UBND do HĐND cùng cấp bầu ra tại kì họp thứ nhất của mỗi khoá HĐND theo hình thức bỏ phiếu kín, là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm và báo cáo trước HĐND cùng cấp.

          Uỷ ban nhân dân là cơ quan chịu trách nhiệm chủ yếu trong việc triển khai, tổ chức thực hiện các nghị quyết của HĐND, biến những quy định trong các nghị quyết đó thành hiện thực.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

PGS.TS. LÊ THỊ THU THỦYĐại học Quốc gia Hà Nội;

ĐỖ MINH TUẤN –  NCS. Đại học Luật Hà Nội.

Chế định các biện pháp bảo đảm (BPBĐ) trong pháp luật Việt Nam kế thừa những giá trị của pháp luật thời kỳ phong kiến và pháp luật của Pháp. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của các giao dịch thương mại quốc tế, chế định về các BPBĐ đã được quốc tế hóa và chịu ảnh hưởng không ít bởi những tư tưởng của pháp luật Anh – Mỹ. Trong khuôn khổ bài viết, chúng tôi cung cấp một bức tranh khái quát về pháp luật các nước Anh – Mỹ và thông lệ quốc tế về giao dịch bảo đảm (GDBĐ) dưới góc độ so sánh với pháp luật Việt Nam. Từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm góp phần hoàn thiện hơn nữa pháp luật về các BPBĐ của Việt Nam, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế.

1. Khái niệm về giao dịch bảo đảm

BPBĐ là công cụ hữu hiệu nhằm ngăn ngừa hành vi vi phạm của bên có nghĩa vụ, vừa bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của bên có quyền. Trong giao lưu dân sự, đặc biệt là trong quan hệ kinh doanh – thương mại, BPBĐ có vai trò rất quan trọng.

“BPBĐ thực hiện nghĩa vụ dân sự là biện pháp trong đó một bên sử dụng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình hoặc sử dụng uy tín của mình (gọi là bên bảo đảm) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình hoặc của chủ thể khác (gọi là bên được bảo đảm)”[1]. Các BPBĐ theo pháp luật Việt Nam chủ yếu có tính chất tài sản, trừ biện pháp tín chấp. Nhìn chung, pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước khá tương đồng về khái niệm BPBĐ tuy có sự khác nhau trong việc sử dụng thuật ngữ. Theo hướng dẫn của UNCITRAL thì “GDBĐ là giao dịch xác lập lợi ích bảo đảm. Mặc dù việc chuyển nhượng tuyệt đối khoản phải thu không bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ, nhưng để thuận tiện cho việc dẫn chiếu, GDBĐ bao gồm cả việc chuyển nhượng khoản phải thu”[2], trong đó lợi ích bảo đảm là một lợi ích tài sản gắn với một tài sản nhất định nhằm bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ nhất định. Theo pháp luật của Mỹ thì GDBĐ cũng là giao dịch xác lập lợi ích bảo đảm[3]. Có thể thấy, “lợi ích bảo đảm” khá tương đồng với “BPBĐ”.

Pháp luật Việt Nam và pháp luật của các nước đều thừa nhận bên bảo đảm có quyền sử dụng tài sản bao gồm vật, giấy tờ có giá, quyền tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ của mình.

 

2. Chủ thể tham gia giao dịch bảo đảm

Các bên tham gia GDBĐ bao gồm bên bảo đảm, bên nhận bảo đảm (chủ nợ có bảo đảm). Ngoài ra trong thực tiễn giao dịch có bảo đảm còn xuất hiện những bên thứ ba như bên quản lý tài sản bảo đảm, người đại diện của bên nhận bảo đảm, bên xử lý tài sản mà không phải là bên nhận bảo đảm… Trong trường hợp trái phiếu bảo đảm bằng tài sản và trường hợp chủ nợ có bảo đảm ở nước ngoài, có một người đứng ra quản lý GDBĐ cho các chủ nợ có bảo đảm, đó là người quản lý GDBĐ. Trong phần giải nghĩa cho Điều 16 của Luật mẫu về GDBĐ do Ngân hàng Tái thiết và Phát triển châu Âu ban hành (Luật mẫu EBRD) thì “Người quản lý GDBĐ không chỉ là người đại diện của bên nhận bảo đảm; mà trong ngôn ngữ thực tiễn, người này sẽ thay mặt bên nhận bảo đảm thực hiện các giao dịch với các bên thứ ba liên quan đến việc thực thi GDBĐ (nhưng không phải là việc chuyển nhượng quyền đối với nghĩa vụ được bảo đảm và GDBĐ). Vai trò này được thể hiện cụ thể trong trường hợp có nhiều bên nhận bảo đảm, ví dụ một số ngân hàng cho vay, các chủ sở hữu trái phiếu hoặc khi mà bên nhận bảo đảm không cư trú tại nước sở tại”[4]. Theo Luật mẫu EBRD, người quản lý GDBĐ do bên nhận bảo đảm chỉ định. Người này có quyền giám sát việc thanh toán nợ của con nợ, GDBĐ có quyền tiến hành các thủ tục xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật, đồng thời GDBĐ phải thực hiện các nghĩa vụ của bên nhận GDBĐ đối với bên thứ ba. Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa quy định cụ thể về nội dung này.

3. Các biện pháp bảo đảm

Các BPBĐ trong thực tiễn áp dụng pháp luật của Việt Nam và các nước rất phong phú. Pháp luật Việt Nam về các BPBĐ truyền thống như: cầm cố, thế chấp, ký cược, đặt cọc, ký quỹ, bảo lãnh. Bộ luật Dân sự (BLDS) Việt Nam còn quy định về biện pháp tín chấp. Ngoài ra trong thực tiễn kinh doanh, các bên còn áp dụng các BPBĐ khác là biến thể của các BPBĐ trên như bảo lãnh ngân hàng, tín dụng dự phòng… Các BPBĐ theo pháp luật Việt Nam không bắt buộc có sự chuyển dịch quyền sở hữu tài sản từ người bảo đảm sang người nhận bảo đảm.

Pháp luật Anh – Mỹ cũng có các BPBĐ tồn tại dưới hình thức cầm cố, thế chấp, bảo lãnh… Theo pháp luật Mỹ thì biện pháp thế chấp chủ yếu được áp dụng cho bất động sản, quy định thế chấp là một BPBĐ trao cho bên nhận bảo lãnh một lợi ích trên bất động sản để bảo đảm cho một nghĩa vụ “Thế chấp được chứng minh bởi một chứng thư độc lập với hối phiếu nhận nợ hoặc hợp đồng vay nợ. Lợi ích bảo đảm dành cho người cầm giữ quyền tịch biên tài sản bảo đảm trong trường hợp không trả nợ hoặc quyền được thanh toán trước so với các chủ nợ có quyền ưu tiên thấp hơn…”[5]. Như vậy, pháp luật của Mỹ không bắt buộc phải chuyển dịch quyền sở hữu bất động sản mà trao cho người nhận thế chấp quyền xử lý tài sản thế chấp và quyền ưu tiên thanh toán. Khác với Mỹ, pháp luật của Anh coi thế chấp là BPBĐ có sự chuyển dịch chuyển sở hữu từ bên bảo đảm sang bên nhận bảo đảm nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và bên bảo đảm được bảo lưu quyền chuộc lại tài sản trong trường hợp hoàn thành nghĩa vụ[6]. Điều này dẫn đến thực trạng ở Anh có hai loại thế chấp là thế chấp pháp lý và thế chấp công bình. Thế chấp pháp lý là trường hợp thế chấp mà quyền sở hữu tài sản đã được chuyển giao hoàn toàn cho người nhận thế chấp. Thế chấp công bình xảy ra trong trường hợp các bên có ý định xác lập thế chấp pháp lý nhưng thực tế không thực hiện được, với điều kiện bên thế chấp đã thực hiện mọi hành vi cần thiết để chuyển giao quyền sở hữu tài sản thì luật công bình sẽ thừa nhận sự tồn tại của biện pháp thế chấp này và gọi là thế chấp công bình[7]. Ví dụ, khi một người dùng một tài sản để thế chấp hai lần, thì thế chấp lần thứ nhất thường là thế chấp pháp lý và thế chấp lần hai thường là thế chấp công bình, vì tài sản không thể chuyển giao hoàn toàn cho người nhận thế chấp thứ hai được khi nó đã được chuyển cho người nhận thế chấp thứ nhất. Trừ trường hợp đặc biệt, người nhận thế chấp pháp lý có lợi thế hơn so với người nhận thế chấp công bình.

Trong pháp luật Anh – Mỹ tồn tại khái niệm đặc quyền (charge – luật Anh) hoặc (lien – luật của Mỹ). Đặc quyền bao gồm đặc quyền chấp hữu (quyền cầm giữ tài sản -artisan’s lien) và đặc quyền không chấp hữu (đặc quyền không cầm giữ tài sản -mechanic’s liens). “Đặc quyền là một quyền hoặc lợi ích pháp lý mà chủ nợ có được trên một tài sản của một người khác tồn tại cho đến khi nghĩa vụ được bảo đảm bởi đặc quyền này được hoàn thành”[8]. Đặc quyền có thể phát sinh theo thỏa thuận của các bên hoặc được quy định bởi pháp luật. “Nhiều người cung cấp dịch vụ làm duy trì hoặc tăng giá trị của tài sản. Ví dụ nhà tư vấn kỹ thuật sửa chữa ô tô, thợ kim hoàn sửa chữa dây chuyền. Thông thường, các luật khác ngoài UCC quy định người sửa chữa hoặc cung cấp dịch vụ có quyền cầm giữ tài sản được sửa chữa hoặc cung cấp dịch vụ. Đặc quyền này được xác lập bởi đạo luật hoặc án lệ và tồn tại bằng việc người cung cấp dịch vụ cầm giữ tài sản này”[9]. Quyền cầm giữ tài sản khác với cầm cố ở điểm chủ nợ nắm giữ tài sản do chủ sở hữu tài sản giao vì mục đích khác, như sửa chữa, gia cố…Còn trong cầm cố, chủ sở hữu tài sản giao tài sản cho bên nhận cầm cố để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ. Ngoài ra, luật Mỹ còn quy định về đặc quyền nông nghiệp là quyền dành cho người cung cấp được bảo đảm việc thanh toán tiền bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, tiền cho thuê bất động sản phục vụ cho hoạt động nông nghiệp[10]. Đặc quyền nông nghiệp có thể phát sinh theo quy định của luật tiểu bang. Ngoài đặc quyền của nhà cung cấp dịch vụ, luật Mỹ còn quy định một số đặc quyền đặc biệt như đặc quyền thuế liên bang, quyền cầm giữ hàng hải. Bộ luật Hàng hải năm 2005 của Việt Nam (BLHH) cũng quy định về quyền cầm giữ hàng hải “Quyền cầm giữ hàng hải là quyền của người có khiếu nại hàng hải được quy định tại Điều 37 của Bộ luật này được ưu tiên trong việc đòi bồi thường đối với chủ tàu, người thuê tàu, người khai thác tàu mà tàu biển đó đã làm phát sinh khiếu nại hàng hải. Khiếu nại hàng hải là việc một bên yêu cầu bên kia thực hiện nghĩa vụ phát sinh liên quan đến hoạt động hàng hải”[11].Bên cạnh đó, Điều 94 và 95 BLHH còn quy định người vận chuyển có quyền lưu giữ hàng hóa trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày tàu cập cảng trả hàng, mà không ai đến nhận hàng hoặc người nhận hàng không thanh toán hết khoản nợ hoặc không đưa các bảo đảm cần thiết thì người vận chuyển có quyền bán đấu giá số hàng đó. Điều 194 BLHH quy định về quyền cầm giữ tàu biển và hàng hóa được cứu hộ để bảo đảm nghĩa vụ thanh toán chi phí cứu hộ…

Bảo lưu quyền sở hữu hàng hóa là quyền của người bán giữ lại hoặc bảo lưu quyền sở hữu hàng hóa cho đến khi bên mua thanh toán toàn bộ tiền hàng. Đây là BPBĐ rất phổ biến ở pháp luật Anh – Mỹ áp dụng trong trường hợp mua trả chậm, trả dần. Điều 461 BLDS Việt Nam năm 2015 cũng đề cập đến quyền bảo lưu quyền sở hữu tài sản của bên bán cho đến khi bên mua trả đủ tiền áp dụng cho trường hợp mua trả chậm, trả dần.

Cũng như thông lệ quốc tế và pháp luật nhiều nước, pháp luật Việt Nam không giới hạn về các BPBĐ. BPBĐ sẽ do các bên tự thỏa thuận. “Điều 318 BLDS không quy định cấm các bên thỏa thuận về việc áp dụng BPBĐ khác ngoài các BPBĐ nêu trên, do đó, nếu các bên tự thỏa thuận về việc áp dụng BPBĐ khác ngoài các biện pháp nêu trên mà không trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội thì pháp luật không “bác bỏ” sự thỏa thuận đó giữa các bên, khi có tranh chấp thì các bên có trách nhiệm thực hiện đúng cam kết đó”[12]. Tuy nhiên, thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, các BPBĐ, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính ngân hàng chỉ được bó hẹp trong các BPBĐ mà pháp luật quy định.

4. Hiệu lực của giao dịch bảo đảm

Áp dụng BPBĐ sẽ đem lại cho chủ nợ đặc quyền xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp phát sinh vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên, để chủ nợ có thể thực thi được đặc quyền của mình đòi hỏi GDBĐ phải xác lập theo những căn cứ và thủ tục pháp lý nhất định.

BPBĐ không đương nhiên tồn tại mà chỉ phát sinh và tồn tại khi pháp luật quy định hoặc các bên có thỏa thuận “Trong trường hợp các bên không quy định về BPBĐ mà luật pháp cũng không quy định về BPBĐ, thì không bên nào có nghĩa vụ thực hiện bất kỳ BPBĐ nào”[13]. Luật mẫu EBRD cũng thừa nhận các GDBĐ được xác lập theo pháp luật hoặc trên cơ sở một quyết định tư pháp hoặc hành chính. “Lợi ích bảo đảm không nhất thiết phải được xác lập bởi sự thỏa thuận giữa các bên, ví dụ ở một số quốc gia, người sửa chữa máy móc có đặc quyền (lien) trên máy móc được sửa chữa để bảo đảm nghĩa vụ trả tiền công sửa chữa”[14]. Hệ thống thông luật cũng thừa nhận BPBĐ theo thỏa thuận (consensual security) và BPBĐ không theo thỏa thuận (non-consensual security), thường là phát sinh theo quy định của pháp luật.

Về hình thức tồn tại của GDBĐ, theo UNCITRAL “Luật nên quy định hợp đồng bảo đảm có thể bằng miệng nếu bên nhận bảo đảm chiếm hữu tài sản bảo đảm. Trong trường hợp khác, hợp đồng bảo đảm phải được lập bằng văn bản, hoặc phải được chứng minh bởi sự kết hợp giữa văn bản và hành vi của các bên xác định ý chí của bên bảo đảm là muốn xác lập một lợi ích bảo đảm”[15]. Tuy nhiên, các chuyên gia của UNCITRAL cũng đưa ra vấn đề phân biệt hiệu lực ràng buộc của GDBĐ giữa bên bảo đảm với bên nhận bảo đảm và hiệu lực của GDBĐ đối với bên thứ ba. Theo đó, mặc dù GDBĐ không có hiệu lực đối với bên thứ ba nhưng vẫn có hiệu lực đối với bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm. Pháp luật Việt Nam quy định cầm cố, thế chấp, đặt cọc, bảo lãnh, tín chấp phải được lập thành văn bản; còn ký quỹ, ký cược không nhất thiết phải lập thành văn bản.

Thông thường, chỉ cần giao dịch được xác lập bằng văn bản một cách hợp lệ đã đủ cơ sở ràng buộc các bên. Tuy nhiên, GDBĐ không chỉ liên quan đến bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm, giữa con nợ với chủ nợ, mà GDBĐ còn liên quan đến bên thứ ba. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, GDBĐ phải tuân thủ theo những thủ tục pháp lý nhất định mới có giá trị pháp lý. Trong pháp luật của Mỹ có khái niệm “perfection” (hoàn thiện GDBĐ) để chỉ “các thủ tục pháp lý được thực hiện bởi bên nhận bảo đảm để đưa ra một thông báo công khai cho những người khác, những người có quyền yêu cầu đối với tài sản của con nợ rằng bên nhận bảo đảm có đặc quyền trên tài sản của con nợ”[16].Thuật ngữ “hoàn thiện GDBĐ” hoặc từ ngữ tương đương được sử dụng rộng rãi trong các công ước quốc tế liên quan đến GDBĐ quốc tế và trong nhiều nước trên thế giới.

Mặc dù không trực tiếp sử dụng thuật ngữ “hoàn thiện GDBĐ” nhưng bằng việc quy định những thủ tục pháp lý nhất định áp dụng cho từng BPBĐ, pháp luật Việt Nam cũng có sự tương đồng với thông lệ quốc tế và pháp luật các nước về vấn đề làm thế nào để GDBĐ có hiệu lực đối với bên thứ ba.

Luật mẫu EBRD đưa ra ba phương thức xác lập hiệu lực của một GDBĐ: (1) Đăng ký: Các bên giao kết hợp đồng bảo đảm (charging instrument). Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày giao kết hợp đồng bảo đảm, phải làm thủ tục đăng ký GDBĐ (nộp bản đăng ký GDBĐ tại cơ quan có thẩm quyền); (2) Chiếm hữu: Các bên giao kết hợp đồng bảo đảm (charging instrument) và bên nhận bảo đảm cầm giữ tài sản bảo đảm; (3) Bảo lưu quyền sở hữu tài sản: Bên bán nắm giữ quyền sở hữu tài sản cho đến khi bên mua thanh toán đủ tiền.

Pháp luật Mỹ đưa ra các phương thức “hoàn thiện GDBĐ” là: Đăng ký GDBĐ, chiếm hữu/kiểm soát tài sản bảo đảm, và GDBĐ tự động hoàn thiện áp dụng cho một số tài sản bảo đảm nhất định.

Đăng ký GDBĐ là biện pháp “hoàn thiện GDBĐ” được áp dụng phổ biến trên thế giới. Các bên có thể tự nguyện đăng ký hoặc bắt buộc đăng ký GDBĐ theo quy định của pháp luật. Điều 3.1 Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 của Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về đăng ký GDBĐ liệt kê các GDBĐ buộc phải đăng ký là: thế chấp quyền sử dụng đất, thế chấp rừng sản xuất là rừng trồng, cầm cố tàu bay, thế chấp tàu bay, thế chấp tàu biển và các giao dịch khác theo quy định của pháp luật. Các trường hợp còn lại các bên có quyền lựa chọn đăng ký hoặc không đăng ký GDBĐ. Đối với trường hợp đăng ký GDBĐ theo quy định của pháp luật thì GDBĐ có hiệu lực đối với bên thứ ba kể từ thời điểm đăng ký cho đến khi hết hiệu lực đăng ký. Đối với trường hợp đăng ký tự nguyện thì việc đăng ký GDBĐ chỉ có nghĩa với bên thứ ba chứ không có ý nghĩa quyết định hiệu lực của GDBĐ. Luật của Anh cũng có quy định bắt buộc đăng ký đối với một GDBĐ công ty, như: (1) Đặc quyền trên đất hoặc các lợi ích trên đất trừ tiền thuê đất hoặc các khoản phí định kỳ phát sinh từ đất; (2) Đặc quyền được xác lập hoặc chứng minh bởi một chứng thư nếu phát hành bởi một cá nhân thì phải đăng ký như chứng từ bán hàng; (3) Đặc quyền bảo đảm cho các chứng khoán nợ; (4) Đặc quyền trên vốn cổ phần chưa phát hành của công ty; (5) Đặc quyền trên cổ phần đã phát hành nhưng chưa thanh toán; (6) Đặc quyền trên sổ nợ của công ty; (7) Đặc quyền thả nổi bằng tài sản hoặc cam kết của công ty; (8) Đặc quyền trên tàu biển hoặc máy bay hoặc phần giá trị của tàu biển; Đặc quyền trên uy tín hoặc quyền sở hữu trí tuệ[17]. Theo quy định của pháp luật Anh, nếu GDBĐ buộc phải đăng ký mà không đăng ký sẽ vô hiệu và như vậy bên nhận bảo đảm sẽ không được hưởng quyền ưu tiên so với bên thứ ba khác.

Ngoài đăng ký thì bên nhận bảo đảm hoặc bên thứ ba (thường là ngân hàng hoặc các tổ chức trung gian tài chính) chiếm hữu hoặc kiểm soát tài sản bảo đảm cũng là một trong những điều kiện để GDBĐ có hiệu lực trong một số trường hợp. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, cầm cố tài sản có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố. Như vậy, trừ trường hợp cầm cố tàu bay, việc cấm cố tài sản có hiệu lực với bên thứ ba kể từ thời điểm tài sản bảo đảm được chuyển giao cho bên nhận bảo đảm. Theo quy định tại Điều 360 BLDS thì “Ký quỹ là việc bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc các giấy tờ trị giá được bằng tiền vào tài khoản phong tỏa tại một ngân hàng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”. Như vậy, theo quy định này thì việc bên bảo đảm chuyển tài sản bảo đảm vào tài khoản của ngân hàng là điều kiện để ký quỹ xác lập. Trong trường hợp ký quỹ, người nắm giữ tài sản bảo đảm không phải là bên nhận bảo đảm mà là một ngân hàng. Theo pháp luật của Mỹ, chiếm hữu tài sản bảo đảm được coi là bước hoàn thiện GDBĐ trong các GDBĐ bằng hàng hóa, tiền, công cụ tài chính (trừ chứng khoán đăng ký), giấy tờ có thể chuyển nhượng, chứng thư bảo đảm. Chiếm hữu tài sản bảo đảm là phương thức cổ xưa có từ thời La Mã cổ đại mà đại diện của phương thức này là biện pháp cầm cố tài sản. Ngày nay, phương thức này vẫn còn rất phổ biến ở hầu hết các hệ thống pháp luật trên thế giới và thông lệ quốc tế.

Ngoài đăng ký và chiếm hữu hoặc kiểm soát tài sản bảo đảm là các phương thức “hoàn thiện GDBĐ”, pháp luật còn quy định hoặc thừa nhận một phương thức thứ ba là “automatic perfection” (tự động hoàn thiện). Theo phương thức này, GDBĐ có hiệu lực đối với bên thứ ba khi các bên xác lập GDBĐ mà không phải thực hiện thêm bất kỳ thủ tục nào như đăng ký hoặc chiếm hữu hoặc kiểm soát tài sản. GDBĐ có thể được xác lập bởi thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Theo tinh thần tại Điều 343 BLDS Việt Nam thì thế chấp có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc phải đăng ký theo quy định của pháp luật.

Một vấn đề đặt ra trong lý luận và thực tiễn là liệu BPBĐ trên tài sản bảo đảm vẫn duy trì hiệu lực hoặc một BPBĐ mới được xác lập khi sáp nhập, trộn lẫn, chế biến tài sản. Về vấn đề này, UNCITRAL đã đưa ra giải pháp rất thú vị. GDBĐ tự động có hiệu lực đối với bên thứ ba sau khi tài sản bảo đảm là tài sản hữu hình sáp nhập vào tài sản khác mà không phải thực hiện thêm bất kỳ thủ tục nào[18]. Ngoài ra, đối với vật gắn với động sản thì các bên có thể làm thủ tục đăng ký hoặc xác nhận GDBĐ. Đối với vật gắn liền với bất động sản, thì các bên có thêm lựa chọn là đăng ký với cơ quan đăng ký bất động sản. Đối với trường hợp trộn lẫn hoặc chế biến, UNCITRAL đề xuất giải pháp “Pháp luật nên quy định rằng lợi ích bảo đảm trên tài sản hữu hình được xác lập trước khi bị trộn lẫn hoặc chế biến thành tài sản/sản phẩm mới vẫn tiếp tục có hiệu lực trên tài sản mới hoặc sản phẩm mới. Giá trị của lợi ích bảo đảm được giới hạn trong phạm vi giá trị tài sản bảo đảm trước khi được trộn lẫn hoặc chế biến thành tài sản/sản phẩm mới”[19], và như vậy, GDBĐ trên tài sản này vẫn tự động có hiệu lực sau khi tài sản được trộn lẫn hoặc chế biến. Hiện nay, luật Việt Nam đang bỏ ngỏ vấn đề này.

5. Quyền ưu tiên

Quyền ưu tiên là vấn đề cốt lõi của GDBĐ. Đây là đặc quyền dành cho chủ nợ có bảo đảm. Quyền ưu tiên được hiểu là quyền được ưu tiên thanh toán trước chủ thể khác khi xử lý tài sản bảo đảm. Quyền ưu tiên có ý nghĩa trong trường hợp tài sản của bên bảo đảm không đủ thanh toán cho các yêu cầu của các chủ thể.

Khoa học pháp lý trên thế giới đều thừa nhận một nguyên tắc chung trong việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán, đó là nguyên tắc “first in time rule” (thứ tự về thời gian). Luật của Anh quy định trong trường hợp có xung đột quyền yêu cầu thanh toán giữa các chủ nợ có bảo đảm có lợi ích bảo đảm ngang nhau trên cùng một tài sản thì chủ nợ có lợi ích bảo đảm được xác lập trước hưởng quyền ưu tiên trừ trường hợp quyền ưu tiên bị mất bởi các quy tắc pháp lý khác. Luật của Mỹ cũng quy định bên nhận bảo đảm đăng ký trước được hưởng quyền ưu tiên so với các bên nhận bảo đảm đăng ký sau trên cùng một tài sản bảo đảm[20]. Luật mẫu EBRD cũng thừa nhận quy tắc thứ tự về thời gian, tức là thứ tự xác lập GDBĐ về mặt thời gian được sử dụng để xác định quyền ưu tiên của các chủ nợ có bảo đảm trên cùng một tài sản bảo đảm.

Cũng với cách tiếp cận trên, pháp luật Việt Nam cũng áp dụng quy tắc thứ tự về thời gian để xác định thứ tự ưu tiên thanh toán cho nhiều chủ nợ có bảo đảm trên cùng một tài sản bảo đảm trong trường hợp các GDBĐ cùng đăng ký hoặc cùng không đăng ký[21]. Như vậy quyền ưu tiên được xác định theo thứ tự đăng ký hoặc thứ tự xác lập giao dịch.

Vấn đề đặt ra là trong trường hợp một tài sản được dùng để bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ trong đó có GDBĐ đăng ký, có GDBĐ không đăng ký thì xử lý như thế nào. Điều 325.2 BLDS Việt Nam đưa ra giải pháp: “Trong trường hợp tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự mà có GDBĐ có đăng ký, có GDBĐ không đăng ký thì GDBĐ có đăng ký được ưu tiên thanh toán”. Đây là giải pháp hợp lý phù hợp với thông lệ quốc tế, bởi vì đăng ký là phương thức minh bạch nhất về tình trạng pháp lý của tài sản, bên thứ ba có thể dễ dàng biết được quyền lợi của bên nhận bảo đảm trên tài sản, do vậy phương thức này cần phải được ưu tiên áp dụng. Công ước về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng thiết bị di động ngày 16/11/2001 tại Cape Town (Công ước Cape Town) đề cập đến vấn đề áp dụng các BPBĐ bằng thiết bị di động bao gồm “khung tàu bay, máy móc của tàu bay, máy bay trực thăng, các phương tiện, thiết bị chạy trên đường ray và các thiết bị không gian”, Điều 29.1 Công ước Cape Town quy định “Lợi ích bảo đảm đăng ký hưởng quyền ưu tiên so với các lợi ích bảo đảm đăng ký sau và các lợi ích bảo đảm không đăng ký”.

Ngoài quy tắc thứ tự về thời gian và quy tắc ưu tiên đăng ký, pháp luật một số nước còn quy định quy tắc chiếm hữu, kiểm soát tài sản bảo đảm để xác định thứ tự ưu tiên “Lợi ích bảo đảm của người kiểm soát tài khoản ký quỹ hưởng quyền ưu tiên so với lợi ích bảo đảm trên tài khoản ký quỹ của người không kiểm soát tài sản ký quỹ”[22]. UNCITRAL cũng áp dụng quy tắc kiểm soát để xác định quyền ưu tiên đối với quyền yêu cầu thanh toán từ tài khoản ngân hàng. Lợi ích bảo đảm trên quyền yêu cầu thanh toán từ tài khoản ngân hàng được xác lập bằng kiểm soát thì chủ nợ có bảo đảm kiểm soát quyền này hưởng quyền ưu tiên so với các bên nhận bảo đảm khác. Nếu ngân hàng nơi mở tài khoản ký hợp đồng kiểm soát với nhiều bên nhận bảo đảm thì thứ tự ưu tiên thanh toán sẽ xác định theo thứ tự giao kết hợp đồng kiểm soát. Nếu ngân hàng nơi mở tài khoản là bên nhận bảo đảm thì bên này hưởng quyền ưu tiên so với các bên nhận bảo đảm khác trừ trường hợp một bên nhận bảo đảm khác là chủ tài khoản.

Quyền ưu tiên đối với đặc quyền cũng được xác định theo nguyên tắc riêng, người có quyền cầm giữ hàng hải được hưởng quyền ưu tiên cao hơn các chủ nợ khác có bảo đảm bằng tàu biển[23]. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa giải quyết thứ tự ưu tiên thanh toán giữa bên vận chuyển có quyền lưu giữ hàng hóa với chủ nợ khác được bảo đảm bằng hàng hóa bị lưu giữ, bên cầm giữ tàu biển hoặc hàng hóa với các chủ nợ khác được bảo đảm bằng tàu biển hoặc hàng hóa bị cầm giữ.

Trong nhiều trường hợp, ngân hàng cấp vốn cho bên mua để mua sắm hàng hóa, trang thiết bị hoặc bản thân bên bán sẽ cung cấp tín dụng thương mại cho bên mua bằng việc cho nợ lại toàn bộ hoặc một phần tiền hàng. Để bảo đảm lợi ích của các nhà tài trợ vốn, pháp luật Mỹ có quy định một BPBĐ, đó là lợi ích bảo đảm trên tài sản mua (purchase-money security interest). Ví dụ, bên mua mua sắm một cái thuyền mà tiền mua thuyền được trả bằng tiền vay ngân hàng, lợi ích bảo đảm của ngân hàng trên chiếc thuyền nhằm bảo đảm nghĩa vụ trả nợ được gọi là lợi ích bảo đảm trên tài sản mua[24]. Lợi ích bảo đảm trên tài sản mua dành cho chủ nợ quyền ưu tiên so với các chủ nợ có bảo đảm khác và chủ nợ không có bảo đảm.

Liên quan đến xung đột lợi ích giữa người cung cấp dịch vụ hưởng đặc quyền với các chủ nợ có bảo đảm khác, Luật mẫu EBRD cho rằng lợi ích bảo đảm xác lập theo pháp luật cho khoản tiền công dịch vụ hưởng quyền ưu tiên so với các lợi ích bảo đảm khác trên cùng một tài sản. “Nhiều hệ thống pháp luật ghi nhận lợi ích bảo đảm này cho người cung cấp dịch vụ – ví dụ, một người sửa chữa máy móc sẽ được hưởng lợi ích bảo đảm trên máy móc được sửa. Người này không phải quan tâm đến các BPBĐ khác”[25].

Ngoài ra, trong giải quyết xung đột lợi ích giữa các chủ nợ có bảo đảm trên cùng một tài sản, Luật mẫu EBRD thừa nhận việc tất cả các bên nhận bảo đảm trên cùng một tài sản thỏa thuận với nhau thay đổi thứ tự ưu tiên thanh toán. Công ước Cape Town cũng ghi nhận việc các bên thỏa thuận thay đổi thứ tự ưu tiên thanh toán[26]. Như vậy, thứ tự ưu tiên thanh toán có thể được xác định theo thỏa thuận của tất cả các chủ nợ có bảo đảm trên cùng một tài sản bảo đảm.

Ngoài vấn đề xác định quyền ưu tiên giữa các chủ nợ có bảo đảm trên cùng một tài sản, pháp luật còn giải quyết xung đột lợi ích giữa chủ nợ có bảo đảm với các bên thứ ba khác như người mua tài sản, người thuê tài sản và những người liên quan khác. Ví dụ Điều 20 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ Việt Nam về GDBĐ quy định: Trong trường hợp bên thế chấp bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp không phải là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh mà không có sự đồng ý của bên nhận thế chấp thì bên nhận thế chấp có quyền thu hồi tài sản thế chấp trừ trường hợp: (1) Việc mua, trao đổi tài sản được thực hiện trước thời điểm đăng ký thế chấp và bên mua, bên nhận tài sản thế chấp ngay tình; (2) Bên mua, bên nhận trao đổi phương tiện giao thông cơ giới đã được đăng ký thế chấp, nhưng nội dung đăng ký thế chấp không mô tả chính xác số khung và số máy của phương tiện giao thông cơ giới và bên mua, bên nhận trao đổi tài sản thế chấp ngay tình. Như vậy,trừ các ngoại lệ được nêu tại Điều 349.3 và 349.4 của BLDS Việt Nam và Điều 20 của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP, thì việc mua bán, trao đổi tài sản thế chấp sẽ vô hiệu và bên nhận thế chấp luôn chiếm ưu thế so với người mua hoặc người nhận tài sản thế chấp. Đề xuất của UNCITRAL lại có xu hướng bảo vệ người mua ngay tình: Người mua ngay tình tài sản hữu hình trừ công cụ chuyển nhượng hoặc giấy tờ có thể chuyển nhượng (là người mua tài sản trong trường hợp thông thường và tại thời điểm mua không biết là tài sản đang được sử dụng để bảo đảm) không phải chịu ràng buộc bởi lợi ích bảo đảm trên tài sản mua[27]. Theo UNCITRAL, đối với tài sản phải đăng ký hoặc xác nhận trong giấy chứng nhận quyền sở hữu, thì nếu tài sản này được dùng để bảo đảm nhưng không đăng ký tại cơ quan đăng ký quyền sở hữu hoặc không được xác nhận trong giấy chứng nhận quyền sở hữu thì bên thứ ba nhận chuyển nhượng, thuê hoặc được phép sử dụng tài sản không bị ảnh hưởng bởi lợi ích bảo đảm này[28].

UNCITRAL cũng quan tâm đến thứ tự ưu tiên thanh toán khi tài sản bị trộn lẫn hoặc chế biến. Trong trường hợp tài sản bảo đảm bị trộn lẫn hoặc chế biến thì thứ tự ưu tiên của các lợi ích bảo đảm trên tài sản bị trộn lẫn hoặc chế biến vẫn được giữ nguyên. Trong trường hợp có nhiều tài sản bảo đảm bị trộn lẫn hoặc chế biến thành tài sản mới thì thứ tự ưu tiên của các lợi ích bảo đảm trên tài sản mới được xác định theo tỷ lệ giá trị của mỗi lợi ích bảo đảm trong phạm vi tỷ lệ giá trị của tài sản bị trộn lẫn hoặc chế biến trong tài sản mới[29]. Theo luật của Mỹ, trong trường hợp sáp nhập động sản, người có lợi ích bảo đảm trên tài sản sáp nhập có hiệu lực trước khi sáp nhập được hưởng quyền ưu tiên so với những người khác. Đối với trường hợp trộn lẫn hoặc chế biến tài sản thì quyền ưu tiên được xác định theo tỷ lệ giá trị của mỗi thành phần (tài sản trước khi bị trộn lẫn/chế biến) cấu thành lên tài sản/sản phẩm mới trên tổng giá trị tài sản/sản phẩm. Cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa đề cập đến vấn đề này.

6. Xử lý tài sản bảo đảm

Trong các hợp đồng tài trợ vốn, vi phạm của bên nhận tài trợ vốn là không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ nợ gốc và lãi và/hoặc phí (nếu có) khi đến hạn. Trong các hợp đồng tín dụng thường quy định một số sự kiện nếu xảy ra sẽ làm cho nghĩa vụ trả nợ (bao gồm trả nợ gốc và lãi) đến hạn. Sự kiện này chỉ làm phát sinh quyền xử lý tài sản bảo đảm cho khoản vay khi khoản vay đến hạn và không được thanh toán. Bên tài trợ vốn không bao giờ mong muốn sự kiện vi phạm xảy ra. Tuy nhiên, trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ thanh toán, chủ nợ buộc phải xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của pháp luật. Hiện nay, hầu hết pháp luật các nước đều thừa nhận quyền tự xử lý tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm mà không phải thông qua thủ tục tòa án. Tài sản bảo đảm có thể được bán, bên nhận bảo đảm nhận tài sản bảo đảm, bên nhận bảo đảm nhận thanh toán từ bên thứ ba trong trường hợp tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ hoặc phương thức khác do các bên thỏa thuận. Tài sản bảo đảm phải được bán trong điều kiện thương mại hợp lý. Theo pháp luật Việt Nam, tài sản có thể được bán thông qua bán đấu giá, hoặc bán đơn lẻ theo giá thỏa thuận, nếu không thể thỏa thuận thì theo giá được xác định bởi bên thứ ba. Tuy nhiên, về mặt thực tiễn, việc xử lý tài sản bảo đảm thông qua bán đấu giá hoặc bán đơn lẻ gặp khó khăn nếu như bên bảo đảm không hợp tác. Vì vậy, ở Việt Nam, thông thường các chủ nợ lựa chọn phương án kiện ra tòa án để yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm hơn là tự mình xử lý tài sản bảo đảm.

Điều 8.1 Công ước Cape Town đưa ra giải pháp xử lý tài sản bảo đảm như sau:Trong trường hợp xảy ra hành vi vi phạm của thụ trái, bên nhận bảo đảm có quyền áp dụng một hoặc những biện pháp sau: (1) Chiếm hu hoặc kiểm soát vật bảo đảm; (2) Bán hoặc cho thuê vật bảo đảm; (3) Thu hồi hoặc nhận bất kỳ khoản thu hoặc lợi nhuận phát sinh từ việc quản lý hoặc sử dụng vật bảo đảm. Bên nhận bảo đảm có thể tự mình thực hiện các hành vi trên hoặc yêu cầu tòa án áp dụng các biện pháp trên và các biện pháp này phải được thực hiện trong điều kiện thương mại hợp lý, nghĩa là được thực hiện phù hợp với hợp đồng bảo đảm trừ trường hợp rõ ràng hợp đồng là bất hợp lý. Trước khi tiến hành bán hoặc cho thuê vật bảo đảm, bên nhận bảo đảm phải thông báo trước cho các bên có liên quan: thụ trái, bên bảo đảm, bên nhận bảo đảm khác, và các bên khác có quyền liên quan đến tài sản bảo đảm. Như vậy, thủ tục bắt buộc trong xử lý tài sản bảo đảm là thông báo công khai cho các bên liên quan. Việc bên nhận bảo đảm hoặc bên do bên này ủy quyền xử lý tài sản bảo đảm không công bố công khai là vi phạm pháp luật và phải bồi thường thiệt hại nếu gây thiệt hại. Trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm, bên xử lý tài sản bảo đảm (bên nhận bảo đảm hoặc bên do bên nhận bảo đảm ủy quyền) có quyền yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp hành chính hoặc tư pháp nhằm hỗ trợ hoạt động xử lý tài sản bảo đảm. Ngược lại, nếu bên nhận bảo đảm xử lý tài sản bảo đảm không có căn cứ pháp luật hoặc không tuân theo điều kiện, thủ tục luật định hoặc không đúng với thỏa thuận hợp pháp của các bên mà gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại.

7. Kết luận và một số kiến nghị

Việt Nam đã và đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế. Thị trường tài chính của Việt Nam đang ngày càng liên hệ mật thiết với thị trường tài chính thế giới. Thực tế đã chứng minh, các hợp đồng tài trợ vốn đang ngày càng được quốc tế hóa cao. Vì vậy, trước hết chúng ta cần nghiên cứu pháp luật về GDBĐ của cộng đồng quốc tế nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật về GDBĐ của Việt Nam. Hiện nay, pháp luật về GDBĐ của Viêt Nam tương đối đầy đủ và tương thích với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề mà pháp luật vẫn chưa đề cập hoặc chưa quy định cụ thể.

Thứ nhất, pháp luật nên có quy định đầy đủ và cụ thể về địa vị pháp lý của người quản lý GDBĐ. Chủ thể này sẽ hỗ trợ hiệu quả cho thị trường trái phiếu và bảo vệ hiệu quả lợi ích của những chủ nợ yếu thế. Người quản lý GDBĐ là một tổ chức cung cấp dịch vụ quản lý và mua bán tài sản. Người quản lý GDBĐ sẽ do bên nhận bảo đảm chỉ định để thay mặt bên nhận bảo đảm quản lý tài sản bảo đảm, kiểm soát các giao dịch liên quan đến tài sản bảo đảm, kiểm soát việc sử dụng vốn của bên có nghĩa vụ (nếu các bên có thỏa thuận), thay mặt bên nhận bảo đảm gửi thông báo vi phạm và xử lý tài sản bảo đảm đến bên bảo đảm, thay mặt bên nhận bảo đảm xử lý tài sản bảo đảm.

Thứ hai, trong hoạt động kinh doanh, vẫn có những hoạt động dịch vụ trực tiếp bảo trì hoặc gia tăng giá trị của động sản, như sửa chữa, bảo trì, duy tu, bảo dưỡng, nâng cấp, cứu hộ, vận chuyển tài sản,… Theo chúng tôi, pháp luật nên quy định cụ thể các đặc quyền trên tài sản mà họ cung cấp dịch vụ nhằm bảo đảm nghĩa vụ thanh toán phí dịch vụ ngoài quyền cầm giữ đã được quy định về mặt nguyên tắc trong BLDS. Ngoài ra, cũng nên dành cho những người nông dân cung cấp nguyên liệu cho các công ty sản xuất lương thực, thực phẩm đặc quyền trên nguyên liệu cung cấp, thành phẩm hoặc bán thành phẩm chế biến hoặc sản xuất từ nguyên liệu cung cấp và doanh thu từ việc bán nguyên liệu cung cấp, thành phẩm hoặc bán thành phẩm. Theo đó, người hưởng đặc quyền được bảo đảm thu hồi được khoản nợ bằng việc xử lý tài sản chịu đặc quyền. Người hưởng đặc quyền hưởng quyền ưu tiên cao hơn so với các chủ nợ khác trừ các ngoại lệ. Đây là biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa người nông dân khỏi tình trạng “trắng tay” khi các doanh nghiệp trốn nợ hoặc bị phá sản.

Thứ ba, pháp luật cũng cần có quy định cụ thể giải quyết vấn đề hiệu lực của GDBĐ và thứ tự ưu tiên thanh toán trong trường hợp tài sản bảo đảm bị sáp nhập, trộn lẫn hoặc chế biến thành tài sản khác. Pháp luật cũng nên cho phép các bên được thỏa thuận thay đổi thứ tự ưu tiên thanh toán.

Thứ tư, pháp luật cần quy định về quyền ưu tiên của ngân hàng và các chủ nợ khác trong trường hợp cho vay mua sắm tài sản. Theo đó, trong trường hợp tổ chức tín dụng cho khách hàng vay để mua sắm tài sản hoặc hàng hóa và người mua dùng tài sản hoặc hàng hóa để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ thì nếu GDBĐ được hoàn thiện, tổ chức tín dụng sẽ được hưởng quyền ưu tiên so với các chủ nợ khác. Nguyên tắc này cũng được áp dụng trong trường hợp người bán cấp tín dụng thương mại cho người mua.

Thứ năm, pháp luật cần hoàn thiện cơ chế xử lý tài sản nhằm bảo đảm cho chủ nợ có thể chủ động xử lý tài sản bảo đảm mà không nhất thiết phải thông qua con đường tòa án. Các quy định về xử lý tài sản bảo đảm không thông qua con đường tòa án cần bảo đảm việc xử lý tài sản bảo đảm công bằng, minh bạch và hợp lý về khía cạnh thương mại. Bên xử lý tài sản bảo đảm có quyền thu hồi tài sản bảo đảm nhưng không được sử dụng vũ lực hoặc xâm phạm trật tự công cộng. Hợp lý về khía cạnh thương mại được hiểu là bên xử lý tài sản bảo đảm phải thông báo cho bên bảo đảm một thời hạn hợp lý trước khi xử lý tài sản bảo đảm, việc xử lý tài sản bảo đảm phải được thực hiện ngay tình trên cơ sở nguyên tắc thiện chí, trung thực. Giá bán tài sản không được thấp hơn giá trị hợp lý của tài sản. Giá trị hợp lý là giá thị trường tại thời điểm bán tài sản đối với tài sản có thị trường giao dịch hoặc là giá trị được định giá bởi tổ chức định giá có thẩm quyền đối với tài sản không có thị trường giao dịch./.


[1] Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Bình luận khoa học BLDS năm 2005, Chủ biên: PGS,TS. Hoàng Thế Liên, tập II, Phần thứ ba: Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.70.

[2] United Nations Commission on International Trade Law, UNCITRAL Legislative Guide on Secured Transactions – Terminology and Recommendations – United Nations, Vienna, 2009, phần Terminology tr. xv.

[3] Tất cả các giao dịch dù theo hình thức nào, xác lập lợi ích bảo đảm trên động sản và vật gắn liền với bất động sản (§9.109(a) The Uniform Commerce Code (UCC).

[4] European Bank for Reconstruction and Development, Model Law on Secured Transactions 2004, Điều 16 (phần giải nghĩa).

[5] Thomas W. Merrill & Henry E.Smith, The Oxfored Introductions to the U.S Law – Property, Oxford University Press, 2010, tr. 176.

[6] Dan Prentice, Arad Reisberg, Corporate finance law in the UK and EU, Oxford University Press, 2011, tr. 240.

[7] Dan Prentice, Arad Reisberg, sđd, tr. 241.

[8] Bryan A. Garner, Black’s Law Dictionary, West Group, A Thomson Company, 2001, tr. 419.

[9] Donald B. King, Calvin A. Kuenzel, Bradford Stone, W.H. Knight, Jr. Commercial transactions under the Uniform Commercial Code and other laws, New York [etc.]: Mathew Bender, Cop. 1997, tr. 1029-1030.

[10] § 9-102(5) UCC.

[11] Điều 36.1 BLHH năm 2005.

[12] Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, Bình luận khoa học BLDS năm 2005, sđđ, tr. 72.

[13] Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, Bình luận khoa học BLDS năm 2005, sđd, tr. 73.

[14] European Bank for Reconstruction and Development, Model Law on Secured Transactions 2004, Điều 1.2 (phần giải nghĩa).

[15] United Nations Commission on International Trade Law, UNCITRAL Legislative Guide on Secured Transactions – Terminology and Recommendations – United Nations, Vienna, 2009, điểm 15, tr. 10

[16]Donald B. King, Calvin A. Kuenzel, Bradford Stone, W.H. Knight, Jr. Commercial transactions under the Uniform Commercial Code and other laws, New York [etc.]: Mathew Bender, Cop. 1997, tr. 807.

[17] Điều 860 Companies Act 2006 (Luật Công ty của Vương quốc Anh năm 2006 – bản gốc tiếng Anh).

[18] United Nations Commission on International Trade Law, UNCITRAL Legislative Guide on Secured Transactions – Terminology and Recommendations – United Nations, Vienna, 2009, điểm 21, tr. 11.

[19] United Nations Commission on International Trade Law, tlđd, điểm 22, tr. 11.

[20] Donald B. King, Calvin A. Kuenzel, Bradford Stone, W.H. Knight, Jr. Commercial transactions under the Uniform Commercial Code and other laws, New York [etc.]: Mathew Bender, Cop. 1997, tr. 928.

[21] Điều 325.1 BLDS năm 2005 của Việt Nam quy định “Trong trường hợp GDBĐ được đăng ký thì việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm được xác định theo thứ tự đăng ký.” Và Điều 325.3 BLDS năm 2005 của Việt Nam quy định “Trong trường hợp một tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự mà các GDBĐ đều không đăng ký thì thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập giao dịch” .

[22] § 9.327(1) UCC.

[23] Điều 36.2 BLHH năm 2005 của Việt Nam quy định: “Các khiếu nại hàng hải làm phát sinh quyền cầm giữ hàng hải quy định tại Điều 37 của Bộ luật này có thứ tự ưu tiên cao hơn các khiếu nại hàng hải được bảo đảm bằng thế chấp tàu biển và các GDBĐ khác” .

[24] Bryan A. Garner, Black’s Law Dictionary, West Group, A Thomson Company, 2001, tr. 630.

[25] European Bank for Reconstruction and Development, Model Law on Secured Transactions 2004, Điều 17.6 (phần giải nghĩa).

[26] Điều 29.5 của Công ước về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng thiết bị di động ngày 16/11/2001 tại Cape Town (bản gốc tiếng Anh).

[27] United Nations Commission on International Trade Law, UNCITRAL Legislative Guide on Secured Transactions – Terminology and Recommendations – United Nations, Vienna, 2009, điểm 81(a), tr. 35.

[28] United Nations Commission on International Trade Law, tlđd, điểm 78, tr. 34.

[29] United Nations Commission on International Trade Law, tlđd, tr. 37

SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ

Trích dẫn từ: http://www.nclp.org.vn/kinh_nghiem_quoc_te/giao-dich-bao-111am-duoi-khia-canh-so-sanh-luat-hoc-1

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TS. NGUYỄN VÂN ANHSở KH&CN Bà Rịa – Vũng Tàu

NGUYỄN HỒNG HÀ – Vụ phát triển KH&CN địa phương, Bộ KH&CN

ĐÀM QUANG – Sở KH&CN Thanh Hóa

Sáng kiến là kết quả của hoạt động sáng tạo, có ý nghĩa quan trọng, đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội nói chung và phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN) nói riêng. Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp lý nhằm thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo, tăng cường phạm vi triển khai áp dụng. Tuy nhiên, bên cạnh đó, còn một số nội dung chưa phù hợp, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các cá nhân, tổ chức liên quan. Bài viết phân tích những nội dung này, với mục đích góp phần hoàn thiện hành lang pháp lý về sáng kiến để phát huy hơn nữa hoạt động này tại các cơ quan, đơn vị.

Một số quy định về sáng kiến

Sáng kiến là một trong những kết quả của hoạt động KH&CN. Theo Từ điển tiếng Việt, “Sáng kiến (Initiative) là ý kiến mới, có tác dụng làm cho công việc tiến hành tốt hơn” [5]. Để thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo trong sản xuất, ngay từ đầu những thập niên 80 của thế kỷ trước, Nhà nước đã ban hành Điều lệ về sáng kiến cải tiến kỹ thuật – hợp lý hóa sản xuất và sáng chế, trong đó sáng kiến được hiểu: Sáng kiến cải tiến kỹ thuật – hợp lý hoá sản xuất được công nhận theo Điều lệ này là một giải pháp kỹ thuật hoặc giải pháp tổ chức sản xuất mới, có khả năng áp dụng và mang lại lợi ích thiết thực cho cơ quan, đơn vị (kể cả đơn vị kinh tế tập thể) nhận đăng ký” (Điều 1, Điều lệ về sáng kiến, Nghị định 31 [7]).

Nội dung của sáng kiến được Nghị định 31 [7] quy định là: “Cải tiến kết cấu máy móc, trang bị, công cụ lao động, sản phẩm, cải tiến phương án thiết kế hoặc kết cấu các công trình xây dựng; Cải tiến tính năng, công dụng, thành phần của nguyên liệu, vật liệu hoặc sản phẩm; Cải tiến phương pháp khảo sát, thiết kế, công nghệ, thi công, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi; phương pháp phòng bệnh, chữa bệnh; Cải tiến tổ chức sản xuất nhằm sử dụng hợp lý sức lao động, công cụ lao động, nguyên liệu, vật liệu, năng lượng, tiền vốn…”. Như vậy, mọi hoạt động nêu trên đều thuộc lĩnh vực kỹ thuật. Theo Nghị định 31 [7], tác giả sáng kiến được hưởng quyền lợi như sau: “1. Các cơ quan, đơn vị Nhà nước, các đơn vị kinh tế tập thể khi áp dụng sáng kiến và thu lợi, có nghĩa vụ trả thù lao cho tác giả; 2. Mức thù lao cho tác giả sáng kiến được tính trong năm áp dụng đầu tiên và không thấp hơn 5% số tiền làm lợi thu được trong năm đó” (Điều 40, Nghị định 31). Tại thời điểm ban hành, Nghị định 31 được coi là bước đột phá, kích thích việc không ngừng đổi mới sáng tạo đối với người lao động. Nhờ đó hình thành nên phong trào sáng kiến trong sản xuất diễn ra trong các nhà máy, xí nghiệp. Từ đó, họat động sáng kiến trở thành tiêu chí chung trong phong trào thi đua yêu nước, đặc biệt trong hoạt động của tổ chức công đoàn.

 

Năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị định 13[3], quy định mới về sáng kiến thay thế cho các Nghị định được ban hành trước đây. Theo đó: “Sáng kiến là giải pháp kỹ thuật, giải pháp quản lý, giải pháp tác nghiệp, giải pháp ứng dụng tiến bộ kỹ thuật (gọi chung là giải pháp), được cơ sở công nhận nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây: a) có tính mới trong phạm vi cơ sở đó; b) đã được áp dụng hoặc áp dụng thử tại cơ sở đó và có khả năng mang lại lợi ích thiết thực; c) không thuộc đối tượng lọai trừ (giải pháp mà việc công bố, áp dụng giải pháp trái với trật tự công cộng hoặc đạo đức xã hội; giải pháp là đối tượng đang được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật tính đến thời điểm xét công nhận sáng kiến)”(Điều 3, Điều lệ sáng kiến, Nghị định 13 [3]).

Luật thi đua khen thưởng được ban hành năm 2003[1], sửa đổi, bổ sung năm 2005[2], 2009[3], 2013[4] (Luật thi đua khen thưởng) đã đưa ra khái niệm: “sáng kiến là giải pháp kỹ thuật, giải pháp quản lý, giải pháp tác nghiệp hoặc giải pháp ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả công tác được cơ sở công nhận” (Điều 23, Văn bản hợp nhất luật thi đua khen thưởng [4]).

Những điểm mới trong quy định về sáng kiến

So với Nghị định 31 và các văn bản quy phạm pháp luật về sáng kiến ban hành trước đó, Nghị định 13, Thông tư 18 (Thông tư số 18/2013/TT-BKHCN ngày 1.8.20113 của Bộ KH&CN hướng dẫn thi hành một số quy định của Điều lệ sáng kiến được ban hành theo Nghị định 13) , cũng như Luật thi đua khen thưởng đưa ra quy định về sáng kiến có nhiều điểm mới, cụ thể:

Một là, sáng kiến được thừa nhận trên nhiều lĩnh vực, ngòai các giải pháp trong lĩnh vực kỹ thuật, sáng kiến còn được công nhận trong lĩnh vực quản lý, tác nghiệp, ứng dụng tiến bộ KH&CN, điều đó thúc đẩy họat động sáng tạo trên mọi mặt của đời sống xã hội, giúp không ngừng nâng cao dân trí, đóng góp tích cực vào công cuộc đổi mới đất nước.

Hai là, Nghị định 13, quy định rõ quyền lợi cho tác giả sáng kiến và cá nhân tham gia tổ chức áp dụng lần đầu, với thời hạn và mức được hưởng thù lao đều tăng lên so với trước đây. Thời hạn được hưởng thù lao là 3 năm đầu tiên áp dụng sáng kiến. Mức thù lao cho tác giả được áp dụng tối thiểu là 7% tiền làm lợi thu được mỗi năm, hoặc tối thiểu 15% giá chuyển giao. Nếu không tính được tiền làm lợi sáng kiến thì tác giả được trả với mức tối thiểu là 5 lần mức lương tối thiểu chung theo quy định của nhà nước. Những người tham gia tổ chức áp dụng lần đầu được hưởng cùng lúc với tác giả sáng kiến với mức tối thiểu 20% mức thù lao cho tác giả sáng kiến. Việc trả thù lao cho những người tham gia tổ chức áp dụng lần đầu là điểm đặc biệt tiến bộ của Nghị định 13 về sáng kiến. Bởi với một giải pháp mới hình thành còn chứa đựng rất nhiều rủi ro, việc đưa giải pháp vào triển khai áp dụng lần đầu đóng vai trò hết sức quan trọng. Nó quyết định sự thành công của giải pháp. Những cá nhân dám chấp nhận mạo hiểm, đóng vai trò tiên phong cho quá trình lần đầu tiên tham gia tổ chức áp dụng, xứng đáng được thưởng bên cạnh những cá nhân đã đưa ra giải pháp.

Ba là, một giải pháp được công nhận sáng kiến phải thỏa mãn điều kiện không thuộc đối tượng lọai trừ là “Giải pháp là đối tượng đang được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật tính đến thời điểm xét công nhận sáng kiến” (Điều 3, Nghị định 13). Việc quy định này nhằm hướng đến việc nhân rộng, phổ biến các giải pháp sáng kiến phục vụ cho lợi ích cộng đồng theo cơ chế “phi thương mại” các thành quả nghiên cứu. Tuy nhiên, sáng kiến sau khi được công nhận, nếu đáp ứng điều kiện vẫn có thể được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ như các giải pháp kỹ thuật khác. Nhưng từ thời điểm quyền sở hữu trí tuệ được thiết lập, các quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ được áp dụng đối với giải pháp đó thay thế các quy định về sáng kiến.

Bốn là, bên cạnh những lợi ích về vật chất được đề cập ở trên, sáng kiến còn có giá trị về mặt tinh thần. Các văn bản quy phạm pháp luật về thi đua khen thưởng quy định sáng kiến thuộc một trong các tiêu chí để công nhận thi đua, đối với các danh hiệu thi đua: Chiến sĩ thi đua cơ sở; Chiến sĩ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương; Chiến sĩ thi đua toàn quốc. Từ đó, vai trò, vị trí của công tác sáng kiến trở nên hết sức quan trọng đối với kết quả làm việc của từng cá nhân.

Một số điểm chưa phù hợp

Với các quy định được đề cập ở trên, chúng ta thấy hiện nay có hai hệ thống quy định khác nhau liên quan đến khái niệm sáng kiến song song tồn tại.

Khi đề cập đến sáng kiến, thông thường đó phải là một giải pháp có tính mới. Nhưng Luật thi đua, khen thưởng không đề cập đến tính mới của giải pháp. Một giải pháp nếu không có tính mới thì không thể gọi là sáng kiến. Bởi việc tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả công tác có thể bằng nhiều cách không cần tính mới (tăng giờ làm trong một ngày lao động cũng có thể làm tăng năng suất lao động). Hơn thế nữa, ngòai việc đưa ra khái niệm về sáng kiến, cho tới thời điểm hiện nay, hệ thống văn bản quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng không có thêm bất cứ quy định nào khác nhằm bổ sung làm rõ các quy định sáng kiến phù hợp với các danh hiệu thi đua khen thưởng như thế nào là “sáng kiến có phạm vi ảnh hưởng cấp tỉnh”, “sáng kiến có phạm vi ảnh hưởng cấp tòan quốc”…

Trong họat động KH&CN, với quy định hiện hành, việc áp dụng khái niệm sáng kiến theo Nghị định 13[3] và Thông tư 18[4] sẽ gặp những bất cập sau:

Thứ nhất, quy định về việc công nhận sáng kiến chỉ phù hợp với giải pháp kỹ thuật. Mặc dù Nghị định 13[3] đề cập công nhận sáng kiến cho các giải pháp thuộc 4 lĩnh vực (kỹ thuật, tác nghiệp, quản lý, ứng dụng tiến bộ KH&CN), nhưng với quy định cụ thể về tính mới của giải pháp được công nhận sáng kiến được quy định tại Điều 4.1, Nghị định 13 là: “b) chưa bị bộc lộ công khai trong các văn bản, sách báo, tài liệu kỹ thuật đến mức căn cứ vào đó có thể thực hiện ngay được”; “d)chưa được quy định thành tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm bắt buộc phải thực hiện” thì chỉ có các giải pháp kỹ thuật mới có thể thỏa mãn điều kiện công nhận sáng kiến. Các giải pháp trong các lĩnh vực còn lại, đặc biệt các giải pháp trong lĩnh vực quản lý không thể thỏa mãn các quy định tại Điều 4.1, Nghị định 13 nêu ra. Bởi lẽ, giải pháp quản lý khác với giải pháp kỹ thuật ở chỗ, để thực hiện quản lý điều hành một tổ chức, cơ quan hay cộng đồng dân chúng, thì phải ban hành các quyết định quản lý (Ví dụ, việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp quy) với những điều khoản cho hoặc không cho phép thực hiện có tính chất quy định áp dụng chung. Việc áp dụng chỉ thực thi khi quyết định được công bố, ban hành rộng rãi làm cơ sở để triển khai. Điều này sẽ vi phạm các quy định tại điểm b, điểm d của Điều 4.1 của Nghị định 13[3] như đã nói ở trên. Với việc quy định này thì những người làm công tác quản lý, đặc biệt đối với các công chức thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước sẽ chẳng bao giờ có sáng kiến theo quy định của Nghị định 13 [3].

