo thực hiện. Qua hoạt động giám sát của Viện kiểm sát còn giúp cho Toà án tránh được những sai sót, vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế.

Về quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 cho phép Toà án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung – ở đây cũng thể hiện quan hệ chế ước lẫn nhau giữa Toà án và Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng hình sự. Vì Viện kiểm sát phải có trách nhiệm điều tra bổ sung và để tránh tình trạng sai sót trong quá trình điều tra đòi hỏi Viện kiểm sát phải làm tốt chức năng kiểm sát điều tra. Bên cạnh đó, Viện kiểm sát có quyền giữ nguyên quan điểm truy tố nếu Viện kiểm sát không chấp nhận yêu cầu điều tra bổ sung của Toà án và theo nguyên tắc xét xử và giới hạn của việc xét xử thì Toà án vẫn đưa vụ án ra xét xử. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định giới hạn việc xét xử và số lần trả hồ sơ của Toà án tối đa là 2 lần đã thể hiện sự chế ước của Viện kiểm sát đối với Toà án. Điều này xuất phát từ nguyên tắc suy đoán vô tội, có lợi cho người bị buộc tội và đúng với lý luận khoa học về chức năng công tố. Dù thể hiện quan hệ chế ước giữa Viện kiểm sát và Toà án, nhưng quan hệ đó phải trên cơ sở đảm bảo thực hiện đúng chức năng tố tụng của mỗi ngành, phải phù hợp và hỗ trợ đắc lực cho nguyên tắc tranh tụng theo tiến trình cải cách tư pháp hiện nay.

Về bản chất của mối quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát là phối hợp, chế ước nhưng không làm mất đi tính độc lập trong thực thi chức năng mỗi ngành và phối hợp nhưng không bao biện lẫn nhau. Chúng tôi tán thành nhận định rằng: “Ở giai đoạn xét xử, tuy Toà án (hoặc hội đồng xét xử) là cơ quan giữ vai trò chỉ đạo việc xét xử, là cơ quan quyết định quá trình xét xử, nhưng Viện kiểm sát và Toà án lại hoàn toàn độc lập với nhau. Mỗi cơ quan tự chịu trách nhiệm về công việc của mình. Toà án không làm thay hay can thiệp vào công việc của Viện kiểm sát (kiểm sát viên) và ngược lại, Viện kiểm sát cũng không can thiệp vào công việc xét xử của Toà án, mặc dù Viện kiểm sát có quyền và trách nhiệm kiểm sát hoạt động xét xử của Toà án” (8).

Trong quan hệ phối hợp cơ bản là để giải quyết những vướng mắc, bất cập trong hoạt động tố tụng hình sự. Trong quan hệ chế ước, cơ bản là nhằm tránh lạm quyền trong thực hiện chức năng tiến hành tố tụng đối với Toà án và Viện kiểm sát. Trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay, thì mối quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát cần được xây dựng theo hướng phối hợp, chế ước nhưng phải đảm bảo tính độc lập của người tiến hành và trên cơ sở đảm bảo thực hiện đúng chức năng xét xử của Toà án và tăng cường yếu tố tranh tụng.

ThS. Nguyễn Ngọc Kiện

(1) Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”.

(2) Điều 7 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dânnăm 2002; Điều 14, Điều 15 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002.

(3) Xem các nội dung phối hợp cụ thể tại Điều 26, Điều 27 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

(4) Ví dụ: Kế hoạch số 01/KHLN-CA-VKSND-TANDngày 12/7/2010 của tỉnh Bình Dương về việc phối hợp tổ chức đợt tổng kiểm kê người có án phạt tù còn ở ngoài xã hội và người đang chấp hành hình phạt ở cấp xã.

(5) Ví dụ: Thông báo số 149/2009/TBLN-CAT-VKS-TA ngày 5/6/2009 về kết quả cuộc họp liên ngành Công an, Kiểm sát và Toà án tỉnh Bình Dương về việc thống nhất hướng dẫn giải quyết những vấn đề vướng mắc trong hoạt động tố tụng hình sự.

(6) Trung tâm biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội, tr. 150.

(7) Đỗ Ngọc Quang (1997), Mối quan hệ giữa cơ quan điều tra với các cơ quan tham gia tố tụng hình sự, Nxb. chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 99.

(8) Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Sổ tay Kiểm sát viên hình sự (tập I), Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà Nội, tr. 46.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Trả lời mang tính chất tham khảo

1.Khái niệm thế chấp tài sản

Thế chấp tài sản là sự thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật, theo đó bên có nghĩa vụ dùng tài sản của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nhưng không chuyển giao tài sản cho bên có quyền. bên có nghĩa vụ gọi là bên thế chấp bên có quyền gọi là bên nhận thế chấp

2.  Đặc điểm của biện pháp thế chấp

  • Không có sự chuyển giao tài sản

Khác với biện pháp cầm cố tài sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự là tài sản được chuyển giao cho người nhận cầm cố, ở thế chấp tài sản, bên thế chấp không chuyển giao tài sản cho bên nhận thế chấp mà chỉ chuyển giao những giấy tờ chứng minh quyền sở hữu cho bên nhận cầm cố

  • Một tài sản bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ chỉ có thể là tài sản thế chấp

Nếu muốn một tài sản bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ khác nhau thì bên bảo đảm chỉ có thể lựa chọn biện pháp thế chấp tài sản vì bên nhận thế chấp không trực tiếp giữ tài sản bảo đảm quyền lợi của tất cả các chủ nợ được bảo đảm bằng giá trị tài sản đó

3.  Ý nghĩa của biện pháp thế chấp

Với người thế chấp biện pháp bảo đảm thế chấp mang nhiều thuận lợi. một mặt người thế chấp vẫn nắm quyền chiếm hữu tài sản bảo đảm có thể khai thác công dụng cho thuê cho mượn tài sản hoặc dùng tài sản đó để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác. Mặt khác nhận được một khoản vay của người nhận thế chấp.

 Đối với người nhận thế chấp: người nhận thế chấp không phải quản lí tài sản thế chấp, được ưu tiên thanh toán tiền từ tiền bán tài sản thế chấp trên cơ sở trật tự đăng kí thế chấp. ngoài ra với việc đăng kí thế chấp, người nhận thế chấp sẽ được biết bất động sản của người thế chấp đã được thế chấp lần nào chưa, có những người có quyền nào khác của người thế chấp

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Trả lời mang tính chất tham khảo:

Luật doanh nghiệp năm 2014 vừa tiếp tục kế thừa những quy định còn phù hợp đã và đang đi vào cuộc sống của Luật doanh nghiệp năm 2005 nhưng đồng thời đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới nhằm tháo gỡ những hạn chế, bất cập của Luật cũ, tiếp tục tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, phù hợp với thông lệ quốc tế.

Theo đó, Luật Doanh nghiệp năm 2014 có một số đổi mới cơ bản, cụ thể như sau:

Một là, tư duy mở khi luật chỉ quy định những vấn đề chung nhất, mang tính định hướng, về thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của doanh nghiệp, về chi tiết thì nhường lại cho doanh nghiệp tự do, tự nguyện, cam kết, thoả thuận theo các quy định của Pháp luật. 
Ví dụ như: Cho phép công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật; cho phép công ty cổ phần có thể chọn một trong hai mô hình tổ chức, quản lý; Cho phép lựa chọn cách bầu dồn phiếu hay không bầu dồn phiếu khi bầu thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát công ty cổ phần .v.v.

Luật mới bỏ chương quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, thay bằng một vài điều khoản tại chương tổ chức thực hiện cũng theo tư duy như vậy, nghĩa là các cơ quan nhà nước quản lý doanh nghiệp theo chức năng, nhiệm vụ quyền hạn đã được pháp luật chuyên ngành quy định, do đó không phải và không cần ghi điều đó vào Luật Doanh nghiệp

Hai là, đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin như việc luật hóa Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp hay bằng việc quy định cuộc họp được ghi biên bản và có thể ghi âm hoặc ghi và lưu giữ dưới hình thức điện tử khác đã có bước tiến bộ vượt bậc so với quy định cũ là chỉ ghi vào sổ biên bản.

Luật cũng thống nhất cách hiểu về nhiều điểm mà từ trước tới nay gây nhiều tranh cãi như việc chốt lại địa điểm họp được xác định là nơi chủ tọa tham dự họp, mọi người không nhất thiết phải cùng ngồi họp một chỗ.

Ba là, luật hóa việc dùng mã số thuế làm mã số doanh nghiệp, chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân thành công ty TNHH, tăng cường việc bảo vệ cổ đông nhỏ (cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 1% số cổ phần phổ thông liên tục trong thời hạn 06 tháng có quyền tự mình hoặc nhân danh công ty khởi kiện…).  

Bãi bỏ nhiều điều khoản đã được chứng minh là hiệu quả thực thi rất thấp, như việc đăng ký danh sách cổ đông nắm giữ 5% vốn điều lệ công ty cổ phần, hoặc bãi bỏ việc gây cản trở cho hoạt động của Doanh nghiệp như cấm một người đã làm Giám đốc (Tổng Giám đốc) công ty cổ phần không được làm Giám đốc (Tổng Giám đốc) Công ty khác.

Bốn là, Giấy Chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (CNĐKDN) chỉ còn 4 nội dung so với 10 nội dung trước đây (bỏ mục ngành nghề kinh doanh, danh sách cổ đông sáng lập, Chi nhánh, Văn phòng dại diện, Địa điểm kinh doanh .v.v.)

Trong đó, điểm được nhận được sự quan tâm đặc biệt là bỏ ghi ngành nghề kinh doanh trong Giấy CNĐKDN; bỏ việc xác định vốn pháp định, chứng chỉ hành nghề .v.v. Điều này đã hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh tất cả ngành nghề mà pháp luật không cấm theo quy định tại Hiến pháp, làm cho doanh nghiệp trở thành công cụ kinh doanh thực sự an toàn, đa công năng và rẻ hơn .v.v.

Năm là, cách tiếp cận mới hoàn toàn về con dấu doanh nghiệp, mang tính “cách mạng”. Doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức, số lượng và nội dung con dấu của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Thay vì phải đăng ký với cơ quan Công an như hiện nay, Doanh nghiệp chỉ cần thông báo mẫu dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Có lẽ đây là một trong những điểm gây nhiều bàn cãi nhất ngay từ khâu soạn thảo và cả khi thông qua, tuy vậy việc này chắc chắn sẽ giải quyết được rất nhiều vướng mắc, bất cập hiện nay về con dấu doanh nghiệp.

Sáu là, cùng với Luật Đầu tư 2014, Luật mới đã chính thức bãi bỏ nội dung Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư có thể đồng thời là Giấy CNĐKDN. Qua đó, các nhà đầu tư nước ngoài muốn thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam đều phải được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư sau đó sẽ thành lập doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp.

Bảy là, quy định các nguyên tắc để xác định, đăng ký vốn thực của công ty, giải quyết tình trạng vốn không có thực (ảo) nhưng không thể xử lý được như hiện nay. Trong đó điểm mới nhất là cho phép Công ty TNHH một thành viên được giảm vốn điều lệ.

Tám là, chính thức thay đổi theo đúng thông lệ quốc tế khi giảm tỷ lệ dự họp từ 65% (Luật cũ) xuống còn 51%. Khi có số cổ đông dự họp đại diện ít nhất 51% tổng số phiếu biểu quyết là cuộc họp Đại hội đồng cổ đông được tiến hành. Đồng thời, Luật quy định về thành viên hội đồng quản trị độc lập, không tham gia điều hành trực tiếp doanh nghiệp; Bãi bỏ việc Đại hội đồng cổ đông bầu trực tiếp Chủ tịch hội đồng quản trị.

Chín là, không yêu cầu các công ty cùng loại mới được hợp nhất, sáp nhập, chia, tách đồng thời quy định rõ ràng về quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm cũng như trình tự thủ tục, hồ sơ .v.v. Đổi mới hết sức quan trọng này chắc chắn sẽ góp phần thúc đẩy thị trường mua bán doanh nghiệp (M&A) đang hết sức sôi động như hiện nay.

Mười là, chỉ quy định 5 trường hợp bị thu hồi Giấy CNĐKDN so với 8 trường hợp của Luật cũ. Đồng thời Luật mới cũng có các quy định nhằm giúp doanh nghiệp rút khỏi thị trường thuận lợi hơn, nhanh hơn và rẻ hơn.

Văn bản tham khảo:

Luật doanh nghiệp năm 2014

Luật doanh nghiệp năm 2005

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bồi thường thiệt hại trong các vụ án hình sự liên quan đến giao dịch dân sự vô hiệu

23/01/2013

Chương VI phần thứ nhất của Bộ luật Dân sự quy định về giao dịch dân sự. Theo đó tại Điều 121 quy định: Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.

Điều 122. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự

a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự.

b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.

Như vậy, để một giao dịch dân sự không bị coi là vô hiệu thì giao dịch đó phải thoả mãn các điều kiện quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự. Còn nếu giao dịch dân sự không thoả mãn các điều kiện trên thì giao dịch đó được coi là giao dịch dân sự vô hiệu.

Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại Điều 137 Bộ luật Dân sự như sau:

Giao dịch dân sự không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.

Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.

Hiện nay khi giải quyết các vụ án hình sự có bồi thường thiệt hại phát sinh từ giao dịch dân sự được coi là vô hiệu còn nhiều quan điểm khác nhau chưa thống nhất. Vì vậy, trong phạm vi bài viết này, xin trao đổi một số cơ sở lý luận và thực tiễn xác định việc bồi thường thiệt hại có liên quan đến giao dịch dân sự được coi là vô hiệu theo quy định của Bộ luật Dân sự. Để tiện theo dõi chúng tôi xin nêu ra một số ví dụ cụ thể sau:

Ví dụ 1: Trần Thị N biết ông Phạm Văn K bị hai cấp Toà án kết án 24 tháng tù giam, đang được tại ngoại chờ đến ngày đi thụ hình, qua chuyện trò ông K giãi bày tâm tư của mình với N là muốn được chấp hành án tại trại giam của tỉnh cho gần nhà, đồng thời mong muốn được giảm thời gian chấp hành án xuống còn một năm. Thấy vậy, N nói dối với ông K rằng mình có quen biết một số người có quyền hạn chức vụ cao trong một cơ quan bảo vệ pháp luật của tỉnh và N có khả năng lo được theo đúng nguyện vọng của K. Thấy ông K hoàn toàn tin tưởng nên N nói ông K đưa trước cho N 02 triệu đồng để đi “đặt vấn đề”, khi nhận tiền N nói với ông K nếu mất 02 triệu đồng này thì chuyện của anh coi như xong. Nhận được tiền N tiêu xài hết, ba ngày sau N lại gặp ông K và yêu cầu ông K đưa tiếp 50 triệu đồng để N quyết định công việc. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, con ông K phải đi vay số tiền trên với lãi suất 20% tháng rồi thay mặt bố mang đến giao cho N, N còn cẩn thận viết hợp đồng có cả người chứng kiến với nội dung lo “chạy án” cho ông K để con ông K yên tâm giao tiền. Sau khi nhận tiền N dùng toàn bộ số tiền trên vào mục đích cá nhân. Hành vi phạm tội của N bị phát hiện và N bị truy tố, xét xử về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Sau khi biết mình bị lừa, ông K làm đơn tố cáo hành vi của N và yêu cầu N phải bồi thường số tiền gốc 52 triệu và cả số tiền lãi mà con ông phải đi vay để đưa cho N.

Ví dụ 2: Lợi dụng nhu cầu của nhiều người muốn giải quyết công ăn việc làm cho con em trong gia đình, từ năm 2003 đến năm 2009 Nguyễn Thị H đã dùng nhiều mánh khoé gian dối nói với những người có nhu cầu đi lao động ở nước ngoài rằng H có khả năng xin cho con em họ đi lao động ở Hàn Quốc và Nhật Bản với chi phí thấp mà lại chắc chắn. Nhiều người tin tưởng nên đã tìm đến H để đăng ký xin cho con em mình đi lao động. H nêu ra số tiền phải nộp của mỗi người đi Hàn Quốc và Nhật Bản, ấn định thời gian thực hiện công việc, thành lập công ty “ma”, mở lớp hướng dẫn thủ tục làm hồ sơ…(thực chất việc làm của H với những người kia chỉ là thủ đoạn để H chiếm đoạt số tiền của họ). Khi thu tiền H có làm giao kết việc giao tiền, trong đó có nội dung: Hai bên giao nhận tiền cho nhau, cam kết trường hợp vì lý do cá nhân mà bay chậm hoặc không bay được so với thời gian đã cam kết thì H sẽ trả lại tiền tính cả gốc và lãi theo quy định của Ngân hàng Công thương Việt Nam.

Hậu quả là những người nộp tiền cho H đều không có ai đi được lao động ở nước ngoài. Số tiền chiếm đoạt được của những người kia H dùng vào mục đích chi dùng cho cá nhân. Hành vi phạm tội của H đã bị truy tố, xét xử về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Hiện nay có nhiều loại ý kiến về việc bồi thường số tiền gốc và tiền lãi trong các vụ án trên:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Cả hai vụ án trên đều phải buộc bị cáo bồi thường cả số tiền gốc và tiền lãi cho người bị hại với lý do giao dịch dân sự giữa hai bên là tự nguyện nên cho dù giao dịch đó là vô hiệu hay không vô hiệu, hành vi của họ là đúng hay sai thì nếu một trong hai bên không thực hiện được nghĩa vụ theo thoả thuận thì sẽ phải bồi thường cho bên bị thiệt hại tất cả những gì mà họ đã gây ra.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Cả hai vụ án trên chỉ có căn cứ buộc bị cáo bồi thường cho người bị hại số tiền gốc mà không xem xét số tiền lãi, bởi vì giao dịch dân sự giữa các bên trong vụ án trên đều là giao dịch dân sự vô hiệu. Cụ thể là trong vụ án thứ nhất giao dịch giữa N và K là giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật (Điều 128 Bộ luật Dân sự); còn trong vụ án thứ hai giao dịch dân sự giữa H và những người bị hại đã vi phạm Điều 132 Bộ luật Dân sự giao dịch dân sự do bị lừa dối. Cách giải quyết này cũng phù hợp với kết luận của Chánh án Toà án nhân dân tối cao tại Hội nghị tổng kết công tác Ngành Toà án năm 1991 đó là: Đối với các tranh chấp về nợ hụi nếu phát hiện có yếu tố chiếm đoạt hoặc giật hụi… thì chuyển sang Viện kiểm sát truy tố về tội lừa đảo hoặc tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Khi xử lý các tranh chấp này, Toà án chỉ giải quyết cho trả lại phần vốn (thanh toán nợ gốc) không được tính lãi suất còn vốn thì được thanh toán theo cách có tính trượt giá theo hướng dẫn tại Thông tư liên ngành 01/TTLN ngày 10/1/1992 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính.

Quan điểm thứ ba và cũng là quan điểm của chúng tôi cho rằng:

Trong những trường hợp trên nó hoàn toàn khác với trường hợp giao kết hợp đồng dân sự thông thường khác. Bởi vì, đây là trường hợp giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự, phần bồi thường thiệt hại này nó có liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội hay nói cách khác nghĩa vụ dân sự trong trường hợp này là do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra; khi này giao dịch dân sự bị vi phạm kia nó là căn cứ pháp lý để cơ quan tiến hành điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người phạm tội và xác định nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của người phạm tội với người bị hại. Do vậy, để xác định việc bồi thường trong hai vụ án này, trước hết chúng ta phải xác định hành vi của các bên khi giao kết hợp đồng. Trong hai ví dụ trên hành vi của N và H đều là hành vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản của người bị hại. Cho nên, tất cả những thiệt hại mà N và H gây ra thì họ phải có nghĩa vụ bồi thường cho người bị hại. Tuy nhiên, ở vụ án thứ nhất hành vi giao kết hợp đồng dân sự giữa N và ông K đây là một giao dịch dân sự vi phạm pháp luật, vi phạm điều cấm là sai mà cả ông K và N đều nhận thức được. Cho nên, tuy ông K là người bị hại trong vụ án nhưng ông cũng có một phần lỗi (biết sai vẫn làm). Còn ở vụ án thứ hai thì hoàn toàn khác. Tuy hành vi của H cũng là hành vi lừa đảo, cụ thể là bằng nhiều thủ đoạn H đã chiếm đoạt được tiền của những người bị hại và người bị hại thì hoàn toàn không biết là mình bị lừa dối và luật cũng không buộc người bị hại trong trường này phải biết hành vi của H là hành vi lừa đảo. Do vậy, trong hai vụ án trên tuy hành vi của N và H đều bị truy tố, xét xử về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng việc bồi thường thiệt hại trong hai trường hợp này đặt ra lại hoàn toàn khác nhau:

Nếu theo như quy định của Bộ lụât Dân sự về giao dịch dân sự thì trong hai trường hợp trên đều là giao dịch dân sự vô hiệu hiểu theo như quan điểm thứ hai, mà nếu đã coi là giao dịch dân sự vô hiệu thì hậu quả pháp lý của các bên sẽ phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 137 Bộ luật Dân sự tức là khi giao dịch dân sự vô hiệu thì không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.

Trở lại hai vụ án trên, ở vụ án thứ nhất theo chúng tôi do việc giao dịch dân sự giữa các bên vi phạm điều cấm nên đây là một giao dịch dân sự vô hiệu hoàn toàn. Cho nên, hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự trong trường hợp này sẽ được giải quyết theo quy định tại Điều 137 Bộ luật Dân sự, tức là trong phần bồi thường thiệt hại bị cáo chỉ phải bồi thường cho người bị hại số tiền gốc mà người bị hại đã đưa cho bị cáo (52 triệu đồng).

Còn ở vụ án thứ hai thì trong trường hợp này H phải bồi thường cho người bị hại cả tiền gốc và số tiền lãi theo như giao kết trong hợp đồng giữa hai bên, hợp đồng giao dịch dân sự trong trường hợp này được gọi là giao dịch dân sự vô hiệu một phần (tùng phần) theo quy định tại Điều 135 Bộ luật Dân sự. Bởi vì, khi giao kết hợp đồng người bị hại không biết và không buộc phải biết mình bị lừa dối tức là họ hoàn toàn không có lỗi trong việc gây ra thiệt hại. Mặt khác, theo quy định về giao kết hợp đồng dân sự thì các bên có quyền tự nguyện, cam kết thoả thuận giao kết hợp đồng, cho nên khi các giao kết hợp đồng hợp pháp mà pháp luật không cấm thì bên nào gây ra thiệt hại bên đó phải có nghĩa vụ bồi thường. Tuy nhiên, việc thoả thuận giữa người được bồi thường và người phải bồi thường họ có quyền tự nguyện thoả thuận với nhau, miễn không trái đạo đức, không trái pháp luật và không vi phạm điều cấm thì sẽ được Toà án chấp nhận. Còn nếu không thoả thuận được thì Toà án sẽ buộc người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị thiệt hại.

Còn cách hiểu như quan điểm thứ hai cho rằng, kết luận của Chánh án Toà án nhân dân tối cao tại Hội nghị tổng kết công tác Ngành Toà án nhân dân năm 1991 hướng dẫn việc giải quyết tranh chấp nợ hụi được coi như vay nợ và được giải quyết như các việc kiện đòi nợ và khi xử lý các tranh chấp này Toà án chỉ giải quyết cho trả lại phần vốn (thanh toán nợ gốc) không được tính lãi suất còn vốn thì được thanh toán theo cách có tính trượt giá theo hướng dẫn tại Thông tư liên ngành 01/TTLN ngày 10/1/1992 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính. Do vậy, trong mọi trường hợp giải quyết tranh chấp về nợ hụi thông thường và giải quyết bồi thường thiệt hại trong các vụ án hình sự khi có liên quan đến lãi suất đều không tính lãi suất. Theo chúng tôi, hiểu như vậy là không đúng với tinh thần mà kết luận năm 1991 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn. Kết luận năm 1991 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn: “Đối với các tranh chấp về nợ hụi, nếu phát hiện có yếu tố chiếm đoạt, giật hụi… thì chuyển sang Viện kiểm sát nhân dân truy tố về tội lừa đảo hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân”. Như vậy, theo chúng tôi, nếu như hành vi của người nợ hụi có yếu tố chiếm đoạt, giật hụi và đã chuyển sang để truy tố, xét xử thì sẽ không còn là việc giải quyết tranh chấp nợ hụi thông thường nữa mà đã là việc giải quyết bồi thường thiệt hại về dân sự trong vụ án hình sự. Do vậy, tất cả những thiệt hại mà người gây thiệt hại gây ra họ phải có nghĩa vụ bồi thường lại toàn bộ cho người bị thiệt hại. Cho nên, hướng dẫn trong kết luận của Chánh án Toà án nhân dân tối cao năm 1991 là hoàn toàn phù hợp và khẳng định lại một lần nữa quan điểm trong mọi trường hợp giải quyết tranh chấp về nợ hụi thông thường và giải quyết bồi thường thiệt hại trong các vụ án hình sự khi có liên quan đến bồi thường thiệt hại có lãi suất đều không tính lãi suất là không hợp lý không đúng với hướng dẫn của kết luận này.

Vũ Thành Long

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

(Kiểm sát) – Cùng với việc kế thừa quy định về 3 biện pháp cưỡng chế đã có, gồm: áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản, BLTTHS năm 2015 bổ sung biện pháp cưỡng chế mới “phong tỏa tài khoản” nhằm mục đích đảm bảo hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Khác với các biện pháp ngăn chặn chỉ áp dụng với cá nhân thì biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản có thể áp dụng với bị can, bị cáo là pháp nhân thương mại để đồng bộ với Bộ luật hình sự 2015.

 

 

– Phong tỏa tài khoản có thể áp dụng đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, về tội mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tiền, tịch thu tài sản hoặc có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại và khi những người này có tài khoản tại tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc Nhà nước.

Ngoài ra, có thể áp dụng phong tỏa tài khoản của người khác nếu có căn cứ cho rằng số tiền trong tài khoản của người đó có liên quan đến hành vi phạm tội của người bị buộc tội

– Chỉ phong tỏa số tiền tương ứng với mức có thể bị tịch thu tài sản, phạt tiền hoặc bồi thường thiệt hại.

– Tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc nhà nước có nghĩa vụ thực hiện ngay việc phong tỏa khi nhận được lệnh phong tỏa tài khoản. Người được giao thực hiện lệnh phong tỏa, quản lý tài khoản bị phong tỏa nếu giải tỏa tài khoản thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.

Cũng như biện pháp kê biên tài sản, biện pháp phong tỏa tài khoản phải được hủy bỏ khi có căn cứ:

+ Đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ vụ án; đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án đối với bị can; bị cáo được Tòa án tuyên không phạm tội; bị cáo không bị phạt tiền, tịch thu tài sản và bồi thường thiệt hại.

+ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án thấy không còn cần thiết tiếp tục phong tỏa tài khoản nữa.

Xem chi tiết quy định tại Điều 129 và Điều 130 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016.

 

Điều 129. Phong tỏa tài khoản

1. Phong tỏa tài khoản chỉ áp dụng đối với người bị buộc tội về tội mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tiền, bị tịch thu tài sản hoặc để bảo đảm bồi thường thiệt hại khi có căn cứ xác định người đó có tài khoản tại tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc Nhà nước. Phong tỏa tài khoản cũng được áp dụng đối với tài khoản của người khác nếu có căn cứ cho rằng số tiền trong tài khoản đó liên quan đến hành vi phạm tội của người bị buộc tội.

2. Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra lệnh phong tỏa tài khoản. Lệnh phong tỏa tài khoản của những người được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải được thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành.

3. Chỉ phong tỏa số tiền trong tài khoản tương ứng với mức có thể bị phạt tiền, bị tịch thu tài sản hoặc bồi thường thiệt hại. Người được giao thực hiện lệnh phong tỏa, quản lý tài khoản bị phong tỏa mà giải tỏa việc phong tỏa tài khoản thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.

4. Khi tiến hành phong tỏa tài khoản, cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền phải giao quyết định phong tỏa tài khoản cho tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc Nhà nước đang quản lý tài khoản của người bị buộc tội hoặc tài khoản của người khác có liên quan đến hành vi phạm tội của người bị buộc tội. Việc giao, nhận lệnh phong tỏa tài khoản phải được lập thành biên bản theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này.

Ngay sau khi nhận được lệnh phong tỏa tài khoản, tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc Nhà nước đang quản lý tài khoản của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc tài khoản của người khác có liên quan đến hành vi phạm tội của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo phải thực hiện ngay việc phong tỏa tài khoản và lập biên bản về việc phong tỏa tài khoản.

Biên bản về việc phong tỏa tài khoản được lập thành năm bản, trong đó một bản được giao ngay cho người bị buộc tội, một bản giao cho người khác có liên quan đến người bị buộc tội, một bản gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, một bản đưa vào hồ sơ vụ án, một bản lưu tại tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc Nhà nước.



Điều 130. Hủy bỏ biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản

1. Biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản đang áp dụng phải được hủy bỏ khi thuộc một trong các trường hợp:

a) Đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án;

b) Đình chỉ điều tra đối với bị can, đình chỉ vụ án đối với bị can;

c) Bị cáo được Tòa án tuyên không có tội;

d) Bị cáo không bị phạt tiền, tịch thu tài sản và bồi thường thiệt hại.

2. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hủy bỏ biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản khi thấy không còn cần thiết.

Đối với biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản trong giai đoạn điều tra, truy tố thì việc hủy bỏ hoặc thay thế phải thông báo cho Viện kiểm sát trước khi quyết định.

N. Nguyễn

 
 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành án dân sự và xác minh điều kiện thi hành án của thừa phát lại

22/01/2013

Thực hiện Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008 của Quốc hội khóa XII, Chính Phủ đã ban hành Nghị định 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 về thí điểm chế định Thừa phát lại tại TP. Hồ Chí Minh.

Sau 03 năm Nghị định 61 ra đời, các Văn phòng Thừa phát lại đầu tiên được thành lập (tháng 05/2010), đến nay bước đầu đã đạt được những thành công nhất định.

Thời gian qua, các Văn phòng Thừa phát lại đã tổ chức thi hành xong 26 việc, thu hồi được 7.318.317.993 đồng, với số phí là 359.966.280 đồng, chiếm 2,09% doanh thu; tiến hành xác minh điều kiện thi hành án 147 việc, thu được 682.550.000 đồng, chiếm 3,98% doanh thu. Tuy nhiên, do là một định chế mới, trong quá trình hoạt động, các Văn phòng Thừa phát lại gặp không ít những khó khăn vướng mắc ảnh hưởng đến hiệu quả công tác thi hành án và xác minh điều kiện thi hành án. Một trong những nguyên nhân chính là những quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại chưa được xây dựng đầy đủ và hoàn thiện.

Nhằm góp phần nâng cao hiệu lực và hoàn thiện hơn nữa chức năng tổ chức thi hành án và xác minh điều kiện thi hành án của Thừa phát lại thí điểm tại TP. Hồ Chí Minh, Văn phòng Thừa phát lại Quận 10 đề xuất một số vấn đề sau:

1. Hoàn thiện pháp luật về chức năng tổ chức thi hành án và xác minh điều kiện thi hành án của thừa phát lại

Công tác tổ chức thi hành án và xác minh điều kiện thi hành án của Thừa phát lại liên quan đến nhiều ngành khác nhau (Tòa án, Viện kiểm sát, công an, cơ quan thi hành án dân sự, ngân hàng, cơ quan thuế, Trung tâm đăng ký quyền sử dụng đất…). Vì vậy, để Thừa phát lại hoạt động có hiệu quả, về mặt thể chế, cần phải đảm bảo ba yêu cầu: (i) Văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại phải là văn bản có giá trị pháp lý cao, cụ thể là đạo luật của Quốc hội; (ii) Phải có sự đồng bộ của các ngành luật liên quan như: Luật Thi hành án dân sự, Luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hình sự, Luật các tổ chức tín dụng, Luật Thuế, Luật Luật sư, Luật Công chứng…; (iii) Phải có hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành một cách cụ thể.

Tuy nhiên, với tính chất là một định chế đang trong thời gian thí điểm, khó có thể đòi hỏi một hệ thống pháp luật hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại, nhưng hệ thống văn bản hiện hành làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của Thừa phát lại có giá trị pháp lý chưa cao, vì vậy, trong giai đoạn này, khi chưa thể ban hành ngay Luật về Thừa phát lại, kiến nghị Quốc hội nên có Nghị quyết cho phép áp dụng về mặt nguyên tắc các quy định trong các đạo luật hiện hành cho tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại. Sau khi kết thúc thời gian thí điểm, cần phải ban hành Luật về Thừa phát lại theo hướng cụ thể hóa tất cả các vấn đề về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại trong Luật, bao gồm cả những quy phạm liên quan đến Luật Thi hành án dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Thuế… Khi các đạo luật này được sửa đổi, bổ sung, thì quy định thêm các quyền, nghĩa vụ của Thừa phát lại tương ứng trong Luật.