Thứ hai, áp dụng đối tượng loại trừ về công nhận sáng kiến chưa hợp lý.Như bên trên đã đề cập, một trong những điểm mới của quy định liên quan đến sáng kiến được quy định tại Nghị định 13[3] là loại trừ các đối tượng: “Giải pháp là đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật tính đến thời điểm xét công nhận sáng kiến” (Điều 3.2.b, Nghị định 13[3]) nhằm hướng đến việc nhân rộng, phổ biến các giải pháp sáng kiến phục vụ cho lợi ích cộng đồng. Nhưng đây cũng chính là điểm chưa phù hợp, bởi lẽ: trong các đối tượng được xác lập quyền sở hữu trí tuệ, có những đối tượng bắt buộc phải thực hiện đăng ký, ví dụ: kiểu dáng công nghiệp, giải pháp hữu ích,… Tuy nhiên, có những đối tượng, được bảo hộ không cần tiến hành đăng ký. Đó chính là các chương trình máy tính. Theo pháp luật sở hữu trí tuệ chương trình máy tính là đối tượng được bảo hộ dưới hình thức quyền tác giả (Điều 14.1.m, Luật sở hữu trí tuệ). Một giải pháp là chương trình máy tính hoàn toàn đáp ứng các tiêu chí về tính mới, đã được áp dụng hoặc áp dụng thử, nhưng luôn luôn thuộc đối tượng loại trừ, vì nó là đối tượng được pháp luật bảo hộ dưới hình thức quyền tác giả, quyền tác giả được xác lập ngay khi nó được thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định, không cần phải đăng ký theo pháp luật sở hữu trí tuệ. Mặc dù, ngoài hình thức bảo hộ quyền tác giả, chương trình máy tính còn có thể được pháp luật sở hữu trí tuệ bảo hộ dưới hình thức bằng độc quyền sáng chế hoặc giải pháp hữu ích dưới dạng quy trình nếu thỏa mãn điều kiện. Tuy nhiên, chương trình máy tính được bảo hộ quyền tác giả là hình thức đương nhiên. Vì vậy, với quy định hiện nay về sáng kiến tại Nghị định 13[3], thì một tác giả chương trình máy tính dù tài giỏi, sáng tạo đem lại hiệu quả cho tổ chức bao nhiêu đi chăng nữa cũng không thể có giải pháp được công nhận sáng kiến.

Thứ ba, chưa tương thích với Luật thi đua, khen thưởng.Theo Nghị định 13 [3], sáng kiến được đánh giá và công nhận trong phạm vi “cơ sở”. “Cơ sơ” quy định trong Nghị định 13 [3] là: “cơ quan, tổ chức được thành lập theo pháp luật, có thể nhân danh chính mình tham gia quan hệ pháp luật dân sự một cách độc lập” (Điều 2.4, Điều lệ sáng kiến, Nghị định 13 [3]). Các cơ sở có quyền đánh giá và công nhận sáng kiến bao gồm: cơ sở là chủ đầu tư tạo ra sáng kiến; cơ sở được tác giả sáng kiến chuyển giao. Nghị định 13[3], Thông tư 18[4] cũng chưa đề cập đến khen thưởng theo các cấp theo mức độ công nhận danh hiệu thi đua, khen thưởng.

Theo quy định của Luật thi đua khen thưởng, khen thưởng cho hình thức “chiến sĩ thi đua” được chia thành 3 cấp: “chiến sĩ thi đua cơ sở”; “chiến sĩ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương”, “chiến sĩ thi đua toàn quốc”. Theo quy định của pháp luật thi đua khen thưởng, sáng kiến để công nhận chiến sĩ thi đua ở 3 cấp này , được xem xét ở phạm vi ảnh hưởng theo cấp công nhận chiến sĩ thi đua tương ứng, do hội đồng sáng kiến, hội đồng khoa học ở từng cấp công nhận. Ví dụ, Nghị định 65 [ 5] quy định : “Sáng kiến, đề tài nghiên cứu khoa học để làm căn cứ xét tặng danh hiệu “Chiến sĩ thi đua toàn quốc” phải đạt hiệu quả cao và có phạm vi ảnh hưởng trong toàn quốc. Hội đồng sáng kiến, Hội đồng khoa học cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể Trung ương có trách nhiệm giúp người đứng đầu xem xét, công nhận và đánh giá mức độ ảnh hưởng của sáng kiến, đề tài nghiên cứu khoa học” (Điều 3.2, Nghị định 65). Quy mô và khái niệm “cơ sở” của pháp luật thi đua, khen thưởng hoàn toàn khác quy mô và khái niệm “cơ sở” của Nghị định 13 [3]. Trong công tác thi đua khen thưởng, việc thi đua khen thưởng được tổng kết, đánh giá theo ngành, địa giới hành chính, được minh họa theo sơ đồ sau:

clip_image002

Hình 1: Sơ đồ minh họa các cấp khen thưởng trong hoạt động thi đua khen thưởng

Theo Luật thi đua khen thưởng, tại các địa phương, danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở” có thể do chủ tịch UBND huyện/ thành phố hoặc Giám đốc sở/ban/ ngành cấp. Sáng kiến để xét thi đua khen thưởng do hội đồng sáng kiến, hội đồng khoa học tại huyện/ thành phố hoặc sở/ban/ngành xem xét đánh giá trong phạm vi cấp cơ sở đó. Trong cấp cơ sở có thể có nhiều “cơ sở” là cơ quan, tổ chức được thành lập theo pháp luật, có thể nhân danh chính mình tham gia quan hệ pháp luật dân sự một cách độc lập theo quy định của Nghị định 13 [3]. Ví dụ, tại Sở KH&CN ngoài văn phòng Sở còn có các trung tâm, trạm, trại, chi cục,.. là các “cơ sở” có thể đánh giá và công nhận để khen thưởng, trả thù lao cho sáng kiến của mình theo quy định của Điều lệ sáng kiến (Nghị định 13 [3]). Tính mới của “ cơ sở” quy định tại Nghị định 13 [3] và “cấp cơ sở” của Luật thi đua khen thưởng không đồng nhất về quy mô xem xét, đánh giá. Một sáng kiến có thể mới ở “cơ sở”, nhưng chưa chắc đã mới ở “cấp cơ sở”.

Một số đề xuất

Quá trình triển khai, để tìm cách đồng nhất các quy định của Nghị định 13, Thông tư 18 và các các văn bản quy phạm pháp luật về thi đua khen thưởng, có ý kiến cho rằng, để đảm bảo tính thống nhất giữa Luật thi đua khen thưởng và các quy định của Nghị định 13 và Thông tư 18, nên quy định: “Các sáng kiến được xem xét, đánh giá phục vụ thi đua khen thưởng chỉ cần được “cơ sở” công nhận, không cần thiết xem xét tính mới của sáng kiến ở cấp tỉnh hoặc cấp toàn quốc, mà chỉ cần đánh giá mức độ ảnh hưởng của sáng kiến đã được cấp Giấy chứng nhận sáng kiến của những người được đề xuất danh hiệu thi đua để chọn ra các sáng kiến cấp Bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương”. Trước ý kiến nêu trên, chúng tôi cho rằng, khi xét đến ảnh hưởng thì phải làm rõ ảnh hưởng cái gì, ảnh hưởng thể nào. Bởi cùng một đối tượng tác động thì có thể vừa có những ảnh hưởng tích cực, vừa có ảnh hưởng tiêu cực, điều đó liên quan đến nhân tố ảnh hưởng cụ thể. Nghĩa là, khi nói đến đối tượng A tác động lên đối tượng B thì sự tác động đó phải gắn liền với các thuộc tính của chủ thể tác động. Cụ thể là, sáng kiến khi đánh giá phạm vi ảnh hưởng, thì nó phải xem xét đồng thời cả về tính mới, khả năng áp dụng, hiệu quả mang lại. Một giải pháp có thể mới ở cơ sở, nhưng chưa chắc đã mới ở “cấp cơ sở”, “cấp tỉnh” hay “cấp toàn quốc”. Cũng giống như một giải pháp kỹ thuật nó có thể mới ở một quốc gia, nhưng nó không mới ở tầm thế giới nên nó không được cấp văn bằng bảo hộ độc quyền theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ. Khả năng áp dụng và hiệu quả mang lại cũng có thể được xem xét một cách tương tự. Cho nên, việc đưa ra ý kiến trên là chưa phù hợp.

Theo chúng tôi, để đảm bảo tính thống nhất giữa hai hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (KH&CN và thi đua khen thưởng) về sáng kiến, khái niệm về sáng kiến nên được quy định là: ““Sáng kiến là giải pháp kỹ thuật, giải pháp quản lý, giải pháp tác nghiệp, giải pháp ứng dụng tiến bộ kỹ thuật (gọi chung là giải pháp), được tổ chức có thẩm quyền công nhận nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện có tính mới, đã áp dụng và mang lại hiệu quả cho xã hội”. Đồng thời,ngòai việc công nhận sáng kiến tại cơ sở để tác giả và cá nhân liên quan được hưởng các lợi ích vật chất nhất định cần thiết làm rõ các quy định việc đánh giá, công nhận sáng kiến có phạm vi ảnh hưởng tại các cấp để phục vụ công tác thi đua khen thưởng hàng năm theo quy định.

 

Tóm lại, sáng kiến là kết quả của họat động sáng tạo, gắn liền với họat động KH&CN. Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, gắn liền với những quyền lợi vật chất và giá trị tinh thần để thúc đẩy họat động sáng kiến nhằm đóng góp tích cực với công cuộc đổi mới, phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, vì có những quy định khác nhau về sáng kiến giữa Nghị định 13, Thông tư 18 với Luật thi đua khen thưởng, cho nên việc áp dụng hiện nay rất khó khăn, phức tạp. Do vậy, đề nghị các cơ quan có thẩm quyền cần xem xét chỉnh sửa, bổ sung để hoàn thiện các quy định về sáng kiến cho phù hợp nhằm đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ thực tiễn để triển khai áp dụng rộng rãi tại các địa phương.

Tài liệu tham khảo

 

 

[1]

 

Nguyễn Văn Xô (2000), Từ điển tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội.

[2]

Hội đồng Bộ trưởng (1990) , Nghị định số 31-CP ngày 23-1-1981 ban hành Điều lệ về sáng kiến cải tiến kỹ thuật – hợp lý hóa sản xuất và sáng chế được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 84-HĐBT ngày 20.3.1990.

[3]

Chính phủ (2012), Nghị định số 13/2012/NĐ-CP ngày 02 tháng 3 năm 2012 ban hành Điều lệ sáng kiến.

[4]

Văn phòng quốc hội (2013), Văn bản hợp nhất Luật Thi đua, Khen thưởng số 16/VBHN-VPQH ngày 13 tháng 12 năm 2013.

[5]

Chính phủ (2014), Nghị định số 65/2014/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2014 quy định chi tiết thi hành Luật sử đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua, khen thưởng năm 2013.

 


[1] Luật thi đua, khen thưởng số 15/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003 của Quốc hội, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2004;

[2] Luật số 47/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua, khen thưởng, có hiệu lực kể từ ngày 27 tháng 6 năm 2005

[3] Luật số 32/2009/QH12 ngày 18 tháng 6 năm 2009 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2010;

[4] Luật số 39/2013/QH13 ngày 16 tháng 11 năm 2013 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua, khen thưởng, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 6 năm 2014.

SOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ SỐ 12 NĂM 2015 (681), TR 46-49

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI HUỶ HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN ( ĐIỀU 143)

Huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là hành vi làm cho tài sản bị mất giá trị sử dụng hoặc làm giảm đáng kể giá trị sử dụng của tài sản.

Đây là tội phạm gồm hai hành vi độc lập nhưng lại cùng tính chất, nên nhà làm luật quy định chung trong cùng một điều luật. Do đó, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà xác định người phạm tội huỷ hoại tài sản hay chỉ cố ý làm hư hỏng tài sản. Nếu người phạm tội có cả hai hành vi huỷ hoại và cố ý làm hư hỏng tài sản thì phải định tội là huỷ hoại cố ý làm hư hỏng tài sản, chứ không định tội là huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.

Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản quy định tại Điều 143 Bộ luật hình sự là tội được nhập từ tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của công dân quy định tại Điều 160 và tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1985. So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 143 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn quy định tại Điều 138 và nặng hơn Điều 160 của Bộ luật hình sự năm 1985 về tội phạm này.  Vì vậy, nếu hành vi huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của công dân xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện thì áp dụng Điều 160 Bộ luật hình sự năm 1985 để xử lý đối với người phạm tội, ngược lại nếu hành vi huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa thì được áp dụng Điều 143 Bộ luật hình sự năm 1999 để xử lý đối với người phạm tội.

So với tội phạm này quy định ở Điều 138 và Điều 160 Bộ luật hình sự thì Điều 143 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều điểm mới. Nếu trước đây người phạm tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản bất kỳ có giá trị là bao nhiêu cũng bị coi là tội phạm, thì nay Điều 143 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định chỉ coi là tội phạm khi tài sản bị huỷ hoại hoặc hư hỏng có gía trị từ 500.000 đồng trở lên, nếu dưới 500.000 đồng thì phải kèm theo điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, hoặc đã bị kết án về tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, chưa được xoá án mà còn vi phạm mới bị coi là tội phạm. Ngoài các tình tiết định tội, nhà làm luật còn quy định thêm các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt. Hình phạt bổ sung sũng được quy định ngay trong cùng điều luật.

  

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

  1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm

Đối với tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, chủ thể của tội phạm cũng tương tự như đối với tội xâm phạm sở hữu khác. Tuy nhiên, người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này quy định tại khoản 1 và khoản 2 của Điều luật, vì hai khoản này chỉ là tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, nhưng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này quy định tại khoản 3 và khoản 4 của điều luật vì hai khoản này là tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

  1. Các dấu hiệu về khách thể của tội phạm

Khách thể của tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản cũng tương tự như các tội có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đây cũng là một điểm khác với các tội có tính chất chiếm đoạt như cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nhà làm luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt. Vì vậy, nếu huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản mà gây chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà xác định người phạm tội đã gây ra hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, nếu huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nhằm mục đích xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ của con người thì hành vi huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trở thành thủ đoạn của hành vi giết người hoặc cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

  1. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan

Do điều luật quy định hai hành vi phạm tội khác nhau nên mỗi hành vi phạm tội có hành vi khách quan khác nhau.

Huỷ hoại tài sản là làm cho tài sản mất hẳn giá trị sử dụng không thể khôi phục lại được và như vậy toàn bộ giá trị tài sản không còn. Ví dụ: Đốt cháy một căn nhà, một chiếc xe ôtô cháy thành tro bụi. Tuy nhiên, trong một chừng mực nhất định thì sự phân biệt rạch ròi hành vi huỷ hoại với hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản không phải trong trường hợp nào cũng được xác định khác nhau hoàn toàn. Sự khác biệt giữa huỷ hoại và cố ý làm hư hỏng tài sản chủ yếu căn cứ vào hậu quả của hành vi gây ra đối với tài sản, nếu tài sản bị hư hỏng hoàn toàn không có khả năng khôi phục thì coi là huỷ hoại, nếu tài sản không bị mất hẳn giá trị sử dụng và có khả năng khôi phục lại toàn bộ hoặc một phần giá trị sử dụng thì coi là cố ý làm hư hỏng tài sản.

Làm hư hỏng tài sản là làm giảm đáng kể giá trị sử dụng của tài sản và giá trị sử dụng bị giảm đó có thể khôi phục được (có thể khôi phục lại như cũ, nhưng có thể chỉ khôi phục lại được một phần).

Hành vi huỷ hoại hoặc làm hư hỏng tài sản được thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau tuỳ thuộc vào thủ đoạn mà người phạm tội thực hiện như: Đốt cháy, đập phá, dùng thuốc nổ, dùng chất độc, hoá chất hoặc lợi dụng thiên tai để huỷ hoại tài sản…

Thực tiễn xét xử cho thấy có những trường hợp nếu chỉ căn cứ vào hành vi thì khó xác định đó có phải là hành vi huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản hay không nhưng nếu không coi là huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng thì khó có thể xác định người phạm tội phạm tội gì. Ví dụ: Do không trúng thầu cung ứng điện sinh hoạt cho dân, nên Trần Văn C có ý định làm hại anh Nguyễn Công B là người trúng thầu. C đã bí mật nối dây điện từ ngoài đồng hồ đo điện (công tơ) tổng xuống đất làm cho điện năng bị tiêu hao gây thiệt hại cho anh B hàng chục triệu đồng, vì Công ty điện bán điện đến đồng hồ tổng còn từ đồng hồ tổng vào từng hộ dân là do anh B chịu trách nhiệm, điện năng bị tiêu hao, anh B phải thanh toán cho Công ty điện lực khoản tiền chênh lệch giữa đồng hồ tổng với đồng hồ của từng hộ dân.

Lại có trường hợp tài sản chỉ bị mất chứ không bị huỷ hoại hoặc hư hỏng theo đúng nghĩa của  nó, nhưng cũng phải coi là hành vi huỷ hoại hoặc làm hư hỏng tài sản. Ví dụ: Do thù tức với anh Hoàng Đức M, nên Vũ Khắc X đã tháo phá bờ hồ cá của anh M làm cho cá trong hồ ra hết sông.

Tuy nhiên, nếu hành vi huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản mà tài sản đó lại là đối tượng tác động của các tội khác đã được ở các điều luật khác trong Bộ luật hình sự thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 143 Bộ luật hình sự mà tuỳ trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm tương ứng như: Tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản (Điều 188); tội huỷ hoại rừng(Điều 189); tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 231); tội huỷ hoại vũ khí quân dụng, phương tiẹn ký thuật quân sự (Điều 335).

Hậu quả

Hậu quả của hành vi huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là giá trị hoặc giá trị sử dụng của tài sản bị huỷ hoại hoặc hư hỏng. Giá trị hoặc giá trị sử dụng của tài sản là thiệt hại do hành vi huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng gây ra chứ không phải giá trị hoặc giá trị sử dụng ban đầu của tài sản khi chưa bị huỷ hoại hoại hoặc làm hư hỏng. Ví dụ: Một chiếc xe ôtô có giá trị 700.000.000 đồng bị hư hỏng phải sửa chữa hết 20.000.000 đồng thì hậu quả do hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản là gây thiệt hại 20.000.000 đồng chứa không phải 700.000.000 đồng.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 143 thì thiệt hại gây ra do hành vi huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản phải từ 500.000 đồng trở lên thì người có hành vi huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu thiệt hại dưới 500.000 đồng thì phải gây ra hậu quả nghiêm trọng hoặc người có hành vi phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, hoặc đã bị bị kết án về tội này, chưa được xoá án thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều luật chỉ quy định dưới 500.000 đồng nhưng dưới đến mức nào thì lại không có giới hạn, nên về nguyên tắc dù gây thiệt hại một đồng cũng vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Hậu quả nghiêm trọng do hành vi huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản gây ra là những thiệt hại về thể chất, tinh thần, nếu là thiệt hại về vật chất thì những thiệt hại này không phải là thiệt hại về tài sản do hành vi huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng trực tiếp gây ra. (xem gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại điểm c khoản 2 của điều luật).

Như vậy, đối với tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản hậu quả là dấu hiệu bắt buộc nếu chưa có hậu quả xảy ra thì chưa cấu thành tội phạm và tội phạm này cũng không có giai đoạn phạm tội chưa đạt và chuẩn bị phạm tội.

  1. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm

Cũng như đối với tội có tính chất chiếm đoạt, tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản cũng được thực hiện do cố ý. Tuy nhiên, điều văn của điều luật quy định huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nên có ý kiến cho rằng tội phạm này vừa cố ý vừa không cố ý, hiểu như vậy là máy móc và không khoa học, bởi vì không phải tội phạm nào được quy định trong Bộ luật hình sự nhà làm luật cũng quy định dấu hiệu chủ quan của cáu thành tội phạm mà tuỳ thuộc vào từng tội phạm mà nhà làm luật có thể quy định lỗi, quy định động cơ, mục đích của người phạm tội hoặc chỉ quy định hành vi khác quan nhưng cũng có thể hiểu được người phạm tội thực hiện tội phạm đó do có ý hay vô ý. Ví dụ: Tội giết người, ai cũng biết đó là tội do cố ý, tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là tội do vo ý.v.v… Khi nói huỷ hoại tài sản là đã bao gồm thái độ tam lý của người phạm tội là cố ý mà không cần phải quy định cố ý huỷ hoại tài sản, nhưng làm hư hỏng tài sản có thể có cả cố ý và vô ý, nên nhà làm luật phải quy định cố ý làm hư hỏng tài sản là để phân biệt với trường hợp vô ý làm hư hỏng tài sản quy định tại Điều 145 Bộ luật hình sự (sẽ phân tích ở phần sau – tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản).

 Mục đích của người phạm tội là mong muốn huỷ hoại hoặc làm hư hỏng tài sản của người khác. Ngoài mục đích này, người phạm tội không có mục đích nào khác và mục đích này cũng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu người phạm tội có mục đích khác, còn việc huỷ hoại tài sản hoặc làm hư hỏng tài sản chỉ là phương pháp để đạt được mục đích khác thì không phạm tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản mà tuỳ trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội tương ứng. Ví dụ: Ví muốn giết cả nhà anh Đầo Văn T, nên Vũ Văn H đã đổ hai can xăng vào nhà anh T rồi châm lửa thiêu cháy toàn bộ ngôi nhà và giết chết vợ chồng anh T cùng hai đứa con của anh T.

Người phạm tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có nhiều động cơ khác nhau như: để trả thù, vì ghen tuông… nhưng chủ yếu là vì tư thù. Động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành, mà nó chỉ có ý nghĩa trong việc xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Phạm tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản không có các tình tiết định khung hình phạt

Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 143 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. So với tội tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại khoản 1 Điều 138 và khoản 1 Điều 160 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 143 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn. Vì vậy, đối với hành vi huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau ngày 4-1-2000 (ngày Chủ tịch nước công bố Bộ luật hình sự năm 1999), mới phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì được áp dụng khoản 1 Điều 143 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.

Khi áp dụng khoản 1 Điều 143 Bộ luật hình sự cần chú ý một số điểm sau:

– Giá trị tài sản bị huỷ hoại hoặc hư hỏng từ 500.000 đồng đén dưới 50.000.000 đồng là giá thị trường tự do vào thời điểm thực hiện hành vi phạm tội.

– Đã bị xử phạt hành chính về hành vi huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, người phạm tội đã bị xử phạt hành chính cũng về hành vi huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản bằng một trong các hình thức được quy định trong Pháp lệnh xử phạt hành chính do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dung mà chưa quá một năm; nếu người phạm tội bị xử phạt hành chính về hành vi khác ( không phải là hành vi huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng) thì không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 143 Bộ luật hình sự;

– Đã bị kết án về tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản chưa được xoá án tích mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, người phạm tội đã bị Toà án kết án về tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nhưng chưa được xoá án tích theo quy định tại Điều 77 Bộ luật hình sự; nếu người phạm tội bị kết án về tội phạm khác ( không phải là tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản) thì cũng không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 143 Bộ luật hình sự;

Khoản 1 Điều 143 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm ít nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là ba năm tù, nên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

 Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo khoản 1 Điều 143 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu các tình tiết khác như nhau thì mức hình phạt đối với người phạm tội phụ thuộc vào những yếu tố sau:

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có ít hoặc không có tình tiết tăng nặng;

– Người phạm tội không có tình tiết giảm nhẹ phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ được phạt nhẹ hơn người có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Tài sản bị huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng càng có giá trị cao, hình phạt càng nặng;

– Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ phải đúng quy định tại Điều 31 Bộ luật hình sự về loại hình phạt này. Nếu không đủ điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo hoặc áp dụng mức thấp nhất của khung hình phạt ( sáu tháng tù). Nếu người phạm tội đáng được khoan hồng nhưng chưa tới mức được miến trách nhiệm hình sự thì cũng có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với họ.

  1. Huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 143 Bộ luật hình sự

Huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có tổ chức

Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải trường hợp huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm tội có tổ chức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên phạm tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có tổ chức cũng có những đắc điểm riêng như:

Người thực hành trong vụ huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là người trực tiếp thực hiện hành vi, những thủ đoạn để huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.

Dùng chất nổ, chất cháy hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác

Đây là trường hợp người phạm tội đã dùng chất nổ, chất cháy hoặc thủ đoạn nguy hiểm để huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Do việc dùng chất nổ, chất cháy hoặc thủ đoạn nguy hiểm nên tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản cao hơn.

Chất nổ là những chất có sức công phá lớn, có tính nguy hiểm cao đối với con người như: thủ pháo, lựu đạn, vật liệu nổ dùng trong công nghiệp, trong quốc phòng…

Chất cháy là những chất dễ cháy hoặc tự bốc cháy trong một môi trường nhất định như: xăng, dầu, phốt pho, các chất hoá học khác dễ bốc cháy hoặc tự bốc cháy…

Thủ đoạn nguy hiểm khác là thủ đoạn gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của con người như: thuốc độc, thuốc trừ sâu, diệt chuột, a xít…

Gây hậu quả nghiêm trọng

Huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp do huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản đã gây ra những thiệt hại về vật chất, tính mạng, sức khoẻ và các thiệt hại khác ngoài giá trị tài sản trực tiếp bị hủy hoại hoặc hư hỏng. Được coi là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi phạm tội  huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản gây ra nếu:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người có tỷ lệ thương tật từ 21% đến 40%;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người mà tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả mọi người từ 21% đến 40%;

– Gây thiệt hại về tải sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

– Ngoài thiệt hại về sức khoẻ, tài sản, còn những thiệt hại khác như gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây hoang mang cho nhân dân trong một địa bàn nhất định…Những thiệt hại này, tuỳ từng vụ án cụ thể mà các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào tình hình cụ thể để xác định đã là hậu quả nghiêm trọng chưa, nếu tổng hợp các tình tiết mà xác định đã gây ra hậu quả  nghiêm trọng thì người phạm tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản mới bị coi là phạm tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản gây hậu quả nghiêm trọng theo điểm c khoản 2 Điều 143 Bộ luật hình sự

 – Nếu tài sản bị huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng dưới 500.000 đồng mà gây hậu quả nghiêm trọng thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 143 Bộ luật hình sự mà không thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 của điều này.

Để che giấu tội phạm khác

Đây là trường hợp người phạm tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nhằm mục đích che giấu một tội phạm mà người phạm tội đã thực hiện trước đó nhưng chưa bị phát hiện, hoặc có nguy cơ bị phát hiện nên người phạm tội đã huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản để hy vọng rằng tội phạm mà họ đã thực hiện sẽ không bị phát hiện. Ví dụ: Hoàng Trung K là thủ kho gạo đã lấy gạo trong kho bán lấy tiền. Để hành vi tham ô của mình không bị phát hiện, K đã đốt kho để phi tang.

Vì lý do công vụ của người bị hại

Đây là trường hợp người phạm tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản với động cơ trả thù mà người bị trả thù ở đây là người đã thì hành một công vụ có liên quan đến quyền lợi của người phạm tội; vì đã thi hành công vụ nên mới bị huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Mối quan hệ giữa việc thi hành công vụ với hành vi huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là quan hệ nhân quả, nếu có việc thi hành công vụ của người bị hại và sau đó có việc huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, nhưng giữa việc thi hành công vụ của người bị hại với hành vi huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người phạm tội không có liên quan thì cũng không thuộc trường hợp vì lý do công vụ của người bị hại. Ví dụ: Anh Chu Hải Th là Chấp hành viên đã tổ chức cưỡng chế thi hành án buộc Đào Xuân T phải trả nhà cho bà Lê Thị H. Một hôm, Đào Xuân T thấy anh Th cùng với chị Đào Xuân L là em gái của T trong một quán bia, T cho rằng anh Th dụ dỗ em gái mình, nên đã gây sự cãi nhau với anh Th và đập phá xe máy của anh Th gây thiệt hại 3.500.000 đồng.

Thông thường người bị hại sau khi dã thi hành công vụ nên mới bị huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, nhưng cũng có trường hợp người bị hại bị huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản vì sắp thi hành một công vụ có liên quan đến quyền lợi của người phạm tội nên bị huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Ví dụ: Nguyễn Như B biết bị cưỡng chế giải phóng mặt bằng, B đã nhiều lần đến cầu xin anh Tô Quyết T là người phụ trách việc giải phóng mặt bằng, nhưng đều bị anh T khước từ. Để ngăn cản việc bị cưỡng chế, B đã phá hỏng xe ủi của Đội thi công giải phóng mặt bằng gây thiệt hại 4.000.000 đồng.

Tái phạm nguy hiểm

Trường hợp phạm tội này lại hoàn toàn giống với tất cả những trường hợp tái phạm nguy hiểm khác, chỉ cần xác định người phạm tội có đủ các dấu hiệu quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Đây là tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội, không phụ thuộc vào hành vi phạm tội cụ thể của tội phạm này hay tội phạm khác.

Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng

Đây là trường hợp thiệt hại mà người phạm tội huỷ hoại hoặc làm hư hỏng tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng dến dưới 200.000.000 đồng.

Thiệt hại do hành vi huỷ hoại hoặc làm hư hỏng tài sản gây ra chứ không phải giá trị ban đầu của tài sản bị huỷ hoại hoặc làm hư hỏng, trừ trường hợp giá trị ban đầu của tài sản bị huỷ hoại hoàn toàn (mất hết giá trị sử dụng).

Cũng như các trường hợp xác định giá trị tài sản khác, việc xác định giá trị tài sản trường hợp này cũng phait căn cứ vào giá thị trường tự do vào thời điểm xảy ra hành vi huỷ hoại hoặc làm hư hỏng tài sản, trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định.

  1. Huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 143 Bộ luật hình sự

Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 143 chỉ khác ở chỗ giá trị tài sản bị thiệt hại là từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

Gây hậu quả rất nghiêm trọng

Đây là trường hợp phạm tội tương tự như trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 của điều luật, chỉ khác ở chỗ hậu quả trong trường hợp này là rất nghiêm trọng. Được coi là gây hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi phạm tội  huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản gây ra nếu:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người có tỷ lệ thương tật từ 41% đến 60%;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người mà tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 41%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả mọi người từ 41% đến 60%;

– Gây thiệt hại về tải sản có giá trị từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

– Ngoài thiệt hại về sức khoẻ, tài sản, còn những thiệt hại khác như gây ảnh hưởng rất xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây hoang mang cho nhân dân trong một địa bàn nhất định…Những thiệt hại này, tuỳ từng vụ án cụ thể mà các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào tình hình cụ thể để xác định đã là hậu quả rất nghiêm trọng chưa, nếu tổng hợp các tình tiết mà xác định đã gây ra hậu quả rất nghiêm trọng thì người phạm tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản mới bị coi là phạm tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản gây hậu quả rất nghiêm trọng theo điểm b khoản 3 Điều 143 Bộ luật hình sự

– Nếu tài sản bị huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng dưới 500.000 đồng mà gây hậu quả rất nghiêm trọng thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 143 Bộ luật hình sự (trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng) mà không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 của điều này. Đây là vấn đề mới, các cơ quan tiến hành tố tụng chưa có hướng dẫn, nhưng theo chúng tôi, nếu giá trị tài sản bị thiệt hại dưới 500.000 đồng mà gây hậu quả nghiêm trọng, người phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 143, nên gây hậu quả rất nghiêm trọng thì phải coi là trường hợp khoản 1 của luật cộng với hậu quả nghiêm trọng (tạm coi là hậu quả nghiêm trọng bằng nửa hậu quả rất nghiêm trọng).

  1. Huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 143 Bộ luật hình sự

Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 143 chỉ khác ở chỗ giá trị tài sản bị thiệt hại là từ  500.000.000 đồng trở lên

Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng

Đây là trường hợp phạm tội tương tự như trường hợp quy định tại điểm c khoản 2, điểm b khoản 3 của điều luật, chỉ khác ở chỗ hậu quả trong trường hợp này là đặc biệt nghiêm trọng. Được coi là gây hậu quả đặc nghiêm trọng do hành vi phạm tội  huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản gây ra nếu:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên%;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người mà tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 61%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả mọi người từ 61%;

– Gây thiệt hại về tải sản có giá trị từ 500.000.000 đồng trở lên;

– Ngoài thiệt hại về sức khoẻ, tài sản, còn những thiệt hại khác như gây ảnh hưởng đặc biệt xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây hoang mang cho nhân dân trong một địa bàn nhất định…Những thiệt hại này, tuỳ từng vụ án cụ thể mà các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào tình hình cụ thể để xác định đã là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng chưa, nếu tổng hợp các tình tiết mà xác định đã gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì người phạm tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản mới bị coi là phạm tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng theo điểm b khoản 4 Điều 143 Bộ luật hình sự

 – Nếu tài sản bị huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng dưới 500.000 đồng mà gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 143 Bộ luật hình sự (trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng) mà không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 của điều này.

  1. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản

Ngoài hình phạt chính, người phạm tội huỷ hoại hoặc cố ý lalmf hư hỏng tài sản còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng; cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

_Nguyên tắc bổ nhiệm thẩm phán và bầu hoặc cử hội thẩm nhân dân.

_Nguyên tắc xét xử sơ thẩm của TAND có hội thẩm tham gia, trừ trường họp xét xử theo thủ tục rút gọn.

_Nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan ,tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán, hội thẩm.

_Nguyên tắc toà án xét xử công khai.

_Nguyên tắc toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp \ xét xử theo thủ tục rút gọn.

_Nguyên tắc tranh tục trong xét xử được đảm bảo.

_Nguyên tắc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được đảm bảo.

_Nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

_Nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.

_Nguyên tắc người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước toà án.

_Nguyên tắc toà án nhân dân chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Tiêu chí Hiến pháp 1946 Hiến pháp 1959 Hiến pháp 1980 Hiến pháp 1992 Hiến pháp 2013
Tên gọi Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà Hội đồng nhà nước Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam Chủ tịch nước
Vị trí, tính chất Là nười đứng đầu nhà nước và Chính phủ, thay mặt cho nước Việt Nam dân chủ cộng hoà về đối nội, đối ngoại. Là người đứng đầu nhà nước, thay mặt cho nước Việt Nam dân chủ cộng hoà về đối nội, đối ngoại. Là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước CHXHCN Việt Nam. Là nười đứng đầu nhà nước, thay mặt cho nước CHXHCN Việt Nam về đối nội đối ngoại. Là người đứng đầu nhà nước, thay mặt cho nước CHXHCN Việt Nam về đối nội đối ngoại.
Nhiệm vụ, quyền hạn Thay mặt nhà nước về đối nội, đối ngoại; giữ quyền tổng chỉ huy quân đội toàn quốc; kí sắc lệnh bổ nhiệm các chức danh trong Chính phủ; không chịu trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc

 

 

 

Thay mặt nhà nước về đối nội, đối ngoại; giữ quyền tổng chỉ huy quân đội toàn quốc… Với tư cách đứng đầu nhà nước và là cơ quan thường trực cao nhất của Quốc hội Với tư cách người đứng đầu nhà nước Với tư cách là người đứng đầu nhà nước. Ngoài ra bổ sung thêm một số quyền hạn và nhiệm vụ như: Quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô dốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng…Có quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về vấn đề Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước.
Cách thức thành lập _Chủ tịch nước VNDCCH chọn trong nghị viện nhân dân và phải được 2/3 tổng số nghị viên bỏ phiếu thuận.

_Nếu bỏ phiếu lần đầu mà không đủ số phiếu thì theo đa số tương đối.

_Do Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa bầu ra.

_Là công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ 35 tuổi trở lên có quyền ứng cử Chủ tịch  VNDCCH.

_Hội đồng nhà nước do QH bầu ra trong số các đại biểu QH.

_Thành viên HDNN không thể đồng thời là thành viên của Hội đồng Bộ trưởng.

Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu quốc hội. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu quốc hội.
Nhiệm kì _Chủ tịch nước VNDCCH được bầu trong thời hạn 5 năm và có thể được bầu lại.

_Trong vòng một tháng trước khi hết nhiệm kì của chủ tịch, Ban thường vụ phải triệu tập Nghị viện để bầu chủ tịch mới.

_Nhiệm kì của Chủ tịch nước theo nhiệm kì của quốc hội, trong đó nhiệm kì của quốc hội là 4 năm và có thể kéo dài nếu xảy ra chiến tranh và các sự việc bất thường khác. _Nhiệm kì của HĐNN theo nhiệm kì của quốc hội, trong đó nhiệm kì của quốc hôi là 5 năm và có thể kéo dài.

_Khi Quốc hội hết nhiệm kì, HĐNN tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu ra HĐNN mới.

_Nhiệm kì của Chủ tịch nước theo nhiệm kì của quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kì, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho tới khi bầu Quốc hội khóa mới, trong đó nhiệm kì của Quốc hội là 5 năm và có thể rút ngắn hoặc kéo dài  nếu gặp trường hợp đặc biệt và phải được 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội tán thành. _Nhiệm kì của Chủ tịch nước theo nhiệm kì của quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kì, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho tới khi bầu Quốc hội khóa mới, trong đó nhiệm kì của Quốc hội là 5 năm và có thể rút ngắn hoặc kéo dài theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; việc kéo dài không được quá 12 tháng trừ trường hợp có chiến tranh.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI SỬ DỤNG TRÁI PHÉP TÀI SẢN ( ĐIỀU 142 )

Sử dụng trái phép tài sản là hành vi của một người vì vụ lợi đã khai thác một cách trái phép giá trị sử dụng của tài sản do đang chiếm giữ.

Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định hành vi sử dụng trái phép tài sản của công dân là hành vi phạm tội mà chỉ quy định hành vi sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa mới là hành vi phạm tội. Vì vậy, nếu hành vi sử dụng trái phép tài sản của công dân xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện, thì không coi là hành vi phạm tội và người có hành vi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng trái phép tài sản.

Đặc trưng cơ bản của tội sử dụng trái phép tài sản là người phạm tội chỉ có ý định khai thác lợi ích do tài sản đem lại chứ không có ý định chiếm đoạt tài sản, sau khi đã khai thác lợi ích của tài sản, người phạm tội sẽ trả lại tài sản cho chủ sở hữu như: dùng xe ôtô của cơ quan để chở hàng thuê lấy tiền, dùng tiền quỹ đem gửi tiết kiệm hoặc cho người khác vay lấy tiền lãi, vay tiền ngân hàng nhưng không sử dụng tiền vào mục đích khi vay mà sử dụng vào mục đích khác dẫn đến mất khả năng thanh toán…

Thực tiễn xét xử trong thời gian qua do không năm chắc đặc trưng cơ bản của tội phạm này, nên trong nhiều trường hợp lẽ ra chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng trái phép tài sản thì lại truy cứu về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hoặc tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà dư luận gọi là hiện tượng “hình sự hoá”.

So với Điều 137 và Điều 137a Bộ luật hình sự năm 1985 quy định vế tội sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa thì Điều 142 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định mới, đặc biệt điều luật quy định giá trị tài sản bị sử dụng trái phép làm ranh giới phân biệt giữa hành vi được coi là tội phạm với hành vi chỉ bị xử phạt hành chính, đồng thời quy định trường hợp giá trị tài sản bị sử dụng trái phép chưa đến mức cấu thành tội phạm mà người phạm tội dã bị xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án về tội sử dụng trái phép tài sản chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì cũng bị coi là tội phạm; quy định thêm dấu hiệu là tình tiết định khung hình phạt; hình phạt bổ sung đươc quy định ngay trong cùng một điều luật.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

  1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm

Đối với tội sử dụng trái phép tài sản, chủ thể của tội phạm cũng tương tự như đối với tội xâm phạm sở hữu khác. Tuy nhiên, người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì tội phạm này không có trường hợp nào quy định là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

  1. Các dấu hiệu về khách thể của tội phạm

Khách thể của tội sử dụng trái phép tài sản tuy cũng xâm phạm đến sở hữu nhưng chỉ xâm phạm đến quyền sử dụng tài sản, tất nhiên muốn sử dụng thì phải chiếm hữu, nhưng không xâm phạm đến quyền định đoạt tài sản, cũng không xâm phạm đến quan hệ nhân thân. Nếu sau khi đã chiếm hữu, sử dụng trái phép tài sản, người phạm tội bị đòi lại tài sản mà có hành vi dũng vũ lực, gây chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

  1. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan

Hành vi khách quan duy nhất của tội phạm tội này hành vi sử dụng tài sản một cách trái phép, nhưng để khai thác lợi ích tài sản một cách trái phép trước hết người phạm tội phải tìm cách chiếm hữu được tài sản.

Việc chiếm hữu tài sản có thể được thực hiện một cách công khai hợp pháp, nhưng cũng có thể được thưc hiện một cách lén lút, trái phép.

Trường hợp người phạm tội chiếm hữu tài sản một cách công khai, hợp pháp rồi sau đó đã sử dụng trái phép tài sản đã chiếm hữu việc xác định tội danh không có gì phức tạp như: lái xe của cơ quan, lợi dụng lúc thủ trưởng cơ quan đang họp nên đã sử dụng xe chở khách thuê để lấy tiền. Nhưng nếu tài sản mà người sử dụng trái phép lại là tài sản trước đó họ chiếm hữu trái phép thì vấn đề định tội sử dụng trái phép hay tội có tính chất chiếm đoạt lại là vấn đề khá phức tạp như: thủ quỹ tự ý lấy tiền quỹ đem gửi tiết kiệm hoặc cho người khác vay lấy lãi, thủ kho tự ý lấy tài sản trong kho đem cho thuê lấy tiền với ý thức sau đó sẽ trả lại quỹ, trả lại kho. Gặp trường hợp này, nhiều nơi xác định thủ quỹ, thủ kho phạm tội thâm ô, nhưng thực tế người thủ quỹ, thủ kho không có ý định chiếm đoạt tài sản mà chỉ có ý định khai thác lợi ích của tài sản.

Như vậy, đặc điểm nổi bật của hành vi sử dụng trái phép tài sản là người phạm tội chỉ có ý định khai thác lợi ích của tài sản chứ không có ý định chiếm đoạt tài sản. Nếu người phạm tội lại có ý định chiếm đoạt tài sản còn hành vi sử dụng trái phép tài sản chỉ là thủ đoạn, phương thức để đạt được mục đích chiếm đoạt thì không nên vội vàng xác định người phạm tội chỉ sử dụng trái phép tài sản. Ví dụ: Một giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn do làm ăn thua lỗ nên đã nợ hàng tỷ đồng của ngân hàng và của nhiều người khác, nhưng đã dùng tài sản của công ty thế chấp ngân hàng vay tiền rồi dùn tiến đó để thanh toán các khoản nợ cũ để trốn tránh trách nhiệm.

Hậu quả

Hậu quả của hành vi sử dụng trái phép tài sản là giá trị sử dụng của tài sản bị sử dụng trái phép và những thiệt hại khác do hành vi sử dụng trái phép tài sản đó  gây nên.

Điều luật chỉ quy định gía trị tài sản bị sử dụng trái phép mà không quy định giá trị sử dụng (hoa lợi) của tài sản bị sử dụng trái phép, do đó không cần phải xác định giá trị sử dụng mà người phạm tội đã khai thác lợi ích của tài sản mà chỉ cần xác định giá trị tài sản bị sử dụng trái phép. Tuy nhiên, do khai thác lợi ích của tài sản bị sử dụng trái phép cho nên có trường hợp người phạm tội ngoài việc khai thác lợi ích của tài sản họ đã làm cho giảm giá trị sử dụng của tài sản (hao mòn) hoặc làm cho tài sản bị thiệt hại (hư hỏng, mất mát), những thiệt hại này được chia ra hai loại:

Nếu hậu quả đó là hậu quả nghiêm trọng thì hành vi sử dụng trái phép tài sản mới cấu thành tội phạm, nếu hậu quả gây ra chưa phải là nghiêm trọng thì người có hành vi sử dụng trái phép phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép tài sản hoặc đã bị kết án về tội sử dụng trái phép tài sản thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng trái phép tài sản.

Nếu hậu quả đó là hậu quả rất nghiêm trọng thì đó là tình tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm c khoản 2 của điều luật.

Như vậy, ngoài giá trị tài sản bị sử dụng trái phép thì hành vi sử dụng trái phép tài sản còn phải gây ra hậu quả nghiêm trọng thì hành vi sử dụng trái phép tài sản mới cấu thành tội phạm. Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Được coi là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi sử dụng trái phép tài sản gây ra nếu:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người có tỷ lệ thương tật từ 21% đến 40%;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người mà tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả mọi người từ 21% đến 40%;

– Gây thiệt hại về tải sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

– Ngoài thiệt hại về sức khoẻ, tài sản, còn những thiệt hại khác như gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây hoang mang cho nhân dân trong một địa bàn nhất định…Những thiệt hại này, tuỳ từng vụ án cụ thể mà các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào tình hình cụ thể để xác định đã là hậu quả nghiêm trọng chưa, nếu tổng hợp các tình tiết mà xác định đã gây ra hậu quả  nghiêm trọng thì người sử dụng trái phép tài sản mới bị coi là phạm tội sử dụng trái phép tài sản.

  1. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm

Cũng như đối với tội có tính chất chiếm đoạt, tội sử dụng trái phép tài sản cũng được thực hiện do cố ý. Mục đích của người phạm tội là mong muốn khai thác giá trị sử dụng của tài sản. Ngoài mục đích này, người phạm tội không có mục đích nào khác và mục đích này cũng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.

Động cơ của người phạm tội là vì vụ lợi, tức là đem lại lợi ích vật chất tinh thần cho mình hoặc cho người khác mà mình quan tâm. Động cơ cũng là dấu hiệu bắt buộc đối với tội phạm này, nếu không chứng minh được người phạm tội có động cơ vì vụ lợi thì chưa đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm này.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Phạm tội sử dụng trái phép tài sản không có tình tiết định khung hình phạt

Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 142 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội sử dụng trái phép tài sản. So với tội sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại khoản 1 Điều 137 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 142 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn khoản 1 Điều 137. Vì vậy, đối với hành vi sử dụng trái phép tài sản xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau ngày 4-1-2000 (ngày Chủ tịch nước công bố Bộ luật hình sự năm 1999), mới phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì được áp dụng khoản 1 Điều 142 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.

Khi áp dụng khoản 1 Điều 142 Bộ luật hình sự cần chú ý một số điểm sau:

– Giá trị tài sản bị sử dụng trái phép từ 50.000.000 đồng trở lên là giá thị trường tự do vào thời điểm thực hiện hành vi phạm tội (từ khi người phạm tội sử dụng trái phép tài sản).

– Đã bị xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi sử dụng trái phép tài sản, người phạm tội đã bị xử phạt hành chính cũng về hành vi sử dụng trái phép tài sản bằng một trong các hình thức được quy định trong Pháp lệnh xử phạt hành chính do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dung mà chưa quá một năm; nếu người phạm tội bị xử phạt hành chính về hành vi khác ( không phải là hành vi sử dụng trái phép) thì không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 142 Bộ luật hình sự;

– Đã bị kết án về tội sử dụng trái phép tài sản chưa được xoá án tích mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi sử dụng trái phép tài sản, người phạm tội đã bị Toà án kết án về tội sử dụng trái phép tài sản nhưng chưa được xoá án tích theo quy định tại Điều 77 Bộ luật hình sự; nếu người phạm tội bị kết án về tội phạm khác ( không phải là tội sử dụng trái phép tài sản) thì cũng không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 142 Bộ luật hình sự;

Khoản 1 Điều 142 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm ít nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là hai năm tù, nên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

 Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội sử dụng trái phép tài sản theo khoản 1 Điều 142 Bộ luật hình sự, Toà án căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu các tình tiết khác như nhau thì mức hình phạt đối với người phạm tội phụ thuộc vào những yếu tố sau:

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có ít hoặc không có tình tiết tăng nặng;

– Người phạm tội không có tình tiết giảm nhẹ phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ được phạt nhẹ hơn người có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Tài sản bị sử dụng trái phép càng có giá trị cao, hình phạt càng nặng;

– Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ phải đúng quy định tại Điều 31 Bộ luật hình sự về loại hình phạt này. Nếu không đủ điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo hoặc áp dụng mức thấp nhất của khung hình phạt ( ba tháng tù). Nếu người phạm tội đáng được khoan hồng nhưng chưa tới mức được miến trách nhiệm hình sự thì cũng có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với họ.

  1. Sử dụng trái phép tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 142 Bộ luật hình sự

Phạm tội nhiều lần

Cũng như các trường hợp phạm tội nhiều lần khác, sử dụng trái phép tài sản nhiều lần là có từ hai lần sử dụng trái phép tài sản trở lên và mỗi lần sử dụng trái phép tài sản đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần  bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội sử dụng trái phép tài sản nhiều lần.

Lợi dụng chức vụ, quyền hạn

Đây là trường hợp người sử dụng trái phép tài sản là người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để sử dụng trái phép tài sản.

Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ. Nếu những người này, lợi dụng chức vụ để sử dụng trái phép tài sản thì mới thuộc trường hợp lợi dụng chức vụ để phạm tội.

Người có quyền hạn là người được giao thực hiện một công vụ và do thực hiện công vụ đó nên họ có một quyền hạn nhất định. Người có quyền hạn thông thường là người có chức vụ, nhưng cũng có thể là người không có chức vụ nhưng được giao hoặc được thạm gia thực hiện một công vụ.

Gây hậu quả rất nghiêm trọng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng khác, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này hậu quả rất nghiêm trọng là do hành vi phạm tội sử dụng trái phép tài sản gây ra. Cũng như các trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, phi vật chất do hành vi phạm tội gây ra. Nói chung, hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi sử dụng trái phép tài sản gây ra phải tương đương với các tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 142 Bộ luật hình sự, vì nó được quy định trong cùng một khung hình phạt với các tình tiết này.

Có thể coi những thiệt hại sau là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi phạm tội sử dụng trái phép tài sản gây ra:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người có tỷ lệ thương tật từ 41% đến 60%;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người mà tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 41%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả mọi người từ 41% đến 60%;

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

– Ngoài những thiệt hại về sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, như: ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng rất xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho rất nhiều người trên một địa bàn nhất định. Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác

Tái phạm nguy hiểm

Trường hợp phạm tội này lại hoàn toàn giống với tất cả những trường hợp tái phạm nguy hiểm khác, chỉ cần xác định người phạm tội có đủ các dấu hiệu quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Đây là tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội, không phụ thuộc vào hành vi phạm tội cụ thể của tội phạm này hay tội phạm khác.

Khoản 2 Điều 142 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là năm năm tù, đối với người phạm tội dưới 16 tuổi cũng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội sử dụng trái phép tài sản theo khoản 2 Điều 142 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu các tình tiết khác như nhau thì mức hình phạt đối với người phạm tội phụ thuộc vào những yếu tố sau:

– Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có ít hoặc không có tình tiết tăng nặng;

– Người phạm tội không có tình tiết giảm nhẹ phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ được phạt nhẹ hơn người có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Tài sản bị sử dụng trái phép càng có giá trị cao, hình phạt càng nặng;

– Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt ( dưới hai năm tù) hoăc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ phải đúng quy định tại Điều 31 Bộ luật hình sự về loại hình phạt này. Nếu không đủ điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo, nhưng không được áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với người phạm tội.

  1. Sử dụng trái phép tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 142 Bộ luật hình sự

Khoản 3 Điều 142 Bộ luật hình sự chỉ quy định một trường hợp phạm tội, đó là hành vi sử dụng trái phép tài sản gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi sử dụng trái phép tài sản gây ra là những thiệt hại về thể chất, vật chất và tinh thần cao hơn mức hậu quả rất nghiêm trọng quy định tại điểm c khoản 2 của điều luật. Dựa vào những thiệt hại được coi là hậu quả nghiêm trọng, hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi sử dụng trái phép tài sản gây ra, chúng ta có thể xác định được hậu quả đặc biệt nghiêm trọng như sau:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người mà tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 61%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả mọi người từ 61% trở lên;

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500.000.000 đồng trở lên;

– Ngoài những thiệt hại về tính mạng sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, như: ảnh hưởng đặc biệt xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng đặc biệt xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho rất nhiều người trên một địa bàn rộng. Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

Khoản 3 Điều 142 Bộ luật hình sự năm 1999 cũng là tội phạm nghiêm trọng nhưng mức độ nghiêm trọng cao hơn khoản 2 của điều luật vì có mức cao nhất của khung hình phạt là bảy năm tù, đối với người phạm tội dưới 16 tuổi cũng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

 Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội sử dụng trái phép tài sản theo khoản 3 Điều 142 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu các tình tiết khác như nhau thì mức hình phạt đối với người phạm tội phụ thuộc vào những yếu tố sau:

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có ít hoặc không có tình tiết tăng nặng;

– Người phạm tội không có tình tiết giảm nhẹ phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ được phạt nhẹ hơn người có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Tài sản bị sử dụng trái phép càng có giá trị cao, hình phạt càng nặng;

– Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt ( dưới ba năm tù) nhưng không được dưới hai năm tù. Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo, nhưng phải hết sức hạn chế.

  1. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội sử dụng trái tài sản

Ngoài hình phạt chính, người phạm tội sử dụng trái phép tài sản còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến hai mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

PGS.TS. NGUYỄN QUỐC SỬU – Học viện Hành chính Quốc gia

 
BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015
Điều 1. Bảo vệ quyền dân sự thông qua cơ quan có thẩm quyền

1. Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân.

Trường hợp quyền dân sự bị xâm phạm hoặc có tranh chấp thì việc bảo vệ quyền được thực hiện theo pháp luật tố tụng tại Tòa án hoặc trọng tài.

Việc bảo vệ quyền dân sự theo thủ tục hành chính được thực hiện trong trường hợp luật quy định. Quyết định giải quyết vụ việc theo thủ tục hành chính có thể được xem xét lại tại Tòa án.

2. Tòa án không được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng; trong trường hợp này, quy định tại Điều 5 và Điều 6 của Bộ luật này được áp dụng.

Điều 2. Hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền

Khi giải quyết yêu cầu bảo vệ quyền dân sự, Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền.

Trường hợp quyết định cá biệt bị hủy thì quyền dân sự bị xâm phạm được khôi phục và có thể được bảo vệ bằng các phương thức quy định tại Điều 11 của Bộ luật này.

CIVILLAWINFOR – Cập nhật

Trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong bảo vệ quyền dân sự là một trong mười vấn đề trọng tâm cần lấy ý kiến nhân dân theo Quyết định số 01/QĐ-TTg ngày 02-01-2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân đối với Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi).

Nội dung trên được quy định trong Dự thảo lần 4, tại “Điều 19. Bảo vệ quyền dân sự thông qua cơ quan có thẩm quyền”. Tiền đề của quy định này là Điều 9 trong Bộ luật Dân sự năm 2005; song quy định tại đó có tính nguyên tắc không đặt ra trách nhiệm cụ thể của cơ quan có thẩm quyền trong trường hợp quyền dân sự của cá nhân, tổ chức bị xâm phạm, bị tranh chấp.

Một yếu tố khác, Khoản 2 Điều 19 Dự thảo lần 4 quy định tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có luật quy định. Trong trường hợp này, tập quán, áp dụng tương tự pháp luật, án lệ và lẽ công bằng là các phương thức được dùng để giải quyết. Một quy định mới luôn kèm theo những phản hồi mới, từ đối tượng điều chỉnh lẫn những người thi hành pháp luật.

Trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, tổ chức

Cá nhân, tổ chức trong trường hợp phát sinh tranh chấp, bị xâm phạm quyền dân sự bởi chủ thể khác, có thể dùng hai phương thức bảo vệ sau: tự mình bảo vệ hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ (Điều 16 Dự thảo lần 4). Trong trường hợp yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ thì được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 19 Dự thảo lần 4, như sau:

“1. Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác có trách nhiệm bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân.

Trường hợp quyền dân sự bị vi phạm hoặc có tranh chấp thì việc bảo vệ quyền được thực hiện theo pháp luật tố tụng tại Tòa án hoặc trọng tài.

Việc bảo vệ quyền dân sự theo thủ tục hành chính được thực hiện trong những trường hợp luật định. Quyết định giải quyết vụ việc theo thủ tục hành chính có thể được xem xét lại tại Tòa án”.

Các cơ quan có thẩm quyền bao gồm: tòa án, trọng tài và cơ quan hành chính. Cũng theo quy định này, quyết định giải quyết vụ việc theo thủ tục hành chính có thể được xem xét lại tại tòa án. Như vậy, tòa án sẽ là cơ quan có thẩm quyền chung quyết định trong việc bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, tổ chức. Xét về các chủ thể gây tranh chấp, vi phạm các quyền dân sự có thể là cá nhân, tổ chức và cơ quan hành chính. Các tranh chấp, vi phạm nếu đến từ cơ quan hành chính sẽ tạo ra hai nghi vấn sau: (1) Là các tranh chấp, vi phạm mà có một bên chủ thể chính là người có trách nhiệm bảo vệ quyền dân sự. Vậy giới hạn của nó, để không trở thành sự hạn chế quyền trong hoạt động bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, tổ chức. (2) Các vi phạm của cơ quan hành chính thông qua các quyết định hành chính, hành vi hành chính sẽ trở thành đối tượng của luật tố tụng hành chính.

Hoạt động của tòa án ở Việt Nam xét từ góc độ thẩm quyền trong bảo vệ quyền dân sự, gồm: (1) Xét xử các tranh chấp, vi phạm quyền dân sự của các cá nhân, tổ chức (khoản 1 Điều 19 và Điều 20 Dự thảo lần 4); (2) Phát hiện và kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền thay đổi các quyết định, hành vi công vụ nhằm bảo vệ quyền lợi của cá nhân, tổ chức và bảo vệ nền pháp lý (khoản 7 Điều 2 Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014).

Để thực hiện hoạt động thứ nhất, khoản 1 Điều 19 Dự thảo lần 4 trao cho tòa án các thẩm quyền: bảo vệ quyền dân sự bằng con đường tố tụng tại tòa án và xem xét lại quyết định giải quyết vụ việc theo thủ tục hành chính; khi giải quyết yêu cầu bảo vệ quyền dân sự, tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác có quyền hủy bỏ quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó (Điều 20 Dự thảo lần 4).

Để thực hiện hoạt động thứ hai, thông qua quá trình xét xử, tòa án phát hiện và kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; yêu cầu cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm trả lời tòa án kết quả xử lý văn bản pháp luật bị kiến nghị theo quy định của pháp luật làm cơ sở để tòa án giải quyết vụ án (khoản 7 Điều 2 Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014).

Hoạt động của trọng tài thông qua thẩm quyền giải quyết các tranh chấp, gồm: (1) tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; (2) tranh chấp giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; (3) tranh chấp giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài. (Điều 2 Luật Trọng tài thương mại năm 2010).

Phán quyết của trọng tài là chung thẩm. Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại tòa án thì tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, hoặc thỏa thuận trọng tài thông qua việc lựa chọn một tòa án để giải quyết.

Việc xác định cơ quan thi hành quyết định trọng tài được quy định tại Điều 8 Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Cụ thể:

– Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài là Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng tài ra phán quyết;

– Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng trọng tài là Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh nơi biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng.

Việc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp được quy định tại Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Cụ thể:

– Đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp;

– Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn; nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng trọng tài cho là phù hợp nhất;

– Trường hợp pháp luật Việt Nam, pháp luật do các bên lựa chọn không có quy định cụ thể liên quan đến nội dung tranh chấp thì Hội đồng trọng tài áp dụng tập quán quốc tế để giải quyết tranh chấp nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc của pháp luật Việt Nam.

Hoạt động của cơ quan hành chính

Dạng thức không hành động: Nghĩa vụ này đòi hỏi các cơ quan hành chính phải tôn trọng quyền dân sự của cá nhân, tổ chức, nghĩa là kiềm chế sự can thiệp, kể cả trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc hưởng thụ những quyền này của các chủ thể. Đây còn được gọi là dạng thức nghĩa vụ thụ động. Điều này không đòi hỏi các cơ quan hành chính phải chủ động đưa ra sáng kiến, biện pháp hay chương trình nhằm hỗ trợ cá nhân, tổ chức trong việc hưởng dụng quyền.

Dạng thức cung cấp cơ sở bảo vệ quyền: Nghĩa vụ này đòi hỏi cơ quan hành chính phải có những giải pháp bảo đảm cho cá nhân, tổ chức được hưởng thụ đầy đủ quyền của mình. Đây là một dạng thức nghĩa vụ chủ động, nó luôn đòi hỏi Nhà nước phải cải tiến phương thức nhằm giúp cho công dân được hưởng thụ ở mức cao nhất có thể các quyền dân sự. Cụ thể, xác nhận quyền dân sự của cá nhân, cơ quan, tổ chức thông qua quyết định hành chính, hành vi hành chính (gọi chung là thủ tục hành chính). Hoạt động này cung cấp các bảo đảm pháp lý cho các quyền, là cơ sở để cá nhân, tổ chức bảo vệ quyền của mình khi xảy ra tranh chấp, xâm phạm.