Qua quá trình 02 năm thực tiễn hoạt động, chúng tôi nhận thấy, cần sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến chức năng tổ chức thi hành án và xác minh điều kiện thi hành án của Thừa phát lại như sau:

1.1. Về chức năng tổ chức thi hành án

Trong bối cảnh Ngành Thi hành án luôn quá tải, thì chức năng tổ chức thi hành án được xem như định hướng để chia sẻ bớt gánh nặng của ngành thi hành án hiện nay. Để đánh giá hiệu quả của việc thí điểm, không thể nào xem nhẹ hiệu quả tổ chức thi hành án của Thừa phát lại. Tuy nhiên, việc tổ chức thi hành án hiện nay còn gặp phải một số khó khăn cần phải tháo gỡ:

Thứ nhất, số việc thi hành án hiện nay các Văn phòng Thừa phát lại đang thụ lý rất ít so với tiềm năng. Điều này do người dân chưa biết nhiều đến thẩm quyền tổ chức thi hành án của Văn phòng Thừa phát lại. Mặc dù công tác tuyên truyền liên tục được đẩy mạnh, nhưng hiệu quả thực tế chưa cao. Vì vậy, đề nghị Bộ Tư pháp xem xét kiến nghị với Tòa án nhân dân tối cao bổ sung vào biểu mẫu bản án, quyết định nội dung “Bản án, quyết định có thể được thi hành tại cơ quan thi hành án dân sự Quận X hoặc Văn phòng Thừa phát lại quận X…”.

Thứ hai, về phạm vi địa hạt thi hành án quá hẹp

Số việc thi hành án hiện nay các Văn phòng Thừa phát lại đang thụ lý rất ít so với tiềm năng một phần là do phạm vi thẩm quyền tổ chức thi hành án theo địa bàn quận, huyện quá hẹp. Vì vậy, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Nghị định 61 theo hướng quy định thẩm quyền tổ chức Thi hành án cho Văn phòng Thừa phát lại có thẩm quyền tổ chức thi hành án đối với toàn bộ các bản án, quyết định của Tòa án các cấp tại TP. Hồ Chí Minh như là thẩm quyền xác minh điều kiện thi hành án hiện tại.

Thứ ba, về việc rút đơn yêu cầu thi hành án từ cơ quan thi hành án dân sựsang Văn phòng Thừa phát lại

Thực tế có nhiều trường hợp người dân đang có đơn yêu cầu thi hành án tại cơ quan thi hành án dân sự, nay có yêu cầu rút đơn để chuyển sang thi hành án tại Văn phòng Thừa phát lại. Hiện nay, pháp luật chưa quy định cụ thể trường hợp này. Để giải quyết thực tiễn nói trên, Tổng cục Thi hành án dân sự đã có Công văn số 2099/TCTHA-NV1 ngày 23/7/2010 hướng dẫn “đối với trường hợp cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định đình chỉthi hành án do người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự không tiếp tục việc thi hành án thì sau đó họ vẫn có quyền yêu cầu Văn phòng Thừa phát lại tổ chức thi hành”. Tuy nhiên, về lâu dài, cần quy định cụ thể nội dung này trong Luật. Ngoài ra, cần quy định cụ thể hậu quả pháp lý, cũng như giải quyết các vấn đề về thanh, quyết toán theo giai đoạn thi hành án đã thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi thi hành trên thực tế.

Thứ tư, về cơ chế ủy thác

Hiện nay pháp luật chưa quy định về việc ủy thác giữa Văn phòng Thừa phát lại với các cơ quan thi hành án và ngược lại. Vậy trong trường hợp Văn phòng Thừa phát lại đang tổ chức thi hành án mà phát sinh các tài sản ở các địa phương khác hoặc bản án, quyết định đang tổ chức thi hành ở địa phương khác, mà phát hiện tài sản tại TP. Hồ Chí Minh, mà đương sự có yêu cầu ủy thác cho Văn phòng Thừa phát lại thụ lý, thì hiện nay chưa có hướng xử lý. Vì vậy, cần phải có quy định cụ thể về vấn đề này trong thời gian tới.

1.2. Về chức năng xác minh điều kiện thi hành án

Thứ nhất, về nghĩa vụ cung cấp thông tin

Mặc dù Nghị định 61 có quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của các tổ chức, cá nhân có liên quan. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện lại gặp nhiều vướng mắc do các cơ quan này viện dẫn luật chuyên ngành. Mặc khác, dù một số luật được ban hành sau Nghị định 61, nhưng quá trình xây dựng pháp luật lại thiếu đồng bộ.

Ví dụ: Luật Các tổ chức tín dụng, ban hành ngày 16/6/2010, tức là ban hành sau Nghị định 61, nhưng trong quy định về bảo mật thông tin tại Điều 14 chỉ quy định cung cấp thông tin theo “yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc được sự chấp thuận của khách hàng”.

Bên cạnh đó, một số cơ quan nhà nước có cách hiểu quá máy móc về luật chuyên ngành, mà không quan tâm đến chức năng, nhiệm vụ của Thừa phát lại đã được quy định cụ thể trong Nghị định 61, dẫn đến trường hợp từ chối cung cấp thông tin. Ví dụ: Vụ Pháp chế của Ngân hàng Nhà nước có văn bản số 7102/NHNN-PC ngày 09/9/2011 hướng dẫn Ngân hàng Vietcombank, cho rằng không có cơ sở pháp lý để thực hiện yêu cầu của Thừa phát lại về việc cung cấp thông tin, phong tỏa tài khoản vì Văn phòng Thừa phát lại hoạt động theo mô hình doanh nghiệp, không phải là cơ quan nhà nước.

Vì vậy, như đã trình bày ở trên, Quốc hội nên có Nghị quyết cho phép áp dụng về mặt nguyên tắc các quy định trong các đạo luật hiện hành cho tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại để đảm bảo các chức năng của Thừa phát lại được thực hiện một cách đầy đủ.

Thứ hai, về thẩm quyền xác minh điều kiện thi hành án

Hiện nay Nghị định 61 mới chỉ cho phép thừa phát lại xác minh điều kiện thi hành án đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà không đề cập đến thẩm quyền xác minh trong quá trình khởi kiện tại Tòa án nhằm áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để tránh tẩu tán tài sản, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Vì vậy, cần quy định thêm thẩm quyền xác minh điều kiện thi hành án của Thừa phát lại ngay trong giai đoạn khởi kiện, hoặc tiền khởi kiện để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người dân trong giai đoạn khởi kiện.

2. Nâng cao hiệu quả hoạt động của thừa phát lại

Bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật, để nâng cao hiệu quả hoạt động của Thừa phát lại trong hoạt động tổ chức thi hành án và xác minh điều kiện thi hành án, cần phải triển khai đồng bộ nhiều biện pháp:

Thứ nhất, tiếp tục tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về Thừa phát lại, để người dân được biết bên cạnh cơ quan thi hành án dân sự, người dân còn có quyền yêu cầu Văn phòng Thừa phát lại tổ chức thi hành án, đồng thời có quyền yêu cầu Văn phòng Thừa phát lại xác minh điều kiện thi hành án để cung cấp cho cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành.

Thứ hai, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ Thừa phát lại. Mặc dù Thừa phát lại là những người đã đủ điều kiện để bổ nhiệm chức danh tư pháp, được bồi dưỡng về nghiệp vụ tổ chức thi hành án và xác minh điều kiện thi hành án. Tuy nhiên, trình độ và kinh nghiệm của đội ngũ Thừa phát lại hiện nay chưa thể so sánh với đội ngũ chấp hành viên nhiều kinh nghiệm trong hoạt động thi hành án. Vì vậy, cần thường xuyên tập huấn nghiệp vụ cho Thừa phát lại để nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành án và xác minh điều kiện thi hành án.

Mặc khác, trong thời gian chưa có chương trình đào tạo Thừa phát lại chuyên biệt, cần có cơ chế cho phép Thừa phát lại, thư ký nghiệp vụ Thừa phát lại được tham gia các lớp đào tạo nghiệp vụ chấp hành viên do Học viện Tư pháp tổ chức.

Thứ ba, hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các Văn phòng Thừa phát lại và các cơ quan thi hành án dân sự trong việc phối hợp tổ chức thi hành án, sử dụng kết quả xác minh điều kiện thi hành án do Thừa phát lại cung cấp, nhằm thực hiện nhiệm vụ chung của Ngành Thi hành án.

Bên cạnh đó, từng bước xây dựng cơ chế phối hợp giữa các Văn phòng Thừa phát lại và các ngành hữu quan như Tòa án, Viện Kiểm sát, Công an, Chính quyền địa phương, tổ chức tín dụng, cơ quan đăng ký quyền sử dụng đất… để Thừa phát lại thực hiện tốt các chức năng của mình.

Thứ tư, các Văn phòng Thừa phát lại phải phát huy tính chủ động, tích cực trong việc quảng bá hình ảnh đến người dân thông qua nguồn lực xã hội hóa, chứng minh tính hiệu quả của mình qua thực tiễn tổ chức thi hành án cụ thể, đồng thời luôn tích cực học tập để nhanh chóng bắt kịp trình độ của chấp hành viên, tạo sự tin tưởng từ phía Nhà nước và nhân dân, hoàn thành sứ mệnh của mình.

ThS. Nguyễn Tiến Pháp

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hậu quả pháp lý của quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ

03/07/2013

Trong quá trình giải quyết một vụ án dân sự nói chung, phía nguyên đơn (cá nhân, tổ chức) có quyền yêu cầu Toà án, nơi đang giải quyết vụ án đó áp dụng một hoặc nhiều biện pháp gọi là “biện pháp khẩn cấp tạm thời” theo thủ tục, trình tự quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của mình, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có, tránh việc có thể gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án (sau khi Tòa đã xét xử). Trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra, nguyên đơn có quyền nộp đơn yêu cầu Toà án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện.

Theo Điều 102 Bộ luật Tố tụng dân sự, thì có 13 biện pháp khẩn cấp tạm thời, trong đó có biện pháp phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ. Nhưng hiện nay, việc áp dụng biện pháp này trong thực tiễn mỗi nơi một cách khác nhau, thậm chí áp dụng không đúng dẫn đến xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

Theo Điều 114 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: Phong toả tài sản của người có nghĩa vụ được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản và việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc bảo đảm cho việc thi hành án.

Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời về phong tỏa tài sản chỉ là một giải pháp tình thế, nó chỉ tồn tại từ khi Tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cho đến khi Tòa xét xử nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách của đương sự.

Do đó, một mặt là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu, mặt khác cũng là để tránh sự lạm dụng quyền của người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tòa án chỉ có quyền phong tỏa tài khoản, tài sản có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ thực hiện. Để bảo đảm cho yêu cầu của mình là có căn cứ, người yêu cầu phải nộp một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện vào tài khoản phong tỏa tại Ngân hàng nơi có trụ sở Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp này trên thực tế ở các địa phương không thống nhất, việc chấp hành quyết định này của các cơ quan, tổ chức cũng tùy tiện trong việc áp dụng dẫn đến xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người có tài sản bị phong tỏa.

Ví dụ: Bà V là bị đơn trong một vụ án dân sự. Thẩm phán quyết định phong tỏa tài sản là nhà và đất (hơn 3.000 m2) của vợ chồng bà V, ông H. Tài sản này có giá 3 tỷ đồng, với giá trị phong tỏa là 300 triệu đồng cộng với lãi suất phát sinh. Bà V không được dùng tài sản để đảm bảo nghĩa vụ nào khác kể từ ngày ban hành quyết định, không được quyền thỏa thuận với bất kỳ cá nhân, tổ chức nào (mà không có sự đồng ý của nguyên đơn) để chuyển dịch quyền tài sản cho đến khi vụ án được giải quyết xong.

Quyết định trên có nhiều cách hiểu khác nhau:

Cách hiểu thứ nhất: Tài sản này không được thực hiện bất kỳ giao dịch nào nếu chưa giải quyết xong vụ án. Vì đây là tài sản chung hợp nhất nên không xác định phần nào phong tỏa, phần nào không phong tỏa. Do đó, việc chuyển nhượng (dù chỉ một phần nhỏ) cũng không thực hiện được.

Cách hiểu thứ hai: Tài sản trên không được phép giao dịch trong phạm vi phong tỏa 300 triệu cộng với lãi phát sinh và phần 50% của bà V. Vì đây là tài sản chung của vợ chồng, quyết định phong tỏa phần tài sản của bà V là người có nghĩa vụ, còn ông H vẫn được phép giao dịch. Vì người có nghĩa vụ là bà V còn ông H là người không có nghĩa vụ phải thực hiện, do đó phần của ông H vẫn được phép giao dịch (trong phạm vi của ông H).

Hậu quả pháp lý của việc áp dụng biện pháp phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ là:

Đối với các cơ quan thực hiện: Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thường gửi đến các cơ quan như: Viện kiểm sát nhân dân, thi hành án dân sự, Phòng Tài nguyên và Môi trường, Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất, tổ chức công chứng… và bắt buộc thực hiện đối với các cơ quan này. Nhưng quyết định phong tỏa của các cơ quan có thẩm quyền cũng chỉ ghi chung chung như: “Người bị phong tỏa không được tiếp tục dùng tài sản bị phong tỏa trên để đảm bảo cho nghĩa vụ nào khác kể từ ngày ban hành quyết định, không được quyền thỏa thuận với bất kỳ cá nhân, tổ chức nào (mà không có sự đồng ý của nguyên đơn) để chuyển dịch quyền về tài sản…”. Theo nội dung quyết định phong tỏa, thì chủ sở hữu không được phép thực hiện các quyền đối với tài sản khi chưa có sự đồng ý của nguyên đơn, đồng thời pháp luật còn quy định giới hạn thời gian phong tỏa khẩn cấp tạm thời đối với tài sản là 15 ngày, tài khoản là 05 ngày nhưng hầu hết các quyết định phong tỏa đều không giới hạn thời gian. Trong trường hợp trên, nếu ông H đề nghị công chứng chuyển nhượng một phần nhỏ trong khối tài sản của mình, thì công chứng viên sẽ giải quyết như thế nào? Chấp hành quyết định phong tỏa và từ chối yêu cầu công chứng của ông H, haycông chứng hợp đồng chuyển nhượng một phần tài sản của ông H? Hậu quả pháp lý sẽ như thế nào khi thực hiện hoặc không thực hiện yêu cầu phong tỏa và khiếu kiện của người dân đối với vấn đề này. Trong thực tế, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được sử dụng không chỉ ở Tòa án mà còn có nhiều cơ quan áp dụng khá thường xuyên như cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án, thậm chí cả cơ quan hành chính nhà nước kiểm sát hoạt động tư pháp, cơ quan giám sát cũng chưa chú trọng lĩnh vực này.

Để tránh tình trạng ban hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời một cách tùy tiện và lợi dụng quyền hạn ra quyết định phong tỏa với động cơ tiêu cực, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, các cơ quan tố tụng và các cơ quan quyền lực nhà nước phải tăng cường kiểm sát, giám sát lĩnh vực này, qua đó, Nhà nước cần quy định rõ hơn thiết chế phong tỏa tài sản để các cơ quan áp dụng thống nhất, nhằm đảm bảo nguyên tắc quyền lực nhà nước đã được trao cho cá nhân, tổ chức phải được kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ gắn chặt với chế tài trách nhiệm, chống lạm quyền

Trần Xuân Hiệp

Sở Tư pháp Gia Lai

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Biện pháp bảo đảm thi hành án và thực tiễn áp dụng

23/01/2013

Trong lĩnh vực thi hành án dân sự không ít người phải thi hành án có nghĩa vụ thi hành án thường không tự nguyện, có tâm lý chây ỳ, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định, nên hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản nhằm làm mất đi điều kiện thi hành án. Để ngăn chặn các hành vi nêu trên của người phải thi hành án, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã quy định các biện pháp bảo đảm thi hành án để đáp ứng đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn công tác thi hành án dân sự trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm trong tổ chức thi hành án cũng gặp không ít khó khăn vướng mắc cần phải được tháo gỡ, vì đây là chế định mới trong Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

1. Biện pháp phong toả tài khoản

Khoản 1 Điều 66 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Chấp hành viên có quyền tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự áp dụng ngay biện pháp bảo đảm thi hành án nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, chấp hành viên không phải thông báo trước cho đương sự”.

Việc “chấp hành viên có quyền tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự” áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án. Như vậy, đây là quyền hoàn toàn chủ động của chấp hành viên trong việc phong toả tài khoản của người phải thi hành án và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình (trừ trường hợp đương sự yêu cầu) với một mục đích duy nhất là nhằm kịp thời ngăn chặn việc tẩu tán tiền dưới mọi hình thức trong tài khoản của người phải thi hành án. Về thủ tục, quyết định này được giao ngay cho cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản của người phải thi hành án để thi hành và không phải thông báo trước cho đương sự. Theo đó, sẽ hạn chế được việc người phải thi hành án tẩu tán số tiền đang có trong tài khoản. Có thể khẳng định rằng những quy định về biện pháp bảo đảm phong tỏa tài khoản được quy định trong Luật Thi hành án dân sự rất tiến bộ, phù hợp với thực tiễn công tác thi hành án dân sự. Tuy nhiên, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 không quy định việc thu thập thông tin về tài khoản của người phải thi hành án, nhưng tại Điều 11 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP quy định “Quyết định phong tỏa tài khoản phải xác định số tiền bị phong tỏa”. Vì vậy, để xác định số tiền bị phong tỏa được chính xác, chấp hành viên cần phải tiến hành các hoạt động thu thập thông tin về tài khoản của người phải thi hành án tại ngân hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc nhà nước. Thực tế, trong thời gian qua, đã xảy ra trường hợp chấp hành viên do thiếu thông tin hoặc thông tin không chính xác, đầy đủ, đã vội vàng ra quyết định phong tỏa tài khoản không đúng đối tượng, dẫn đến việc người phải thi hành án có cơ hội đã rút hết tiền trong tài khoản của mình.

Việc thu thập thông tin về tài khoản của người phải thi hành án có thể do người yêu cầu áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản thực hiện hoặc cũng có thể do chấp hành viên thực hiện. Thông tin về tài khoản của người phải thi hành án có rất nhiều nguồn khác nhau. Việc xác định người đó có tài khoản hay không có thể căn cứ vào một trong những yếu tố như: Lĩnh vực, ngành nghề hoạt động của người phải thi hành án, các hợp đồng của người phải thi hành án với các đối tác, đăng ký kinh doanh… Chấp hành viên cũng có thể thông qua việc phân tích, nghiên cứu bản án, nhất là các bản án kinh doanh thương mại hoặc thông qua người được thi hành án, người có quyền, nghĩa vụ liên quan.

Như vậy, trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản được thực hiện theo quy định về cưỡng chế thi hành án trong Luật Thi hành án dân sự.

2. Biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự

Theo quy định tại khoản 1 Điều 68 Luật Thi hành án dân sự, thì chấp hành viên đang thực hiện nhiệm vụ thi hành án có quyền tạm giữ hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hỗ trợ để tạm giữ tài sản, giấy tờ mà đương sự đang quản lý, sử dụng. Có thể thấy, đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ không chỉ là người phải thi hành án, mà cả người được thi hành án nếu họ đang quản lý, sử dụng tài sản, giấy tờ của người phải thi hành án.

Các tài sản, giấy tờ tạm giữ là các tài sản, giấy tờ có liên quan đến việc thi hành án như: Giấy đăng ký xe môtô, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… hoặc các tài sản có thể xử lý được để thi hành án. Khi áp dụng biện pháp này, chấp hành viên cần lưu ý nghiên cứu các tài sản không được kê biên theo qui định tại Điều 87 Luật Thi hành án dân sự để cân nhắc khi tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự hoặc tài sản có giá trị tương với nghĩa vụ thi hành án theo Điều 8 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP. Trong trường hợp cần thiết, chấp hành viên có thể yêu cầu lực lượng cảnh sát hoặc tổ chức, cá nhân khác hỗ trợ việc tạm giữ giấy tờ, tài sản của người phải thi hành án. Như vậy, khi áp dụng biện pháp này, chấp hành viên không phải xác minh, mà nghĩa vụ chứng minh thuộc về người phải thi hành án.

3. Biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản

Biện pháp này là một trong ba biện pháp bảo đảm thi hành án mà chấp hành viên khi tổ chức thi hành án xét thấy cần ngăn chặn hoặc phát hiện đương sự có hành vi chuyển quyền sở hữu, sử dụng, tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.

Tài sản bị tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án. Hiện nay, có rất nhiều tài sản, quyền tài sản mà việc chuyển dịch quyền sở hữu, sử dụng phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền như: Vốn góp của tổ chức, cá nhân tại doanh nghiệp; quyền sử dụng đất; phương tiện xe cơ giới. Đối với những tài sản này, để thực hiện mua bán, chuyển nhượng, các bên tham gia quan hệ mua bán, chuyển nhượng phải thực hiện thông qua việc đăng ký tại phòng đăng ký kinh doanh, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và sở hữu nhà… Quyền sở hữu, sử dụng của bên mua, bên nhận chuyển nhượng chỉ được xác lập khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký. Chính vì thế, trường hợp đương sự có hành vi chuyển dịch tài sản, để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, thì chấp hành viên ra quyết định đề nghị cơ quan có thẩm quyền đăng ký dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản nhằm duy trì điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.

Việc áp dụng các biện pháp bảo đảm trong thực tiễn công tác thi hành án dân sự có những thuận lợi và khó khăn cơ bản.

Những thuận lợi khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự

Một là, Luật Thi hành án dân sự đã bổ sung kịp thời quyền hạn cho các chấp hành viên trong việc tạm giữ giấy tờ, tài sản để đảm bảo thi hành án mà từ trước đến nay pháp luật còn đang bỏ ngỏ. Quy định này sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự và tạo hành lang pháp lý cho các chấp hành viên thực hiện, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Nhà nước giao, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả trong công tác thi hành án.

Hai là, trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án được quy định trong Luật Thi hành án dân sự khá tinh gọn, nhanh chóng về thời gian, đơn giản về thủ tục tạo thuận lợi cho chấp hành viên có thể kịp thời ngăn chặn hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản, đảm bảo cho cơ quan thi hành án áp dụng các biện pháp cưỡng chế để thi hành án trong những trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án.

Chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình thi hành án, ngay cả trong trường hợp chưa xác định được chủ sở hữu của tài sản, khi áp dụng biện pháp bảo đảm chấp hành viên không cần phải thông báo trước cho đương sự, tránh được việc đương sự có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.

Như vậy, việc áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản có rất nhiều thuận lợi. Thứ nhất, khi xác minh được số dư trong tài khoản thì chấp hành viên có thể ra ngay quyết định áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản mà không cần phải xem xét việc thi hành án ở giai đoạn nào, có hết thời gian tự nguyện hay chưa. Mặt khác, đối với quyết định phong tỏa tài khoản này, chấp hành viên chỉ cần giao cho ngân hàng để thực hiện việc phong tỏa tài khoản mà không cần phải thông báo trước cho người phải thi hành án theo khoản 1 Điều 66 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, tránh được tình trạng người phải thi hành án tẩu tán tiền trong tài khoản. Thứ hai, trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định phong tỏa tài khoản, chấp hành viên ra quyết định cưỡng chế bằng biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản, khi áp dụng biện pháp cưỡng chế bằng biện pháp cưỡng chế này có rất nhiều thuận lợi như: Đã có sẵn tiền trong tài khoản, nên việc cưỡng chế diễn ra nhanh gọn về thủ tục, ít tồn thời gian và đạt hiệu quả cao.

Ba là, khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án chấp hành viên đã đánh vào đòn tâm lý của người phải thi hành án là ngại dư luận không tốt; sợ mất danh dự, uy tín của bản thân và gia đình, nên họ sẽ chọn phương thức tự nguyện thi hành án là tốt nhất.

Bốn là, khoản 2 Điều 66 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Người yêu cầu chấp hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình. Trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp bảo đảm hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường” đề cao trách nhiệm của người yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án trước pháp luật, theo hướng nếu yêu cầu của họ không đúng dẫn đến thiệt hại cho quyền lợi của người bị áp dụng biện pháp bảo đảm hoặc cho người thứ ba thì họ phải chịu trách nhiệm bồi thường.

Một số khó khăn vướng mắc khi áp dụng các biện pháp bảo đảm

Trong quá trình áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án bên cạnh những thuận lợi, còn có một số khó khăn cần được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn để việc thực hiện trên thực tế được thống nhất.

Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Thi hành án dân sự chưa có quy định nào hướng dẫn thời hạn ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án. Điều này sẽ dẫn đến việc áp dụng tuỳ thuộc vào ý chí chủ quan và không thống nhất giữa các chấp hành viên, như vậy dễ dẫn đến việc khiếu nại của đương sự. Trong thực tiễn, có những trường hợp khi đương sự nộp đơn đề nghị cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp bảo đảm có thể chấp hành viên sẽ ra ngay quyết định áp dụng, nhưng cũng có thể vài ngày, thậm chí là lâu hơn chấp hành viên mới ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm. Việc chậm trễ này có thể ảnh hưởng đến kết quả tổ chức thi hành, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi hành án.

Quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm do chấp hành viên ký trong trường hợp cần ngăn chặn hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản nhằm trốn tránh việc thi hành án. Trường hợp đương sự có đơn yêu cầu thi hành án và kèm theo yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm thì tại thời điểm này ai sẽ là người ký quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm. Trường hợp này có hai hướng quan điểm khác nhau.

Quan điểm thứ nhất cho rằng, thủ trưởng cơ quan thi hành án đồng thời cũng là chấp hành viên, do đó trong trường hợp đương sự gửi đơn yêu cầu thi hành án kèm theo yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm, thì thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án đồng thời là người ký quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, sau đó phân công cho chấp hành viên giải quyết việc thi hành án.

Quan điểm thứ hai cho rằng, quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án là do chấp hành viên trực tiếp giải quyết việc thi hành án ký, do đó, trong trường hợp đương sự gửi đơn yêu cầu thi hành án kèm theo yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm thì thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án, sau đó phân công cho chấp hành viên giải quyết việc thi hành án. Chấp hành viên nào được phân công giải quyết hồ sơ thi hành án thì sẽ ký quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án.

Khi áp dụng biện pháp bảo đảm phong tỏa tài khoản, việc thu thập thông tin về tài khoản của người phải thi hành án do người được thi hành án tiến hành xác minh gặp nhiều khó khăn do vướng phải các quy định về bảo mật thông tin khách hàng của các tổ chức tín dụng, ngân hàng, kho bạc nhà nước. Các tổ chức này sẽ viện dẫn các quy định tại Điều 17 và Điều 104 Luật các Tổ chức tín dụng để từ chối cung cấp thông tin về tài khoản của người phải thi hành án. Do đó, các tổ chức tín dụng, ngân hàng, kho bạc nhà nước lấy lý do đó không hợp tác trong việc cung cấp về thông tin cho người được khi hành án. Điều 176 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 chỉ quy định về trách nhiệm của kho bạc, ngân hàng và tổ chức tín dụng khác trong thi hành án dân sự chứ không quy định chế tài xử lý khi các tổ chức này không thực hiện hết trách nhiệm của mình theo quy định tại Điều 176 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Khoản 1 Điều 68 Luật Thi hành án dân sự có quy định việc chấp hành viên có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân hỗ trợ để tạm giữ tài sản, giấy tờ mà đương sự đang quản lý, sử dụng trên thực tế thi hành nhiều trường hợp gặp khó khăn.

Mặc dù, Điều 11 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong việc thi hành án và cơ quan, tổ chức có liên quan có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên theo quy định của Luật này”.

Ví dụ: Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 15/DSST/2009 ngày 07/09/2009 của Tòa án nhân dân huyện YK, tỉnh NB về “Hợp đồng vay nợ” đã tuyên buộc bà Trần Thị Hải phải trả cho bà Nguyễn Thu Trang số tiền 20.000.000đ và lãi chậm thi hành án. Ngày 23/10/2009, Chi cục Thi hành án dân sự huyện YK nhận được đơn yêu cầu thi hành án hợp lệ của bà Nguyễn Thu Trang, trong đơn yêu cầu thi hành án bà Trang cho biết hiện nay bà Trần Thị Hải đang sử dụng một chiếc xe máy hiệu Jupiter biển kiểm soát 35F-04546. Chi cục Thi hành án dân sự đã ra quyết định thi hành án và giao cho chấp hành viên tổ chức thi hành. Chấp hành viên tiến hành tống đạt quyết định thi hành án và ấn định thời gian tự nguyện thi hành án theo đúng quy định. Khi đến làm việc với bà Hải tại nhà bà Hải, thì chấp hành viên phát hiện trong nhà bà Hải có chiếc xe máy đúng như bà Trang đã cung cấp. Chấp hành viên tiến hành lập biên bản tạm giữ ngay chiếc xe máy hiệu Jupiter biển kiểm soát 35F-04546. Trong quá trình lập biên bản tạm giữ tài sản, thì bà Hải cho rằng, chiếc xe máy này không phải của bà mà do người khác gửi, và chống đối việc tạm giữ tài sản của chấp hành viên. Chấp hành viên đã yêu cầu công an xã (được chấp hành viên mời đến làm việc) và trưởng thôn hỗ trợ để tạm giữ chiếc xe, nhưng công an xã không phối hợp với lý do họ không có trách nhiệm trong việc tạm giữ tài sản của đương sự, và không có chỉ đạo của cấp trên về việc tạm giữ trên.

Phân tích tình huống trên thấy rằng, mặc dù Luật trao quyền cho chấp hành viên được áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án tại bất cứ thời điểm nào của quá trình thi hành án, nhằm ngăn chặn hành vi tẩu tán hủy hoại tài sản của người phải thi hành án. Tuy nhiên, để thực hiện được nhiệm vụ, chấp hành viên cần sự phối hợp của các cấp, ngành liên quan.

Việc thi hành phần nghĩa vụ của người phải thi hành án là phần vốn góp trong các tổ chức, doanh nghiệp thì thực tế còn nhiều khó khăn trong việc xác định quyền tài sản của người phải thi hành án và chấp hành viên còn e ngại khi xử lý quyền tài sản này vì không nhận được sự đồng thuận từ phía các tổ chức, doanh nghiệp do việc xử lý phần vốn góp sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất kinh doanh cũng như làm thay đổiđiều lệ, cơ cấu nhân sự của tổ chức, doanh nghiệp.

Đối với trường hợp chấp hành viên ra quyết định chấm dứt việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản của người phải thi hành án, Luật Thi hành án dân sự và Nghị định số 58/2009/NĐ-CP đều chưa quy định trong trường hợp nào thì chấp hành viên ra quyết định chấm dứt việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng thay đổi hiện trạng tài sản của người phải thi hành án. Như vậy, chấp hành viên có thể linh hoạt vận dụng và tham khảo theo quy định tại Điều 77 Luật Thi hành án dân sự để ra quyết định chấm dứt việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng thay đổi hiện trạng tài sản của người phải thi hành án.

Cần thắt chặt hơn nữa các chế tài đối với các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong việc từ chối phối hợp thực hiện yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên như: Phối hợp với các cơ quan chuyên môn để thiết lập nên các quy chế, chế định, chế tài để xử lý các hành vi làm cản trở đến công tác thực thi pháp luật thi hành án trên cơ sở tuân thủ Điều 136 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Các bản án, quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.

Xuất phát từ những ưu điểm của các biện pháp bảo đảm trên, theo chúng tôi cần có hướng dẫn thống nhất, cụ thể hơn nữa để các chấp hành viên có cơ sở vững chắc trong việc áp dụng vào thực tiễn thi hành án.

Vũ Hòa

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số điểm mới về thủ tục thi hành án dân sự

27/11/2013

Ngày 14/10/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 125/2013/NĐ-CP (sau đây gọi là Nghị định số 125) về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 58/2009/NĐ-CP (sau đây gọi là Nghị định số 58) ngày 13/07/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự.

Ngày 14/10/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 125/2013/NĐ-CP (sau đây gọi là Nghị định số 125) về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 58/2009/NĐ-CP (sau đây gọi là Nghị định số 58) ngày 13/07/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự.