Dạng thức ngăn chặn các tranh chấp, vi phạm giữa các chủ thể: Nghĩa vụ này đòi hỏi cơ quan hành chính phải ngăn chặn sự vi phạm các quyền dân sự của cá nhân, tổ chức bởi bên thứ ba. Đây cũng là dạng thức của nghĩa vụ chủ động. Để thực hiện trách nhiệm này, cơ quan hành chính phải chủ động đưa ra những biện pháp và xây dựng những cơ chế phòng ngừa, xử lý những vi phạm. Khoản 2 Điều 16 Dự thảo lần 4 cung cấp những phương thức rất cụ thể trong trường hợp này. Đó là: Cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm:

– Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền của cá nhân, tổ chức; Buộc bên thứ ba chấm dứt hành vi vi phạm; Buộc bên thứ ba xin lỗi, cải chính công khai; Buộc bên thứ ba thực hiện nghĩa vụ; Buộc bên thứ ba bồi thường thiệt hại; Hủy bỏ các quyết định cá biệt xâm phạm quyền của cá nhân, tổ chức.

Các trường hợp cơ quan có thẩm quyền được phép hạn chế thực hiện quyền

Về nguyên tắc, trách nhiệm bảo đảm quyền dân sự của các cơ quan có thẩm quyền là liên tục. Tuy nhiên, thông lệ của quốc tế cho rằng, trong một số tình huống đe dọa đến an ninh của quốc gia thì các cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng một số biện pháp hạn chế quyền của cá nhân, tổ chức, song phải đáp ứng những điều kiện nhất định và lập tức phải dỡ bỏ việc hạn chế ngay lập tức khi sự đe dọa an ninh quốc gia không còn nữa. Thực chất, các biện pháp trên là sự tạm đình chỉ một số quyền dân sự. Những biện pháp đó cụ thể gồm: thiết quân luật (có thể trên toàn quốc hoặc cấp địa phương), hạn chế một số quyền sở hữu đối với một số tài sản, cấm đi lại, xuất, nhập cảnh,…

Dưới cách tiếp cận chung của các quyền dân sự – chính trị, luật quốc tế đòi hỏi những trường hợp hạn chế quyền chỉ được thực hiện trong những tình thế sau:

Một là, các biện pháp áp dụng thực sự xuất phát từ tình huống khẩn cấp, do tình hình bắt buộc để vãn hồi nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia. Ủy ban quyền con người của Liên hợp quốc đã đưa ra hướng dẫn dùng để xác định tính hợp lý của tuyên bố về tình trạng khẩn cấp quốc gia. Nó chỉ bao gồm tình huống: xảy ra thảm họa thiên tai, bạo động hoặc tình trạng chiến tranh.

Hai là, các biện pháp áp dụng không được trái với những nghĩa vụ khác xuất phát từ luật pháp, thông lệ quốc tế. Nó không được diễn ra dựa trên căn nguyên của phân biệt chủng tộc, tôn giáo hoặc nguồn gốc xã hội.

Ba là, kể cả trong tình trạng khẩn cấp, các cơ quan có thẩm quyền cũng không được đình chỉ hay vi phạm về “các quyền không thể bị hạn chế”. Cụ thể như: quyền không bị bỏ tù chỉ vì lý do không hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng, quyền không bị áp dụng hồi tố trong tố tụng hình sự, không được hình sự hóa các quan hệ dân sự, quyền được công nhận là thể nhân trước pháp luật, quyền tự do tư tưởng.

Bốn là, khi áp dụng các biện pháp này cần phải đặt ra những giới hạn rõ ràng về việc áp dụng. Đó là, chỉ những quyền thỏa đáng mới được áp dụng, đối tượng cần áp dụng và thời hạn áp dụng. Đồng thời, cần thiết phải công khai trước cộng đồng quốc gia và quốc tế.

Một số trường hợp được giới hạn các quyền dân sự

Giới hạn áp dụng một số quyền dân sự là quy định chung được ghi nhận trong một số điều ước quốc tế về quyền con người, cho phép các quốc gia thành viên áp đặt một số điều kiện đối với việc hưởng thụ quyền của cá nhân, tổ chức. Đương nhiên, việc giới hạn này cũng cần phải đáp ứng những nguyên tắc nhất định và có những loại quyền không thể bị giới hạn bởi bất cứ lý do gì. Các nguyên tắc để có thể đặt ra giới hạn, bao gồm:

Thứ nhất, những giới hạn đó phải được quy định trong pháp luật quốc gia. Yêu cầu này nhằm để tránh sự tùy tiện trong việc giới hạn quyền của các cơ quan có thẩm quyền. Đặc biệt với cơ quan hành chính, vừa là chủ thể bảo vệ quyền, vừa là chủ thể có khả năng xâm phạm quyền lớn nhất. Đối với tòa án, là cơ quan chung thẩm trong phán quyết về tranh chấp, xâm phạm trong các vụ việc dân sự thì giới hạn nằm trong chính quy trình tố tụng được thực hiện bởi tòa án. Với mục đích các thủ tục tố tụng không đặt ra các giới hạn, ngoại lệ của việc thực hiện quyền dân sự của cá nhân, tổ chức.

Thứ hai, những giới hạn đặt ra không được trái với bản chất của các quyền có liên quan. Yêu cầu này nhằm bảo đảm những giới hạn đặt ra không làm tổn hại đến khả năng của các cá nhân có liên quan trong việc hưởng thụ các quyền đó. Do bản chất phức tạp của đời sống dân sự nên việc đánh giá một quyền có thể bị giới hạn hay không là một công việc khó khăn, nên nó cần thiết phải được đặt trong những bối cảnh cụ thể.

Thứ ba, việc đặt ra giới hạn quyền luôn phải đánh giá sự cần thiết của nó nhằm mục đích duy nhất là để thúc đẩy phúc lợi chung của cộng đồng. Do đó, việc giới hạn chỉ nên đặt ra để: bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ quyền lợi của những chủ thể khác, bảo vệ sự an toàn của cộng đồng, bảo vệ sức khỏe hoặc đạo đức của cộng đồng.

Một số quyền dân sự cụ thể có thể đặt ra các giới hạn áp dụng như:

– Quyền tự do đi lại, cư trú, xuất nhập cảnh; Quyền được xét xử công khai; Quyền tự do ngôn luận; Quyền sở hữu một số loại tài sản; Quyền kết hôn./.

SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN ĐIỆN TỬ

Trích dẫn từ: http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen/2015/32943/Bao-ve-quyen-dan-su-thong-qua-co-quan-co-tham-quyen.aspx

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

_Tham gia xây dựng pháp luật: Đại biểu Quốc hội có quyền trình dự án luật, kiến nghị về luật trước Quốc hội, dự án pháp lệnh trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

_Tham dự kì họp:

+Đại biểu Quốc hội có nhiệm vụ phải tham gia kì họp Quốc hội, thảo luận và biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội.

+Đại biểu Quốc hội là thành viên của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội có trách nhiệm tham gia các phiên họp, thảo luận biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền han của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội.

+Đại biểu Quốc hội kiêm nhiệm được dành ít nhất 1/3 thời gian làm việc để làm đại biểu.

+Đại biểu Quốc hội có quyền tham dự kì họp của HĐND các cấp nơi mình được bầu, có quyền phát biểu ý kiến nhưng không có quyền được biểu quyết. Chủ tịch HĐND các cấp thông báo cho đại biểu Quốc hội biết thời gian họp, chương trình họp và mời đại biểu tới dự.

_Hoạt động chất vấn:

+Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao, Tổng kiểm toán nhà nước.

+Trong thời gian Quốc hội họp, đại biểu Quốc hội ghi rõ nội dung chất vấn và người bị chất vấn vào phiếu ghi chất vấn và gửi đến Chủ tịch Quốc hội chuyển đến người bị chất vấn. trong trường hợp Quốc hội không họp thì được gửi tới Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

_Hoạt động tiếp xúc cử tri:

+Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thường xuyên tiếp xúc với cử tri, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của cử tri; thu thập, phản ánh trung thực ý kiến, đề nghị của cử tri với Quốc hội và các cơ quan nhà nước.

+Mỗi năm một lần đại biểu Quốc hội phải báo cáo công tác của mình với cử tri…

_Hoạt động giám sát: Đại biểu Quốc hội có quyền kiến nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.

_Tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo: Khi nhận được đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân, đại biểu Quốc hội có trách nhiệm nghiên cứu, chuyển đến các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền để giải quyết.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Sau gần nửa năm được xin lỗi công khai, ông Nén gửi đơn đến các cơ quan chức năng yêu cầu bồi thường 18 tỷ đồng cho hai bản án giết người bị oan.
Ngày 10/4, ông Nguyễn Thận – người được ông Huỳnh Văn Nén ủy quyền – cho biết, sau thời gian dài tính toán gia đình ông Nén vừa gửi đơn lên Cục bồi thường Nhà nước – Bộ Tư pháp, yêu cầu bồi thường oan sai trong hai bản án kết tội giết bà Dương Thị Mỹ (năm 1993 còn gọi là “kỳ án vườn điều”) và vụ sát hại bà Lê Thị Bông (năm 1998 tại xã Tân Minh) huyện Hàm Tân, Bình Thuận.

 

Ông Nén đòi bồi thường tổng cộng 18 tỷ đồng cho các khoản: bị bắt giam oan, tổn thất tinh thần, chi phí kêu oan… “Để đảm bảo cho quá trình thương lượng với các cơ quan chức năng, hiện gia đình chưa thể tiết lộ chi tiết từng khoản yêu cầu”, ông Thận nói.

Còn ông Nén cho hay, sáng mai sẽ đến TAND tỉnh Bình Thuận để gửi đơn yêu cầu bồi thường.

Ông Nén là người duy nhất trong lịch sử tố tụng Việt Nam mang 2 án oan về tội Giết người. Tháng 4/1998, ông Nén bị cho là dùng đoạn dây thừng làm hung khí giết bà Lê Thị Bông cướp chiếc nhẫn. Hơn 2 năm sau TAND tỉnh Bình Thuận xử sơ thẩm, tuyên phạt ông Nén tù chung thân về tội Giết người, 3 năm tội Cướp tài sản và 2 năm về tội Cố ý hủy hoại tài sản. Tổng hợp hình phạt là tù chung thân.

Trong thời gian bị điều tra vụ án này, ông Nén và 9 người bên vợ bị cáo buộc giết bà Dương Thị Mỹ trong “kỳ án vườn điều” xảy ra 5 năm trước. Sau 12 năm cơ quan điều tra không buộc tội được các bị can, không tìm ra hung thủ, gia đình ông Nén được minh oan, bồi thường gần một tỷ đồng. Riêng ông Nén không được giải quyết vì đang thi hành bản án chung thân vì bị cho là giết bà Bông, cướp nhẫn vàng.

Gần 17 năm ngồi tù, cuối năm 2015, Công an tỉnh Bình Thuận đình chỉ điều tra đối với ông Nén sau khi tìm ra hung thủ giết bà Bông. Không lâu sau ông được TAND tỉnh công khai xin lỗi tại địa phương.

Ngay khi được minh oan, ông viết đơn gửi VKSND Tối cao đề nghị xử lý hình sự 14 cán bộ trong ngành công an, VKS, TAND tỉnh Bình Thuận gây oan sai cho ông và 9 thành viên trong gia đình vợ. Ông Nén chỉ rõ điều tra viên, thủ trưởng cơ quan điều tra ký kết luận điều tra, kiểm sát viên, lãnh đạo VKS ký cáo trạng, thẩm phán xét xử cấp sơ thẩm.

Hôm 8/4, cơ quan điều tra của VKSND Tối cao đã đến thị trấn Tân Minh, Hàm Tân, Bình Thuận làm việc với ông Huỳnh Văn Truyện (cha Huỳnh Văn Nén) và 8 người trong gia đình vợ ông Nén – những người bị kết án oan trong “kỳ án vườn điều”. Họ cũng làm việc với anh Nguyễn Phúc Thành – người có đơn từ trong trại giam tố cáo hung thủ giết bà Bông chứ không phải ông Nén.

Trước đó, cơ quan điều tra cũng làm việc với ông Nén nhưng sau đó ông bị tai nạn giao thông do tự ngã xe, phải điều trị nên chưa thể làm việc lại.

>> Xem thêm:Ngày vui mừng của ông Huỳnh Văn Nén

Hải Duyên – Phước Tuấn

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI CHIẾM GIỮ TRÁI PHÉP TÀI SẢN (ĐIỀU 141)

Chiếm giữ trái phép tài sản là hành vi cố tình không trả lại tài sản cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc cho cơ quan có trách nhiệm về tài sản do bị giao nhầm, do tìm được, bắt được sau khi đã có yêu cầu nhận lại tài sản đó.

Tội chiếm giữ trái phép tài sản quy định tại Điều 141 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm được nhập từ từ tội chiếm giữ trái phép tài sản của công dân quy định tại Điều 159 và tội chiếm giữ trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1985. So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 141 Bộ luật hình sự năm 1999 nói chung nặng hơn quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về tội phạm này. Điều 141 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định mới hơn, đặc biệt trong cấu thành cơ bản, nhà làm luật quy định giá trị tài sản bị chiếm giữ trái phép làm ranh giới giữa hành vi được coi là tội phạm với hành vi không coi là tội phạm, đồng thời quy định một số loại tài sản là cổ vật hoặc có giá trị lịch sử, văn hoá là đối tượng phạm tội mà không cần xác định giá trị của tài sản đó. Hình phạt bổ sung cũng được quy định ngay trong điều luật.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

  1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm

Đối với tội chiếm giữ trái phép tài sản, chủ thể của tội phạm cũng tương tự như đối với tội xâm phạm sở hữu khác. Tuy nhiên, người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì tội phạm này có hai khoản nhưng không có trường hợp nào quy định là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

  1. Các dấu hiệu về khách thể của tội phạm

Khách thể của tội chiếm giữ trái phép tài sản cũng tương tự như các tội có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội chiếm giữ trái phép tài sản, không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đây cũng là một điểm khác với các tội có tính chất chiếm đoạt như cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội chiếm giữ trái phép tài sản nhà làm luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt. Vì vậy, nếu sau khi đã chiếm giữ được tài sản, người phạm tội bị đòi lại tài sản mà có hành vi dũng vũ lực, gây chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

  1. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan

Trước hết, người phạm tội có được tài sản là do bị giao nhầm, do mình tìm được hoặc bắt được (nhặt được).

Trong trường hợp bị giao nhầm, cần xác định người phạm tội hoàn toàn không có thủ đoạn nào để bên giao tài sản tưởng nhầm mà giao tài sản cho mình, nếu người phạm tội có thủ đoạn gian dối để bên giao tài sản nhầm mà giao tài sản cho mình thì không phải là bị giao nhầm mà là lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Trường hợp tìm được tài sản, trong một số trường hợp cần xác định tài sản mà người phạm tội tìm được là việc tìm kiếm trái phép, nếu việc tìm kiếm đó được phép hoặc Nhà nước không cấm thì tài sản tìm được thuộc quyền sở hữu của người tìm được. Ví dụ: Đào được vàng trong bãi đào vàng Nhà nước không quản lý hoặc người đào vàng đã được cấp giấy phép.

Bắt được (nhặt được) tài sản là trường hợp nhặt được của rơi, theo quan điểm truyền thống đạo đức thì nhặt được của rơi nên trả lại cho người bị mất là người thật thà, được xã hội coi đó là hành vi đẹp. Tuy nhiên bên cạnh đó lại có nhiều người theo quan điểm “cá vào ao ai người đó được” nên mỗi khi nhặt được của rơi thường buộc người bị mất phải “chuộc” và những người bị mất tài sản coi việc chuộc lại tài sản là phải đạo vì dù sao thì tài sản cũng đã bị mất rồi. Bộ luật hình sự quy định hành vi bắt được tài sản phải trả lại cho chủ sở hữu nếu cố tình không trả là hành vi phạm tội cũng là để giáo dục mọi người phát huy truyền thống đạo đức không tham lam nếu tài sản đó không do sức lao động của mình làm ra. atuy nhiên, pháp luật cũng chỉ quy định bắt được tài sản có giá trị nhất định (từ 50.000.000 đồng trở lên) mà cố tình không trả lại cho chủ sở hữu thì mới là hành vi tội phạm.

Không trả lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp là hành vi cố tình giữ tài sản do bị giao nhầm, do tìm được hoặc bắt được khi đã có yêu cầu của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. Có thể người phạm tội thừa nhận tìm được, bắt được nhưng cho rằng tài sản đó thuộc sở hữu của mình, nhưng cũng có thể không thừa nhận là mình đã được giao nhầm, đã tìm được hoặc bắt được, nhất là trường hợp được giao nhầm.

Yêu cầu nhận lại tài sản bị giao nhầm, do người phạm tội tìm được hoặc bắt được là yêu cầu của chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản. Nếu chưa có yêu cầu nhận lại tài sản hoặc  yêu cầu đó không phải của chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản thì chưa cấu thành tội phạm tội này.

Hậu quả

Hậu quả của tội phạm này là tài sản bị giao nhầm, bị mất, bị rơi không thu hồi được. Tuy nhiên, nếu là tài sản bình thường không phải là cổ vật, vật có giá trị lịch sử, văn hoá thì phải có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên thì mới cấu thành tội phạm này.

Nếu tài sản là cổ vật, vật có giá trị lịch sử, văn hoá thì không cần phải có giá trị từ 50.000.000 đồng vẫn bị coi là tội phạm

Theo quy định của Luật di sản văn hoá được Quốc hội thông qua ngày 29-6-2001 và Chủ tịch nước công bố ngày 12-7-20001, thì cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hoá, khoa học, có từ một trăm năm trở lên. Tuy nhiên, Luật này không quy định thế nào là vật có giá trị lịch sử, văn hoá, mà chỉ quy định di sản văn hoá vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, bao gồm di tích lịch sử – văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Căn cứ vào quy định này, ngoài danh lam thắng cảnh không là đối tượng chiếm hữu trái phép được thì di tích lịch sử – văn hoá, di vật, bảo vật quốc gia đều được coi là vật có giá trị lịch sử văn hoá.

Theo quy dịnh của Luật về di sản thì, di tích lịch sử – văn hoá là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm có giá trị lịch sử văn hoá, khoa học; di vật là vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử văn hoá, khoa học; bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hoá, khoa học.

Cổ vật, vật có giá trị lịch sử, văn hoá là vật được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định đó là cổ vật, là vật có giá trị lịch sử văn hoá. Nói chung trong những trường hợp này, các cơ quan tiến hành tố tụng cần trưng cầu giám định.

  1. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm

Cũng như đối với tội có tính chất chiếm đoạt, tội chiếm giữ trái phép tài sản cũng được thực hiện do cố ý. Mục đích của người phạm tội là mong muốn giữ bằng được tài sản do bị giao nhầm, tìm được hoặc bắt được. Ngoài mục đích này, người phạm tội không có mục đích nào khác và mục đích này cũng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Phạm tội chiếm giữ trái phép tài sản không có các tình tiết định khung hình phạt

Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 141 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội chiếm giữ trái phép tài sản. So với tội chiếm giữ trái phép tài sản quy định tại Điều 159, khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1985, nếu chỉ tính về hình phạt thì khoản 1 Điều 141 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn khoản 1 Điều 136 và Điều 159. Vì vậy, đối với hành vi chiếm giữ trái phép tài sản  xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau ngày 4-1-2000 (ngày Chủ tịch nước công bố Bộ luật hình sự năm 1999), mới phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì không được áp dụng khoản 1 Điều 141 Bộ luật hình sự năm 1999, mà phải áp dụng Điều 159 hoặc khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.

Tuy nhiên, nếu căn cứ vào các tình tiết định tội, thì khoản 1 Điều 142 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1985 vì khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định giá trị tài sản bị chiếm giữ trái phép, nhưng đó là dấu hiệu định tội nên không có ý nghĩa trong việc so sánh để áp dụng Bộ luật hình sự năm 1999 hay Bộ luật hình sự năm 1985.

Khi áp dụng khoản 1 Điều 141 Bộ luật hình sự cần chú ý một số điểm sau:

Đối với tài sản bị giao nhầm, cần có các tài liệu chứng minh đúng là có việc giao nhầm tài sản, thông thường trong những trường hợp này người phạm tội không thừa nhận có việc được giao nhầm tài sản. Vì vậy, cần phải có bằng chứng , chứng minh có việc giao nhầm tài sản, đồng thời người đã có hành vi giao nhầm tài sản phải thông báo cho người được giao nhầm tài sản biết. Nếu còn có nghi ngờ về việc có hay không có việc giao nhầm thì chưa cấu thành tội phạm này.

Đối với tài sản là cổ vật, là vật có giá trị lịch sử văn hoá, ngoài việc xác định tài sản đó là cổ vật, vật có giá trị lịch sử văn hoá thì các cơ quan tiến hành tố tụng còn phải xác định xem đã có yêu cầu của người có trách nhiệm quản lý tài sản đó hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đã có thông báo yêu cầu người phạm tội phải trả lại tài sản đó chưa, cùng với việc ra thông báo các cơ quan có thẩm quyền cần giáo dục động viên người chiếm giữ trái phép cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử văn hoá giao vật đó cho cơ quan có thẩm quyền, chỉ khi nào người chiếm giữ cổ vật, vật có giá trị lịch sử văn hoá cố tình không giao nộp cổ vật, vật có giá trị lịch sử văn hoá cho cơ quan, tổ chức thì mới coi là tội phạm.

Giá trị tài sản từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng là giá thị trường tự do vào thời điểm thực hiện hành vi phạm tội (từ khi người phạm tội cố tình không trả lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp).

Khoản 1 Điều 141 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm ít nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là hai năm tù, nên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

 Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội chiếm giữ trái phép tài sản theo khoản 1 Điều 141 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu các tình tiết khác như nhau thì mức hình phạt đối với người phạm tội phụ thuộc vào những yếu tố sau:

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có ít hoặc không có tình tiết tăng nặng;

– Người phạm tội không có tình tiết giảm nhẹ phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ được phạt nhẹ hơn người có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Tài sản bị chiếm giữ trái phép càng có giá trị cao, hình phạt càng nặng;

– Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ phải đúng quy định tại Điều 31 Bộ luật hình sự về loại hình phạt này. Nếu không đủ điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo hoặc áp dụng mức thấp nhất của khung hình phạt ( ba tháng tù). Nếu người phạm tội đáng được khoan hồng nhưng chưa tới mức được miến trách nhiệm hình sự thì cũng có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với họ.

  1. Chiếm giữ trái phép tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 141 Bộ luật hình sự

Chiếm giữ trái phép tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng trở lên

Trường hợp phạm tội này không có gì đặc biệt, chỉ cần xác định tài sản bị chiếm giữ trái phép có giá trị từ hai trăm triệu đồng trở lên là thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 141 Bộ luật hình sự. Việc xác định giá trị tài sản bị chiếm giữ trái phép cũng tương tự như trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật.   

Chiếm giữ trái phép cổ vật, vật có giá trị lịch sử, văn hoá có giá trị đặc biệt

Trường hợp phạm tội này chỉ khác khoản 1 của điều luât là cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hoá không phải là cổ vật hoặc vật có giái trị lịch sử văn hoá bình thường mà nó có giá trị đặc biệt. Giá trị đặc biệt ở đây không phải là giá trị tính ra được bằng tiền mà nó có giá trị đặc biệt về truyền thống văn hoá, về lịch sử của đất nước, của dân tộc. Việc xác định cổ vật nào; vật có giá trị lịch sử, văn hoá nào là vật có giá trị đặc biệt phải có cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định, trong trường hợp này nhất thiết phải có giám định của cơ quan chuyên môn.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 141 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ một năm đến năm năm, là tội phạm nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:

Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới một năm tù) nhưng không được dưới ba tháng tù hoặc chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ. Nếu không chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ mà người phạm tội có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể được Toà án cho hưởng án treo. Nói chung, đường lối xét xử đối với người phạm tội chiếm giữ  trái phép tài sản chủ yếu lấy giáo dục là chính, chỉ nên áp dụng hình phạt tù đối với những trường hợp nghiêm trọng.

 Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

 – Người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 141 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 140 Bộ luật hình sự;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Tài sản bị chiếm giữ trái phép càng có giá trị cao, hình phạt càng nặng và ngược lại.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

GS.TS. NGUYỄN TIẾN DŨNG

Khái niệm “trí thức” xuất phát từ vụ án Dreyfus nổi tiếng ở Pháp cách đây hơn một thế kỷ (1894-1906), trong đó sĩ quan Dreyfus bị kết án phản quốc bằng các chứng cứ giả.

Dreyfus được những người có tư tưởng tiến bộ, tiêu biểu như Emile Zola, Anatole France, George Clémenceau tập hợp thành lực lượng đông đảo đấu tranh đòi lại công lý cho ông ta, chống lại sự vùi dập, xuyên tạc sự thật, lừa dối công chúng của những kẻ nắm quyền hành. Cuối cùng, Dreyfus được trắng án và khôi phục danh dự sau 12 năm. Từ sau vụ án Dreyfus, đã không ít lần tương tự các nhà trí thức tập hợp lại với nhau để đưa ra các “tuyên ngôn của trí thức” về các vấn đề nóng bỏng của xã hội. Các tuyên ngôn đó nói chung có tính chất tiến bộ và khai sáng. Một ví dụ gần đây là “Tuyên ngôn của các trí thức Tunisia” vào năm 2012, chống lại các xu hướng nguy hiểm có nguy cơ xảy ra ở Tunisia như là chủ nghĩa dân tộc cực đoan và tôn giáo hoá chính quyền.

Có những người dùng từ “trí thức” theo nghĩa hạn hẹp, khắt khe, coi rằng người trí thức phải là nhà tư tưởng lớn tiên phong với những tác phẩm triết lý lớn để đời. Khi giáo sư sử học James Kloppenberg ở Harvard gọi Barack Obama là “nhà trí thức thực sự, Tổng thống triết gia” thì bị một học giả nổi tiếng khác là giáo sư quan hệ quốc tế Barry Rubin ở Israel phản đối dữ dội. Lý do mà Rubin đưa ra là Obama không thật uyên thâm về lịch sử, triết học hay luật pháp, không viết được công trình lý thuyết lớn nào như là những bậc tiền bối John Adams, Thomas Jefferson và James Davidson. Nếu hiểu kiểu khắt khe như vậy thì số lượng người trí thức rất ít và không tạo thành một tầng lớp trong xã hội.

Để tránh cãi nhau một cách vô ích xem “ai là trí thức”, chúng ta có thể coi khái niệm “trí thức” là một khái niệm tương đối, thay vì tuyệt đối, tương tự như “giàu” và “nghèo” là những khái niệm tương đối. Như vậy, một người có thể là trí thức trong mắt người này nhưng chưa đạt mức trí thức trong mắt người khác.

Chúng ta cũng có thể coi những người có mức độ trí thức cao thì tạo thành tầng lớp trí thức ưu tú trong xã hội. Theo nhà kinh tế Friedrich August von Hayek (1899-1992), tầng lớp trí thức không chỉ gồm những nhà tư tưởng tiên phong, mà còn là tầng lớp trung gian giữa các nhà tư tưởng tiên phong và đại chúng, với vai trò “dẫn dắt đại chúng”, truyền đạt lại các tri thức, giác ngộ từ những nhà tiên phong đến đại chúng.



Sĩ quan Alfred Dreyfus bị kết án phản quốc bằng các chứng cứ giả.



Nhà văn Pháp Emile Zola cũng đấu tranh đòi công lý cho Alfred Dreyfus. Sự việc này đã được đưa vào bộ phim “Cuộc đời Emile Zola” (năm 1937). Ảnh: Cảnh nhà văn Emile Zola lên tiếng trong phiên tòa xử Dreyfus.

 

Thế nào là có mức độ trí thức cao?

Nói theo kiểu tâm lý học, một người càng có trí tuệ cao, tình cảm cao (đồng cảm với nỗi khổ của nhân loại) và quyết tâm cao thì mức độ trí thức càng cao. Thiếu một trong ba vế đó thì mức độ trí thức bị giảm đi. Không có quyết tâm thì chỉ là “trí ngủ”, thiếu tình cảm thì có thể thành quỷ dữ như Hitler, còn thiếu trí tuệ thì là nhiệt tình cộng với ngu dốt dễ dẫn đến phá hoại.

Có nhiều khi từ “trí thức” bị dùng với nghĩa xấu. Ngay trong vụ án Dreyfus, ban đầu từ “trí thức” được phe chống Dreyfus dùng một cách mỉa mai để chỉ những người ủng hộ Dreyfus như là những kẻ “hám danh, rách việc, kém hiểu biết thực tế nhưng lại thích chõ miệng vào việc không phải của mình”. Bản thân giới “có học” và tự nhận mình là “trí thức” cũng mắc một số căn bệnh khiến từ “trí thức” bị mang nghĩa xấu. Những căn bệnh phổ biến nhất là: thừa lý thuyết thiếu thực hành, thừa học vấn thiếu trách nhiệm, tự cao tự đại. Ở Việt Nam từ thời phong kiến có câu thơ: “Ai ơi chớ lấy học trò, dài lưng tốn vải ăn no lại nằm”. Ngay ở Hà Lan ngày nay, từ “trí thức” hay bị hiểu là “học quá nhiều và có những quan điểm không thực tế về thế giới”. Ở Cộng hoà Séc, từ “trí thức” cũng được dùng để chỉ những người lắm triết lý viển vông xa vời thực tế. Tuy nhiên, người ta không thể phủ nhận rằng cố Tổng thống Vaclav Havel là một biểu tượng của nhà trí thức lớn đem lại thay đổi tốt đẹp cho xã hội Séc.

Có một số học giả coi rằng không có một tầng lớp trí thức chung của xã hội, mà mỗi giai cấp trong xã hội có đội ngũ trí thức riêng của giai cấp đó để phục vụ giai cấp đó. (Xem phân tích về các quan niệm về giới trí thức trong bài báo: Kurzman và Owens, The sociology of intellectuals, Annu. Rev. Sociol. 2002, No. 28: 63-90). Ví dụ như giai cấp vô sản có trí thức vô sản, giai cấp tư sản có trí thức tư sản, phe cánh tả có trí thức cánh tả, cánh hữu có trí thức cánh hữu. Tuy rằng việc phân loại này có thể còn đúng một phần nào đó, nhưng trong xã hội hiện đại ngày nay, sự khác biệt giữa một người “trí thức cao” và một người “kém trí thức” lớn hơn nhiều so với sự khác biệt giữa một người “trí thức cánh tả” và một người “trí thức cánh hữu”. Nếu là những người có “mức độ trí thức cao” thì dù theo “trường phái nào” cũng dễ gần nhau và dễ hợp tác với nhau vì lợi ích chung của xã hội.

Tất cả các hiểu biết của chúng ta về thế giới ngày nay (ví dụ như di truyền học hay vật lý lượng tử), tất cả các tư tưởng lớn (ví dụ như bình đẳng chủng tộc, giải phóng nô lệ, dân chủ và tự chủ ở các cấp) và các tiến bộ xã hội đều có công khám phá và truyền bá của các trí thức. Các nhà lãnh đạo lý tưởng của một đất nước và của toàn thế giới phải là những trí thức thực sự. Ngay từ thời phong kiến, người ta cũng đã nhận ra tầm quan trọng của tri thức trong lãnh đạo, qua việc tuyển quan bằng các kỳ thi. Đất nước nào, xã hội nào có tầng lớp trí thức càng mạnh và có chính quyền càng trí thức thì càng dễ phát triển, tiến bộ.
Làm sao để phát triển và phát huy vai trò của tầng lớp trí thức?

Ở đây, tôi chỉ xin nêu ra một số điểm khá hiển nhiên: 1) Nhận thức về sự kém cỏi của mình (hay là của giới trí thức của đất nước mình) để từ đó quyết tâm vươn lên; 2) Tăng đầu tư và tạo điều kiện cho sự phát triển của trí thức; 3) Cải thiện hệ thống giáo dục.

Nhận thức về sự kém cỏi của mình

Dễ thấy rằng, so với thế giới, trí thức Việt Nam của chúng ta còn yếu. Tuy trong lịch sử của dân tộc có một số trí thức lớn như là Nguyễn Trãi hay Nguyễn Du, nhưng nhìn tổng thể thì đóng góp của Việt Nam cho toàn thế giới trong lịch sử còn rất khiêm tốn so với các nước khác. Còn nhìn vào thực trạng hiện nay, có thể thấy đóng góp của giới trí thức nước ta lại càng hạn chế, có lẽ trước hết bởi sự học hành không đến nơi đến chốn, tưởng là biết tuy rằng chưa biết, thêm vào đó là cách làm việc cẩu thả. Điều đó thể hiện điển hình nhất qua những đóng góp về dịch thuật. Có một lượng lớn các tác phẩm hay bằng tiếng nước ngoài, khi được dịch sang tiếng Việt bị sai rất nhiều, thậm chí đến mức làm sai hoàn toàn ý của tác giả. Cách đây ít hôm, tôi được đọc bản dịch tiếng Việt in ra vào cuối năm 2015 của cuốn sách “Xứ Đông Dương” (L’Indo-chine) của Paul Doumer (từng là Toàn quyền Đông Dương trong 5 năm, rồi về sau trở thành Tổng thống Pháp) viết năm 1905. Có thể nói ông Doumer là một người uyên bác, xuất thân từ một gia đình “vô sản” nhưng được hưởng nền giáo dục khai sáng của Pháp, và quyển sách của ông về Đông Dương là một tài liệu lịch sử quý báu mà có lẽ nhà sử học hay văn hoá học về Việt Nam nào cũng đều cần biết. Chỉ tiếc rằng, bản dịch tiếng Việt năm 2015 của nó bị sai một cách thô thiển, hầu như trang nào cũng sai, và chứa nhiều câu đọc tiếng Việt đã thấy ngớ ngẩn vô nghĩa chưa cần đối chiếu với bản gốc tiếng Pháp. Ai mà đọc và hiểu theo bản dịch này thì sẽ bị hiểu sai hết ý của Doumer và hiểu sai lịch sử. Và sách của Doumer không phải là sách duy nhất bị rơi vào tình trạng như vậy. Rất nhiều sách triết học, mỹ học, văn học, v.v. có bản gốc tiếng nước ngoài đang tồn tại ở Việt Nam bị dịch sai, và như vậy người Việt Nam chúng ta đã bị hiểu sai rất nhiều thứ, khiến cho mức độ tri thức và trí thức bị giảm đi.

Đầu tư cho chất xám và trí thức

Sự đầu tư kém cỏi cho các công việc trí óc là một nguyên nhân quan trọng dẫn tới hạn chế chất lượng các sản phẩm tri thức, mà tình trạng sách dịch bị sai rất nhiều trên đây cũng là một ví dụ điển hình. So với thế giới, giá ô tô hay nhà cửa ở Việt Nam cao gấp mấy lần, nhưng giá của sách lại chỉ bằng một phần mấy, đã thế vẫn ít người mua, sách bán được ít tiền, người viết sách hay dịch sách đều chỉ nhận được rất ít thù lao, và do đó chất lượng của sách viết hay sách dịch cũng bị tồi tương xứng.

Trong khi đó, chỉ cần nhìn sang Trung Quốc và các nước láng giềng khác cũng đủ thấy những nơi khác họ coi trọng trí thức hơn như thế nào, trả công xứng đáng hơn cho những người hoạt động trí óc ra sao, và kết quả là họ phát triển nhanh hơn, trở nên văn minh hơn chúng ta như thế nào. Trong lần đi công tác ở Trung Quốc vào tháng 1/2016, tôi thật sự ấn tượng về sự tiến bộ, không chỉ về kinh tế, mà còn về văn hoá của họ. Người Trung Quốc vốn mang tiếng ở bẩn và ồn ào, nói oang oang, nhưng ở những quán tôi vào ăn ở Trung Quốc đầu năm 2016 lại thấy họ nói nhỏ nhẹ không khác gì phương Tây – những quán tôi vào ở Hà Nội cuối năm 2015 mới là oang oang. Còn về sự ở bẩn, lạ thay, các nơi công cộng ở những thành phố như Thiên Tân và Trường Xuân của Trung Quốc mà tôi đến dịp đầu năm vừa rồi lại rất sạch sẽ và an toàn. Sự tiến bộ trên của Trung Quốc chắc chắn gắn liền với sự coi trọng giáo dục và trí thức, là những yếu tố đã làm cho con người và xã hội trở nên văn minh hơn.

Theo truyền thống hiếu học và tôn trọng giáo viên vẫn được giữ cho đến ngày nay, các trí thức ở Trung Quốc còn được coi trọng hơn cả ở phương Tây. Đặc biệt, các giáo sư ở Trung Quốc có thu nhập cao hơn là bác sĩ hay luật sư. Ngay cả các giảng viên trẻ ở Trung Quốc mà tôi gặp cũng có thu nhập tốt, có tiền để đi công tác nước ngoài thoải mái, có xe hơi riêng, chứ không chật vật như ở Việt Nam. Một buổi tối, họ dẫn tôi vào một quán KTV (karaoke) lịch sự, và ở đó họ hát đủ các thứ nhạc Trung, Nga, Anh, v.v., một chi tiết nhỏ nhưng chứng tỏ họ rất có tinh thần hoà nhập với thế giới về văn hoá.

Vấn đề cải thiện giáo dục

Nước Pháp có tội xâm lược Việt Nam, nhưng có công truyền bá vào Việt Nam một nền giáo dục khai phóng. Chính vì được hưởng một nền giáo dục khai phóng nên Việt Nam có được một tầng lớp trí thức ưu tú vào đầu thế kỷ 20 tham gia vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Chúng ta cần phát huy truyền thống giáo dục khai phóng này, đổi mới giáo dục theo hướng đó, thay vì giáo dục theo lối gò bó, hình thức, giáo điều.

Có một số tín hiệu tốt trong giáo dục của Việt Nam gần đây, xuất phát từ các nỗ lực của những trí thức không nằm trong “hệ thống giáo dục” rồi được Bộ Giáo dục chấp nhận và ủng hộ, như là chương trình “sách hóa trường học” của Nguyễn Quang Thạch (đông đảo học sinh sẽ có được văn hoá đọc, sẽ biết đến không chỉ sách giáo khoa mà còn chủ động đọc nhiều sách khác, tự nâng cao hiểu biết qua việc đọc sách) hay “liên minh STEM” (cách học sinh động tích hợp khoa học – công nghệ – kỹ thuật – toán học với nhiều thực hành thú vị) của nhiều nhóm tư nhân làm giáo dục (như là DTT, Long Minh, Sputnik Education, v.v.) hợp thành. Đây là những đóng góp quan trọng góp phần thay đổi nền giáo dục theo chiều hướng tích cực, sẽ góp phần nâng cao nền tảng văn hoá của Việt Nam, và hệ quả là tầng lớp trí thức tương lai nhờ đó mà mạnh lên.

Chúng ta có thể hy vọng rằng, với nền giáo dục trên thế giới ngày càng tốt lên, tầng lớp trí thức cũng sẽ ngày càng mạnh lên, và toàn thể thế giới sẽ ngày càng văn minh lên. Khi mức độ trí thức của xã hội càng cao lên, thì xã hội càng có nhiều yếu tố “xã hội chủ nghĩa” (giống như tiên đoán của Marx, hay của Schumpeter, hay của một số nhà triết học hay kinh tế khác, nhưng theo con đường và vì các lý do không hẳn giống như là Marx hay Schumpeter đưa ra). Như Einstein có nói, “thế giới này là của chung”. Những gì quan trọng nhất đều là “trời cho”, và tự do mưu cầu hạnh phúc không có nghĩa là vơ vét của chung thành của riêng, không có nghĩa là chiến tranh để tranh giành quyền lực. Một viễn tưởng “utopia” về một “xã hội đại đồng” cũng có thể đến một ngày nào đó khi mà toàn trái đất này sẽ đạt được mức độ trí thức đủ cao.
SOURCE: TẠP CHÍ TIA SÁNG ĐIỆN TỬ
Trích dẫn từ:
http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&CategoryID=42&News=9403

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN (ĐIỀU 136)

Điều văn của điều luật không mô tả hành vi cướp giất tài sản được thực hiện như thế nào, nhưng căn cứ vào lý luận và thực tiễn xét xử thì cướp giật tài sản là hành vi công khai, nhanh chóng giật lấy tài sản trong tay người khác hoặc đang trong sự quản lý của người có trách nhiệm về tài sản rồi tẩu thoát mà không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực hoặc bất cứ một thủ đoạn nào nhằm uy hiếp tinh thần của người quản lý tài sản. Vì vậy, có thể định nghĩa tội cướp giật tài sản như sau:

Cướp giật tài sản là nhanh chóng giật lấy tài sản của người khác một cách công khai rồi tìm cách tẩu thoát.

Đặc điểm nổi bật của tội cướp giật tài sản là người phạm tội lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản để nhanh chóng giật lấy tài sản mà người quản lý khó có thể giữ được hoặc giằng lại được. Cũng chính vì vậy, tài sản mà người phạm tội cướp giật chỉ có thể là loại tài sản gọn nhẹ như: Đồng hồ, dây chuyền vàng, hoa tai, túi xách… Tuy nhiên cũng có một số trường hợp người phạm tội cướp giật cả những tài sản kồng kềng như xe đạp, xe máy, vì sau khi người phạm tội giật được tài sản lại dùng ngay những tài sản mà mình giật được làm phương tiện tẩu thoát. Yếu tố bất ngờ trong tội cướp giất tài sản cũng là một dấu hiệu đặc trưng của tội phạm.

Tính chất công khai, trắng trợn của hành vi cướp giật tài sản thể hiện ở chỗ người phạm tội không giấu diếm hành vi phạm tội của mình, trước, trong hoặc ngay sau khi bị mất tài sản người bị hại biết ngay người giật tài sản của mình.

Tội cướp giật tài sản quy định tại Điều 136 Bộ luật hình sự là tội phạm đã được quy định tại Điều 131 và  Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1985. So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều sửa đổi bổ sung, nhất là đối với các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, quy định cụ thể hơn, dễ áp dụng hơn.

Tội cướp giật tài sản quy định tại Điều 136 Bộ luật hình sự nói chung có khung hình phạt nặng hơn tội cướp giật tài sản của công dân quy định tại Điều 154 và nhẹ hơn tội cướp giật tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 131 Bộ luật hình sự năm 1985.

Về cơ cấu, tội cướp giật tài sản quy định tại Điều 136 Bộ luật hình sự được cấu tạo thành 5 khoản ( Điều 131 và 154 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội này chỉ có 3 khoản ).

Nhà làm luật quy định thêm nhiều tình tiết là yếu tố định khung hình phạt  mà Điều 131 và Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định, như gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; giá trị tài sản; gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng…

Hình phạt bổ sung cũng được quy định ngay trong điều luật.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

  1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm

Đối với tội cướp giật tài sản, chủ thể của tội phạm cũng tương tự như đối với tội xâm phạm sở hữu khác. Tuy nhiên, người phạm tội từ dủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cướp giật tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự, vì khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự là tội phạm nghiêm trọng và theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; khoản 1 Điều 136 chỉ là tội phạm nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là năm năm tù.

Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội cướp giật tài sản cần chú ý độ tuổi của người phạm tội và các tình tiết định khung hình phạt. Nếu người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 136 Bộ luật hình sự thì chỉ cần xác định người phạm tội đủ 14 tuổi là đã phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng nếu người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự thì người phạm tội phải đủ 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự.

  1. Các dấu hiệu về khách thể của tội phạm

Khách thể của tội cướp giật tài sản cũng tương tự như tội cướp tài sản và tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tức là  cùng một lúc xâm phạm đến hai khách thể ( quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân), nhưng chủ yếu là quan hệ tài sản. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay nhiều vụ cướp giật tài sản đã gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ của người bị hại như các vụ cướp giật của người đang điều khiển xe đạp, xe máy làm cho những người này ngã xe gây tai nạn. Mặc dù những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ không phải là đối tượng mà người phạm tội nhằm vào, nhưng trước khi thực hiện hành vi cướp giật, người phạm tội nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi và hậu quả nguy hiểm của hành vi nhưng vẫn thực hiện, muốn ra sao thì ra. Cũng chính vì vậy Bộ luật hình sự năm 1999 khi quy định tội cướp giật tài sản đã đưa vào trong cấu thành dấu hiệu về thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ và coi đây là những tình tiết định khung hình phạt.

Khẳng định khách thể của tội cướp giật tài sản là quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân không chỉ đúng với lý luận mà còn phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trong tình hình hiện nay.

  1. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan

Điều luật không mô tả hành vi khách quan của tội cướp giật tài sản, nhưng căn cứ vào khái niệm, vào các yếu tố cấu thành tội cướp giật tài sản thì người phạm tội cướp giật tài sản có những hành vi sau:

Giật tài sản

Có thể nói, đặc trưng của tội cướp giật tài sản là hành vi giật, tức là giằng mạnh lấy tài sản về mình một cách nhanh chóng ( ngay tức khắc). Chính vì hành vi giật tài sản đã bao gồm bản chất của tội cướp giật nên nhà làm luật không mô tả hành vi khách quan của tội cướp giật trong cấu thành cũng là điều dễ hiểu. Cũng tương tự như vậy, nhiều tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự nhà làm luật không mô tả hành vi khách quan của cấu thành như tội giết người, tội trộm cắp tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản… nhưng chúng ta dễ nhận thấy bản chất của hành vi phạm tội.

Thông thương, hành vi giật tài sản một cách nhanh chóng đã tạo ra yếu tố bất ngờ đối với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm về tài sản ( người đang quản lý tài sản ) làm cho những người này không có khả năng giữ được tài sản đang quản lý. Ví dụ: A nhìn thấy chị B đeo chiếc đồng hồ loại đắt tiền đang điều khiển xe máy, nên A cho xe của mình vượt lên đồng thời bất ngờ giật chiếc đồng hồ của chị B rồi phóng xe bỏ chạy; chị B chỉ còn biết kêu cướp ! cướp ! Hành vi của A được thực hiện một cách nhanh chóng bất ngờ làm cho chị B không kịp trở tay.

Tuy nhiên, trong một số trường hợp người phạm tội muốn tạo ra yếu tố bất ngờ đối với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản nhưng thủ đoạn phạm tội không làm cho chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản bị bất ngờ nên người phạm tội không thực hiện được hành vi giật tài sản. Ví dụ: B và C bàn bạc dùng xe máy để cướp giật tài sản của người đi trên đường. Khi nhìn thấy chị H đang đi xe máy phía trước, trong giỏ xe có để chiếc túi xách, B bảo C tăng tốc và áp sát xe vào xe của chị H để B ngồi sau giật túi xách; qua gương phản chiếu, chị H phát hiện được thủ đoạn của B và C nên chị đã lấy túi xách ở giỏ xe đeo vào người và tăng tốc không cho B và C đuổi kịp, nhưng B và C vẫn cố tình đuổi theo nhằm giật bằng được chiếc túi xách của chị H. Khi chúng đuổi kịp chị H, B ngồi sau xe định dùng tay giật chiếc túi xách của chị H thì bị chị H dừng xe và hô cướp ! cướp ! Thấy vậy, B và C vội phóng xe tẩu thoát nhưng bị bắt.

Thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp lúc đầu người phạm tội chỉ có ý định giật tài sản nhưng trong quá trinh thực hiện hành vi giật bị chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản chống cự giữ lấy hoặc giằng lại tài sản, nên người phạm tội đã có hành vi dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực để chiếm đoạt bằng được tài sản thì hành vi phạm tội của người phạm tội không còn là hành vi cướp giật tài sản nữa mà hành vi này đã là hành vi cướp tài sản. Khoa học pháp lý coi trường hợp phạm tội này là sự chuyển hoá từ tội này sang tội khác. Ví dụ: Bùi Văn T  chở Trần Quang H bẵng xe DreamII trên đường Lò Đúc – Hà Nội, H nhìn thấy chị L đi xe đạp đằng trước, trong giỏ xe có một túi xách, H bảo T áp sát xe máy vào xe đạp của chị L để H giật túi xách. Khi H thò tay giật túi xách thì bị chị L túm được tay và hô cướp ! cướp ! nên H đã đấm vào mắt chị L một quả làm chị L bị choáng phải buông tay H ra, H lấy túi xách cùng T phóng xe tẩu thoát. Chị L đã trình bào với Công an và tả đặc điểm của hai tên đã cướp túi xách của chị nên hai ngày sau Công an quận Hai Bà Trưng đã bắ được Bùi Văn T và Trần Quang H.

Hành vi giật tài sản của người phạm tội được thực hiện một cách công khai, tức là không có ý thức che giấu hành vi của mình đối với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản và những người khác. Đây cũng là một đặc trưng để phân biệt với những trường hợp phạm tội khác như hành vi trộm cắp, lừa đảo chiếm đoạt tài sản không có tính công khai, trắng trợn. Ví dụ: Vũ Ngọc A là tên đã có nhiều tiền án, tiền sự, chuyên trộm cắp ở nơi đông người. Tối ngày 1-5-2001, A đến trước rạp Xiếc Hà Nội, vì là ngày lễ, nên mọi người xếp hàng mua vé vào xem xiếc rất đông, chen lấn nhau trước cửa bán vé. Lợi dụng lúc mọi người chen lấn, không chú ý đến tài sản, A đã khéo léo bật khoá dây đồng hồ của anh Hoàng Quốc D đang đeo trên tay làm đồng hồ của anh D rơi xuống đất để A nhặt. Khi đồng hồ bị rơi, mặc dù đang bị chen lấn nhưng anh D vẫn phát hiện được hành vi của A nên đã túm được tay A và lấy lại được đồng hồ. Khi thảo luận về vụ án này, nhiều ý kiến cho rằng A phạm tội cướp giật tài sản vì đang có hành vi công khai trắng trợn gỡ đồng hồ trên tay anh D trong lúc anh D không để ý vì đang bị chen lấn. Tuy nhiên, ý kiến này không phản ảnh đúng ý thức chủ quan cũng như hành vi khách quan của A. Bởi lẽ,  A chỉ lợi dụng chỗ đông người đang chen lấn nhau để thực hiện hành vi phạm tội mà A cho rằng không bị phát hiện, A không có có ý định cho chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản biết được hành vi phạm tội của mình. Khi thực hành vi, A cũng cho rằng anh D không biết bị gỡ đồng hồ và trong hoàn cảnh này nếu anh A có phát hiện được bị rơi đồng hồ thì cũng chi nghĩ rằng do chen lấn nên đồng hồ bật ra chứ không thể cho rằng bị người khác gỡ. Đối với anh D và đối với mọi người A đều có ý thức giấu diếm hành vi của mình, nên hành vi của A chỉ là hành vi trộm cắp tài sản chức không phải là cướp giật tài sản.

Tính chất công khai của hành vi cướp giật tài sản là công khai với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản là bị giật chứ không phải công khai với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản về thân phận của người phạm tội. Vì vậy, nếu người phạm tội thực hiện hành vi vào ban đêm hay có những thủ đoạn làm cho chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản không nhận được mặt như đeo mặt nạ, hoá trang… thì hành vi phạm tội vẫn là hành vi cướp giật.

Để thực hiện hành vi giật tài sản, người phạm tội có thể sử dụng nhiều thủ đoạn khác nhau như: lợi dụng chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản không chú ý bất ngờ giật lấy tài sản, lợi dụng chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản đang bị vướng mắc hoặc đang điều khiển phương tiện giao thông để giật tài sản… Trong các thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng, có những thủ đoạn nếu không xem xét một cách toàn diện sẽ dễ bị nhầm lẫn với các tội phạm khác gần kề như tội cướp tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc với cả tội trộm cắp tài sản. Thủ đoạn phạm tội cướp giật tài sản cũng chính là dấu hiệu đặc trưng để phân biệt tội cướp giật tài sản với các tội phạm khác gần kề. Các thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng dễ nhầm với hành vi phạm tội khác thường là:

– Dùng thủ đoạn chen lấn, xô đẩy người giữ tài sản để người này không chú ý đến tài sản nên A mới giật được tài sản rồi tẩu thoát, nếu chỉ căn cứ vào một vài hành vi tác động đến thân thể sở hữu chủ thì có thể nhầm với hành vi phạm tội cướp tài sản, thực chất trờng hợp này A chỉ dùng thủ đoạn để cướp giật mà không có ý định đương đầu với sở hữu chủ;

– Lợi dụng chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản vướng mắc, không có khả năng đuổi bắt hoặc giằng giật lại tài sản để chiếm đoạt tài sản như: Lợi dụng người bán hàng xén đang bán hàng cho khách, người phạm tội đã lấy một thứ hàng trong rạp hàng rồi bỏ chạy, trường hợp phạm tội này dễ nhầm với hành vi cong nhiên chiếm đoạt tài sản;

– Người phạm tội có thể dùng thủ đoạn có vẻ như đe doạ chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản như: Giả làm cán bộ quản lý thị trường đến kiểm tra hàng rồi bất thần giật tài sản hoặc tạo điều kiện cho đồng phạm khác giật tài sản rồi tẩu thoát, trường hợp phạm tội này dễ nhầm với hành vi cưỡng đoạt tài sản;

– Người phạm tội cũng có thể dùng thủ đoạn gian dối để tiếp cận gần chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản rồi giật tài sản của họ như: Giả vờ đổi mật gấu lấy nhẫn, khi người có nhẫn tháo nhẫn để trong lòng bàn tay cho người phạm tội xem, lợi dụng người có nhẫn không để ý, người phạm tội đã lấy nhẫn rồi bỏ chạy, trường hợp phạm tội này dễ nhầm với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản;

– Người phạm tội cũng có thể dùng thủ đoạn lén lút để tiếp cập chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản rồi bất ngờ giật tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản như: Bí mật đột nhập từ phía sau chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản đang ngồi nghỉ trên một chiếc ghế trong Công viên, rồi bất thần giật chiếc hoa tai của người này rồi bỏ chạy, trường hợp này dễ nhầm với hành vi trộm cắp tài sản.

Vấn đề đặt ra là, chạy trốn có phải là dấu hiệu bắt buộc của tội cướp giật tài sản không ? Đây là vấn đề về lý luận cũng nhưng thực tiễn còn có những quan điểm khác nhau:

– Quan điểm thứ nhất cho rằng, đặc điểm của tội cướp giật tài sản là người phạm tội hành động trong thế yếu, nếu không bỏ chạy thì sẽ bị bắt ngay, nên dấu hiệu chạy trốn phải là dấu hiệu bắt buộc, nếu người phạm tội không tẩu thoát thì không cấu thành tội cướp giật.

– Quan điểm thứ hai lại cho rằng, chạy trốn là một đặc trưng của hành vi phạm tội cướp tài sản nhưng nó không phải là dấu hiệu bắt buộc, vì thực tiễn xét xử cho thấy nhiều trường hợp người phạm tội sau khi giật được tài sản đã không chạy trốn mà có thể đứng tại chỗ hoặc bỏ đi một cách bình thường nhưng người bị hại không thể đuổi bắt hoặc giằng lại tài sản. Ví dụ: Trong đám đông, A đã giật chiếc đồng hồ của B, sau khi giật được đồng, A liền đưa cho đồng bọn của mình là C giấu vào túi quần, B nhìn thấy A giật đồng hồ của mình, nhưng A lại chối ngay rằng B vu oan cho mình vì B không thấy A còn giữ đồng hồ.

Như vậy, chạy trốn chỉ là một đặc trưng của tội cướp giật tài sản chứ không phải là dấu hiệu bắt buộc, người phạm tội có chạy trốn hay không cồng phải tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể, nếu như trong hoàn cảnh nhất định người phạm tội thấy không cần phải chạy trốn mà vẫn không bị bắt thì họ không cần phải chạy trốn vẫn không bị lộ tung tích của mình.

Hậu quả

Hậu quả của tội cướp giật tài sản trước hết là những thiệt hại về tài sản, ngoài ra còn có những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ hoặc những thiệt hại khác. mặc dù điều văn của điều luật không quy định, nhưng về lý luận tội cướp giật tài sản  là tội phạm có cấu thành vật chất, do đó, chỉ khi nào người phạm tội giật được tài sản thì tội phạm mới hoàn thành, nếu có hành giật nhưng chưa giật được tài sản thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Tội cướp giật tài sản là tội phạm nghiêm trọng nên nhà làm luật không quy định mức tài sản bị chiếm đoạt là dấu hiệu cấu thành tội phạm như đối với các tội khác như tội trộm cắp, tội công nhiên chiếm đoạt, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản… Do đó người phạm tội cướp giật tài sản có giá trị lớn hay chỉ có giá trị rất nhỏ ( hoa tai giả, dây chuyền giả) vần là phạm tội cướp giật tài sản. Tuy nhiên, nếu chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn thì thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của Điều 136 tuỳ theo giá trị tài sản bị chiếm đoạt.

Các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ hoặc các thiệt hại khác là những dấu hiệu định khung tăng nặng của tội cướp giật tài sản. Ví dụ: Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% thì thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, từ 31% đến 60%  thuộc trường hợp quy định tại khoản 3, từ 61% trở lên thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 của Điều 136 Bộ luật hình sự.

  1. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm

Cũng như đối với tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sảnvà tội cưỡng đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản cũng được thực hiện do cố ý. Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản.

Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi giật tài sản, khác với các tội cướp, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc tội cưỡng đoạt tài sản, người phạm tội cướp giật tài sản không thể có mục đích chiếm đoạt tài sản trong hoặc sau khi thực hiện hành vi giật tài sản, vì hành vi giật tài sản đã bao hàm mục đích chiếm đoạt.

Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc để xác định tội danh. Tuy nhiên, ngoài mục đích chiếm đoạt, người phạm tội còn có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hoặc chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp giật tài sản. Ví dụ: Nguyễn Hùng C, là học sinh lớp 12 có thù với anh Vũ Thị H vì C cho rằng H nói xấu C, nên C đã bàn với Đào Văn T giật dây chuyền “bạch kim” của H. C đã chỉ mặt H và cho T biết quy luật đi về của H để  T thực hiện hành vi giật dây chuyền của H. Sau khi giật được dây chuyền của H, C và T bán lấy tiền chia nhau.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Phạm tội cướp giật tài sản không có các tình tiết định khung hình phạt

Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội cướp giật tài sản. So với tội cướp giật tài sản của công dân quy định tại Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn khoản 1 Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng không nặng hơn và cũng không nhẹ hơn khoản 1 Điều 131 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội cướp giật tài sản xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, đối với hành vi phạm tội cướp giật tài sản của công dân xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau ngày 4-1-2000 ( ngày Chủ tịch nước công bố Bộ luật hình sự năm 1999), mới phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì không được áp dụng khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999; đối với hành vi cướp giật tài sản xã hội chủ nghĩa xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000  mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện, xử lý thì cũng không được áp dụng Điều 136 Bộ luật hình sự 1999 để điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội mà phải áp dụng Điều 131 Bộ luật hình sự năm 1985, vì theo khoản 1 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 thì điều luật được áp dụng đối với hành vi phạm tội là điều luật đang có hiệu lực thi hành tại thời điểm mà hành vi phạm tội được thực hiện, nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 7. Tuy nhiên, tại mục 4 Thông tư liên tịch số 02/2000 TTLT của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an đã hướng dẫn: “Đối với những Tội phạm đã được quy định trong một điều luật của Bộ luật hình sự năm 1985, nay theo cách so sánh tại các điểm từ điểm b1 đến điẻm b6 Mục 2 và tại các điểm từ điểm d1 đến điểm d6 Mục 3 Thông tư này mà vẫn giữ nguyên trong điều luật tương ứng của Bộ luật hình sự 1999, thì áp dụng điều luật của Bộ luật hình sự năm 1999 để truy cứu trách nhiệm hình sự. Hướng dẫn này không đúng với quy định tại khoản 1 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999, đề nghị các cơ quan ban hành Thông tư này cần sửa đổi để phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999.

Khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là năm năm tù.  Theo quy định tại điểm d Mục 3 Nghị quyết 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội, thì không xử lý về hình sự đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đến bảy năm tù; nếu vụ án đang được điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trong trường hợp người đó đã bị kết án và đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; nếu người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án, thì được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt và tại điểm b Mục 3 Nghị quyết 229/2000/NQ-UBTVQH10 ngày 28-1-2000 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội  quy định: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu Bộ luật hình sự năm 1999 quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 7 năm tù đối với tội phạm mà người đó thực hiện” thì  thuộc trường hợp được áp dụng điểm d Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội. Theo các Nghị quyết trên, thì người phạm tội cướp giật tài sản của công dân xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 được áp dụng điểm d Mục 3 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội cướp giật tài sản theo khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu các tình tiết khác như nhau thì mức hình phạt đối với người phạm tội phụ thuộc vào những yếu tố sau:

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có ít hoặc không có tình tiết tăng nặng;

– Người phạm tội không có tình tiết giảm nhẹ phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ được phạt nhẹ hơn người có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội chiếm đoạt được tài sản phải bị phạt nặng hơn người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản; tài sản bị chiếm đoạt càng nhiều, hình phạt càng nặng;

– Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt có thể được áp dụng dưới mức một năm tù hoặc được chuyển sang loại hình phạt khác nhẹ hơn; nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì cũng có thể được hưởng án treo;

 – Nếu người phạm tội đã thực hiện hành vi giật tài sản nhưng vì những lý do khác nhau nên chưa chiếm đoạt được tài sản thì coi là trường hợp phạm tội chưa đạt và người phạm tội sẽ được áp dụng các quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt ( hình phạt cao nhất đối với người phạm tội cướp giật tài sản theo khoản 1 Điều 136 là không quá 3/4 của năm năm);

– Nếu mới chuẩn bị phạm tội đã bị bắt và thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp giật tài sản, vì theo quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự thì người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự ( khoản 1 Điều 136 chỉ là tội phạm nghiêm trọng ).