Theo đó, một số điểm mới về thủ tục thi hành án dân sự cụ thể:

1. Về nhận đơn yêu cầu thi hành án: Theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị định số 125 sửa đổi, bổ sung Điều 4 Nghị định số 58 về nhận đơn yêu cầu thi hành án, việc cấp hoặc gửi bằng đường bưu điện giấy biên nhận cho người nộp đơn phải thực hiện ngay sau khi nhận được đơn. Trong trường hợp đơn yêu cầu thi hành án không đầy đủ các nội dung theo quy định hoặc không nêu rõ thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành nhưng không yêu cầu xác minh thì cơ quan thi hành án dân sự thông báo để đương sự bổ sung nội dung đơn yêu cầu thi hành án trước khi ra quyết định thi hành án. Nghị định số 125 giới hạn cụ thể về thời gian để bổ sung nội dung đơn yêu cầu thi hành án là 15 ngày, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo, nếu người được thi hành án không bổ sung hoặc bổ sung không đúng nội dung quy định tại Điều 31 Luật Thi hành án dân sự thì cơ quan thi hành án dân sự không thụ lý đơn yêu cầu thi hành án và có văn bản trả lời cho đương sự biết, trừ trường hợp do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan.

2. Về xác định và định giá tài sản kê biên: Nghị định số 58 quy định chấp hành viên xác định giá đối với tài sản kê biên có giá trị nhỏ là tài sản mà tại thời điểm xác định giá, sản phẩm cùng loại chưa qua sử dụng có giá bán trên thị trường không quá 2.000.000 đồng. Nghị định số 125 đã thay đổi về giá của tài sản kê biên có giá trị nhỏ là tài sản mà tại thời điểm xác định giá, sản phẩm cùng loại chưa qua sử dụng có giá bán trên thị trường không quá 5.000.000 đồng. Việc xác định lại giá của tài sản kê biên là phù hợp với sự trượt giá ở thời điểm hiện tại của đất nước ta. Ngoài ra, việc tham khảo ý kiến của cơ quan tài chính, cơ quan chuyên môn có liên quan phải lập thành văn bản hoặc biên bản có chữ ký của chấp hành viên và cơ quan tài chính, cơ quan chuyên môn đó.

3. Về chuyển giao nghĩa vụ thi hành án: Đây là một trong những quy định mới được bổ sung tại Nghị định số 125 mà chưa được quy định tại Nghị định số 58 trước đây. Theo quy định tại Nghị định số 125 thì trong trường hợp chuyển giao quyền, nghĩa vụ thi hành án do doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi thành công ty cổ phần mà trước đó chưa thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án của mình thì sau khi chuyển đổi, công ty cổ phần tiếp tục thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án. Quyền, nghĩa vụ thi hành án được chuyển giao cho người khác theo quy định của pháp luật về thừa kế thì cơ quan thi hành án dân sự thực hiện như sau: (1) Trường hợp thi hành nghĩa vụ về trả tài sản mà người phải thi hành án đã chết nhưng có người đang trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản đó thì cơ quan thi hành án dân sự ấn định trong thời hạn 30 ngày để người quản lý, sử dụng tài sản của người phải thi hành án giao tài sản cho người được thi hành án. Hết thời hạn này mà họ không thực hiện hoặc tài sản không có người quản lý, sử dụng trực tiếp thì cơ quan thi hành án dân sự tổ chức giao tài sản, kể cả cưỡng chế giao tài sản cho người được thi hành án theo quy định của pháp luật; (2) Trường hợp người phải thi hành nghĩa vụ về thanh toán tiền đã chết mà có để lại tài sản thì cơ quan thi hành án dân sự có văn bản thông báo, ấn định trong thời hạn 30 ngày để người thừa kế hoặc người quản lý di sản của người phải thi hành án thỏa thuận thực hiện nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án để lại. Hết thời hạn này, nếu người thừa kế hoặc người quản lý di sản không thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được việc thực hiện nghĩa vụ của người phải thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với tài sản để lại của người phải thi hành án để đảm bảo thi hành án, đồng thời ấn định trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày thông báo để những người liên quan đến tài sản thực hiện quyền khởi kiện phân chia di sản thừa kế. Hết thời hạn thông báo về thực hiện quyền khởi kiện phân chia di sản thừa kế mà không có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản để thi hành án.

4. Về thực hiện ủy thác thi hành án: Để thuận tiện cho quá trình thực hiện công tác thi hành án, Nghị định số 125 cũng bổ sung thêm quy định về việc ủy thác thi hành án. Theo quy định mới này thì trường hợp người phải thi hành án có nhiều tài sản ở nhiều nơi thì cơ quan thi hành án dân sự thực hiện ủy thác theo thứ tự: (1) Theo thỏa thuận của các đương sự; (2) Nơi có tài sản đủ để thi hành án; (3) Trong trường hợp tài sản không đủ để thi hành án thì ủy thác đến nơi có tài sản giá trị lớn nhất, nơi có nhiều tài sản nhất.

Quyết định ủy thác phải ghi rõ nội dung ủy thác, khoản đã thi hành xong, khoản tiếp tục thi hành và các thông tin cần thiết cho việc thực hiện ủy thác.

Khi gửi quyết định ủy thác thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự phải gửi kèm theo bản án, quyết định, bản sao biên bản kê biên, tạm giữ tài sản và các tài liệu khác có liên quan (nếu có). Trong trường hợp phải ủy thác cho nhiều nơi thì cơ quan thi hành án dân sự sao chụp bản án, quyết định và các tài liệu liên quan thành nhiều bản, có đóng dấu của cơ quan thi hành án dân sự nơi ủy thác để gửi cho cơ quan thi hành án dân sự nơi nhận ủy thác.

Cơ quan thi hành án dân sự nhận ủy thác nếu xác định người phải thi hành án không có tài sản hoặc không cư trú, làm việc hay có trụ sở ở địa phương mình thì giải quyết như sau:

– Trường hợp nhận ủy thác quyết định thi hành án chủ động thì cơ quan nhận ủy thác xử lý việc thi hành án theo quy định của pháp luật; nếu phát hiện người phải thi hành án có tài sản hoặc cư trú, làm việc hay có trụ sở ở địa phương khác thì ủy thác tiếp cho cơ quan thi hành án dân sự nơi có điều kiện thi hành;

– Trường hợp nhận ủy thác quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu thì cơ quan nhận ủy thác trả lại đơn yêu cầu cho đương sự, kèm theo tài liệu liên quan để họ làm căn cứ yêu cầu thi hành án trở lại khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành.

5. Về thứ tự thanh toán tiền thi hành án: Đây cũng là một trong những nội dung mới của Nghị định số 125 mà Nghị định số 58 chưa quy định. Theo đó, số tiền thi hành án thu theo quyết định cưỡng chế thi hành án nào thì được thanh toán cho tất cả những người được thi hành án đã có đơn yêu cầu thi hành án tính đến thời điểm có quyết định cưỡng chế thi hành án đó mà không phụ thuộc vào việc đơn yêu cầu thi hành án có phải là căn cứ để cưỡng chế thi hành án hay không. Số tiền còn lại được thanh toán cho những người được thi hành án theo các quyết định thi hành án khác sau khi có quyết định cưỡng chế tính đến thời điểm thanh toán.

Nghĩa vụ cụ thể được ưu tiên thanh toán theo quy định tại khoản 3 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự phải được xác định cụ thể trong bản án, quyết định của Tòa án tuyên kê biên bảo đảm thi hành cho nghĩa vụ cụ thể đó.

6. Về việc chịu phí thi hành án: Ngoài các trường hợp không phải chịu phí thi hành án theo Nghị định số 58 thì Nghị định số 125 bổ sung một số trường hợp không phải chịu phí thi hành án: (1) Khoản thu hồi nợ vay cho Ngân hàng chính sách xã hội trong trường hợp Ngân hàng cho người nghèo, đối tượng chính sách vay; (2) Bản án, quyết định của Tòa án xác định không có giá ngạch và không thu án phí có giá ngạch khi xét xử; (3) Tiền, tài sản được trả lại cho đương sự trong trường hợp chủ động thi hành án.

Nghị định số 125/2013/NĐ-CP ngày 14/10/3013 của Chính phủ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/12/2013.

Minh Trí

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số vụ án liên quan đến người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhưng không thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam

29/03/2013

Điều 9 và Điều 126 Luật Nhà ở chỉ cho phép một số đối tượng là người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam, còn lại không được sở hữu nhà.

Điều 72 Nghị định 71/2010 ngày 23/6/2010 hướng dẫn Luật Nhà ở cũng chỉ có hướng dẫn: Người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam chỉ được nhận giá trị nhà ở khi được nhận tặng cho, thừa kế nhà ở, nhưng họ phải trực tiếp hoặc ủy quyền cho người khác bán nhà ở khi có các giấy tờ về nhà ở như hợp đồng tặng cho, giấy tờ thừa kế nhà được lập theo quy định tại Điều 93 Luật Nhà ở…

Điều 129 Luật Nhà ở cũng có quy định cụ thể hạn chế quyền của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được phép sở hữu nhà ở tại Việt Nam là chỉ được bán, tặng cho, để lại thừa kế cho người được sở hữu nhà ở tại Việt Nam; nếu tặng cho, để lại thừa kế cho đối tượng khác thì các đối tượng này chỉ được hưởng giá trị tài sản. Tuy nhiên, chưa thấy có quy định nào về việc giao cho cơ quan nào thực hiện việc này và thủ tục như thế nào, cũng như có quy định gì về xử lý các trường hợp người Việt Nam đã định cư ở nước ngoài không về Việt Nam nữa nhưng vẫn có nhà ở tại Việt Nam. Ngoài ra, quy định nêu trên còn chưa thể hiện rõ: Nếu có hợp đồng tặng cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thì có được coi là vi phạm điều cấm của pháp luật hay vẫn xác định không vi phạm và phải công nhận hợp đồng, nhưng phải yêu cầu người mua phải thực hiện việc bán nhà ngay sau khi hợp đồng được công chứng?

Như vậy, Nhà nước đã thể hiện quan điểm rõ ràng về việc sở hữu nhà của đối tượng không được sở hữu nhà tại Việt Nam, nhưng lại không có những quy định dự liệu hết các hệ lụy có thể phát sinh, nên trên thực tế, có nhiều tranh chấp tại Tòa án có nhiều quan điểm khác nhau. Mặt khác, tình trạng người Việt Nam đã định cư ở nước ngoài nhưng vẫn còn nhà ở (được tạo lập trước khi xuất cảnh) tại Việt Nam khi có tranh chấp như đòi nhà cho ở nhờ, ủy quyền quản lý nhà… rất khó giải quyết. Sau đây là một vài vụ án điển hình có nhiều cách giải quyết khác nhau của Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm:

Vụ thứ nhất: Năm 1997 bà Hải xuất cảnh đi Mỹ, căn nhà của bà ở thành phố H bà để cho chị Bình là cháu ruột trông nom. Tuy nhiên, chị Bình lại tự ý cho thuê căn nhà nên bà Hải có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc chị Bình phải trả lại bà căn nhà. Chị Bình cho rằng, bà đã đồng ý cho chị được cho thuê nhà nên không đồng ý trả, nhưng chị không xuất trình được chứng cứ chứng minh.

Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng, bà Hải thuộc đối tượng không được sở hữu nhà ở tại Việt Nam nên không chấp nhận yêu cầu đòi nhà của bà Hải.

Tòa án cấp phúc thẩm xác định: Quyền sở hữu nhà ở của bà Hải được xác lập một cách hợp pháp trước khi bà xuất cảnh, đến nay, bà chưa có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc bà phải bán nhà để hưởng giá trị. Mặt khác, giao dịch ủy quyền quản lý nhà giữa bà Hải và chị Bình được xác lập vào năm 1997 là hợp pháp, nên chị Bình vi phạm nghĩa vụ và có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hải, buộc chị Bình phải trả nhà. Do hiện nay bà Hải không thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam nữa, nên quyết định thu hồi Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà của bà Hải và buộc bà phải thực hiện việc bán nhà ở theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến đồng tình với quan điểm của cấp phúc thẩm, nhưng cũng có ý kiến khác không nhất trí với việc kiến nghị thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhà của bà Hải,… vì cho rằng hiện tại Nhà nước chưa có quy định gì về việc nhà ở thuộc sở hữu hợp pháp có trước khi xuất cảnh của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, do đó không có quyền quyết định thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhà, mà chỉ có quyền kiến nghị cơ quan quản lý nhà ở có thẩm quyền giải quyết về quyền sở hữu nhà ở theo quy định của pháp luật về nhà ở mà thôi.

Vụ thứ hai: Ông Hùng là người Việt Nam có căn nhà tại thành phố H. Ngày 20/01/2002 ông ký hợp đồng bán căn nhà trên cho ông Khánh là người định cư ở nước ngoài về nước mua nhà để sau này về nước ở, nhưng lúc đó, ông Khánh không thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam nên hợp đồng không có công chứng, chứng thực và không làm thủ tục được, nhưng ông Hùng đã nhận tiền, giao nhà cho ông Khánh và ông Khánh cho em trai là anh Bình ở (anh Bình là người Việt Nam). Năm 2009, ông Khánh lập di chúc để lại căn nhà trên cho anh Bình và năm 2010 ông chết. Ngày 10/2/2010, anh Bình có đơn yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng mua bán nhà và căn cứ di chúc xác định anh là người thừa kế hợp pháp di sản của ông Khánh. Lúc này giá nhà đã lên cao gấp 3 lần nên ông Hùng có yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm (lúc thực hiện giao dịch ông Khánh không thuộc đối tượng được mua nhà), ông sẽ trả lại anh Bình số tiền đã nhận và anh Bình trả lại nhà cho ông.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm (Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 1995), vi phạm quy định về hình thức (Điều 139 Bộ luật Dân sự năm 1995) nên không có giá trị, vì vậy, di chúc cũng vô hiệu. Do đó không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Bình, chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Hùng, xử hủy hợp đồng và buộc anh Bình trả lại ông Hùng căn nhà, ông Hùng trả lại tiền nhà cho người thừa kế theo pháp luật của ông Hùng là bà Châu (người Việt Nam định cư ở Mỹ, tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Bà Châu cho rằng, căn nhà là tài sản riêng của ông Hùng nên bà không có ý kiến gì tranh chấp với anh Bình) về số tiền mua nhà đã nhận của ông Hùng.

Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm, cũng xác định hợp đồng vô hiệu và di chúc không có giá trị như nhận định của cấp sơ thẩm, nhưng xác định lỗi dẫn đến hợp đồng vô hiệu là của cả hai bên và lỗi ngang nhau, nên chỉ buộc ông Hùng trả cho bà Châu số tiền đã nhận của ông Hùng và 1/2 số tiền chệnh lệch giá nhà do lên cao (được coi là thiệt hại do hợp đồng vô hiệu theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Có quan điểm không đồng tình với các xử máy móc của Tòa án 2 cấp, cho rằng tuy thời điểm xác lập hợp đồng pháp luật có vi phạm, nhưng sau đó ông Hùng đã có di chúc tặng cho anh Bình và anh Bình là người Việt Nam nên không coi là vi phạm điều cấm nữa, mà cần công nhận hợp đồng để bảo đảm các nguyên tắc của luật dân sự.

Thực tiễn vốn phong phú và đa dạng hơn, nên các quy định pháp luật cần phải có quy định dự trù hết các trường hợp phát sinh khi triển khai quy định mới vào đời sống. Nếu quy định thiếu, hoặc không phù hợp, hoặc mâu thuẫn với các quy định khác, thì chắc chắn không chỉ Tòa án mà các cơ quan áp dụng pháp luật khác sẽ có cách xử lý khác nhau. Điều đó sẽ có tác động xấu đến yêu cầu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp thực tiễn, đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay

Phan Thị Vân Hương

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số kinh nghiệm trong thi hành án dân sự của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh

30/08/2013

Thực tiễn công tác thi hành án dân sự cho thấy việc rút ngắn, giảm bớt được thủ tục hành chính trong thi hành án dân sự, khuyến khích được đương sự tự nguyện thi hành, không phải tổ chức cưỡng chế thi hành sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian, tiền của, công sức của chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự và các cơ quan tổ chức có nhiệm vụ, quyền hạn trong thi hành án dân sự, góp phần giữ vững ổn định an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, thắt chặt được mối quan hệ đoàn kết giữa các đương sự và nêu cao được ý thức chấp hành pháp luật của công dân. Tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh, chấp hành viên đã có nhiều cải cách về trình tự, thủ tục tổ chức thi hành án và tích cực, kiên trì bằng nhiều biện pháp khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành. Sáu tháng đầu năm 2012 kết quả thi hành án dân sự về việc đạt 87,04%, về tiền đạt 53,03% thực thu so với cùng kỳ năm 2011 cao hơn 8 tỷ 589 triệu đồng. 100% số việc thi hành xong bằng biện pháp khuyến khích tự nguyện thi hành, không phải cưỡng chế vụ nào, trong số đó có nhiều vụ việc khó khăn phức tạp.

1. Về một số trình tự thủ tục hành chính trong thi hành án dân sự cần được cải cách

1.1. Theo qui định tại Điều 31 Luật Thi hành án dân sự, thì khoản nộp ngân sách nhà nước, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải chủ động ra quyết định thi hành án trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định; Thời hạn ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu là 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu thi hành án. Nếu người có đơn yêu cầu thi hành không nộp đơn yêu cầu thi hành án cùng thời điểm Toà án chuyển giao bản án thì việc tổ chức thi hành án đối với một người vừa có khoản phải thi hành án chủ động vừa có khoản phải thi hành án theo đơn yêu cầu, thủ trưởng cơ quan thi hành án phải ra 02 quyết định thi hành án không trùng thời điểm, vì thế chấp hành viên phải tổ chức thi hành 02 lần đối với một người phải thi hành án trong cùng một bản án, quyết định, vừa mất thời gian vừa tốn công sức.

1.2. Điều 36 Luật Thi hành án dân sự qui định: Đơn yêu cầu thi hành án phải có nội dung chính là “… Thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án”; Tại khoản 1 Điều 44 qui định: “… Trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu, nếu người được thi hành án đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà không thể tự xác minh được điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì có thể yêu cầu chấp hành viên tiến hành xác minh…”; Điều 6 Nghị Định số 58/2009/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự qui định: “…Người được thi hành án khi yêu cầu chấp hành viên xác minh điều kiện thi hành án phải xuất trình các tài liệu hoặc biên bản làm việc để chứng minh việc người đó hoặc người đại diện theo ủy quyền đã tiến hành xác minh tại các cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ các thông tin về tài sản, đang quản lý tài sản, tài khoản của người phải thi hành án nhưng không có kết quả. Việc xác minh tại các cơ quan, tổ chức, cá nhân được coi là không có kết quả khi người được thi hành án hoặc người được ủy quyền chứng minh đã trực tiếp hoặc yêu cầu bằng văn bản nhưng đã quá thời hạn 01 tháng, kể từ ngày yêu cầu nhưng không nhận được văn bản trả lời của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà không có lý do chính đáng”.

Thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án là một nội dung chính trong đơn yêu cầu thi hành án, nếu đơn yêu cầu không có thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án mà cơ quan thi hành án dân sự vẫn thụ lý là không chấp hành đúng qui định trên đây, nhưng vẫn phải nhận đơn yêu cầu, không được từ chối, vì những trường hợp được từ chối nhận đơn yêu cầu tại Điều 34 Luật Thi hành án dân sự không có qui định trường hợp trong đơn yêu cầu không có thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án. Trong thực tế không ít người nộp đơn yêu cầu thi hành án không có thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án, nhất là những người được thi hành trong những việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, không cư trú cùng nơi với người phải thi hành án. Không ít người không biết quyền và nghĩa vụ xác minh điều kiện thi hành án, đến khi cơ quan thi hành án dân sự có thông báo bổ sung thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành và hướng dẫn thực hiện quyền và nghĩa vụ xác minh điều kiện thi hành án, thì người được thi hành án mới tiến hành xác minh hoặc có đơn yêu cầu xác minh.

1.3. Điều 39 Luật Thi hành án dân sự qui định: “Quyết định về thi hành án… phải thông báo cho đương sự… Thông báo phải thực hiện trong 03 ngày làm việc kể từ ngày ra văn bản…”; Tại Điều 44 qui định: “…Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày chủ động ra quyết định thi hành án hoặc kể từ ngày nhận được yêu cầu xác minh điều kiện thi hành án chấp hành viên phải tiến hành xác minh…”; Tại Điều 45, 46 qui định: “… Thời hạn tự nguyện thi hành án là 15 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án… Hết thời hạn này người phải thi hành án có điều kiện thi hành mà không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế”.

Với các qui định này cho thấy, trong thời hạn không quá 18 ngày kể từ ngày Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án, nếu người phải thi hành án có điều kiện thi hành mà không tự nguyện thi hành thì chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng chế. Nhưng tại Điều 4, Điều 5 Thông tư ngày 03/2012/TTLT- BTP- BCA của Bộ Tư pháp và Bộ Công an qui định cụ thể việc phối hợp bảo vệ cưỡng chế trong thi hành án dân sự, quy định về thời hạn phối hợp xây dựng kế hoạch cưỡng chế và phối hợp xây dựng kế hoạch và phương án bảo vệ cưỡng chế quá dài, phải mất khoảng 20 ngày kế hoạch cưỡng chế mới được ban hành, ngoài ra còn cóthời gian bị kéo dài trong trường hợp qui định tại khoản 3 Điều 4 “trường hợp cơ quan cùng cấp có ý kiến khác nhau… Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự tổ chức cuộc họp với đại diện cơ quan công an cùng cấp…”.

1.4. Khoản 1 Điều 28 Luật Thi hành án dân sự qui định: “… Toà án đã ra bản án, quyết định phải chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật”, bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị cũng phải mất 30 ngày kể từ ngày tuyên án mới có hiệu lực; Thời gian để người được thi hành án không có thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án, không tự mình xác minh được, thực hiện được quyền yêu cầu xác minh điều kiện thi hành án để bổ sung thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án vào đơn yêu cầu thi hành án ít nhất 01 tháng. Như vậy, kể từ khi Toà tuyên án cho đến khi Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra được quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu trong trường hợp này cũng phải mất thời gian khoảng 03 tháng.

Có thể nói người phải thi hành án phần lớn không phải là người có ý thức tuân thủ pháp luật tốt. Đối với người có điều kiện thi hành án dân sự thì việc tẩu tán tài sản để trốn tránh việc thi hành án trong thời gian từ khi Toà tuyên án cho đến khi có quyết định về thi hành án là điều dễ thấy, thậm chí còn tẩu tán tài sản ở giai đoạn trước khi Toà tuyên án, cá biệt còn có trường hợp bán tháo tài sản, không lo khắc phục hậu quả do mình gây ra, mà chỉ lo “chạy” để giảm nhẹ hình phạt, hoặc để được thắng kiện, v.v…

Vì vậy, để rút ngắn thời gian tổ chức thi hành án, giảm bớt một số thủ tục hành chính có thể, giúp người được thi hành án kịp thời có đơn yêu cầu thi hành án có thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án, chấp hành viên có thể kết hợp được việc thi hành án theo đơn yêu cầu đồng thời với việc thi hành án chủ động, kịp thời tổ chức thi hành án, hạn chế việc tẩu tán tài sản của người phải thi hành, là cần thiết.

2. Một số kinh nghiệm trong thi hành án dân sự mà Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh đã áp dụng

2.1. Tổ chức thi hành án 01 lần đối với một người vừa có khoản phải thi hành án chủ động vừa có khoản phải thi hành án theo đơn yêu cầu đồng thời với việc khuyến khích người phải thi hành án tự nguyện thi hành

Nhận được bản án quyết định có hiệu lực thi hành do Toà án chuyển đến, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự giao ngay cho chấp hành viên dự kiến phân công tổ chức thi hành, nghiên cứu kỹ án và ban hành văn bản hướng dẫn chấp hành án cho người có nghĩa vụ dân sự theo án tuyên, toàn bộ nghĩa vụ dân sự phải thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự. Chỉ dẫn cho người phải thi hành án địa chỉ cơ quan thi hành án có trách nhiệm tổ chức thi hành, khuyến khích người phải thi hành án tự nguyện thi hành theo hướng có lợi cho người phải thi hành án, nội dung “nếu người phải thi hành án tự nguyện thi hành sớm thì không phải chịu lãi suất do Ngân hàng Nhà nước qui định tương ứng số tiền và thời gian chậm thi hành án, không bị áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế và phải chịu chi phí cưỡng chế thi hành án theo qui định tại Điều 66, 71, 73 Luật Thi hành án dân sự…”.

Đối với người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù, trong văn bản hướng dẫn “chấp hành án” có thêm nội dung “nếu người phải thi hành án tự nguyện thi hành là một tiêu chí để xây dựng hồ sơ xin miễn giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù…”.

Văn bản hướng dẫn “chấp hành án” được gửi cho người có nghĩa vụ phải chấp hành án; chính quyền địa phương, cơ quan tổ chức nơi người phải thi hành án cư trú công tác và gia đình người phải chấp hành án biết.

2.2. Kịp thời hướng dẫn người có quyền yêu cầu thi hành án làm đơn yêu cầu thi hành án có nội dung chính là “…Thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án”, tự mình xác minh hoặc yêu cầu chấp hành viên xác minh điều kiện thi hành án

Đồng thời với việc hướng dẫn “chấp hành án” cho người có nghĩa vụ dân sự theo án tuyên, chấp hành viên hướng dẫn yêu cầu thi hành án cho người được quyền yêu cầu thi hành án theo thủ tục thi hành án dân sự, văn bản hướng dẫn yêu cầu thi hành án có nội dung:

– Theo bản án, quyết định… người được thi hành án có quyền thoả thuận về thi hành án, nếu thoả thuận đó không trái pháp luật và đạo đức xã hội, có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án… tổ chức thi hành; Đơn yêu cầu thi hành án phải có các nội dung chính là: Họ, tên, địa chỉ của người yêu cầu, tên cơ quan thi hành án dân sự nơi yêu cầu, họ, tên, địa chỉ của người được thi hành án; người phải thi hành án, nội dung yêu cầu thi hành án, thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.

– Trường hợp người được thi hành án không có thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án để ghi vào đơn yêu cầu thi hành án, thì có quyền tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác minh điều kiện thi hành án. Nếu người được thi hành án đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà không thể tự xác minh được điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì có thể yêu cầu chấp hành viên tiến hành xác minh và phải chịu các chi phí xác minh theo qui định tại Điều 73 Luật Thi hành án dân sự.

– Trường hợp người phải thi hành án, phải thi hành đồng thời cả khoản nghĩa vụ thi hành án theo đơn yêu cầu và nghĩa vụ thi hành án thuộc diện Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành án thì hướng dẫn cho người có quyền yêu cầu thi hành án biết: Việc xác minh điều kiện thi hành án của đương sự được chấp hành viên chủ động tiến hành cho đến khi người phải thi hành án thi hành xong khoản nghĩa vụ thuộc diện chủ động. Kết quả xác minh tiếp tục được công nhận để tổ chức thi hành khoản nghĩa vụ theo đơn yêu cầu. Việc xác minh các tài sản tiếp theo của người phải thi hành án được tiến hành theo yêu cầu của người được thi hành án.

2.3. Kịp thời yêu cầu Uỷ ban nhân dân cấp xã, cơ quan tổ chức nơi người phải thi hành án cư trú, công tác, có trụ sở hoặc có tài sản; Cơ quan tổ chức được giao theo dõi quản lý người đang chấp hành án hình sự, phối hợp tổ chức thi hành án, khuyến khích người phải thi hành án tự nguyện thi hành

– Ban hành kèm theo văn bản hướng dẫn “chấp hành án”, văn bản gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường thị trấn nơi người phải thi hành án cư trú, công tác, có trụ sở hoặc có tài sản, đề nghị phối hợp thực hiện nhiệm vụ quyền hạn trong thi hành án dân sự theo qui định tại Điều 175 Luật Thi hành án dân sự. Cụ thể, phối hợp với chấp hành viên và cơ quan thi hành án dân sự trong các việc: Tống đạt các văn bản về thi hành án cho người phải thi hành án, hoặc niêm yết tại nơi cư trú, lập biên bản giao nhận hoặc biên bản niêm yết và chuyển lại cho cơ quan thi hành án dân sự khi có yêu cầu; Triệu tập người phải thi hành án đến trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc trực tiếp đến nơi cư trú, nơi công tác để khuyến khích người phải thi hành án tự nguyện thi hành. Phối hợp áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự, biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Nếu người phải thi hành án chưa chấp hành xong nghĩa vụ dân sự theo án tuyên mà có đăng ký biến động chuyển nhượng, chứng thực chuyển dịch tài sản thì yêu cầu phải thực hiện xong nghĩa vụ thi hành án trước khi giải quyết việc đăng ký, chứng thực, kịp thời thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự biết để kịp thời áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án.

– Đối với người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù thì ban hành kèm theo văn bản hướng dẫn chấp hành án, văn bản đề nghị Giám thị Trại giam nơi người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù, đề nghị phối hợp thực hiện nhiệm vụ quyền hạn theo qui định tại Điều 180 Luật Thi hành án dân sự. Cụ thể đề nghị phối hợp với chấp hành viên và cơ quan thi hành án dân sự, trong các việc: Giáo dục người đang chấp hành án hình sự thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Toà án; Nếu người phải thi hành án dân sự tự nguyện thi hành thì coi đó là một tiêu chí để đánh giá phân loại cải tạo tốt và lập hồ sơ đề nghị xét miễn giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù. Giúp chấp hành viên hỏi ghi lời khai thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án dân sự của người phải thi hành án và gửi lại cho chấp hành viên cơ quan thi hành án; Thực hiện việc thông báo giấy tờ về thi hành án dân sự cho người phải thi hành án khi có yêu cầu. Phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự thu tiền thi hành án của người phải thi hành án. Kịp thời thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự về nơi cư trú của người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt tù, được đặc xá, được miễn chấp hành hình phạt tù.

Trong trường hợp Trại giam ở gần trụ sở cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên trực tiếp vào trại được thì văn bản này còn có thêm nội dung đề nghị ban giám thị trại: Bố trí cho chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự được làm việc trực tiếp với người phải thi hành án tại trại, để thông báo trực tiếp các văn bản về thi hành án, khuyến khích tự nguyện thi hành và hỏi, ghi lời khai thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án.

2.4. Kết hợp thông báo quyết định thi hành án với phối hợp khuyến khích người phải thi hành tự nguyện thi hành, xác minh trực tiếp điều kiện thi hành án và xây dựng dự thảo kế hoạch cưỡng chế

– Ngay sau khi ra quyết định thi hành án, chấp hành viên trực tiếp đến tại nơi cư trú của người phải thi hành án, tiến hành đồng thời việc thông báo quyết định thi hành án, khuyến khích người phải thi hành tự nguyện thi hành và xác minh trực tiếp điều kiện thi hành án tại nơi cư trú, nơi có tài sản.

– Ngay sau khi có kết quả xác minh, chấp hành viên xây dựng luôn dự thảo kế hoạch cưỡng chế với các nội dung theo qui định tại Điều 72 Luật Thi hành án dân sự và dự trù chi phí cưỡng chế.

– Sau khi hoàn thiện dự thảo kế hoạch cưỡng chế và dự trù chi phí cưỡng chế, nếu người phải thi hành án vẫn không tự nguyện thi hành, chấp hành viên yêu cầu cơ quan công an cùng cấp và Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người phải thi hành án cư trú, công tác, có trụ sở hoặc có tài sản, triệu tập người phải thi hành án đến trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc trực tiếp đến nơi cư trú, nơi công tác, tiếp tục khuyến khích người phải thi hành án tự nguyện thi hành; Đồng thời thông báo cho người phải thi hành án biết việc chấp hành viên đã dự thảo kế hoạch cưỡng chế và dự trù chi phí cưỡng chế hết số tiền… Nếu người phải thi hành vẫn không tự nguyện thi hành thì ngay sau buổi làm việc này chấp hành viên sẽ phối hợp cơ quan công an cùng cấp và Uỷ ban nhân dân cấp xã xây dựng và ban hành kế hoạch cưỡng chế thi hành án.

3. Kết quả áp dụng các giải pháp cải cách hành chính và khuyến khích người phải thi hành án tự nguyện thi hành

Qua một số vụ cụ thể, chúng tôi xin nêu 02 vụ án sau đây chấp hành viên đã thi hành xong đồng thời 02 việc thi hành án chủ động và 12 việc thi hành án theo đơn yêu cầu, rút ra được nhiều kinh nghiệm cải cách thủ tục hành chính trong thi hành án dân sự và khuyến khích người phải thi hành án tự nguyện thi hành:

Một là: Việc thi hành án đối với Công ty CPDVTM Thanh Hành

Bản án số 01/2011/KTST ngày 22/6/2011 của Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh tuyên: Buộc Công ty cổ phần dịch vụ thương mại Thanh Hành có nghĩa vụ nộp án phí 6,760 triệu đồng, thanh toán cho Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng – Chi nhánh Hà Tĩnh (VPBank) số tiền 135,260 triệu đồng. Trong trường hợp Công ty CPDVTM Thanh Hành không có khả năng thanh toán nợ trên cho Ngân hàng VPBank thì ông Nguyễn Trọng Thắng và bà Trần Thị Vinh phải có nghĩa vụ thanh toán… Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, Ngân hàng VPbank có đơn yêu cầu thi hành án mà phía phải thi hành án chưa thi hành xong khoản tiền phải thi hành án thì phải chịu lãi suất quá hạn theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước qui định tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

Sau khi nhận được văn bản hướng dẫn yêu cầu thi hành án Ngân hàng VPBank Chi nhánh Hà Tĩnh đến ngay Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh nộp đơn yêu cầu thi hành án, trong đơn yêu cầu có một số thông tin về tài sản và điều kiện thi hành án của Công ty CPDVTM Thanh Hành và đơn yêu cầu xác minh điều kiện thi hành án. Cục Thi hành án dân sự tỉnh chấp nhận thụ lý đơn yêu cầu, tổ chức thi hành án đồng thời khoản thi hành án theo đơn yêu cầu và khoản thi hành án chủ động.

Sau khi nhận được văn bản hướng dẫn chấp hành án, Công ty CPDVTM Thanh Hành đến ngay Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh nộp đủ toàn bộ tiền án phí. Nhân sự có mặt của đại diện người phải thi hành án đến nộp án phí, chấp hành viên tiến hành luôn việc xác minh điều kiện thi hành án, hỏi và ghi lời khai của người đại diện về tài sản, điều kiện thi hành án và yêu cầu Công ty CPDVTM Thanh Hành gửi cho cơ quan thi hành án dân sự báo cáo tài chính. Đồng thời, chấp hành viên thông báo luôn Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu và khuyến khích Công ty CPDVTM Thanh Hành tự nguyện thi hành việc trả nợ cho Ngân hàng VPBank trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Quyết định thi hành án. Đến hết thời hạn tự nguyện thi hành, Công ty CPDVTM Thanh Hành nộp được bằng tiền mặt và tự vận chuyển hết toàn bộ tài sản còn lại của Công ty đến kho cơ quan thi hành án, tự nguyện để chấp hành viên xử lý hết tài sản, trả nợ cho Ngân hàng VPBank được 71,39 triệu đồng.

Xử lý hết tài sản của Công ty CPDVTM Thanh Hành nhưng vẫn không thu hết nợ cho Ngân hàng VPBank, chấp hành viên tiếp tục ban hành văn bản hướng dẫn chấp hành án cho ông Nguyễn Trọng Thắng và bà Trần Thị Vinh người có trách nhiệm thanh toán trong trường hợp Công ty CPDVTM Thanh Hành không còn khả năng thanh toán. Nhận được văn bản hướng dẫn này, ông Nguyễn Trọng Thắng và bà Trần Thị Vinh đã tự nguyện thực hiện hết nghĩa vụ của Công ty CPDVTM Thanh Hành phải trả nợ cho Ngân hàng VPBank Chi nhánh Hà Tĩnh.

Hai là: Việc thi hành án đối với ông Nguyễn Viết Đồng trú quán xóm 3B, xã Tăng Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An

Bản án số 03/2012/HSST ngày 17/01/2012 của Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh tuyên: Bị cáo Nguyễn Viết Đồng phạm tội “Trộm cắp tài sản”; xử phạt Đồng 07 năm tù, thời hạn tù kể ngày 04/4/2011. Về nghĩa vụ dân sự, Nguyễn Viết Đồng phải nộp 6,730 triệu đồng án phí, tịch thu sung công quỹ 2,50 triệu đồng và bồi thường cho 08 người bị hại tổng số tiền 130,560 triệu đồng; Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà bị cáo chưa thi hành thì phải chịu lãi suất theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước qui định tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

Sau khi nhận được văn bản hướng dẫn yêu cầu thi hành án 08 người bị hại kịp thời có đơn yêu cầu thi hành án và đơn yêu cầu xác minh điều kiện thi hành án đối với Nguyễn Viết Đồng, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh chấp nhận thụ lý đơn yêu cầu; chấp hành viên tổ chức thi hành án đồng thời khoản thi hành án theo đơn yêu cầu và khoản thi hành án chủ động.

Người phải thi hành án Nguyễn Viết Đồng gia đình và tài sản có tại xóm 3B, xã Tăng Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Theo qui định tại Điều 55 Luật Thi hành án dân sự thì Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh có quyền uỷ thác cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Thành tỉnh Nghệ An tổ chức thi hành. Nhưng biết được thông tin Nguyễn Viết Đồng đang chấp hành hình phạt tù tại Trại giam Xuân Hà tỉnh Hà Tĩnh cách trụ sở Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh chừng 15km, nên chấp hành viên trực tiếp vào trại giam tống đạt văn bản hướng dẫn chấp hành án cho Nguyễn Viết Đồng, đồng thời khuyến khích Nguyễn Viết Đồng tự nguyện thi hành và hỏi ghi lời khai thông tin về tài sản, điều kiện thi hành án. Sau khi đọc xong văn bản hướng dẫn chấp hành án, nghe chấp hành viên khuyến khích tự nguyện thi hành theo hướng có lợi, Nguyễn Viết Đồng xin chấp hành viên điện thoại về cho gia đình (vợ, chú và em trai) xin tiền và nhờ vay hộ để thi hành án. Em trai của Nguyễn Viết Đồng (ở xã Tăng Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An cách trụ sở cơ quan thi hành án chừng 150km) sau 02 ngày kể từ ngày gia đình nhận được văn bản hướng dẫn chấp hành án, đã đến Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh nộp đủ tiền án phí, tịch thu sung công và bồi thường cho các gia đình bị hại.

Từ những kinh nghiệm cải cách hành chính trong thi hành án dân sự và khuyến khích người phải thi hành án tự nguyện thi hành trên đây, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh đã đưa vào Đề án “Tăng cường giải quyết việc thi hành án dân sự tồn đọng” được Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh phê duyệt tại Quyết định số 1273QĐ – UBND ngày 03/5/2012. Trong nhóm giải pháp nâng cao năng lực quản lý nghiệp vụ và tổ chức thi hành án, có nội dung: Tích cực, kiên trì khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành, bằng nhiều biện pháp tác động về mặt tinh thần, tư tưởng, nêu cao ý thức chấp hành pháp luật, làm cho người phải thi hành án nhận thức được quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của mình, từ đó lựa chọn biện pháp tự nguyện thi hành; Xác minh điều kiện thi hành án kịp thời, trực tiếp cụ thể điều kiện kinh tế, hiện trạng tài sản; Khai thác thông tin thông qua nhiều kênh như người thân, bạn bè, đồng nghiệp, khối phố, xóm, cơ quan đơn vị nơi người phải thi hành án cư trú, công tác, có tài sản, tại cơ quan đăng ký quyền sở hữu, đăng ký giao dịch bảo đảm v.v… Chủ động phối hợp chặt chẽ với Uỷ ban nhân dân cấp xã và các cơ quan tổ chức nơi người phải thi hành án cư trú, công tác, để khuyến khích tự nguyện thi hành, xác minh điều kiện thi hành án và áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án; Chủ động phối hợp với trại giam, trại tạm giam nơi có người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù; Trực tiếp hoặc có văn bản yêu cầu Ban giám thị trại hỗ trợ thuyết phục tự nguyện thi hành và ghi lời khai về điều kiện thi hành án.

Trên đây là một số kinh nghiệm cải cách hành chính trong công tác thi hành án dân sự và khuyến khích tự nguyện thi hành tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh, chúng tôi xin mạnh dạn trao đổi để các đồng nghiệp cùng nghiên cứu áp dụng

Võ Thuần Nho

Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bàn về thụ lý các tranh chấp hết thời hiệu khởi kiện

13/05/2013

Khoản 1 Điều 159 Bộ luật Tố tụng Dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 qui định: “Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Việc qui định thời hiệu khởi kiện là rất cần thiết nhằm đảm bảo trật tự xã hội, đảm bảo quyền được bảo vệ an toàn của con người; điều này cũng phù hợp với luật pháp quốc tế. Nếu hết thời hiệu khởi kiện thì chủ thể có quyền khởi kiện mất quyền khởi kiện, nghĩa là Tòa án sẽ không thụ lý giải quyết vụ án đó.

Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 cũng qui định trong thời hạn 05 ngày làm việc sau khi nhận đơn thì Tòa án sẽ xử lý đơn, trả lời cho người khởi kiện: Hoặc là thụ lý vụ án, hoặc là trả lại đơn khởi kiện (theo Điều 168 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011) hoặc là yêu cầu sửa chữa, bổ sung đơn khởi kiện (theo Điều 169 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011). So với Bộ luật Tố tụng dân sự cũ, Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 đã bãi bỏ qui định trả lại đơn khởi kiện với lý do hết thời hiệu khởi kiện, cũng như không có qui định việc sửa chữa, bổ sung đơn khởi kiện, trong trường hợp này thì đồng nghĩa với việc Tòa án phải thụ lý giải quyết các tranh chấp đã hết thời hiệu khởi kiện, các tranh chấp mà chủ thể có quyền đã mất quyền khởi kiện. Rõ ràng việc qui định thời hiệu khởi kiện và thụ lý các tranh chấp đã hết thời hiệu khởi kiện đã “vô tình” mâu thuẫn nhau. Bởi lẽ, vô hình chung, Tòa án phải thụ lý tất cả các tranh chấp hết thời hiệu khởi kiện, điều này có nghĩa các chủ thể được quyền khởi kiện đều có quyền khởi kiện khi thời hiệu khởi kiện đã hết, chứ không phải mất quyền khởi kiện như khoản 1 Điều 159 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 đã qui định nữa.

Mặc dù, khoản 1 Điều 159 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 cũng có qui định trường hợp ngoại lệ đối với thời hiệu khởi kiện “trừ trường hợp pháp luật có qui định khác” nhưng việc qui định này là qui định về thời hiệu khởi kiện (qui định về thời hạn để khởi kiện), chứ không phải qui định về việc còn quyền khởi kiện hay mất quyền khởi kiện. Nghĩa là, không phải trường hợp loại trừ nếu pháp luật có qui định thụ lý các tranh chấp đã hết thời hiệu khởi kiện (pháp luật có qui định khác) là phải tuân theo qui định đó. ở đây, được hiểu là trường hợp loại trừ, trong trường hợp bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện theo qui định tại Điều 162 Bộ luật Dân sự:

“1. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại trong trường hợp sau đây:

a) Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện;

b) Bên có nghĩa vụ thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện;

c) Các bên đã tự hoà giải với nhau.

2. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại kể từ ngày tiếp theo sau ngày xảy ra sự kiện quy định tại khoản 1 Điều này”.

Ngoài ra, “trừ trường hợp pháp luật có qui định khác” theo khoản 1 Điều 159 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 cũng được hiểu là loại trừ các trường hợp không tính thời hiệu khởi kiện.

Do đó, định nghĩa và qui định về thời hiệu khởi kiện như Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 là chưa chính xác, chưa phù hợp với thực tiễn áp dụng pháp luật. Mặt khác, nếu tòa án phải thụ lý các tranh chấp đã hết thời hiệu khởi kiện là “vô tình” mâu thuẫn với các qui định pháp luật khác, làm cản trở các qui định của pháp luật chuyên ngành khác. Cụ thể như:

Điều 74 và Điều 75 Luật Thi hành án dân sự có qui định:

“Điều 74. Cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung

1. Trước khi cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung của người phải thi hành án với người khác, kể cả quyền sử dụng đất, chấp hành viên phải thông báo cho chủ sở hữu chung biết việc cưỡng chế.

Chủ sở hữu chung có quyền khởi kiện yêu cầu toà án xác định phần sở hữu của họ đối với tài sản chung. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, nếu chủ sở hữu chung không khởi kiện thì người được thi hành án hoặc chấp hành viên có quyền yêu cầu toà án xác định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để bảo đảm thi hành án.

Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu chung của vợ, chồng thì chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết. Trường hợp vợ hoặc chồng không đồng ý thì có quyền khởi kiện yêu cầu toà án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày phần sở hữu được chấp hành viên xác định. Hết thời hạn trên, đương sự không khởi kiện thì chấp hành viên tiến hành xử lý tài sản và thanh toán lại cho vợ hoặc chồng của người phải thi hành án giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu của họ.

2. Tài sản kê biên thuộc sở hữu chung đã xác định được phần sở hữu của các chủ sở hữu chung được xử lý như sau:

a) Đối với tài sản chung có thể chia được thì chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế phần tài sản tương ứng với phần sở hữu của người phải thi hành án;

b) Đối với tài sản chung không thể chia được hoặc nếu việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với toàn bộ tài sản và thanh toán lại cho chủ sở hữu chung còn lại giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu của họ.

3. Khi bán tài sản chung, chủ sở hữu chung được quyền ưu tiên mua tài sản.

Điều 75. Xử lý đối với tài sản khi cưỡng chế có tranh chấp

Trường hợp cưỡng chế đối với tài sản của người phải thi hành án mà có tranh chấp với người khác thì chấp hành viên tiến hành cưỡng chế và yêu cầu đương sự, người có tranh chấp khởi kiện tại toà án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Chấp hành viên xử lý tài sản đã kê biên theo quyết định của toà án, cơ quan có thẩm quyền.

Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày chấp hành viên yêu cầu mà đương sự, người có tranh chấp không khởi kiện tại toà án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì tài sản được xử lý để thi hành án theo quy định của Luật này”.

Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Nên việc qui định thời hạn 30 ngày để các chủ thể có quyền thực hiện quyền khởi kiện được qui định tại các Điều 74, 75 Luật Thi hành án dân sự chính là thời hiệu khởi kiện theo pháp luật chuyên ngành, điều này phù hợp với Điều 159 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011.

Ngoài ra, Thông tư liên tịch 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự cũng có hướng dẫn: “Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thông báo mà không có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án xử lý tài sản theo quy định của pháp luật, trường hợp có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án chỉ xử lý tài sản khi có bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Về nguyên tắc, nếu tòa án thụ lý các tranh chấp liên quan đến tài sản kê biên có tranh chấp thì cơ quan thi hành án dân sự sẽ hoãn việc thi hành án theo điểm d khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự và chỉ giải quyết lại khi nào vụ án tranh chấp về tài sản kê biên được giải quyết xong. Do vậy, nếu hết thời hạn 30 ngày, đương sự không khởi kiện thì cơ quan thi hành án dân sự sẽ làm thủ tục tiếp theo như thẩm định giá, bán đấu giá tài sản. Việc xác định trong thời hạn qui định luật định theo pháp luật thi hành án dân sự có ý nghĩa rất quan trọng để xác định hướng tác nghiệp tiếp theo đối với các chấp hành viên, nó góp phần tạo ra các quyết định chính xác và đúng pháp luật.

Tuy nhiên, nếu các đương sự tranh chấp không thực hiện quyền khởi kiện để giải quyết tranh chấp trong thời hạn qui định của cơ quan thi hành án dân sự, mà đợi tới khi cơ quan thi hành án dân sự tiến hành các thủ tục thẩm định giá, bán đấu giá mới khởi kiện tranh chấp tài sản kê biên và căn cứ vào qui định: “Phải thụ lý các tranh chấp hết thời hiệu khởi kiện” thì về nguyên tắc Tòa án vẫn phải thụ lý tranh chấp này. Nhưng việc đương sự thực hiện quyền khởi kiện ngoài thời hạn qui định sẽ gây khó khăn, cản trở cho cơ quan thi hành án, có thể gây tốn kém chi phí thẩm định giá, bán đấu giá tài sản,.. nếu tài sản kê biên có thay đổi vì phán quyết của Tòa án. Thậm chí, nếu các đương sự tranh chấp về tài sản kê biên đợi đến khi bán đấu giá hoàn thành, đang chờ thủ tục giao tài sản mới thực hiện việc khởi kiện thì Tòa án vẫn phải thụ lý giải quyết vụ án và sau đó phán quyết của Tòa án làm thay đổi tài sản kê biên, thay đổi chủ sở hữu của tài sản kê biên…, thì sẽ mang lại những hệ quả khó khắc phục và giải quyết.

Do phán quyết của Tòa án, nên tài sản kê biên bị thay đổi, buộc cơ quan thi hành án phải tiến hành lại thủ tục kê biên, thẩm định giá, bán đấu giá, làm tốn kém chi phí.

Sở dĩ, có qui định “phải thụ lý các tranh chấp hết thời hiệu khởi kiện” là do các nhà làm luật cho rằng: “Dân sự cốt ở hai bên”, đảm bảo quyền tự định đoạt, cũng như quyền khởi kiện của của công dân khi quyền lợi của mình bị xâm phạm. Nếu, vì lý do hết thời hiệu khởi kiện mà trả lại đơn khởi kiện, không thụ lý vụ án là thiệt thòi cho người nộp đơn, tước đi quyền khởi kiện của đương sự. Mặt khác, nó cũng phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự về việc bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện (bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ đối với người khởi kiện; bên có nghĩa vụ đã thực hiện xong một phần nghĩa vụ đối với người khởi kiện; các bên đã tự hòa giải với nhau).

Theo quan điểm trên, dù tranh chấp đã hết thời hiệu khởi kiện, Tòa án vẫn phải thụ lý đơn khởi kiện, sau đó xem xét vụ việc có thể bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện theo quy định của Bộ luật Dân sự hay không.

Vấn đề là Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 cũng có quy định Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án với lý do hết thời hiệu khởi kiện (Điều 192). Cho đến nay, chưa có hướng dẫn rằng tới thời điểm nào sau khi thụ lý vụ kiện, thì thẩm phán ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.

Giả sử sau khi thụ lý, thẩm phán không triệu tập bị đơn lên làm việc mà lại ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án ngay, thì điều này chỉ gây phiền phức cho người khởi kiện và gây tốn kém chi phí của người khởi kiện, chưa kể là làm cho lượng án phải thụ lý giải quyết của Tòa án ngày một tăng lên do phải thụ lý giải quyết các tranh chấp hết thời hiệu khởi kiện.

Vì vậy, qui định thụ lý các tranh chấp đã hết thời hiệu khởi kiện là chưa thật sự phù hợp với thực tiễn hiện nay, vì nó làm phát sinh nhiều vụ việc, làm tốn kém chi phí của xã hội, nhưng hiệu quả lại rất ít và không như mong muốn của các nhà làm luật, vì nếu bị đơn biết được qui định đình chỉ giải quyết vụ án khi hết thời hiệu khởi kiện, thì họ cũng “không dại” gì thừa nhận để bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện; để mặc tòa triệu tập và đình chỉ giải quyết vụ án. Bởi vì đó là quyền an toàn của họ, họ được quyền sử dụng quyền đó để “đối phó” bảo vệ cho họ. Cho nên, việc qui định thụ lý các tranh chấp đã hết thời hiệu khởi kiện, để rồi sau đó đình chỉ giải quyết vụ án cũng vì chính lý do này là không cần thiết

Huỳnh Minh Khánh

Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, Tiền Giang

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Biện pháp bảo đảm cho bản án, quyết định về dân sự của Tòa án có tính khả thi

28/03/2013

Hiện nay, sau khi Toà án ra phán quyết, ở giai đoạn thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự thường phải điều tra, xác minh tài sản, thu nhập của người phải thi hành án để buộc họ thực thi nghĩa vụ nếu không tự nguyện thi hành. Việc điều tra, xác minh thu nhập, tài sản của người phải thi hành án thường mất rất nhiều thời gian và công sức, làm cho việc thi hành án bị kéo dài, vì có rất ít trường hợp đương sự tự nguyện cung cấp điều kiện thi hành án của mình, thậm chí nhiều trường hợp còn dùng nhiều cách tẩu tán, che giấu tài sản, thu nhập để trì hoãn, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Vì vậy, tìm ra một cơ chế bảo đảm cho bản án, quyết định về dân sự của Toà án có tính khả thi ngay sau khi Toà án ra phán quyết là vấn đề đang được quan tâm hiện nay.

Để phán quyết của Toà án được bảo đảm thi hành một cách nhanh chóng, hiệu quả nhất, qua thực tiễn, chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp bảo đảm tính khả thi của các bản án, quyết định về dân sự của Toà án để bạn đọc tham gia ý kiến.

1. Đối với các vụ kiện về nghĩa vụ trả tiền: Pháp luật cần sửa đổi theo hướng quy định khi vụ kiện xảy ra, Toà án yêu cầu người bị khởi kiện phải tạm nộp một khoản tiền bằng giá trị số tiền bị đòi nợ để chứng minh mình không có nghĩa vụ, người khởi kiện phải tạm nộp một khoản tiền bằng với khoản lãi suất tín dụng cho vay mà Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với khoản tiền khởi kiện và thời gian giải quyết vụ kiện cho cơ quan thi hành án dân sự, làm cơ sở để thụ lý và giải quyết vụ kiện. Nếu người bị khởi kiện không nộp số tiền trên, người khởi kiện có quyền yêu cầu Toà án kê biên bất kỳ tài sản nào tương ứng với số tiền khởi kiện hoặc toàn bộ tài sản của người bị khởi kiện để bảo đảm thực thi nghĩa vụ trả nợ sau này (nếu thắng kiện). Khi án có hiệu lực pháp luật, theo quyết định của Toà án, nếu nguời bị khởi kiện có nghĩa vụ trả tiền, cơ quan thi hành án dân sự chỉ cần dùng số tiền họ đã nộp trước trả cho người khởi kiện; nếu họ không có nghĩa vụ trả tiền, thì cơ quan thi hành án dân sự trả lại số tiền mà họ đã tạm nộp hoặc giải toả kê biên, trả lại tài sản cho họ, người khởi kiện phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị khởi kiện bằng toàn bộ khoản tiền theo mức lãi suất cho vay mà người khởi kiện đã tạm nộp trong giai đoạn xét xử vụ việc và những chi phí phát sinh khác, thậm chí còn phải chịu khoản tiền phạt nếu lợi dụng việc khởi kiện để gây thiệt hại về thời gian, công sức và tài sản đối với người bị khởi kiện.

2. Đối với các vụ tranh chấp, phân chia tài sản: Pháp luật cần sửa đổi theo hướng quy định khi giải quyết vụ kiện, cơ quan thi hành án dân sự được tham gia cùng Toà án trong việc xác minh tài sản, vẽ sơ đồ hiện trạng, xác định mốc giới đối với nhà đất…, để có sự định hình và thống nhất giữa các dữ kiện cho việc thi hành án sau này. Thực tế hiện nay khi giải quyết các vụ việc loại này, Toà án cũng vẫn phải phối hợp với các cơ quan hữu quan khác để tiến hành những công việc trên. Nếu cơ quan thi hành án dân sự được tham gia vào công việc này thì cũng là chỉ thêm một thành phần, nhưng hiệu quả khi thi hành án là rất to lớn. Bởi vì, khi tổ chức thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự chỉ cần căn cứ vào quyết định của Toà án, các dữ kiện đã thu thập được trước đây để xác định tài sản, phân chia tài sản tranh chấp, đảm bảo được tính chính xác của bản án. Quy định như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành án, hạn chế được tình trạng vướng mắc, sai sót giữa bản án của Toà án với thực tế khi thi hành án, mà vướng mắc này hiện nay vẫn đang là nguyên nhân dẫn đến nhiều vụ việc thi hành án còn tồn đọng do bản án không thi hành được.

3. Đối với các việc dân sự trong vụ án hình sự: Như bồi thường thiệt hại, tịch thu tài sản, truy thu do thu lợi bất chính…, pháp luật cần quy định rõ trong khi giải quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng như: Công an, Toà án phải có trách nhiệm uớc tính tất cả nghĩa vụ dân sự mà bị can, bị cáo sẽ phải thi hành, đồng thời phải triệt để thực hiện việc kê biên, tạm giữ tài sản của họ để đảm bảo cho việc thi hành án sau này.

Trước thực trạng một số người phạm tội trong các vụ án hình sự phải thi hành khoản bồi thường thiệt hại cho các cá nhân, tổ chức, nhưng chưa có tài sản để thi hành án, dẫn đến những tổn hại về tính mạng, vật chất hay tinh thần của người bị hại trong vụ án không được đảm bảo, công lý không được thực thi và làm cho vụ việc tồn đọng, cần thành lập Quỹ bảo đảm bồi thường thiệt hại trong các vụ án hình sự để chi trả thay cho người phải thi hành án. Quỹ bảo đảm bồi thường thiệt hại trong các vụ án hình sự có thể được thành lập ở trung ương, do Uỷ ban các vấn đề về xã hội của Quốc hội quản lý. Nguồn kinh phí của Quỹ có thể do Nhà nước bảo đảm một phần (vì Nhà nước có trách nhiệm trong việc quản lý xã hội và duy trì trật tự pháp luật, khi người bị hại không được bồi thường bởi hành vi phạm tội thì trật tự xã hội không được bảo đảm, phán quyết của Toà án nhân danh Nhà nước không được hiện thực hoá) và đóng góp của các tổ chức, cá nhân khác. Các tổ chức, cá nhân này sẽ được Nhà nước ưu đãi, tạo điều kiện trong một số hoạt động xã hội nào đó vì đã giúp Nhà nước hoàn thành tốt chức năng đảm bảo trật tự xã hội. Khi bản án, quyết định của Toà án về bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự được thi hành, người bị hại yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự áp dụng các biện pháp để buộc người phạm tội phải bồi thường thiệt hại cho họ. Trong trường hợp người phạm tội chưa có khả năng bồi thường như không có tài sản, đang chấp hành hình phạt tù không có tài sản, không có thu nhập nào khác…, trên cơ sở xác nhận của cơ quan thi hành án dân sự, người bị hại có quyền làm đơn đến Quỹ bảo đảm bồi thường thiệt hại trong các vụ án hình sự để yêu cầu được bồi thường thiệt hại thay cho người phải thi hành án. Dựa vào bản án, quyết định của Toà án, xác nhận của cơ quan thi hành án dân sự về việc người phải thi hành án chưa có điều kiện để thi hành án, Quỹ bảo đảm bồi thường thiệt hại trong các vụ án hình sự sẽ chịu trách nhiệm chi trả cho người bị hại khoản bồi thường thiệt hại mà họ được hưởng theo quyết định của Toà án. Quỹ này sau đó sẽ kiện yêu cầu người có hành vi phạm tội hoàn lại các khoản này. Người có hành vi phạm tội sẽ hoàn trả lại Quỹ bằng khoản thu nhập do lao động tại nơi chấp hành hình phạt tù hay trả dần sau khi hết hạn tù, hoặc do người thân trả giúp. Hiện nay, đặc xá là chủ trương lớn, thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của Đảng, Nhà nước và truyền thống của dân tộc ta đối với người bị kết án tù. Một trong những điều kiện để người bị kết án được đặc xá là họ phải thực hiện xong phần trách nhiệm dân sự trong bản án hình sự. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp, do họ chưa thực hiện xong phần trách nhiệm dân sự trong bản án hình sự nên chậm được hưởng chính sách đặc xá, mặc dù đáp ứng được các điều kiện khác. Vì vậy, đối với những trường hợp này, nên áp dụng chính sách “đặc xá có điều kiện”, tức là vẫn xét cho họ được đặc xá không phải chấp hành hình phạt tù nữa nhưng với điều kiện họ phải ở lại lao động tại trại giam một thời gian để có thu nhập hoàn trả khoản tiền mà Quỹ đã trả thay cho họ, tất nhiên trong thời gian này họ được đối xử khác với những người đang phải chấp hành án. Khi đã hoàn trả Quỹ đầy đủ hoặc khi Quỹ thấy không cần thiết phải giữ họ ở lại lao động nữa thì sẽ trao quyết định đặc xá cho họ. Với cơ chế thi hành án như vậy quyền lợi của người bị hại trong các vụ án hình sự sẽ được bảo đảm, phán quyết của Toà án sẽ được thi hành một cách nhanh chóng, công lý được thực thi, nhưng quan trọng nhất là Nhà nước đã thực hiện tốt chức năng, vai trò của mình trong việc đảm bảo ổn định trật tự xã hội.

4. Đối với các vụ có thế chấp tài sản: Thực tế công tác thi hành án dân sự cho thấy, có rất nhiều vụ việc, khi một người (ví dụ người chồng) có nhu cầu vay tiền tại các tổ chức tín dụng pháp luật và phải thế chấp tài sản để bảo đảm tiền vay, họ thường mang thế chấp tài sản thuộc sở hữu chung của gia đình như nhà, quyền sử dụng đất…, có giá trị lớn hơn hoặc bằng khoản tiền cần vay của tổ chức tín dụng. Người đồng sở hữu (người vợ) thường ký tên vào hợp đồng thế chấp tài sản với ý nghĩa là đồng sở hữu tài sản cũng đồng ý với việc thế chấp tài sản. Khi không trả được nợ, tổ chức tín dụng khởi kiện ra Toà án, Toà án quyết định chỉ buộc một mình người vay phải trả nợ cho tổ chức tín dụng, vì chỉ có mình họ đứng tên trong hợp đồng tín dụng. Khi xử lý tài sản thế chấp, việc thi hành án gặp vướng mắc, vì về nguyên tắc, chỉđược dùng tài sản của người phải thi hành án để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án của họ, trong khi đó tài sản thế chấp là tài sản chung, đồng sở hữu còn lại không có nghĩa vụ phải trả nợ theo quyết định của bản án, nên không thể xử lý phần tài sản của họ (mặc dù họ đã đồng ý mang thế chấp) để thi hành án được, vì vậy vụ việc không thể thi hành dứt điểm được và tồn đọng kéo dài. Để giải quyết những trường hợp này, pháp luật cần được sửa đổi theo hướng quy định rõ cơ quan thi hành án dân sự có quyền xử lý ngay và toàn bộ tài sản đã đem thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ tiền vay theo quyết định của Toà án. Người đồng sở hữu có quyền khởi kiện để buộc người phải thi hành án có trách nhiệm trả lại cho mình phần tài sản trong tài sản thế chấp đã bị xử lý.

5. Đối với những vụ việc mà đương sự phải tự mình thực hiện, nhưng có thể thuê người khác làm thay được (ví dụ nghĩa vụ tháo dỡ bức tường xây lấn chiếm trên đất của người khác): Khi thụ lý vụ kiện, Toà án cần dự tính khoản tiền chi phí để thuê người khác thực hiện thay (nếu sau này đương sự thua kiện không tự nguyện thi hành án) và buộc cả 2 bên đương sự đều phải nộp trước khi xét xử. Khi thi hành án, nếu người có nghĩa vụ không tự nguyện thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự chỉ cần dùng khoản tiền nộp trước của họ thuê người khác thực hiện thay, khoản tiền của người thắng kiện đã nộp được trả lại cho họ.

6. Đối với khoản án phí dân sự: Pháp luật cần quy định các đương sự phải nộp tạm ứng toàn bộ số tiền án phí nếu họ phải nộp khi thua kiện là điều kiện để toà án thụ lý xét xử vụ việc dân sự. Bất cứ một bản án, quyết định giải quyết một vụ việc dân sự nào được Toà án xét xử đều có phần quyết định về án phí, lệ phí Toà án (trừ những trường hợp được Toà án miễn nộp án phí, lệ phí theo quy định của pháp luật). án phí, lệ phí Toà án là khoản thu nộp ngân sách nhà nước nên cơ quan thi hành án dân sự phải chủ động ra quyết định thi hành án và tổ chức thi hành. Thực tế công tác thi hành án dân sự hiện nay cho thấy, có rất nhiều vụ việc thi hành án dân sự bị tồn đọng là do đương sự (bao gồm cả người thắng kiện) không nộp tiền án phí sau khi vụ việc được toà án xét xử. Điều này xuất phát từ việc pháp luật hiện nay quy định chỉ có người khởi kiện vụ kiện dân sự mới có nghĩa vụ phải nộp tiền tạm ứng án phí và coi đây là một điều kiện bắt buộc để toà án có cơ sở xem xét, thụ lý đơn khởi kiện. Tuy nhiên, trong vụ án dân sự có giá ngạch người khởi kiện chỉ phải nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm bằng 50% mức án phí dân sự sơ thẩm mà Tòa án dự tính theo giá trị tài sản có tranh chấp mà đương sự yêu cầu giải quyết. Số tiền tạm ứng án phí này được nộp cho cơ quan thi hành án dân sự nơi Toà án xét xử sơ thẩm. Khi ra bản án, quyết định, Toà án quyết định nghĩa vụ chịu án phí theo nguyên tắc đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu của họ không được Tòa án chấp nhận, theo đó, nguyên đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm trong trường hợp toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn không được Tòa án chấp nhận; bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm trong trường hợp toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận; nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu không được Tòa án chấp nhận, bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu của nguyên đơn đối với bị đơn được Tòa án chấp nhận. Như vậy, trong rất nhiều trường hợp, người thua kiện phải chịu 100% án phí dân sự, nhưng do trước đó họ không phải nộp một khoản tiền tạm ứng án phí nào cả, nên khi bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan thi hành án dân sự là đi thu khoản án phí này. Tuy nhiên, những người thua kiện thường có tâm lý đã thua kiện lại phải mất tiền án phí nên tìm mọi cách để trì hoãn, trốn tránh nghĩa vụ nộp án phí. Bên cạnh đó, nhiều vụ việc do tài sản tranh chấp có giá trị lớn như nhà, đất, chia thừa kế là bất động sản (xuất hiện nhiều ở nông thôn trong thời gian gần đây)…, nên số tiền án phí cũng không nhỏ (thường là từ vài triệu đồng tới hàng trăm triệu đồng). Việc buộc người thua kiện (nhất là ở nông thôn) nộp toàn bộ số tiền án phí này một lúc là rất khó khăn, vì vậy, cơ quan thi hành án dân sự phải mất rất nhiều thời gian và công sức mới có thể thu được đầy đủ số tiền án phí theo quyết định của Toà án, làm cho nhiều vụ việc tồn đọng kéo dài.