  1. Cướp giật tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự

Cướp giật tài sản có tổ chức

Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, cướp giật tài sản có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ cướp giật tài sản có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên mà tuỳ từng trường hợp cụ thể có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm  tội có tổ chức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên phạm tội cướp giật tài sản có tổ chức cũng có những đắc điểm riêng như:

Người thực hành trong vụ cướp giật tài sản là người trực tiếp thực hiện hành vi giật tài sản từ chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. Thực tiễn xét xử có những trường hợp dễ nhầm lẫn giữa người giúp sức với người thực hành. Ví dụ: A dùng xe máy chở B để B giật tài sản của người bị hại, trong trường hợp này A không phải là người thực hành mà chỉ là người giúp sức.

Cướp giật tài sản có tính chất chuyên nghiệp

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp quy định trong Bộ luật hình sự, tức là người phạm tội lấy việc cướp giật tài sản là phương tiện sinh sống chính của mình. Nói chung, cướp giật tài sản có tính chất chuyên nghiệp thường được thực hiện có tổ chức. Tuy nhiên cũng có trường hợp chỉ một hoặc hai người chuyên cướp giật tài sản nhưng chỉ là trường hợp đồng phạm thông thường.

Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp nói chung, phạm tội cướp giật tài sản nói riêng, nhất thiết người thực hành phải thực hiện hành vi giật tài sản nhiều lần, nhưng không phải cứ thực hiện hành vi giật tài sản nhiều lần đều là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, mà phải xem xét việc thực hiện tội phạm của họ có thật sự là phương tiện sống hay không. Nếu phạm tội nhiều lần nhưng họ không lấy việc phạm tội là lẽ sống thì không coi là có tính chất chuyên nghiệp mà chỉ là trường hợp phạm tội nhiều lần ( tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự). Nếu người phạm tội tuy có lấy việc phạm tội là phương tiện sống, nhưng chỉ cướp giật tài sản một lần còn những lần phạm tội khác không phải là cướp giật tài sản thì cũng không phải là cướp giật tài sản có tính chất chuyên nghiệp là tình tiết định khung hình phạt mà chỉ là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm b khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự

Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm

Trường hợp phạm tội này lại hoàn toàn giống với tất cả những trường hợp tái phạm nguy hiểm khác, chỉ cần xác định người phạm tội có đủ các dấu hiệu quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Đây là tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội, không phụ thuộc vào hành vi phạm tội cụ thể của tội phạm này hay tội phạm khác.

Dùng thủ đoạn nguy hiểm

Dùng thủ đoạn nguy hiểm để thực hiện hành vi cướp giật tài sản là trường hợp người phạm tội đã có những thủ đoạn gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của nạn nhân như: Dùng xe máy giật đồng hồ của người đang điều khiển xe máy hoặc xe đạp, hoặc người ngồi sau xe máy hoặc xe đạp làm cho nạn nhân bị ngã; giật tài sản của người đang đứng ở mạn thuyền, đang đi trên cầu Khỉ ( một loại  cầu ở Nam Bộ) làm cho nạn nhân ngã xuống sông…

Hành hung để tẩu thoát

Đây là trường hợp sau khi đã giật được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt hoặc đã bị bắt đã có hành vi dùng vũ lực đối với chủ sở hữu hoặc những người khác, nhưng hành vi dùng vũ lực chưa gây ra thương tích hoặc nếu đã gây ra thương tích thì tỷ lệ thương tật chưa đến 11%, nếu tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên, thì tuỳ thuộc vào mức tỷ lệ thương tật, mà người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 136 Bộ luật hình sự.

Khi xác định trường hợp phạm tội này, cần phân biệt với người phạm tội hành hung không nhằm mục đích tẩu thoát mà nhằm giữ bằng được tài sản. Nếu người phạm tội sau khi đã giật được tài sản, bị đuổi bắt hoặc đã bị bắt nhưng cố tình giữ tài sản bằng cách hành hung người khác thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản. Trường hợp này, khoa học luật hình sự gọi là chuyển hoá từ tội cướp giật sang tội cướp tài sản (đầu giật đuôi cướp). Ví dụ: sau khi giật được chiếc đồng hồ của anh Trần Quốc T, Nguyễn Văn H bỏ chạy bị anh T và mọi người đuổi kịp bắt được H; anh T thấy H đang cầm chiếc đồng hồ vừa giật được trong tay, anh T nói: “mày có đưa chiếc đồng hồ cho tao thì bảo” H thấy vậy liền rút dao trong người ra doạ: “đứa nào vào đây tao đâm chết”. Thấy H có dao, nên mọi người sợ phải để hắn tẩu thoát. Một tháng sau H bị bắt khi đang thực hiện hành vi giất tài sản của người khác. Thực tiễn xét xử cho thấy việc phân biệt giữa cướp giật có tình tiết hành hung để tẩu thoát với trường hợp chuyển hoá từ cướp giật sang tội cướp tài sản trong một số trường hợp không dễ, vì mục đích của người phạm tội không phải bao giờ cũng được thể hiện ra bằng hành vi, nhiều trường hợp người phạm tội che giấu mục đích của mình để được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên chỉ thừa nhận hành hung để tẩu thoát để tẩu thoát chứ không nhận hành hung để chiếm đoạt bằng được tài sản. Vì vậy, khi xác định người phạm tội hành hung để tẩu toát hay để chiếm đoạt bằng được tài sản phải căn cứ vào tất cả các tình tiết của vụ án, thời gian, không gian xảy ra sự việc, đặc điểm của tài sản bị chiếm đoạt. Theo nguyên tắc suy đoán vô tội, nếu còn băn khoăn không xác định rõ người phạm tội hành hung để giữ bằng được tài sản thì cũng không nên xác định hành vi của họ đã chuyển hoá từ tội cướp giật sang tội cướp tài sản.

Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%

Đây là trường hợp không chỉ do thực hiện hành vi giật tài sản mà gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của chủ sở hứu hoặc người quản lý tài sản, mà bao gồm cả trường hợp sau khi giật được tài sản, người phạm tội có hành vi hành hung để tẩu thoát nên đã gây ra thương tích hoặc tổn hại đến sức khoẻ của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản hoặc của người khác ( người đuổi bắt).

Thương tích hoặc tổn hại đến sức khoẻ của nạn nhân phải có tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%, nếu tỷ lệ thương tật của nạn nhân dưới 11% thì không thuộc trường hợp phạm tội quy định tại điểm e khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự, mà tuỳ trường hợp, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự ( nếu dùng thủ đoạn nguy hiểm) hoặc theo điểm đ khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự (nếu hành hung để tẩu thoát)

Việc xác định tỷ lệ thương tật là thuộc trách nhiệm của Hội đồng giám định pháp y hoặc của Hội đồng giám định y khoa hoặc của giám định viên, nếu nơi nào không có tổ chức giám định pháp y hoặc y khoa hay không có giám định viên, thì căn cứ vào bảng tiêu chẩn thương tật được ban hành kèm theo Thông tư liên Bộ số 12/TTLB ngày 26-7-1995 của Bộ Y tế và Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội để  xác định tỷ lệ thương tật của nạn nhân.

 

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng

Đây là trường hợp người phạm tội cướp giật tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng. Việc xác định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá).

Mặc dù điều luật chỉ quy định chiếm đoạt tài sản nhưng không vì thế mà cho rằng, người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản trị giá từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng mới thuộc trường hợp phạm tội này, mà chỉ cần xác định người phạm tội có ý định cướp giật tài sản có giá trị như trên là dã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm g khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc.

Cướp giật tài sản gây hậu quả nghiêm trọng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm g khoản 2 Điều 133; điểm i khoản 2 Điều 134; điểm đ khoản 2 Điều 135 chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này hậu quả nghiêm trọng là do hành vi phạm tội cướp giật tài sản gây ra. Cũng như các trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, phi vật chất do hành vi cướp giật gây ra. Nói chung, hậu quả nghiêm trọng do hành vi  cướp giật tài sản gây ra phải tương đương với các tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự, vì nó được quy định trong cùng một khung hình phạt với các tình tiết này.

Cướp giật tài sản gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp do hành vi phạm tội cướp giật tài sản nên đã gây ra những thiệt hại khác ngoài những thiệt hại đã được quy định là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt. Những thiệt hại này gọi chung là “hậu quả nghiêm trọng”. Căn cứ vào các quy định tại Điều 136 Bộ luật hình sự, qua thực tiến xét xử, có thể coi những thiệt hại sau là hậu quả nghiêm trọng do hành vi phạm tội cướp giật tài sản gây ra:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 11%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 11% đến 30%;

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, nhưng không phải là giá trị tài sản người phạm tội cướp giật;

– Ngoài những thiệt hại về sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi cưỡng đoạt tài sản gây ra, như: ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho nhiều người trên một địa bàn nhất định, làm cho nhiều người vì quá sợ hãi nên phải bỏ học, bỏ việc làm, không dám lao động sản xuất, không dám buôn bán.v.v… Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ ba năm đến mười năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:

 Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới ba năm tù) nhưng không được dưới một năm tù. Việc cho người phạm tội được hưởng án treo phải rất thận trọng và phải đảm bảo đúng các quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

– Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 136 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;

 – Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.

  1. Cướp giật tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 136 Bộ luật hình sự

Gây thương tich hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%

Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 Điều 136, chỉ khác ở chỗ, người bị hại trường hợp này có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%. Cũng như các trường hợp khác, việc xác định tỷ lệ thương tật là do Hội đồng gám định y khoa, nếu có sự nghi ngờ về kết quả giám định thì theo yêu cầu của các đương sự hoặc của cơ quan tiến hành tố tụng thì có thể giám định lại với Hội đồng khác. Tuy nhiên, kết luận của Hội đồng giám định lại không phải là quyết định cao hơn kết quả giám định của Hội đồng giám định trước đó.

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy đinh tại điểm g khoản 2 Điều 136, chỉ khác ở chỗ, tài sản bị chiếm đoạt trong trường hợp này có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng. Cũng như các trường hợp khác, việc xác định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá).

Gây hậu quả rất nghiêm trọng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều 136, chỉ khác ở chỗ hậu quả gây ra trường hợp này là hậu quả rất nghiêm trọng. Cũng như các trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản; thiệt hại phi vật chất do hành vi cướp giật gây ra. Nói chung, hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi  cướp giật tài sản gây ra phải tương đương với các tình tiết quy định tại khoản 3 Điều 136 Bộ luật hình sự, vì nó được quy định trong cùng một khung hình phạt với các tình tiết này. Căn cứ vào các quy định tại Điều 136 Bộ luật hình sự, qua thực tiến xét xử, có thể coi những thiệt hại sau là hậu rất quả nghiêm trọng do hành vi phạm tội cướp giật tài sản gây ra:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 31% đến 60% (bao gồm cả tỷ lệ thương tật do hành vi cướp giật trực tiếp gây ra và tỷ lệ thương tật do hành vi cướp giật gián tiếp gây ra);

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, nhưng không phải là giá trị tài sản người phạm tội cướp giật;

– Ngoài những thiệt hại về sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi cưỡng đoạt tài sản gây ra, như ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng rất xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho rất nhiều người trên một địa bàn nhất định, làm cho nhiều người vì quá sợ hãi nên phải bỏ học, bỏ việc làm, không dám lao động sản xuất, không dám buôn bán.v.v… Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 136 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, cũng là tội phạm rất nghiêm trọng, nhưng mức độ nghiêm trọng cao hơn trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 136. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:

Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới bảy năm tù) nhưng không được dưới ba năm tù. Nói chung không nên cho người phạm tội được hưởng án treo, trừ trường hợp đặc biệt, người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, có nhân thân tốt, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, đáng được khoan hồng và phải đảm bảo đúng các quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

– Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 136 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 136 Bộ luật hình sự;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;

– Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chưa bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.

  1. Cướp giật tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 136 Bộ luật hình sự

Gây thương tich hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên

Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 136, chỉ khác ở chỗ, người bị hại trường hợp này có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên. Cũng như các trường hợp khác, việc xác định tỷ lệ thương tật là do Hội đồng gám định y khoa, nếu có sự nghi ngờ về kết quả giám định thì theo yêu cầu của các đương sự hoặc của cơ quan tiến hành tố tụng thì có thể giám định lại với Hội đồng khác. Tuy nhiên, kết luận của Hội đồng giám định lại không phải là quyết định cao hơn kết quả giám định của Hội đồng giám định trước đó.

Cướp giật tài sản làm chết người

Cướp giật tài sản làm chết người là trường hợp do giật tài sản mà làm cho người bị hại bị chết, giữa hành vi giạt tài sản với cái chết của nạn nhân có mối quan hệ nhân quả. Ví dụ: Chị Trần Thị Ngọc D đang điều khiển xe máy thì bị Phạm Văn T và Nguyễn Văn K giật chiếc dây chuyền làm chị D bị ngã xe đập đầu xuống đường chết. Nếu người phạm tội có hành vi chống trả để tẩu thoát mà gây chết người thì người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự thêm về tội giết người.

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm g khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 136 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ tài sản mà người phạm tội có ý định chiếm đoạt có gía trị từ 500.000.000 đồng trở lên. Trong trường hợp tài sản khó xác định giá trị thì cần phải trưng cầu định giá tài sản, việc định giá tài sản được coi như là một tài liệu giám định.

Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm h khoản 2, điểm c khoản 3 Điều 136 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ hậu quả gây ra trong trường hợp phạm tội này là đặc biệt nghiêm trọng. Cũng như các trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản; thiệt hại phi vật chất do hành vi cướp giật tài sản gây ra. Nói chung, hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi  cướp giật tài sản gây ra phải tương đương với các tình tiết quy định tại khoản 4 Điều 136 Bộ luật hình sự, vì nó được quy định trong cùng một khung hình phạt với các tình tiết này. Căn cứ vào các quy định tại Điều 136 Bộ luật hình sự, qua thực tiến xét xử có thể coi những thiệt hại sau là hậu rất quả nghiêm trọng do hành vi phạm tội cướp giật tài sản gây ra:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 61%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% trở lên (bao gồm cả tỷ lệ thương tật do hành vi cướp giật trực tiếp gây ra và tỷ lệ thương tật do hành vi cướp giật gián tiếp gây ra );

– Gây chết người ( ngoài người bị chết do thực hiện hành vi giật tài sản gây ra); Ví dụ: A cướp giật tài sản của B, do bị giật tài sản nên B điều khiển xe máy không đúng phần đường, dã gây tai nạn làm một người chết.

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500.000.000 đồng trở lên, nhưng không phải là giá trị tài sản người phạm tội cướp giật;

– Ngoài những thiệt hại về về tính mạng, sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi cướp giật tài sản gây ra, như ảnh hưởng đặc biệt xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng đặc biệt xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho rất nhiều người trên một số địa bàn nhất định, làm cho rất nhiều người vì quá sợ hãi  phải bỏ học, bỏ việc làm, không dám lao động sản xuất, không dám buôn bán.v.v… Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 136 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:

Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới mười hai năm tù) nhưng không được dưới bảy năm tù.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

– Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 136 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 136 Bộ luật hình sự;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;

– Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.

  1. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội cướp giật tài sản

Theo quy định tại khoản 5 Điều 136 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội cưỡng đoạt tài sản còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng.

So với tội cướp giật tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 131 và tội cướp giật tài sản của công dân quy định tại Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hình phạt bổ sung đối với tội cướp giật tài sản quy định tại Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều điểm được sửa đổi bổ sung.

Bỏ hình phạt quản chế hoặc cấm cư trú, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản;

Hình phạt tiền là loại hình phạt mới được quy định đối với người phạm tội cướp giật tài sản, mức phạt tiền là từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng. Có thể coi đây là khung hình phạt tiền đối với người phạm tội cướp giật tài sản. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội cướp giật tài sản thì không được phạt trên một trăm triệu đồng, nhưng nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì có thể phạt dưới mười triệu đồng nhưng không được dưới một triệu đồng vì theo quy định tại khoản 3 Điều 30 Bộ luật hình sự mức phạt tiền không được dưới một triệu đồng.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI VÔ Ý GÂY THIỆT HẠI NGHIÊM TRỌNG ĐẾN TÀI SẢN (ĐIỀU 145)

Điều luật không miêu tả hành vi vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản, nhưng căn cứ vào các quy định của pháp luật và khoa học luật hình sự thì:

Vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản là hành vi của một người tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản, nhưng cho rằng thiệt hại đó không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được, hoặc không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản,mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước.

Nếu tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản Nhà nước người phạm tội là người có nhiệm vụ trực tiếp quản lý tài sản bị thiệt hại, còn ở tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản người phạm tội không có nhiệm vụ trực tiếp quản lý tài sản bị thiệt hại.

Tài sản bị thiệt hại trong tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản Nhà nước là tài sản Nhà nước, còn tài sản bị thiệt hại trong tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản là tài sản của công dân, của tổ chức xã hội, tổ chức nước ngoài… không phải là tài sản của Nhà nước.

Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản quy định tại Điều 145 Bộ luật hình sự là tội dược nhập từ tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tạ Điều 140 và tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của công dân quy định tại Điều 161 Bộ luật hình sự năm 1985. Nói chung tội phạm này không có gì mới so với hai tội quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, Điều 145 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định cụ thể tài sản bị thiệt hại nghiêm trọng là tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

  1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm

Cũng tương tự như đối với các tội xâm phạm sở hữu khác, người phạm tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của là người phải đủ 16 tuổi trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì tội phạm này cả khoản 1 và khoản 2 đều là tội phạm ít nghiêm trọng. ( khoản 1 của điều luật có mức cao nhất của khung hình phạt là hai năm tù, còn khoản 2 của điều luật có mức hình phạt của khung hình phạt là ba năm tù).

Khác với tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, chủ thể của tội phạm là chủ thể đặc biệt còn chủ thể của tội phạm này là chủ thể bất kỳ, không phải là người có nhiệm vụ trực tiếp quản lý tài sản.

  1. Các dấu hiệu về khách thể của tội phạm

Khách thể của tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản cũng tương tự như các tội xâm phạm sở hữu khác, nhưng tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản cũng không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu và khác với các tội có tính chất chiếm đoạt là người phạm tội không chiếm đoạt tài sản mà chỉ làm mất, làm hỏng tài sản. Nếu chỉ xét về tài sản bị thiệt hại thì cũng tương tự như tài sản bị mất mát, hư hỏng trong tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, chỉ khác nhau ở chỗ trong tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản hành vi gây thiệt hại là do cố ý và ở tội thiếu trách nhiệm gây thiệt nghiêm trọng đén tài sản Nhà nước, hành vi gây thiệt hại là của người  có trách nhiệm trực tiếp quản lý tài sản và tài sản bị thiệt hại là tài sản của Nhà nước. Trong tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản cũng có trường hợp tài sản bị thiệt hại là tài sản của Nhà nước nhưng không phải do người có nhiệm vụ trực tiếp quản lý tài sản đó gây ra.

  1. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan

Hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản do người phạm tội thực hiện tương đối đa dạng, vừa hành động, vừa không hành động. Nếu chỉ xét về hành vi không xét đến yếu tố lỗi thì hành vi gây thiệt hại đến tài sản cũng tương tự như hành vi của tội huỷ hoại hoặc làm hư hỏng tài sản ( bị đốt cháy, bị mất, bị hư hỏng…)

 Thông thường, người phạm tội vô ý gây thiệt hại đến tài sản đã vi phạm những thể lệ, những quy tắc sinh hoạt xã hội mà ai cũng biết và không xử sự như người phạm tội. Ví dụ: Trong khu vực trạm bán xăng, đã có biển báo cấm lửa, nhưng khi vào mua xăng, Bùi Xuân B vẫn hút thuốc lá, nhân viên bán xăng yêu cầu B tắt thuốc lá, thì B cầm điều thuốc lá đang cháy dở ném đi, nhưng không may lại trúng vào bình xăng đang bơm xăng xe của anh Phan Văn H làm  xe của anh H bốc cháy gây thiệt hại 60.000.000 đồng và gây bỏng nặng cho chị Trần Thị X có tỷ lệ thương tật 31%. Trong trường hợp này B không chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vô ý gây thiệt hại đến tài sản, mà còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vô ý gây thương tích cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc hành chính quy định tại Điều 109 Bộ luật hình sự.

Hậu quả

Hậu quả của tội phạm này là thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản, ngoài ra không có thiệt hại nào khác.

Thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản chính là giá trị tài có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

Thiệt hại về tài sản phải do chính hành vi vô ý của người phạm tội gây ra mới là hậu quả của tội phạm này, nếu thiệt hại đó không phải do hành vi vô ý của người phạm tội gây ra thì không được tính để xác định hậu quả của tội phạm này.

Nếu ngoài thiệt hại về tài sản mà còn gây ra những thiệt hại khác như thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của người khác thì cũng tuỳ trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vô ý làm chết người hoặc tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn đến sức khoẻ của người khác.

  1. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm

Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của được thực hiện do vô ý. Cũng như đối với tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản Nhà nước, vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản cũng gồm cả hai trường hợp: Vô ý vì quá tự tin và vô ý vì cẩu thả.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

Phạm tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản không có các tình tiết định khung hình phạt

Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 145 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản. So với tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 145 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn. Vì vậy, đối với hành vi vô ý gây thiệt hại đến tài sản xã hội chủ nghĩa từ 50.000.000 đồng dén dưới 500.000.000 đồng xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau ngày 4-1-2000 ( ngày Chủ tịch nước công bố Bộ luật hình sự năm 1999), mới phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì được áp dụng khoản 1 Điều 145 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. Nếu giá trị tài sản bị thiệt hại từ 500.000.000 đồng trở lên thì phải áp dụng khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự.

Khoản 1 Điều 145 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm ít nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là hai năm tù, nên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

 Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của khoản 1 Điều 145 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu các tình tiết khác như nhau thì mức hình phạt đối với người phạm tội phụ thuộc vào những yếu tố sau:

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có ít hoặc không có tình tiết tăng nặng;

– Người phạm tội không có tình tiết giảm nhẹ phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ được phạt nhẹ hơn người có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Tài sản bị thiệt hại càng có giá trị cao, hình phạt càng nặng;

– Người phạm tội khắc phục phần lớn thiệt hại về tài sản thì được áp dụng hình phạt nhẹ hơn người phạm tội không khắc phục hoặc khắc phục không đáng kể thiệt hại về tài sản.

– Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ phải đúng quy định tại Điều 31 Bộ luật hình sự về loại hình phạt này. Nếu không đủ điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo hoặc áp dụng mức thấp nhất của khung hình phạt ( ba tháng tù). Nếu người phạm tội đáng được khoan hồng nhưng chưa tới mức được miến trách nhiệm hình sự thì cũng có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với họ. Trong trường hợp này hình phạt cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất của điều luật.

Vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự

Khoản 2 của điều luật chỉ có một tình tiết định khung hình phạt, đó là giá trị tài sản bị thiệt hại là từ 500.000.000 đồng trở lên.

Việc xác định giá trị tài sản từ 50.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng quy định ở khoản 1 của điều luật cũng như từ 500.000.000 đồng trở lên quy định ở khoản 2 của điều luật là giá trị vào thời điểm xảy ra vụ án (từ khi thực hiện hành vi phạm tội).

Một số điểm cần chú ý khi áp dụng Bộ luật hình sự năm 1999 đối với các tội xâm phạm sở hữu

  1. Các quy định về các tội xâm phạm sở hữu quy định trong chương XIV Bộ luật hình sự năm 1999 nói chung nặng hơn các tội xâm phạm sở hữu của công dân và nhẹ hơn các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985. Do đó, chủ yếu chỉ áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985 mà hành vi phạm tội được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000.
  2. Các tình tiết là yếu tố định tội và nếu căn cứ vào tình tiết này làm giảm hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội thì được áp dụng đối với cả hành vi thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000. Ví dụ: Trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà trộm cắp dưới 500.000 đồng cũng không bị coi là tội phạm.
  3. Đối với các tội có quy định giá trị tài sản là căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu người phạm tội chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt thì căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để xác định bị cáo phạm tội theo khoản nào của điều luật, nếu điều khoản của Bộ luật hình sự quy định tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi chuẩn bị phạm tội, nếu phạm tội chưa đạt mà không xác định được giá trị tài sản định chiếm đoạt thì phải bị truy cứu theo khoản 1 của điều luật tương ứng.
  4. Trong trường hợp Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hai tội giống nhau (trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa và trộm cắp tài sản của công dân), nay Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định một tội ( trộm cắp tài sản) mà hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 nhưng sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý thì cần chú ý:

– Nếu giá trị tài sản bị chiếm đoạt cộng chung không làm vượt khung hình phạt tương xứng thì áp dụng kung hình phạt tương ứng của Bộ luật hình sự năm 1999 để xét xử đối với bị cáo. Vị du: A trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa 10.000.000 đồng, trộm cắp tài sản của công dân 14.000.000 đồng, cộng chung là 24.000.000 đồng thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 thì áp dụng khoản 1 Điều 138 để xét xử đối với bị cáo.

– Nếu giá trị tài sản bị chiếm đoạt cộng chung làm vượt khung hình phạt tương xứng thì chỉ áp dụng Bộ luật hình sự năm 1999 đối với tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa còn tội xâm phạm tài sản của công dân vẫn áp dụng Bộ luật hình sự năm 1985. Trong trường hợp này vẫn phải tuyên bố bị cáo phạm hai tội và tổng hợp hình phạt. Ví dụ: A phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa với giá trị là 150.000.000 đồng và lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân là 100.000.000 đồng, nếu cộng chung thành 250.000.000 đồng thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 nên Toà án không thể áp dụng khoản 3  Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với bị cáo mà chỉ áp dụng khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 để xét xử bị cáo về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và áp dụng khoản 2 Điều 157 Bộ luật hình sự năm 1985 để xét xử bị cáo về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân và tổng hợp hình phạt theo Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1985.

– Nếu giá trị tài sản bị chiếm đoạt thuộc trường hợp quy định ở hai khung hình phạt khác nhau mà cộng lại vẫn thuộc trường hợp quy định ở khung hình phạt mà bị cáo đã phạm thì áp dụng khung hình phạt tương ứng của Bộ luật hình sự năm 1999 để xét xử đối với bị cáo. Ví dụ: A lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt 50.000.000 đồng của công dân và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt 140.000.000 đồng là tài sản xã hội chủ nghĩa, nếu cộng chung thành 190.000.000 vẫn thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 140, thì áp dụng khoản 2 Điều 140 để xét xử đối với bị cáo.

  1. Trường hợp nếu chỉ căn cứ vào giá trị tài sản thì thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật, nhưng vì có tình tiết quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 của điều luật mà tình tiết đó mới được quy định thì không áp dụng điều khoản của Bộ luật hình sự năm 1999 có tình tiết định khung hình phạt đó để xét xử đối với bị cáo. Ví dụ: A, B, C cưỡng đoạt 40.000.000 đồng trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 và thuộc trường hợp có tổ chức quy định tại điểm a khoản 2 Điều 135 Bộ luật hình sự năm 1999, nhưng vì tình tiết phạm tội có tổ chức là tình tiết mới Nên các bị cáo chỉ bị xét xử theo khoản 1 Điều 135.
  2. Các tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng không phải là tình tiết mới nếu như ở các điều khoản của Bộ luật hình sự năm 1985 có quy định gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, nhưng khi áp dụng các tình tiết này cần phải căn cứ vào tình hình cụ thể và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra để xác định hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng.
  3. Các tình tiết gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%; từ 31% đến 60%; từ 61% trở lên được coi là tình tiết mới nếu như điều khoản tương ứng của Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định gây thương tích hoặc gây thương tích nặng, hoặc chỉ quy định hành hung để tẩu thoát. Nếu điều khoản của Bộ luật hình sự năm 1985 quy định gây thương tích hoặc gây thương tích nặng, thì các tỷ lệ thương tật nêu trên không coi là tình tiết mới mà tuỳ từng trường hợp cụ thể, Toà án có thể xác định đối với trường hợp phạm tội cụ thể đối với bị cáo. Ví dụ: điểm c khoản 2 Điều 129 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: gây thương tích nặng, gây tổn hại nặng cho sức khoẻ thì coi trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% tương ứng với tình tiết gây thương tích nặng hoặc gây tổn hại nặng đến sức khoẻ.
  4. Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại rất nặng cho sức khỏe của người khác, nhưng lại quy định “phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng”, vì vậy, nếu gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên thì phải coi là trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Do đó, nếu điều khoản nào của Bộ luật hình sự năm 1985 có quy định tình tiết “phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng” mà điều khoản tương ứng của Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định tình tiết “gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên” thì được áp dụng Bộ luật hình sự năm 1999 để xét xử đối với bị cáo.
  5. Đối với tội chiếm giữ trái phép tài sản, không coi các tình tiết là dấu hiệu định tội quy định tại khoản 1 Điều 141 là tình tiết mới, vì các tình tiết đó chỉ cụ thể hoá quy định tại Điều 136 và Điều 159 Bộ luật hình sự năm 1985 .

10. Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu quy định tại chương XIV Bộ luật hình sự năm 1999 được coi là hình phạt nhẹ hơn so với hình phạt bổ sung quy định tại Điều 142 và Điều 163 Bộ luật hình sự năm 1985, vì các hình phạt bổ sung quy định đối với từng tội đều quy định mở ( có thể ), tức là Toà án có thể áp dụng hoặc không áp dụng. Một số loại hình phạt không còn quy định đối với một số tội. Ví dụ: Hình phạt quản chế không áp dụng đối với người phạm tội trộm cắp…

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân gồm thường trực HĐND và các ban của HĐND:

_Thường trực HĐND:

+Do HĐND cùng cấp bầu ra trong số các đại biểu của mình tại kì họp thứ nhất của mỗi khoá HĐND.

+Thường trực HĐND  cấp tỉnh, huyện gồm có chủ tịch, phó chủ tịch HĐND. Số phó chủ tịch HĐND ở mỗi cấp do uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định theo đề nghị của Chính phủ.

+Thường trực HĐND cấp xã, phường, thị trấn có chủ tịch và phó chủ tịch HĐND thay cho ban thư kí HĐND trước đây.

_Các ban HĐND:

+Các ban của HĐND được thành lập tại kì họp thứ nhất của mỗi khoá HĐND. Số lượng thành viên của mỗi ban do HĐND cùng cấp quyết định và bầu chọn trong số các đại biểu có năng lực kiến thức chuyên môn, phù hợp với nhiệm vụ của ban, có điều kiện thực tế tham gia hoạt động các ban. Thành viên các ban không thể đồng thời là thành viên UBND cùng cấp.

+Cấp tỉnh được thành lập 3 ban: Ban kinh tế và ngân sách, ban văn hoá- xã hội, ban pháp chế. Ở những tỉnh có nhiều dân tộc có thành lập Ban dân tộc để giúp HĐND giám sát việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước.

+Cấp huyện thành lập 2 ban: Ban kinh tế- xã hội, ban pháp chế.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI THIẾU TRÁCH NHIỆM GÂY THIỆT HẠI NGHIÊM TRỌNG ĐẾN TÀI SẢN CỦA NHÀ NƯỚC (ĐIỀU 144)

Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước là hành vi không làm hoặc làm không hết trách nhiệm nên đã để mất mát, hư hỏng, lãng phí gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước do mình trực tiếp quản lý.

Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước là tội phạm được quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1985 với tội danh “thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa”. Nếu xét về phạm vi áp dụng thì Điều 144 Bộ luật hình sự năm 1999 hẹp hơn Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1985 vì tài sản của Nhà nước hẹp hơn tài sản xã hội chủ nghĩa.

So với Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 144 Bộ luật hình sự năm 1999 không có thay đổi lớn, chỉ quy định cụ thể thiệt hại nghiêm trọng về tài sản là thiệt hại từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng và được cấu tạo thành 4 khoản, trong đó khoản quy định hình phạt bổ sung. Mặc dù có mức cao nhất là mười lăm năm tù, nhưng mức hình phạt thấp nhất là cải tạo không giam giữ, nên Điều 144 Bộ luật hình sự năm 1999 được coi là nhẹ hơn Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1985, vì vậy hành vi phạm tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý thì được  áp dụng Điều 144 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

  1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm này được coi là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có nhiệm vụ trực tiếp trong công tác quản lý tài sản của Nhà nước mới là chủ thể của tội phạm này, vì vậy, các dáu hiệu về chủ thể của tội phạm này là yếu tố định tội bắt buộc của cấu thành tội phạm. Việc xác định tư cách chủ thể của tội phạm này là việc làm đầu tiên khi xác định hành vi phạm tội.

Người có nhiệm vụ trực tiếp trong công tác quản lý tài sản của Nhà nước là người được giao chiếm hữu, sử dụng một số tài sản nhất định bằng các hình thức như: trông giữ, vận chuyển, khai thác lợi ích (giá trị sử dụng) của tài sản. Những người này có thể do bầu cử, do bổ nhiệm, do ký hợp đồng… Nếu không được giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý tài sản thì không thành chủ thể của tội phạm này mà tuỳ trường hợp có thể là chủ thể của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 285 Bộ luật hình sự.

Cũng tương tự như đối với các tội xâm phạm sở hữu khác, người phạm tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước là người từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 144 Bộ luật hình sự mà không chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này quy định tại khoản 1 và khoản 2 của điều luật vì khoản 1 là tội phạm ít nghiêm trọng, còn khoản 2 là tội phạm nghiêm trọng.

  1. Các dấu hiệu về khách thể của tội phạm

Khách thể của tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước cũng tương tự như các tội xâm phạm sở hữu khác, nhưng tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu và khác với các tội có tính chất chiếm đoạt là người phạm tội không chiếm đoạt tài sản mà chỉ làm mất, làm hỏng hoặc gây lãng phí. Đây cũng là dấu hiệu để phân biệt giữa tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước với các tội tham ô, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

  1. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan

Có thể nói người phạm tội chỉ có hành vi khách quan duy nhất là thiếu trách nhiệm, bản thân của hành vi này đã phản ảnh bản chất của tội phạm. Nhưng biểu hiện của hành vi thiếu trách nhiệm lại không phải giống nhau nó tuỳ thuộc vào nhiệm vụ được giao và tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra thiệt hại về tài sản.

Hành vi thiếu trách nhiệm trong công tác quản lý tài sản Nhà nước thường được biểu hiện như vi phạm các nguyên tắc, chính sách, chế độ liên quan đến việc quản lý tài sản của Nhà nước như: chế độ quản lý vật tư, kho tàng; chế độ phòng cháy, chữa cháy; chế độ thu chi tiền mặt; chế độ xuất, nhập vật tư, thiết bị; chế độ bảo quản hàng hoá.v.v… các nguyên tắc, chế độ có liên quan đến việc quản lý tài sản có thể là các nguyên tắc, chế độ quản lý kinh tế, nhưng cũng có thể chỉ là nguyên tắc, chế độ về hành chính nhưng có liên quan quản lý tài sản, đôi khi chỉ là một bản nội quy cơ quan nếu vi phạm mà gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản do mình trực tiếp quản lý thì cũng bị coi là thiếu trách nhiệm.

Thiếu trách nhiệm là không làm hoặc làm không hết trách nhiệm được giao nên mới gây ra thiệt hại về tài sản, nếu làm tròn trách nhiệm được giao thì không thể gây thiệt hại. Trường hợp đã làm hết trách nhiệm mà thiệt hại về tài sản vẫn xảy ra thì không phải là thiếu trách nhiệm và họ không phạm tội này dù thiệt hại về tài sản nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng. Ví dụ: Nguyễn Chí K và Đỗ Đức T là cán bộ Ngân hàng thương mại thành phố H có nhiệm vụ đem 2 kg vàng về thành phố Hải Dương thuê gia công đồ trang sức, nhưng đến km 72 + 900 đường 5A thì bị tai nạn, anh K bị chết còn anh T bị thương nặng bất tỉnh. Do bị tai nạn nên bị mất 2 kg vàng. Qua điều tra cơ quan điều tra đã xác định tại nạn xảy ra lỗi hoàn toàn thuộc về lái xe ôtô, còn hai anh K và T không có lỗi. 2 kg vàng bị mất là do Đỗ Văn H và Nho Văn M là người trong thôn Dương Thái, xã Phúc Thanh A ra xem tai nạn và nhặt được. Trong trường hợp này, hai anh K và T đã làm hết trách nhiệm được giao, không có lỗi nên không bị coi là thiếu trách nhiệm.

Hậu quả

Hậu quả của tội phạm này là thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản Nhà nước, ngoài ra không có thiệt hại nào khác.

Thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản Nhà nước chính là giá trị tài sản bị thiệt hại do hành vi thiếu trách nhiệm của người có nhiệm vụ trực tiếp quản lý tài sản gây ra. Được coi là thiệt hại nghiêm trọng nếu tài sản bị thiệt hại có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng.

Thiệt hại về tài sản phải do chính hành vi thiếu trách nhiệm gây ra mới là hậu quả của tội phạm này, nếu thiệt hại đó không phải do hành vi thiếu trách nhiệm gây ra thì không được tính để xác định hậu quả của tội phạm này.

Nếu thiệt hại về tài sản không phải là tài sản do người phạm tội trực tiếp quản lý thì không tính vào hậu quả của hành vi thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đén tài sản mà tuỳ trường hợp có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 285 Bộ luật hình sự.

Nếu ngoài thiệt hại về tài sản mà còn gây ra những thiệt hại khác như thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của người khác thì cũng tuỳ trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 285 Bộ luật hình sự.

  1. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm

Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước được thực hiện do vô ý, chứ không phải do cố ý như đối với các tội xâm phạm sở hữu đã giới thiệu ở trên.

Các dấu hiệu về vô ý phạm tội được quy định tại Điều 10 Bộ luật hình sự. Có hai trường hợp vô ý phạm tội:

Trường hợp thứ nhất là người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, nhưng cho rằng thiệt hại đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Người phạm tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước thường phạm tội trong trường hợp này; khoa học luật hình sự gọi trường hợp vô ý phạm tội này là “vô ý vì quá tự tin”.

Trường hợp thứ hai là người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước. Khoa học luật hình sự gọi trường hợp vô ý phạm tội này là “vô ý vì cẩu thả. Trường hợp vô ý này thường xảy ra đối với người phạm tội không có chức vụ mà chỉ là người có quyền hạn trong việc quản lý tài sản như: thủ kho, thủ quỹ, do vi phạm các quy định về quản lý tài sản như: phòng cháy, phòng nổ, phòng tiên tai, nên đã gây ra thiệt hại nghiêm trọng đối với tài sản của Nhà nước.

Cả hai trường hợp vô ý trên, người phạm tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước đều có thể mắc phải tuỳ thuộc vào trách nhiệm của họ đối với việc quản lý tài sản và hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra thiệt hại tài sản. Việc xác định lỗi vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước của người phạm tội là bắt buộc, nhưng không bắt buộc phải xác định người phạm tội do vô ý vì quá tự tin hay vô ý vì cẩu thả.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Phạm tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước không có các tình tiết định khung hình phạt

Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 144 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước. So với tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 144 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn. Vì vậy, đối với hành vi thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau ngày 4-1-2000 ( ngày Chủ tịch nước công bố Bộ luật hình sự năm 1999), mới phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì được áp dụng khoản 1 Điều 144 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.

Khi áp dụng khoản 1 Điều 144 Bộ luật hình sự cần chú ý một số điểm sau:

– Giá trị tài sản bị thiệt hại từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng là giá thị trường tự do vào thời điểm thực hiện hành vi phạm tội.

– Tài sản bị mất mát, hư hỏng do hành vi thiếu trách nhiệm gây ra là tài sản được xác định không có khả năng tìm lại được hoặc phục hồi được như cũ. Tuy nhiên, đối với trường hợp do thiếu trách nhiệm mà để người khác chiếm đoạt tài sản và ngay sau khi bị phát hiện tài sản bị chiếm đoạt được thu hồi thì tuỳ từng trường hợp cụ thể người có hành vi thiếu trách nhiệm có thể được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng về nguyên tắc hành vi thiếu trách nhiệm đã gây ra thiệt hại nên hành vi thiếu trách nhiệm đã cấu thành tội phạm.

– Tài sản bị lãng phí do hành vi thiếu trách nhiệm gây ra là tài sản đã chi tiêu vào những việc lẽ ra không phải chi như: chi liên hoan, tiệc tùng, chi quá mức được chi…

Việc xác định tài sản bị mất mát, hư hỏng hoặc lãng phí trong một số trường hợp không phải bao giờ cũng rành mạch như chúng ta tưởng, có khi mất mát cũng là lãng phí, hư hỏng hoặc ngược lại.

Khoản 1 Điều 144 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm ít nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là ba năm tù, nên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

 Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước khoản 1 Điều 144 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu các tình tiết khác như nhau thì mức hình phạt đối với người phạm tội phụ thuộc vào những yếu tố sau:

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có ít hoặc không có tình tiết tăng nặng;

– Người phạm tội không có tình tiết giảm nhẹ phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ được phạt nhẹ hơn người có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Tài sản bị thiệt hại càng có giá trị cao, hình phạt càng nặng;

– Người phạm tội khắc phục phần lớn thiệt hại về tài sản thì được áp dụng hình phạt nhẹ hơn người phạm tội không khắc phục hoặc khắc phục không đáng kể thiệt hại về tài sản.

– Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ phải đúng quy định tại Điều 31 Bộ luật hình sự về loại hình phạt này. Nếu không đủ điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo hoặc áp dụng mức thấp nhất của khung hình phạt ( sáu tháng tù). Nếu người phạm tội đáng được khoan hồng nhưng chưa tới mức được miến trách nhiệm hình sự thì cũng có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với họ.

  1. Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản Nhà nước thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 144 Bộ luật hình sự

Khoản 2 của điều luật chỉ quy định một trường hợp phạm tội, đó là tài sản của Nhà nước bị thiệt hại có giá trị từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng. Các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ cần xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt vào thời điểm bị thiệt hại, nếu có gía trị từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng là người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 144 Bộ luật hình sự, tất nhiên là các dấu hiệu khác về tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước phải thoả mãn.

Khoản 2 Điều 144 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là bảy năm tù, nên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi cũng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước khoản 2 Điều 144 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu các tình tiết khác như nhau thì mức hình phạt đối với người phạm tội phụ thuộc vào những yếu tố sau:

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có ít hoặc không có tình tiết tăng nặng;

– Người phạm tội không có tình tiết giảm nhẹ phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ được phạt nhẹ hơn người có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Tài sản bị thiệt hại càng có giá trị cao, hình phạt càng nặng;

– Người phạm tội khắc phục phần lớn thiệt hại về tài sản thì được áp dụng hình phạt nhẹ hơn người phạm tội không khắc phục hoặc khắc phục không đáng kể thiệt hại về tài sản.

– Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình (dưới hai năm tù), nhưng không được dưới sáu tháng tù, không được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo.

  1. Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản Nhà nước thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 144 Bộ luật hình sự

Khoản 3 của điều luật chỉ quy định một trường hợp phạm tội, đó là tài sản của Nhà nước bị thiệt hại có giá trị từ 500.000.000 đồng trở lên. Các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ cần xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt vào thời điểm bị thiệt hại, nếu có gía trị từ 500.000.000 đồng trở lên là người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 144 Bộ luật hình sự, tất nhiên là các dấu hiệu khác về tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước phải thoả mãn.

Khoản 3 Điều 144 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm rất nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là mười lăm năm tù, nên đối với người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

 Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước khoản 3 Điều 144 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu các tình tiết khác như nhau thì mức hình phạt đối với người phạm tội phụ thuộc vào những yếu tố sau:

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có ít hoặc không có tình tiết tăng nặng;

– Người phạm tội không có tình tiết giảm nhẹ phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ được phạt nhẹ hơn người có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Tài sản bị thiệt hại càng có giá trị cao, hình phạt càng nặng;

– Người phạm tội khắc phục phần lớn thiệt hại về tài sản thì được áp dụng hình phạt nhẹ hơn người phạm tội không khắc phục hoặc khắc phục không đáng kể thiệt hại về tài sản.

– Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới bảy năm tù), nhưng không được dưới hai năm tù. Việc cho người phạm tội hưởng án treo phải rất thận trọng, vì đây là tội phạm rất nghiêm trọng.

  1. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản Nhà nước

Ngoài hình phạt chính, người phạm tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ quản lý tài sản của Nhà nước từ một năm đến năm năm.

Hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ quản lý tài sản của Nhà nước chỉ áp dụng đối với người phạm tội có chức vụ quản lý tài sản và vì thiếu trách nhiệm trong việc quản lý tài sản nên gây ra thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản do mình trực tiếp quản lý. Nếu người có chức vụ quản lý tài sản nhưng không phải do thiếu trách nhiệm trong việc quản lý tài sản thì không áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ quản lý tài sản đối với họ.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội bị xâm phạm mà các quan hệ xã hội đó được Bộ luật hình sự bảo vệ.

Đây cũng là một đặc điểm mà thiếu nó thì không phải là tội phạm. Các quan hệ xã hội thì có nhiều, do nhiều ngành luật điều chỉnh, nhưng Bộ luật hình sự chỉ bảo vệ những quan hệ xã hội có liên quan trực tiếp đến độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức; tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân và những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Đối với các tội xâm phạm sở hữu, khách thể của tội phạm chủ yếu là quan hệ sở hữu, ngoài ra còn có những quan hệ khác như tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm và những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa nhưng không phải là khách thể đặc trưng cuả các tội này.

Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng tuyệt đại đa số cho rằng, khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, có người cho rằng, quan hệ xã hội chỉ là khách thể chung, khách thể loại, còn khách thể trực tiếp không phải là quan hệ xã hội. Sự lầm lẫn này, thể hiện ở một số sách báo pháp lý khi nói đến khách thể trực tiếp thường nhầm với đối tượng tác động.

Khách thể là một yếu tố rất quan trọng của tội phạm; các hành vi xâm phạm đến các quan hệ xã hội không phải là khách thể của tội phạm thì không phải là tội phạm; hiểu rõ khách thể của tội phạm giúp chúng ta xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi tội phạm, phân biệt tội phạm này với tội phạm khác.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN (ĐIỀU 139)

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian dối.

Khi nói đến lừa đảo là người ta nghĩ ngay đến sự dối trá của người phạm tội, nên đặc điểm noỉi bất của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là thủ đoạn gian dối của người phạm tội. Tuy nhiên, cũng do đặc điểm này mà thực tiễn xét xử đã có không ít trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng tuyệt đối hoá thủ đoạn gian dối của hành vi lừa đảo, nên chỉ tập trung chứng minh người phạm tội có thủ đoạn gian dối đã vội xác định đó là lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà không thấy rằng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn có một yếu tố rất quan trọng nếu thiếu nó thì chưa cấu thành tội phạm, dấu hiệu đó là hành vi chiếm đoạt tài sản. Gian dối là đặc trưng cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng không phải là dấu hiệu duy nhất của tội phạm, mà ngoài thủ đoạn gian dối, người phạm tội còn phải có hành vi chiếm đoạt tài sản thì mới đủ yếu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nếu chỉ có thủ đoạn gian dối nhưng hông có ý định chiếm đoạt tài sản thì không phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mà tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người có hành vi bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng trái phép tài sản hoặc chỉ là quan hệ dân sự, kinh tế…

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự là tội được nhập từ tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 157, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 134 và tội lợi dung chức vụ, quyền hạn lửa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 134a Bộ luật hình sự năm 1985. So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 nói chung không nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về tội phạm này, vì mức hình phạt cao nhất của tội phạm này vẫn là tử hình, nhưng từng khung hình phạt cụ thể có thể nhẹ hơn hoặc nặng hơn so với quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về tội phạm này. Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định mới hơn, đặc biệt trong cấu thành cơ bản, nhà làm luật quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt làm ranh giới giữa hành vi được coi là tội phạm với hành vi lừa đảo chỉ bị xử phạt hành chính; các tình tiết định khung hình phạt cũng được quy định cụ thể hơn trước, bỏ những tình tiết không phù hợp với lý luận và thực tiễn xét xử như: “phạm tội có nhiều tình tiết quy định ở khoản 2 thì thuộc trường hợp ở khoản 3, có nhiều tình tiết quy định ở khoản thì thuộc trường hợp quy định tại khoản  4”. Hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

  1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm

Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chủ thể của tội phạm cũng tương tự như đối với tội xâm phạm sở hữu khác. Tuy nhiên, người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự, vì khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự là tội phạm ít nghiêm trọng và khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự là tội phạm nghiêm trọng, mà theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cần chú ý độ tuổi của người phạm tội và các tình tiết định khung hình phạt. Nếu người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự thì chỉ cần xác định người phạm tội đủ 14 tuổi là đã phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự thì người phạm tội phải đủ 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự.

  1. Các dấu hiệu về khách thể của tội phạm

Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng tương tự như các tội có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đây cũng là một điểm khác với các tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, đặc điểm này này được thể hiện trong cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhà làm luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt. Vì vậy, nếu sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt mà có hành vi chống trả để tẩu thoát, gây chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

  1. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan

Do đặc điểm riêng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nên người phạm tội chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt”, nhưng chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối.

Thủ đoạn gian dối cũng được thể hiện bằng những hành vi cụ thể nhằm đánh lừa chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản, không có thủ đoạn thuộc về tư tưởng, suy nghĩ của người phạm tội lại không được biểu hiện ra bên ngoài bằng hành vi, cũng chính vì thế mà về lý luận khi phân tích các dấu hiệu khách quan cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản một số sách báo viết, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản  có hai hành vi khách quan: “hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt”, nói như thế cũng không phải là không có căn cứ. Tuy nhiên, điều văn của điều luật quy định: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác…” nên không thể coi thủ đoạn phạm tội là một hành vi khách quan được vì thủ đoạn chính là phương thức để đạt mục đích mà biểu hiện của thủ đoạn gian dối lại bao gồm nhiều hành vi khác nhau, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể khác mà người phạm tội thực hiện hành vi đó nhằm đánh lừa người khác. Ví dụ: A nói dối với B là mẹ của A ốm phải đưa vào bệnh viện cấp cứu; B tin và đưa xe máy cho A để A đưa mẹ đi cấp cứu, nhưng sau khi có xe, A đem ra tiệm cầm đồ đặt lấy 10.000.000 đồng rồi số tiền này đánh bạc thua hết. Nhưng trong một hoàn cảnh khác, A không nói dối với B là mẹ của mình bị bệnh mà lại nói dối với B là mựơn xe chở bạn gái về rồi đem đặt lấy tiền đánh bạc. Như vậy việc người phạm tội có hành vi cụ thể nào để đánh lừa được người khác là phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể và do người phạm tội lựa chọn sao cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản tìn mà giao tài sản cho người phạm tội. Để lừa được chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản, người phạm tội có tới 1001 cách khác nhau như: bằng lời nói dối, giả mạo giấy tờ, giả danh người có chức vụ quyền hạn, giả danh các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội để thông qua việc ký kết hợp đồng…

Thực tiễn xét xử còn nhiều trường hợp cũng có hành vi là thủ đoạn gian dối, cũng có hành vi chiếm đoạt, nhưng vi này đã được Bộ luật hình sự quy định thành tội phạm độc lập thì cũng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự vè tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà bị truy cứu về tội phạm tương ứng khác như: Hành vi làm vé bóng đá giả đem bán lấy tiền là hành vi phạm tội làm vé giả quy định tại Điều 164 Bộ luật hình sự; hành vi gian dối trọng việc cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh tráo loại hàng… để gây thiệt hại cho khách hàng là hành vi phạm tội lừa dối khách hàng quy định tại Điều 162 Bộ luật hình sự; hành vi làm hàng giả, buôn bán hàng giả để đánh lừa người tiêu dùng là hành vi phạm tội làm hàng giả, buôn bán hàng giả quy định tại các Điều 155, 156, 157 và 158 Bộ luật hình sự; hành vi lừa đảo chiếm đoạt các chất ma tuý là hành vi phạm tội chiếm đoạt chất ma tuý quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự; hành vi lừa đảo chiếm đoạt vũ khí là hành vi phạm tội chiếm đoạt vũ khí quân dụng quy định tại Điều 230 Bộ luật hình sự.v.v…

Thủ đoạn gian dối của người phạm tội bao gìơ cũng phải có trước khi có việc giao tài sản giữa người bị hại với người phạm tội thì mới là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nếu thủ đoạn gian dối lại có sau khi người phạm tội nhận được tài sản thì không phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tuỳ từng trường hợp cụ thể mà thủ đoạn gian dối đó có thể là hành vi che giấu tội phạm hoặc là hành vi phạm tội khác như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Ví dụ: A vay của B 20 lượng vàng 9999 có viết giấy biên nhận với lãi suất 1%/ tháng, nhưng sau đó A đã tìm cách mượn lại giấy biên nhận và tẩy xoá sửa lại thành 20 chỉ vàng ( 2 lượng) để chiếm đoạt 18 lượng vàng của B.

Về phía người bị hại ( người bị lừa), là người mất cảnh giác, nhẹ dạ cả tin và không ít người do tham lam nên mới tạo điều kiện để cho người phạm tội lừa  được. Ví dụ: Chị Nguyễn Thị M là nhân viên Khách sạn đường sắt đã đổi một chiệc xe đạp Mini Nhật lấy một chiếc dây chuyền vàng 6 chỉ và theo như lời chị  M, thì việc trao đổi đó là làm cho chị có lời vì chiếc xe đạp chị mua chỉ có 2.000.000 đồng còn chiếc dây chuyền vàng 6 chỉ giá trị tới 3.000.000 đồng, nhưng về nhà kiểm tra lại đó là dây chuyền vàng giả. Một dặc điểm nổi bất của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là khi bị lừa, người bị hại tự nguyện giao tài sản cho người phạm tội và họ cho rằng việc giao tài sản cho người phạm tội như vậy là hoàn toàn hợp pháp. Thực tiễn xét xử có một số trường hợp bị lừa nhưng người bị hại nhận thức được rằng, việc giao tài sản đó lại là việc bất hợp pháp, thì người bị lừa có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi giao tài sản. Ví dụ: Vì muốn con mình được nhẹ tội, nên ông Trần Văn N đã tìm gặp Hoàng Đình A cán bộ điều tra và nhờ A lo dùm. Tuy là cán bộ điều tra, nhưng A không có quyền hạn trách nhiệm gì về hành vi phạm tội của con ông N, nhưng A vẫn hứa sẽ giúp được ông N với điều kiện ông N phải đưa cho A 10.000.000 đồng. Hành vi giao tiền cho A của ông N là hành vi đưa hối lộ, còn hành vi nhận tiền của A vẫn là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Hậu quả

Hậu quả của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Mặc dù, khoản 1 của điều luật quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 500.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm, còn nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 500.000 đồng thì phải kèm theo điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm mới cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nhưng không vì thế mà cho rằng, phải có thiệt hại về tài sản ( người phạm tội chiếm đoạt được tài sản ) thì mới cấu thành tội phạm. Khoản 1 của điều luật quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 500.000 đồng là để áp dụng trong những trường hợp người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị không lớn như xe đạp cũ, quần áo, dầy dép, con gà, con vịt, một ít cá, tôm.v.v…Đối với những trường hợp người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc rất lớn như ôtô, xe máy, máy tính xách tay, đồng hồ đắt tiền hoặc tài sản khác có giá trị hàng chục triệu đồng trở lên, thì dù người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản vẫn bị coi là phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nhưng là phạm tội trong trường hợp phạm tội chưa đạt hoặc chuẩn bị phạm tội tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể.

Nếu người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có trị dưới 500.000 đồng, nhưng chưa chiếm đoạt được thì chưa cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, vì dù có chiếm đoạt được cũng chưa cấu thành tội phạm huống hồ chưa chiếm đoạt được. Tuy nhiên, cũng như các trường hợp phạm tội mà điều luật quy đinh giá trị tài sản là dấu hiệu định tội, vậy trong trường hợp người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới 500.000 và chưa chiếm đoạt được nhưng lại thuộc trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về hành vi chiếm đoạt chưa được xoá án tích thì đã cấu thành tội phạm chưa ? Về nguyên tắc (trừ trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng vì hậu quả nghiêm trọng là hậu quả của việc mất 500.000 đồng nhưng chưa mất thì không thể nói gây hậu quả nghiêm trọng được), còn hai trường hợp đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về hành vi chiếm đoạt chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, mà chưa chiếm đoạt được tài sản thì hành vi của người phạm tội cũng đã cấu thành tội phạm lừa đảo chiếm đoạt rồi, nhưng ở giai đoạn phạm tội chưa đạt, nếu mới chuẩn bị phạm tội thì chưa cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, về đường lối xử lý, tuỳ từng trường hợp cụ mà quyết định việc có truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội hay không. Theo chúng tôi chỉ nên truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã bị xử phạt hành chính nhiều lần về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án nhiều lần về tội chiếm đoạt hoặc họ là phần tử nguy hiểm, là đối tượng có nhiều tiền án, tiền sự, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.

  1. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm

Cũng như đối với tội có tính chất chiếm đoạt, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng được thực hiện do cố ý. Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản.

Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện thủ đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt tài sản. Nếu sau khi đã có tài sản mộtt cách hợp pháp rồi mới có ý định chiếm đoạt thì không phải là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tuỳ trường hợp cụ thể người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội tương ứng như: tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Vì vậy, có thể nói mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, ngoài mục đích chiếm đoạt, người phạm tội còn có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hoặc chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không có các tình tiết định khung hình phạt sở hữu

Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. So với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 157, khoản 1 Điều 134 và khoản 1 Điều 134a Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn. Vì vậy, đối với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau ngày 4-1-2000 (ngày Chủ tịch nước công bố Bộ luật hình sự năm 1999), mới phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì đều được áp dụng khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999.

Cấu thành cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều tình tiết là yếu tố định tội, làm ranh giới phân biệt giữa hành vi phạm tội với hành vi chỉ bị xử lý hành chính, Vì vậy, khi xác định các tình tiết là yếu tố định tội này cần chú ý:

– Giá trị tài sản bị chiếm đoạt là giá thị trường tự do vào thời điểm xảy ra tội phạm, trong trường hợp không xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá).

– Lừa đảo chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới 500.000 đồng gây hậu qủa nghiêm trọng là trường hợp do thực hiện hành vi phạm tội mà đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về vật chất hoặc tinh thần cho người bị hại hoặc cho xã hội. Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, qua thực tiễn xét xử, có thể coi những thiệt hại sau đây là hậu quả nghiêm trọng của hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người có tỷ lệ thương tật từ 21% đến 40%;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người mà tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả mọi người từ 21% đến 40%;

– Gây thiệt hại về tải sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

– Ngoài thiệt hại về sức khoẻ, tài sản, còn những thiệt hại khác như gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây hoang mang cho nhân dân trong một địa bàn nhất định…Những thiệt hại này, tuỳ từng vụ án cụ thể mà các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào tình hình cụ thể để xác định đã là hậu quả nghiêm trọng chưa, nếu tổng hợp các tình tiết mà xác định đã gây ra hậu quả  nghiêm trọng thì dù người phạm tội chỉ chiếm đoạt tài sản dưới 500.000 đồng cũng vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

– Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi lừa dảo chiếm đoạt tài sản, người phạm tội đã bị xử phạt hành chính cũng về hành vi chiếm đoạt tài sản bằng một trong các hình thức được quy định trong Pháp lệnh xử phạt hành chính do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dung mà chưa quá một năm; nếu người phạm tội bị xử phạt hành chính về hành vi khác ( không phải là tội chiếm đoạt) thì không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự;

– Đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xoá án tích mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản tài sản, người phạm tội đã bị Toà án kết án về một trong các tội có tính chất chiếm đoạt nhưng chưa được xoá án tích theo quy định tại Điều 77 Bộ luật hình sự; nếu người phạm tội bị kết án về tội phạm khác ( không phải là tội chiếm đoạt) thì cũng không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự;

Khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm ít nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là ba năm tù, nên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi mà thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 139 thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu các tình tiết khác như nhau thì mức hình phạt đối với người phạm tội phụ thuộc vào những yếu tố sau:

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có ít hoặc không có tình tiết tăng nặng;

– Người phạm tội không có tình tiết giảm nhẹ phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ được phạt nhẹ hơn người có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội chiếm đoạt được tài sản phải bị phạt nặng hơn người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản; tài sản bị chiếm đoạt càng nhiều, hình phạt càng nặng;

– Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ phải đúng quy định tại Điều 31 Bộ luật hình sự về loại hình phạt này. Nếu không đủ điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì có thể phạt dưới sáu tháng tù (nhưng không được dưới 3 tháng tù). Nếu người phạm tội đáng được khoan hồng nhưng chưa tới mức được miến hình phạt thì Toà án có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo; nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì được hưởng án treo.

  1. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tổ chức

Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm tội có tổ chức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tổ chức cũng có những đắc điểm riêng như:

Người thực hành trong vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người trực tiếp thực hiện thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản từ chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản.