Để giải quyết những trường hợp này, theo chúng tôi, pháp luật về án phí, lệ phí Toà án cần sửa đổi quy định người khởi kiện chỉ phải nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm bằng 50% mức án phí dân sự sơ thẩm mà Tòa án dự tính theo giá trị tài sản có tranh chấp mà đương sự yêu cầu giải quyết, người bị khởi kiện không phải nộp bất cứ một khoản tiền tạm ứng án phí nào trong vụ án dân sự có giá ngạch như hiện nay, thành quy định tất cả các bên đương sự đều phải nộp số tiền tạm ứng án phí bằng 100% mức án phí dân sự sơ thẩm mà Tòa án dự tính theo giá trị tài sản có tranh chấp mà đương sự yêu cầu giải quyết cho cơ quan thi hành án dân sự nơi Toà án thụ lý vụ việc. Qua việc thu tiền tạm ứng án phí ở các cơ quan thi hành án dân sự cho thấy, ở thời điểm phát sinh vụ kiện, tâm lý của các bên đương sự lúc này là sẵn sàng nộp ngay số tiền tạm ứng án phí này để được Toà án phân xử. Số tiền tạm ứng án phí này sẽ được hoàn trả toàn bộ cho người không phải chịu án phí hoặc hoàn trả một phần khi họ phải chịu một phần án phí theo quyết định của Toà án khi xét xử vụ kiện. Khi tổ chức thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự chỉ phải làm thủ tục nộp ngân sách nhà nước số tiền án phí đương sự phải nộp hoặc trả cho đương sự số tiền tạm ứng án phí họ được hoàn trả theo quyết định của Toà án. Như vậy quyền lợi của các bên đương sự vẫn được đảm bảo, đồng thời phần bản án, quyết định về án phí dân sự của Toà án được thi hành xong một cách dứt điểm với thời gian ngắn nhất, không bị tồn đọng.

7. Đối với án phí hình sự: Pháp luật nên bỏ quy định người bị kết án phải chịu án phí hình sự. án phí là khoản chi phí về xét xử một vụ án mà đương sự phải nộp trong mỗi vụ án do cơ quan có thẩm quyền quy định. Tuy nhiên, án phí hình sự mà người bị kết án phải nộp thì chỉ mang tính chất tượng trưng, vì số tiền mà họ phải nộp (hiện nay là 200.000 đồng) không đủ để chi phí cho bất kỳ việc xét xử vụ án hình sự nào. Nhưng dù ít như vậy, cũng có rất nhiều đương sự không có khả năng nộp khoản tiền này, dẫn đến việc thi hành án bị tồn đọng. Vì vậy, cơ quan có thẩm quyền phải quy định họ được miễn thi hành khoản tiền này khi hết một khoảng thời gian nhất định mà họ vẫn không có điều kiện để thi hành án. Như vậy, phần phán quyết này của bản án, mặc dù chỉ mang tính chất tượng trưng, nhưng cuối cùng cũng không thi hành được mà lại làm cho việc thi hành án bị kéo dài. Thực chất, pháp luật hình sự là công việc chủ động của Nhà nước nhằm giữ gìn trật tự, kỷ cương xã hội, trừng trị những người phạm tội dù họ không mong muốn. Do đó, Nhà nước cần xoá bỏ việc thu án phí hình sự. Như vậy, cũng sẽ giải quyết được nguồn gốc phát sinh lượng án tồn đọng. Về lâu dài, cần sửa đổi các luật có liên quan như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự… theo hướng, khi quyết định trách nhiệm về tài sản, Tòa án chỉ tuyên án trong khả năng có điều kiện thi hành của đương sự. Nghiên cứu xây dựng tiêu chí cơ chế cho phép xoá nợ đối với những khoản qua xác minh chắc chắn không thể thi hành được trên thực tế.

Đặng Đình Quyền

Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hưng Yên

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Lúng túng trong việc thi hành nghĩa vụ giao người chưa thành niên cho người khác nuôi dưỡng

17/04/2013

Bản án sơ thẩm về hôn nhân gia đình số 44/HNGĐ-ST, ngày 12/11/2011 của Toà án nhân dân huyện B tuyên về quan hệ con chung như sau:

“Xử giao cháu Nguyễn Văn A, sinh ngày 20/10/2008 cho chị Trần Thị B nuôi dưỡng, chấp nhận sự tự nguyện của chị B không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung. Cháu A đang ở cùng với anh H, anh H được quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được ngăn cản quyền này”.

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, chị Trần Thị B có đơn yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự huyện T tổ chức thi hành. Căn cứ nội dung bản án và đơn yêu cầu, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự huyện T đã ra quyết định thi hành án về khoản giao cháu Nguyễn Văn A cho chị Trần Thị B nuôi dưỡng và phân công chấp hành viên tổ chức thi hành.

Sau khi được phân công, chấp hành viên đã tiến hành thủ tục thông báo quyết định thi hành án cho các bên theo quy định của pháp luật, trong thời gian tự nguyện thi hành án, chấp hành viên tiến hành làm việc với anh H về nghĩa vụ của anh theo bản án. Phía anh H đồng ý tự nguyện giao cháu A cho chị B nuôi dưỡng và đề nghị cơ quan thi hành án sắp xếp thời gian tổ chức giao cháu A cho chị B.

Theo ý kiến của anh H, chấp hành viên đã xây dựng kế hoạch và tiến hành lập biên bản làm việc giữa anh H, chị B và đại diện chính quyền địa phương về nội dung anh H tự nguyện giao cháu A cho chị B nuôi dưỡng. Sau khi anh H, chị B đã ký đầy đủ vào biên bản làm việc với sự chứng kiến của chấp hành viên cơ quan thi hành án và đại diện chính quyền địa phương, chị B có đưa cháu A về nhà bố mẹ anh H để cháu A chào ông, bà trước khi về sống với mẹ. Ngay sau đó, chị B trình bày với cơ quan thi hành án là bố mẹ anh H và bản thân anh H đã cản trở không cho chị đón cháu A về, chị B đề nghị cơ quan thi hành án đảm bảo quyền nuôi dưỡng của chị theo đúng quyết định của bản án. Đại diện chính quyền địa phương cũng đề nghị Chi cục Thi hành án dân sự huyện giải quyết thấu đáo và triệt để. Đến đây, cơ quan thi hành án dân sự lúng túng trong cách xử lý tiếp theo. Có hai quan điểm trái ngược xin đưa ra để các đồng nghiệp cùng trao đổi, thảo luận:

Quan điểm thứ nhất, cơ quan thi hành án đã hết trách nhiệm kể từ khi anh H, chị B cùng các thành phần đã ký vào biên bản giao, nhận cháu A. Vì vậy, việc thực tế anh H lại không cho chị B đón cháu về nuôi dưỡng, cơ quan thi hành án không có trách nhiệm giải quyết, mà thuộc thẩm quyền của chính quyền địa phương. Việc thi hành án đến đây kết thúc.

Quan điểm thứ hai, cơ quan thi hành án chưa thể kết thúc vụ việc với lý do như trên, mà phải tổ chức cưỡng chế để giao cháu A cho chị B nuôi dưỡng.

Cá nhân tôi đồng ý với quan điểm thứ hai, bởi những căn cứ như sau:

Trong thi hành án dân sự, chỉ có 2 biện pháp để tổ chức thi hành một vụ việc là biện pháp tự nguyện và biện pháp cưỡng chế. Về cách thức thực hiện thì cũng có thể có nhiều, nhưng cũng đều thuộc một trong hai biện pháp nói trên mà thôi. Để dễ giải quyết trường hợp thực tế như trên, tôi chỉ xin phân tích quan điểm của mình về một số vấn đề liên quan trong trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu, vì trong trường hợp này thể hiện rõ nhất về việc tự nguyện và thoả thuận thi hành án. Theo kinh nghiệm của cá nhân tôi, trong biện pháp tự nguyện thi hành án có thể được phân ra thành hai dạng dựa vào ý chí, hành vi của các bên đương sự như sau:

Một là, tự nguyện thi hành án theo ý chí của một bên có nghĩa vụ (bên phải thi hành án): Chúng ta thường bắt gặp dạng này ở những nghĩa vụ thi hành án về tiền là chủ yếu, nghĩa vụ về thực hiện công việc hoặc nghĩa vụ về tài sản thường ít gặp hơn.

Hai là, tự nguyện thi hành án theo ý chí của cả bên có nghĩa vụ và bên có quyền (bên phải thi hành án và bên được thi hành án): Đối với dạng này, có thể bắt gặp ở bất kỳ nghĩa vụ thi hành án dân sự nào. Biểu hiện cụ thể và dễ hiểu nhất chính là việc thoả thuận thi hành án.

Trong tình huống thực tế như trên, chấp hành viên đã ghi nhận sự tự nguyện của anh H và tiến hành lập biên bản giao cháu A cho chị B nuôi dưỡng là đã tổ chức việc thi hành án bằng biện pháp tự nguyện. Biện pháp thi hành án này rất được khuyến khích thực hiện vì giảm thiểu chi phí, thời gian, công sức, mà hơn cả là “đôi bên cùng vui vẻ” vì đều đảm bảo quyền, nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, vấn đề trong tình huống này là chị B chưa được đảm bảo thực tế quyền của mình là được nuôi dưỡng cháu A, nên chị mới tiếp tục đề nghị cơ quan thi hành án đảm bảo quyền lợi về mặt thực tế cho chị. Đề nghị này là hoàn toàn hợp pháp và chính đáng, cơ quan thi hành án cần thực sự nghiêm túc để thực hiện hết trách nhiệm của mình, nếu không thì quyền lợi của chị B vẫn chỉ là trên giấy tờ và hơn nữa là chính cơ quan pháp luật đã làm giảm niềm tin của nhân dân đối với mình.

Như đã phân tích ở trên, chấp hành viên đã lập biên bản giao, nhận cháu A giữa anh H và chị B dưới sự chứng kiến của chấp hành viên và đại diện chính quyền địa phương. Bản chất của việc này chính là chấp hành viên đã chứng kiến sự thoả thuận giữa anh H và chị B về việc anh H tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình. Về hình thức là hoàn toàn đảm bảo quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật Thi hành án dân sự và hướng dẫn tại khoản 2 Điều 3 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP, ngày 13/7/2009 của Chính phủ.

Tuy nhiên, khoản 2 Điều 6 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Trường hợp đương sự không thực hiện đúng thoả thuận thì có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung bản án, quyết định”.

áp dụng vào trường hợp nêu trên, việc thoả thuận giao, nhận cháu A giữa anh H và chị B đã được thực hiện, nhưng ngay sau đó, anh H đã không tôn trọng thoả thuận đó, gây cản trở cho chị B trong việc thực hiện quyền của mình. Lúc này chị B hoàn toàn có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án tổ chức thi hành theo đúng nội dung bản án. Đến đây, cơ quan thi hành án phải tổ chức cưỡng chế giao cháu A cho chị B nuôi dưỡng theo quy định tại Điều 120 Luật Thi hành án dân sự thì mới hết trách nhiệm của mình.

Cũng xin được phân tích thêm về quan điểm thứ nhất, cơ quan thi hành án cho rằng đã hết trách nhiệm kể từ khi biên bản giao, nhận cháu A được các thành phần tham gia ký tên đầy đủ. Việc giải quyết tình huống anh H ngăn cản chị B đón cháu A về nuôi dưỡng thuộc thẩm quyền giải quyết của ủy ban nhân dân xã. Quan điểm này là chưa đúng, bởi trước tiên phải khẳng định rằng đối với việc thi hành án mà đối tượng phải giao ở đây là người chưa thành niên chứ không phải là một tài sản nhất định, do đó không thể áp dụng quy định tại khoản 4 Điều 8 Nghị định số 58 để vận dụng và đẩy trách nhiệm cho ủy ban nhân dân giải quyết được.

Cần nói thêm rằng, khoản 4 Điều 8 Nghị định số 58 áp dụng đối với đối tượng phải giao là tài sản, mà để cơ quan thi hành án thực hiện xong hay nói cách khác là hết trách nhiệm chỉ có khi nào cơ quan thi hành án đã tổ chức cưỡng chế để giao tài sản xong, mà đương sự lại tái chiếm, thì lúc đó trách nhiệm mới thuộc về ủy ban nhân dân hoặc cơ quan có thẩm quyền như cơ quan công an hoặc Toà án nhân dân theo đúng quy định nói trên.

Vấn đề thi hành nghĩa vụ giao người chưa thành niên cho người khác nuôi dưỡng theo bản án, quyết định tuy chiếm số lượng không lớn trong tổng số việc cơ quan thi hành án đang tổ chức thi hành, bởi đa số các đương sự đều tự thực hiện mà không phải làm đơn yêu cầu thi hành án. Tuy nhiên, khi thực hiện cũng còn lúng túng ở cách hiểu, cách làm dẫn đến tình trạng chủ yếu dựa theo “kinh nghiệm cá nhân”, ảnh hưởng đến quyền lợi thực tế của đương sự và gây mất lòng tin vào cơ quan pháp luật nói chung và cơ quan thi hành án dân sự nói riêng. Trên đây là ý kiến cá nhân của tôi, rất mong các đồng nghiệp cùng trao đổi để có cách làm thống nhất

Lương Thanh Tùng

Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Giang, Hải Dương

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Vì sao pháp luật về chứng thực chưa hoàn thiện

18/02/2014

Ở Việt Nam, hoạt động chứng thực do cơ quan hành chính nhà nước thực hiện, nhằm xác nhận tính hợp pháp, xác thực của hợp đồng, giao dịch; tính xác thực của bản sao từ bản chính, của chữ ký cá nhân trong các giấy tờ, văn bản. Hoạt động chứng thực là một dịch vụ hành chính công. Thông qua hoạt động chứng thực, Nhà nước cung cấp dịch vụ đảm bảo sự an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch; tạo độ tin cậy pháp lý cho các giấy tờ, văn bản phục vụ cho việc thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Thực hiện chủ trương tách bạch công tác công chứng và chứng thực theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp, ngày 29/11/2006, Quốc hội đã thông qua Luật Công chứng và ngày 18/5/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 79/2007/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký. Từ thời điểm này, cơ sở pháp lý của hai hoạt động công chứng và chứng thực đã có sự tách bạch rõ ràng. Hoạt động công chứng được thực hiện theo quy định của Luật Công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành, còn hoạt động chứng thực được thực hiện theo quy định của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực và Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Đến nay, sau 13 năm thi hành Nghị định số 75/2000/NĐ-CP và 6 năm thi hành Nghị định số 79/2007/NĐ-CP, hoạt động chứng thực đã đi vào nề nếp và có những đóng góp tích cực trong việc đáp ứng yêu cầu chứng thực của cơ quan, tổ chức, cá nhân, góp phần phòng ngừa tranh chấp, vi phạm pháp luật, thúc đẩy sự phát triển của các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại… Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, hệ thống quy phạm pháp luật về chứng thực còn bộc lộ nhiều bất cập, chưa góp phần cải cách hành chính, gây khó khăn, phiền hà cho cơ quan, tổ chức, cá nhân. Điều này thể hiện cụ thể trên một số mặt như sau:

1. Cơ sở pháp lý của hoạt động chứng thực còn tản mạn, chắp vá, chưa thống nhất, đồng bộ

Hiện nay, việc chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký được thực hiện theo quy định của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007, Nghị định số 04/2012/NĐ-CP ngày 20/1/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Điều 5 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP, Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày 2/2/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về hộ tịch, hôn nhân gia đình và chứng thực; còn việc chứng thực hợp đồng, giao dịch vẫn được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 75/2000/NĐ-CP (Nghị định đã hết phần hiệu lực liên quan đến hoạt động công chứng và chứng thực bản sao, chữ ký). Theo thống kê, hiện nay có tới 4 nghị định và 7 thông tư cùng điều chỉnh hoạt động chứng thực.

Tuy việc chứng thực hợp đồng, giao dịch vẫn được thực hiện theo quy định của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP, nhưng cùng với sự ra đời của hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động chứng thực như Luật Đất đai năm 2003, Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Nhà ở năm 2005…, một số quy định về chứng thực hợp đồng, giao dịch của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP đã lạc hậu, không còn phù hợp với tình hình thực tế. Điều này tạo ra tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong cơ sở pháp lý của hoạt động chứng thực, gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật về chứng thực. Vì vậy, việc sớm xây dựng Luật Chứng thực để tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ cho hoạt động chứng thực là hết sức cần thiết.

2. Một số quy định về thẩm quyền, thủ tục chứng thực các việc cụ thể còn chưa phù hợp

– Về chứng thực bản sao:

Theo quy định của Nghị định số 04/2012/NĐ-CP, Phòng Tư pháp có thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt, tiếng nước ngoài và song ngữ, còn Ủy ban nhân dân cấp xã chỉ có thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt. Quy định này đã gây ra tình trạng quá tải tại các Phòng Tư pháp, bởi hiện nay, rất nhiều giấy tờ, văn bảnđược cấp dưới dạng song ngữ. Để giải quyết vấn đề này, việc phân định lại thẩm quyền chứng thực giữa Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã một cách hợp lý là rất cần thiết.

Hiện nay, quy định về chứng thực bản sao trong một số trường hợp còn chưa rõ ràng, dẫn đến tùy tiện khi áp dụng, cụ thể như: Đối với việc chứng thực bản sao từ bản chính đã hết hiệu lực pháp luật, chứng thực bản sao từ “phó bản”… do pháp luật chưa có quy định cụ thể có được chứng thực bản sao từ các giấy tờ thuộc trường hợp này hay không, do đó đã gây ra tình trạng không thống nhất khi áp dụng (có cơ quan vẫn tiếp nhận chứng thực bản sao từ những “bản chính” này, có cơ quan lại từ chối). Bên cạnh đó, đối với bản chính do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp có cần phải hợp pháp hóa lãnh sự trước khi chứng thực bản sao từ bản chính hay không; bản chính giấy tờ, văn bản bằng tiếng nước ngoài có cần phải dịch sang tiếng Việt trước khi thực hiện chứng thực bản sao hay không, hiện nay cũng chưa có quy định cụ thể.

Đặc biệt, tình trạng lạm dụng bản sao có chứng thực đang ngày càng trở nên phổ biến, gây phiền hà cho người dân, lãng phí cho xã hội. Kết quả thống kê số liệu chứng thực từ năm 2007 đến 31/3/2013 cho thấy, Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã trên toàn quốc đã chứng thực trên 395 triệu bản sao! Con số này cho thấy tình trạng lạm dụng bản sao có chứng thực đã trở nên đáng báo động. Mặc dù tại khoản 2 Điều 6 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP đã quy định cơ quan, tổ chức tiếp nhận bản sao không có chứng thực có quyền yêu cầu đương sự xuất trình bản chính để đối chiếu, song quy định này không phát huy được hiệu quả trên thực tế, do các cơ quan, tổ chức tiếp nhận hồ sơ không tự nguyện áp dụng quy định này. Do đó, cần có quy định chặt chẽ, cụ thể hơn về việc cơ quan, tổ chức tiếp nhận hồ sơ phải tự tổ chức đối chiếu bản sao với bản chính, không được yêu cầu nộp bản sao có chứng thực (trừ trường hợp bản sao được gửi qua hệ thống bưu chính) để khắc phục tình trạng này.

– Về chứng thực chữ ký:

Hiện nay, Nghị định số 79/2007/NĐ-CP chưa có quy định cụ thể về những trường hợp không được chứng thực chữ ký, nên tình trạng lợi dụng chứng thực chữ ký để hợp pháp hóa hợp đồng, giao dịch còn diễn ra phổ biến (tức là những việc về bản chất là hợp đồng, giao dịch, phải được chứng thực theo trình tự, thủ tục chứng thực hợp đồng, giao dịch, nhưng các bên đã lợi dụng, yêu cầu chứng thực theo thủ tục chứng thực chữ ký nhằm trốn tránh lệ phí chứng thực và đơn giản hóa thủ tục). Mặt khác, đối với trường hợp người yêu cầu chứng thực chữ ký mất năng lực hành vi dân sự hoặc văn bản yêu cầu chứng thực chữ ký có nội dung vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội… người thực hiện chứng thực cũng không có cơ sở để từ chối. Do đó, để khắc phục tình trạng này, cần quy định cụ thể những trường hợp không được thực hiện chứng thực theo thủ tục chứng thực chữ ký để hạn chế tình trạng lợi dụng thủ tục chứng thực chữ ký cũng như tạo thuận lợi cho người thực hiện chứng thực khi thực hiện nhiệm vụ.

Bên cạnh đó, cũng do pháp luật chưa có quy định cụ thể về những trường hợp không được chứng thực chữ ký nên hiện nay việc chứng thực chữ ký chưa được áp dụng thống nhất, một số xác nhận hành chính như: Kê khai vốn, xác nhận hồ sơ vay vốn, xác nhận kê khai thu nhập, xác nhận hoàn cảnh gia đình…cũng được thực hiện chứng thực theo thủ tục chứng thực chữ ký. Vì vậy, cần xem xét phân định rõ những loại việc nào thì được chứng thực theo thủ tục chứng thực chữ ký, những loại việc nào cần được xác nhận theo trình tự, thủ tục riêng, tránh tình trạng lạm dụng thủ tục chứng thực chữ ký, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của người xác nhận.

Mâu thuẫn giữa việc thực hiện Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông và nguyên tắc người yêu cầu chứng thực chữ ký phải ký trước mặt người thực hiện chứng thực theo quy định của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP đã gây khó khăn cho các địa phương khi tổ chức thực hiện hoạt động chứng thực theo cơ chế “một cửa”, do đó, cần nghiên cứu quy định cho phép người yêu cầu chứng thực chữ ký ký trước mặt người tiếp nhận hồ sơ để giải quyết vướng mắc này.

– Về chứng thực hợp đồng, giao dịch:

Trên thực tế, việc giao cho Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã chứng thực hợp đồng, giao dịch còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, do nhiều cán bộ chứng thực còn chưa được đào tạo chuyên ngành luật, mặt khác cán bộ chứng thực còn bị phân tán bởi công việc quản lý nhà nước, trong khi đó hợp đồng, giao dịch (đặc biệthợp đồng, giao dịch liên quan đến bất động sản) là loại việc phức tạp, có giá trị lớn, dễ nảy sinh tranh chấp, đòi hỏi sự chuyên nghiệp của người thực hiện chứng thực. Do đó, cần quy định tách bạch trình tự, thủ tục chứng thực và giá trị pháp lý của văn bản chứng thực với trình tự, thủ tục công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng, để người dân thực hiện quyền tự định đoạt và tự chịu trách nhiệm về quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Đối với giấy ủy quyền, dù đây là loại việc đơn giản, nhưng do vẫn được coi là một loại giao dịch, nên theo quy định hiện hành phải được chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc tổ chức hành nghề công chứng, gây phiền hà cho người dân. Vì vậy, để tạo thuận lợi cho người dân, những loại việc này cần được giao cho Uỷ ban nhân dân cấp xã thực hiện chứng thực theo thủ tục chứng thực giấy ủy quyền.

Như vậy, có thể thấy, bên cạnh những mặt tích cực, pháp luật về chứng thực còn bộc lộ một số điểm chưa phù hợp, đòi hỏi phải sớm được khắc phục để nâng cao chất lượng hoạt động chứng thực, góp phần cải cách hành chính, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để người dân thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong thời kỳ hội nhập hiện nay

Nguyễn Thị Thu Hương

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Tập huấn về lồng ghép giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

10/12/2013

 Ngày 30/11 và ngày 01/12 năm 2012, Bộ Tư pháp đã tổ chức Hội nghị tập huấn Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ và Bộ công cụ lồng ghép giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Tham dự Hội nghị có đại diện UN Women và các chuyên gia, đại diện các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, đại diện một số địa phương. Tiến sĩ Trần Văn Quảng – Phó Trưởng ban Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ Ngành Tư pháp, Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ chủ trì Hội nghị.

Trong 02 ngày làm việc, Hội nghị đã tập trung vào những nội dung cơ bản như: (1) Những nội dung cơ bản của Công ước loại bỏ các hình thức phân biệt đối xử của phụ nữ (Cedaw) và việc thực hiện Công ước tại Việt Nam; (2) Giới thiệu Bộ công cụ lồng ghép giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và dự thảo Thông tư hướng dẫn lồng ghép giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; (3) Báo cáo về việc lồng ghép bình đẳng giới trong dự án Luật Hôn nhân và Gia đình (sửa đổi); (4) Việc thực hiện Công ước Cedaw trong Ngành Tư pháp.

 

1. Những nội dung cơ bản của Công ước Cedaw và việc thực hiện Công ước tại Việt Nam

1.1. Những nội dung cơ bản của Công ước Cedaw

Ngày 18/12/1979, Công ước Cedaw đã được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc phê chuẩn. Ngày 03/9/1981, sau khi nước thứ 20 thông qua, Công ước bắt đầu có hiệu lực. Công ước được chia thành 4 phần chính, cụ thể:

(i) Các cam kết chung về mặt nội dung (Điều 1 – 5 và Điều 24)

Công ước khẳng định tất cả các hình thức phân biệt đối xử đều bị lên án. Các nước tham gia Công ước phải áp dụng mọi biện pháp thích hợp, kể cả biện pháp pháp luật nhằm đảm bảo cho phụ nữ được thực hiện, thụ hưởng các quyền con người và tự do cơ bản trên cơ sở bình đẳng với nam giới.

Phần này cũng bao gồm các quy định áp dụng cho toàn bộ Công ước, đó là khung khái niệm của Công ước với các nội dung chính như: Không phân biệt đối xử; bình đẳng thực chất; nghĩa vụ quốc gia.

– Không phân biệt đối xử: Phải xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử giữa phụ nữ và nam giới, nghiêm cấm phân biệt đối xử với phụ nữ dù là trực tiếp hay gián tiếp.

– Bình đẳng thực chất:

Khuyến nghị chung số 25 của Ủy ban Cedaw đã đưa ra một số hướng dẫn về vấn đề bình đẳng thực chất:

+ Bình đẳng thực chất là bảo đảm bình đẳng về kết quả: Việc bảo đảm bình đẳng không chỉ đơn thuần về cơ hội hay trong tiếp cận, mà yêu cầu phải bình đẳng thực sự về kết quả. Kết quả cuối cùng là phụ nữ được thụ hưởng các quyền của mình trên nhiều lĩnh vực. Khi cần thiết, các nước có thể áp dụng những ưu đãi đối với phụ nữ bằng các biện pháp đặc biệt tạm thời, nhằm thúc đẩy nhanh bình đẳng trên thực tế mà không bị coi là phân biệt đối xử với nam giới, nhưng biện pháp này sẽ phải được chấm dứt ngay khi các mục tiêu bình đẳng đạt được, nhằm tránh sự phân biệt đối xử ngược lại với nam giới.

+ Cần tính đến sự khác biệt giữa giam và nữ: Bình đẳng cần phải xem xét sự khác nhau cả về mặt sinh học (giới tính) và xã hội – văn hóa (giới). Trong những hoàn cảnh nhất định, cần đưa ra cách đối xử không giống nhau giữa nam và nữ nhằm giải quyết sự khác biệt và đạt được bình đẳng thực chất.

+ Sự cần thiết phải tạo môi trường thuận lợi để phụ nữ có thể thực thi và thụ hưởng các quyền của mình.

– Nghĩa vụ quốc gia: Trách nhiệm bảo đảm bình đẳng và xóa bỏ phân biệt đối xử cần phải được cả quốc gia và phi quốc gia tôn trọng, nhưng quốc gia có trách nhiệm trước hết trong việc thực hiện các nghĩa vụ trong Công ước, chịu trách nhiệm giải trình trực tiếp đối với các vi phạm điều ước. Tất cả các cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp) không phân biệt cơ quan nhà nước ở trung ương hay ở địa phương đều có nghĩa vụ đối với Công ước Cedaw.

(ii) Các lĩnh vực nội dung cụ thể (Điều 6 – 16): Bao gồm những cam kết riêng cho từng lĩnh vực cụ thể.

(iii) Ủy ban Công ước Cedaw và cơ chế giám sát (Điều 17 – 22): Quy định việc thành lập, thành phần, cơ cấu, số lượng, chức năng cơ chế làm việc của Ủy ban Cedaw; quy trình báo cáo; quy định về cơ sở ban hành các kết luận cuối cùng và khuyến nghị chung.

(iv) Các vấn đề liên quan đến thủ tục hành chính và giải thích Công ước (Điều 23, 25 – 30): Quy định về cách thức để một quốc gia có thể trở thành một quốc gia thành viên của Công ước, cách giải thích Công ước, …

1.2. Việc thực hiện Công ước Cedaw tại Việt Nam

Việt Nam đã tích cực tham gia vào việc xây dựng, thông qua và đã ký Công ước Cedaw vào ngày 29/7/1980, phê chuẩn Công ước Cedaw ngày 17/02/1982. Với tư cách là quốc gia thành viên Cedaw, Việt Nam đã thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết quốc tế của mình. Đến nay, hệ thống pháp luật Việt Nam đã tương đối đầy đủ và toàn diện, phù hợp với các nguyên tắc và các quy định của Công ước Cedaw. Đặc biệt, Việt Nam đã có đạo luật riêng nhằm thực hiện những nội dung cốt lõi của Công ước này, đó là Luật Bình đẳng giới năm 2006 và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007. Đến nay, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội; đạt được những kết quả quan trọng trong sự nghiệp bình đẳng giới trên các bình diện của đời sống xã hội, nâng cao được vị thế của người phụ nữ trong gia đình cũng như trong hoạt động xã hội. Để đạt được các kết quả này, bài học lớn nhất được rút ra trong 6 năm qua đó là sự phối hợp, cộng đồng trách nhiệm giữa các cấp chính quyền, bộ máy vì sự tiến bộ phụ nữ và Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Bên cạnh những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đấu tranh vì quyền bình đẳng của phụ nữ, vẫn còn nhiều trở ngại trên con đường đi tới, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức liên quan đến việc thực hiện Công ước Cedaw do Việt Nam là một nước đang phát triển, nguồn lực còn nhiều khó khăn và hạn chế.

* Một số khó khăn, tồn tại khi thực hiện các điều của Công ước Cedaw

Thứ nhất, định kiến giới còn tồn tại khá phổ biến, tư tưởng trọng nam khinh nữ, coi phụ nữ phải gắn với vai trò nội trợ, chăm sóc gia đình dẫn đến thiếu sự chia sẻ trách nhiệm giữa nam giới và nữ giới trong công việc gia đình và hoạt động xã hội; trong cộng đồng một số dân tộc thiểu số còn tồn tại khá nhiều phong tục tập quán lạc hậu (đa thê, kết hôn sớm, tục cướp vợ, tục nối dây…) làm cản trở không nhỏ đến sự tiến bộ của phụ nữ. Để khắc phục tồn tại này, Nhà nước đang tăng cường áp dụng nhiều biện pháp như đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, tổ chức tập huấn về bình đẳng giới; khuyến khích duy trì phong tục, tập quán tốt đẹp, loại bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu…

Thứ hai, cán bộ một số cơ quan nhà nước khi xử lý vụ việc còn chưa quan tâm nhiều đến việc áp dụng các quy định của pháp luật bình đẳng giới. Do đó,ngoài việc phổ biến, tuyên truyền, tập huấn thì Nhà nước cũng cần phải tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát tình hình thực hiện pháp luật về bình đẳng giới và vì sự tiến bộ phụ nữ.

Thứ ba, hệ thống quản lý nhà nước về bình đẳng giới ở Việt Nam mới được hình thành sau khi có Nghị định số 186/2007/NĐ-CP, quản lý nhà nước về bình đẳng giới được giao cho Bộ Lao động – Thương bình và Xã hội nên đội ngũ cán bộ làm công tác bình đẳng giới hầu hết còn kiêm nhiệm, còn thiếu về số lượng, hạn chế kiến thức chuyên môn về giới, kỹ năng lồng ghép giới. Do đó, chúng ta cần phải hoàn thiện tổ chức bộ máy làm công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác này để có thể hoàn thành tốt yêu cầu đặt ra.