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tính chất chuyên nghiệp

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp quy định trong Bộ luật hình sự, tức là người phạm tội lấy việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản là phương tiện sinh sống chính của mình. Nói chung, lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tính chất chuyên nghiệp thường được thực hiện có tổ chức. Tuy nhiên cũng có trường hợp chỉ một hoặc hai người chuyên lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng chỉ là trường hợp đồng phạm thông thường, thậm chí chỉ có một người chuyên lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp nói chung, phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng, nhất thiết người thực hành phải thực hiện thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản nhiều lần, nhưng không phải cứ thực hiện thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản nhiều lần đều là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, mà phải xem xét việc thực hiện tội phạm của họ có thật sự là phương tiện sống hay không. Nếu phạm tội nhiều lần nhưng họ không lấy việc phạm tội là lẽ sống thì không coi là có tính chất chuyên nghiệp mà chỉ là trường hợp phạm tội nhiều lần ( tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự). Nếu người phạm tội tuy có lấy việc phạm tội là phương tiện sống, nhưng chỉ lừa đảo chiếm đoạt tài sản một lần còn những lần phạm tội khác không phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì cũng không phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tính chất chuyên nghiệp là tình tiết định khung hình phạt, mà chỉ là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm b khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm

Trường hợp phạm tội này lại hoàn toàn giống với tất cả những trường hợp tái phạm nguy hiểm khác, chỉ cần xác định người phạm tội có đủ các dấu hiệu quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Đây là tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội, không phụ thuộc vào hành vi phạm tội cụ thể của tội phạm này hay tội phạm khác.

Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để lừa đảo chiếm đoạt tài sản .

Có thể nói, đây là tình tiết định khung hình phạt mới được quy định trên cơ sở tên gọi tội danh của Điều 134a Bộ luật hình sự năm 1985 là điều được sửa đổi bổ sung vào ngày 10-5-1997 ( tội lợi chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa) có bổ sung thêm tình tiết lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ. Nếu những người này, lợi dụng chức vụ để lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì mới thuộc trường hợp lợi dụng chức vụ để phạm tội. Nếu có chức vụ, nhưng lại không lợi dụng chức vụ để lừa đảo thì không gọi là lợi dụng chức vụ lừa đảo. Ví dụ: A là cán bộ kiểm lâm, Cục kiểm lâm tỉnh K về công tác tại Hà Nội, đã dùng mật gấu giả để đổi lấy một lượng vàng tại tiệm vàng “Kim Quy”, nhưng khi thực hiện hành vi là đảo, A không nói mình là cán bộ kiểm lâm để chủ tiệm vàng tin mà chỉ nói mình dân tộc thiểu số bắn được con gấu lấy mật đem về Hà Nội bán.

Người có quyền hạn là người được giao thực hiện một công vụ và do thực hiện công vụ đó nên họ có một quyền hạn nhất định. Người có quyền hạn thông thường là người có chức vụ, nhưng cũng có thể là người không có chức vụ nhưng được giao hoặc được thạm gia thực hiện một công vụ. Ví dụ: B là người chạy xe ôm cùng tham gia đuổi bắt D là người có hành vi vận chuyển ma tuý, khi D bị bắt, B là người được giao chở D về trụ sở Công an; trên đường đi, B gợi ý với D đưa cho B 50.000.000 đồng, B sẽ lo nhẹ tội cho D. D tưởng B là Công an hình sự nên đã đưa cho B số tiền trên. Khi sự việc được làm rõ, D mới biết là mình bị lừa.

Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức là người phạm tội thông qua cơ quan, tổ chức mà mình là thành viên để lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thông thường, người phạm tội trường hợp này là thông qua các hợp đồng kinh tế để lừa đảo cơ quan, tổ chức khác; người bị lừa tưởng nhầm rằng làm ăn với cơ quan, tổ chức thì không sợ bị lừa. Ví dụ: Bùi Thị H là Giám đốc Công ty kinh doanh tổng hợp thuộc Tổng công ty X, mặc dù không có cà phê và cũng không thu mua cà phê của bất cứ ai, nhưng lại ký hợp đồng bán cho Công ty xuất nhập khẩu M 7000 tấn cà phê hạt với điều kiện Công ty xuất nhập khẩu M phải chuyển trước cho Công ty của H số tiền mặt bằng 30% giá trị hợp đồng. Sau khi Công ty M đã chuyển vào tài khoản của Công ty của H số tiền trên, thì H đã rút toàn bộ số tiền đó đem trả Ngân hàng.

Dùng thủ đoạn xảo quyệt để lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Dùng thủ đoạn xảo quyệt khi thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người phạm tội có những mánh khoé, cách thức thâm hiểm làm cho người bị hại và những người khác khó lường trước để đề phòng. Ví dụ: Chị Đào Thị Xuân L  rất yêu Nguyễn Văn H, nhưng H chê L xấu gái nên tìm cách lảng tránh, một lần L đem xe máy đến rủ H đi chơi, H thấy L có xe máy liền giả vờ đồng ý đi chơi với L. Trong buổi đi chơi, H  tỏ ra chăm sóc, âu yếm L làm cho L tưởng H yêu mình. Sau buổi đi chơi đó, H tìm cách chiếm đoạt xe máy của L. Để thực hiện ý đồ trên, H nói dối với L mượn  xe máy của L về quê thăm mẹ ốm, L tưởng thật và giao xe  và giấy tờ xe cho H. Sau khi laýy được xe, H bán lấy 30 triệu đồng và bỏ vào miền Nam rồi gọi điẹn về cho L là bị mất xe không dám gặp L nữa.

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng

Đây là trường hợp người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng. Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội tương tự, việc xác định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá).

Mặc dù điều luật chỉ quy định chiếm đoạt tài sản nhưng không vì thế mà cho rằng, người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản trị giá từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng mới thuộc trường hợp phạm tội này, mà chỉ cần xác định người phạm tội có ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản có giá trị như trên là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm e khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc.

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây hậu quả nghiêm trọng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng quy định ở các điều khoản tương ứng của các tội có tính chất chiếm đoạt, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này hậu quả nghiêm trọng là do hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây ra. Cũng như các trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, phi vật chất do hành vi trộm cắp gây ra. Nói chung, hậu quả nghiêm trọng do hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây ra phải tương đương với các tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự, vì nó được quy định trong cùng một khung hình phạt với các tình tiết này.

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp do hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên đã gây ra những thiệt hại khác ngoài những thiệt hại đã được quy định là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt. Những thiệt hại này gọi chung là “hậu quả nghiêm trọng”. Căn cứ vào các quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự, qua thực tiến xét xử, có thể coi những thiệt hại sau là hậu quả nghiêm trọng do hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây ra:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 11%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 11% đến 30%;

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, nhưng không phải là giá trị tài sản người phạm tội chiếm đoạt;

– Ngoài những thiệt hại về sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, như: ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho nhiều người trên một địa bàn nhất định. Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm, là tội phạm  nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:

Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới hai năm tù). Việc cho người phạm tội được hưởng án treo phải thận trọng và phải đảm bảo đúng các quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

– Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 139 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;

– Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.

  1. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm  e khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự, chỉ khác là tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng. Cũng như các trường hợp tương tự khác, việc xác định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá).

Mặc dù điều luật chỉ quy định chiếm đoạt tài sản nhưng không vì thế mà cho rằng, người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản trị giá từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng mới thuộc trường hợp phạm tội này, mà chỉ cần xác định người phạm tội có ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản có giá trị như trên là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc.

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây hậu quả rất nghiêm trọng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng khác, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này hậu quả rất nghiêm trọng là do hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây ra. Cũng như các trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, phi vật chất do hành vi phạm tội gây ra. Nói chung, hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây ra phải tương đương với các tình tiết quy định tại khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự, vì nó được quy định trong cùng một khung hình phạt với các tình tiết này.

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây hậu quả rất nghiêm trọng là trường hợp do hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên đã gây ra những thiệt hại khác ngoài những thiệt hại đã được quy định là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt. Những thiệt hại này gọi chung là “hậu quả rất nghiêm trọng”. Căn cứ vào các quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự, qua thực tiến xét xử, có thể coi những thiệt hại sau là hậu quả rât nghiêm trọng do hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt  tài sản gây ra:

Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 31% đến 60%;

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, nhưng không phải là giá trị tài sản người phạm tội chiếm đoạt hoặc có ý định chiếm đoạt;

– Ngoài những thiệt hại về sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, như: ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng rất xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho rất nhiều người trên một địa bàn nhất định. Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:

Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới bảy năm tù) nhưng không được dưới hai năm tù. Việc cho người phạm tội được hưởng án treo phải rất thận trọng và phải đảm bảo đúng các quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

– Người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 139 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;

– Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.

  1. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm  e khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự, chỉ khác là tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên. Cũng như các trường hợp tương tự khác, việc xác định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá).

Mặc dù điều luật chỉ quy định chiếm đoạt tài sản nhưng không vì thế mà cho rằng, người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản trị giá từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng mới thuộc trường hợp phạm tội này, mà chỉ cần xác định người phạm tội có ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản có giá trị như trên là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc.

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này hậu quả đặc biệt nghiêm trọng là do hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây ra. Cũng như các trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, phi vật chất do hành vi phạm tội gây ra. Nói chung, hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây ra phải tương đương với các tình tiết quy định tại khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự, vì nó được quy định trong cùng một khung hình phạt với các tình tiết này.

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng là trường hợp do hành vi phạm tội nên đã gây ra những thiệt hại khác ngoài những thiệt hại đã được quy định là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt. Những thiệt hại này gọi chung là “hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Căn cứ vào các quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự, qua thực tiến xét xử, có thể coi những thiệt hại sau là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi phạm tội lừa dảo chiếm đoạt tài sản gây ra:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 61%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% trở lên hoặc làm chết người. Các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, không bao gồm các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ mà người phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc tội giết người.

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ  500.000.000 đồng trở lên, nhưng không phải là giá trị tài sản người phạm tội chiếm đoạt;

– Ngoài những thiệt hại về sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, như: ảnh hưởng đặc biệt xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng đặc biệt xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho rất nhiều người ở nhiều địa bàn nhất định. Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm năm, tù chung thân hoặc tử hình, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:

Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới mười hai năm tù) nhưng không được dưới bảy năm tù.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

– Người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 139 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;

– Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.

Theo hướng tại Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15-3-2001 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, thì:

Trong trường hợp không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ, nhưng đánh giá tính chất tăng nặng và tính chất giảm nhẹ tương đương nhau thì phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng; phạt tù chung thân nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 1.500.000.000 đồng đến dưới 4.500.000.000 đồng; phạt tử hình nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 4.500.000.000 đồng trở lên.

Trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ mà không có tình tiết tăng nặng hoặc có ít tình tiết tăng nặng hơn tình tiết giảm nhẹ, đồng thời đánh giá tính chất giảm nhẹ và tính chất tăng nặng xét thấy có thể giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội thì phạt tù từ bảy năm đến dưới mười hai năm nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng; phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 1.500.000.000 đồng đến dưới 4.500.000.000 đồng; phạt tù chung thân nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 4.500.000.000 đồng trở lên.

Trong trường hợp có nhiều tình tiết tăng nặng mà không có tình tiết giảm nhẹ hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ hơn tình tiết tăng nặng, đồng thời đánh giá tính chất tăng nặng và tính chất giảm nhẹ xét thấy cần tăng nặng trách nhiệm hình sự cho người phạm tội thì phạt tù chung thân nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng; xử phạt tử hình nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 1.500.000.000 đồng trở lên.

Nếu người phạm tội hoặc thân thích của người phạm tội đã bồi thường được một phần đáng kể giá trị tài sản bị chiếm đoạt thì hình phạt tử hình có thể được giảm xuống tù chung thân và hình phạt tù chung thân có thể giảm xuống hình phạt tù có thời hạn (trừ trường hợp có nhiều tình tiết tăng nặng hơn tình tiết giảm nhẹ và xét cần phải tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Được coi là đã bồi thường được một phàn đáng kể giá trị tài sản bị chiếm đoạt khi đã bồi thường được ít nhất 1/2 giá trị tài sản bị chiếm đoạt hoặc 1/3 giá trị tài sản bị chiếm đoạt nếu người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội đã thực hiện mọi biện pháp để bồi thường.

  1. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Theo quy định tại khoản 5 Điều 139 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

So với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 134, Điều 134a và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 157 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hình phạt bổ sung đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm được sửa đổi bổ sung như sau:

Bỏ hình phạt quản chế hoặc cấm cư trú;

Hình phạt tiền có thể áp dụng đối với người phạm tội có mức cao hơn mức quy định tại Bộ luật hình sự năm 1985 và được áp dụng đối với cả hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân  Mức tiền phạt chung cho hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản là từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng. Đây cũng là khung hình phạt tiền đối với người phạm tội. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì không được phạt trên một trăm triệu đồng, nhưng nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì có thể phạt dưới mười triệu đồng nhưng không được dưới một triệu đồng vì theo quy định tại khoản 3 Điều 30 Bộ luật hình sự mức phạt tiền không được dưới một triệu đồng.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI CÔNG NHIÊN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN (ĐIỀU 137)

Cũng tương tự như đối với tội cướp giật tài sản, điều văn của điều luật không mô tả hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản được thực hiện như thế nào, nhưng căn cứ vào lý luận và thực tiễn xét xử thì công nhiên chiếm đoạt  tài sản là hành vi công khai lấy tài sản trước sự chứng kiến của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài mà không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực hoặc bất cứ một thủ đoạn nào nhằm uy hiếp tinh thần của người quản lý tài sản. Thông thường người phạm tội lợi dụng sự vướng mắc của người quản lý tài sản để lấy tài sản trước mắt họ mà không làm gì được. Ví dụ: Anh Trần Quốc T để xe máy trên bờ xuống sông tắm, nhưng quên không rút chìa khoá, Từ Văn L đi qua thấy vậy nổ máy phóng xe đi, anh Toà án ở dưới sông nhìn thấy nhưng không làm gì được. Vì vậy, có thể định nghĩa tội công nhiên chiếm đoạt tài sản như sau:

Công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi lợi dụng sơ hở, vướng mắc của người quản lý tài sản để lấy tài sản một cách công khai.

Đặc điểm nổi bật của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là người phạm tội ngang nhiên lấy tài sản trước mắt người quản lý tài sản mà họ không làm gì được (không có biện pháp nào ngăn cản được hành vi chiếm đoạt của người phạm tội hoặc nếu có thì biện pháp đó cũng không đem lại hiệu quả, tài sản vẫn bị người phạm tội lấy đi một cách công khai).

Tính chất công khai, trắng trợn của hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản thể hiện ở chỗ người phạm tội không giấu diếm hành vi phạm tội của mình, trước, trong hoặc ngay sau khi bị mất tài sản người bị hại biết ngay người lấy tài sản của mình ( biết mà không thể giữ được).

Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được nhà làm luật quy định thành một tội phạm độc lập là do yêu cầu của thực tiễn xét xử đặt ra. Trước khi có Bộ luật hình sự, tội danh nay chưa được quy định là một tội phạm độc lập. Hầu hết luật hình sự các nước, kể cả các nước xã hội chủ nghĩa trong đó có Liên Xô cũ cũng không quy định tội danh này. Tuy nhiên, không phải vì không quy định mà hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản không bị xử lý hình sự, mà trên thực tế hành vi này được coi như là hành vi cướp giật tài sản. Ví dụ: Điều 161 Bộ luật hình sự của Liên bang Nga ( có hiệu lực từ ngày 1-3-1996) quy định: “Cướp giật là công khai chiếm đoạt tài sản của người khác.” Quy định này được hiểu là bao gồm cả hành vi giật tài sản và hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản. Ở nước ta, trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985, các văn bản pháp luật hình sự cũng không quy định tội công nhiên chiếm đoạt, nhưng thực tiễn xét xử có những trường hợp hành vi phạm tội không phải là cướp giật, cũng không phải là cưỡng đoạt hay cướp mà chỉ là hành vi công khai lấy tài sản nhưng không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực, không giật…Ví dụ: Hợp tác xã nông nghiệp tát hồ để thu hoạch cá, khi nước trong hồ đã cạn, một số người tự ý xuống hồ bắt cá, người bảo vệ đã ngăn cản, thậm chí nổ súng chỉ thiên, nhưng vì ỷ vào số đông nên người bảo vệ không thể ngăn cản được buộc phải để mất cá. Nếu coi hành vi của những người này là cưỡng đoạt tài sản thì không đúng với dấu hiệu cấu thành tội cưỡng đoạt tài sản vì những người bắt cá không hề có hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn uy hiếp tinh thần người bảo vệ, nếu coi hành vi này là cướp giật thì cũng không chính xác, vì những người này tự xuống hồ bắt cá một cách công khai chứ không giật cá từ tay người bảo vệ. Cũng chính từ thực tế này, nên khi xây dựng Bộ luật hình sự năm 1985 nhà làm luật đã coi hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản là một hành vi cấu thành tội độc lập, nhưng cũng chỉ quy định chung trong cùng một điều luật với tội cướp giật tài sản (Điều 131 và Điều 154). Nay Bộ luật hình sự năm 1999 quy định thành một tội danh độc lập trong một điều luật riêng (Điều 137, chung cho cả hai trường hợp công nhiên chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa và công nhiên chiếm đoạt tài sản của công dân)

So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 137 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều sửa đổi bổ sung, nhất là đối với các tình tiết là yếu tố định tội; phân biệt ranh giới giữa hành vi là tội phạm với hành vi chưa tới mức phải xử lý về hình sự; đây cũng là điểm khác biệt cơ bản so với Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này. Về hình phạt, Điều 137 quy định nặng hơn Bộ luật hình sự năm 1985 (mức cao nhất là tù chung thân, trong khi đó, Điều 131 quy định là hai mươi năm tù, còn Điều 154 là mười lăm năm tù).

Về cơ cấu, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 137 Bộ luật hình sự được cấu tạo thành 5 khoản ( Điều 131 và 154 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội này chỉ có 3 khoản ). Khoản 1 là cấu thành cơ bản có khung hình phạt có khung hình phạt tù từ sáu tháng đến ba năm (nhẹ hơn khoản 1 Điều 131 và nặng hơn khoản 1 Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1985); khoản 2 có khung hình phạt từ tù từ hai năm đến bảy năm ( nhẹ hơn khoản 2 của cả hai Điều 131 và 154 Bộ luật hình sự năm 1985); khoản 3 có khung hình phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm ( nhẹ hơn khoản 3 Điều 131 và bằng khoản 3 Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1985); khoản 4 có khung hình phạt từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân (là khung hình phạt mới mà Điều 131 và Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định)

Hình phạt bổ sung cũng được quy định ngay trong điều luật.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

  1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm

Đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, chủ thể của tội phạm cũng tương tự như đối với tội xâm phạm sở hữu khác. Tuy nhiên, người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 137 Bộ luật hình sự, vì khoản 1 Điều 137 Bộ luật hình sự là tội phạm ít nghiêm trọng và khoản 2 Điều 137 Bộ luật hình sự là tội phạm nghiêm trọng, mà theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản cần chú ý độ tuổi của người phạm tội và các tình tiết định khung hình phạt. Nếu người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 137 Bộ luật hình sự thì chỉ cần xác định người phạm tội đủ 14 tuổi là đã phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 137 Bộ luật hình sự thì người phạm tội phải đủ 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự.

  1. Các dấu hiệu về khách thể của tội phạm

Khách thể của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản cũng tương tự như tội có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội công nhiên chiếm đoạt tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đây cũng là một điểm khác với các tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, đặc điểm này này được thể hiện trong cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản nhà làm luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt. Vì vậy, nếu sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt mà có hành vi chống trả để tẩu thoát, gây chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

  1. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan

Do đặc điểm riêng của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, nên người phạm tội chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt”, nhưng chiếm đoạt bằng hình thức công khai, với thủ đoạn lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khách quan khác như: thiên tai, hoả hoạn, chiến tranh… Mặc dù, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là tội phạm chưa dược các nhà khoa học nghiên cứu nhiều, nhưng qua thực tiễn xét xử chúng ta có thể thấy một số trường hợp công nhiên chiếm đoạt tài sản sau:

– Người phạm tội lợi dụng sơ hở, vướng mắc của người quản lý tài sản để công nhiên chiếm đoạt tài sản của họ. Ví dụ: Nguyên Xuân V đi làm đồng về thấy Hoàng Đình Q đang tắm dưới chân cầu, trên bờ có một chiếc xe máy Dream II, trên giỏ xe có bộ quần áo, V cho rằng chiếc xe này là của người đang tắm dưới sông. Khi đến gần xe, V thấy chìa khoá xe vẫn cắm trong ổ khoá, nên bèn nảy ý định chiếm đoạt và nổ máy phóng đi; anh Q đang tắm dưới sống thấy V lấy xe của mình bèn hô cướp! cướp! nhưng không có cách nào ngăn cản được hành vi lấy xe của V. Trong trường hợp, Nguyễn Xuân V đã lợi dụng sơ hở của anh Q không rút chìa khoá xe, đồng thời đang vướng mắc (đang tắm dưới sông) không có điều kiện bảo vệ tài sản của mình, nên V mới chiếm đoạt được xe máy của anh Q. Thông thường các trường hợp bị mất tài sản trong trường hợp này, chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản chỉ còn cách hô cướp! cướp! và đứng nhìn người phạm tội lấy tài sản của mình, mà không có cách nào khác để lấy lại tài sản.

– Người phạm tội lợi dụng hoàn cảnh khách quan như: thiên tai, hoả hoạn, bị tai nạn, đang có chiến sự để chiếm đoạt tài sản. Những hoàn cảnh cụ thể này không do người có tài sản gây ra mà do hoàn cảnh khách quan làm cho họ lâm vào tình trạng không thể bảo vệ được tài sản của mình, nhìn thấy người phạm tội lấy tài sản mà không làm gì được. Ví dụ: Trên quốc lộ 5A, đoạn Km 72+900 thuộc đại phận xã Phúc Thanh A, huyện Kim Môn, tỉnh Hải Hưng (cũ) xảy ra vụ tai nạn giao thông giữa xe ôtô mang biển kiếm soát 15K-15-87 với xe môtô hai bánh mang biến kiểm soát 34-457HN làm anh Đỗ Đức Thịnh, người điều khiển xe môtô chết tại chỗ và anh Nguyễn Chí Kiên ngồi sau xe bị thương nặng, cả hai anh đều là cán bộ Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng hải-Hải Phòng có nhiệm vụ đem 2 Kg vàng về Hải Dương thuê gia công đồ trang sức, nhưng vị tai nạn nên 2 Kg vàng dã bị mất. Sau khi sự việc xảy ra, Cơ quan điều tra đã phát hiện Đỗ Văn Hoạ và Nho Văn Mạnh là thủ phạm chiếm đoạt số vàng trên trong hoàn cảnh mọi người đang lo cấp cứu các nạn nhân17. Trường hợp phạm tội của Hoạ và Mạnh cũng là trường hợp công nhiên chiếm đoạt tài sản, nhưng lại một trường hợp rất dễ nhầm lẫn với các tội trộm cắp tài sản hoặc chiếm giữ trái phép tài sản. Trong nhân dân, loại hành vi như của Hoạ và Mạnh được gọi là hành vi “hôi của” thường xảy ra ở nơi bị hoả hoạn, trong khi mọi người đang lo cứu chữa nhà bị cháy thì có kẻ chạy vào nhà lấy tài sản của chủ nhà bị cháy đem về nhà mình cất giấu.

– Thực tiễn xét xử cho thấy còn loại hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản, nhưng lại chiếm đoạt sau khi đã thực hiện xong hành vi phạm tội khác (thông thường là hành vi phạm tội giết người; cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; hiếp dâm; cưỡng dâm). Đây cũng là loại hành vi mà nhiều người lầm tưởng đó là hành vi cướp tài sản vì nó được thực hiện sau khi đã thực hiện hành vi dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực (khi phân tích hành vi khách quan của tội cướp tài sản chúng tôi đã đề cập và nêu một vụ án cụ thể về hành vi chiếm đoạt chiếc xe đạp của Phạm Văn Hiếu chỉ là hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản chứ không phải là cướp tài sản như Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm đã kết án).

Tính chất công khai trắng trợn tuy không phải là hành vi khách quan, nhưng lại là một đặc điểm cơ bản, đặc trưng đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Đây là dấu hiệu chủ yếu để phân biệt tội công nhiên chiếm đoạt tài sản với tội trộm cắp tài sản, nếu chiếm đoạt tài sản một cách lén lút mà người quản lý tài sản không biết là hành vi trộm cắp. Công nhiên chiếm đoạt tài sản trước hết là công nhiên với chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản, sau đó là công nhiên đối với mọi người xung quanh. Tuy nhiên, đối với người xung quanh, người phạm tội có thể có những thủ đoạn gian dối, lén lút để tiếp cận tài sản, nhưng khi chiếm đoạt người phạm tội vẫn công khai, trắng trợn.

Hậu quả

Hậu quả của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Mặc dù, khoản 1 của điều luật quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 500.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm, còn nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 500.000 đồng thì phải kèm theo điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm mới cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, nhưng không vì thế mà cho rằng, phải có thiệt hại về tài sản ( người phạm tội chiếm đoạt được tài sản ) thì mới cấu thành tội phạm. Khoản 1 của điều luật quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 500.000 đồng là để áp dụng trong những trường hợp người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị không lớn như xe đạp cũ, quần áo, dầy dép, con gà, con vịt, một ít cá, tôm.v.v…Đối với những trường hợp người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc rất lớn như ôtô, xe máy, máy tính xách tay, đồng hồ đắt tiền hoặc tài sản khác có giá trị hàng chục triệu đồng trở lên, thì dù người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản vẫn bị coi là phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, là phạm tội trong trường hợp phạm tội chưa đạt hoặc chuẩn bị phạm tội tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể.

Nếu người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có trị dưới 500.000 đồng, nhưng chưa chiếm đoạt được thì chưa cấu thành tội Công nhiên chiếm đoạt tài sản, vì dù có chiếm đoạt được cũng chưa cấu thành tội phạm huống hồ chưa chiếm đoạt được. Tuy nhiên, có vấn đề về lý luận và thực tiễn xét xử cần phải bàn là, vậy trường hợp người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới 500.000 và chưa chiếm đoạt được nhưng lại thuộc trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về hành vi chiếm đoạt chưa được xoá án tích thì đã cấu thành tội phạm chưa ? Về nguyên tắc (trừ trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng vì hậu quả nghiêm trọng là hậu quả của việc mất 500.000 đồng nhưng chưa mất thì không thể nói gây hậu quả nghiêm trọng được), còn hai trường hợp đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về hành vi chiếm đoạt chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, mà chưa chiếm đoạt được tài sản thì hành vi của người phạm tội cũng dã cấu thành tội phạm công nhiên chiếm đoạt rồi, nhưng ở giai đoạn phạm tội chưa đạt, nếu mới chuẩn bị phạm tội thì chưa cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, về đường lối xử lý, tuỳ từng trường hợp cụ mà quyết định việc có truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội hay không. Theo chúng tôi chỉ nên truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã bị xử phạt hành chính nhiều lần về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án nhiều lần về tội chiếm đoạt hoặc họ là phần tử nguy hiểm, là đối tượng có nhiều tiền án, tiền sự, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.

  1. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm

Cũng như đối với tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản và tội cướp giật tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản cũng được thực hiện do cố ý. Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản.

Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, khác với các tội cướp, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc tội cưỡng đoạt tài sản, người phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản không thể có mục đích chiếm đoạt tài sản trong hoặc sau khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, vì hành vi chiếm đoạt tài sản đã bao hàm mục đích của người phạm tội rồi.

Vì vậy, có thể nói mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, ngoài mục đích chiếm đoạt, người phạm tội còn có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hoặc chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Ví dụ: Nguyễn H , là sinh viên năm thứ tư Trường đại học Đ muốn yêu chị Trần Thị Hoài T sinh năm thứ hai cùng trường, nhưng chị T từ chối tình yêu của H. H bàn với Trần Ngọc A bạn học cùng lớp tìm cách lấy xe đạp Mini Nhật của T, để T không có xe đi học phải nhờ H chở, vì H có xe máy, A đồng ý chờ thời cơ sẽ thực hiện. Một hôm, A đi chơi về thấy T và các bạn đang chèo thuyền trên hồ, A thấy xe đạp của T để trên bờ không khoá đã đến lấy đạp đi trước sự chứng kiến của T và các bạn nhưng vì đang ở dưới thuyền nên không làm gì được.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản không có các tình tiết định khung hình phạt

Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 137 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội công nhiên tài sản. So với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 1 Điều 137 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn khoản 1 Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng nhẹ hơn khoản 1 Điều 131 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, đối với hành vi phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản của công dân xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau ngày 4-1-2000 (ngày Chủ tịch nước công bố Bộ luật hình sự năm 1999), mới phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì không được áp dụng khoản 1 Điều 137 Bộ luật hình sự năm 1999; đối với hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000  mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện, xử lý thì được áp dụng Điều 137 Bộ luật hình sự 1999 để điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội.

Cấu thành cơ bản của tội công nhiên chiếm đoạt quy định tại Điều 137 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều tình tiết là yếu tố định tội mà nhà làm luật mới quy định, làm ranh giới phân biệt giữa hành vi phạm tội với hành vi chỉ bị xử lý hành chính, Vì vậy, khi xác định các tình tiết là yếu tố định tội này cần chú ý:

– Giá trị tài sản bị chiếm đoạt là giá thị trường tự do vào thời điểm xảy ra tội phạm, trong trường hợp không xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá).

– Công nhiên chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới 500.000 đồng gây hậu qủa nghiêm trọng là trường hợp do thực hiện hành vi phạm tội mà đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về vật chất hoặc tinh thần cho người bị hại hoặc cho xã hội. Cho đến nay, chưa có hướng nào về trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi chiếm đoạt gây ra. Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, qua thực tiễn xét xử, có thể coi những thiệt hại sau đây là hậu quả nghiêm trọng của hành vi công nhiên chiếm đoạt:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người có tỷ lệ thương tật từ 21% đến 40%;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người mà tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả mọi người từ 21% đến 40%;

– Gây thiệt hại về tải sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

– Ngoài thiệt hại về sức khoẻ, tài sản, còn những thiệt hại khác như gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây hoang mang cho nhân dân trong một địa bàn nhất định…Những thiệt hại này, tuỳ từng vụ án cụ thể mà các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào tình hình cụ thể để xác định đã là hậu quả nghiêm trọng chưa.

– Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi công nhiên chiếm đoạt, người phạm tội đã bị xử phạt hành chính cũng về hành vi chiếm đoạt tài sản bằng một trong các hình thức được quy định trong Pháp lệnh xử phạt hành chính do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dung mà chưa quá một năm; nếu người phạm tội bị xử phạt hành chính về hành vi khác ( không phải là tội chiếm đoạt) thì không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 137 Bộ luật hình sự;

– Đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xoá án tích mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi công nhiên chiếm đoạt, người phạm tội đã bị Toà án kết án về một trong các tội có tính chất chiếm đoạt nhưng chưa được xoá án tích theo quy định tại Điều 77 Bộ luật hình sự; nếu người phạm tội bị kết án về tội phạm khác ( không phải là tội chiếm đoạt) thì không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 137 Bộ luật hình sự;

Khoản 1 Điều 137 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm ít nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là ba năm tù, nên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi mà thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 137 thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội công nhiên chiếm đoạt  tài sản theo khoản 1 Điều 137 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu các tình tiết khác như nhau thì mức hình phạt đối với người phạm tội phụ thuộc vào những yếu tố sau:

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có ít hoặc không có tình tiết tăng nặng;

– Người phạm tội không có tình tiết giảm nhẹ phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ được phạt nhẹ hơn người có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội chiếm đoạt được tài sản phải bị phạt nặng hơn người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản; tài sản bị chiếm đoạt càng nhiều, hình phạt càng nặng;

– Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt có thể được áp dụng dưới sáu tháng tù (nhưng không được dưới 3 tháng tù) hoặc được chuyển sang loại hình phạt khác nhẹ hơn; nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì được hưởng án treo.

  1. Công nhiên chiếm đoạt tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 137 Bộ luật hình sự

Hành hung để tẩu thoát

Đây là trường hợp sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt hoặc đã bị bắt, nên đã có hành vi dùng vũ lực đối với chủ sở hữu hoặc những người khác, nhưng hành vi dùng vũ lực chưa gây ra thương tích hoặc nếu đã gây ra thương tích thì tỷ lệ thương tật chưa đến 11%, nếu tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên, thì tuỳ thuộc vào mức tỷ lệ thương tật, mà người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe theo khoản 1, khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 104 Bộ luật hình sự.

Khi xác định trường hợp phạm tội này, cần phân biệt với người phạm tội hành hung không nhằm mục đích tẩu thoát mà nhằm giữ bằng được tài sản. Nếu người phạm tội sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, bị đuổi bắt hoặc đã bị bắt nhưng cố tình giữ tài sản bằng cách hành hung người khác thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản. Trường hợp này, khoa học luật hình sự gọi là chuyển hoá từ tội công nhiên chiếm đoạt sang tội cướp tài sản.

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng

Đây là trường hợp người phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng. Việc xác định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá).

Mặc dù điều luật chỉ quy định chiếm đoạt tài sản nhưng không vì thế mà cho rằng, người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản trị giá từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng mới thuộc trường hợp phạm tội này, mà chỉ cần xác định người phạm tội có ý định công nhiên chiếm đoạt tài sản có giá trị như trên là dã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 2 Điều 137 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc.

Tái phạm nguy hiểm

Trường hợp phạm tội này lại hoàn toàn giống với tất cả những trường hợp tái phạm nguy hiểm khác, chỉ cần xác định người phạm tội có đủ các dấu hiệu quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Đây là tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội, không phụ thuộc vào hành vi phạm tội cụ thể của tội phạm này hay tội phạm khác.

Gây hậu quả nghiêm trọng

Gây hậu qủa nghiêm trọng là trường hợp do thực hiện hành vi phạm tội mà đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về vật chất hoặc tinh thần cho người bị hại hoặc cho xã hội. Cho đến nay, chưa có hướng nào về trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi công nhiên chiếm đoạt gây ra. Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, qua thực tiễn xét xử, có thể coi những thiệt hại sau đây là hậu quả nghiêm trọng của hành vi công nhiên chiếm đoạt:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người có tỷ lệ thương tật từ 21% đến 40%;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người mà tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả mọi người từ 21% đến 40%;

– Gây thiệt hại về tải sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

– Ngoài thiệt hại về sức khoẻ, tài sản, còn những thiệt hại khác như gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây hoang mang cho nhân dân trong một địa bàn nhất định…Những thiệt hại này, tuỳ từng vụ án cụ thể mà các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào tình hình cụ thể để xác định đã là hậu quả nghiêm trọng chưa.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 137 Bộ luật hình sự thì người phạm tội bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm, là tội phạm nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:

Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới hai năm tù) nhưng không được dưới sáu tháng tù.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

– Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 137 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 137 Bộ luật hình sự;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;

 

– Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.

  1. Công nhiên chiếm đoạt tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 137 Bộ luật hình sự

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 137, chỉ khác ở chỗ giá trị tài sản bị chiếm đoạt là từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.

Gây hậu quả rất nghiêm trọng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều 137, chỉ khác ở chỗ hậu quả do hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản gây là rất nghiêm trọng. Các thiệt hại sau đây được coi là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản gây ra:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người có tỷ lệ thương tật từ 41% đến 60%;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người mà tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 41%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả mọi người từ 41% đến 60%;

– Gây thiệt hại về tải sản có giá trị từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

– Ngoài thiệt hại về sức khoẻ, tài sản, còn những thiệt hại khác như gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây hoang mang cho nhân dân trong một địa bàn nhất định…Những thiệt hại này, tuỳ từng vụ án cụ thể mà các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào tình hình cụ thể để xác định đã là hậu quả nghiêm trọng chưa.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 137 Bộ luật hình sự thì người phạm tội bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:

Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới bảy năm tù) nhưng không được dưới hai năm tù.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

– Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 137 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 137 Bộ luật hình sự;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;

– Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.

  1. Công nhiên chiếm đoạt tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 137 Bộ luật hình sự

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm b khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 137, chỉ khác ở chỗ giá trị tài sản bị chiếm đoạt là từ năm trăm triệu đồng trở lên

Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 137, chỉ khác ở chỗ hậu quả do hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản gây là đặc biệt nghiêm trọng. Các thiệt hại sau đây được coi là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản gây ra:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người mà tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 61%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả mọi người từ 61%;

– Gây thiệt hại về tải sản có giá trị từ 500.000.000 đồng trở lên;

– Ngoài thiệt hại về sức khoẻ, tài sản, còn những thiệt hại khác như gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây hoang mang cho nhân dân trong một địa bàn nhất định…Những thiệt hại này, tuỳ từng vụ án cụ thể mà các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào tình hình cụ thể để xác định đã là hậu quả nghiêm trọng chưa.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 137 Bộ luật hình sự thì người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:

Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới mười hai năm tù) nhưng không được dưới bảy năm tù.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

– Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 137 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 137 Bộ luật hình sự;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;

– Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.

  1. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản

Theo quy định tại khoản 5 Điều 137 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng. So với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 131 và tội công nhiên chiếm đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hình phạt bổ sung đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 137 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều điểm được sửa đổi bổ sung. Bỏ hình phạt quản chế hoặc cấm cư trú, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản;

Hình phạt tiền là loại hình phạt mới được quy định đối với người phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, mức phạt tiền là từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng. Có thể coi đây là khung hình phạt tiền đối với người phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản thì không được phạt trên một trăm triệu đồng, nhưng nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì có thể phạt dưới năm triệu đồng nhưng không được dưới một triệu đồng vì theo quy định tại khoản 3 Điều 30 Bộ luật hình sự mức phạt tiền không được dưới một triệu đồng.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN (ĐIỀU 138)

Cũng tương tự như đối với tội cướp giật tài sản và tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, điều văn của điều luật không mô tả hành vi trộm cắp tài sản được thực hiện như thế nào, nhưng căn cứ vào lý luận và thực tiễn xét xử thì trộm cắp tài sản   là hành vi lén lút lấy tài sản của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài mà không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực hoặc bất cứ một thủ đoạn nào nhằm uy hiếp tinh thần của người quản lý tài sản. Thông thường người phạm tội lợi dụng sự mất cảnh giác của người quản lý tài sản để lấy tài sản mà người quản lý tài sản không hề biết. Ví dụ: Đào Văn T theo dõi thấy anh Vũ Thế Đ để xe máy ở vỉa hè vào Bưu điện nhận bưu phẩm, T đã dùng chìa khoá vạn năng mở được xe và nổ máy phóng đi. Khi anh Đ ra thì thấy xe đã bị mất. Vì vậy, có thể định nghĩa tội trộm cắp tài sản như sau:

Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác

Đặc điểm nổi bật của tội trộm cắp tài sản là người phạm tội lén lút (bí mật) lấy tài sản mà chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không biét mình bị mất tài sản, chỉ sau khi mất tài sản họ mới biêt bị mất tài sản.

Tính chất lén lút (bí mật) của hành vi trộm cắp tài sản thể hiện ở chỗ người phạm tội giấu diếm hành vi phạm tội của mình. Lén lút, đối lập với công khai trắng trợn. Tuy nhiên, lén lút không phải đặc trưng duy nhất của tội trôm cắp tài sản, mà trong nhiều tội phạm người phạm tội cũng lén lút nhưng là để thực hiện một mục đích khác như: Lẻn vào nhà ngừơi khác để đặt mìn nhằm mục đích giết hại những người trong gia đình họ, lẻn vào phòng ngủ của phụ nữ để thực hiện hành vi hiếp dâm. v.v… Vì vậy, khi nói đến tội trộm cắp tài sản thì không thể không đi kèm với hành vi chiếm đoạt tài sản, nếu lén lút mà không nhằm chiếm đoạt tài sản thì không phải là trộm cắp tài sản. Có thể nói, trộm cắp là chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn lén lút.

So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều sửa đổi bổ sung, nhất là đối với các tình tiết là yếu tố định tội; phân biệt ranh giới giữa hành vi là tội phạm với hành vi chưa tới mức phải xử lý về hình sự; đây cũng là điểm khác biệt cơ bản so với Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này. Về hình phạt, Điều 138 quy định nặng hơn Điều 155 và nhẹ hơn  Điều 132 Bộ luật hình sự năm 1985  ( Điều 132 quy định là tử hình, còn Điều 155 là hai mươi năm tù).

Về cơ cấu, tội trộm cắp tài sản quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự được cấu tạo thành 5 khoản ( Điều 132 và 155 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội này chỉ có 3 khoản ). Khoản 1 là cấu thành cơ bản có khung hình phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm (nhẹ hơn khoản 1 Điều 132 và nặng hơn khoản 1 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1985); khoản 2 có khung hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm (nhẹ hơn khoản 2 Điều 132 và nặng hơn khoản 2 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1985); khoản 3 có khung hình phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm ( nhẹ hơn cả khoản 3 Điều 132 và khoản 3 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1985); khoản 4 có khung hình phạt từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân (là khung hình phạt mới mà Điều 132 và Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định)

Hình phạt bổ sung cũng được quy định ngay trong điều luật.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

  1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm

Đối với tội trộm cắp tài sản, chủ thể của tội phạm cũng tương tự như đối với tội xâm phạm sở hữu khác. Tuy nhiên, người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự, vì khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự là tội phạm ít nghiêm trọng và khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự là tội phạm nghiêm trọng, mà theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản cần chú ý độ tuổi của người phạm tội và các tình tiết định khung hình phạt. Nếu người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 138 Bộ luật hình sự thì chỉ cần xác định người phạm tội đủ 14 tuổi là đã phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự thì người phạm tội phải đủ 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự.

  1. Các dấu hiệu về khách thể của tội phạm

Khách thể của tội trộm cắp tài sản cũng tương tự như tội có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội trộm cắp tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đây cũng là một điểm khác với các tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội trộm cắp tài sản nhà làm luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt. Vì vậy, nếu sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt mà có hành vi chống trả để tẩu thoát, gây chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

  1. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan

Do đặc điểm của tội trộm cắp tài sản, nên người phạm tội chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt”, nhưng chiếm đoạt bằng hình thức lén lút, với thủ đoạn lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của người quản lý tài sản, không trông giữ cẩn thận hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khách quan khác như: chen lấn, xô đẩy, nhằm tiếp cận tài sản để thực hiện hành vi chiếm đoạt mà người quản lý tài sản không biết. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta có thể chứng kiến rất nhiều hành vi trộm cắp như: trộm cắp ở bến tầu, bến xe, nhà ga, khách sạn, trong chợ, ngoài đường, trộm đêm, trộm ngày, trộm trên các phương tiện giao thông… ở đâu, lúc nào cũng có thể xảy ra hành vi trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, không phải trường hợp phạm tội nào cũng giống nhau, thực tiễn xét xử cho thấy có nhiều trường hợp dễ nhầm lẫn với các tội phạm khác, có khi chúng ta xác định hành vi đó là tội trộm cắp, nhưng lại không phải, ngược lại có trường hợp được xác định không phải là hành vi trộm cắp nhưng lại đúng là trộm cắp. Đối với các trường hợp này thường nhầm với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội chiếm giữ trái phép tài sản. Để xác định hành vi trộm cắp tài sản và phân biệt tội trộm cắp với một số tội phạm khác gần kề, chúng ta nghiên cứu một số dạng trộm cắp tài sản có tính chất đặc thù sau:

– Người phạm tội dùng những thủ đoạn gian dối để tiếp cận tài sản để đến khi có điều kiện đã lến lút chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. Ví dụ: Bùi Văn D đóng giả Bộ đội vào ngủ nhờ nhà ông Đinh Văn T, ông T tưởng D là bộ đội thật nên cho ngủ. Đến 12 giờ đêm, D thức giấc thấy mọi người trong nhà dã ngủ say, D đã lục tủ lấy được 5.000.000 đồng và một lượng vàng rồi lấy luôn cả chiếc xe đạp của gia đình ông T giắt ra khỏi nhà, nhưng D đạp xe ra tới cổng làng thì bị tổ tuần tra bắt quả tang cùng với tang vật.

– Người phạm tội lợi dụng chỗ đông người, chen lấn, xô đẩy để chiếm đoạt tài sản của người khác. Ví dụ: Nguyễn Văn N và một số tên khác thường đến các bến tàu, bến xe để hoạt động phạm tội. Một hôm, N và đồng bọn đến Nhà ga thành phố H, thấy cửa bán vé tàu đi tỉnh B có nhiều người xếp hàng mua vé đang chen lẫn, xô đẩy; N bàn với đồng bọn giả vờ là hành khách vào chen lẫn, xô đẩy rồi lén giật đồng hồ của anh Hoàng Công Kh rơi xuống đất để đồng bọn nhặt. Do mải chen lấn, xô đẩy nên anh Kh không biết ai giật đồng hồ của mình. Nếu chỉ căn cứ vào hành vi thì trường hợp phạm tội này sẽ được xác định là cướp giật tài sản, nhưng căn cứ vào thủ đoạn phạm tội và hoàn cảnh thực tế lúc xảy ra tội phạm thì lại là hành vi trộm cấp tài sản vì N và đồng bọn không có ý thức công khai chiếm đoạt đồng hồ của anh Kh, chúng chỉ lợi dụng sự chen lấn, xô đẩy để lén giật đồng hồ và chúng tin rằng anh Kh không thể phát hiện được; thực tế anh Kh cũng không biết ai đã giật đồng hồ của mình.

– Người phạm tội lợi dụng người quản lý tài sản không có mặt ở nơi để tài sản hoặc tài sản không có người trực tiếp quản lý (tài sản ở nơi công cộng), nên đã chiếm đoạt. Ví dụ: Trịnh Hoài Đ, Vũ Công C và Đặng Quang P đã bàn với nhau cải trang là nhân viên của Công ty cung ứng điện, dùng các dụng cụ cách điện, trong một thời gian 20 ngày chúng đã tháo được 150 chiếc Công tơ (đồng hồ đo điện). Trường hợp phạm tội này, nếu chỉ căn cứ vào hình thức chiếm đoạt thì có thể xác định hành vi của Đ, C và P là hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản, vì lúc thực hiện tội phạm chúng không hề che giấu hành vi của mình, nhiều người nhìn thấy chúng tháo Công tơ nhưng không ai nghi ngờ vì cứ tưởng chúng là nhân viên của Công ty điện. Tuy nhiên, tính chất lén lút của hành vi lại thể hiện ở chỗ chúng che giấu thân phận thật của mình với mọi người xung quanh và người quản lý tài sản.

Hậu quả

Tương tự như tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, hậu quả của tội trộm cắp tài sản cũng là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Nói chung, tài sản bị chiếm đoạt do hành vi trộm cắp gây ra là tiền các loại, hàng hoá và các giấy tờ có giá trị thanh toán như phiếu công trái, ngân phiếu.sở hữu Thực tiễn xét xử cho thấy nhiều trường hợp người bị hại không bị mất tài sản mà chỉ mất các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản như: giấy chứng nhận đăng ký xe máy, xe ôtô; giấy chứng nhận quyền sở hữu về nhà ở; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.v.v…Các trường hợp này, thông thường người phạm tội thực hiện hành vi trộm cắp nhưng không biết tài sản mà mình định trộm cắp là bao nhiêu, gồm những loại tài sản nào như: trộm cắp túi xách, ví (bóp)… nhưng sau khi kiểm tra không có tiền hoặc tài sản có giá trị mà chỉ có các giấy tờ trên. Có trường hợp người phạm tội tìm cách bắt người bị hại phải chuộc lại các giấy tờ này với số tiền rất lớn. Vậy các loại giấy tờ trên, có coi là tài sản ( đối tượng tác động của hành vi trộm cắp hay không ? Trước hết, cần khẳng định rằng, các giấy tờ trên, dù có thể đem bán, đêm trao đổi với giá trị lớn nhưng không thể coi đó là tài sản, nó chỉ là giấy tờ chứng nhận về tài sản nên nó không phải là đối tượng tác động của hành vi trộm cắp, nếu người phạm tội chỉ có ý định trộm cắp các loại giấy tờ trên để thực hiện một mục đích khác thì họ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi sử dụng giấy tờ đó vào mục đích của họ. Ví dụ: Phạm B dã bán nhà cho chị Nguyễn Thị H, nhưng B lại tìm cách trộm cắp lại giấy tờ nhà để dùng bộ giấy tờ này thế chấp Ngân hàng vay tiền, thì hành vi của B không phải là hành vi trộm cắp tài sản của chị H mà là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Ngân hàng.

Mặc dù, khoản 1 của điều luật quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 500.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm, còn nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 500.000 đồng thì phải kèm theo điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm mới cấu thành tội trộm cắp tài sản, nhưng không vì thế mà cho rằng, phải có thiệt hại về tài sản ( người phạm tội chiếm đoạt được tài sản ) thì mới cấu thành tội phạm. Khoản 1 của điều luật quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 500.000 đồng là để áp dụng trong những trường hợp người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị không lớn như xe đạp cũ, quần áo, dầy dép, con gà, con vịt, một ít cá, tôm.v.v…Đối với những trường hợp người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc rất lớn như ôtô, xe máy, máy tính xách tay, đồng hồ đắt tiền hoặc tài sản khác có giá trị hàng chục triệu đồng trở lên, thì dù người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản vẫn bị coi là phạm tội trộm cắp  tài sản, nhưng là phạm tội trong trường hợp phạm tội chưa đạt hoặc chuẩn bị phạm tội tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể.

Nếu người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có trị dưới 500.000 đồng, nhưng chưa chiếm đoạt được thì chưa cấu thành tội trộm cắp tài sản, vì dù có chiếm đoạt được cũng chưa cấu thành tội phạm huống hồ chưa chiếm đoạt được. Tuy nhiên, có vấn đề về lý luận và thực tiễn xét xử cần phải bàn là, vậy trường hợp người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới 500.000 và chưa chiếm đoạt được nhưng lại thuộc trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về hành vi chiếm đoạt chưa được xoá án tích thì đã cấu thành tội phạm chưa ? Về nguyên tắc (trừ trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng vì hậu quả nghiêm trọng là hậu quả của việc mất 500.000 đồng nhưng chưa mất thì không thể nói gây hậu quả nghiêm trọng được), còn hai trường hợp đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về hành vi chiếm đoạt chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, mà chưa chiếm đoạt được tài sản thì hành vi của người phạm tội cũng đã cấu thành tội trộm cắp rồi, nhưng ở giai đoạn phạm tội chưa đạt, nếu mới chuẩn bị phạm tội thì chưa cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, về đường lối xử lý, tuỳ từng trường hợp cụ mà quyết định việc có truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội hay không. Theo chúng tôi chỉ nên truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã bị xử phạt hành chính nhiều lần về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án nhiều lần về tội chiếm đoạt, hoặc họ là phần tử nguy hiểm, là đối tượng có nhiều tiền án, tiền sự, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Ví dụ: Uông Sĩ T là tên đã có nhiều tiền án tiền sự về hành vi chiếm đoạt tài sản, vừa ra tù T  đã cấu kết với một số thanh niên trong thôn tổ chức đánh bạc và bắt gà của nhân dân ở thôn xóm đem về làm thịt ăn với nhau, nhân dân phản ảnh nhưng Công an xã chưa bắt được quả tang vì bọn chúng rất xảo quyệt. Với sự hỗ trợ của Công an huyện, nên đã bố trí bắt gọn Uông Sĩ T và đồng bọn đang chui vào chuồng gà của gia định ông Đinh Viết Đ để trộm gà. Mặc dù hành vi trộm cắp của T và đồng bọn chưa gây thiết hại về tài sản ( gà chưa bị mất) và giá trị tài sản mà chúng định chiếm đoạt cũng chưa tới 500.000 đồng, vì chuồng gà nhà Đ chỉ có 4 con gà giá trị khoảng 200.000 đồng, nhưng với tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi và nhân thân của T nên viẹc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với T về tội trộm cắp là cần thiết.

  1. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm

Cũng như đối với tội có tính chất chiếm đoạt khác, tội trộm cắp tài sản cũng được thực hiện do cố ý. Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản.

Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi chiếm đoạt sản. Vì vậy, có thể nói mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, ngoài mục đích chiếm đoạt, người phạm tội còn có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hoặc chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản, nếu mục đich đó không cấu thành một tội phạm độc lập. Ví dụ: M cùng công tác với H ở Công ty X và cùng yêu chị L, nhưng chị L chưa nhận lời yêu ai, M cho rằng H là lực cản để M đến với chị L, nên M đã trả thù H bằng cách xúi dục D và V là những tên trộm cắp chuyên nghiệp lấy trộm xe của H, nhưng không đòi D và V phải chia tiền bán xe cho M.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Phạm tội trộm cắp tài sản không có các tình tiết định khung hình phạt

Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội trộm cắp tài sản. So với tội  trộm cắp tài sản của công dân quy định tại Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn, nhưng nhẹ hơn khoản 1 Điều 132 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, đối với hành vi phạm tội trộm cắp tài sản của công dân xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau ngày 4-1-2000 (ngày Chủ tịch nước công bố Bộ luật hình sự năm 1999), mới phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì không được áp dụng khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999; đối với hành vi trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000  mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện, xử lý thì được áp dụng Điều 138 Bộ luật hình sự 1999 để điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội.

Cấu thành cơ bản của tội trộm cắp tài sản quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều tình tiết là yếu tố định tội mà nhà làm luật mới quy định, làm ranh giới phân biệt giữa hành vi phạm tội với hành vi chỉ bị xử lý hành chính, Vì vậy, khi xác định các tình tiết là yếu tố định tội này cần chú ý:

– Giá trị tài sản bị chiếm đoạt là giá thị trường tự do vào thời điểm xảy ra tội phạm, trong trường hợp không xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá).

– Công nhiên chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới 500.000 đồng gây hậu qủa nghiêm trọng là trường hợp do thực hiện hành vi phạm tội mà đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về vật chất hoặc tinh thần cho người bị hại hoặc cho xã hội. Cho đến nay, chưa có hướng nào về trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi chiếm đoạt gây ra. Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, qua thực tiễn xét xử, có thể coi những thiệt hại sau đây là hậu quả nghiêm trọng của hành vi trộm cắp tài sản:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người có tỷ lệ thương tật từ 21% đến 40%;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người mà tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả mọi người từ 21% đến 40%;

– Gây thiệt hại về tải sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

– Ngoài thiệt hại về sức khoẻ, tài sản, còn những thiệt hại khác như gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây hoang mang cho nhân dân trong một địa bàn nhất định…Những thiệt hại này, tuỳ từng vụ án cụ thể mà các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào tình hình cụ thể để xác định đã là hậu quả nghiêm trọng chưa.

– Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi trộm cắp, người phạm tội đã bị xử phạt hành chính cũng về hành vi chiếm đoạt tài sản bằng một trong các hình thức được quy định trong Pháp lệnh xử phạt hành chính do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dung mà chưa quá một năm; nếu người phạm tội bị xử phạt hành chính về hành vi khác ( không phải là tội chiếm đoạt) thì không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự;

– Đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xoá án tích mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản , người phạm tội đã bị Toà án kết án về một trong các tội có tính chất chiếm đoạt nhưng chưa được xoá án tích theo quy định tại Điều 77 Bộ luật hình sự; nếu người phạm tội bị kết án về tội phạm khác ( không phải là tội chiếm đoạt) thì cũng không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự;

Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm ít nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là ba năm tù, nên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi mà thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 138 thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu các tình tiết khác như nhau thì mức hình phạt đối với người phạm tội phụ thuộc vào những yếu tố sau:

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có ít hoặc không có tình tiết tăng nặng;

– Người phạm tội không có tình tiết giảm nhẹ phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ được phạt nhẹ hơn người có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội chiếm đoạt được tài sản phải bị phạt nặng hơn người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản; tài sản bị chiếm đoạt càng nhiều, hình phạt càng nặng;

– Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ phải đúng quy định tại Điều 31 Bộ luật hình sự về loại hình phạt này18. Nếu không đủ điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì có thể phạt dưới sáu tháng tù (nhưng không được dưới 3 tháng tù). Nếu người phạm tội đáng được khoan hồng nhưng chưa tới mức được miến hình phạt thì Toà án có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo; nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì được hưởng án treo.

  1. Trộm cắp tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự

Trộm cắp tài sản có tổ chức

Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, trộm cắp tài sản có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ trộm cắp tài sản có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm  tội có tổ chức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên phạm tội trộm cắp tài sản có tổ chức cũng có những đắc điểm riêng như:

Người thực hành trong vụ trộm cắp tài sản là người trực tiếp thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản từ chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. Thực tiễn xét xử có những trường hợp dễ nhầm lẫn giữa người giúp sức với người thực hành. Ví dụ: A là thủ kho thông đồng với B về việc trộm cắp tài sản trong kho do A quản lý. Chúng thống nhất kế hoạch, A giả vờ quên khoá kho để B vào kho lấy tài sản. Trong trường hợp này A không phải là người thực hành mà chỉ là người giúp sức.

Trộm cắp tài sản có tính chất chuyên nghiệp

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp quy định trong Bộ luật hình sự, tức là người phạm tội lấy việc trộm cắp tài sản là phương tiện sinh sống chính của mình. Nói chung, trộm cắp tài sản có tính chất chuyên nghiệp thường được thực hiện có tổ chức. Tuy nhiên cũng có trường hợp chỉ một hoặc hai người chuyên trộm cắp tài sản nhưng chỉ là trường hợp đồng phạm thông thường.

Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp nói chung, phạm tội trộm cắp tài sản nói riêng, nhất thiết người thực hành phải thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nhiều lần, nhưng không phải cứ thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nhiều lần đều là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, mà phải xem xét việc thực hiện tội phạm của họ có thật sự là phương tiện sống hay không. Nếu phạm tội nhiều lần nhưng họ không lấy việc phạm tội là lẽ sống thì không coi là có tính chất chuyên nghiệp mà chỉ là trường hợp phạm tội nhiều lần ( tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự). Nếu người phạm tội tuy có lấy việc phạm tội là phương tiện sống, nhưng chỉ trộm cắp tài sản một lần còn những lần phạm tội khác không phải là trộm cắp tài sản thì cũng không phải là trọm cắp tài sản có tính chất chuyên nghiệp là tình tiết định khung hình phạt, mà chỉ là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm b khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự

Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm

Trường hợp phạm tội này lại hoàn toàn giống với tất cả những trường hợp tái phạm nguy hiểm khác, chỉ cần xác định người phạm tội có đủ các dấu hiệu quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Đây là tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội, không phụ thuộc vào hành vi phạm tội cụ thể của tội phạm này hay tội phạm khác.

Dùng thủ đoạn xảo quyệt

Nếu trong các cấu thành của các tội chiếm đoạt được thực hiện bằng hình thức công khai trắng trợn, nhà làm luật không quy định tình tiết dùng thủ đoạn xảo quyệt là tình tiết định khung tăng nặng, thì đối với các tội chiếm đoạt bằng hình thức lén lút, bí mật nhà làm luật lại quy định tình tiết này là tình tiết định khung hình phạt.

Dùng thủ đoạn xảo quyệt khi thực hiẹn hành vi trộm cắp là người phạm tội có những mánh khoé, cách thức gian dối, thâm hiểm làm cho người bị hại và những người khác khó lường trước để đề phòng. Ví dụ: N và H yêu nhau, nhưng nhà H giầu có, nhiều lần N vay tiền của H để tiêu xài hoang phí, H đã góp ý cho N, nhưng N không tiếp thu mà còn bàn với Q là tên đã có nhiều tiền án tiền sự trộm cắp xe máy của H bán lấy tiền tiêu xài. Q đồng ý và bàn với N rủ H đi xe bằng xe máy của H đến đê sông Hồng tâm sự để tạo điều kiện cho Q trộm xe máy của H.

Dùng thủ đoạn nguy hiểm

Dùng thủ đoạn nguy hiểm để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là trường hợp người phạm tội đã có những thủ đoạn gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản như: Dùng hoá chất hoặc thuốc trừ sâu, diệt chuột đổ xuống ao, hồ để bắt trộm cá chết nổi gây ô nhiễm nguồn nước sạch gây nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ của nhiều người.

Hành hung để tẩu thoát

Đây là trường hợp sau khi đã trộm được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt hoặc đã bị bắt đã có hành vi dùng vũ lực đối với chủ sở hữu hoặc những người khác, nhưng hành vi dùng vũ lực chưa gây ra thương tích hoặc nếu đã gây ra thương tích thì tỷ lệ thương tật chưa đến 11%, nếu tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên, thì tuỳ thuộc vào mức tỷ lệ thương tật, mà người phạm tội còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1, khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 104 Bộ luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Khi xác định trường hợp phạm tội này, cần phân biệt với người phạm tội hành hung không nhằm mục đích tẩu thoát mà nhằm giữ bằng được tài sản. Nếu người phạm tội sau khi đã trộm được tài sản, bị đuổi bắt hoặc đã bị bắt nhưng cố tình giữ tài sản bằng cách hành hung người khác thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản. Trường hợp này, khoa học luật hình sự gọi là chuyển hoá từ tội trộm cắp tài sản sang tội cướp tài sản (đầu trộm đuôi cướp). Ví dụ: Vũ Quốc H lẻn vào nhà chị Hoàng Kim D ở khu tập thể trộm được một chiếc máy tính xách tay, H vừa ra khỏi nhà chị D thì bị anh Vũ Thế Đ phát hiện đuổi bắt, khi anh Đ túm được tay H giằng lại chiếc máy vi tính thì bị H rút dao trong người ra đâm anh Đ một nhát vào tay, cố giữ bằng được chiếc máy dẻ bỏ chạy.

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng

Đây là trường hợp người phạm tội trộm cắp tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng. Việc xác định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá).

Mặc dù điều luật chỉ quy định chiếm đoạt tài sản nhưng không vì thế mà cho rằng, người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản trị giá từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng mới thuộc trường hợp phạm tội này, mà chỉ cần xác định người phạm tội có ý định trộm cắp tài sản có giá trị như trên là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm e khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc.

Trộm cắp tài sản gây hậu quả nghiêm trọng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm g khoản 2 Điều 133; điểm i khoản 2 Điều 134; điểm đ khoản 2 Điều 135; điểm h khoản 2 Điều 136; điểm d khoản 2 Điều 137, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này hậu quả nghiêm trọng là do hành vi phạm tội trộm cắp tài sản gây ra. Cũng như các trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, phi vật chất do hành vi trộm cắp gây ra. Nói chung, hậu quả nghiêm trọng do hành vi trộm cắp tài sản gây ra phải tương đương với các tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự, vì nó được quy định trong cùng một khung hình phạt với các tình tiết này.

Trộm cắp tài sản gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp do hành vi phạm tội trộm cắp tài sản nên đã gây ra những thiệt hại khác ngoài những thiệt hại đã được quy định là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt. Những thiệt hại này gọi chung là “hậu quả nghiêm trọng”. Căn cứ vào các quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự, qua thực tiến xét xử, có thể coi những thiệt hại sau là hậu quả nghiêm trọng do hành vi phạm tội trộm cắp tài sản gây ra:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 11%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 11% đến 30%;

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, nhưng không phải là giá trị tài sản bị chiếm đoạt ;

– Ngoài những thiệt hại về sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi trộm cắp tài sản gây ra, như: ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho nhiều người trên một địa bàn nhất định. Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm, là tội phạm  nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:

Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới hai năm tù), nếu là cải tạo không giam giữ thì không được dưới sáu tháng. Việc cho người phạm tội được hưởng án treo phải thận trọng và phải đảm bảo đúng các quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

– Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 138 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;

– Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.

  1. Trộm cắpt tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm  e khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự, chỉ khác là tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng. Cũng như các trường hợp tương tự khác, việc xác định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá).

Mặc dù điều luật chỉ quy định chiếm đoạt tài sản nhưng không vì thế mà cho rằng, người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản trị giá từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng mới thuộc trường hợp phạm tội này, mà chỉ cần xác định người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị như trên là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc.

Trộm cắp tài sản gây hậu quả rất nghiêm trọng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng khác, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này hậu quả rất nghiêm trọng là do hành vi phạm tội gây ra. Cũng như các trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, phi vật chất do hành vi trộm cắp gây ra. Nói chung, hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi trộm cắp tài sản gây ra phải tương đương với các tình tiết quy định tại khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự, vì nó được quy định trong cùng một khung hình phạt với các tình tiết này.

Trộm cắp tài sản gây hậu quả rất nghiêm trọng là trường hợp do hành vi phạm tội nên đã gây ra những thiệt hại khác ngoài những thiệt hại đã được quy định là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt. Những thiệt hại này gọi chung là “hậu quả rất nghiêm trọng”. Căn cứ vào các quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự, qua thực tiến xét xử, có thể coi những thiệt hại sau là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi phạm tội trộm cắp tài sản gây ra:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 31% đến 60%;

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, nhưng không phải là giá trị tài sản người phạm tội trộm cắp;

– Ngoài những thiệt hại về sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi trộm cắp tài sản gây ra, như: ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng rát xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho rất nhiều người trên một địa bàn nhất định. Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:

Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới bảy năm tù) nhưng không được dưới hai năm tù. Việc cho người phạm tội được hưởng án treo phải rất thận trọng và phải đảm bảo đúng các quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

– Người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 138 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;

 

– Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.

  1. Trộm cắp tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 138 Bộ luật hình sự

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm  e khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự, chỉ khác là tài sản bị trộm cắp trong trường hợp này có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên. Cũng như các trường hợp tương tự khác, việc xác định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá).

Mặc dù điều luật chỉ quy định chiếm đoạt tài sản nhưng không vì thế mà cho rằng, người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản trị giá từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng mới thuộc trường hợp phạm tội này, mà chỉ cần xác định người phạm tội có ý định trộm cắp tài sản có giá trị như trên là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc.

Trộm cắp tài sản gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này hậu quả đặc biệt nghiêm trọng là do hành vi phạm tội trộm cắp tài sản gây ra. Cũng như các trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, phi vật chất do hành vi trộm cắp gây ra. Nói chung, hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi trộm cắp tài sản gây ra phải tương đương với các tình tiết quy định tại khoản 4 Điều 138 Bộ luật hình sự, vì nó được quy định trong cùng một khung hình phạt với các tình tiết này.

Trộm cắp tài sản gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng là trường hợp do hành vi phạm tội trộm cắp tài sản nên đã gây ra những thiệt hại khác ngoài những thiệt hại đã được quy định là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt. Những thiệt hại này gọi chung là “hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Căn cứ vào các quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự, qua thực tiến xét xử, có thể coi những thiệt hại sau là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi phạm tội trộm cắp tài sản gây ra:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 61%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% trở lên hoặc làm chết người. Các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, không bao gồm các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ mà người phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc tội giết người.

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ  500.000.000 đồng trở lên, nhưng không phải là giá trị tài sản người phạm tội trộm cắp;

– Ngoài những thiệt hại về sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi trộm cắp tài sản gây ra, như: ảnh hưởng đặc biệt xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng đặc biệt xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho rất nhiều người ở nhiều địa bàn nhất định. Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 138 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm năm hoặc tù chung thân, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:

Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới mười hai năm tù) nhưng không được dưới bảy năm tù.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

– Người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 138 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 138 Bộ luật hình sự;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;

– Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.

 

  1. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội trộm cắp tài sản

Theo quy định tại khoản 5 Điều 138 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội trộm cắp tài sản còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng.

So với tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 132 và tội trộm cắp tài sản của công dân quy định tại Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hình phạt bổ sung đối với tội trộm cắp tài sản quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều điểm được sửa đổi bổ sung.

Bỏ hình phạt quản chế hoặc cấm cư trú, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản;

Hình phạt tiền là loại hình phạt mới được quy định đối với người phạm tội cướp giật tài sản, mức phạt tiền là từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng. Có thể coi đây là khung hình phạt tiền đối với người phạm tội trộm cắp tài sản. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội trộm cắp tài sản thì không được phạt trên năm mươi triệu đồng, nhưng nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì có thể phạt dưới năm triệu đồng nhưng không được dưới một triệu đồng vì theo quy định tại khoản 3 Điều 30 Bộ luật hình sự mức phạt tiền không được dưới một triệu đồng.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN (ĐIỀU 140)

Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là vay, mượn, thuê tài sản của người kháchoặcnhận được tài sản của người khácbằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản tài sản đó, hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

Lần đầu tiên, nhà làm luật quy định các tình tiết là dấu hiệu định tội trong cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định: “người nào lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì…” mà không quy định như khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999. Ngoài những tình tiết đặc trưng về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 còn quy định những tình tiết là yếu tố định tội làm ranh giới phân biệt giữa hành vi tội phạm với hành vi chưa phải là tội phạm.

Việc nhà làm luật quy định được các dấu hiệu định tội trong điều luật cũng từ thực tiễn xét xử loại tội phạm này trong hơn 10 năm thi hành Bộ luật hình sự năm 1985, đặc biệt vào những năm cuối của thập kỷ 90 ( 1997-1999) tình trạng các cơ quan tiến hành tố tụng ở nhiều địa phương đã “hình sự hoá” các quan hệ dân sự, kinh tế; nhiều người bị kết án oan về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mà lẽ ra họ chỉ là bị đơn dân sự trong vụ án dân sự. Trước một thực trạng như vậy, đòi hỏi các cơ quan soạn thảo Bộ luật hình sự năm 1999 phải đưa vào trong cấu thành những dấu hiệu đặc trưng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản .

Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự là tội được nhập từ tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 158, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 135 Bộ luật hình sự năm 1985. So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 nói chung nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về tội phạm này, trừ khoản 4 của Điều 140 có mức cao nhất của khung hình phạt nặng hơn tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân, vì mức hình phạt cao nhất của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân có mức hình phạt cao nhất là hai mươi năm tù. Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định mới hơn, đặc biệt trong cấu thành cơ bản, nhà làm luật quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt làm ranh giới giữa hành vi được coi là tội phạm với hành vi chỉ bị xử phạt hành chính; các tình tiết định khung hình phạt cũng được quy định cụ thể hơn trước. Hình phạt bổ sung cũng được quy định ngay trong điều luật.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

  1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm

Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, chủ thể của tội phạm cũng tương tự như đối với tội xâm phạm sở hữu khác. Tuy nhiên, người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 140 Bộ luật hình sự, vì khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự là tội phạm ít nghiêm trọng và khoản 2 Điều 140 Bộ luật hình sự là tội phạm nghiêm trọng, mà theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cần chú ý độ tuổi của người phạm tội và các tình tiết định khung hình phạt. Nếu người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 140 Bộ luật hình sự thì chỉ cần xác định người phạm tội đủ 14 tuổi là đã phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 140 Bộ luật hình sự thì người phạm tội phải đủ 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự.

  1. Các dấu hiệu về khách thể của tội phạm

Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng tương tự như các tội có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đây cũng là một điểm khác với các tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nhà làm luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt. Vì vậy, nếu sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt mà có hành vi chống trả để tẩu thoát, gây chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

  1. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan

Do cấu tạo của Điều 140 và đặc điểm của tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản, nên hành vi khách quan của tội phạm này có những điểm chú ý sau:

– Việc chuyển giao tài sản từ người bị hại sang người phạm tội xuất phát từ một hợp đồng hợp pháp như vay, mượn, thuê tài sản. Ví dụ: M ký hợp đồng mua của Công ty xuất nhập khẩu Y 200 chiếc ti vi Sam-sung với tổng giá trị 400 triệu đồng; M đã nhận đủ 200 chiếc ti vi, nhưng không chịu thanh toán hết tiền cho Công ty.

– Sau khi đã nhận được tài sản, người phạm tội mới dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản đang do mình quản lý; về thủ gian dối cũng được thể hiện bằng những hành vi cụ thể nhằm đánh lừa chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản như đối với thủ đoạn gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Ví dụ: A vay của B 10 lượng vàng với lãi xuật 1%/ tháng; khi vay A có viết giấy biên nhận cho B, nhưng sau đó B tìm cách mượn lại giấy biên nhận và chữa lại thanh 1 lượng vàng. Hết hạn, A không trả vàng cho B, B kiện A ra Toà án. Khi Toà án thụ lý vụ kiện, A khai chỉ mượn B 1 lượng vàng và xuất trình giấy biên nhận, còn B khai cho A mượn 10 lượng vàng và yêu cầu Toà án cho giám định tờ giấy biện nhận, kết quả giám định đã kết luận tờ giấy biện nhận đã bị tẩy xoá sửa chữa từ 10 lượng vàng thành 1 lượng vàng, nên Toà án đã chuyển hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra khởi tố A về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

– Nếu người phạm tội không dùng thủ đoạn gian dối mà sau khi đã nhận tài sản một cách hợp pháp rồi bỏ trốn với ý thức không thanh toán, không trả lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản ( ý thức chiếm đoạt tài sản ) thì cũng là hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Khi đánh giá hành vi bỏ trốn của người phạm tội phải xem xét một cách khách quan, toàn diện, nếu người phạm tội bỏ trốn hoặc tránh mặt chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản vì nguyên nhân khác thì không coi là bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản. Ví dụ: Chị Đoàn Thị Hoan vay của chị Lương Thị Vinh nhiều lần và những lần vay trước chị Hoan đều trả đủ cả tiền gốc và tiền lãi cho chị Vinh, nhưng sau đó chị Hoan vay 9 lần của chị Vinh với số tiền 345 triệu, chị Hoan đã trả cho chị Vinh được 102 triệu, còn 243 triệu, chị Hoan cũng đã cố gắng trả cho chị Vinh được 157 triệu, còn 90 triệu chị Hoan mất khả năng thanh toán. Về số tiền 243 triệu, theo chị Hoan thì chị cho Nguyễn Thị Thìn vay lại, Nguyễn Thị Thìn cầm tiền của chị Hoan và bỏ trốn, chị Hoan đã báo cho Cơ quan điều tra về việc chị bị chị Thìn chiếm đoạt tiền và bỏ trốn; cơ quan điều tra đã xác minh và thấy việc trình báo của chị Hoan là có căn cứ nên đã quyết định khởi tố vụ án và ra lệnh truy nã đối với Nguyễn Thị Thìn. Do không có tiền trả cho chị Vinh và sợ nếu về Hải Phòng thì chị Vinh sẽ báo Công an bắt, nên chị Hoan phải ở nhờ nhà em gái ở Hà Nội, nhưng đến tết nguyên đán, vì nhớ con nên chị Hoan về Hải Phòng thì chị Vinh đã báo Công an bắt chi Hoan. Trong trường hợp này, tuy chị Hoan có tránh mặt chủ sở hữu nhưng việc tránh mặt này không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản mà vì sợ chị Vinh báo Công an bắt mình, hơn nữa chị Hoan không có tiền trả chị Vinh là do chị Hoan bị người khác chiếm đoạt.19

Nếu người phạm tội không có hành vi gian dối, không bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản nhưng lại dùng tài sản đó (tài sản nhận từ chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản một cách hợp pháp) vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản thì cũng bị coi là lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Hiểu như thế nào là dùng tài sản vào mục đích bất hợp pháp là một vấn đề không đơn giản, nếu theo khái niệm thông thường thì “bất hợp pháp” là không đúng với pháp luật không phân biệt đó là pháp luật gì và nếu hiểu bất hợp pháp theo nghĩa rộng như vậy thì hấu hết các trường hợp mất khả năng thanh toán nợ cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản đều là hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử đã không coi việc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp theo khai niệm rộng như trên, mà chỉ coi những trường hợp dùng tài vào việc thực hiện tội phạm thì mới coi là bất hợp pháp với ý nghĩa là dấu hiệu cấu thành tội phạm như: dùng tiền vay được để hối lộ, để buôn lậu, để mua bán hàng cấm, để mua bán ma tuý, vũ khĩ quân dụng, chất độc, chất cháy… Ngoài ra, trong một số trường hợp do làm ăn thua lỗ đã mất khả năng thanh toán, nhưng vẫn tiếp tục vay mượn tiền hoặc tài sản rồi dùng tiền hoặc tài sản đó trả nợ cũ, hoặc dùng tài sản vay được ăn tiêu, mua sắm vật dụng trong gia đình, mua đất xây nhà… Nếu không dùng tài sản vào mục phạm tội mà dùng vào mục đích bất hợp pháp khác thì phải xem xét đánh giá từng trường hợp cụ thể, để xác định hành vi đó đã cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chưa. Cần phân biệt, dùng tài sản vào mục đích bất hợp pháp với việc sử dụng tài sản không đúng mục đích đã thoả thuận khi vay, mượn. Ví dụ: Khi vay tiền, nói là để phát triển chăn nuôi ( nuôi gà công nghiệp), nhưng sau khi vay được tiền lại không nuôi gà nữa mà dùng tiền vay được vào việc nuôi tôm sú, nhưng vì không có kỹ thuật nên bị thua lỗ dẫn đén không có khả năng thanh toán thì hành vi của người phạm tội không cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là phạm tội sử dụng trái phép tài sản quy định tại Điều 142 Bộ luật hình sự.

Hậu quả

Hậu quả của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Theo khoản 1 của điều luật quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 1.000.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm, còn nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 1.000.000 đồng thì phải kèm theo điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm mới cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Do đặc điểm của hành vi  lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là người phạm tội chiếm đoạt tài sản đang do mình quản lý, do đó nói chung không có trường hợp phạm tội chưa đạt, vì nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản thì cũng có nghĩa là chưa có hành vi phạm tội. Tuy nhiên, trong trường hợp người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối, nhưng thủ đoạn đó không lừa được chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản nên không chiếm đoạt được tài sản đang do mình quản lý thì mới coi trường hợp phạm tội này là ở giai đoạn phạm tội chưa đạt ( đã dùng thủ đoạn gian dối nhưng vì những lý do khách quan nên người phạm tội không thực hiện được thủ đoạn đó).

Nếu người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có trị dưới 1.000.000 đồng, nhưng chưa chiếm đoạt được thì chưa cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, vì dù có chiếm đoạt được cũng chưa cấu thành tội phạm huống hồ chưa chiếm đoạt được. Tuy nhiên, trong trường hợp người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới 1.000.000 và chưa chiếm đoạt được nhưng lại thuộc trường hợp đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về hành vi chiếm đoạt chưa được xoá án tích thì hành vi này đã cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, nhưng về đường lối xử lý, tuỳ từng trường hợp cụ mà quyết định việc có truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội hay không. Theo chúng tôi chỉ nên truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã bị xử phạt hành chính nhiều lần về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án nhiều lần về tội chiếm đoạt hoặc họ là phần tử nguy hiểm, là đối tượng có nhiều tiền án, tiền sự, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.

  1. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm

Cũng như đối với tội có tính chất chiếm đoạt, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng được thực hiện do cố ý. Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản.

Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, ngoài mục đích chiếm đoạt, người phạm tội còn có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hoặc chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng  bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không có các tình tiết định khung hình phạt

Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. So với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 158, khoản 1 Điều 135 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn khoản 1 Điều 135 và nặng hơn khoản 1 Điều 158. Vì vậy, đối với hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau ngày 4-1-2000 (ngày Chủ tịch nước công bố Bộ luật hình sự năm 1999), mới phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì không được áp dụng khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999, mà phải áp dụng khoản 1 Điều 158 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng nếu là hành vi lạm dụngtín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa thì lại được áp dụng khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.

Cấu thành cơ bản của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều tình tiết là yếu tố định tội, làm ranh giới phân biệt giữa hành vi phạm tội với hành vi chỉ bị xử lý hành chính, Vì vậy, khi xác định các tình tiết là yếu tố định tội này cần chú ý:

– Giá trị tài sản bị chiếm đoạt là giá thị trường tự do vào thời điểm xảy ra tội phạm, trong trường hợp không xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá).

– Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới 1.000.000 đồng gây hậu qủa nghiêm trọng là trường hợp do thực hiện hành vi phạm tội mà đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về vật chất hoặc tinh thần cho người bị hại hoặc cho xã hội. Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, qua thực tiễn xét xử, có thể coi những thiệt hại sau đây là hậu quả nghiêm trọng của hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người có tỷ lệ thương tật từ 21% đến 40%;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người mà tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả mọi người từ 21% đến 40%;

– Gây thiệt hại về tải sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

– Ngoài thiệt hại về sức khoẻ, tài sản, còn những thiệt hại khác như gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây hoang mang cho nhân dân trong một địa bàn nhất định…Những thiệt hại này, tuỳ từng vụ án cụ thể mà các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào tình hình cụ thể để xác định đã là hậu quả nghiêm trọng chưa, nếu tổng hợp các tình tiết mà xác định đã gây ra hậu quả  nghiêm trọng thì dù người phạm tội chỉ chiếm đoạt tài sản dưới 1.000.000 đồng cũng vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản.

– Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, người phạm tội đã bị xử phạt hành chính cũng về hành vi chiếm đoạt tài sản bằng một trong các hình thức được quy định trong Pháp lệnh xử phạt hành chính do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dung mà chưa quá một năm; nếu người phạm tội bị xử phạt hành chính về hành vi khác ( không phải là hành vi chiếm đoạt) thì không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự;

– Đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xoá án tích mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tài sản, người phạm tội đã bị Toà án kết án về một trong các tội có tính chất chiếm đoạt nhưng chưa được xoá án tích theo quy định tại Điều 77 Bộ luật hình sự; nếu người phạm tội bị kết án về tội phạm khác ( không phải là tội chiếm đoạt) thì cũng không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự;

Khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm ít nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là ba năm tù, nên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi mà thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 140 thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu các tình tiết khác như nhau thì mức hình phạt đối với người phạm tội phụ thuộc vào những yếu tố sau:

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có ít hoặc không có tình tiết tăng nặng;

– Người phạm tội không có tình tiết giảm nhẹ phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ được phạt nhẹ hơn người có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội chiếm đoạt được tài sản phải bị phạt nặng hơn người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản; tài sản bị chiếm đoạt càng nhiều, hình phạt càng nặng;

– Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ phải đúng quy định tại Điều 31 Bộ luật hình sự về loại hình phạt này. Nếu không đủ điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo hoặc áp dụng mức thấp nhất của khung hình phạt ( ba tháng tù). Nếu người phạm tội đáng được khoan hồng nhưng chưa tới mức được miến trách nhiệm hình sự thì cũng có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với họ.

  1. Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 140 Bộ luật hình sự

Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có tổ chức

Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải trường hợp lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm tội có tổ chức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có tổ chức cũng có những đắc điểm riêng như:

Người thực hành trong vụ lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là người trực tiếp thực hiện hành vi, những thủ đoạn để chiếm đoạt tài sản từ chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản.

Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Cũng tương tự như các trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để phạm tội, người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản khi lợi dụng chức vụ, quyền han hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức cũng phải thoả mãn những yếu tố sau:

 Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ. Nếu những người này, lợi dụng chức vụ để lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì mới thuộc trường hợp lợi dụng chức vụ để phạm tội.

Người có quyền hạn là người được giao thực hiện một công vụ và do thực hiện công vụ đó nên họ có một quyền hạn nhất định. Người có quyền hạn thông thường là người có chức vụ, nhưng cũng có thể là người không có chức vụ nhưng được giao hoặc được thạm gia thực hiện một công vụ.

Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức là người phạm tội thông qua cơ quan, tổ chức mà mình là thành viên để lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Thông thường, người phạm tội trường hợp này là thông qua các hợp đồng kinh tế để nhận được tài sản rồi sau đó lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức khác để thực hiện những thủ đoạn nhằm chiếm đoạt tài sản.

Dùng thủ đoạn xảo quyệt để lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Dùng thủ đoạn xảo quyệt khi thực hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là người phạm tội có những mánh khoé, cách thức thâm hiểm làm cho người bị hại và những người khác khó lường trước để đề phòng. Thông thường, những thủ đoạn xảo quyệt người phạm tội dùng trong trường hợp này là sau khi đã nhận được tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản một cách hợp pháp rồi mới dùng thủ đoạn xảo quyệt để chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên cũng có trường hợp người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt ngay trước khi nhận được tài sản của chủ sở hữu, nhưng thủ đoạn xảo quyết đó không nhằm mục đích chiếm đoạt mà chỉ nhằm ký kết được hợp đồng một cách hợp pháp, lúc dùng thủ đoạn xảo quyệt, người phạm tội chưa có ý định chiếm đoạt.

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng

Đây là trường hợp người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng. Cũng như các trường hợp phạm tội tương tự, việc xác định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá).

Mặc dù điều luật chỉ quy định chiếm đoạt tài sản nhưng không vì thế mà cho rằng, người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản trị giá từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng mới thuộc trường hợp phạm tội này, mà chỉ cần xác định người phạm tội có ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản có giá trị như trên là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm c khoản 2 Điều 140 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc. Tuy nhiên, do đặc điểm của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản người phạm tội chỉ chiếm đoạt tài sản khi tài sản đó đang do mình quản lý, nên chỉ có một số trường hợp có giai đoạn phạm tội chưa đạt, do đó khi xác định tài sản bị chiếm đoạt có giá rị bao nhiêu còn phải căn cứ hành vi và thủ đoạn phạm tội cụ thể, không chỉ căn cứ vào giá trị tài sản mà người phạm tội đang quản lý để xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Vi dụ: A vay của B với tổng số tiền là 500.000.000 đồng bằng 5 hợp đồng (5 giấy biên nhận), nhưng A chỉ dùng thủ đoạn sửa chữa một giấy biên nhận từ 50.000.000 đồng  thành 30.000.000 đồng để chiếm đoạt 20.000.000 đồng, chứ không sửa chữa cả 5 tờ giấy biện nhận, nên trong trường hợp này, A chỉ chiếm đoạt 20.000.000 đồng chưa không phải chiếm đoạt 50.000.000 đồng hay cả 500.000.000 đồng.

Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm

Trường hợp phạm tội này lại hoàn toàn giống với tất cả những trường hợp tái phạm nguy hiểm khác, chỉ cần xác định người phạm tội có đủ các dấu hiệu quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Đây là tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội, không phụ thuộc vào hành vi phạm tội cụ thể của tội phạm này hay tội phạm khác.

Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gây hậu quả nghiêm trọng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng quy định ở các điều khoản tương ứng của các tội có tính chất chiếm đoạt, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này hậu quả nghiêm trọng là do hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gây ra. Cũng như các trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, phi vật chất do hành vi trộm cắp gây ra. Nói chung, hậu quả nghiêm trọng do hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gây ra phải tương đương với các tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 140 Bộ luật hình sự, vì nó được quy định trong cùng một khung hình phạt với các tình tiết này.

Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp do hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nên đã gây ra những thiệt hại khác ngoài những thiệt hại đã được quy định là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt. Những thiệt hại này gọi chung là “hậu quả nghiêm trọng”. Căn cứ vào các quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự, qua thực tiến xét xử, có thể coi những thiệt hại sau là hậu quả nghiêm trọng do hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây ra:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 11%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 11% đến 30%;

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, nhưng không phải là giá trị tài sản người phạm tội chiếm đoạt;

– Ngoài những thiệt hại về sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, như: ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho nhiều người trên một địa bàn nhất định. Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 140 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm, là tội phạm  nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:

– Người phạm tội dưới 16 tuổi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự;

– Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới hai năm tù). Việc cho người phạm tội được hưởng án treo phải thận trọng và phải đảm bảo đúng các quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

– Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 140 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 140 Bộ luật hình sự;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;

– Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.

  1. Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm  d khoản 2 Điều 140 Bộ luật hình sự, chỉ khác là tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng. Cũng như các trường hợp tương tự khác, việc xác định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá).

Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gây hậu quả rất nghiêm trọng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng khác, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này hậu quả rất nghiêm trọng là do hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gây ra. Cũng như các trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, phi vật chất do hành vi phạm tội gây ra. Nói chung, hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gây ra phải tương đương với các tình tiết quy định tại khoản 3 Điều 140 Bộ luật hình sự, vì nó được quy định trong cùng một khung hình phạt với các tình tiết này.

Căn cứ vào các quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự, qua thực tiến xét xử, có thể coi những thiệt hại sau là hậu quả rât nghiêm trọng do hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt  tài sản gây ra:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 31% đến 60%;

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, nhưng không phải là giá trị tài sản người phạm tội chiếm đoạt hoặc có ý định chiếm đoạt;

– Ngoài những thiệt hại về sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, như: ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng rất xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho rất nhiều người trên một địa bàn nhất định. Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 140 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:

Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới bảy năm tù) nhưng không được dưới hai năm tù. Việc cho người phạm tội được hưởng án treo phải rất thận trọng và phải đảm bảo đúng các quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

– Người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 140 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 140 Bộ luật hình sự;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;

– Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.

  1. Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 140 Bộ luật hình sự

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm  đ khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 140 Bộ luật hình sự, chỉ khác là tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên. Cũng như các trường hợp tương tự khác, việc xác định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá).

Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này hậu quả đặc biệt nghiêm trọng là do hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gây ra. Cũng như các trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, phi vật chất do hành vi phạm tội gây ra. Nói chung, hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gây ra phải tương đương với các tình tiết quy định tại khoản 4 Điều 140 Bộ luật hình sự, vì nó được quy định trong cùng một khung hình phạt với các tình tiết này.

Căn cứ vào các quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự, qua thực tiến xét xử, có thể coi những thiệt hại sau là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gây ra:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 61%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% trở lên hoặc làm chết người. Các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, không bao gồm các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ mà người phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc tội giết người.

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ  500.000.000 đồng trở lên, nhưng không phải là giá trị tài sản người phạm tội chiếm đoạt;

– Ngoài những thiệt hại về sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, như: ảnh hưởng đặc biệt xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng đặc biệt xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho rất nhiều người ở nhiều địa bàn nhất định. Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 140 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm năm hoặc tù chung thân, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:

 Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới mười hai năm tù) nhưng không được dưới bảy năm tù.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

– Người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 140 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 140 Bộ luật hình sự;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;

– Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.

  1. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Theo quy định tại khoản 5 Điều 140 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

So với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 135 và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 158 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hình phạt bổ sung đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm được sửa đổi bổ sung như sau:

Bỏ hình phạt quản chế hoặc cấm cư trú;

Hình phạt tiền có thể áp dụng đối mức với người phạm tội có cao hơn mức quy định tại Bộ luật hình sự năm 1985 và được áp dụng đối với cả hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân. Mức tiền phạt chung cho hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng. Có thể coi đây là khung hình phạt tiền đối với người phạm tội. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì không được phạt trên một trăm triệu đồng, nhưng nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì có thể phạt dưới mười triệu đồng nhưng không được dưới một triệu đồng vì theo quy định tại khoản 3 Điều 30 Bộ luật hình sự mức phạt tiền không được dưới một triệu đồng.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI BẮT CÓC NHẰM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN (ĐIỀU 134)

Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi bắt người làm con tin nhằm buộc người khác phải nộp cho mình một khoản tiền hoặc tài sản thì mới thả người bị bắt.

Bắt người làm con tin là bắt và giữ lại để buộc người muốn chuộc phải bảo đảm thực hiện một lời hứa nhằm thoả mãn một yêu sách của người bắt, nhưng chỉ bắt người làm con tin nhằm buộc người muốn chuộc phải giao tài sản hoặc một số tiền thì mới là bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Nếu bắt cóc nhằm mục đích khác thì không phải là bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản mà tuỳ trường hợp cụ thể mà người có hành vi bắt cóc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm tương ứng.

Trong cuộc sống, nhân dân ta coi hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản chính là hành vi bắt cóc tống tiền. Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là bắt người đem giấu một nơi để đòi tiền chuộc. Tuy nhiên, trong thực tế có nhiều trường hợp bắt người đem giấu một nơi nhưng không đòi tiền chuộc mà nhằm mục đích khác, nên nhà làm luật phải quy định bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản mới là tội phạm được quy định trong chương “các tội xâm phạm sở hữu”. Nếu bắt cóc không nhằm chiếm đoạt tài sản thì có thể là hành vi cấu thành tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật quy định tại Điều 123 Bộ luật hình sự hoặc tội đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em quy định tại Điều 120 Bộ luật hình sự.

Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự là tội phạm đã được quy định tại Điều 152 Bộ luật hình sự năm 1985. So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 134 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều sửa đổi bổ sung, nhất là đối với các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, quy định cụ thể hơn, dễ áp dụng hơn. Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa vì thực tiễn xét xử chưa có trường hợp nào người phạm tội chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa bằng hành vi bắt cóc. Nay Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, không phân biệt tài sản xã hội chủ nghĩa hay tài sản của công dân cũng là nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn mới.

Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự nói chung có khung hình phạt nặng hơn tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 152 Bộ luật hình sự năm 1985.

Về cơ cấu, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự được cấu tạo thành 5 khoản ( Điều 152 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ có 2 khoản ).

Nhà làm luật quy định thêm nhiều tình tiết là yếu tố định khung hình phạt  mà Điều 152 Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định, như phạm tội đối với trẻ em; đối với nhiều người; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người bị bắt làm con tin; giá trị tài sản…

Hình phạt bổ sung cũng được quy định ngay trong điều luật.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

  1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm

Đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, chủ thể của tội phạm cũng tương tự như đối với tội cướp tài sản. Tuy nhiên, người phạm tội từ dủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 134, vì khoản 1 Điều 134 là tội phạm nghiêm trọng và theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; khoản 1 Điều 134 chỉ là tội phạm nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là bảy năm tù.

Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản cần chú ý độ tuổi của người phạm tội và các tình tiết định khung hình phạt. Nếu người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự thì chỉ cần xác định người phạm tội đã đủ 14 tuổi là đã phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng nếu người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự thì người phạm tội phải đủ 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự.

  1. Các dấu hiệu về khách thể của tội phạm

Khách thể của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản cũng tương tự như tội cướp tài sản, tức là  cùng một lúc xâm phạm đến hai khách thể ( quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân), nên trong cùng một vụ án có thể có thể có một người bị hại, nhưng cũng có thể có nhiều người bị hại, có người bị hại chỉ bị xâm phạm đến tài sản; có người bị hại bị xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự; có người bị hại vừa bị xâm phạm đến tài sản vừa bị xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự.

Thông thường tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt, người bị bắt cóc là người bị xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự; còn người bị xâm phạm tài sản lại là những người thân của người bị bắt cóc. Tuy nhiên, cũng có trường hợp người bị bắt cóc đồng thời là người bị xâm phạm tài sản. Ví dụ: Ông Trần M là chủ một tiệm vàng ở thành phố H. Vào một buổi sáng, ông M đang tập thể dục trong công viên, thì bị Hoàng Công T, Vũ Trọng D và Trịnh Văn C  dùng vũ khí uy hiếp buộc ông M lên xe ô tô, sau đó chúng đưa ông M về nhà Trịnh Văn C. Tại đây, chúng buộc ông M phải viết thư về gia đình lấy 20 lượng vàng giao cho bọn chúng thì chúng mới thả ông M.

  1. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan

Bắt cóc là hành vi bắt người trái pháp luật. Thông thường hành vi bắt người làm con tin được thực hiện một cách lén lút và đưa người bị bắt đến một nơi nào đó rồi tìm cách thông báo cho người thân của người bị bắt cóc biết, cùng với yêu cầu người thân của họ phải nộp một số tiền thì mới thả người bị bắt cóc, nếu không nộp tiền hoặc tài sản thì người bị bắt cóc sẽ bị nguy hiểm đén tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm.

Hành vi bắt người trái pháp luật được thực hiên bằng nhiều thủ đoạn khác nhau như: dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc bằng những thủ đoạn khác như cho uống thuốc ngủ, thuốc mê, xịt ête, lừa dối… để bắt được người làm con tin. Thủ đoạn bắt cóc không phải là đấu hiệu đặc trưng của hành vi phạm tội (không có ý nghĩa trong việc định tội), nhưng hành vi bắt cóc người làm con tin lại là đặc trưng cơ bản của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, bởi lẽ bắt người làm con tin chính là một  thủ đoạn nhằm chiếm đoạt tài sản.

Người bị bắt cóc làm con tin là người bất kỳ ( người lớn, trẻ em, người già, nam giới, nữ giới…, không phân biệt tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp, địa vị xã hội…).

Ngoài hành vi bắt cóc người làm con tin, người phạm tội còn có hành vi đe doạ người khác ( cơ quan, tổ chức hoặc người thân của con tin ) nếu không giao nộp tiền hoặc tài sản thì con tin sẽ bị giết, bị đánh đập, hành hạ… Hành vi đe doạ người khác cũng có thể được thực hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau như: gọi điện thoại, viết thư, nhắn tin qua người khác hoặc trực tiếp gặp người thân của con tin…

Cùng với việc đe doạ người khác, người phạm tội còn có thể có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc có những hành vi, thủ đoạn khác đối với người bị bắt làm con tin để người này sợ hãi mà yêu cầu cơ quan, tổ chức hoặc người thân của mình nộp tiền hoặc tài sản như: đánh, trói, bắt nhịn ăn, nhịn uống, làm nhục, doạ giết, doạ đánh, doạ đem bán ra nước ngoài, bán cho các ổ mại dâm… Đối với hành vi xâm phạm trực tiếp đến con tin, nếu cấu thành một tội độc lập thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tương ứng với hành vi xâm phạm. Ví dụ: Tống Văn N, Uông Sĩ T, Hà Văn Đ bàn bạc phục bắt cóc chị Hoàng Thị P nhằm chiếm đoạt tài sản. Khi chị P đang trên đường từ chợ về nhà, thì bị Uông Sĩ T nói dối là anh Nguyễn Quốc H (chồng chị P) bị tai nạn giao thông đang cấp cứu tại bệnh viện tỉnh; chị P tưởng thật nên đã nhờ T chở chị vào bệnh viện xem chồng bị tai nạn như thế nào. T đã dùng xe máy chở chị P đến một nhà kho bỏ không mà Tống Văn N và Hà Văn Đ đã đểi sẵn ở đó. Đến nơi, chị P biết mình bị lừa định bỏ chạy, thì bị N và Đ trói và hăm doạ, buộc chị P phải viết thư về cho chồng đem 10 lượng vàng nộp cho bọn chúng thì chúng mới thả chị P về. Sau khi chị P viết thư cho chồng, N giao cho Đ và T ở lại trông giữ chị P, còn N đem thư của chị P về tống tiền anh H. Khi N đã đi, Đ và T ở lại đã cưỡng hiếp chị P. Hành vi của Đ và T là hành vi cấu thành tội hiếp dâm, ngoài tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản cùng với N.

Nếu hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc có những hành vi khác, nhưng hành vi này được quy định là yếu tố định khung hình phạt quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 của Điều 134 Bộ luật hình sự thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự thêm tội. Ví dụ: Người bị bắt làm con tin bị trói, bị đánh đập gây tổn hại đến sức khoẻ có tỷ lệ thương tật 35%, thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ sức” mà người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt theo điểm a khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Hậu quả

Cũng như tội cướp tài sản, hậu quả của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt không phải là yếu tố bắt buộc để định tội, nếu người phạm tội chưa gây ra hậu quả nhưng có ý thức chiếm đoạt và đã thực hiện hành vi bắt cóc người làm con tin là tội phạm đã hoàn thành. Tuy nhiên, nếu gây ra hậu quả thì tuỳ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm mà người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt nặng hơn hoặc là tình tiết xem xét khi quyết định hình phạt.

Trường hợp, người phạm tội chưa bắt cóc được người làm con tin vì những lý do khác nhau, thì thuộc trường hợp phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội ( chuẩn bị phương tiện, dụng cụ… để bắt cóc nhưng bắt không được), nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì khoản 1 Điều 134 chỉ là tội phạm nghiêm trọng và theo quy định Điều 17 Bộ luật hình sự thì người chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng mới phải chịu trách nhiệm hình sự.

Cũng như đối với tội cướp tài sản, hậu quả của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt có thể là tài sản nhưng cũng có thể là tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người. Khi xác định hậu quả của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt cần chú ý: Chỉ những hậu quả do hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây ra mới là hậu quả của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt ( có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi bắt cóc hằm chiếm đoạt tài sản với hậu quả xẩy ra). Nếu hậu quả xảy ra lại không phải do hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây ra, thì không coi là hậu quả của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, mà tuỳ từng trường hợp người phạm tội có thể bị truy cứu về một tội phạm khác như trường hợp Uông Sĩ T, Hà Văn Đ đối với chị Hoàng Thị P nêu ở trên.

  1. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm

Cũng như đối với tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt được thực hiện do cố ý. Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Nếu hành vi bắt cóc người làm con tin lại nhằm một mục đích khác mà không nhằm chiếm đoạt tài sản thì không phải là tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản mà tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội phạm tương ứng khác. Ví dụ: Để trả thù anh Đinh Văn Th, nên Vũ Xuân H bắt cóc con trai anh Th mới ba tuổi để anh Th phải từ bỏ chuyến đi công tác nước ngoài. Hành vi của Vũ Xuân H chỉ phạm tội bắt người trái pháp luật quy định tại Điều 123 Bộ luật hình sự.

Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội có thể có trước khi thực hiện hành vi bắt cóc, nhưng cũng có thể xuất hiện trong hoặc sau khi đã thực hiện hành vi bắt cóc người làm con tin. Ví dụ: Trong trường hợp đối với Vũ Xuân H vừa nêu ở trên, sau khi đã bắt được con của anh Th, H lại có ý định chiếm đoạt tài sản của anh Th và có những hành vi buộc anh Th phải giao cho mình một khoản tièn thì mơí trả con cho anh Th, thì hành vi của H đã chuyển hoá từ tội bắt người trái pháp luật sang tột bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.

 Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc để xác định tội danh. Tuy nhiên, ngoài mục đích chiếm đoạt, người phạm tội còn có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hoặc chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Ví dụ: Phạm Thanh B, có thù với anh Trịnh Văn D nên B đã rủ Nguyễn Văn T và Vũ Thị C bắt cóc cháu Trịnh Văn H (con trai anh D) để trả thù, nhưng khi bàn với T và C thì T và C nói : “Chúng tao cần một ít tiền để trả nợ”. Sau khi đã bắt được cháu H, C và T bàn với B điện cho anh D phải nộp 50.000.000 thì mới thả cháu H về, B đồng ý với đề xuất của T và C nên đã điện cho anh B về việc phải nộp 50.000.000 đồng cho bon chúng. Trong trường hợp này, lúc đầu Phạm Thanh B chỉ có ý định bắt con anh D để trả thù, nhưng khi bàn với đồng bọn, B đã tiếp nhận mục đích của C và T, đồng thời có hành vi nhằm thực hiện mục đích đó, nên B cũng phải chịu trách nhiệm về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản cùng với T và C.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản không có các tình tiết định khung hình phạt

Theo quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 134 có thể bị phạt từ hai năm đến bảy năm tù. Khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự là cấu thành cơ bản của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, là tội phạm  nghiêm trọng. So với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 152 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn khoản 1 Điều 152 Bộ luật hình sự năm 1985. Vì vậy, đối với hành vi phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của công dân xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau ngày 4-1-2000 ( ngày Chủ tịch nước công bố Bộ luật hình sự năm 1999), mới phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì được áp dụng khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 1999, nhưng đối với hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 (nếu có) mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện, xử lý thì không được áp dụng Điều 134 Bộ luật hình sự 1999 để điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội vì Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa.

Khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt đến bảy năm tù.  Theo quy định tại điểm d Mục 3 Nghị quyết 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội, thì không xử lý về hình sự đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đến bảy năm tù; nếu vụ án đang được điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trong trường hợp người đó đã bị kết án và đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; nếu người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án, thì được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt và tại điểm b Mục 3 Nghị quyết 229/2000/NQ-UBTVQH10 ngày 28-1-2000 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội  quy định: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu Bộ luật hình sự năm 1999 quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 7 năm tù đối với tội phạm mà người đó thực hiện” thì  thuộc trường hợp được áp dụng điểm d Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội. Theo các Nghị quyết trên, thì người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của công dân xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 152 Bộ luật hình sự năm 1985, nay khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù nên được áp dụng điểm d Mục 3 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội bắt cóc nằm chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu các tình tiết khác như nhau thì mức hình phạt đối với người phạm tội phu thuộc vào những yếu tố sau:

– Người phạm tội dùng vũ lực để bắt cóc người làm con tin phải bị phạt nặng hơn trường hợp không dùng vũ lực;

– Nếu dùng vũ lực lại gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân có tỷ lệ thương tật dưới 11% phải bị phạt nặng người phạm tội không gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có ít hoặc không có tình tiết tăng nặng;

– Người phạm tội không có tình tiết giảm nhẹ phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ được phạt nhẹ hơn người có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội chiếm đoạt được tài sản phải bị phạt nặng hơn người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản;

  1. Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự

Phạm tội có tổ chức

Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp phạm tội cướp tài sản có tổ chức được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự, các dấu hiệu về phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có tổ chức còn có những đặc điểm riêng sau:

Người thực hành là người trực tiếp thực hiện hành vi bắt cóc người làm con tin; canh giữ con tin; dụ dỗ, khống chế, hăm doạ con tin; chuyển những tin tức cho cơ quan, tổ chức hoặc người thân của con tin; tiếp nhận tài sản hoặc tiền chuộc con tin…

Người thực hành trong vụ án bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản cũng có thể có hành vi thái quá trong quá trình thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, nếu hành vi thái quá đó chỉ nhằm thực hiện việc bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản mà những người đồng phạm khác mong muốn thì hành vi thái quá của người thực hành tất cả những đồng phạm khác phải chịu. Ví dụ: Vũ Minh T, Đỗ Văn K và Nguyễn Văn H bàn bạc thống nhất bắt cóc cháu Trần Văn Q con anh Trần Quyết Th nhằm buộc anh Th phải nộp cho chúng 100.000.000 đồng chúng mới thả cháu Q. Theo kế hoạch, thì Vũ Minh T có nhiệm vụ giả vờ người nhà cháu Q đến đón cháu tại trường mầm non sau giờ học, Đỗ Văn K có nhiệm vụ dùng xe máy đến chở T và cháu Q về nhà Nguyễn Văn H. Trên đường đưa cháu Q về nhà H, cháu Q thấy người lạ nên khóc và không chịu để T và K chở đi, một số người thấy nghi bèn đến hỏi T và K cho rõ ngọn ngành. Thấy nguy cơ bị lộ, K đã rút dao ra đâm bị thương anh Vũ Khắc X và doạ mọi người, ai xông vào sẽ bị đâm chết, nên mọi người sợ hãi để T và K bắt cháu Q đi. Trong trường hợp này, hành vi đâm anh X của K nằm ngoài dự kiến của T và H, nhưng lại cùng mục đích là bắt cóc cháu Q nhằm chiếm đoạt tài sản của anh Th, cho nên T và H cùng phải chịu chung trách nhiệm hình sự về hành vi gây thương tích cho anh X của K.

Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Nói chung, phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có tổ chức, thì việc tổ chức tương đối chặt chẽ, có sự phân công vai trò của từng người đồng phạm, vạch kế hoạch, chuẩn bị phương tiện… để việc bắt cóc người làm con tin dễ dàng. Cùng với việc vạch kế hoạch bắt cóc, người tổ chức và những người đồng phạm khác còn vạch kế hoạch giam giữ, hăm doạ, khống chế con tin; chuẩn bị kế hoạch để chiếm đoạt tiền chuộc mà không bị phát hiện. v.v…

Người xúi giục trong vụ án bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người đồng phạm khác thực hiện tội phạm. Thực tiễn xét xử cho thấy, người xúi giục trong vụ án bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thường là những người có mâu thuẫn với người thân của người bị bắt cóc, nhưng không có khả năng tổ chức việc bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản nên xúi dục người khác thực hiện việc bắt cóc, đồng thời có một số hành vi giúp sức cho việc thực hiện tội phạm như: chỉ mặt, chỉ nhà, cung cấp quy luật đi về của người bị bắt cóc cho đồng bọn… Tuy nhiên, trong một số trường hợp, người xúi giục trong vụ án bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản đồng thời là người tổ chức.

Người giúp sức trong vụ án bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản như: gọi điện cho người thân của người bị bắt cóc, chuyển thư, nắn tin cho người thân của người bị bắt cóc ( con tin ), nhận tiền hoặc tài sản của người thân của con tin chuyển giao cho đồng bọn…

Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có tính chất chuyên nghiệp

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp cướp tài sản có tính chất chuyên nghiệp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự, tức là người phạm tội lấy việc bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là phương tiện sinh sống chính của mình. Nói chung, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có tính chất chuyên nghiệp thường được thực hiện có tổ chức. Nếu người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có tính chất chuyên nghiệp và có tổ chức thì người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tình tiết định khung hình phạt (phạm tội có tổ chức và có tính chất chuyên nghiêp). Tuy nhiên, không phải trường hợp phạm tội có tổ chức nào, tất cả những người phạm tội đều bị coi là có tính chất chuyên nghiệp mà có thể có người phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, có người phạm tội lần đầu. Vì vậy, khi xét hành vi phạm tội có tính chất chuyên nghiệp hay không, phải căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và hành vi cụ thể mà người phạm tội thực hiện.

Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp nói chung, phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản nói riêng, nhất thiết phải là người thực hiện hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt nhiều lần, nhưng không phải cứ thực hiện việc bắt cóc nhiều lần nhằm chiếm đoạt tài sản đều là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, mà phải xem xét việc thực hiện tội phạm của họ có thật sự là phương tiện sống hay không. Nếu phạm tội nhiều lần nhưng họ không lấy việc phạm tội là lẽ sống thì không coi là có tính chất chuyên nghiệp mà chỉ là trường hợp phạm tội nhiều lần ( tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự).

Vấn đề đặt ra là, người phạm tội chỉ thực hiện tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản vài lần, thậm chỉ chỉ một lần, nhưng người phạm tội lấy việc phạm tội là phương tiện sống, vậy có coi hành vi phạm tội của họ có tính chất chuyên nghiệp không ? Ví dụ: Trần văn Đ là người đã có nhiều tiền án tiền sự về tội trộm cắp tài sản, cướp giật tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nhưng Đ chưa bao giờ phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Sau khi ra tù, Đ rủ Hoàng Công N, Bùi Như B bắt cóc cháu Trịnh Hồng Q nhằm chiếm đoạt tài sản. Vậy trường hợp phạm tội của Trần Văn Đ có phải là “có tính chất chuyên nghiệp hay không” ? Quan điểm thứ nhất cho rằng, mặc dù Đ mới lần đầu tham gia việc bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, nhưng Đ đã lấy việc phạm tội là phương tiện kiếm sống, nên phải coi trường hợp bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của Đ là có tính chất chuyên nghiệp. Quan đểm thứ hai cho rằng, tình tiết “có tính chất chuyên nghiệp” là tình tiết định khung hình phạt đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản nên cần phải hiểu “tính chất chuyên nghiệp” là của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản chứ không phải là của tội phạm nói chung. Tuy nhiên, Trần Văn Đ phạm tội thuộc trường hợp có tình tiết tăng nặng “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Theo chúng tôi, quan điểm thứ hai không chỉ đúng về lý luận mà còn phù hợp với thực tiễn xét xử.

Tái phạm nguy hiểm

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp tái phạm nguy hiểm đối với tội cướp tài sản và cũng hoàn toàn giống với tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Vì tình tiết này thuộc về nhân thân người phạm tội. Các dấu hiệu về tái phạm nguy hiểm được quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự, chỉ cần người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý hoặc đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý. Các tội phạm quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự là tội phạm bất kỳ.

Tuy nhiên về lý luận vẫn còn ý kiến cho rằng, tình tiết tái phạm nguy hiểm quy định là tình tiết định khung hình phạt của tội phạm nào thì tội phạm mà người phạm tội đã bị kết án, đã tái phạm phải là tội phạm quy định trong điều luật đó. Ví dụ: Tình tiết tái phạm nguy hiểm quy định tại điểm c khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự phải thoả mãn điều kiện như: Người phạm tội đã bị kết án về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản quy định tại khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự chưa được xoá án tích mà lại phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự. Cho dù có thể còn những ý kiến khác nhau, nhưng thực tiễn xét xử nhiều năm qua đã khẳng định tình tiết tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung hình phạt nói chung là trường hợp tái phạm được quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Vì vậy, khi xác định thế nào là tái phạm nguy hiểm phải căn cứ vào các quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt nếu các tình tiết khác như nhau, thì người phạm tội đã bị kết án về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản quy định tại khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự chưa được xoá án tích mà lại phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự sẽ bị phạt phải nặng hơn trường hợp tái phạm nguy hiểm khác.

Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội cướp tài sản có sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác quy định tại điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản người phạm tội có thể sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác đối với con tin hoặc có thể đối với người thân của con tin hoăc người khác, tức là để chiếm đoạt được tài sản người phạm tội đã sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác đối với bất kỳ người nào có liên quan đến hành vi phạm tội của họ, kể cả trường hợp sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác để tẩu thoát.

đ. Phạm tội đối với trẻ em

Phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản đối với trẻ em là trường hợp người phạm tội bắt cóc trẻ em làm con tin hoặc tuy không bắt cóc trẻ em làm con tin nhưng chiếm đoạt tài sản của trẻ em bằng thủ đoạn bắt cóc người thân của trẻ em để buộc trẻ em phải nộp tiền chuộc. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử người phạm tội chủ yếu bắt cóc trẻ em làm con tin để cha mẹ, hoặc người thân phải nộp cho chúng một khoản tiền chuộc.

Trẻ em, theo quy định tại Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì người dưới 16 tuổi là trẻ em.

Phạm tội đối với trẻ em được coi là trường hợp phạm tội nguy hiểm hơn trường hợp phạm tội đối với người đã thành niên, không chỉ xuất phát từ quan điểm bảo vệ trẻ em là bảo vệ tương lai của đất nước, bảo vệ lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà còn bảo vệ những người không có khả năng tự vệ.

Tình tiết “phạm tội đối với trẻ em” không chỉ là yếu tố định khung hình phạt mà trong nhiều trường hợp nó là  tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự . Vì vậy, khi đã áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự đối với người phạm tội thì không coi đây là tình tiết tăng nặng khi quyết định hình phạt nữa.

Việc xác định tuổi của người được xác định là trẻ em là một yêu cầu bắt buộc của các cơ quan tiến hành tố tụng. Hồ sơ vụ án nhất thiết phải có giấy khai sinh của người bị hại là trẻ em, nếu không có giấy khai sinh thì phải có các tài liệu chứng minh người bị hại là người chưa đến 16 tuổi. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp việc xác định tuổi của người bị hại gặp rất nhiều khó khăn, các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng hết mọi biện pháp nhưng vẫn không xác định được tuổi của người bị hại. Vậy trong trường hợp này, cách tính tuổi của người bị hại như thế nào ? Hiện nay có hai ý kiến trái ngược nhau: ý kiến thứ nhất cho rằng, nếu không biết ngày sinh thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó, nếu không biết tháng sinh thì lấy tháng cuối cùng của năm đó, cách tính này là không có lợi cho ngời phạm tội. Còn ý kiến thứ hai thì cho rằng, nếu không biết ngày sinh thì lấy ngày đầu tiên của tháng đó, nếu không biết tháng sinh thì lấy tháng cuối cùng của năm đó, cách tính này theo hướng có lợi cho người phạm tội. Để có căn cứ xác định tuổi của người bị hại nhất là người bị hại lại là trẻ em, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần có hướng dẫn cụ thể.

Phạm tội đối với trẻ em không phải là tình tiết thuộc ý thức chủ quan của người phạm tội mà là tình tiết khách quan, do đó không cần người phạm tội phải nhân thức được hoặc buộc họ phải nhận thức được đối tượng mà mình xâm phạm là trẻ em thì mới coi là tình tiết tăng nặng, mà chỉ cần xác định người mà người phạm tội xâm phạm là trẻ em thì người phạm tội đã bị coi là phạm tội đối với trẻ em rồi.

Khi quyết định hình phạt, nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì trẻ em càng ít tuổi, sự kháng cự càng yếu ớt thì mức hình phạt càng nặng; trường hợp bắt cóc trẻ em làm con tin sẽ bị phạt nặng hơn trường hợp buộc trẻ em nộp tiền chuộc.

Phạm tội đối với nhiều người

Phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản đối với nhiều người là trường hợp người phạm tội bắt cóc từ hai người trở lên làm con tin hoặc buộc từ hai người trở lên phải nộp tiền chuộc. Tuy nhiên, thực tiến xét xử chủ yếu người phạm tội bắt cóc nhiều người làm con tin và trường hợp này nguy hiểm trường hợp buộc nhiều người nộp tiền chuộc.

Nếu trong những người bị bắt cóc hoặc bị buộc phải nộp tiền chuộc mà có người là trẻ em thì người phạm tội phải bị tuy cứu trách nhiệm hình sự về hai điểm ( điểm đ và điểm e) khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự và mức hình phạt phải nặng hơn trường hợp chỉ có một tình tiết, nếu các tình tiết káhc của vụ án giống nhau.

Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người bị làm con tin mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%

Đây là trường hợp người phạm tội trong quá trình thực hiện tội phạm bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản đã gây thương tích cho người bị bắt cóc làm con tin mà có tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%. Hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của con tin bằng nhiều phương pháp và thủ đoạn khác nhau như: đánh đập, tra khảo, bắt nhịn đói, nhịn khát, bỏ rét, giam cầm.v.v…

Căn cứ xác định tỷ lệ thương tật của người bị bắt làm con tin là kết luận của Hội đồng giám định pháp y. Vì vậy, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng nếu thấy người bị bắt cóc làm con tin bị thương tích hoặc bị tổn hại đến sức khoẻ, thì nhất thiết phải trừng cầu giám định pháp y để xác định tỷ lệ thương tật. Nếu người bị bắt cóc làm con tin từ chối giám định và việc giám định không thực hiện được thì không buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm g khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự . Tuy nhiên, trong một số trường hợp căn cứ vào bảng tiêu chẩn thương tật được ban hành kèm theo Thông tư liên Bộ số 12/TTLB ngày 26-7-1995 của Bộ Y tế và Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội mà rõ ràng xác định được tỷ lệ thương tật của người bi bắt làm con tin từ 11% đến 30% và địa phương đó không tổ chức được Hội đồng giám định pháp ý thì các cơ quan tiến hành tố tụng có thể vẫn buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm g khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự. Ví dụ: Người bị bắt cóc bị tra tấn làm điếc một tai hoàn toàn, theo bảng thương tật trên quy định có tỷ lệ thương tật là 21% đến 25 %, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm g khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự nếu như địa phương nơi xảy ra vụ án không tổ chức được Hội đồng giám định pháp y.

Trường hợp phạm tội này chỉ căn cứ vào thương tích hoặc tổn hại đến sức khoẻ của người bị bắt làm con tin, còn đối với người khác nếu người phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ thì tuỳ trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể còn bị truy cứu thêm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác theo quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự. Ví dụ: Theo sự thoả thuận giữa người phạm tội và người thân của người bị bắt làm con tin về thời gian địa điểm giao tiền chuộc, nhưng sau khi đã đặt tiền chuộc vào vị trí quy định, người thân của người bị bắt cóc đã gọi điện thoại di động báo cho Công an đến bắt bọn tống tiền nhưng đã để cho bọn tống tiền phát hiện nên chúng đã tấn công người giao tièn làm cho người này bị thương tích có tỷ lệ thương tật 21%. Ngoài tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự thêm tội cố ý gây thương tích cho người khác theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự.

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi tiệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng

Đây là trường hợp người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, không phụ thuộc vào việc người phạm tội đã lấy được tài sản hay chưa. Bởi lẽ, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là tội cấu thành hình thức, nên chỉ cần có căn cứ xác định người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng là người phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự rồi. Ví dụ: Vũ Văn H, Đoàn Công V và Phạm Quốc T bàn bạc bắt cóc cháu Hoàng Kim A mới 4 tuổi là con của anh Hoàng Đức G chủ tiệm vàng “Kim Ngân” để buộc anh G phải nộp cho chúng 20 lượng vàng 9999 ( bốn số chín), thì chúng mới thả cháu Kim A. Vì lo sợ cháu Kim A bị chúng hành hạ nên anh G đã nhận lời nộp vàng cho chúng, nhưng các chiến sỹ Công an đã bố trí bắt gọn bon chúng giải thoát cho cháu Kim A, trong khi chúng đang chuẩn bị nhận 20 lượng vàng của anh G. Mặc dù Vũ Văn H, Đoàn Công V và Phạm Quốc T chưa lấy được 20 lượng vàng nhưng chúng vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự với hai tình tiết định khung là phạm tội đối với trẻ em và chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng ( giá trị 20 lượng vàng tương đường với 100.000.000 đồng).

Gây hậu quả nghiêm trọng

Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp do hành vi phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản nên đã gây ra những thiệt hại khác ngoài những thiệt hại đã được quy định là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt. Những thiệt hại này gọi chung là “hậu quả nghiêm trọng”. Hậu quả  nghiêm trọng do hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây ra cũng phải tương đương với các tình tiết định khung quy định tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự vì nó cũng là một tình tiết được quy định trong cùng một khung hình phạt. Căn cứ vào các quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự, qua thực tiến xét xử có thể coi những thiệt hại sau là hậu quả nghiêm trọng do hành vi phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây ra:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa đến 11% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người đó cộng lại từ 11% đến 30%;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật dưới 11% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị dưới 50.000.000 đồng, ngoài giá trị tài sản bị chiếm đoạt;

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, nhưng không phải là tài sản bị chiếm đoạt;

– Ngoài những thiệt hại sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây ra, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho nhiều người trên một địa bàn nhất định, làm cho nhiều người vì quá sợ hãi nên phải bỏ học, bỏ việc làm, không dám lao động sản xuất, không dám buôn bán.v.v… Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:

 Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới năm năm tù) nhưng không được dưới hai năm tù. Việc cho người phạm tội được hưởng án treo phải rất thận trọng và phải đảm bảo đúng các quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

 – Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 134 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự. Ví dụ: A phạm tội đối với trẻ em; còn B phạm tội có tính chất chuyên nghiệp và tái phạm nguy hiểm thì hình phạt của B phải nặng hơn hình phạt đối với A;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Người bị bắt cóc làm con tin có tỷ lệ thương tật càng cao thì hình phạt đối với người phạm tội càng nặng và ngược lại;

– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;

– Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.