2. Giới thiệu Bộ công cụ lồng ghép giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và dự thảo Thông tư hướng dẫn lồng ghép giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

2.1. Giới thiệu Bộ công cụ lồng ghép giới

Bộ công cụ lồng ghép giới trong quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) sẽ hướng dẫn kỹ thuật cho những người tham gia trực tiếp vào quá trình xây dựng văn bản QPPL thực hiện việc lồng ghép bình đẳng giới từ khâu lập chương trình đến khâu thông qua dự án, dự thảo.

Bộ công cụ gồm 03 phần cơ bản: Các vấn đề chung về lồng ghép bình đẳng giới trong xây dựng văn bản QPPL; Lồng ghép bình đẳng giới trong quy trình xây dựng văn bản QPPL; Bộ câu hỏi kiểm tra kỹ thuật việc lồng ghép bình đẳng giới trong xây dựng văn bản QPPL.

– Các vấn đề chung về lồng ghép bình đẳng giới trong xây dựng văn bản QPPL

Ở phần vấn đề chung, Hội nghị đã nhấn mạnh một trong những nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới đó là đối với biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới (hay biện pháp đặc biệt tạm thời trong Cedaw) và biện pháp bảo vệ bà mẹ thì mặc dù chỉ áp dụng cho một giới nhưng không bị coi là phân biệt đối xử về giới. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được quy định tại khoản 6 Điều 5 Luật Bình đẳng giới năm 2006 và cần lưu ý là, biện pháp này chỉ được thực hiện trong một thời gian nhất định và phải chấm dứt khi mục đích bình đẳng giới đã đạt được. Biện pháp bảo vệ bà mẹ được quy định tại một số điều khoản trong Luật Bình đẳng giới.

– Lồng ghép bình đẳng giới trong quy trình xây dựng văn bản QPPL

Việc thực hiện lồng ghép bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện trong các giai đoạn: Lập đề nghị xây dựng văn bản QPPL; Xây dựng dự án, dự thảo văn bản QPPL, bao gồm các công đoạn soạn thảo, thẩm định, thẩm tra dự án, dự thảo văn bản QPPL; Xem xét, thông qua dự án, dự thảo văn bản QPPL.

– Bộ câu hỏi kiểm tra kỹ thuật việc lồng ghép bình đẳng giới trong xây dựng văn bản QPPL

Hội nghị đã được giới thiệu về bộ câu hỏi để giải quyết 3 vấn đề chính là xác định vấn đề giới trong dự án, dự thảo; giải quyết vấn đề giới trong dự án, dự thảo và tổ chức thực hiện. Trong đó những câu hỏi được tập trung tập huấn gồm:

+ Cần xem xét có hay không các quy định pháp luật thể hiện sự phân biệt đối xử về giới (bất bình đẳng pháp lý)?

Vấn đề giới do quy định của pháp luật thì giải quyết bằng con đường pháp lý, phải sửa đổi, bổ sung quy định đó. Nếu vấn đề giới do nguyên nhân khác (do thực hiện pháp luật, do yếu tố tập tục, văn hóa, kinh tế, xã hội…) thì giải quyết bằng các biện pháp phù hợp.

+ Tác động của các quy định đối với 2 giới như thế nào?

Các quy định pháp luật nếu không tác động như nhau đối với 2 giới tức là đã có sự bất bình đẳng trên thực tế. Do đó cần phải tìm nguyên nhân để giải quyết vấn đề này.

+ Có phát sinh vấn đề gì mới về giới hay không?

Có thể do các yếu tố kinh tế, xã hội làm phát sinh vấn đề giới mới.

Ví dụ: Quy định một số ngành nghề cấm hoặc hạn chế sử dụng lao động nữ nhằm bảo vệ bà mẹ, trẻ em, nhưng đến nay do điều kiện kinh tế – xã hội, kỹ thuật… đã được cải thiện, phụ nữ có thể đủ điều kiện thực hiện công việc, khi đó quy định này lại trở thành rào cản cơ hội việc làm của phụ nữ, tạo ra vấn đề bất bình đẳng giới mới.

+ Có hay không quy định bảo vệ quyền bà mẹ, trẻ em?

2.2. Thông tư hướng dẫn lồng ghép giới

Hiện nay, Bộ Tư pháp đang dự thảo Thông tư để hướng dẫn thực hiện lồng ghép bình đẳng giới trong xây dựng văn bản QPPL. Thông tư điều chỉnh về nội dung xem xét, đánh giá về bình đẳng giới trong dự kiến chính sách, dự thảo văn bản và thực hiện lồng ghép bình đẳng giới trong quy trình xây dựng văn bản QPPL.

Đối với thực hiện lồng ghép bình đẳng giới trong quy trình xây dựng văn bản QPPL, nhiều đại diện địa phương lo ngại rằng, ở đây đã có sự phát sinh thêm quy trình mới và việc tách ra nhiều công đoạn nhỏ như vậy sẽ gây khó khăn cho việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương. Tuy nhiên, theo một số chuyên gia, đây không phải là quy trình mới, mà chỉ là bổ sung đầy đủ thêm nội dung vào quy trình đã có từ trước và khi thực hiện nhuần nhuyễn, chúng ta sẽ thấy một quy trình liền mạch mà không phải ngắt đoạn.

3. Báo cáo về việc lồng ghép bình đẳng giới trong dự án Luật Hôn nhân và Gia đình (sửa đổi)

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã đạt được nhiều kết quả tốt về vấn đề bình đẳng giới như góp phần quan trọng vào việc cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng, quy định của Hiến pháp, các luật có liên quan về bình đẳng giới, loại bỏ những hủ tục lạc hậu trong hôn nhân gia đình..; tạo cơ sở pháp lý tương đối đầy đủ và hợp lý về bình đẳng giới, đặc biệt là quyền của phụ nữ, trẻ em… Tuy nhiên, Luật Hôn nhân và Gia đình hiện hành vẫn còn tồn tại một số bất cập, hạn chế đáng chú ý như:

Thứ nhất, một số quy định liên quan đến bình đẳng giới còn mang tính hình thức, không thực chất hoặc không khả thi.

Ví dụ, việc quy định phải ghi tên cả hai vợ chồng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với tài sản chung, về hình thức đã bảo đảm bình đẳng giới về sở hữu, nhưng trên thực tế lại rất khó thực hiện. Tiếng nói của người phụ nữ trong gia đình Việt Nam (đặc biệt là ở nông thôn) thường thấp hơn so với chồng, nên đàn ông thường nắm giữ tài sản lớn trong gia đình và họ sẽ đứng tên sở hữu một mình nếu họ muốn điều đó.

Đối với vấn đề này, có ý kiến cho rằng, luật nên quy định cho vợ, chồng được lựa chọn việc ghi tên trong giấy tờ sở hữu mà không bắt buộc phải ghi tên cả hai người, khi đó dù giấy tờ sở hữu có tên một người thì suy đoán đó vẫn là tài sản chung trừ trường hợp chứng minh được đó là tài sản riêng. Quy định như vậy sẽ bảo vệ được quyền sở hữu của người phụ nữ, đặc biệt là ở nông thôn.

Thứ hai, một số quan hệ liên quan đến hôn nhân và gia đình có nhạy cảm giới chưa được Luật quy định cụ thể, như:

– Giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn chưa được Luật Hôn nhân và Gia đình quy định cụ thể nên vấn đề giới gần như chưa được xem xét đến trong các quan hệ này, đặc biệt đối với phụ nữ và con.

Tình trạng sống chung như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn đã và đang tồn tại tương đối phổ biến trong xã hội, chủ yếu tập trung ở những vùng dân tộc thiểu số, nông thôn, học vấn thấp, lứa tuổi hơn 50.

– Luật chưa quy định cụ thể quyền của vợ chồng được lựa chọn chế độ tài sản trong hôn nhân, nên phụ nữ thường bị thiệt thòi do phụ thuộc vào tập quán… (ví dụ, tỷ lệ chồng đứng tên giấy tờ sở hữu tài sản lớn thường cao hơn nhiều so vớivợ).

Thứ ba, Luật chưa bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất với các luật có liên quan (ví dụ, chưa quy định vợ chồng bình đẳng trong các quan hệ xã hội ngoài gia đình trong khi Luật Bình đẳng giới có quy định vấn đề này…).

Vì vậy, trong dự án Luật Hôn nhân và Gia đình (sửa đổi), ngoài việc kế thừa và phát triển các quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã bảo đảm tốt vấn đề giới và bình đẳng giới, chúng ta cần phải sửa đổi, bổ sung để đảm bảo tốt hơn việc thực hiện lồng ghép bình đẳng giới, khắc phục những bất cập, hạn chế nêu trên.

Cũng tại Hội nghị, đã có đại biểu phản ánh tình trạng xảy ra tại địa phương mình như sau: Đứa trẻ sinh ra mà cha mẹ không có đăng ký kết hôn, khi chưa khai sinh cho con thì người mẹ đã bỏ đi biệt tích. Trường hợp này, pháp luật không quy định rõ ràng để có thể áp dụng khai sinh cho trẻ được thuận lợi, nên có khi trẻ sắp đi học mà vẫn chưa có giấy khai sinh. Tại địa phương, cán bộ tư pháp – hộ tịch đã thường phải vận dụng pháp luật (khoản 3 Điều 15 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch: “… Nếu vào thời điểm đăng ký khai sinh có người nhận con, thì Ủy ban nhân dân cấp xã kết hợp giải quyết việc nhận con và đăng ký khai sinh”; khoản 2 Điều 13 Nghị định 158: “Trong trường hợp không xác định được nơi cư trú của người mẹ và người cha, thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi trẻ em đang sinh sống trên thực tế thực hiện việc đăng ký khai sinh”…) thì mới giải quyết khai sinh cho những trẻ em đó được. Do đó, người cha rất bức xúc, họ có thể cho rằng điều đó là không bình đẳng, vì nếu người mẹ đi khai sinh cho con dù không xác định được cha cũng được quy định cụ thể (khoản 3 Điều 15 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP), tạo thuận lợi, tại sao đối với người cha đi khai sinh cho con trong trường hợp này lại gặp khó khăn, rắc rối. Vì vậy, trước mắt thì cán bộ tư pháp – hộ tịch vẫn tiếp tục vận dụng pháp luật để giải quyết những trường hợp tương tự, nhưng việc sửa đổi, bổ sung pháp luật cho phù hợp với thực tiễn cũng cần được đặt ra.

4. Việc thực hiện Công ước Cedaw trong Ngành Tư pháp

Trong bài phát biểu về việc thực hiện Công ước Cedaw trong Ngành Tư pháp, Tiến sĩ Trần Văn Quảng cho biết, hiện nay cán bộ, công chức, viên chức nữ trong Ngành đã có nhiều cố gắng, đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Lãnh đạo cấp vụ, cấp phòng là nữ chiếm tỷ lệ cao và thực hiện tốt vai trò lãnh đạo, điều hành không kém nam giới. Đặc biệt, nhiều cán bộ nữ còn khá trẻ, nhưng khi được bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý đã khẳng định được năng lực của bản thân. Tuy nhiên, so với tỷ lệ nữ trong Ngành, thì tỷ lệ lãnh đạo là nữ vẫn còn khiêm tốn. Do đó, Tiến sĩ hy vọng rằng các nữ cán bộ của Ngành tiếp tục cố gắng hơn nữa, tự tin và giúp đỡ hỗ trợ nhau cùng phát triển.

Cũng tại Hội nghị tập huấn, Tiến sĩ Trần Văn Quảng đã nhấn mạnh vai trò của các cơ quan tư pháp trong việc bảo đảm bình đẳng giới khi thực hiện nhiệm vụ xây dựng và thẩm định văn bản QPPL. Tiến sĩ khẳng định Bộ công cụ lồng ghép giới sẽ còn tiếp tục được hoàn thiện hơn, góp phần quan trọng vào việc thực hiện Công ước Cedaw tại Việt Nam nói chung và trong Ngành Tư pháp nói riêng.

Ngô Huyền

 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bất cập trong quy định về việc lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án dân sự

21/04/2014

Cưỡng chế thi hành án dân sự là một giai đoạn khó khăn, phức tạp nhất trong quá trình giải quyết việc thi hành án. Do đó, trình tự, thủ tục tiến hành phải hết sức chặt chẽ, đúng pháp luật, vì chỉ cần một sai sót nhỏ cũng có thể gây ra những hậu quả khó lường và có thể phải hủy bỏ toàn bộ quá trình tổ chức thi hành án.

Việc lập kế hoạch cưỡng chế theo quy định tại Điều 72 Luật Thi hành án dân sự hiện nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về các trường hợp phải lập kế hoạch cưỡng chế và những trường hợp phải cưỡng chế ngay, không cần lập kế hoạch. Điều này đã dẫn đến bất cập là trong thực tế có các cách hiểu khác nhau về việc lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án. Cách hiểu không thống nhất này không chỉ có ở cơ quan thi hành án dân sự, mà ngay cả Viện kiểm sát nhân dân cũng có những quan điểm khác nhau.

Từ những bất cập và các cách hiểu khác nhau về lập kế hoạch cưỡng chế, cần phải có những quy định hướng dẫn cụ thể để thi hành Điều 72 trong việc lập kế hoạch cưỡng chế một cách cụ thể, rõ ràng hơn và thống nhất cách hiểu, cách áp dụng giữa các cơ quan trong việc lập kế hoạch và phối hợp cưỡng chế thi hành án dân sự.

Để hiểu rõ hơn những bất cập trong quy định về việc lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án dân sự và một số kiến nghị đề xuất, hướng dẫn quy định tại Điều 72 Luật Thi hành án dân sự và, bạn đọc có thể tham khảo thêm thông tin của bài viết: “Bất cập trong quy định về lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án dân sự” của tác giả Hồ Quân Chính, được đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật – Số chuyên Thi hành án – Tháng 3/2014.

Hải Việt

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Tiêu chí bài viết và quy trình biên tập của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật

18/06/2014

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng thông tin và là diễn đàn nghiên cứu, trao đổi về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thực hiện pháp luật và hoạt động tư pháp, góp phần tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước, đáp ứng nhu cầu của nhân dân về nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, phát huy dân chủ, thực hiện công bằng xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, yêu cầu và tiêu chí các bài viết đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật cần phải phù hợp với chức năng và nhiệm vụ của Tạp chí và phải thông qua một quy trình biên tập cụ thể, chặt chẽ và khoa học.

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng thông tin và là diễn đàn nghiên cứu, trao đổi về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thực hiện pháp luật và hoạt động tư pháp, góp phần tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước, đáp ứng nhu cầu của nhân dân về nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, phát huy dân chủ, thực hiện công bằng xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, yêu cầu và tiêu chí các bài viết đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật cần phải phù hợp với chức năng và nhiệm vụ của Tạp chí và phải thông qua một quy trình biên tập cụ thể, chặt chẽ và khoa học.

1. Tiêu chí của các bài viết đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật

1.1. Yêu cầu về nội dung

Đối với bất kỳ tạp chí chuyên ngành nào,thì nhiệm vụ chủ yếu cũng là đi sâu nghiên cứu lý luận nghiệp vụ khoa học thuộc phạm vi hoạt động và chức năng nghiệp vụ chuyên ngành. Với vai trò là tạp chí của Ngành Tư pháp, bài viết đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật phải có nội dung liên quan đến hoạt động tư pháp và pháp luật. Cụ thể:

Một là,các bài viết cho chuyên mục Bình luận sự kiện chính trị – pháp lý

Các bài viết trong chuyên mục này lựa chọn những sự kiện pháp lý nổi bật trong tháng để trao đổi, bình luận nhằm tạo ra góc nhìn đa diện đối với vấn đề, đặc biệt là dưới giác độ pháp lý, đề cao tính dân chủ, đảm bảo tính thời sự và khách quan đối với sự kiện cần phản ánh.

Hai là,các bài viết cho chuyên mục Xây dựng pháp luật

Các bài viết cho chuyên mục này nhằm nghiên cứu, trao đổi, bàn luận về công tác lập pháp, về các dự án luật đang xây dựng hoặc các vấn đề cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật. Đây là diễn đàn phản ánh đa dạng các ý kiến về công tác lập pháp.

Ba là,các bài viết cho chuyên mục Pháp luật và Kinh tế

Các bài viết cho chuyên mục này phản ánh các vấn đề về chính sách, pháp luật liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp, các mặt hoạt động khác của nền kinh tế, hướng tới mục tiêu nghiên cứu và trao đổi nhằm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Bốn là,các bài viết cho chuyên mục Thi hành pháp luật

Các bài viết cho chuyên mục này trao đổi về công tác tổ chức thực hiện, áp dụng pháp luật, theo dõi thi hành pháp luật trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, phản ánh các gương điển hình, những vấn đề còn bất cập nhằm rút ra các bài học kinh nghiệm trong công tác thi hành pháp luật, những vấn đề cần bổ sung, hoàn thiện pháp luật.

Năm là,các bài viết cho chuyên mục Diễn đàn công tác tư pháp

Công tác tư pháp gồm hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, phổ biến, giáo dục pháp luật, thanh tra tư pháp và các hoạt động tư pháp khác. Các bài viết cần phản ánh sinh động và đa dạng thông qua chuyên mục này như một diễn đàn, để cán bộ trong và ngoài ngành trao đổi về mặt nghiệp vụ, nâng cao kiến thức và kinh nghiệm trong công tác.

Sáu là,các bài viết cho chuyên mục Văn hóa pháp lý

Chuyên mục này gồm các bài ký, phóng sự, truyện ngắn… nhìn nhận hoạt động tư pháp dưới góc nhìn văn hóa, đề cao tính nhân văn, là điểm dừng chân, tạo sự mềm mại, uyển chuyển trong tâm hồn người đọc, hướng con người tới chân, thiện, mỹ…, gắn công tác tư pháp gần gũi hơn với cuộc sống thường ngày.

Bảy là,các bài viết cho chuyên mục Phản hồi từ cơ sở

Chuyên mục này phản ánh những vấn đề vướng mắc, bất cập trong thực thi công tác tư pháp ở địa phương, nhằm tạo diễn đàn để các cán bộ tư pháp cơ sở trao đổi về nghiệp vụ công tác tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật và hiệu quả công tác tư pháp ở địa phương.

Các bài viết cho Tạp chí Dân chủ và Pháp luật cần thể hiện rõ tính khoa học và nêu được quan điểm cá nhân về vấn đề nghiên cứu. Đối với các vấn đề xuất phát từ thực tiễn, phải là các vấn đề có tính điển hình và khái quát cao, có đề xuất cụ thể về giải pháp hoàn thiện việc xây dựng và thực thi pháp luật. Những bài viết phản ánh hoạt động tư pháp ở các địa phương cần ngắn gọn, thông tin súc tích. Các bài viết về văn hóa pháp lý và tin tức cần gắn với sự kiện pháp lý và yếu tố pháp lý của các tình huống, hình tượng nhân vật và các vấn đề có liên quan…

1.2. Yêu cầu về hình thức

Ngoài những yêu cầu chặt chẽ về mặt nội dung, thì do tính chất là Tạp chí chuyên ngành nên hình thức của bài viết cũng phải đáp ứng những tiêu chí nhất định. Cụ thể:

Thứ nhất: Bài viết đăng trên Tạp chí cần thể hiện văn phong trong sáng, mạch lạc, khúc triết, được trình bày một cách thống nhất, đơn giản, rõ ràng, không viết câu cụt, câu tối nghĩa, sử dụng từ ngữ dễ hiểu; không viết hoa, viết tắt bừa bãi; không chèn các biểu tượng, hình ảnh, biểu đồ, đồ thị;

Thứ hai: Bài viết nếu có chú thích phải ghi nguồn gốc câu trích dẫn, nội dung dẫn chứng và tham khảo đối chiếu. Tất cả các tài liệu có dẫn chứng trong bài viết đều phải được liệt kê đầy đủ và chính xác trong phần tài liệu tham khảo.

Thứ ba: Đối với các bài nghiên cứu, trao đổi, độ dài phải đảm bảo khoảng 2000 – 5000 từ. Bài viết chỉ sử dụng một loại phông chữ theo tiêu chuẩn Unicode, cỡ chữ 13-14, dãn dòng 1,5.

2. Quy trình biên tập

Quan niệm về công tác biên tập rất phong phú, đa dạng và có nhiều nội dung. Tuy nhiên, xét dưới giác độ cả về lý luận và thực tiễn, công tác biên tập các ấn phẩm báo chí nói chung và tạp chí nói riêng có thể chia làm hai nội dung chủ yếu sau đây:

Một là: Phân tích, biên tập nội dung bản thảo (bao gồm việc nghiên cứu, trao đổi, sửa chữa và hoàn chỉnh bản thảo).

Hai là: Biên tập mỹ thuật và biên tập kỹ thuật (bao gồm việc trình bày ma-két, đặt trang, trình bày tít bài, chế bản, sửa lỗi chính tả, lỗi ngữ pháp, kiểm tra tính chính trị, tư tưởng sao cho các ấn phẩm của tạp chí đáp ứng yêu cầu về nội dung và hình thức, phù hợp thị hiếu bạn đọc).

Quá trình biên tập để đưa một ấn phẩm tới tay bạn đọc là một quá trình tổng hợp, có rất nhiều thao tác nghiệp vụ cụ thể, đặt ra nhiều yêu cầu bắt buộc, không thể tuỳ tiện. Nó được diễn ra với những quy trình nhất định, trong đó có các khâu liên hệ chặt chẽ, liên tục và kế tiếp nhau.

2.1. Kỹ năng phân tích, biên tập nội dung bản thảo

Phân tích biên tập là việc nghiên cứu, phân tích kỹ bài viết để chỉ ra những điểm thiếu sót, phát hiện những điểm chưa hợp lý, chưa phù hợp và nêu ra những biện pháp cụ thể khắc phục những thiếu sót để hoàn thiện bài viết. Đối với Tạp chí, biên tập tức là sửa chữa cho tốt hơn một bản thảo để đưa đi in, là khâu kiểm tra về nội dung chính trị, kiểm tra các sự kiện, cũng như hình thức biểu đạt của tin, bài theo ý đồ, chủ đề và tiêu chuẩn ngôn ngữ, văn phong của Tạp chí, trong đó cũng có việc rút gọn tin, bài theo yêu cầu về số lượng dòng và số trang của Tạp chí.

Trong quá trình phân tích, biên tập, biên tập viên cũng cần phải đứng từ giác độ của bạn đọc, vì họ là đối tượng phục vụ, đối tượng trực tiếp tác động của các ấn phẩm báo chí. Biên tập viên phải thay mặt bạn đọc để trao đổi với các tác giả (hoặc khắc phục thay các tác giả) về các vấn đề, những nội dung chưa thoả đáng, từ đó, có những điều chỉnh, sửa chữa để bài viết hoàn thiện và hiệu quả hơn. Những thao tác nghiệp vụ cơ bản của biên tập viên khi tiếp cận biên tập bản thảo, bao gồm:

2.1.1.Lựa chọn, xử lý bản thảo theo chủ đề

Trên cơ sở các tin tức, bài vở đã được tuyển chọn, phân loại sơ bộ bước đầu, biên tập viên tiến hành đọc kỹ từng tin, bài được phân công hoặc do cộng tác viên gửi đến. Có hai loại tin, bài và có các cách xử lý khác nhau.

Thứ nhất, đối với những tin, bài mà tạp chí đặt các cộng tác viên theo kế hoạch, thì phải khẳng định nội dung các tin, bài đó có phù hợp, đúng với chủ đề tư tưởng, nội dung mà Tạp chí đã yêu cầu đối với cộng tác viên hay không? Nếu nội dung phù hợp thì chuyển tin, bài đó vào tập “tin, bài sử dụng ngay”;nếu không đúng với chủ đề của số tạp chí đang chuẩn bị đăng tải, nhưng lại phù hợp với chủ đề của các ấn phẩm tiếp theo thì chuyển vào tập “tin, bài có thể sử dụng”, nhưng phải thông báo ngay cho cộng tác viên để họ được biết.

Thứ hai, đối với tin, bài do cộng tác viên gửi trực tiếp tới toà soạn (không đặt trước) thì cũng phân loại như trên. Nghĩa là, tin, bài nào có nội dung phù hợp với số tạp chí gần nhất thì chuyển tin, bài đó vào tập “tin, bài sử dụng ngay”;nếu không đúng với chủ đề của số tạp chí sẽ đăng tải, nhưng lại phù hợp với chủ đề của các số tiếp theo thì chuyển vào tập “tin, bài có thể sử dụng”; nếu nội dung tin, bài hoàn toàn không phù hợp với tôn chỉ, mục đích của Tạp chí thì chuyển tin, bài đó vào tập “tin, bài không sử dụng” để sau đó trao đổi lại với tác giả.

2.1.2. Biên tập, xử lý nội dung bản thảo

a. Đọc, nghiên cứu bản thảo

Khi tiếp cận bản thảo được phân công biên tập, yêu cầu bắt buộc trước tiên là biên tập viên phải đọc kỹ bản thảo để nắm rõ nội dung, phát hiện những sai sót, những vấn đề, quan điểm cần trao đổi lại với tác giả, phối hợp hoặc thay mặt tác giả sửa chữa, khắc phục những sai sót và hoàn chỉnh bản thảo.

Nội dung của toàn bộ số tạp chí và của từng tin, bài cụ thể phải đảm bảo tuân theo những yêu cầu chung đối với các tác phẩm báo chí, đó là:

– Phải đảm bảo tính chính trị:Nội dung tin, bài không được trái với quan điểm của Đảngvề đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân,không ngừng phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường hội nhập quốc tế và khu vực… Tin, bài của tạp chí phải góp phần xây dựng đời sống tinh thần trong sáng, phong phú, đồng thời, hình thành, phát huy và bảo vệ các giá trị văn hoá truyền thống cũng như hiện đại; các tiêu chuẩn đạo đức, niềm tin khoa học, thị hiếu lành mạnh đối với bạn đọc; giáo dục mọi người sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, kiên quyết đấu tranh để giữ vững kỷ cư­ơng, góp phần xây dựng hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, điều chỉnh kịp thời các quan hệ xã hội, thúc đẩy xã hội ngày càng phát triển.

– Phải đảm bảo tính khách quan, chân thật:Đây là yêu cầu hàng đầu tạo nên tính hấp dẫn, thuyết phục, hiệu quả của tạp chí. Một tin, bài viết sai sự thật chẳng những vi phạm đạo đức nghề nghiệp, uy tín, danh dự của bản thân Tạp chí, mà còn gây tổn hại lớn cho toàn xã hội. Tuy nhiên, tính khách quan trong báo chí chỉ là tư­ơng đối, tuyệt nhiên không có chủ nghĩa khách quan tuyệt đối. Có những trư­ờng hợp cụ thể, khách quan hay không khách quan, còn phụ thuộc vào khuynh hư­ớng chính trị chung của Ngành Tư pháp. Hoạt động của Tạp chí luôn phải phục vụ lợi ích giai cấp, lợi ích của dân tộc, của quốc gia, của nhân dân, của Ngành Tư pháp và phải tuân theo định hướng nhất định.

– Phải đảm bảo tính thời sự:Tin, bài của tạp chí phải phản ánh cái mới, nêu ra những vấn đề bức xúc, gay cấn trong đời sống pháp luật; phản ánh ngư­ời thật, việc thật một cách cụ thể, trực tiếp trong và ngoài Ngành Tư pháp. Phản ánh nhanh, kịp thời, không bịa đặt sẽ lôi cuốn ng­ười đọc, có ích cho xã hội, Tạp chí sẽ hay, thu hút được nhiều bạn đọc.

– Phải đảm bảo tính nhân văn và tính thời đại: Tin, bài của tạp chí viết ra là để phục vụ nhân dân, do vậy, khi phản ánh những sự kiện, hiện tư­ợng, vấn đề có ý nghĩ đối với nhân dân, cần lý giải theo quan điểm tiến bộ của nhân dân và phù hợp với tư­ tư­ởng tiên tiến của thời đại. Cách thể hiện trong tin, bài phải phù hợp với trình độ nhận thức, năng lực tiếp nhận và nhu cầu thẩm mỹ lành mạnh của quần chúng, của bạn đọc. Trong bất cứ trư­ờng hợp nào, bài viết của tạp chí cũng không đư­ợc hạ thấp danh dự, nhân phẩm của con ngư­ời trư­ớc công luận, kể khi cá nhân họ có những sai phạm cần phê phán, lên án. Ngoài ra tin, bài của Tạp chí cũng phải đảm bảo tính thời đại, bởi lẽ, hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu và cũng là đối tượng theo dõi để phản ánh của báo chí hiện nay.

Xuất phát từ những yêu cầu trên, người biên tập bắt đầu tiến hành đọc, phân tích, đánh giá tin, bài một cách tỉ mỉ, thận trọng trên nhiều phương diện khác nhau, kiểm tra xem những thông tin trong bài báo có phù hợp với thực tế khách quan hay không? Việc sắp xếp chi tiết có tạo ra một bức tranh rõ ràng cho người đọc từ những sự kiện, vấn đề được trình bày hay không? Những bằng chứng có đủ độ thuyết phục không? Và có đạt mục đích khi trích dẫn nhằm làm sáng tỏ vấn đề định lý giải hay không? Những tên, địa điểm, thời gian và những số liệu khách quan khác có được đưa chính xác không? Sự kiểm tra về nội dung còn bao gồm cả việc xác định chính xác câu chữ, các điều luật đã trích dẫn. Trường hợp tác giả bài báo trình bày sự đánh giá tình hình kinh tế – xã hội, đánh giá về một mặt công tác tư pháp cụ thể nào đó của những người lãnh đạo Đảng và Nhà nước bằng ngôn ngữ riêng của mình, người biên tập phải kiểm tra xem cách trình bày của tác giả bài báo có phản ánh đúng bản chất của sự đánh giá đó hay không? Nói cách khác, biên tập về nội dung là tạo nên hình thức bài báo phản ánh rõ ràng, cụ thể nội dung của nó.

Đọc, nghiên cứu bản thảo được coi là thao tác của công việc phân tích, biên tập. Biên tập viên không chỉ hướng mục đích của mình vào việc đọc để nắm bắt nội dung thông tin từ bài viết, mà còn phải tập trung tìm kiếm, phát hiện những sai sót, “những hạt sạn” còn lại nhằm khắc phục kịp thời, không để ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của bài viết. Trong quá trình đọc và nghiên cứu bản thảo, biên tập viên cần ghi chú bên lề những vấn đề mà mình đã phát hiện, cần thiết phải kiểm tra lại hoặc trao đổi lại với tác giả để sửa chữa.

Trong quá trình đọc, xử lý tin bài, người biên tập phải thường xuyên trao đổi, tham khảo ý kiến của các đồng nghiệp, của các chuyên gia về từng lĩnh vực công tác cụ thể. Những phát hiện, đề xuất về một số điểm còn bất cập, cần phải sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật, phê phán về những hiện tượng tiêu cực của đời sống xã hội được phản ánh trong các tin, bài của cộng tác viên, cần được đưa ra trao đổi và thảo luận tập thể trong Ban Biên tập. Đối với những vấn đề khi thảo luận còn có ý kiến khác nhau, thì phải báo cáo với Tổng biên tập Tạp chí để có kết luận và kiến nghị thống nhất.

Trong quá trình đọc, phân tích các tin, bài người biên tập cần chú ý các mặt sau:

+ Phân tích về nội dung để xem xét như: Nội dung tin, bài có phù hợp với quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước không? Những vấn đề, sự kiện chính trị – pháp lý đề cập trong các tin, bài có bám sát nhiệm vụ chính trị của Ngành Tư pháp không? Tin, bài sẽ đem lại những cái mới gì cho bạn đọc và phản ứng của bạn đọc và hậu quả xã hội sẽ ra sao nếu các tin, bài đó đăng tải trên Tạp chí?Sự kiện được đưa vào tin, bài của Tạp chí phải là những sự kiện có liên quan trực tiếp đến đời sống pháp luật, đến các mặt hoạt động của Ngành Tư pháp, được nhiều người quan tâm, muốn biết, cần biết và cần hiểu ngay, có tác dụng hướng dẫn dư luận xã hội, chỉ đạo hành động, có tác dụng giáo dục, cổ vũ động viên đội ngũ cán bộ, công chức trong Ngành nhằm đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật.