  1. Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự

Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người bị làm con tin mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%

Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp phạm tội  quy định tại điểm g khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ người bị bắt làm con tin trường hợp này có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%. Đây là tỷ lệ thương tật nặng, nên tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội lớn. Cũng như đối với trường hợp quy định tại điểm g khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự, việc xác định tỷ lệ thương tật của người bị bắt cóc làm con tin phải do Hội đồng giám định pháp y, nơi nào không có Hội đồng giám định pháp y thì mới căn cứ vào bảng tiêu chuẩn thương tật được ban hành kèm theo Thông tư liên Bộ số 12/TTLB ngày 26-7-1995 của Bộ Y tế và Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội.

Chiếm đoạt tài sản có gía trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm e khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ tài sản bị chiếm đoạt ở mức từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng. Đây là giá trị tài sản bị chiếm đoạt rất lớn và cũng như trường hợp phạm tội quy định tại điểm e khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự, chỉ cần xác định người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng chứ không nhất thiết phải xác định người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa. Tuy nhiên, nếu người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản có giá trị như trên thì tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cao hơn trường hợp người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản có giá trị như trên.

Gây hậu quả rất nghiêm trọng

Trương hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm i khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ hậu quả mà người phạm tội gây ra trong trường hợp này là hậu quả rất nghiêm trọng. Hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây ra cũng phải tương đương với các tình tiết định khung quy định tại khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự vì nó cũng là một tình tiết được quy định trong cùng một khung hình phạt. Căn cứ vào các quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự, qua thực tiễn xét xử có thể coi những thiệt hại sau đây là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt gây ra:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa đến 31% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người đó cộng lại từ 31% đến 60%;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị dưới 200.000.000 đồng, ngoài giá trị tài sản bị chiếm đoạt;

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, nhưng không phải là tài sản bị chiếm đoạt;

– Ngoài những thiệt hại về về tính mạng, sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây ra, như ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng rất xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho nhiều người trên một địa bàn nhất định, làm cho nhiều người vì quá sợ hãi nên phải bỏ học, bỏ việc làm, không dám lao động sản xuất, không dám buôn bán.v.v… Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ mười năm đến mười tám năm, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:

Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới mười năm tù) nhưng không được dưới năm năm tù.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

– Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 134 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự. Ví dụ: A phạm tội chiếm đoạt ba trăm triệu đồng, còn B phạm tội chiếm đoạt ba trăm triệu đồng và còn gây thương tích cho con tin có tỷ lệ thương tật 41% thì hình phạt của B phải nặng hơn hình phạt đối với A;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Người bị bắt cóc làm con tin có tỷ lệ thương tật càng cao thì hình phạt đối với người phạm tội càng nặng và ngược lại;

– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;

 – Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.

  1. Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự

Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người bị làm con tin mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm g khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ người bị bắt làm con tin trường hợp này có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên. Đây là tỷ lệ thương tật rất nặng, nên tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội rất lớn. Cũng như đối với trường hợp quy định tại điểm g khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự, việc xác định tỷ lệ thương tật của người bị bắt cóc làm con tin phải do Hội đồng giám định pháp y, nơi nào không có Hội đồng giám định pháp y thì mới căn cứ vào bảng tiêu chuẩn thương tật được ban hành kèm theo Thông tư liên Bộ số 12/TTLB ngày 26-7-1995 của Bộ Y tế và Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội.

Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản làm chết người

Người bị chết trong trường hợp này là người bị bắt làm con tin, nguyên nhân bị chết không phải là là do người phạm tội trực tiếp gây ra, nếu người phạm tội có hành vi tước đoạt tính mạng người bị bắt làm con tin, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự thêm tội giết người. Thông thường người bị chết trong trường hợp này là do bị bỏ đói, bỏ khát hoặc do bị trói ở trong rừng bị thú dữ tấn công nên bị chết… cái chết của người bị hại người phạm tội không lường trước được, ngoài ý muốn của người phạm tội.

Chiếm đoạt tài sản có gía trị từ năm trăm triệu đồng trở lên

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm e khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên. Đây là giá trị tài sản bị chiếm đoạt đặc biệt lớn và cũng như trường hợp phạm tội quy định tại điểm e khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự, chỉ cần xác định người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng chứ không nhất thiết phải xác định người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa. Tuy nhiên, nếu người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản có giá trị như trên thì tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cao hơn trường hợp người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản có giá trị như trên.

Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng

Trương hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm i khoản 2 và điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ hậu quả mà người phạm tội gây ra trong trường hợp này là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây ra cũng phải tương đương với các tình tiết định khung quy định tại khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự vì nó cũng là một tình tiết định khung hình phạt được quy định trong một khung. Căn cứ vào các quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự, qua thực iễn xét xử có thể coi  những thiệt hại sau đây là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt gây ra:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa đến 61% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người đó cộng lại từ 61% trở lên;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị dưới 500.000.000 đồng, ngoài giá trị tài sản bị chiếm đoạt;

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500.000.000 đồng trở lên, nhưng không phải là tài sản bị chiếm đoạt;

– Ngoài những thiệt hại về về tính mạng, sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây ra, như ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng rất xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho rất nhiều người trên một địa bàn nhất định, làm cho rất nhiều người vì quá sợ hãi nên phải bỏ học, bỏ việc làm, không dám lao động sản xuất, không dám buôn bán.v.v… Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân và cũng là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý:

Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới mười lăm năm năm tù) nhưng không được dưới mười năm tù.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

– Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 134 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự. Ví dụ: A phạm tội chiếm đoạt năm trăm triệu đồng, còn B phạm tội chiếm đoạt năm trăm triệu đồng và còn gây thương tích cho con tin có tỷ lệ thương tật 61% thì hình phạt của B phải nặng hơn hình phạt đối với A;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Người bị bắt cóc làm con tin có tỷ lệ thương tật càng cao thì hình phạt đối với người phạm tội càng nặng và ngược lại;

– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;

 – Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.

  1. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản

Theo quy định tại khoản 5 Điều 134 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.

So với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 152 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hình phạt bổ sung đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều điểm được sửa đổi bổ sung.

Hình phạt tiền là loại hình phạt mới được quy định đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, mức phạt tiền là từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, có thể nói đây là khung hình phạt tiền đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thì không được phạt trên một trăm triệu đồng, nhưng nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì có thể phạt dưới mười triệu đồng nhưng không được dưới một triệu đồng vì theo quy định tại khoản 3 Điều 30 Bộ luật hình sự mức phạt tiền không được dưới một triệu đồng.

Việc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản của người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản phải chú đến các quy định tại Điều 40 Bộ luật hình sự về loại hình phạt này. Chỉ tịch thu tài sản thuộc quyền sở hữu của người phạm tội, không tịch thu các loại tài sản là đồ trang sức, vật kỷ niệm của người phạm tội. Nếu tịch thu toàn bộ tài sản thì vẫn phải để cho người phạm tội và gia đình họ có điều kiện sinh sống.

Khi áp dụng hình phạt cấm cư trú đối với người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản cần quyết định hình phạt rõ cấm cư trú ở địa phương cụ thể nào ( xã, phường, thị trấn, huyện, quận, thị xã, tỉnh, thành phố ) không nên cấm một cách chung chung là “cấm bị cáo cư trú ở thành phố, thị xã…” Nói chung nếu đã áp dụng hình phạt quản chế đối với người phạm tội thì không áp dụng hình phạt cấm cư trú đối với họ nữa vì nội dung của hình phạt quản chế là cư trú bắt buộc, dưới sự kiểm soát của chính quyền và nhân dân địa phương, không được tự ý ra khỏi nơi cư trú, bị tước một số quyền công dân và bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI CƯỚP TÀI SẢN (ĐIỀU 133)

Cướp tài sản là dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể tự vệ được nhằm chiếm đoạt tài sản.

Tội cướp tài sản quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự là tội phạm được nhập từ tội cướp tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 129 và tội cướp tài sản của công dân quy định tại Điều 151 Bộ luật hình sự năm 1985. So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều sửa đổi bổ sung, nhất là đối với các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, quy định cụ thể hơn, dễ áp dụng hơn.

Tội cướp tài sản quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự nói chung có khung hình phạt nặng hơn tội cướp tài sản của công dân và nhẹ hơn tội cướp tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Bộ luật hình sự năm 1985.

Về cơ cấu, tội cướp tài sản quy định tại Điều 133 được cấu tạo thành 5 khoản ( Điều 129 có 2 khoản và Điều 151 có 3 khoản).

Về giá trị tài sản là tình tiết định khung hình phạt được quy định bằng một số tiền nhất định thay cho việc quy định tài sản bị chiếm đoạt có giá trị lớn như Bộ luật hình sự năm 1985.

Về thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của nạn nhân là tình tiết định khung hình phạt cũng được quy định cụ thể bằng tỷ lệ thương tật thay cho việc quy định thương tích nặng hoặc tổn hại nặng đến sức khoẻ như Bộ luật hình sự năm 1985.

Hình phạt bổ sung được quy định nay trong điều luật.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

  1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm

Người phạm tội cướp tài sản phải là người đủ từ 14 tuổi trở lên và khi thực hiện hành vi phạm tội không mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Bởi vì, tội cướp tài sản quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự là tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý và theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì, người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

  1. Các dấu hiệu về mặt khách thể của tội phạm

Đối với tội cướp tài sản, khách thể của tội phạm bao gồm cả quan hệ về tài sản và quan hệ nhân thân, hay nói cách khác, tội cướp tài sản là tội phạm cùng một lúc xâm phạm hai khách thể, nhưng khách thể bị xâm phạm trước là quan hệ nhân thân, thông qua việc xâm phạm đến nhân thân mà người phạm tội xâm phạm đến quan hệ tài sản ( dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản ), nếu không xâm phạm đến quan hệ nhân thân thì người phạm tội cướp tài sản không thể xâm phạm đến quan hệ tài sản được. Đây cũng là đặc trưng cơ bản của tội cướp tài sản, nếu chỉ xâm phạm đến một trong hai quan hệ xã hội thì chưa phản ảnh đầy đủ bản chất của tội cướp tài sản, đây cũng là dấu hiệu để phân biệt tội cướp tài sản với các tội khác xâm phạm sở hữu và các tội mà người phạm tội có hành vi dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc nhưng không nhằm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, do tội cướp tài sản cùng một lúc xâm phạm hai khách thể, trong đó quan hệ nhân thân lại quan trọng hơn quan hệ sở hữu nên có ý kiến cho rằng, không nên xếp tội cướp tài sản trong Chương “các tội xâm phạm sở hữu” mà nên xếp vào Chương “các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người”. Việc nhà làm luật xếp tội cướp tài sản vào Chương các tội xâm phạm sở hữu là căn cứ vào mục đích cuối cùng của người phạm tội là nhằm chiếm đoạt tài sản, còn việc gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người chỉ là phương tiện để đạt mục đích. Cách lý giải này có nhiều nhân tố hợp lý, nhưng cũng chưa lý giải được vì sao tội tham ô nhà làm luật lại xếp vào Mục A “các tội phạm về tham nhũng” trong Chương “các tội phạm về chức vụ”, mặc dù mục đích cuối cùng của người phạm tội cũng là nhằm chiếm đoạt tài sản ? Trong khi đó, xét về góc độ khoa học luật hình sự khi chia khách thể thành khách thể loại là nhằm mục đích sắp xếp các chương trong Bộ luật hình sự. Trên thế giới hiện nay, có nước xếp tội cướp tài sản trong Chương “các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người”. Nhưng cũng có nưới xếp vào Chương “các tội xâm phạm sở hữu” như nước ta. Việc nhà làm luật xếp tội cướp tài sản vào Chương này hay Chương khác chỉ có ý nghĩa trong việc nghiên cứu khoa học lập pháp, chứ không có ý nghĩa trong việc xác định các dấu hiệu pháp lý cấu thành tội cướp tài sản.

Do tội cướp tài sản cùng một lúc xâm phạm đến hai khách thể, nên trong cùng một vụ án có thể có thể có một người bị hại, nhưng cũng có thể có nhiều người bị hại, có người bị hại chỉ bị xâm phạm đến tài sản; có người bị hại bị xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự; có người bị hại bị xâm phạm đến cả tài sản, tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự.

  1. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm

Hành vi dùng vũ lực

Hành vi dùng vũ lực là hành vi ( hành động) mà người phạm tội đã thực hiện, tác động vào cơ thể của nạn nhân như: Đấm, đá, bóp cổ, trói, bắn, đâm, chém… Hay có thể nói một cách khái quát là hành vi dùng sức mạnh vật chất nhằm chiếm đoạt tài sản. Hành vi dùng vũ lực có thể làm cho nạn nhân bị thương tích, bị tổn hại đến sức khoẻ hoặc bị chết, nhưng cũng có thể chưa gây ra thương tích đáng kể ( không có tỷ lệ thương tật). Ví dụ: Lê Xuân H dùng tay bóp cổ bà M để chiếm đoạt chiệc dây chuyền vàng và một đôi hoa tai của bà M trong lúc bà M đang nằm ngủ. Tuy bà M bị H bóp cổ nhưng không để lại thương tích, cũng không ảnh hưởng đến sức khoẻ và  không có tỷ lệ thương tật, nhưng hành vi của H vẫn được coi là hành vi dùng vũ lực.

Nói chung, người phạm tội dùng vũ lực chủ yếu đối với người có trách nhiệm về tài sản. Tuy nhiên cũng không loại trừ trường hợp người phạm tội dùng vũ lực đối bất cứ người nào mà người phạm tội cho rằng họ sẽ cản trở việc thực hiện tội cướp mà người phạm tội thực hiện. Người có trách nhiệm về tài sản có thể có mặt tại nơi xảy ra vụ cướp, nhưng cũng có thể không có mặt ở nơi xảy ra vụ cướp tài sản, thì người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản. Ví dụ: Đặng Hải Q, Nguyễn Lâm B và Lưu Ngọc C bàn bạc vào kho của Công ty vật tư thương mại khống chế thủ kho để chiếm đoạt hàng hoá trong kho. Khi đi, Q mang theo một súng K54, B mang theo một dao găm, còn C lái xe Lam để chuyên chở tài sản chiếm đoạt được. Khi đến kho, chúng không gặp thủ kho, nên đã phá khoá vào kho khuân tài sản ra xe Lam do C lái. Trong khi chúng đang khuân tài sản lên xe thì thấy có hai người đi xe máy qua, sợ bị phát hiện, Q đã dùng súng bắn về phía hai người đi xe máy làm hai người này sợ hãi phải quay xe chạy. Sau đó chúng tiếp tục lấy thêm một số tài sản rồi tẩu thoát. Trong trường hợp này, tuy Q, B và C không trực tiếp dùng vũ lực với người có trách nhiệm về tài sản và người có trách nhiệm về tài sản cũng không có ở nơi xảy ra vụ án, nhưng hành vi của các bị cáo vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản vì chúng đã có hành vi dùng vũ lực với người mà chúng cho rằng cản trở việc thực hiện tội phạm của chúng.

Đối với những vụ cướp có nhiều người cùng tham gia (đồng phạm), không nhất thiết tất cả những người tham gia đều phải dùng vũ lực, mà chỉ cần một hoặc một số người dùng vũ lực, còn những người khác có thể không dùng vũ lực hoặc chỉ đe doạ dùng vũ lực, nhưng tất cả những người cùng tham gia đều bị coi là dùng vũ lực.  Ví dụ: Đào văn T, Trần Văn H và Bùi Công D rủ nhau chặn đường để cướp xe máy. Khi anh Đinh Văn K là người làm nghề xe thồ ( xe ôm) đi qua, H và D đến giả vờ hỏi anh K, còn T dùng thanh sắt mang theo đánh mạnh vào đầu anh K rồi cả bọn cướp xe bỏ chạy. Mặc dù chỉ một mình T có hành vi dùng vũ lực, nhưng hành vi của H và D cũng bị coi là hành vi dùng vũ lực, cả T, H và D đều phạm tội cướp với vai trò cùng là người thực hành. Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử, gặp phải trường hợp này, nhiều người cho rằng chỉ có T là người thực hành còn D và H chỉ là người giúp sức.

Hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc

Hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc là hành vi dùng lời nói hoặc hành động nhằm đe doạ người bị hại nếu không đưa tài sản thì vũ lực sẽ được thực hiện ngay. Ví dụ: dí dao vào cổ, dí súng vào bụng yêu cầu người bị hại giao ngay tài sản nếu không sẽ bị đâm, bị bắn ngay lập tức.

Đe doạ dùng vũ lực là chưa dùng vũ lực, nếu người phạm tội vừa đe doạ, vừa dùng vũ lực, mặc dù việc dùng vũ lực không mạnh mẽ bằng vũ lực mà người phạm tội đe doạ người bị hại, nhưng vẫn bị coi là đã dùng vũ lực. Ví dụ: Nguyễn Văn L gặp chị Trần Thị H trên một đoạn đường vắng, L lao ra chặn chị H lại, H liền túm cổ áo chị H, đồng thời rút dao trong người ra dí vào cổ chị H buộc chị H phải cởi dây chuyền, hoa tai đưa cho L. Hành vi của L phải coi là hành vi dùng vũ lực chứ không phải là hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc.

Việc xác định thế nào là đe doạ dùng vũ lực không khó bằng việc xác định thế nào là đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc. Đây là dấu hiệu rất quan trong để phân biệt tội cướp tài sản với tội cưỡng đoạt tài sản, nếu đe doạ dùng vũ lực nhưng không ngay tức khắc thì đó là là dấu hiệu của tội cưỡng đoạt tài sản. Ngay tức khắc là ngay lập tức không chần chừ, khả năng xảy ra là tất yếu nếu người bị hại không giao tài sản cho người phạm tội. Khả năng này không phụ thuộc vào lời nói hoặc hành động của người phạm tội mà nó tiềm ẩn ngay trong hành vi của người phạm tội. Đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc, cũng có nghĩa là nếu người bị hại không giao tài sản hoặc không để cho người phạm tội lấy tài sản thì vũ lực sẽ được thực hiện. Tuy nhiên, vì vũ lực chưa xảy ra nên việc đánh giá người phạm tội có dùng vũ lực hay không, trong trường hợp người bị hại không giao tài sản lại là một vấn đề phức tạp. Thông thường người phạm tội không bao giờ nhận là sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc nếu người bị hại không giao tài sản hoặc không để người phạm tội lấy tài sản. Vì vậy để xác định trường hợp người phạm tội đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hay không, ngoài lời khai của người phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng còn phải căn cứ vào các tình tiết khác của vụ án như: Không gian, thời gian, hoàn cảnh lúc xảy ra sự việc; vào công cụ, phương tiện phạm tội người phạm tội sử dụng… Ví dụ: Trong đêm tối, trên một đoạn đường vắng, một người dùng dao dí vào cổ người khác, yêu cầu người này phải giao tài sản cho mình, nếu không sẽ giết. Ngay lúc đó có tổ tuần tra phát hiện nên bắt được người phạm tội. Trong trường hợp dù người phạm tội có khai rằng, chỉ có ý định doạ chứ không có ý định dùng vũ lực với người bị hại thì cũng không có căn cứ để tin lời khai của người phạm tội là đúng, mà trường hợp này phải xác định người phạm tội đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc.

Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được

Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được , là hành vi không phải là dùng vũ lực, cũng không phải là đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc nhưng lại làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Để xác định hành vi này, trước hết phải xuất phát từ phía người bị hại phải là người bị tấn công, nhưng không phải bị tấn công bởi hành vi dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc mà bị trấn công bởi hành vi khác. Như vậy, hành vi khác mà nhà làm luật quy định trong cấu thành trước hết nó phải là hành vi tấn công người bị hại, mức độ tấn công tới mức người bị hại không thể chống cự được. Ví dụ: A bỏ thuốc ngủ vào cốc nước để B uống, sau khi  uống nước, B đã ngủ say không biết gì, do đó A mới chiếm đoạt được tài sản của B. Thực tiễn xét xử, không chỉ xảy ra trường hợp người phạm tội cho người bị hại uống thuốc ngủ mà nhiều trường hợp người phạm tội dùng những thủ đoạn nguy hiểm như xịt Ê te, cho người bị hại uống thuốc mê, thậm chí cả thuốc độc làm cho người bị hại không còn khả năng chống cự nhằm chiếm đoạt tài sản. Trong trường hợp, người phạm tội tìm cách chuốc rượu cho người bị hại uống thật say để chiếm đoạt tài sản cũng cần phải xác dịnh hành vi này là hành vi làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được.

Trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, các văn bản pháp luật hình sự, cũng như các hướng dẫn về tội cướp tài sản ( tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản riêng của công dân) chỉ quy định cướp là dùng bạo lực để chiếm đoạt, mà không quy định trường hợp đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Tại Điều 4 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ngày 21-10-1970 và tại Điều 3 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân ngày 21-10-1970 đều chỉ quy định “ kẻ nào dùng bạo lực để chiếm đoạt…” 7. Do thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp người phạm tội không dùng bạo lực ( vũ lực), mà dùng những thủ đoạn cũng rất nguy hiểm nhằm chiếm đoạt tài sản, nếu chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội về tội cưỡng đoạt hoặc tội trộm cắp thì không tương xứng với tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, nên khi xây dựng Bộ luật hình sự năm 1985, nhà làm luật đã đưa vào cấu thành của tội cướp ( cướp tài sản xã hội chủ nghĩa và cướp tài sản của công dân) một số hành vi là dấu hiệu khách quan của cấu thành như: đe doạ dùng ngay tức khắc vũ lực hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Bộ luật hình sự năm 1999 vẫn giữ nội dung này chỉ hoán vị từ “ dùng ngay tức khắc vũ lực” thành “dùng vũ lực ngay tức khắc”.

Theo quan niệm truyền thống thì tội cướp tài sản là tội phạm có cấu thành hình thức, không cần có hậu quả xảy ra là tội phạm đã hoàn thành. Quan niệm này chỉ đúng đối với trường hợp tội cướp tài sản được thực hiện bằng hành vi dùng vũ lực hoặc bằng hành vi đe doạ dùng vũ lực nay tức khắc, nhưng đối với trường hợp bằng hành vi khác thì tội cướp tài sản không hẳn là tội phạm có cấu thành hình thức. Ví dụ: A muốn chiếm đoạt tài sản  của B bằng cách bỏ thuốc mê vào trong cốc nước cho B uống với ý thức sau khi  uống, B sẽ bị mê không biết gì nữa, A sẽ gỡ dây chuyền vàng, nhẫn vàng, đồng hồ của B, nhưng B phát hiện trong nước có mùi lạ nên không uống, do đó A không chiếm đoạt được tài sản của B. Trong trường hợp này, A đã thực hiện hết các hành vi khách quan của cấu thành, nhưng hậu quả không xảy ra ngoài ý thức chủ quan của A. Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử, nếu coi trường hợp phạm tội này là tội phạm đã hoàn thành rõ ràng không phù hợp với lý luận về các giai đoạn thực hiện tội phạm. ở một số nước, trong đó có các nước cộng hoà thuộc Liên Xô trước đây, không coi hành vi dùng thuốc mê, thuốc ngủ… làm cho người bị hại lâm vào tình trạng không chống cự được để chiếm đoạt tài sản là hành vi phạm tội cướp tài sản mà coi hành vi này là tội trộm cắp với thủ đoạn xảo quyệt hoặc nguy hiểm. Nếu coi hành vi này là hành vi phạm tội trộm cắp tài sản thì rõ ràng trường hợp phạm tội của A đối với B vừa nêu trên phải coi là phạm tội chưa đạt. Nếu như trước đây, việc xác định tội phạm chưa đạt hay tội phạm đã hoàn thành không ảnh hưởng nhiều lắm đến việc quyết định hình phạt, vì theo khoản 3 Điều 15 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các Điều của Bộ luật này về các tội tương ứng tuỳ theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiễn cho tội phạm không thực hiện đến cùng”. Nhưng theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự năm 1999, việc xác định thời điểm hoàn thành của tội phạm có một ý nghĩa rất quan trọng trong việc quyết định hình phạt. Theo khoản 3 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 1999 “ đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có áp dụng các hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng ; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định”. Việc nhà làm luật đưa vào cấu thành tội cướp tài sản dấu hiệu “có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể tự vệ được nhằm chiếm đoạt tài sản” đã làm cho việc xác định thời điểm hoàn thành của tội cướp có những quan điểm trái ngược nhau. Có ý kiến vẫn cho rằng, dù nhà làm luật có đưa thêm vào trong cấu thành dấu hiệu mới cũng không làm thay đỏi bản chất của tội cướp tài sản, nên tội cướp tài sản không có giai đoạn phạm tội chưa đạt mà chỉ có giai đoạn chuẩn bị phạm tội và tội phạm hoàn thành. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng, do nhà làm luật thêm vào cấu thành tội cướp dấu hiệu “có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể tự vệ được nhằm chiếm đoạt tài sản” nên tội cướp tài sản vừa là tội có cấu thành hình thức, vừa là tội có cấu thành vất chất. Nếu người phạm tội dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc thì tội cướp tài sản là tội phạm có cấu thành hình thức, còn nếu người phạm tội có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể tự vệ được nhằm chiếm đoạt tài sản thì tội cướp tài sản là tội phạm có cấu thành vật chất và như vậy tội cướp tài sản có giai đoạn phạm tội chưa đạt, bởi lẽ: Trong trường hợp người phạm tội đã thực hiện hết các hành vi thuộc mặt khách quan của cấu thành nhưng vì lý do khách quan nên tội phạm vẫn không xảy ra theo ý muốn của người phạm tội. Ví dụ: A đã bỏ thuốc mê vào cốc nước để cho B uống nhằm chiếm đoạt tài sản của B; B đã uống cóc nước có thuốc mê, nhưng không bị mê nên A không chiếm đoạt được tài sản của B.

Hậu quả của tội phạm

Đối với tội cướp tài sản, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành. Hậu quả của tội phạm chỉ là dấu hiệu định khung hình phạt hoặc chỉ là tình tiết để xem xét khi quyết định hình phạt.

Do khách thể của tội cướp là hai quan hệ xã hội ( quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân) nên tội cướp tài sản được gọi là tội gép và do đó hậu quả của tội cướp tài sản có thể là thiệt hại về tài sản nhưng cũng có thể là những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm. Ví dụ: A dùng dao đâm bị thương B để  cướp chiệc xe máy của B, trong trường hợp này, hậu quả do A gây ra cho B vừa là tài sản ( chiếc xe máy) vừa là sức khoẻ ( B bị thương tích ). Cũng có trường hợp thiệt hại gây ra vừa là tài sản vừa là danh dự, nhân phẩm. Ví dụ: A có ý định chiếm đoạt chiệc dây chuyền vàng của chị H, A đã nấp trong bụi cây chờ chị H đi qua, A lao ra ôm vật chị H và giật chiệc dây chuyền vàng trên cổ của chị H, trong lúc vật lộn, A đã xé rách áo ngoài, áo trong (Xu chiêng) của chị H, làm chị H phải ở trần chạy về trước sự chứng kiến của nhiều người.

Nếu hậu quả xảy ra là thiệt hại về tính mạng thì cần phân biệt hai trường hợp: trường hợp người phạm tội giết người nhằm chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội: tội giết người và tội cướp tài sản, nhưng nếu người phạm tội không có ý định giết người mà chỉ có ý định cướp tài sản nhưng chẳng may người bị hại bị chết thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản với tình tiết làm chết người. Tuy nhiên, nếu sau khi đã cướp tài sản bị đuổi bắt mà người phạm tội giết người để tẩu thoát thì còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người

Nếu hậu quả xảy ra là thiệt hại về sức khoẻ thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản với tình tiết gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác nếu người bị hại có tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên.

Nếu hậu quả xảy ra là thiệt hại về nhân phẩm danh dự mà hành vi xâm phạm của người phạm tội không có liên quan gì đến mục đích chiếm doạt thì ngoài tội cướp tài sản, người phạm tội còn bị truy cứu về các tội phạm tương ướng với với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm. Ví dụ: A, B, C bàn bạc đón đường nếu ai đi xe máy qua sẽ cướp xe. Khi thấy chị L đi xe máy qua, chúng chặn xe rút dao găm ra đe doạ buộc chị L phải giao xe cho chúng. Sau khi cướp được xe, B và C lấy xe chở nhau bỏ chạy, còn A ở lại dùng dao khống chế chị L để B và C chạy thoát. Trong khi khống chế chị L, A nảy ý định giao cấu với chị L nên A buộc chị L phải cho A giao cấu nếu không A sẽ giết. Do quá sợ hãi nên chị L buộc phải để cho A giao cấu.

  1. Các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm

Người phạm tội không chỉ cố ý thực hiện hành vi phạm tội mà còn phải có mục đích chiếm đoạt tài sản thì mới là tội cướp tài sản. Như vậy, ý thức chiếm đoạt của người phạm tội phải có trước khi thực hiện hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể tự vệ được. Nếu có hành vi tấn công nhưng vì động cơ và mục đích khác chứ không nhằm chiếm đoạt tài sản, nhưng sau đó người bị tấn công bỏ chạy, để lại tài sản và người có hành vi tấn công lấy tài sản đó thì không phải là tội cướp tài sản mà tuỳ vào trường hợp cụ thể mà truy cứu trách nhiệm hình sự người có hành vi tấn công theo các tội tương ứng, riêng hành vi chiếm đoạt của người có hành vi tấn công có thể là hành vi phạm tội công nhiên chiếm đoạt hoặc chiếm giữ trái phép tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Thực tiễn xét xử cho thấy hầu hết những trường hợp khi tấn công người phạm tội không có ý định chiếm đoạt tài sản mà vì động cơ mục đích khác như để trả thù, nhưng sau khi đã thực hiện hành vi tấn công, người bị tấn công bỏ chạy để lại tài sản, người có hành vi tấn công lấy tài sản đó đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội về tội cướp tài sản trong trường hợp này rõ ràng là không chính xác.

Ví dụ: Khoảng 21 giờ ngày 15-10-1996, trên đường từ thôn Trung Đức, xã Hợp Đức về xã Hoà Nghĩa, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng, Phạm Văn Hiếu gặp Đặng Bá Hùng; Hiếu rủ Hùng về nhà Hiếu chơi, Hùng đồng ý. Hiếu chở Hùng bằng xe đạp của mình, khi đến ngang khu vực kho lương thực xã Hoà Nghĩa. Theo lời khai của Hùng và Hiếu thì do đường xấu nên Hiếu vấp phải ổ gà làm cho xe đạp bị đổ, Hùng ngồi sau bị ngã, cùng lúc đó có một thanh niên mà sau này Hiếu và Hùng mới biết là Nguyễn Văn Mạnh người cùng xóm đi xe đạp Mi-ni Nhật từ phía sau đâm vào xe của Hiếu. Hùng ở phía sau túm tóc và đánh Mạnh, Hiếu thấy vậy cũng lao vào đấm đá Mạnh làm Mạnh lăn xuống bờ ruộng, Hùng lao theo đám đá và dùng tay bóp cổ Mạnh, anh Mạnh chống cự quyết liệt và hô: “cướp ! cướp !” Hiếu thấy xe của Mạnh để trên đường nên đã lấy đạp đi luôn, còn Hùng ở lại vẫn đánh nhau với Mạnh và bị Mạnh dùng gạch đập vào đầu làm Hùng bị choáng. Nhân dân trong làng nghe tiếng hô cướp liền chạy ra đưa cả hai đi cấp cứu ở trạm xá. Sau đó nghe anh Mạnh kể lại mới biết Hùng và Hiếu đánh Mạnh và lấy đi một xe đạp của anh. Sau khi điều trị, kết quả giám định pháp y kết luận anh Mạnh bị giảm sức khoẻ 2%. Về phần Hiếu, sau khi lấy được xe đạp của anh Mạnh, Hiếu đem đến chòi cá cách nơi xảy ra sự việc khoảng 1 km cất giấu và ngủ luôn ở chòi cá, sáng hôm sau nghe tin Hùng bị bắt, Hiếu đã ra tự thú và nộp lại chiếc xe đạp để trả lại cho anh Mạnh; gia đình Hiếu đã bồi thường cho anh Mạnh 500.000 đồng tiền thuốc điều trị vết thương.

Tại bản án sơ thẩm số 19 ngày 30-1-1997 Toà án nhân dân thành phố H áp dụng điểm c khoản 2 Điều 151; điểm h khoản1, khoản 2, khoản 3 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985, phạt Đặng Bá Hùng 4 năm tù, còn đối với Phạm Văn Hiếu bị phạt 3 năm tù nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách là 4 năm đều về tội cướp tài sản của công dân.

Sau khi xét xử sơ thẩm, Đặng bá Hùng kháng cáo đề nghị Toà án cấp phúc thẩm xem xét lại tội danh cho mình vì Hùng cho rằng y không có mục đích chiếm đoạt chiếc xe đạp của anh Mạnh mà việc này là ý đồ riêng của Hiếu.

Tại bản án phúc thẩm số 1007 ngày 28-6-1997 Toà phúc thẩm giảm hình phạt cho Đặng Bá Hùng xuống còn 3 năm tù và cho hưởng án treo về tội cướp tài sản của công dân.

Các bị cáo đánh anh Mạnh không phải là nhằm mục đích lấy chiếc xe đạp Mi-ni Nhật của anh mà là vì anh Mạnh đụng xe vào xe của các bị cáo. “ Do đường xấu nên Hiếu và Hùng dắt xe đi bộ. Cùng lúc đó anh Nguyễn Văn Mạnh đi xe đạp Mi-ni Nhật từ phía sau đến, bánh trước xe đạp của anh Mạnh va vào bánh sau xe đạp của Hiếu. Từ việc này Hùng đã đánh anh Mạnh, Hiếu cũng xông váo đánh anh Mạnh”. Như vậy cả Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm đều xác định hành vi dùng vũ lực của các bị cáo không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người bị tấn công, do đó cũng không có căn cứ để xác định hành vi dùng vũ lực của các bị cáo là hành vi thuộc dấu hiệu khách quan của cấu thành tội cướp. Việc Hiếu lấy xe của anh Mạnh là do Hiếu lợi dụng lúc anh Mạnh đang đánh nhau với Hùng không thể giữ được xe, nên hiếu mới lấy đi được và khi phát hiện thấy Hiếu đã lấy xe của mình, anh Mạnh hô cướp! Cướp! cũng là lẽ thường tình. Hành vi của Hiếu chỉ là hành vi thái quá của một người cùng gây thương tích cho anh Mạnh và hành vi này không cấu thành tôị cướp tài sản của công dân mà là hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 137 Bộ luật hình sự.

 Đối với Đặng Bá Hùng, sau khi Hiếu đã lấy xe đạp của anh Mạnh, Hùng còn tiếp tục tấn công anh Mạnh để Hiếu chạy thoát, thì cũng không vì thế mà cho rằng Hùng đồng phạm với Hiếu về tội công nhiên chiếm đoạt với vai trò giúp sức, vì giúp cho kẻ phạm tội tẩu thoát không có nghĩa là đồng phạm với họ về về hành vi phạm tội mà họ thực hiện, vì ý định chiếm đoạt của Hiếu cũng như hành vi chiếm đoạt của Hiếu, Hùng chỉ chứng kiến mà không được bàn bạc từ trước.8

Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm kết án Đặng Bá Hùng và Phạm Văn Hiếu về tội cướp tài sản rõ ràng là không chính xác, không đúng với ý thức chủ quan của người phạm tội.

Đối với trường hợp sau khi giết người, người phạm tội mới thấy tài sản của nạn nhân nên đã chiếm đoạt tài sản đó, thực tiễn xét xử cho thấy các cơ quan tiến hành tố tụng cũng đều truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi chiếm đoạt tài sản này là tội cướp tài sản. Ví dụ: Nguyễn Văn M ngoại tình với Lê Thị H là vợ của anh Đặng Văn H. M và thị H bàn bạc giết anh H để hai người được tự do “quan hệ” với nhau. Một hôm anh H đi làm về, M và H nấp ở bụi cây ven đường đã xông ra dùng dao găm đâm chết anh H. Hành động xong, thị H bỏ về nhà, còn M ở lại để giấu xác nạn nhân nhằm trốn tránh pháp luật. Trong lúc giấu xác nạn nhân, M thấy trong túi anh H có 5.000.000 và một đồng hồ Seiko nên M đã chiếm đoạt số tài sản này của nạn nhân. Trong vụ án này, lức đầu M chỉ có ý định giết nạn nhân để được tự do quan hệ với thị H, nhưng sau khi giết nạn nhân, thấy nạn nhân có tài sản M mới nảy sinh ý định chiếm đoạt do đó không thoả mãn dấu hiệu chủ quan của cấu thành tội cướp tài sản9. Một số nước, trong đó có Liên xô cũ coi hành vi chiếm đoạt tài sản của người đã chết là hành vi trộm cắp tài sản.

Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cũng có nhiều trường hợp tuy lúc đầu người phạm tội không có ý định chiếm đoạt tài sản, nhưng trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội đã nảy sinh ý định chiếm đoạt và sau đó tiếp tục có hành vi dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc để chiếm đoạt bằng được tài sản thì hành vi chiếm đoạt tài sản vẫn bị coi là hành vi phạm tội cướp tài sản. Khoa học luật hình sự coi trường hợp này là trường hợp “chuyển hoá” từ tội phạm này sang tội phạm khác ( đầu trộm đuôi cướp). Ví dụ: Tuấn, Thảo và Hùng rủ nhau đến nhà anh Q để trộm cắp. Khi bọn chúng đang bê chiếc Ti vi ra khỏi nhà, bị anh Q phát hiện lao vào giằng lại chiếc Ti vi thì bị tên Hùng dùng dao găm đâm vào tay anh Q một nhát, sau đó chúng tiếp tục bê chiếc Ti vi bỏ chạy.

Như vậy, mục đích giữ lại tài sản sau khi đã chiếm đoạt được bằng cách dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc, hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được cũng là cướp tài sản. Tuy nhiên thực tiễn xét xử, việc phân biệt thế nào là hành hung để tẩu thoát với hành hung để cố tình giữ lại tài sản trong một số trường hợp rất khó, vì nó xảy ra một cách đan xen liên tiếp với nhau, nhất là đối với tài sản gọn nhẹ có thể bỏ túi được. Theo quan niệm truyền thống và thực tiễn xét xử thì được coi là chuyển hoá từ tội phạm khác sang tội cướp tài sản nếu người phạm tội đã có tài sản trong tay, bị chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản giằng giật lại tài sản mà người phạm tội cố tình dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc để giữ bằng được tài sản đã chiếm đoạt; đối với tài sản gọn nhẹ, người phạm tội có thể bỏ túi được, chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không biết tài sản người phạm tội chiếm đoạt trước đó để ở đâu nhưng vẫn đuổi theo nhằm bắt người phạm tội, đồng thời lấy lại tài sản bị chiếm đoạt. Trong quá trình đuổi bắt, bị người phạm tội dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc đối với người đuổi bắt thì không bị coi là chuyển hoá thành tội cướp tài sản mà chỉ coi hành vi dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc là hành vi hành hung để tẩu thoát. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, quan niệm và thực tiễn xét xử như vậy không phù hợp với lý luận về sự chuyển hoá, vì xét từ khía cạnh nào thì người phạm tội cũng không chịu bỏ lại tài sản để tấu thoát nên phải coi việc dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc để tẩu thoát có mang theo tài sản là chuyển hoá thành tội cướp tài sản, chỉ coi là hành hung để tấu thoát khi người phạm tội vứt bỏ lại tài sản, chỉ chạy thoát thân.

Trường hợp, người phạm tội dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực vừa nhằm mục đích trả thù vừa nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì vẫn phải truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản, nếu hành vi dùng vũ lực gây thiệt hại đến tính mạng người bị hại thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự thêm tội giết người.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Cướp tài sản không có các tình tiết định khung hình phạt

Theo quy định tại khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội cướp tài sản không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 133 có thể bị phạt từ ba năm đến mười năm tù. Khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự là cấu thành cơ bản của tội cướp tài sản, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với tội cướp tài sản quy định tại Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn khoản 1 Điều 151 và nhẹ hơn khoản 1 Điều 129 Bộ luật hình sự năm 198510. Vì vậy, đối với hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau ngày 4-1-2000 ( ngày Chủ tịch nước công bố Bộ luật hình sự năm 1999), mới phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì chỉ áp dụng khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với hành vi cướp tài sản của Nhà nước, còn đối với hành vi cướp tài sản của công dân thì vẫn vẫn áp dụng khoản 1 Điều 151 Bộ luật hình sự năm 1985 để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.

Theo quy định tại điểm d Mục 3 Nghị quyết 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội, thì không xử lý về hình sự đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đến bảy năm tù; nếu vụ án đang được điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trong trường hợp người đó đã bị kết án và đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; nếu người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án, thì được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt. Do chưa được giải thích cụ thể, nên về lý luận và thực tiễn xét xử có những quan điểm khác nhau về quy định tại điểm d Mục 3 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội. Có ý kiến cho rằng, đối với người phạm tội cướp tài sản của công dân thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 151 Bộ luật hình sự năm 1985 xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Một số Toà án đã ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại hoặc miễn chấp hành toàn bộ hình phạt đối với người phạm tội cướp tài sản của công dân thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 151 Bộ luật hình sự năm 1985 nếu khi thực hiện tội phạm họ dưới 16 tuổi. Để khắc phục tình trạng hiểu và áp dụng Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội không thống nhất, nên tại điểm b Mục 3 Nghị quyết 229/2000/NQ-UBTVQH10 ngày 28-1-2000 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quy định: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu Bộ luật hình sự năm 1999 quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 7 năm tù đối với tội phạm mà người đó thực hiện” thì mới thuộc trường hợp được áp dụng điểm d Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội. Ví  dụ: A phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của công dân xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 152 Bộ luật hình sự năm 1985, nay khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù nên A được áp dụng điểm d Mục 3 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội cướp tài sản theo khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu các tình tiết khác như nhau thì mức hình phạt đối với người phạm tội phu thuộc vào những yếu tố sau:

– Người phạm tội dùng vũ lực phải bị phạt nặng hơn người chỉ đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc;

– Người phạm tội dùng vũ lực gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân có tỷ lệ thương tật dưới 11% phải bị phạt nặng người phạm tội không gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng phải bị phạt nặng hơn người phạm tội không có tình tiết tăng nặng;

– Người phạm tội không có tình tiết giảm nhẹ phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội chiếm đoạt được tài sản phải bị phạt nặng hơn người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản.

  1. Cướp tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự

Cướp tài sản có tổ chức

Phạm tội cướp tài sản có tổ chức, là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện việc cướp tài sản, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu.

Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm (khoản 3 Điều 20 Bộ luật hình sự )11

Phạm tội có tổ chức, là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện một tội phạm, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu.

Trong vụ án cướp tài sản có tổ chức, cũng như trong các vụ án hình sự khác có tổ chức, tuỳ thuộc vào quy mô và tính chất mà có thể có những người giữ những vai trò khác nhau như: Người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức.

Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Người tổ chức có thể có những hành vi như: khởi xướng việc tội phạm; vạch kế hoạch thực hiện tội phạm cũng như kế hoạch che giấu tội phạm; rủ rê, lôi kéo người khác cùng thực hiện tội phạm; phân công trách nhiệm cho những người đồng phạm khác để thống nhất thực hiện tội phạm; điều khiển hành động của những người đồng phạm; đôn đốc, thúc đẩy người đồng phạm khác thực hiện tội phạm…

Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Trực tiếp thực hiện tội phạm là trực tiếp có hành vi thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm như: trực tiếp cầm dao chém nạn nhân, cầm súng bắn nạn nhân, trực tiếp chiếm đoạt tài sản, trực tiếp nhận hối lộ v.v… Người thực hành là người có vai trò quyết định việc thực hiên tội phạm, vì họ là người trực tiếp thực hiên tội phạm. Nếu không có người thực hành thì tội phạm chỉ dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, mục đích tội phạm không được thực hiện; hậu quả vật chất của tội phạm chưa xảy ra và trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác sẽ được xem xét theo quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự. Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác rõ ràng phụ thuộc vào hành vi của của người thực hành.

Thực tiễn xét xử cho thấy, không phải bao giờ người thực hành cũng thực hiện đúng những hành vi do các đồng phạm khác đặt ra, có trường hợp người thực hành tự ý không thực hiện tội phạm hoặc tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiên tội phạm, nhưng thực tế cũng không ít trường hợp người thực hành tự ý thực hiện những hành vi vượt quá yêu cầu của các đồng phạm khác đặt ra, Khoa học luật hình sự gọi là hành thái quá của người thực hành trong vụ án có đồng phạm. Luật hình sự của nhiều nước ghi rõ chế định “ thái quá’ của người thực hành trong Bộ luật hình sự hoặc trong các văn bản luật hình sự. Ở nước ta chế định này chưa được ghi nhận trong Bộ luật hình sự, nhưng về lý luận cũng như thực tiến xét xử đều thừa nhận chế định này khi cần phải xem xét đến trách nhiệm hình sự  của người thực hành cũng như những người đồng phạm khác trong một vụ án có đồng phạm. Hiện nay, đa số ý kiến cho rằng khi Bộ luật hình sự của nước ta được sửa đổi, bổ sung, cần quy định chế định “ hành vi thái quá của người thực hành” cùng với chế định đồng phạm đã được quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự hiện hành.

Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử đã khẳng định, hành vi thái quá của người thực hành trong vụ án có đồng phạm và hậu quả do hành vi thái quá đó gây ra chỉ người thực hành phải chịu trách nhiệm hình sự còn những người đồng phạm khác không phải chịu về việc “thái quá” đó. Như vây, khi nghiên cứu tình trạng loại trừ trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác đối với hành vi thái quá của người thực hành chúng ta chỉ có thể nghiên cứu nội dung của sự “thái quá” mà người thực hành đã gây ra, từ đó xác định trách nhiệm hình sự của người thực hành về hành vi thái quá đó mà loại trừ trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác.

Hành vi thái quá của người thực hành là việc người thực hành tự ý thực hiện hành vi tội phạm mà những người đồng phạm khác không mong muốn. Ví dụ: Trần Q A, Nguyễn Văn C, Bùi Quốc T, Bùi Quốc L vì thua bạc nên Bùi Quốc T bàn bạc với đồng bọn về nhà mình doạ mẹ của T để buộc mẹ của T phải đưa chìa khoá tủ mở lấy tiền tiếp tục đi đánh bạc, cả bọn đồng ý. Vì T và L là anh em và là con của bà M, nên chúng giao cho A và C trực tiếp thực hiện. Trước khi đi cả bọn thống nhất chỉ doạ bà M để bà đưa chìa khoá tủ chứ không được làm bất cứ điêù gì gây đau đớn cho bà. T và L còn nói, nếu má tao có sao chúng mày đừng có trách. Sau khi đã bàn bạc thống nhất, vào lúc nửa đêm A và C lẻn vào nhà bà M, lợi dụng lúc bà M đang ngủ, A dùng tay chẹn vào cổ bà M, còn C doạ : “ chìa khoá tủ để ở đâu không đưa đây chúng tao giết !”. Bị tấn công bất ngờ, bà M không kịp trở tay buộc phải đưa chùm chìa khoá cho C. Trong lúc C đang mở tủ để lục soát tìm tiền, thì A dùng một quả chanh nhét vào miệng bà M và lấy khăn bịt miệng bà M lại, nhưng vì bà M giãy giụa làm quả chanh trong miệng bật ra, đồng thời bà M kêu cứu. Sợ bị lộ, A vật bà M xuống ngồi lên bụng bà, rồi dùng tay bóp cổ bà cho đến khi bà M không còn giãy giụa nưã y mới bỏ tay ra, C thấy A hành động như vậy hỏi, sao mày làm như vậy ? thì A trả lời, bà ấy chỉ xỉu thôi không chết đâu mà sợ, cùng lúc này C đã lục tủ lấy được bọc tiền của bà M rồi cả hai bỏ chạy ra điểm hẹn với T và L. Thấy A và C đến T hỏi ngay má tao có sao không, cả A và C đều trả lời không việc gì hết. T bảo L về nhà xem tình hình còn T, A và C tiếp tục đi đánh bạc. Khi L về nhà thấy má mình bất động đã đưa đi bệnh viện cấp cứu, nhưng bà M đã chết. Trong ví dụ này, ngay từ khi bàn bạc  phạm tội cướp tài sản , chúng thống nhất chỉ làm cho bà M sợ để bà đưa chìa khoá tủ, nhưng trong khi thực hiện tội phạm A đã có hành vi thái quá làm cho bà M bị chết, vì vậy chỉ có A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người, còn C, T, L chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản.

Thực tiễn xét xử cho thấy hành vi thái quá của người thực hành không chỉ đơn giản mà nó được biểu hiện dưới nhiều khía cạnh khác nhau như: Lúc đầu chỉ bàn cướp nhưng khi thực hiện lại giết người; lúc đầu chỉ bàn đánh cho một trận nhưng khi thực hiện lại lấy tài sản của người bị đánh. Chính vì tội phạm xảy ra muôn hình muôn vẻ Nên khoa học luật hình sự chia hành vi thái quá ra làm hai loại chính: Thái quá về chất lượng của hành vi và thái quá về số lượng của hành vi.

Thái quá về chất lượng của hành vi là trường hợp người thực hành trong vụ án có đồng phạm thực hiện hành vi thái quá đó không cùng tính chất với tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện, nếu hành vi thái quá cấu thành tội phạm thì tội phạm đó không cùng tính chất với tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện. Ví dụ: Trần Văn Tuấn bàn với Đặng Văn Hùng và Phạm Quốc Hưng chặn đường để cướp của, nhưng trước khi đi, Hùng bị kẹt nên chỉ có Tuấn và Hưng thực hiện. Khi phát hiện thấy người đi xe máy chạy qua Hưng và Tuấn ra chặn lại để cướp tài sản thì phát hiện người đi xe máy là một phụ nữ, nên cả hai tên nảy ý định hiếp dâm và chúng đã thực hiện hành vi hiếp dâm, đồng thời cướp của nạn nhân sợi dây chuyền. Hành động xong, Hưng và Tuấn về kể cho Hùng nghe đã cướp được dây chuyền vàng, hôm sau Hùng mang dây chuyền đi bán thì bị phát hiện và bị bắt giữ. Trong quá trình điều tra, Hùng mới biết ngoài hành vi cướp tài sản thì Hưng và Tuấn còn hiếp dâm người bị hại. Hành vi thái quá của Hưng và Tuấn là hành vi thái quá về chất lượng vì tội hiếp dâm không cùng tính chất với tội cướp tài sản của công dân.  Việc xác định thái quá về chất lượng không mấy khó khăn và cũng chính vì thế mà xác định trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác không phải là người thực hành cũng dễ dàng hơn so với trường hợp thái quá về số lượng hành vi.

Thái quá về số lượng hành vi là trường hợp người thực hành trong vụ án có đồng phạm thực hiện hành vi thái quá mà hành vi đó cùng tính chất với hành vi tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện. Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử loại thái quá này rất khó xác định cho nên không ít trường hợp rõ ràng là người thực hành trong vụ án có đồng phạm có hành vi thái quá nhưng những người đồng phạm khác vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi thái quá đó. Do đó để phân biệt hành vi đã thái quá hay chưa cần phải nghiên cứu nó ở những mức  độ khác nhau

Trường hợp thứ nhất:

Hành vi thái quá của người thực hành trong vụ án có đồng phạm đã cấu thành một tội phạm khác và tội phạm này cùng tính chất vơí tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện. Ví dụ: Do có thù tức với Đặng Văn H Nên Trần Tuấn A, Phạm Quốc B và Nguyễn Hồng C bàn bạc tìm H để đánh cho H một trận. Khi gặp H, cả ba tên lao vào dùng chân tay đấm đá cho tới khi H ngã gục. Thấy vậy, B và C nói: “Thôi thế là dủ đừng đánh nữa không thì nó chết mất”, rồi B và C bỏ đi. Nhưng A vẫn ở lại tiếp tục dùng gót chân thúc mạnh vào hai mạng sườn và dận lên ngực H cho tới khi H bất tỉnh. Hậu quả là H bị chết. Kết quả giám định kết luận H bị chết là do bị vỡ lá lách, chảy máu trong, phổi xung huyết mất máu cấp. Trong ví dụ này, hành vi thái quá của A đã cấu thành tội phạm khác ( tội giết người) nhưng hành vi này cùng tính chất với hành vi của những người đồng phạm khác ( cùng đấm đá, cùng xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ của con người ).

Trường hợp thứ hai:

Hành vi thái quá của người thực hành chưa cấu thành tội phạm khác mà nó vẫn là tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện. Ví dụ: Lê Khắc T, Trần M và Vũ Văn B  bàn với nhau về việc chặn đường cướp xe đạp của học sinh đi học về . T và B được phân công trực tiếp ra chăn xe  còn M có nhiệm vụ dùng dao đe doạ để T và B cướp xe tẩu thoát. Nhưng sau khi T và B đã cướp được xe đạp tẩu thoát thì M còn tiếp tục khống chế nạn nhân lục soát và lấy đi 500.000 đồng và một đồng hồ của nạn nhân. Trong ví dụ này, rõ ràng M có hành vi thái quá, nhưng hành vi thái quá này không cấu thành một tội phạm khác riêng biệt, cả M, T và B đều tội phạm cướp tài sản, nhưng tính chất và mức đội tội phạm của B và T có khác M. Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau thì T và B phải chịu hình phạt nhẹ hơn M.

Sự phân biệt hai loại hành vi thái quá như trên chỉ có ý nghĩa trong công tác nghiên cứu khoa học, còn thực tiễn xét xử dù là thái quá về chất lượng hay về số lượng của hành vi thì những người đồng phạm khác đều không phải chụi trách nhiệm hình sự về hành vi thái quá của người thực hành.

Đối với các vụ án  phạm tội có tổ chức, khi xác định những người đồng phạm khác có phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá của người thực hành hay không cũng có nhiều phức tạp. Bởi vì trong quá trình thực hiện tội phạm, người thực hành có nhiều hành vi nhằm đạt được mục đích mà những người đồng phạm khác mong muốn, trong đó có hành vi được những người đồng phạm khác biết trước và đồng tình, nhưng cũng có những hành vi không được những người đồng phạm khác biết trước, không mong muốn hậu quả của những hành vi đó xảy ra, nhưng có thái độ bỏ mặc, muốn ra sao thì ra. Vậy vấn đề trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác được xác định như thế nào khi người thực hành có những hành vi gây ra hậu quả mà mình không biết, không mong muốn ? Ví dụ: A,B và C chỉ bàn bạc với nhau về việc đến uy hiếp chủ nhà để cướp tài sản. Khi đi chúng có mang theo dao găm, dây trói, giẻ và chanh để bịt miệng. Tới nơi, A và B trói chủ nhà, nhét chanh vào miệng chủ nhà ,lấy giẻ buộc lại và giao cho C canh giữ. Thấy giẻ bịt miệng chủ nhà tuột ra, C sợ chủ nhà kêu cứu, nên đã bóp cổ làm chủ nhà bị chết ngạt. Về trường hợp này, có ý kiến cho rằng hành vi bóp cổ chủ nhà của C là hành vi thái quá nên C phạm giết người và cướp tải sản, còn A và B không chịu trách nhiệm về hành vi và hậu quả do hành vi thái quá của C nên chỉ tội phạm cướp tài sản. Nhưng ý kiến thứ hai lại cho rằng, tuy A,B và C không bàn bạc với nhau từ trước về việc giết người, nhưng A và B bỏ mặc cho C hành động, không quan tâm đến hậu quả do hành vi của C gây ra miễn là cướp được tài sản; việc C bóp cổ chủ nhà cũng là nhằm cho đồng bọn thực hiện trót lọt việc lấy tài sản mà cả A và B đều mong muốn. Do đó cái chết của chủ nhà do C trực tiếp gây ra nhưng phải buộc cả A và B cùng phải chịu trách nhiệm hình sự.

Hành vi thái quá của người thực hành, về lý luận cũng như pháp luật của các nước trên thế giới còn có nhiều cách đánh giá khác nhau, nhưng qua thực tiễn xét xử ở nước ta cũng như một số nước thừa nhận: Nếu những người đồng phạm để cho người thực hành hoàn T tự do hành động nhằm đạt được mục đích của tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện, thì mọi hành vi của người thực hành không được coi là hành vi thái quá và những người đồng phạm khác phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của người thực hành gây ra. Tuy nhiên, khi xem xét hành vi của người thực hành được tự do hành đồng để đạt được mục đích mà các người đồng phạm khác đặt ra phải chú ý một điểm là: Hành vi đó phải là dấu hiệu của cấu thành tội phạm mà tội phạm đó đã được những người đồng phạm khác bàn bạc thống nhất như trường hợp ví du trên hành vi bóp cổ chủ nhà của C cũng là hành vi vũ lực (dấu hiệu của tội cướp tài sản). Thì những người đồng phạm khác mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Nếu hành vi dó lại là dấu hiệu cấu thành một tội độc lập khác, thì hành vi đó lại được coi là thái quá và những người đồng phạm khác không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp ví dụ trên, giả thiết C không bóp cổ chủ nhà chết mà lại hiếp dâm chủ nhà thì hành vi diếp dâm của C là hành vi thái quá và A, B không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm mà C thực hiện.

Việc để cho người thực hành tự do hành động, tức là người thực hành không bị ràng buộc bởi bất kỳ hành vi nào của những người đồng phạm khác. Nếu những người đồng phạm khác lại có hành vi ngăn cản hay hành động tích cực để ngăn chặn hậu quả, nhưng người thực hành vẫn cố tình thực hiện thì hành vi của người thực hành dù có là dấu hiệu câú thành tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện thì những người này cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự. Ví dụ: Trương Q T, Vũ Minh H và Hoàng Công V bàn bạc đến nhà cậu ruột của V để cướp. V không trực tiếp thực hiện mà giao cho  T và H chỉ được trói chủ nhà để uy hiếp lấy tài sản chứ không được gây án mạng. Vì sợ bọn H làm ẩu, nên trước khi đi, V đã kiểm tra và giữ lại hai dao găm mà bọn H định mang theo. Trên đường đến nhà cậu của V để cướp, H và T tự ý về nhà H lấy một khẩu súng ngắn mà H đã chuẩn bị từ trước, vì chúng cho rằng không có vũ khí thì không thể làm gì được. Tới nơi, H và T dùng súng uy hiếp bắt trói chủ nhà, rồi lục soát tài sản. Trong khi bọn chúng đang lục soát thì chủ nhà tự cởi được trói, kêu cứu, H đã dùng súng bắn chết chủ nhà. Trong trường hợp này hành vi của H cũng là hành vi nhằm thực hiện tội cướp mà cả V đã bàn bạc từ trước, nhưng V đã có những hành động tích cực nhằm hạn chế ngăn chặn hậu quả nên V không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người do H và T gây ra.

Thực tiễn xét xử cũng có những trường hợp nếu chỉ căn cứ vào hành động hoặc lời nói của những người đồng phạm khác ( chủ mưu, tổ chức, xúi dục, giúp sức) thì thấy họ có ý thức bỏ mặc cho hậu quả do người thực hành thực hiện tội phạm nên đã buộc những người này phải chịu trách nhiệm về hậu quả mà người thực hành gây ra, nhưng căn cứ vào nội dung hành động và lời nói của họ thì họ không có ý thức bỏ mặc cho hậu quả do người thực hành gây ra và như vậy họ không thực hiện được mục đích của mình. Ví dụ: Nguyễn Tiến N là đội phó đội điều tra Công an huyện Y, tỉnh P và Tống Viết Q là điều tra viên được phân công điều tra vụ án mà Hà Văn T là người tiêu thụ tài sản do ngươì khác tội phạm mà có, trong qúa trình điều tra, mặc dù có căn cứ đề xác định rằng T đã tiêu thụ 17 cái mày bơm bị trộm cắp chứ không phải chỉ có 4 cái như T thừa nhận, nên phải ra lệnh bắt giam T để tiếp tục làm rõ hành vi tội phạm của T. T được giam chung với một số phạm nhân trong đó có Bùi Xuân Ph là tên đã có nhiều tiền án tiền sự được các phạm nhân khác mệnh danh là đầu gấu trong buồng giam. Q đã nhiều lần lấy lời khai của T nhưng T một mực không nhận, N và Q nói với Ph phải đánh cho T một trận thì nó mới khai đúng sự thật. Để lấy lòng cán bộ điều tra và cũng vì sợ không đánh T thì sẽ không được yên nên Ph đã tổ chức cho các phạm nhân cùng buồng đánh đập T rất dã man làm cho T bị ngất xỉu phải đưa đi cấp cứu nhưng bị chết. Khi xem xét trách nhiệm của Nguyễn Tiến N và Tống Viết Q có ý kiến cho rằng, mặc dù Q và N không có ý định tước đoạt tính mạng của T từ trước, nhưng đã có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra không có biện pháp ngăn chặn và việc Ph cùng các phạm nhân khác đánh chết T là do câu nói của Q và N “ đánh cho nó một trận để nó khai ra sự thật”. Do đó, Q và N phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người với vai trò xúi dục. Tuy nhiên, nghiên cứu kỹ nội dung lời nói của N và Q chúng ta thấy, nếu N và Q để mặc cho bọn Ph đánh chết anh T thì về thực tế không đạt được mục đích là làm cho T khai ra sự thật, còn về pháp lý nói đánh cho một trận để nó khai ra chứ không phải đánh cho một trận cho nó biết thế nào là tù tội, hoặc mày cứ đánh cho nó một trận muốn ra sao thì ra. Vì thế trong trường hợp này việc bọn Ph đánh quá tay làm anh T bị chết là ngoài mục đích của N và Q, và hành vi của Ph và đồng bọn là hành vi thái quá của người thực hành nên những người đồng phạm khác không phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên hành vi của N và Q nói đánh cho nó một trận cũng tức là mong muốn cho T bị thương tích hoạc bị tổn hại đến sức khoẻ, nên hành vi của N và Q phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự vì có tình tiết gây hậu quả chết người.