+ Phân tích về cấu trúc lo-gic của bài viết như: Các luận điểm (luận đề) của tác giả nêu ra trong tin, bài để phục vụ cho chủ đề có tính thuyết phục hay không? Các luận cứ (sự kiện, số liệu, các căn cứ pháp lý viện dẫn) có chính xác, khách quan không? Phương pháp (luận chứng) mà tác giả dùng để giải quyết các vấn đề nêu ra ở tin, bài có phù hợp và đủ độ tin cậy hay không?

b. Xử lý kết quả phân tích, biên tập

– Nếu nội dung tin, bài trái với quan điểm, đường lối của Đảng hoặc có biểu hiện không khách quan, trung thực thì dứt khoát không sử dụng;

– Nội dung tin, bài phù hợp với tôn chỉ, mục đích của Tạp chí, đáp ứng được chủ đề nhưng các luận cứ nêu ra còn thiếu, chưa đầy đủ hoặc chưa xác thực thì yêu cầu tác giả (hoặc biên tập viên) bổ sung, chỉnh lý cho đầy đủ, chính xác để sử dụng vào các số tiếp theo của Tạp chí;

– Nội dung tin, bài phù hợp với tôn chỉ, mục đích của Tạp chí, đáp ứng được chủ đề nhưng phương pháp giải quyết chưa khoa học, chưa rõ ràng; bố cục còn lộn xộn, từ ngữ chưa trong sáng thì trao đổi với tác giả (hoặc biên tập viên) bổ sung, chỉnh lý lại theo đúng yêu cầu.

2.1.3. Biên tập, xử lý hình thức bản thảo

Đây là bước tiếp theo của công đoạnbiên tập, xử lý tin, bài về nội dung. Ở bước này, cần chú trọng xem xét tới nghệ thuật thể hiện trong tin, bài của các tác giả có phù hợp với trình độ nhận thức, năng lực tiếp nhận và nhu cầu thẩm mỹ lành mạnh của bạn đọc hay không? Yêu cầu đặt ra đối với mỗi bài viết là phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phổ cập và nâng cao. Sự thông thái, uyên thâm được thể hiện trong mỗi bài viết nhưng nếu bạn đọc không hiểu, không tiếp nhận thì cũng trở thành vô ích. Trái lại, nếu giản dị đến mức sơ lư­ợc, tầm thư­ờng, không có tác dụng giáo dục và nâng cao thẩm mỹ thì cũng làm cho bạn đọc chán ngán, khó chấp nhận. Khi biên tập, xử lý về hình thức của tin bài, cần chú trọng một số điểm sau đây:

a.Xử lý về ngôn ngữ và bố cục kết cấu

Ngôn ngữ sử dụng trong các tin, bài của tạp chí chuyên ngành về pháp luật đòi hỏi phải trong sáng, rõ ràng, giản dị. Không nên dùng nhiều thuật ngữ chuyên môn, khó hiểu, cầu kỳ; bỏ bớt những câu, từ không cần thiết; hạn chế dùng các tính từ so sánh, cố gắng cắt các câu dài thành nhiều câu ngắn.

Pháp luật do Nhà nư­ớc ban hành là nhằm để mọi thành viên trong xã hội đều hiểu, chấp nhận và tuân theo. Từ giác độ truyền, nhận tin tức, xuất hiện mối quan hệ giữa một bên là ngư­ời làm ra pháp luật (Nhà nư­ớc) và một bên là ngư­ời phải chấp hành pháp luật (cá nhân, tổ chức…). Để mối quan hệ này được thông suốt, yêu cầu thông qua ngôn ngữ, ngư­ời làm luật phải thể hiện đư­ợc hết những nội dung cần nêu và những nội dung đó khi truyền tải (thông qua báo chí) tới ngư­ời thực hiện, phải giúp họ dễ tiếp nhận, dễ hiểu và tự nguyện thi hành. Đối với tạp chí chuyên ngành như Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, ngôn ngữ được sử dụng để truyền tải thông tin phải đáp ứng hai yêu cầu: Một là, đảm bảo tính đúng đắn, chính xác về nội dung các văn bản pháp luật cần truyền tải; Hai là, đảm bảo cho đối tư­ợng (thuộc mọi trình độ khác nhau) hiểu đúng, nắm vững để thực hiện. Đây là yêu cầu rất cao đối với các tác giả khi viết các tin, bài cho Tạp chí. Bởi lẽ, hai yêu cầu này, xét ở giác độ nào đó gần nh­ưhai cực đối lập nhau: Nếu để đảm bảo tính chính xác và khoa học thì rất dễ sa vào cách viết “bác học” khó hiểu. Nếu đảm bảo tính phục vụ rộng rãi cho mọi đối tư­ợng (bao gồm cả những đối tượng có trình độ nhận thức pháp luật chưa cao), thì lại dễ sa vào cách viết dễ dãi, thiếu chính xác về nội dung thông tin hoặc làm tầm thường hoá những vấn đề mang tính khoa học. Mặt khác, trong ngôn ngữ pháp luật, còn có các khái niệm dễ hiểu khó hiểu, các khái niệm này luôn có một khoảng chồng lấn khó phân biệt. Nếu truyền đạt khó hiểu sẽ làm cho người tiếp nhận thông tin (công dân, tổ chức) rơi vào một trong hai trạng thái khác nhau là hiểukhông hiểu. Trong hiểu còn có hiểu đúnghiểu không đúng (hiểu sai). Hiểu sai sẽ mang lại hậu quả nghiêm trọng nhiều hơn là không hiểu. Hiểu đúng lại phân ra hiểu ít, hiểu nhiều, hiểu hết…

Trên đây là những yêu cầu tối thiểu đặt ra đối với ngư­ời viết tin, bài về pháp luật, viết làm sao để khi truyền tải nội dung các văn bản pháp luật tới người đọc sẽ giúp họ hiểu và thực hiện đúng pháp luật.

b. Biên tập, xử lý tít bài (đầu đề)

Tít của tin, bài là một thành phần hữu cơ trong cấu trúc của tin, bài. Do vị trí đặc biết của tít, nó có tính độc lập t­ương đối cao so với các bộ phận khác của bài báo. Xem tít, ngư­ời đọc có ấn tư­ợng đầu tiên đối với bài báo, quyết định có nên đọc toàn bài hay không. Muốn chọn tít đúng, trư­ớc hết phải nắm được nội dung thông tin cơ bản của bài viết và đặt ý chính của nó trong dạng tít rõ ràng, tập trung và ngắn gọn.

Tít của một tin, bài có 3 chức năng: (i) Định hướng người đọc, khi xem tạp chí, ng­ười đọc xem lướt qua tất cả các tít của các bài báo. Ngư­ời đọc sẽ chọn những bài có tít đề cập đến vấn đề mà họ quan tâm để đọc trư­ớc; (ii) Thông tin cho người đọc, tít cần làm rõ những kiến thức cho ngư­ời đọc về ý chính nào mà ngư­ời đọc mong đợi trong bài báo; (iii) Đánh giá sự kiện hoặc vấn đề mà bài viết đề cập, tít phải làm rõ ý nghĩa xã hội của sự kiện hoặc vấn đề đó.

Với ý nghĩa trên, đòi hỏi khi biên tập tít tin, bài, biên tập viên phải chú trọng đọc thật kỹ nội dung bài viết để xem tít bài mà tác giả chọn có phản ánh được bản chất của bài viết hay không? Nội dung chính của bài viết đã được phản ánh một cách chính xác, ngắn gọn trong tít bài hay chưa? Nếu tít bài viết không đạt được những yêu cầu trên, thì người biên tập phải rút tít lại cho bài viết. Quy trình rút tít gồm:

– Đọc kỹ tin, bài để tìm ra ý chính và ý đồ của tác giả định trình bày trong bài viết;

– Tìm cách biểu hiện ý chính đó chính xác và ngắn gọn trong nhiều dạng khác nhau;

– Kiểm tra lại bằng cách đọc lại bài viết một lần nữa, xem việc thể hiện ý chính trong các dạng khác nhau đó đã chính xác hay chư­a;

– So sánh khả năng, phân tích cái lợi, cái hại của từng khả năng, rồi chọn tít phù hợp, đáp ứng đư­ợc các chức năng của tít một cách tốt nhất.

Có thể nói, rút tít là một nghệ thuật, một kỹ năng sử dụng ngôn ngữ và nhạy cảm sắc bén về chính trị, tâm lý của người làm báo.

2.2. Kỹ năng biên tập mỹ thuật và kỹ thuật bản thảo

2.2.1. Các nguyên tắc cơ bản trong biên tập mỹ thuật, kỹ thuật các ấn phẩm báo chí nói chung và các ấn phẩm của tạp chí nói riêng

+ Đảm bảo sự thống nhất giữa hình thức và nội dung.

+ Hình thức của ấn phẩm phải gây ấn tượng với người đọc bởi tính hấp dẫn, kích thích sự hiểu biết, nâng cao nhận thức thẩm mỹ.

+ Giúp cho bạn đọc tiếp thu dễ dàng và sâu sắc hơn về nội dung.

+ Có sự trình bày hài hoà giữa mỹ thuật và kỹ thuật các ấn phẩm.

Tuy nhiên, khi thực hiện các nguyên tắc trên đây cần phải đặt trong bối cảnh gắn với yêu cầu tiết kiệm chi phí về chế bản in ấn. Bởi đó là hai mặt của một vấn đề. Không nên đặt ra yêu cầu ấn phẩm đẹp, hấp dẫn là phải quá cầu kỳ về mặt mỹ thuật như giấy tốt, ảnh màu, bìa cứng, minh họa tràn lan dẫn đến tăng chi phí xuất bản, hoặc quá cẩn trọng, tỷ mỷ, chau chuốt về mặt kỹ thuật dẫn đến chậm tiến độ xuất bản, phát hành ấn phẩm.

Những thao tác, kỹ năng cơ bản của biên tập mỹ thuật và biên tập kỹ thuật cũng được thể hiện qua nhiều khâu liên tục, kế tiếp và có mối liên hệ chặt chẽ với quá trình biên tập nội dung bản thảo. Sau khi bản thảo hoàn chỉnh về mặt nội dung, được hợp thành từng số và được Tổng biên tập phê duyệt, thì quá trình biên tập mỹ thuật và biên tập kỹ thuật bắt đầu.

2.2.2.Cách bố trí các chuyên mục của Tạp chí

Các bài viết cần được bố trí vào các chuyên mục nhất định theo chủ đề tư tưởng của từng số và cách thức bố cục chuyên mục của từng loại hình báo chí.Việc lựa chọn các bài viết để bố trí ở từng chuyên mục cần phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau đây:

– Đảm bảo sự phù hợp của nội dung bài viết với chuyên mục;

– Đảm bảo tính logic của các vấn đề đặt ra trong chuyên mục;

– Đảm bảo tính cân đối, hợp lý giữa các chuyên mục về dung lượng trang viết tạp chí;

– Đảm bảo tính hấp dẫn, linh hoạt trong cách bố trí các bài viết…

Dựa vào các tiêu chí trên, chúng ta có thể chủ động cấu tạo, bố trí các chuyên mục trong từng ấn phẩm của tạp chí hoặc bản tin. Hiện nay, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật cơ cấu chuyên mục trong các số chính gồm:

– Sự kiện pháp lý

– Xây dựng pháp luật

– Pháp luật và Kinh tế

– Văn hóa pháp lý

– Thi hành pháp luật

– Diễn đàn công tác tư pháp

– Phản hồi từ cơ sở

Các số chuyên đề và chuyên đề chuyên sâu thì tuỳ theo chủ đề và yêu cầu chính trị có thể sắp xếp linh hoạt hơn, song về cơ bản cũng tuân theo trật tự logic sau đây:

– Bài phát biểu của các đồng chí lãnh đạo (nếu có).

– Những vấn đề mang tính lý luận.

– Những vấn đề về thực tiễn áp dụng pháp luật.

– Thông tin pháp luật nước ngoài (nếu có).

– Lịch sử pháp luật về vấn đề có liên quan (nếu có).

– Phụ lục các văn bản pháp luật về vấn đề có liên quan (nếu có).

2.2.3. Biên tập kỹ thuật

Công tác biên tập kỹ thuật bản thảo là việc soát xét lại toàn bộ nội dung bản thảo ấn phẩm tạp chí sau khi đã thực hiện dàn trang và biên tập mỹ thuật. Đây là công việc có ý nghĩa hết sức quan trọng, bởi lẽ, ở giai đoạn này, bản thảo được coi là khuôn mẫu cuối cùng đưa đi nhân bản hàng loạt, cho nên, nó đòi hỏi sự chuẩn xác cao, mang tính tuyệt đối.

Công tác biên tập kỹ thuật bản thảo bao gồm các công việc chủ yếu sau đây: Kiểm tra về tính chính trị – tư tưởng; kiểm tra tính chính xác về nội dung của các bài viết so với bản gốc; kiểm tra độ tin cậy của các nguồn tài liệu trích dẫn; chỉnh sửa các lỗi mo-rát, lỗi chính tả, lỗi kỹ thuật của toàn bộ nội dung bản thảo…

+ Kiểm tra về tính chính trị – tư tưởng của toàn bộ nội dung ấn phẩm: Biên tập viên kỹ thuật phải đọc, soát xét lại toàn bộ nội dung ấn phẩm, kiểm tra từng bài viết, xem các vấn đề đã đề cập trong bài viết có đảm bảo tính chính trị – tư tưởng, phù hợp quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác tư pháp, pháp luật, công tác báo chí, tuyên truyền hay không? Hoặc những vấn đề mà nội dung các bài viết phản ánh cho đến thời điểm xuất bản, phát hành có còn tính thời sự, đáp ứng nhu cầu của thực tiễn hay không? Bài viết có tính khoa học, giáo dục và đạt hiệu quả tuyên truyền như thế nào? Đã được đăng trên báo, tạp chí hoặc các phương tiện thông tin đại chúng nào khác chưa? Các vấn đề nêu trên cần được kiểm tra một cách tỉ mỉ, nghiêm túc, bởi nó sẽ ảnh hưởng rất lớn trong việc đảm bảo tôn chỉ, mục đích và uy tín của Tạp chí nói chung và các ấn phẩm tạp chí nói riêng khi phát hành tới tay bạn đọc.

+ Kiểm tra, chỉnh sửa toàn bộ nội dung ấn phẩm, xác định độ tin cậy của các tài liệu trích dẫn, sửalỗi chính tả và lỗi kỹ thuật: Cùng với việc kiểm tra tính tư tưởng – chính trị của các bài viết, biên tập viên kỹ thuật còn phải kiểm tra độ chính xác của các bài viết so với bản gốc, độ chính xác, tin cậy của các nguồn tài liệu trích dẫn trong bài viết. Nếu phát hiện thấy sai sót hoặc có điểm nào không lo-gic, biên tập viên kỹ thuật phải kiểm tra lại và chỉnh sửa kịp thời. Trường hợp phát hiện những vấn đề lớn trong bài viết như chưa thống nhất về quan điểm; hoặc vấn đề mà bài viết phản ánh là vấn đề nhạy cảm, biên tập viên kỹ thuật cần thiết phải có sự trao đổi, bàn bạc cùng với biên tập viên phụ trách nội dung để tìm cách khắc phục hợp lý.

Các tài liệu trích dẫn trong bài viết cũng phải đảm bảo tính trung thực, chính xác, đặc biệt là việc trích dẫn các điều luật, các quan điểm của các tác giả đã thể hiện trong các tài liệu đã được công bố. Biên tập viên khi kiểm tra việc trích dẫn các điều luật, các quan điểm trong từng bài viết phải xem xét kỹ về nguồn trích dẫn. ở văn bản pháp luật nào? Điều bao nhiêu? Văn bản pháp luật này có còn hiệu lực pháp luật hay không? Nếu trích dẫn các bài viết, sách tham khảo phải ghi rõ tên tác phẩm, tác giả, số trang, năm xuất bản…

Một yếu tố quan trọng khác trong biên tập kỹ thuật là việc sửa lỗi chính tả, lỗi kỹ thuật trong các bài viết. Đôi khi do quan niệm không đồng nhất, các tác giả bài viết có cách viết hoa, viết tắt không giống nhau. Bởi vậy, trong quá trình biên tập kỹ thuật, người biên tập viên phải dựa vào các quy định chung về viết hoa, viết tắt để chỉnh sửa sao cho đồng nhất, đồng thời, đọc kỹ các bài viết để chỉnh sửa lỗi chính tả, những sai sót trong quá trình đánh máy, thực hiện dàn trang các bài của bản thảo ấn phẩm.

Có thể nói, quá trình biên tập một ấn phẩm báo chí là quá trình biến đổi những sản phẩm sáng tạo của những cá nhân đơn lẻ thành một sản phẩm tổng hợp có tính giá trị về mặt văn hoá, tinh thần và tính hàng hoá ở mức độ cao hơn. Nó đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ, sự nỗ lực đồng thời của các biên tập viên nội dung bản thảo và các biên tập viên mỹ thuật, kỹ thuật. Một ấn phẩm báo chí nếu chỉ đảm bảo yêu cầu về mặt nội dung tốt là chưa đủ, mà cần thiết phải đảm bảo cả yêu cầu về mặt hình thức. Để tạo ra một ấn phẩm có giá trị và phát huyhiệu quả trong đời sống xã hội, cần thiết phải có sự kết hợp hài hoà giữa nội dung và hình thức, trong đó, hình thức sẽ là yếu tố thúc đẩy, nâng cao nhận thức thẩm mỹ và thị hiếu của con người.

TS. Đặng Vũ Huân[1] và ThS. Bùi Thị Huyền[2]



[1] Tổng biên tập Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.

[2] Biên tập viên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Tính lương làm thêm giờ: Vẫn còn rối

29/04/2014

Bộ luật Lao động (BLLĐ) đã được áp dụng thực hiện 20 năm với nhiều lần sửa đổi, bổ sung. Tuy nhiên, câu chuyện về cơ sở tính lương làm thêm giờ vẫn còn là dấu hỏi của nhiều người lao động. Họ chưa rõ tính lương làm thêm giờ dựa trên mức lương ghi trên hợp đồng lao động (HĐLĐ) hay lương thực trả theo tháng?

Nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, chúng tôi nhận thấy, hai cách tính lương làm thêm giờ nêu trên đều có cơ sở pháp lý để thực hiện.

1. Không sai khi tính lương làm thêm giờ theo mức lương ghi trong HĐLĐ

Theo quy định của luật thì: “Tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động để thực hiện công việc theo thỏa thuận”[1]. Theo đó, người sử dụng lao động có quyền lựa chọn hình thức trả lương cho người lao động theo các hình thức tiền lương theo thời gian (theo giờ, ngày, tuần hoặc theo tháng), sản phẩm hoặc khoán. Hình thức trả lương đã lựa chọn phải được duy trì trong một thời gian nhất định[2] . Mức tiền lương, hình thức trả lương… do hai Bên thỏa thuận sẽ được ghi trong HĐLĐ.

Trên cơ sở kế thừa quy định tại Điều 61, BLLĐ năm 1994 về tiền lương làm thêm giờ theo, BLLĐ năm 2012 quy định tiền lương làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm được trả cho người lao động theo đơn giá tiền lương hoặc công việc đang làm như sau: a) Vào ngày thường, ít nhất bằng 150% đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc đang làm; b) Vào ngày nghỉ hằng tuần, ít nhất bằng 200%; c) Vào ngày nghỉ lễ, ngày nghỉ có hưởng lương, ít nhất bằng 300% chưa kể tiền lương ngày lễ, ngày nghỉ có hưởng lương đối với người lao động hưởng lương ngày… Nếu làm việc vào ban đêm, thì được trả thêm ít nhất bằng 30% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc của ngày làm việc bình thường… ngoài ra, người lao động còn được trả thêm 20% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc làm vào ban ngày[3]

Nghị định số 49/2013/NĐ-CP ngày 14/5/2013 ban hành thay thế Nghị định số 114/2002/NĐ-CP không có quy định chi tiết về tiền lương theo thời gian được trả cho người lao động nhưng trên tinh thần nội dung của văn bản dưới luật mang tính chất hướng dẫn trước đây không trái với quy định của Bộ luật lao động hiện hành vẫn được áp dụng giải quyết. Vì vậy, cách tính đơn giá tiền lương vẫn có thể được áp dụng theo hướng dẫn của Nghị định số 114/2002/NĐ-CP.

Theo quy định tại khoản 1, Điều 7, Nghị định số 114/2002/NĐ-CP ngày 31/12/2002 (NĐ114), quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộluật lao động về tiền lương thì: Tiền lương theo thời gian được trả cho người lao động căn cứ vào thời gian làm việc thực tế, cụ thể là tiền lương giờ được trả cho một giờ làm việc xác định trên cơ sở tiền lương ngày chia cho số giờ tiêu chuẩn (8 giờ theo quy định tại Điều 104, BLLĐ năm 2012). Tiền lương ngày được trả cho một ngày làm việc xác định trên cơ sở tiền lương tháng chia cho số ngày làm việc tiêu chuẩn trong tháng theo quy định của pháp luật mà doanh nghiệp lựa chọn, nhưng tối đa không quá 26 ngày. Mà tiền lương tháng được trả cho một tháng làm việc xác định trên cơ sở hợp đồng lao động, tức là tính trên cơ sở tiền lương ghi trên hợp đồng lao động.

Như vậy, nếu trong điều kiện thời giờ làm việc bình thường (8 giờ/ngày và 48 giờ/tuần) và 26 ngày trong một tháng, đơn giá tiền lương giờ bằng tiền lương ghi trên hợp đồng lao độngchia cho 26 ngày làm việc chia cho 8 giờ tiêu chuẩn.

Thực tiễn cho thấy, rất nhiều doanh nghiệp và người lao động đã thỏa thuận về tiền lương được chia thành hai phần, một phần là một khoản lương được ghi trên HĐLĐ và một phần là những phụ cấp, trợ cấp lương không ghi trên HĐLĐ nhưng được thanh toán và ghi trong bảng lương hàng tháng.

Tuy còn ý kiến về việc người lao động bị ép buộc phải ký HĐLĐ với tiền lương được chia ra như nêu trên, nhưng nếu không có chứng cứ chứng minh sự ép buộc đó để cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuyên bố HĐLĐ vô hiệu (toàn bộ hoặc một phần) thì HĐLĐ đã ký là văn bản có giá trị pháp lý ràng buộc quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia. Do đó, trên cơ sở thỏa thuận này, doanh nghiệp không có gì sai khi áp dụng cách tính lương tăng ca trên cơ sở mức lương ghi trên HĐLĐ.

2. Hoàn toàn đúng khi yêu cầu tính lương làm theo giờ theo lương thực trả của tháng

Hiện nay, Thông tư số 13/2003/TT-BLĐTBXH (TT13) và Thông tư số 14/2003/TT-BLĐTBXH (TT14) cùng ban hành ngày 30/05/2003 đang có hiệu lực thi hành hướng dẫn thực hiện về tiền lương đối với người lao động làm việc trong doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc quốc tế tại Việt Nam. Theo đó, đối với lao động trả lương theo thời gian, nếu làm thêm ngoài giờ tiêu chuẩn thì doanh nghiệp phải trả lương làm thêm giờ theo cách tính sau:

Tiền lương làm thêm giờ = Tiền lương giờ thực trả x 150% (200%, 300%) x Số giờ làm thêm.

Trong đó, tiền lương giờ thực trả được xác định trên cơ sở tiền lương thực trả của tháng mà người lao động làm thêm giờ (điểm a, tiết 2, Mục V, Thông tư số 13/2003/TT-BLĐTBXH và điểm a, tiết 2, Mục V, Thông tư số 14/2003/TT-BLĐTBXH).

Như vậy, theo quy định tại các Thông tư này, không phụ thuộc vào mức lương ghi trên HĐLĐ, người lao động được tính lương tăng ca trên cơ sở tiền lương thực trả cho họ, tức là bao gồm khoản lương ghi trên HĐLĐ và tất cả phụ cấp, trợ cấp lương không ghi trên HĐLĐ nhưng được thanh toán và ghi trong bảng lương hàng tháng.

Do đó, trên những quy định này, người lao động hoàn toàn đúng khi yêu cầu tính lương tăng ca theo lương thực trả cho họ.

3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật lao động

Sẽ trở nên rối rắm khi phát sinh tranh chấp về lợi ích (tiền lương tăng ca) vì bên nào cũng cho rằng mình tuân thủ quy định của pháp luật. Xu hướng yêu cầu áp dụng cách tính lương tăng ca theo lương thực trả cho người lao động đang tăng lên bởi Thông tư hướng dẫn cách tính này đang có hiệu lực, còn cách tính lương tăng ca trên cơ sở mức lương ghi trên HĐLĐ chỉ được áp dụng trên tinh thần của Nghị định đã hết hiệu lực.

Tuy vậy, trong giới luật sư và doanh nghiệp, còn nhiều ý kiến không đồng tình với quy định tại Thông tư số 13/2003/TT-BLĐTBXH và Thông tư số 14/2003/TT-BLĐTBXH bởi những lý do sau: (i) Các Thông tư này đã đưa ra những quy phạm pháp luật mới (tiền lương thực trả của tháng), hoàn toàn không được quy định trong BLLĐ năm 2012 (tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc đang làm); (ii) Tinh thần nội dung của Nghị định số 114/2002/NĐ-CP ngày 31/12/2002 mang tính chất hướng dẫn không trái với quy định của BLLĐ hiện hành nên vẫn được áp dụng giải quyết. Mà theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 “trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn”[4], tức là buộc phải áp dụng các quy định của Nghị định. Vì vậy, các bên vẫn phải áp dụng cách tính lương tăng ca trên cơ sở mức lương ghi trên HĐLĐ. Nếu người lao động muốn được tính lương tăng ca theo lương thực trả thì họ phải thỏa thuận với doanh nghiệp ghi đầy đủ tiền lương trên HĐLĐ.

Thiết nghĩ, việc thỏa thuận với doanh nghiệp ghi đầy đủ tiền lương trên HĐLĐ là một việc khó bởi người lao động luôn là bên có vị thế yếu trong quan hệ lao động. Vì vậy, Chính phủ cần ban hành một Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 49/2013/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết về tiền lương trên tinh thần áp dụng cách tính lương tăng ca theo lương thực trả cho người lao động đang được quy định trong Thông tư số 13/2003/TT-BLĐTBXH và Thông tư số 14/2003/TT-BLĐTBXH./.

Nguyễn Bình An



[1]Khoản 1, Điều 90, Bộ luật lao động năm 2012

[2]Điều 94, Điều 95, Bộ luật lao động năm 2012

[3]Điều 97 Bộ luật lao động năm 2012

[4]Khoản 2, Điều 83, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện Luật Khiếu nại

25/03/2014

Mỗi văn bản pháp luật cần phải được thực thi trong thực tiễn mới đánh giá được hết hiệu quả của nó và Luật Khiếu nại cũng không nằm ngoài quy luật đó. Dù mang lại nhiều kết quả tích cực, nhưng Luật này cũng đã bộc lộ một số bất cập, khó khăn nhất định trong quá trình thực hiện như về thời hiệu khiếu nại, thời hạn giải quyết khiếu nại, đình chỉ việc giải quyết khiếu nại, xử lý hành vi vi phạm pháp luật khiếu nại… Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, xin hãy tham khảo bài viết “Những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện Luật Khiếu nại” của tác giả Phạm Thị Phượng – Vụ Pháp chế, Thanh tra Chính phủ, đăng tải trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 64 trang tháng 2/2014. Bài viết không những nêu lên, phân tích những hạn chế trong thực tiễn triển khai Luật Khiếu nại, mà còn đưa ra những quan điểm đề xuất kiến nghị của tác giả, nhằm thực thi pháp luật về khiếu nại được thuận lợi, hiệu quả, khắc phục những vướng mắc, khó khăn xảy ra.

Ngô Huyền

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Tiếp tục bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường

20/12/2013

Nghiên cứu Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, chúng tôi thấy có 14 nhóm quy phạm chính sau đây:

– Quy định về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, nguyên tắc, chính sách của Nhà nước về bảo vệ môi trường, những hoạt động bảo vệ môi trường được khuyến khích và những hành vi bị nghiêm cấm…

– Quy định về tiêu chuẩn môi trường: Nguyên tắc xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn môi trường; nội dung tiêu chuẩn môi trường quốc gia, hệ thống tiêu chuẩn môi trường quốc gia…

– Đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường.

– Bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên: Điều tra, đánh giá, lập quy hoạch sử dụng tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học; bảo vệ và phát triển cảnh quan thiên nhiên…

– Bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ: Trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ…

– Bảo vệ môi trường đô thị, khu dân cư: Quy hoạch bảo vệ môi trường đô thị, khu dân cư; yêu cầu về bảo vệ môi trường đối với đô thị, khu dân cư tập trung; bảo vệ môi trường nơi công cộng…

– Bảo vệ môi trường biển, nước sông và các nguồn nước khác.

– Quản lý chất thải: Trách nhiệm quản lý chất thải, xử lý sản phẩm hết hạn sử dụng hoặc thải bỏ; tái chế chất thải, trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp trong quản lý chất thải…

– Các biện pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường, khắc phục và phục hồi môi trường;

– Quan trắc và thông tin về môi trường;

– Nguồn lực bảo vệ môi trường: Tuyên truyền về bảo vệ môi trường; giáo dục về môi trường và đào tạo nguồn nhân lực bảo vệ môi trường…

– Hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường;

– Trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên về bảo vệ môi trường…

– Thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo và bồi thường thiệt hại về môi trường.

Qua nghiên cứu Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, chúng tôi thấy những điểm thiếu sót cụ thể của 25 điều (các Điều 3, 7, 10, 18, 19, 24, 36, 37, 41, 42, 43, 44, 49, 52, 65, 67, 74, 75, 79, 83, 84, 86, 113, 121, 126) cần nhanh chóng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Những bất cập đó cụ thể là:

Thứ nhất, về công tác hướng dẫn thi hành. Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 có 15 chương với 135 điều nhưng việc hướng dẫn thi hành rất chậm. Nhiều nội dung không có văn bản hướng dẫn thi hành nên khó thực thi. Cần nhanh chóng có nghị định, thông tư hướng dẫn thực hiện để đảm bảo tính thống nhất và tính khả thi của Luật.

Thứ hai, về quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Về mặt thuật ngữ, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 sử dụng thuật ngữ “Tiêu chuẩn môi trường” không còn phù hợp với quy định của Luật về quy chuẩn và tiêu chuẩn. Việc Điều 10 Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản hướng dẫn thi hành chỉ xác định có hai loại quy chuẩn kỹ thuật môi trường là quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng môi trường xung quanh và quy chuẩn kỹ thuật về chất thải, mặc dù các quy định khác của pháp luật có quy định “phải tuân thủ quy chuẩn kỹ thuật môi trường”. Ví dụ: Theo Điều 42 Luật Bảo vệ môi trường, thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không có cơ sở pháp lý để ban hành các loại quy chuẩn này, nếu các loại hàng hoá này không phải là chất thải. Hậu quả của tính thiếu thống nhất trong quy định đã dẫn đến cách hiểu khác nhau trong quy định về bảo vệ môi trường đối với hoạt động nhập khẩu hàng hoá được quy định tại Điều 42 Luật Bảo vệ môi trường.Với bất cứ cách hiểu nào cũng tạo ra sự mâu thuẫn và những khó khăn trong quá trình xây dựng quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với hàng hoá và phế liệu xuất khẩu.

Thứ ba, về bảo vệ môi trường trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu: Luật Bảo vệ môi trường không đưa ra khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu và cũng không có văn bản hướng dẫn thi hành, nên khi áp dụng các quy định của pháp luật môi trường phải sử dụng khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu được quy định trong Luật Thương mại, Luật Hải quan. Vì vậy, dẫn đến sự bất cập trong hoạt động vận chuyển chất thải, phế liệu từ trong các khu kinh tế, thương mại có quy chế đặc biệt ra ngoài khu vực này.Dưới góc độ Luật Thương mại, Luật Hải quan, đây là hoạt động nhập khẩu. Do đó, hoạt động vận chuyển chất thải từ những khu vực này ra bên ngoài để xử lý là hành vi bị cấm theo Luật Bảo vệ môi trường nhưng nếu không thực hiện thì lại gây ảnh hưởng tới môi trường chung.

Với điều kiện về cơ sở xử lý chất thải, nhiều quốc gia cho phép nhập khẩu chất thải để xử lý. Việt Nam đã trở thành thành viên của Công ước Basel về vận chuyển chất thải xuyên biên giới nên có thể xuất khẩu chất thải sang các quốc gia là thành viên của công ước này. Trong khi đó, có nhiều hoạt động làm phát sinh chất thải, nhưng Việt Nam chưa có hệ thống xử lý phù hợp với môi trường.Luật Bảo vệ môi trường chỉ cấm nhập khẩu, quá cảnh chất thải mà không cấm xuất khẩu chất thải.Tuy nhiên, Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa có những quy định hướng dẫn về trình tự, thủ tục, điều kiện đối với hoạt động xuất khẩu chất thải.Thực trạng này không những gây khó khăn cho các chủ thể có nhu cầu xuất khẩu chất thải, mà còn có nguy hại gây ảnh hưởng xấu tới môi trường Việt Nam.

Quy định cấm nhập khẩu các phương tiện giao thông vận tải đã qua sử dụng về để phá dỡ (điểm b, khoản 2, Điều 42 Luật Bảo vệ môi trường) chưa bảo đảm quan điểm phát triển bền vững. Về mặt nguyên lý, chỉ cấm những loại phương tiện mà sau phá dỡ có nguy cơ rõ ràng và lớn tới môi trường, làm phát sinh nhiều chất thải nguy hại. Thực tế cho thấy, với quy định cấm này đã làm cho một lĩnh vực kinh tế (phá dỡ tàu cũ) bị ảnh hưởng nghiêm trọng và các lĩnh vực có liên quan (ngành thép, cơ khí) thiếu nguyên liệu sản xuất.

Quy định về điều kiện phế liệu được phép nhập khẩu (điểm a, khoản 1 Điều 43 Luật Bảo vệ môi trường) đưa ra tiêu chí “đã được làm sạch” là tiêu chí định tính và do đó không rõ ràng trong quy định. Bên cạnh đó, quy định này cũng mâu thuẫn với điều kiện phế liệu được phép nhập khẩu tại Điều 43 khoản 1 mục b và quy định về điều kiện của chủ thể được phép nhập khẩu phế liệu (mục b, khoản 2, Điều 43). Có những loại phế liệu trong Danh mục phế liệu được phép nhập khẩu theo Quyết định số 12/2006/QĐ-BTNMT không phù hợp với thực tế khi quy định về nguồn gốc phát sinh chứ không theo yêu cầu bảo vệ môi trường và do đó mâu thuẫn với quy định cấm nhập khẩu hàng tiêu dùng đã qua sử dụng gồm thuỷ tinh, kim loại, nhựa được quy định tại Phụ lục I Nghị định số 12/2006/NĐ-CP.

Đây là nguyên nhân tạo ra nguy cơ xung đột giữa cơ quan quản lý nhà nước và đơn vị nhập khẩu; là nguy cơ tạo ra tham nhũng, nhũng nhiễu.

Thứ tư, về đánh giá tác động môi trường: Theo quy định hiện hành, chủ thể phải thực hiện đánh giá tác động môi trường được quy định trong nhóm quy định về vấn đề này (Điều 18 Luật Bảo vệ môi trường và được cụ thể hoá Phụ lục II Nghị định số 29/2011/NĐ-CP ngày 18/4/2011 của Chính phủ quy định về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường). Tuy nhiên, khoản 1 Điều 65 Luật Bảo vệ môi trường, khi quy định về bảo vệ môi trường nước ngầm, cũng quy định về trường hợp khai thác nước ngầm phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường. Hệ quả là tạo ra mâu thuẫn giữa các quy định. Bên cạnh đó, trong khi khoản 4 Điều 19 Luật Bảo vệ môi trường quy định phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường bổ sung, thì khoản 3 Điều 13 Nghị định số 29/2011/NĐ-CP của Chính phủ lại quy định phải lập lại báo cáo đánh giá tác động môi trường. Lập lại và bổ sung báo cáo đánh giá tác động môi trường có những yêu cầu khác nhau. Do đó, khoản 3 Điều 13 Nghị định hướng dẫn đã mâu thuẫn với khoản 4 Điều 19 Luật Bảo vệ môi trường. Mục 146 Phụ lục II Nghị định số 29/2011/NĐ-CP ngày 18/4/2011 uỷ quyền cho Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét, quyết định những trường hợp khác phải đánh giá tác động môi trường. Quy định này mâu thuẫn với khoản 2 Điều 18 Luật Bảo vệ môi trường vì thẩm quyền quy định danh mục các dự án phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường do Chính phủ quy định và trái với quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (khoản 1 Điều 8).

Các quy định về điều kiện của chủ thể được phép lập Báo cáo đánh giá tác động môi trường (khoản 3 và 5 Điều 19 Luật Bảo vệ môi trường, Điều 16 Nghị định số 29/2011/NĐ-CP ngày 18/4/2011) đã không phân biệt giữa điều kiện của chủ thể thực hiện nghĩa vụ và điều kiện của chủ thể thực hiện hoạt động kinh tế trong lĩnh vực này. Do đó, các quy định này tạo ra tính không thống nhất, không hợp lý và thiếu tính khả thi.

Các quy định về hình thức thẩm định thông qua Tổ chức dịch vụ thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường (khoản 7 Điều 19 Luật Bảo vệ môi trường, khoản 3 Điều 19 Nghị định số 29/2011/NĐ-CP ngày 18/4/2011) không phù hợp với chủ trương xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường, không phù hợp với chủ trương cải cách hành chính và tạo ra những doanh nghiệp “sân sau” của cơ quan nhà nước khi quy định “cơ quan có thẩm quyền thẩm định quyết định việc tuyển chọn tổ chức dịch vụ thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường”. Các quy định hiện hành chưa có quy định về trách nhiệm của Hội đồng thẩm định và Tổ chức thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với kết luận thẩm định ràng buộc trách nhiệm của các chủ thể này đối với kết luận thẩm định của mình.

Thứ năm, về thẩm quyền quản lý: Theo Điều 121 Luật Bảo vệ môi trường, có quá nhiều bộ chủ quản chuyên ngành thực hiện hoặc phối hợp thực hiện hướng dẫn việc thực hiện pháp Luật Bảo vệ môi trường. Mặc dù là lĩnh vực bảo vệ môi trường có đặc thù là lĩnh vực mang tính đa ngành, liên ngành cao nhưng việc quy định quá nhiều cơ quan chủ trì, phối hợp nhưng không quy định sự phối hợp đó như thế nào dẫn tới việc về cùng một vấn đề tồn tại những văn bản hướng dẫn của các bộ khác nhau với những nội dung khác nhau. Theo các Điều 121, Điều 126, Điều 44 khoản 5 Luật Bảo vệ môi trường, có nhiều bộ cùng có chức năng kiểm tra việc thực hiện pháp Luật Bảo vệ môi trường. Thực trạng các quy định này không chỉ là sự chồng chéo, mâu thuẫn, bất hợp lý trong quy định mà còn dẫn tới sự lãng phí chi phí xã hội và chi phí cho doanh nghiệp.

Thứ sáu, các quy định về bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất và quản lý chất thải: Luật Bảo vệ môi trường quy định (Điều 36 khoản 2, Điều 37 khoản 2, Điều 74 khoản 1 điểm d, Điều 75 khoản 1 điểm a, Điều 79 khoản 1 điểm b) các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp và cơ sở sản xuất trong những ngành nghề, lĩnh vực được liệt kê tại các quy định này “phải có khoảng cách an toàn về môi trường đối với khu dân cư, khu bảo tồn thiên nhiên…”. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành mới chỉ có quy định về phương pháp xác định khoảng cách an toàn đối với cơ sở sản xuất, cất giữ một số loại hoá chất nguy hiểm (quy định tại Điều 22 Luật Hoá chất và Điều 13, 14, 15 Nghị định số 108/2008/NĐ-CP ngày 7/10/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Hoá chất).

Điều 41 khoản 5, Điều 86 khoản 1 Luật Bảo vệ môi trường xác định nghĩa vụ của các chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, phương tiện vận tải có nguy cơ gây sự cố môi trường phải áp dụng thực hiện các biện pháp phòng ngừa theo quy định tại Điều 41 khoản 5 và Điều 86. Ngoài các quy định tại Luật Hoá chất (Điều 38), Điều 5 Nghị định số 108/2008/NĐ-CP ngày 7/10/2008 và Luật Dầu khí (Điều 5), Quyết định số 11103/2005/QĐ-TTg, Quyết định số 395/1998/QĐ-BKHCNMT ngày 10/4/1998, hiện nay chưa có các quy định nhằm xác định cơ sở hoạt động trong các lĩnh vực, ngành nghề khác là cơ sở “có nguy cơ gây sự cố môi trường”.

Khoản 1 Điều 34 Luật Bảo vệ môi trường quy định: Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân tiêu dùng sản phẩm được cấp nhãn sinh thái và Điều 67 Luật Bảo vệ môi trường quy định về trách nhiệm thu hồi một số loại sản phẩm đã hết hạn sử dụng hoặc thải bỏ, nhưng cho tới nay, Nhà nước vẫn chưa có những quy định hướng dẫn để thực hiện. Các quy định về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải (Nghị định số 67/2003/NĐ-CP ngày 13/6/2003, Nghị định số 04/2007/NĐ-CP ngày 8/1/2007, Nghị định số 26/2010/NĐ-CP ngày 22/3/2010, Thông tư liên tịch số 106/2007/TTLT-BTC-BTNMT ngày 6/9/2007, Thông tư liên tịch số 107/2010/TTLT-BTC-BTNMT) còn chưa rõ ràng giữa trách nhiệm nộp phí bảo vệ môi trường với trách nhiệm xử lý nước thải và phí bảo vệ môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng sản (Nghị định số 63/2008/NĐ-CP ngày 13/5/2008) chưa phù hợp với cơ sở tính phí bảo vệ môi trường tại Điều 113 Luật Bảo vệ môi trường, không những tạo ra sự mâu thuẫn trong các quy định, mà còn không có tác dụng khuyến khích doanh nghiệp khai thác khoáng sản giảm thiểu ô nhiễm trong quá trình khai thác.

Doanh nghiệp nhỏ và hoạt động kinh doanh quy mô hộ gia đình khó thực thi những nghĩa vụ quản lý chất thải, nhất là khí thải và nước thải được quy định tại các Điều 7 khoản 5, 6, 7; Điều 37 khoản 1 điểm c, Điều 77 khoản 2, Điều 83, Điều 84 Luật Bảo vệ môi trường vì không thể đủ điều kiện về cơ sở vật chất cũng như cơ sở hạ tầng.

Thứ bảy, về xử lý vi phạm: Hình thức xử lý “Tạm thời đình chỉ hoạt động” hoặc “cấm hoạt động” khi có hành vi vi phạm pháp luật môi trường (gây ô nhiễm môi trường) được quy định tại Điều 49 khoản 1 điểm b, Điều 49 khoản 2 điểm c Luật Bảo vệ môi trường, Nghị định số 117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009 có thể được hiểu là: 1) “Tạm thời đình chỉ hoạt động” hoặc “cấm hoạt động” gây ảnh hưởng xấu tới môi trường (hành vi gây ô nhiễm môi trường) hoặc 2) “Tạm thời đình chỉ hoạt động” hoặc “cấm hoạt động” kinh doanh. Nếu hiểu theo cách thứ nhất thì có sự mâu thuẫn giữa quy định của Luật Bảo vệ môi trường (Điều 49 khoản 1, 2) với quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường (Điều 3 khoản 2 điểm h, Điều 4 khoản 1, khoản 3 Nghị định số 117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009 và các điều khoản cụ thể trong Nghị định này). Nếu hiểu theo cách thứ 2 thì lại không có cơ sở pháp lý để thu hồi đăng ký kinh doanh vì quy định của Luật Doanh nghiệp (Điều 156, Điều 165 khoản 2) không xác định đây là căn cứ để có thể tạm thời đình chỉ hoặc thu hồi đăng ký kinh doanh.

Điểm b khoản 3 Điều 52 Luật Bảo vệ môi trường quy định hình thức xử lý vi phạm “buộc lao động vệ sinh môi trường có thời hạn ở nơi công cộng” không phù hợp với các quy định xử lý hành chính, kỷ luật, hình sự, bồi thường thiệt hại. Bên cạnh đó, hình thức xử lý này áp dụng cả đối với tổ chức (doanh nghiệp) là không hợp lý và cho tới thời điểm này vẫn chưa có quy định hướng dẫn để thực hiện.

Để góp phần hoàn thiện Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, chúng tôi xin kiến nghị những giải pháp sau:

Một là, nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường trong từng lĩnh vực.Xây dựng và hoàn thiện hệ thống quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường trên tất cả các lĩnh vực.

Hai là, nghiên cứu sửa đổi Điều 10 Luật Bảo vệ môi trường theo hướng liệt kê thêm các loại quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với hàng hoá nhập khẩu, quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với phế liệu. Sửa đổi việc sử dụng thuật ngữ “Tiêu chuẩn môi trường” trong tất cả các điều khoản có sử dụng thuật ngữ này của Luật Bảo vệ môi trường thành thuật ngữ Quy chuẩn kỹ thuật môi trường và phải chỉ rõ trong đó phải tuân thủ quy chuẩn kỹ thuật nào trong các quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Sửa đổi Điều 43 Luật Bảo vệ môi trường theo hướng quy định thêm điều kiện của “phế liệu nhập khẩu phải bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với phế liệu”. Nhanh chóng xây dựng và ban hành quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với hàng hoá nhập khẩu và những quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với phế liệu nhập khẩu còn thiếu.

Ba là, bổ sung một số khái niệm trong Luật Bảo vệ môi trường như khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu theo cách hiểu của pháp luật môi trường theo hướng: Hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu chỉ bao hàm hoạt động đưa hàng hoá vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc đưa hàng hoá ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Cần xây dựng những quy định riêng đối với hoạt động nhập khẩu chất thải và phế thải từ các khu vực có quy chế kinh tế đặc biệt nhằm mục đích nâng cao hiệu quả của công tác bảo vệ môi trường và bảo đảm tính phù hợp với đặc thù của hoạt động này. Nên quy định theo hướng áp dụng các quy định vận chuyển chất thải và phế liệu sản sinh ở trong nước đối với các hoạt động đưa chất thải và phế liệu từ các khu vực có quy chế đặc biệt về kinh tế ra ngoài khu vực này. Đồng thời, nên bỏ yêu cầu đối với phế liệu được phép nhập khẩu được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 43 Luật Bảo vệ môi trường về nội dung “đã được làm sạch”.

Đổi mới hoạt động ban hành danh mục phế liệu được phép nhập khẩu theo hướng sử dụng tiêu chí những vấn đề bảo vệ môi trường cần đáp ứng chứ không dựa vào nguồn gốc phát sinh phế liệu và mở rộng loại phế liệu được phép nhập khẩu sau đó hướng tới ban hành danh mục chất thải thông thường để sử dụng nó như danh mục phế liệu được phép nhập khẩu.

Ban hành các quy định liên quan đến hoạt động xuất khẩu chất thải, cụ thể, sửa đổi Luật Bảo vệ môi trường theo hướng quy định rõ quyền được xuất khẩu chất thải của các chủ thể khác nhau và uỷ quyền cho chính phủ ban hành văn bản chi tiết hướng dẫn trình tự, thủ tục, điều kiện xuất khẩu chất thải. Sửa đổi điểm b khoản 2 Điều 42 Luật Bảo vệ môi trường theo hướng: Cấm nhập khẩu phương tiện giao thông vận tải đã qua sử dụng không bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật môi trường để phá dỡ.

Bốn là, nghiên cứu thay đổi hoặc bỏ quy định tại khoản 1 Điều 65 Luật Bảo vệ môi trường. Cần đảm bảo an toàn về mặt pháp lý cho chủ dự án khi xác định những trường hợp được quy định tại khoản 4 Điều 19 Luật Bảo vệ môi trường thực hiện lại báo cáo đánh giá tác động môi trường. Vì vậy, sửa đổi khoản 4 Điều 19 theo hướng thay thế báo cáo đánh giá tác động môi trường bổ sung bằng lập lại báo cáo đánh giá tác động môi trường.

Bổ sung các quy định về trách nhiệm của Hội đồng thẩm định và tổ chức dịch vụ thẩm định đối với kết luận của mình theo hướng: Trong trường hợp báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt mà dự án vẫn làm tổn hại đến môi trường xuất phát từ chất lượng của báo cáo đánh giá tác động môi trường thì Hội đồng thẩm định hoặc tổ chức dịch vụ thẩm định phải chịu trách nhiệm về hậu quả này như là cơ quan có thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường.

Năm là, sửa đổi các quy định về thẩm quyền hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường theo hướng:

Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm ban hành các quy định hướng dẫn, các quy chuẩn kỹ thuật môi trường và thực hiện hoạt động kiểm tra việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường của các chủ thể. Trong trường hợp nội dung có liên quan đến các lĩnh vực như xây dựng, y tế, nông nghiệp… Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các bộ liên quan xây dựng hướng dẫn và Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành văn bản hướng dẫn. Đối với hoạt động kiểm tra, trong trường hợp hoạt động kiểm tra các chủ thể hoạt động trong những lĩnh vực như xây dựng, y tế, nông nghiệp…, Bộ Tài nguyên và Môi trường có thể yêu cầu bộ chuyên ngành phối hợp cùng thực hiện (Đoàn kiểm tra liên ngành).

Các Bộ quản lý ngành có trách nhiệm hướng dẫn kỹ thuật việc thực thi pháp luật bảo vệ môi trường của các chủ thể, doanh nghiệp thuộc ngành quản lý.

Sáu là, ban hành các hướng dẫn kỹ thuật về khoảng cách an toàn từ khu công nghiệp, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp, cơ sở sản xuất (được liệt kê tại khoản 2 Điều 36, khoản 2 Điều 37, điểm d khoản 1 Điều 74, điểm a khoản 1 Điều 75, điểm b khoản 1 Điều 79 Luật Bảo vệ môi trường) tới khu dân cư, khu bảo tồn thiên nhiên, vùng được bảo vệ.

Ban hành quy định hướng dẫn Luật Bảo vệ môi trường theo hướng: Xác định tiêu chí (hoặc liệt kê các lĩnh vực sản xuất kinh doanh) “có nguy cơ gây sự cố môi trường” và cụ thể hoá những nghĩa vụ được quy định tại Điều 86 Luật Bảo vệ môi trường. Nhà nước cần ban hành (có thể dưới dạng Nghị định) quy định về điều kiện, tiêu chí, trình tự, thủ tục cấp nhãn sinh thái, cơ chế thực thi và các chủ thể có liên quan.

Bộ Tài nguyên và Môi trường hoàn thiện dự thảo, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định hướng dẫn về việc thu hồi các sản phẩm đã hết hạn sử dụng hoặc thải bỏ. Sửa đổi các quy định về phí bảo vệ môi trường theo hướng: Xác định rõ nghĩa vụ nộp phí và nghĩa vụ xử lý chất thải là hai nghĩa vụ độc lập, trong đó làm rõ trách nhiệm của bên đóng phí và bên thu phí; mức bảo vệ môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng sản phải được thu dựa trên cơ sở mức độ ảnh hưởng tới môi trường của hoạt động khai thác khoáng sản. Các nội dung này nên đưa vào các Nghị định quy định về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải, phí bảo vệ môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng sản.

Sửa đổi khoản 5, 6, 7 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 37, khoản 2 Điều 77, Điều 83, Điều 84 Luật Bảo vệ môi trường theo hướng tách riêng nghĩa vụ quản lý khí thải và nước thải đối với các cơ sở phải thực hiện đánh giá tác động môi trường (là những doanh nghiệp lớn) với các doanh nghiệp phải thực hiện cam kết bảo vệ môi trường (là những doanh nghiệp nhỏ và quy mô hộ gia đình) và xây dựng những quy chuẩn kỹ thuật môi trường về chất thải áp dụng riêng cho hai nhóm này. Bên cạnh đó, cần xây dựng chính sách, quy hoạch, kế hoạch nhằm phát triển khu, cụm công nghiệp nhằm di chuyển các cơ sở sản xuất, kinh doanh nhỏ, quy mô hộ gia đình từ khu dân cư ra các khu vực này.

Bảy là, sửa đổi hình thức xử lý “tạm thời đình chỉ hoạt động” hoặc “cấm hoạt động” khi có hành vi vi phạm pháp luật về môi trường cụ thể: Nếu theo nguyên lý chung, hành vi nào vi phạm pháp luật thì sẽ cấm hành vi đó để tránh những hậu quả tiếp tục xảy ra. Từ đây, biện pháp tạm đình chỉ hoặc cấm hoạt động nên được hiểu là tạm đình chỉ hoặc cấm hoạt động đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường. Theo đó, cần sửa đổi Điều 4 Luật Bảo vệ môi trường theo hướng bỏ hình thức xử lý “tạm đình chỉ hoạt động”, “cấm hoạt động” trong khoản 1, khoản 2, đồng thời, nên chuyển và quy định cụ thể hơn tại Nghị định số 117/2009/NĐ-CP theo hướng chỉ rõ hoạt động bị tạm đình chỉ hoặc bị cấm là hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

ĐặngThu Hiền

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Công tác thi hành án dân sự sau một năm nhìn lại

25/03/2014

Ngành Thi hành án dân sự bước vào năm 2013 trong bối cảnh Ngành vừa có những chuyển biến lớn về vị thế, về mô hình tổ chức. Bên cạnh đó, có rất nhiều nhiệm vụ nặng nề đang đặt ra ở phía trước. Năm 2013 là năm đầu tiên Quốc hội ban hành Nghị quyết về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2013, trong đó, có giao chỉ tiêu cụ thể về công tác thi hành án dân sự. Xác định việc thực hiện chỉ tiêu được giao, cũng như thực hiện rất nhiều việc phải làm trong bối cảnh chung của đất nước và của Ngành là hết sức khó khăn, nên ngay từ đầu năm, toàn Ngành Thi hành án đã dốc sức lên kế hoạch và sát sao thực hiện nhiệm vụ.

Một số kết quả quan trọng

Có thể nói, toàn Ngành, từ Tổng cục đến các Cục, Chi cục Thi hành án dân sự đã có sự chuẩn bị khá chu đáo ngay từ khi kết thúc năm 2012, chỉ tiêu tạm giao năm 2013 đã được Tổng cục Thi hành án dân sự chỉ đạo các địa phương sớm xây dựng kế hoạch thực hiện. Tổng cục Thi hành án dân sự đã có những đổi mới trong công tác quản lý, điều hành theo hướng sâu sát, quyết liệt hơn, toàn diện hơn. Tiếp tục chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật, duy trì chế độ giao ban, đồng thời có biện pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về nghiệp vụ, về công tác tổ chức và cán bộ.

Nhiều địa phương, các Cục và Chi cục Thi hành án dân sự cũng đã chủ động nghiên cứu, có các giải pháp, cách làm hay như: Tăng cường chấp hành viên hỗ trợ cho các Chi cục có lượng án nhiều, thành lập nhiều đoàn kiểm tra cơ sở, phát động các đợt cao điểm…

Năm 2013, toàn Ngành đã tập trung xây dựng các văn bản củng cố cơ cấu tổ chức Ngành, xây dựng các quy chế nội bộ, các quy trình nghiệp vụ cho phù hợp với thực tiễn.

Công tác chỉ đạo nghiệp vụ được quan tâm chú trọng và ngày càng có hiệu quả hơn. Một số vụ án lớn hoặc phức tạp, vướng mắc trong thi hành án đã được sát sao chỉ đạo giải quyết. Năm qua, Tổng cục Thi hành án dân sự đã giải quyết 96% số văn bản xin ý kiến chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ. Các Cục Thi hành án địa phương cũng tập trung hướng dẫn, giải quyết các công văn của cấp dưới đạt kết quả khá cao, có tỉnh đạt 100% (An Giang, Bắc Giang).

Công tác kiểm tra địa phương đã được Tổng cục Thi hành án dân sự lập kế hoạch và chỉ đạo các Cục Thi hành án dân sự tích cực thực hiện, ngoài kiểm tra theo kế hoạch, Tổng cục đã phối hợp kiểm tra liên ngành, kiểm tra đột xuất, nhất là đối với địa phương đạt kết quả thấp, còn yếu kém hoặc có vấn đề bức xúc, nổi cộm.

Các địa phương cũng thực hiện tương đối tốt việc kiểm tra cấp dưới và tự kiểm tra, đã phát hiện một số sai sót trong khi ra quyết định thi hành án, trong thủ tục thi hành án, hoặc phân loại án chưa chính xác.

Công tác tiếp công dân tiếp tục được quan tâm, chú trọng. Toàn Ngành trong năm qua, đã tiếp nhận 9.622 đơn, thư khiếu nại, tố cáo (tăng trên 2.000 đơn so với năm 2012). Kết quả là đã giải quyết 97,6%, có địa phương giải quyết đạt 100% (An Giang, Đồng Tháp). Các vụ khiếu nại kéo dài đã được chỉ đạo giải quyết sát sao (41/54 vụ). Tổng cục Thi hành án dân sự đã tổ chức 14 đoàn công tác tại 19 địa phương và tham gia 27 đoàn công tác tiến hành kiểm tra công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và xác minh, đối thoại với đương sự.

Sau hai năm thực hiện thí điểm Thừa phát lại tại TP. Hồ Chí Minh, đã có 08 văn phòng Thừa phát lại hoạt động, đã lập và đăng ký 6.565 vi bằng, xác định điều kiện thi thành án 110 vụ việc, tổ chức thi hành án xong 27 vụ việc. Bước đầu hỗ trợ tích cực cho các hoạt động tư pháp, góp phần giảm tải cho Tòa án và cơ quan thi hành án…

Theo Nghị quyết của Quốc hội, tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại, Tổng cục Thi hành án dân sự đã phối hợp với các cơ quan hữu quan như: Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tài chính, lựa chọn thêm 12 địa phương thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại; tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ Thừa phát lại và tập trung xây dựng các văn bản hướng dẫn, để các văn phòng Thừa phát lại sớm đi vào hoạt động.

Năm 2013, toàn Ngành thụ lý 722.179 vụ việc (tăng 89.294 việc so với năm 2012), đã giải quyết xong 492.975 việc/569.693 việc có điều kiện thi hành (đạt 86,53% về việc và 73.14% về tiền).

Như vậy, về giá trị tuyệt đối, toàn Ngành đã giải quyết xong số việc và tiền cao hơn năm 2012. Nhiều đơn vị đã rất nỗ lực để hoàn thành chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao, có 17/63 địa phương hoàn thành 03 chỉ tiêu, 26/63 địa phương hoàn thành 02 chỉ tiêu, 11/63 địa phương đạt kết quả thấp. So với chỉ tiêu Quốc hội giao, thì toàn Ngành chưa đạt.

Đáng chú ý là, trong số vụ việc đang thi hành dở dang (thuộc diện có điều kiện thi hành), số vụ việc đã kê biên tài sản, định giá lại và bán đấu giá lại nhiều lần, nhưng không đạt kết quả là 9.955 việc (chiếm 13% về việc và 81,41% về tiền trong số việc có điều kiện thi hành đang giải quyết), đã tác động đến kết quả thi hành án xong, ảnh hưởng đến việc hoàn thành chỉ tiêu.

Một năm nhìn lại

Một năm rất quyết tâm và cố gắng, song năm 2013, toàn Ngành chưa hoàn thành chỉ tiêu thi hành án xong về việc và tiền theo Nghị quyết của Quốc hội. Những lo lắng, trăn trở tại Hội nghị triển khai công tác thi hành án một năm trước, nay đã hiển hiện. Tại Hội nghị triển khai công tác thi hành án năm nay, vấn đề chỉ tiêu được mổ xẻ nhiều nhất, có hay không việc chạy theo thành tích? Câu trả lời là có, địa phương chưa tổ chức thực hiện nhiệm vụ một cách hợp lý, nên phải “vắt chân lên cổ chạy chỉ tiêu”, không đạt thì xoay, biến báo số liệu; cũng có địa phương, số lượng án quá lớn, bằng nhiều sáng kiến, động viên tổng lực mà vẫn không đủ chỉ tiêu…, cũng tìm cách hợp lý số liệu.

Trong khi có địa phương hoàn thành chỉ tiêu khá nhẹ nhàng, thì một số địa phương đạt kết quả thấp đã được “trả bài” để tìm nguyên nhân. Nhiều ý kiến cho rằng, cần xem xét lại công tác thống kê, phân loại án và vấn đề kê biên bán đấu giá nhiều lần không được, đã ảnh hưởng rất nhiều đến con số kết quả thi hành án. Lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự TP. Hồ Chí Minh – một đơn vị thụ lý số lượng bản án thi hành rất lớn (chiếm 1/9 lượng án thụ lý thi hành trong cả nước) cho rằng: Chỉ tiêu đặt ra là quá cao, trong khi chế độ báo cáo thống kê của chúng ta còn rất nhiều điểm chưa hợp lý, tạo áp lực lớn cho cán bộ thi hành án và không phản ánh đúng hoạt động của cơ quan thi hành án. Khái niệm “việc có điều kiện thi hành” rất rộng mà không xem xét đến thời gian cần thiết để giải quyết với mỗi việc (ví dụ số việc thụ lý mới trong 02 tháng cuối năm). Bên cạnh đó, nhiều việc thi hành án có điều kiện, nhưng không thể thi hành được là hoàn toàn vì lý do khách quan (cấp dưỡng nuôi con, tài sản thi hành án không có người mua…).

Việc giao chỉ tiêu giảm số việc thi hành án chuyển sang kỳ sau là không khả thi, đặc biệt là khi số việc thụ lý mới tăng đột biến như ở TP. Hồ Chí Minh trong những năm vừa qua.

Với chỉ tiêu thi hành án và chế độ thống kê, báo cáo như hiện nay, để hoàn thành chỉ tiêu, có chấp hành viên đã báo cáo không trung thực số liệu thi hành án, vì đã cố gắng nhiều, nhưng vẫn không hoàn thành, dẫn đến hệ lụy là mất thi đua khen thưởng, không được tăng lương, bị cách chức, … Quả thực, căn bệnh thành tích là có thật, nếu không sớm chữa trị, thì hậu họa thật khó lường.

Năm qua, mặc dù kỷ luật, kỷ cương trong Ngành đã được đề cao, nhưng hiện tượng tiêu cực trong Ngành Thi hành án dân sự chưa giảm đáng kể, số cán bộ bị xử lý, kỷ luật vẫn còn nhiều (58 trường hợp), đặc biệt, trong đó có 10 đồng chí lãnh đạo Cục. Một số địa phương có nhiều cán bộ vi phạm đã được chỉ ra, như Đồng Nai, Vĩnh Long, Kiên Giang, Long An. Công tác cán bộ vẫn chưa thực sự đi trước một bước, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; vẫn còn một thực trạng là, cán bộ thi hành án chưa thực sự an tâm công tác, vì họ phải chịu quá nhiều áp lực, chính vì vậy cần sớm có cơ chế, chính sách phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội ở mỗi địa phương, vùng, miền, đảm bảo an toàn về mặt pháp lý cho chấp hành viên, cần có chế độ bảo hiểm nghề nghiệp đối với cán bộ thi hành án…

Một điều đáng ghi nhận là, năm vừa qua, nhận thức về nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị đối với công tác thi hành án dân sự đã có chuyển biến rõ nét, theo đó, sự phối hợp của chính quyền, các cơ quan, ban, ngành hữu quan đã tác động tích cực đến công tác thi hành án dân sự, mặc dù sự phối hợp này cần được tiếp tục thể chế hóa cụ thể, khả thi hơn.

Tại Hội nghị triển khai công tác thi hành án dân sự năm 2014, có những lúc không khí như chùng lại, sau những căng thẳng của một năm công tác rất cố gắng đã đạt được nhiều kết quả, song nhiều nỗi lo cứ triền miên đeo đuổi, thêm vào đó có những nỗi lo mới ào đến. Còn quá nhiều việc ngổn ngang. Tại Hội nghị, một số địa phương có kết quả công tác yếu được yêu cầu báo cáo để Hội nghị nghe, cùng tìm ra nguyên nhân, rút kinh nghiệm; một số tham luận, ý kiến phát biểu của đại biểu trong và ngoài Ngành Thi hành án đã rất thẳng thắn, khách quan chỉ ra những sai sót, vi phạm, bất hợp lý trong công tác thi hành án, tạo nên không khí thẳng thắn, nghiêm túc, để tìm “phương thuốc cứu chữa”, đó là điều rất mừng, cho thấy sự kiên quyết, cầu thị của lãnh đạo Ngành Tư pháp và lãnh đạo Tổng cục Thi hành án dân sự.

Một năm lại qua đi, toàn Ngành Thi hành án lại đón những nhiệm vụ nặng nề mới. Ngoài những nhiệm vụ thường kỳ, năm 2014, Ngành Thi hành án sẽ tiếp tục hoàn chỉnh dự án Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Để nghiên cứu sửa luật này, rất cần sự đầu tư lớn về sức lực, trí tuệ của toàn Ngành. Tất cả những tổng kết thực tiễn và những nghiên cứu, đóng góp đều phải phù hợp với hoàn cảnh nước ta, trước những đòi hỏi của đổi mới, thực trạng độingũ cán bộ và ý thức pháp luật của người dân, để Luật Thi hành án dân sự thực sự là cơ sở pháp lý vững chắc và ổn định, tạo điều kiện hỗ trợ công cuộc cải cách tư pháp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân, tổ chức và Nhà nước.

Duy Kiên

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com