Tóm lại, vấn đề loại trứ trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác (không phải là người thực hành) trong vụ án có đồng phạm không chỉ có liên quan đến hành vi thái quá của người thực hành mà còn liên quan đến nhiều chế định khác như: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc tội phạm, vấn đề lỗi, các điều kiện của đồng phạm và  phạm tội có tổ chức.v.v… nhưng hành vi thái quá của người thực hành lại liên quan trực tiếp đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự đối vơí người đồng phạm khác, nên có thể nói hành vi thái quá của người thực hành chính là điều kiện (căn cứ) để loại trừ trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác.

Người xúi dục là người kính động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. Hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm chỉ được coi là người đồng phạm trong vụ án có tổ chức, khi hành vi xúi dục có liên quan trực tiếp đến toàn bộ hoạt động tội phạm của những người đồng phạm khác và người thực hiện tội phạm trước khi bị xúi dục chưa có ý định tội phạm, vì có người khác xúi dục nên họ mới nảy sinh ý định tội phạm. Nếu việc xúi dục không liên quan trực triếp đến hoạt động tội phạm của những người đồng phạm khác và người thực hiện tội phạm đã có sẵn ý định tội phạm, thì không phải là người xúi dục trong vụ án có đồng phạm (phạm tội có tổ chức). Ví dụ: Lê Tiến D đi thăm đồng thấy A đang đuổi B để đánh, D liền hô: “đánh bỏ mẹ chúng nó đi !” nhưng chỉ hô như vậy rồi thôi. Sau đó A vẫn đuổi đánh B và lấy đi chiếc xe đạp của B . Hành vi của D tuy có vẻ xúi dục người khác, nhưng khi D có hành vi xúi dục thì ý định tội phạm của A đã có sẵn từ trước nên hành vi xúi dục của D không có ý nghĩa gì đến việc phạm tội của A, dù D có hô hay không hô câu “đánh bỏ mẹ nó đi” thì cũng không làm thay đổi ý định tội phạm của A, nên không thể coi D là người xúi dục được.

Người xúi dục là người phạm tội giấu mặt, dân gian thường gọi là kẻ “ném đã giấu tay”. Tuy nhiên, nếu xúi dục trẻ em dưới 14 tuổi, người không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tội phạm, thì hành vi xúi dục được coi là hành vi thực hành thông qua hành vi của người không chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này, người không phải chịu trách nhiệm hình sự trở thành phương tiện, công cụ để người xúi dục thực hiện tội phạm. Nếu xúi dục trẻ em từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tội phạm thì người xuí dục còn phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “xúi dục người chưa thành niên tội phạm” (điểm n khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự ).

Trong trường hợp người xúi dục lại là người tố chức và cùng thực hiện tội phạm, thì họ trở thành người tố chức và nếu xúi người chưa thành niên tội phạm thì họ còn phải chịu tình tiết tăng nặng” xúi dục người chưa thành niên tội phạm”.

Hành vi xúi dục phải cụ thể, tức là người xúi dục phải nhằm vào tội phạm cụ thể và người phạm tội cụ thể nếu chỉ có lời nói có tính chất thông báo hoặc gợi ý chung chung thì không phải là người xúi dục và không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tội phạm của người thực hiện tội phạm. Ví dụ: Nguyễn Quang T cùng ngồi uống nước với một số thanh niên. Trong lúc uống nước, T nói: ” Tao vừa đi qua Ngân hàng thấy nhiều người đến gửi tiền tiết kiệm lắm, đứa nào bạo gan ra đó nhất định kiếm được”. Trong số thanh niên ngồi uống nước có Trần Quốc P và Đặng Văn V là những tên đã có nhiều tiền án, tiền sự về tội trộm cắp, nghe T nói vậy, liền bàn nhau ra Ngân hàng dùng dao khống chế một phụ nữ để chiếm đoạt số tiền hơn 10 triệu. Khi bị bắt, P và V khai vì do T nói  nên chúng tôi mới bàn với nhau đi chấn lột. Đúng là trong trường hợp này, T có nói  một câu như có vẻ xúi dục, nhưng câu nói của T không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc P và V cướp tài sản. Mặt khác, T cũng không phải là người xúi dục P và V cướp tài sản, cũng không được P và V hứa chia tiền hoặc tài sản nếu cướp  được.

Người giúp sức là người tạo điều những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm. Trong một vụ án có đồng phạm, vai trò của người giúp sức cũng rất quan trọng,  nếu không có người giúp sức thì người thực hiện  tội phạm sẽ gặp khó khăn. Ví dụ: Phạm Thị H hứa với Trần Công T sẽ tiêu thụ toàn bộ số tài sản nếu T cướp được. vì có sự hứa hẹn của H nên đã thúc đẩy T quyết tâm phạm tội vì đã có nơi tiêu thụ tài sản cướp được.

Người giúp sức có thể giúp bằng lời khuyên, lời chỉ dẫn; cung cấp phương tiện phạm tội hoặc khắc phục những trở ngại cho việc thực hiện tội phạm; hứa che giấu người phạm tội, phương tiện, xoá dấu vết, hứa tiêu thụ tài sản do phạm tôi mà có…

Hành vi tạo những điều kiện về tinh thần thường được biểu hiện như: Hứa hẹn sẽ che giấu hoặc hứa ban phát cho người phạm tội một lợi ích tinh thần nào đó như: hứa gả con, hứa đề bạt, thăng cấp, tăng lương cho người phạm tội, bày vẽ cho người phạm tội cách thức thực hiện tội phạm như: nói cho người phạm tội biết người bị hại hay đi về đường nào để người phạm tội phục cướp…

Hành vi tạo điều kiện vật chất cho việc thực hiện tội phạm là hành vi cung cấp phương tiện phạm tội như: cung cấp dao, súng, côn gỗ, xe máy, xe ô tô… để người phạm tội thực hiện tội phạm.

Dù tạo điều kiện tinh thần hay vật chất cho việc thực hiện tội phạm thì hành vi đó cũng chỉ tạo điều kiện dễ dàng cho việc thực hiện tội phạm chứ người giúp sức không trực tiếp thực hiện tội phạm.

Hành vi tạo điều kiện cho việc thực hiện tội phạm cuả người giúp sức cũng có thể là hành vi của người tổ chức, nhưng khác với ngừơi tổ chức, người giúp sức không phải là người chủ mưu. cầm đầu, chỉ huy mà chỉ có vai trò thứ yếu trong vụ án có đồng phạm. Nếu các tình tiết khác như nhau thì người giúp sức bao giờ cũng được áp dụng hình phạt nhẹ hơn những người đồng phạm khác.

Cần chú ý rằng, khi đã xác định vụ án được thực hiện có tổ chức thì tất   cả những người trong vụ án đều bị áp dụng tình tiết “phạm tội có tổ chức”. Tuy nhiên, trách nhiệm hình sự đối với từng người còn tuỳ thuộc vào vai trò của họ trong vụ án như đã phân tích ở trên.

Phạm tội cướp tài sản có tính chất chuyên nghiệp

Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là người phạm tội lấy việc phạm tội là nguồn sống chính cho mình.

Phạm tội cướp tài sản có tính chất chuyên nghiệp là người phạm tội lấy việc cướp tài sản là nguồn sống chính cho mình.

Bộ luật hình sự năm 1985 chưa coi trường hợp phạm tội này là tình tiết tăng nặng hoặc là tình tiết định khung hình phạt. Nhưng qua thực tiễn xét xử, có một số tội phạm, người phạm tội đã lấy việc phạm tội là nguồn thu nhập chính của bản thân, nhất là đối với các tội phạm về kinh tế như tội “làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả”, các tội xâm phạm sở hữu như tội “cướp tài sản”,  tội “trộm cắp tài sản”, tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”… Và hành vi này cần phải trừng trị nghiêm khắc để phòng ngừa tội phạm, nên nhà làm luật đã bổ sung tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” là tình tiết định khung tăng nặng của một số tội phạm.

 Bộ luật hình sự năm 1999 coi trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và trong một số tội phạm nhà làm luật quy định là tình tiết định khung hình phạt. Việc nhà làm luật coi trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là tình tiết tăng nặng hoặc là tình tiết định khung hình phạt là một yêu cầu cần thiết do thực tiễn xét xử đặt ra.

Khi áp dụng tình tiết này, cần lưu ý rằng khái niệm chuyên nghiệp được hiểu ở đây không đồng nghĩa với khái niệm nghề nghiệp của một người, vì không thể coi phạm tội là một nghề kiếm sống, tính chất chuyên nghiệp của hành vi phạm tội thể hiện ở chỗ tội phạm đó được lặp đi lặp lại nhiều lần mà người phạm tội coi việc phạm tội đó là phương tiện kiếm sống. Ví dụ: Hoàng Văn N là một kẻ sống lang thang không nghề nghiệp, thường tụ tập một số người cùng cảnh ngộ như mình chuyên trộm, cướp để sinh sống. Tuy nhiên, không phải hành vi phạm tội nào cứ lặp đi, lặp lại nhiều lần đều coi là có tính chất chuyên nghiệp, mà chỉ những hành vi mà người phạm tội coi đó là phương tiện kiếm sống thì mới là có tính chất chuyên nghiệp. Ví dụ: Trần Văn Đ là học sinh lớp 12, bị kỷ luật đuổi học, Đ đã rủ Bùi Văn C dùng dao nhọn “Thái Lan” liên tiếp gây ra hai vụ cướp xe đạp trước cổng Công viên.  Hành vi của Đ và C chỉ bị coi là phạm tội nhiều lần chứ không bị coi là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.

Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp và phạm tội nhiều lần đều giống nhau ở điểm, người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần (từ hai lần trở lên), nhưng khác nhau ở chỗ: Phạm tội nhiều lần, người phạm tội không lấy việc phạm tội làm Phương tiện sống và họ chỉ phạm một tội, nhưng tội phạm đó được thực hiện nhiều lần. Còn phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, người phạm tội có thể chỉ phạm một tội, nhưng có thể phạm nhiều tội với nhiều lần khác nhau, nhưng lại lấy việc phạm tội đó là phương tiện kiếm sống thường xuyên. Hiện nay, cũng có quan điểm cho rằng, đối với trường hợp một người chỉ phạm một tội, nhưng được thực hiện nhiều lần trong một thời gian nhất định mà hành vi phạm tội đó được lặp đi, lặp lại thì cũng phải coi là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, chứ không nhất thiết phải xác định người phạm tội phải lấy việc phạm tội làm phương tiện kiếm sống. Quan điểm này, theo chúng tôi là không có cơ sở khoa học, và nếu cứ coi trường hợp phạm tội nhièu lần nào cũng là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp thì không thể lý giải được sự khác nhau giữa phạm tội có tính chất chuyên nghiệp với phạm tội nhiều lần. Tuy nhiên, phạm tội cướp tài sản có tính chất chuyên nghiệp là trường hợp không chỉ phạm tội cướp tài sản nhiều lần, mà người phạm tội còn phải lấy việc cướp tài sản là nguồn sống chính cho bản thân. Do đó, sự khác nhau giữa tình tiết là yếu tố định khung với tình tiết tăng nặng về trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp chính là ở chỗ này.

Tái phạm nguy hiểm

Tái phạm nguy hiểm là trường hợp đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội dặc biệt nghiêm trọng do cố ý, hoặc tái phạm, chưa được xoá án mà lại phạm tội do cố ý (điểm a và điểm b khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự ).

So với trường hợp tái phạm nguy hiểm được quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điêu 40 Bộ luật hình sự năm 1985, thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tái phạm nguy hiểm có một số điểm khác như sau:

– Nếu Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “đã bị phạt tù về tội nghiêm trọng” thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng”.

– Nếu Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “mà lại phạm tội nghiêm trọng”, thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng”.

– Nếu Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “mà lại phạm tội ít nghiêm trọng do cố ý hoặc tội nghiêm trọng”, thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “mà lại phạm tội do cố”.

Như vậy, tái phạm nguy hiểm theo Bộ luật hình sự năm 1999 có đặc điểm sau:

– Đã hai lần phạm tội đều là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, hoặc một trong hai lần đó là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, trong đó có một lần đã bị kết án. Ví dụ: Đã bị kết án về tội giết người theo khoản 2 Điều 93, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội cướp tài sản.

– Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý, không phân biệt tội đó là tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hay tội đặc biệt nghiêm trọng.

– Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999 đều không quy định: “đã tái phạm nguy hiểm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội mới” thì có bị coi là tái phạm nguy hiểm hay không? Đây cũng là vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn xét xử còn ý kiến trái ngược nhau. Có ý kiến cho rằng, Bộ luật hình sự không quy định thì không được áp dụng vì nếu áp dụng là làm xấu đi tình trạng của người phạm tội. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, một người đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội mới còn bị coi là tái phạm nguy hiểm huống hồ người đã tái phạm nguy hiểm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội mới thì càng phải coi họ là tái phạm nguy hiểm. Chúng tôi cho rằng, chỉ coi là tái phạm nguy hiểm đối với trường hợp mà Bộ luật hình sự quy định “đã tái phạm…”, tức là đã tái phạm nguy hiểm, chưa được xoá án tích mà còn phạm tội do cố ý thì mới bị coi là tái phạm nguy hiểm, còn nếu phạm tội do vô ý dù là tội đó là tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng, thì cũng không coi là tái phạm nguy hiểm.

Tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung hình phạt đối với tội cướp tài sản hay bất cứ tội phạm nào khác hoàn toàn giống với tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Chỉ cần xác định lần phạm tội cướp này là thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo đùng các quy định về tái phạm nguy hiểm quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự là được, mà không cần phải xác định lần phạm tội trước đây có phải là tội cướp tài sản hay không.

Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác

Trong các vụ án cướp tài sản, có trường hợp người phạm tội chỉ dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản mà không cần sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác đối với người bị hại. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy có nhiều trường hợp người phạm tội cướp tài sản sử dụng vũ khí, sử dụng phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm đối với người bị hại nhằm chiếm đoạt tài sản. Việc người phạm tội sử dụng vũ khí, sử dụng phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác đối với người bị hại được coi như là một trường hợp phạm tội cướp tài sản có tính chất và mức độ nguy hiểm hơn người phạm tội không sử dụng vũ khí, sử dụng phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác đối với người bị hại.

Vũ khí, theo Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (ban hành theo Nghị định số 47/CP, ngày 12-8-1996 của Chính phủ) bao gồm: vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao, súng săn và vũ khí thô sơ.

Vũ khí quân dụng là các loại súng trường, súng ngắn, súng liên thanh; các loại pháo, dàn phóng, bệ phóng tên lửa, súng cối, hoá chất độc và nguồn phóng xạ, các loại đạn; bom, mìn, lựu đạn, ngư lôi, thuỷ lôi, vật liệu nổ quân dụng, hoả cụ và vũ khí khác dùng cho mục đích quốc phòng –  an ninh.

Vũ khí thể thao là các loại súng trường, súng ngắn thể thao chuyên dùng các cỡ; các loại súng hơi, các loại vũ khí khác dùng trong luyện tập, thi đấu thể thao và các loại đạn dùng cho các loại súng thể thao nói trên.

Vũ khí thô sơ là dao găm, kiếm, giáo, mác, đinh ba, đại đao, mã tấu, quả đấm bằng kim loại hoặc chất cứng, cung, nỏ, côn các loại và các loại khác do Bộ Nội vụ ( nay là Bộ Công an) quy định. Tuy nhiên, cho đến nay ngaòi các loại vũ kí thô sơ được quy định tại Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (ban hành theo Nghị định số 47/CP, ngày 12-8-1996 của Chính phủ) thì Bộ Công an chưa có quy định thêm các loại vũ khí thô sơ khác.

Khi áp dụng tình tiết sử dụng vũ khí đối với người phạm tội cướp tài sản cần chú ý:

– Nếu người phạm tội có mang vũ khí nhưng không sử dụng vũ khí trong khi thực hiện hành vi dũng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc thì không coi là sử dụng vũ khí để cướp. Ví dụ: A luôn có một khẩu súng K54 giấu trong người, trong lúc đang ngồi uống bia với B và C; cả ba rủ nhau ra bến xe để hoạt động phạm tội. Khi ra bến xe, chúng phát hiện một phụ nữ bế con nhỏ vào nhà vệ sinh công cộng, cả ba bám theo; B đến gần nói: “cho chúng tao ít tiền”; chị M thấy A,B,C đứng vây quanh mình, định kêu cứu thì bị B dùng tay bịt miệng chị  M, còn A ôm chị M để C lục soát lấy được 3.000.000 đồng của chị M. Trong trường hợp hợp này, tuy A có vũ khí trong người, nhưng không sử dụng vũ khí  để doạ chị M, nên trường hợp phạm tội cướp tài sản của A,B,C không phải là sử dụng vũ khí quy định tại điểm b khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự mà chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự. Việc nhà làm luật quy định thuật ngữ “sử dụng” thay cho thuật ngữ “dùng” vũ khí quy định tại điểm b khoản 2 Điều 129 và Điều 151 Bộ luật hình sự năm 1985 là chính xác hơn, vì nếu chỉ nói dùng vũ khí thì mới chỉ nói đến mục đích của việc sử dụng chứ chưa nói nên được hành vi sử dụng.

– Nếu người phạm tội sử dụng loại vũ khí đã mất tính năng tác dụng như: Súng hỏng, lựu đạn đã tháo kíp nổ… nhưng người bị hại không biết thì người phạm tội vẫn bị coi là phạm tội có sử dụng vũ khí, kể cả trường hợp người phạm tội biết vũ khí đó mất tác dụng nhưng vẫn có ý thức sử dụng để đe doạ người bị hại. Ví dụ: Võ Minh Tân và Võ Đức An ( bị cụt cả hai châchấp hành là hai bác cháu. Tân nghe nói anh Ngô Văn Nghĩa trúng số đề nên bảo An đến nhà anh Nghĩa “xin” tiền. An dồng ý. Đúng 19 giờ, ngày 17-6-1989, Tân đến nhà An, An lấy súng Colt 45 giấu vào người rồi bảo Tân bồng y lên xe lăn và đẩy đến nhà anh Nghĩa. Đén nơi, An gọi anh Nghĩa ra bảo phải đưa cho bon y 20.000 đồng. Anh Nghĩa không đưa mà mời An vào nhà uống nước. An không vào mà rút súng ra chĩa thẳng vào người anh Nghĩa buộc anh Nghĩa phải đưa tiền. Anh Ngô Bá Hành thấy vậy đã khuyên can An không được làm thế, nhưng An càng làm hung dữ, la chửi, đe doạ bắt anh Nghĩa phải đưa tiền. Bà con cạnh nhà anh Nghĩa thấy vậy đã đánh kẻng báo động; nhân dân trong xóm kéo đến vây bắt quả tang cùng với khẩu súng Colt 45 dã gỉ, không có băng đạn và cũng không có đạn. Tại cơ quan điều tra cùng như tại phiên toà, An thừa nhận khẩu súng Colt 45 y nhặt được đêm về cất giấu trong nhà, đã lâu không lau chùi nên đã gỉ, súng không có băng đạn và cũng không có đạn. Khi được Tân rủ đi xin tiền, y lấy đem theo để doạ anh Nghĩa bắt phải đưa tiền. Mặc dù súng không có đạn, nhưng người bị hại và những người khác vẫn tin rằng súng đó có dạn mà quá sợ hãi thì hành vi sử dụng súng đó thực sự đã gây ra nguy hiểm cho xã hội. Nếu người bị hại biết súng của An không có đạn thì cũng không có việc sợ hãi và bà con trong xóm cũng không việc gì phải đánh kẻnh báo động, vây bắt An và đồng bọn.

– Nếu người phạm tội sử dụng vũ khí giả như súng nhựa, súng gỗ để đe doạ người bị hại nhằm chiếm đoạt tài sản và người bị hại cũng tưởng là súng thật nên quá sợ hãi mà giao tài sản cho người phạm tội thì không thuộc trường hợp cướp có sử dụng vũ khí, vì súng giả không được coi là vũ khí. Tuy nhiên, người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 2 Điều 133 nhưng thuộc trường hợp “sử dụng thủ đoạn nguy hiểm khác”.

– Người phạm tội sử dụng vũ khí để cướp tài sản, ngoài việc bị áp dụng diểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự, nếu vũ khí dó là vũ khí quân dụng còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng theo Điều 232 Bộ luật hình sự.

Phương tiện nguy hiểm là những vật mà người phạm tội sử dụng khi cướp tài sản có khả năng gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại như: Các loại dao ( dao bầu, dao nhọn, dao rựa, dao quắm, dao phát bờ, lưới lam, móc sắt…); các loại chất độc, chất cháy ( ête, thuốc mê, thuốc ngủ, a xít, chất phóng xạ…).

Sử dụng phương tiện nguy hiểm là hành vi của người phạm tội thông qua những vật chứa đựng tính nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của con người. Việc đánh giá những vật có khả năng gây nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ của con người không phụ thuộc vào cách sử dụng những vật đó như thế nào, mà chỉ cần xác định tính năng, tác dụng của các vật mà người phạm tội sử dụng có chứa đựng khả năng gây nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ của con người là người phạm tội cướp tài sản đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự rồi

Thực tiễn xét xử cho thấy, các vụ cướp tài sản người phạm tội có sử dụng phương tiện nguy hiểm, nhưng các phương tiện đó hầu hết là vũ khí thô sơ. Tuy nhiên, do Bộ công an chưa có quy định các loại vũ khí thô sơ ngoài quy định tại Nghị định số 47/CP, ngày 12-8-1996 của Chính phủ, nên vẫn còn nhiều vật chứa đựng tính nguy hại cho tính mạng, sức khoẻ của con người mà người phạm tội sử dụng khi thực hiện hành vi cướp tài sản. Do đó, khi áp dụng tình tiết này, cần chú ý:

– Nếu các vật đã được quy định tại Nghị định số 47/CP, ngày 12-8-1996 của Chính phủ là vũ khí thô sơ thì cần xác định người phạm tội sử dụng vũ khí. Chỉ coi là sử dụng phương tiện nguy hiểm nếu những vật đó chưa được Nghị định số 47/CP, ngày 12-8-1996 của Chính phủ quy định là vũ khí thô sơ.

– Mặc dù điều luật quy định phương tiện nguy hiểm, nhưng không vì thế mà cho rằng chỉ những vật dùng vào việc chuyên chở mới là phương tiện, mà phương tiện còn bao gồm cả những vật mà người phạm tội thông qua đó mà tác động người bị hại. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, nhà làm luật dùng thuật ngữ phương tiện nguy hiểm dễ làm cho mọi người hiểu rằng đó là những phương tiện chuyên chở như xe máy, ô tô, tầu thuyền chứ không phải những vật. Theo ý kiến này thì nên dùng thuật ngữ sử dụng công cụ nguy hiểm để không bị nhầm với phương tiện chuyên chở.

Thủ đoạn nguy hiểm là việc người phạm tội sử dụng phương pháp gây nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ của người bị hại và những người khác như: Bỏ thuốc độc vào bể nước uống; dùng dây xiết cổ nạn nhân; dìm nạn nhân xuống nước; dùng dây chăng qua đường khi người bị hại đi xe máy qua vướng vào dây bị ngã để cướp xe máy; dùng khoá dây, xích sắt vụt nạn nhân để cướp tài sản.v.v… Tính nguy hiểm của những thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng khong phụ thuộc vào phương tiện mà phụ thuộc vào phương pháp sử dụng, có thể phương tiện không chứa đựng khả năng gây nguy hại cho tính mạng, sức khoẻ nhưng do người phạm tội biết cách sử dụng những phương tiện đó nên tạo ra khả năng gây nguy hại cho tính mạng, sức khoẻ của người bị hại hoặc của người khác. Ví dụ: quả chanh và chiếc khăn mùi soa bản thân nó không chứa đựng khả năng nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của người bị hại nhưng người phạm tội dùng quả chanh nhét vào mồm nạn nhân và lấy khăn mùi soa bịt chặt lại thì khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của người bị hại sẽ nhiều hơn. Một chiếc dây thừng, bản thân nó không chứa đựng khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của con người nhưng nếu người phạm tội dùng nó để xiết cổ nạn nhân thì lại rất nguy hiểm. Tuy nhiên, đối với một sô loại vũ khí tính nguy hiểm cũng phụ thuộc vào phương pháp sử dụng nhưng nếu người phạm tội sử dụng nó để cướp tài thì vẫn thuộc trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự. Ví dụ: Một viên đạn súng trường nếu để rời không lắp vào nòng súng thì không chứa đựng khả năng nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của người nhưng người phạm tội cướp tài sản sử dụng để tấn công người bị hại nhằm chiếm đoạt tài sản thì vẫn bị coi là sử dụng vũ khí để cướp và người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự.

đ. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%

Người phạm tội cướp tài sản nếu có hành vi dùng vũ lực hoặc có hành vi khác xâm phạm đến người bị hại mà có tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự.

Có thể nói, đây là tình tiết định khung mới đối với tội cướp tài sản, vì theo điểm c khoản 2 Điều 129 và Điều 151 Bộ luật hình sự năm 1985 thì người bị hại phải bị thương tích nặng hoặc tổn hại nặng đến sức khỏe thì người phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 129 và Điều 151 Bộ luật hình sự năm 1985. Thương tích nặng hoặc tổn hại nặng đến sức khỏe của người khác phải có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên, tỷ lệ thương tật dưới 31% chưa phải là  thương tích nặng hoặc tổn hại nặng đến sức khỏe. Vì vậy, nếu người phạm tội cướp tài sản trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% và sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý thì không áp dụng khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với hành vi cướp tài sản xã hội chủ nghĩa. Đối với hành vi cướp tài sản của công dân thì càng không được áp dụng cả khoản 1 và khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999 mà phải áp dụng khoản 1 Điều 129 và khoản 1 Điều 151 Bộ luật hình sự năm 1985 đối với người phạm tội.

Thương tích của người bị hại hoặc của người khác bao gồm cả thương tích do hành vi dùng vũ lực hoặc hành vi khác nhằm chiếm đoạt tài sản và thương tích do hành vi hành hung để tẩu thoát gây nên. Ví dụ: A dùng một đoạn cây chọc vào bánh xe đạp của B làm cho B bị ngã xe nhằm cướp xe của B, nhưng vì có nhiều người, nên A chưa lấy được xe của B thì phải bỏ chạy. A cùng mọi người đuổi bắt B, nên đã bị B dùng đoạn cây đánh mạnh vào đầu A làm cho A bị thương. Thương tích của A khi bị ngã xe chỉ có 4% nhưng thương tích bị B dùng cây đánh vào đầu là 21%, tổng thương tích của B là 25%.

Nếu người phạm tội gây thương tích cho nhiều người và tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa đến 11%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của nhiều người cộng lại  từ 11% đến 30% thì người phạm tội cũng bị truy cứu theo điểm đ khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự.

Tỷ lệ thương tật của người bị hại hoặc của người khác phải do Hội đồng giám định pháp y xác định. Vì vậy cơ quan tiến hành tố tụng cần trưng cầu giám định pháp y nếu người bị hại và những người khác bị thương tích hoặc tổn hại đến sức khoẻ để làm căn cứ xác định người phạm tội bị truy cứu theo khoản nào của Điều 133 Bộ luật hình sự.

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng

Trong nhiều trường hợp người phạm tội cướp tài sản mới thực hiện hành vi vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được, nhưng chưa chiếm đoạt được tài sản. Tuy nhiên, cũng không ít trường hợp người phạm tội cướp đã lấy được tài sản. Nhưng dù người phạm tội có lấy được tài sản hay không mà tài sản đó ( tài sản mà người phạm tội định chiếm đoạt) có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000, thì người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm e khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự. Có thể coi tình tiết này là tình tiết được thay thế tình tiết “chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 129 và Điều 151 Bộ luật hình sự năm 1985.

Đối với trường hợp người phạm tội lấy được tài sản, thì căn cứ vào giá bán tài sản đó tại đại phương xảy ra tội phạm để xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt, chứ không căn cứ vào giá người bị hại mua hoặc giá người phạm tội bán cho người khác. Trong trường hợp cần thiết thì cơ quan tiến hành tố tụng phải tiến hành định giá để xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt, nhất là đối với tài sản có giá trị sấp sỉ 50.000.000 hoặc 200.000.000 đồng hoặc tài sản không được lưu thông trên thị trường.

Đối với trường hợp người phạm tội chưa lấy được tài sản thì việc xác định giá trị tài sản cần phải phân biệt:

– Nếu có căn cứ xác định người phạm tội có ý định chiếm đoạt một loại tài sản nào đó như: định cướp chiếc xe máy của người khác, biết người bị hại vừa lĩnh 100.000.000 ở Ngân hàng nên chặn đường để cướp… thì căn cứ vào giá của tài sản định cướp để xác định giá trị tài sản bị cướp;

– Nếu có căn cứ xác định người phạm tội không biết tài sản mình bị cướp có giá trị bao nhiêu, gồm những tài sản gì thì cũng căn cứ vào giá trị thật của tài sản mà người phạm tội định chiếm đoạt để xác định giá trị tài sản bị cướp. Ví dụ: A, B, và C chặn đường xem có ai đi qua thì cướp tài sản. Bọn chúng gặp một người mặc quần áo Bộ đội, đeo ba lô đi qua, nên cả bọn xông ra đấm đá định cướp chiếc ba lô, nhưng bị người này chống cự quyết liệt nên chúng không lấy được chiếc ba lô. Sau khi xảy ra sự việc thì biết trong ba lô của người bị hại có nhiều tài sản có giá trị lên tới 190.000.000. Tuy nhiên, có trường hợp người phạm tội bắt trói người bảo vệ và đột nhập vào kho chứa hàng trăm chiếc ti vi mầu, nhưng chưa lấy được chiéc ti vi nào thì bị phát hiện. Nếu căn cứ vào giá trị toàn bộ số ti vi có trong kho để xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt thì người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 133, nên có ý kiến cho rằng, trong trường hợp người phạm tội không xác định rõ mục đích chiếm đoạt ( có gì cũng cướp) hoặc không biết rõ giá trị tài sản mà mình chiếm đoạt mà chưa lấy được tài sản thì chỉ nên truy cứu người phạm tội theo khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự. Vấn đề này, chắc chắn các cơ quan có trách nhiệm sẽ phải giải thích hoặc hướng dẫn, nhưng chúng tôi cho rằng nên căn cứ vào giá trị thật của tài sản mà người phạm tội định chiếm đoạt để làm căn cứ xác định giá trị tài sản bị cướp. Bởi lễ, đối với những người phạm tội cướp tài sản, nhất là những vụ cướp có tổ chức với quy mô lớn, dùng cả ô tô, tầu thuỷ để làm phương tiện để chở hàng hoá cướp được mà không căn cứ vào giá trị tài sản thật mà cúng định cướp thì không góp phần vào việc đấu tranh phòng và chống lọai tội phạm nguy hiểm này.

Gây hậu quả nghiêm trọng

Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng nói chung và  phạm tội cướp tài sản gây hậu quả nghiêm trọng nói riêng là trường hợp do hành vi phạm tội mà gây ra những thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người; thiệt hại nghiêm trọng về tài sản cho cơ quan, tổ chức và những thiệt hại nghiêm trọng khác phi vật chất. Tất nhiên những hậu quả này không phải là những tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự. nhưng nó cũng phải tương đương với các tình tiết định khung quy định tại khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự vì nó cũng là một tình tiết được quy định trong cùng một khung hình phạt. Đây là vấn đề không phải không phải ai cũng nhận thức như nhau, vì có quan điểm muốn đưa ra một đại lượng chung cho tất cả các trường hợp phạm tội mà không thấy rằng mỗi tội phạm có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội chủ nghĩa khác nhau, cùng là gây ra hậu quả chết người, nhưng nếu do vô ý gây ra tính chất mức độ nguy hiểm không thể bằng do hành vi cố ý gây ra, nếu do vô ý thì làm chết một người có thể được coi là hậu quả nghiêm trọng, nhưng nếu do cố ý gây chết một người lại là hậu quả rất nghiêm trọng, trong một số trường hợp còn là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Vì vậy khi đánh giá hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng cần phải căn cứ vào hành vi phạm tội cụ thể ược quy định trong một điều khoản cụ thể; không thể có một hậu quả chung cho tất cả các tội phạm.

Căn cứ vào các quy định tại khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự, qua thực tiễn xét xử có thể coi trường hợp sau đây là trường hợp cướp tài sản gây hậu quả nghiêm trọng:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người có tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% không phải là do hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công không thể chống cự được ( không phải là hậu quả do hành vi khách quan của cấu thành tội cướp tài sản gây nên);

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người mà tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa đến 11%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người bị thương tích từ 11% đến 30%;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật dưới 11% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị dưới 50.000.000 đồng;

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, ngoài tài sản bị chiếm đoạt

– Ngoài những thiệt hại về về tính mạng, sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi cướp tài sản gây ra, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho nhiều người trên một địa bàn nhất định, làm cho nhiều người vì quá sợ hãi nên phải bỏ học, bỏ việc làm, không giám lao động sản xuất, không giám buôn bán.v.v… Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ cướp tài sản cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm g khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. Khi áp dụng hình phạt theo khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự đối với người phạm tội cần chú ý:

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau thì:

– Nếu người phạm tội cướp tài sản có nhiều tình tiết định khung quy định tại khoản 2 Điều 133, thì hình phạt phải cao hơn người phạm tội có ít tình tiết định khung hình phạt;

– Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự thì hình phạt phải nhẹ hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, thì hình phạt phải nặng hơn người không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại gây ra càng lớn thì hình phạt càng nặng và ngược lại.

Trong trường hợp người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự nhưng không được dưới ba năm tù, vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự, thì “Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật13

  1. Cướp tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình sự

Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%

Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ tỷ lệ thương tật của người bị hại hoặc của những người khác từ 31% đến 60%. Đây là tỷ lệ thương tật thuộc loại rất nặng, nên người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình sự có khung hình phạt cao hơn khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự.

Tương tự như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội gây thương tích cho nhiều người và tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa đến 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của nhiều người cộng lại  từ 31% đến 60% thì người phạm tội cũng bị truy cứu theo điểm a khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình sự .

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng

Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm e khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ giá trị tài sản bị chiếm đoạt là từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng . Đây là tài sản có giá trị rất lớn, nên người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình sự có khung hình phạt cao hơn khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự.

Gây hậu quả rất nghiêm trọng

Hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi cướp tài sản gây ra cũng phải tương đương với các tình tiết định khung quy định tại khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình sự vì nó cũng là một tình tiết được quy định trong cùng một khung hình phạt. Căn cứ vào các quy định tại khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình sự, qua thực tiễn xét xử có thể coi trường hợp sau đây là trường hợp cướp tài sản gây hậu quả rất nghiêm trọng:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% không phải là do hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công không thể chống cự được ( không phải là hậu quả do hành vi khách quan của cấu thành tội cướp tài sản gây nên);

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người mà tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa đến 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người bị thương tích từ 31% đến 60%;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật dưới 31% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị dưới 500.000.000 đồng;

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, ngoài tài sản bị chiếm đoạt;

– Ngoài những thiệt hại về về tính mạng, sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi cướp tài sản gây ra, như ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho nhiều người trên một địa bàn nhất định, làm cho rất nhiều người vì quá sợ hãi nên phải bỏ học, bỏ việc làm, không giám lao động sản xuất, không giám buôn bán.v.v… Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ cướp tài sản cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác. Mức độ thiệt hại trong trường hợp này phải được xác định là rất nghiêm trọng thì người phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình sự

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm c khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình sự người phạm tội có thể bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm. Cũng tương tự như trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự, khi áp dụng hình phạt theo khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình sự đối với người phạm tội cần chú ý:

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau thì:

– Nếu người phạm tội cướp tài sản có nhiều tình tiết định khung quy định tại khoản 3 Điều 133, thì hình phạt phải cao hơn người phạm tội có ít tình tiết định khung hình phạt;

– Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự thì hình phạt phải nhẹ hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, thì hình phạt phải nặng hơn người không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại gây ra càng lớn thì hình phạt càng nặng và ngược lại.

Cũng tương tự như trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự, trong trường hợp người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình sự nhưng không được dưới bảy năm tù.

  1. Cướp tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 133 Bộ luật hình sự

Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người

Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm đ khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ tỷ lệ thương tật của người bị hại hoặc của những người khác từ 61% trở lên hoặc làm chết người. Đây là trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nên người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 133 Bộ luật hình sự có khung hình phạt tù từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.

Riêng đối với trường hợp làm chết người cần phân biệt với trường hợp giết người để cướp tài sản. Làm chết người là trước khi thực hiện hành vi cướp tài sản, người phạm tội không có ý thức giết người, hành vi dùng vũ lực của người phạm tội chưa gây ra cái chết cho người bị tấn công, nhưng trong quá trình thực hiện hành vi cướp tài sản hoặc sau khi đã cướp được tài sản, người phạm tội bỏ mặc cho hậu quả xảy ra nên người bị tấn công bị chết. Ví dụ: A,B,C trói người bảo vệ kho để cướp tài sản nhưng sau khi chúng bỏ đi, do kho nằm ở khu vực xa dân nên người bảo vệ kho không được ai mở trói nên bị chết do bị khát và đói.

 Tương tự như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 và điểm a khoản 3  Điều 133 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội gây thương tích cho nhiều người và tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa đến 61%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của nhiều người cộng lại  từ 61% trở lên thì người phạm tội cũng bị truy cứu theo điểm a khoản 4 Điều 133 Bộ luật hình sự .

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên

Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm e khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ giá trị tài sản bị chiếm đoạt là từ 500.000.000 đồng trở lên. Đây là tài sản có giá trị đặc biệt lớn, nên người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 133 Bộ luật hình sự có khung hình phạt tù từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.

Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng

Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi cướp tài sản gây ra cũng phải tương đương với các tình tiết định khung quy định tại khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự vì nó cũng là một tình tiết được quy định trong cùng một khung hình phạt. Căn cứ vào các quy định tại khoản 4 Điều 133 Bộ luật hình sự, qua thực tiễn xét xử có thể coi trường hợp sau đây là trường hợp cướp tài sản gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc gây chết người, nhưng không phải là do hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công không thể chống cự được (không phải là hậu quả do hành vi khách quan của cấu thành tội cướp tài sản gây nên);

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người mà tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa đến 61%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người bị thương tích từ 61% trở lên;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật dưới 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500.000.000 đồng trở lên;

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500.000.000 đồng trở lên, ngoài tài sản bị chiếm đoạt;

– Ngoài những thiệt hại về về tính mạng, sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi cướp tài sản gây ra, như ảnh hưởng đặc biệt xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng đặc biệt xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho rất nhiều người trên một vùng nhiều địa phương nhất định, làm cho rất nhiều người vì quá sợ hãi nên phải bỏ học, bỏ việc làm, không giám lao động sản xuất, không giám buôn bán.v.v… Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ cướp tài sản cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác. Mức độ thiệt hại trong trường hợp này phải được xác định là đặc biệt nghiêm trọng thì người phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 133 Bộ luật hình sự

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm c khoản 4 Điều 133 Bộ luật hình sự người phạm tội có thể bị phạt tù từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình. Cũng tương tự như trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình sự, khi áp dụng hình phạt theo khoản 4 Điều 133 Bộ luật hình sự đối với người phạm tội cần chú ý:

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau thì:

– Nếu người phạm tội cướp tài sản có nhiều tình tiết định khung quy định tại khoản 3 Điều 133, thì hình phạt phải cao hơn người phạm tội có ít tình tiết định khung hình phạt;

– Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự thì hình phạt phải nhẹ hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, thì hình phạt phải nặng hơn người không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại gây ra càng lớn thì hình phạt càng nặng và ngược lại.

Cũng tương tự như trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình sự, trong trường hợp người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 4 Điều 133 Bộ luật hình sự nhưng không được dưới mười tám năm tù.

Khung hình phạt quy định tại khoản 4 Điều 133 có mức thấp nhất là 18 năm tù, còn mức cao nhất là tử hình. Vậy, trường hợp nào Toà án phạt người phạm tội tù có thời hạn, trường hợp nào phạt tù chung thân, còn trường hợp nào bị phạt tử hình ? Đây là vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn xét xử có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần hướng dẫn cụ thể (cá thể hoá) trường hợp phạm tội nào Toà án có thể phạt tù có thời hạn, trường hợp nào phạt tù chung thân và trường hợp nào phạt tử hình, để tránh tình trạng áp dụng pháp luật không thống nhất. Nhưng đa số ý kiến lại cho rằng, nhà làm luật đã quy định các trường hợp phạm tội theo từng khung hình phạt là đã cá thể hoá tới mức cần thiết tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, còn việc quyết định hình phạt như thế nào, mức hình phạt cụ thể là bao nhiêu trong khung hình phạt đó là hoàn toàn thuộc trách nhiệm của Hội đồng xét xử, căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Nếu hướng dẫn qúa chi tiết, cụ thể như có một “ba rem” sẽ dẫn đến tình trạng các Thẩm phán ỷ lại, mặt khác thực tế xét xử cho thấy không có một vụ án nào giống vụ án nào, ngay cả khi các tình tiết của vụ án tương tự như nhau nhưng xảy ra ở địa bàn khác nhau, thì tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng khác nhau, chưa kể đến các yếu tố về nhân thân, về điều kiện hoàn cảnh, động cơ, mục đích phạm tội … đều rất khác nhau, nên không thể có “ba rem” sẵn. Nhà làm luật quy định khung hình phạt từ… đến cũng chính là nhằm bảo đảm nguyên tắc xử lý và nguyên tắc quyết định hình phạt. Tội phạm là hiện tượng xã hội, nên không thể cân đo, đong, đếm như toán học được.

Thực tiễn xét xử cho thấy, những trường hợp chỉ phạm tội cướp tài sản, người phạm tội bị kết án tử hình không nhiều, mà thông thường người phạm tội bị kết án từ hình trong những trường hợp cướp tài sản có kèm theo giết người, trong đó  hình phạt tử hình đối với người phạm tội là hình phạt của tội giết người. Những trường hợp bị phạt tử hình về tội cướp tài sản, thường là những trường hợp người phạm tội đã có nhiều tiền án tiền sự, là người chủ mưu, cầm đầu trong các vụ án có tổ chức, nhưng “băng cướp’ nguy hiểm, hoạt động trên địa bàn rộng, trên trục đường giao thông, trên các phương tiện giao thông, gây hoang mang trong nhân dân…

  1. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội cướp tài sản

Theo quy định tại khoản 5 Điều 133 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội cướp tài sản còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.

So với tội cướp tài sản xã hội chủ nghĩa và tội cướp tài sản của công dân quy định tại Điều 129 và Điều 151 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hình phạt bổ sung đối với tội cướp tài sản quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều điểm được sửa đổi bổ sung.

Hình phạt tiền là loại hình phạt mới được quy định đối với tội cướp tài sản, mức phạt tiền là từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, có thể nói đây là khung hình phạt tiền đối với tội cướp tài sản. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội cướp tài sản thì không được phạt trên một trăm triệu đồng, nhưng nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì có thể phạt dưới mười triệu đồng nhưng không được dưới một triệu đồng vì theo quy định tại khoản 3 Điều 30 Bộ luật hình sự mức phạt tiền không được dưới một triệu đồng. Tuy nhiên vấn đề này cũng có ý kiến cho rằng, hình phạt bổ sung không thể có nhiều khung hình phạt, không có quy định một khung hình phạt, không có khung hình phạt nhẹ nhất và không có quy định việc chuyển sang khung hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.  nên dù người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ cũng không được áp dụng dưới mức thấp nhất mà điều luật quy định.14 Quan điểm này, chỉ đúng với các loại hình phạt bổ sung khác, nhưng đối với hình phạt bỏ sung là hình phạt tiền thì không hẳn là như vậy, vì hình phạt tiền dù là hình phạt chính hay hình phạt bổ sung bao giờ cũng quy định một mức tiền từ… đồng đến… đồng, nên phải coi đó là khung hình phạt tiền và không phải tội phạm nào nhà làm luật cũng quy định mức tối thiểu và mức tối đa như nhau, đo đó có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt tiền. Mặt khác, hình phạt bổ sung cũng là hình phạt nên khi quyết định hình phạt cũng phải tuân theo các quy định của Bộ luật hình sự vê quyết định hình phạt. Đối với các loại hình phạt bổ sung khác không có trường hợp quyết định dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là vì mức tối thiểu và mức tối đa của loại hình phạt đó được quy định ở phần chung Bộ luật hình sự và trong từng tội phạm ở phần điều luật đều như nhau ( từ một năm đến năm năm). Ví dụ: Thời hạn quản chế quy định tại Điều 38 Bộ luật hình sự và tại khoản 5 Điều 133 Bộ luật hình sự  về tội cướp tài sản đều từ một năm đến năm năm, nếu quyết định hình phạt dưới một năm là trái với Điều 38 Bộ luật hình sự. Trong trường hợp này, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì chỉ có thể được áp dụng một năm ( mức thấp nhất của khung hình phạt ) hoặc không bị áp dụng hình phạt quản chế.

Việc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản của người phạm tội cướp tài sản phải chú đến các quy định tại Điều 40 Bộ luật hình sự về loại hình phạt này. Chỉ tịch thu tài sản thuộc quyền sở hữu của người phạm tội, nhưng là tài sản ngoài tài sản bị cướp; không tịch thu các loại tài sản là đồ trang sức, vật kỷ niệm của người phạm tội. Nếu tịch thu toàn bộ tài sản thì vẫn phải để cho người phạm tội và gia đình họ có điều kiện sinh sống.

Khi áp dụng hình phạt cấm cư trú đối với người phạm tội cướp tài sản cần quyết định hình phạt rõ cấm cư trú ở địa phương cụ thể nào ( xã, phường, thị trấn, huyện, quận, thị xã, tỉnh, thành phố ) không nên cấm một cách chung chung là “cấm bị cáo cư trú ở thành phố, thị xã…” Nói chung nếu đã áp dụng hình phạt quản chế đối với người phạm tội thì không áp dụng hình phạt cấm cư trú đối với họ nữa vì nội dung của hình phạt quản chế là cư trú bắt buộc, dưới sự kiểm soát của chính quyền và nhân dân địa phương, không được tự ý ra khỏi nơi cư trú, bị tước một số quyền công dân và bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải là người có lỗi

Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi đó dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.

Khoa học luật hình sự coi lỗi là một dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm. Nếu một hành vi nguy hiểm cho xã hội không bị coi là có lỗi thì người có hành vi nguy hiểm cho xã hội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự ( không đủ yêú tố cấu thành tội phạm).

Tội phạm là hành vi có lỗi, tính có lỗi là thuộc tính cơ bản của tội phạm, là cơ sở để buộc một người phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và hậu quả cuả hành vi đó gây ra. Luật hình sự Việt nam không chấp nhận hình thức buộc tội khách quan; tội phạm là hành vi tổng hợp các yếu tố chủ quan và khách quan, các yếu tố này có liên quan chặt chẽ với nhau trong một thể thống nhất  (tội phạm là sự thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan). Có thể nói, lỗi là một nguyên tắc cơ bản trong luật hình sự Việt nam, nên trong Điều 8 Bộ luật hình sự khi định nghĩa về tội phạm đã nêu: “ Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội…thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý”

Hiện nay, vấn đề lỗi trong luật hình sự Việt nam có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng lỗi không phải là một đặc điểm riêng ( thuộc tính) của tội phạm mà nó là một yếu tố thuộc đặc điểm “ tính nguy hiểm cho xã hội”. Quan điểm này cho rằng, khi nói tính nguy hiểm cho xã hội có thể hiểu đó là một đặc điểm của riêng hành vi khách quan cuả tội phạm, gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình bảo vệ. Đặc điểm này không phụ thuộc vào mặt chủ quan bên trong của tội phạm. Nhưng nói đến tính nguy hiểm cho xã hội cũng có thể hiểu đó là một đặc điểm của một hành vi với ý nghĩa là thể thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan.3 Có quan điểm khác cho rằng, lỗi là thành phần cơ bản của mặt chủ quan. Trong mặt chủ quan, ngoài lỗi ra còn có động cơ, mục đích tội phạm, các yếu tố xúc cảm, v.v…4 Lại có quan điểm khác cho rằng, lỗi là thái độ tâm lý. Thái độ tâm lý của con người là một thể thống nhất không tách rời giữa nhận thức, động cơ, mục đích, ý chí và các yếu tố tâm lý khác. Hơn nữa, ngoài cố ý và vô ý, động cơ, mục đích có ý nghĩa pháp lý rất quan trọng trong định tội cũng như trong việc quyết định hình phạt. Vì vậy, lỗi chính là mặt chủ quan của tội phạm. Khi người ta nói một người có lỗi trong thực hiện tội phạm tức là nói đến toàn bộ mặt chủ quan của tội phạm mà không tách rời nó với động cơ, mục đích tội phạm.

Cố ý phạm tội

Theo Điều 9 Bộ luật hình sự thì cố ý phạm tội là tội phạm trong trường hợp sau đây:

– Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;

– Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra;

Lần đầu tiên Bộ luật hình sự quy định rõ hai hình thức lỗi cố ý phạm tội, tuy không nói rõ đó là lỗi cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp, nhưng với nội dung quy định như trên chúng ta cũng hiểu được đó là hai hình thức lỗi : cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Bộ luật hình sự năm 1985 cũng quy định hai hình thức lỗi cố ý nhưng không quy định cụ thể và rõ ràng như Bộ luật hình sự năm 1999

Khoa học luật hình sự, khi nghiên cứu lỗi cố ý, còn chia ra nhiều hình thức khác nhau, các hình thức này không có ý nghĩa xác định trách nhiệm hình sự mà chỉ có ý nghĩa xác định mức độ nguy hiểm của hành vi tội phạm. Các hình thức đó là: Cố ý có dự mưu và cố ý đột xuất; cố ý xác định và cố ý không xác định.

Cố ý có dự mưu là trường hợp trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người có hành vi đó đã suy nghĩ, tính toán cẩn thận mới bắt tay vào việc thực hiện tội phạm.

Cố ý đột xuất là trường hợp một người vừa có ý định tội phạm đã thực hiện ngay ý định đó.

Cố ý xác định là trường hợp trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người có hành vi đã xác định được hậu quả.

Cố ý không xác định là trường hợp trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người có hành vi không hình dung chính xác hậu quả xảy ra như thế nào.

Vô ý phạm tội

Theo quy định tại Điều 10 Bộ luật hình sự thì vô ý phạm tội là tội phạm  trường hợp sau đây:

– Người phạm tội tuy thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.

– Người phạm tội không thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậy quả đó

Bộ luật hình sự không quy định rõ các hình thức vô ý phạm tội nhưng căn cứ vào nội dung quy định trên , chúng ta thấy rõ có hai hình thức vô ý phạm tội mà khoa học luật hình sự gọi là vô ý vì cẩu thả và vô ý vì quá tự tin.

Vô ý vì cẩu thả là trường hợp do cẩu thả mà người phạm tội không thấy trước khả năng gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước hoặc có thể thấy trước. Tiêu chuẩn để xác định một người phải thấy trước và có thể thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội là căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra sự việc, một người bình thường cũng có thể thấy trước; ngoài ra còn phải căn cứ vào độ tuổi, trình độ nhận thức, trình độ văn hoá, tay nghề.v.v…

Vô ý vì quá tự tin là trường hợp người phạm tội thấy trước được hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng tin rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được, nhưng hậu quả đó vẫn xảy ra.

Theo khái niệm tội phạm được quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự thì hành vi tội phạm chỉ được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý. Luật hình sự Việt Nam không thừa nhận hình thức lỗi thứ ba, nhưng trong một số công trình nghiên cứu của một số tác giả có đề cập đến hình thức lỗi thứ ba, đó là “ lỗi hỗn hợp” tức là vừa vô ý vừa cố ý hoặc cố ý về hành vi, vô ý về hậu quả. Có thể trong công tác nghiên cứu bản chất của các hình thức lỗi, có thể đặt vấn đề một người thực hiện hành vi vừa cố ý lại vừa vô ý (cố ý về hành vi vô ý về hâụ quả) như đối với người cố ý vi phạm các quy định về phòng cháy (có biển cẩm lửa nhưng vẫn hút thuốc) gây thiệt hại nghiêm trọng đén tài sản (cháy kho xăng ), nhưng việc gây thiệt hại đến tài sản họ không mong muốn. Trong trường hợp này, lỗi của người phạm tội cũng chỉ là lỗi vô ý chứ không thể nói cố ý được vì nếu cố ý thì phạm huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản chứ không còn là vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản nữa.

Một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nếu không có lỗi thì không bị coi là hành vi tội phạm. Bộ luật hình sự quy định một số trường hợp không phải là tội phạm do người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không có lỗi như: Sự kiện bất ngờ (Điều 11) phòng vệ chính đáng (Điều 15), tình thế cấp thiết (Điều 16). Ngoài ra, tuy Bộ luật hình sự không quy định, nhưng về lý luận cũng như thực tiễn xét xử có một số trường hợp tuy có hành vi gây thiệt hại cho lợi ích xã hội hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của công dân, nhưng cũng không bị coi là tội phạm vì người thực hiện hành vi không có lỗi như: Tình trạng không thể khắc phục được hậu quả; bắt người phạm tội quả tang hoặc có lệnh truy nã; chấp hành chỉ thị, quyết định hoặc mệnh lệnh; Rủi ro trong nghề nghiệp hoặc trong sản xuất. Tuy nhiên, đối với các tội xâm phạm sở hữu, những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự vì không có lỗi ít xảy ra.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm danh dự của con người không chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các quy định của Bộ luật hình sự mà còn phải bồi thường những thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.

Theo Điều 34 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra. Trong trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, gây thiệt hại về tinh thần, Toà án có thể buộc người phạm tội công khai xin lỗi người bị hại.

Trước đây, khi chưa có Bộ luật dân sự, việc Toà án buộc người phạm tội bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây nên căn cứ vào Thông tư số 173/UBTP ngày 23/3/1972 của Ủy ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Hiện nay, chúng ta đã có Bộ luật dân sự, do đó việc buộc người phạm tội phải bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra kể từ ngày 1/7/1996 phải căn cứ vào các quy định của Bộ luật dân sự.

Theo các quy định từ Điều 609 đến Điều 625 Bộ luật dân sự, thì việc bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

A. NHƯNG QUY ĐỊNH CHUNG

  1. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại

Hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người được thực hiện do cố ý hoặc vô ý, người thực hiện hành vi đó đều phải bồi thường cho người bị thiệt hại.

Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Người phạm tội và người bị hại có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, trừ trường hợp pháp luật quy định khác.

Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình, hoặc người bị hại cũng có lỗi.

Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế, thì người phạm tội hoặc người bị hại, hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền yêu cầu Toà án thay đổi mức bồi thường.

  1. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường

Người từ đủ 18 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra. Người dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà còn cha mẹ, thì cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha mẹ không đủ để bồi thường mà người con này lại có tài sản riêng, thì lấy tài sản đó bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp thiệt hại mà họ gây ra trong thời gian ở trường học, các tổ chức khác đang trực tiếp quản lý họ có lỗi trong việc để họ gây thiệt hại cho người khác. Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi mà gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình, nếu không đủ thì cha mẹ phải bồi thường phần còn thiếu. Người giám hộ nếu có lỗi trong việc giám hộ để người chưa thành niên gây thiệt hại cho người khác, thì người giám hộ phải bồi thường, nếu tài sản của người mà mình giám hộ không có hoặc có nhưng không đủ để bồi thường.

XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI

  1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

– Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa người bị hại trước khi họ chết;

– Chi phí hợp lý cho việc mai táng nạn nhân;

– Tiền cấp dưỡng cho người mà nạn nhân lúc còn sống phải cấp dưỡng.

– Tuỳ từng trường hợp, Toà án quyết định buộc người gây thiệt hại phải bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân gần gũi nhất của nạn nhân. Đây là một quy định mới mà trước đây chưa có, vì vậy cũng chưa có thực tiễn xét xử về vấn đề này. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử lại đòi hỏi phải có quy định như vậy để đáp ứng yêu cầu mà thực tế đặt ra. Ví dụ: Một bf mẹ có hại người con, chồng bà và người con trai đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, bà chỉ còn người con gái đang học đại học thì bị giết chết. Vì quá thương xót con gái nên bà phát bệnh tâm thần.

  1. Thiệt hịa do sức khoẻ bị xâm phạm

Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm bao gồm:

– Chí phí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất bị giảm sút của người bị hại;

– Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị hại, nếu thu nhập thực tế của người bị hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

– Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị hại trong thời gian điều trị, nếu người bị hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc, thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc cho người bị hại và khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị hại có nghĩa vcụ cấp dưỡng khi họ chưa bị thương tích hoặc tổn hại đến sức khoẻ;

– Tuỳ từng trường hợp Toà án quyết định buộc người phạm tội phải bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần mà người bị hại phải gánh chịu.

  1. Thời hạn người bị hại được hưởng bồi thường do hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người gây nên

– Trong trường hợp người bị hại mất hoàn toàn khả năng lao động thì được hưởng bồi thường thiệt hại đến khi chết.

– Trong trường hợp người bị hại chết thì những người mà người này có nghĩa vụ cấp dưỡng khi họ còn sống được hưởng tiền cấp dưỡng trong thời hạn sau:

Người chưa thành niên hoặc người đã thành thai là con của người chết mà còn sống sau khi sinh ra được hưởng trợ cấp cho đến khi đủ 18 tuổi, trừ trường hợp người đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi đã tham gia lao động và có thu nhập đủ nuôi sống bản thân.

Người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, thì được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi chết.

  1. Thiệt hại do danh dự nhân phẩm uy tín bị xâm phạm

Thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín của người bị hại bao gồm:

– Chi phí hợp lý để hạn chế khắc phục thiệt hại;

– Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;

– Tuỳ từng trường hợp, ngoài việc buộc chấm dứt hành vi vi phạm, công khai xin lỗi, cải chính công khai, Toà án quyết định người phạm tội phải bồi thường bù đáp tổn thất về tinh thần cho người bị hại.

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ

 

  1. Trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

Nếu gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng thì người có hành vi gây thiệt hại không phải bồi thường, nhưng nếu do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì người có hành vi gây thiệt hại phải bồi thường. Tuy nhiên, mức bồi thường phải căn cứ vào mức độ lỗi của mỗi bên, người phạm tội chỉ phải bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình. Ví dụ: A gây thương tích cho B trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; tổng số thiệt hại mà A gây cho B là 80 triệu đồng, nhưng B có lỗi nặng nên Toà án chỉ buộc A phải bồi thường cho B 50 triệu đồng.

 

  1. Trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết

Người phạm tội do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Tuy nhiên, nếu có người đã gây ra tình thế cấp thiết để người khác phải phạm tội do vượt qú yêu cầu của tình thế cấp thiết thì người đã gây ra tình thế cấp thiết phải bồi thường thiệt hại cho người bị hại. Ví dụ: T là dân quân được phân công bảo vệ bãi chiếu phim. Trong lúc mọi người đang xem phim thì T phát hiện ông K là người bị bệnh tâm thần xách can xăng và cầm chiếc bật lửa chạy vào trong bãi chiếu phim vừ chạy vừa hô: “Tao sẽ đốt cả nhà mày!”. T cũng biết ông K là người bị tâm thần, nhưng nếu để ông K chạy vào bãi chiếu phim thì sẽ gây nguy hiểm cho nhiều người nên T chạy đến ôm ông K đẩy ra khỏi bãi chiếu phim, vì bị tâm thần nên ông K giơ bật lửa quẹt, làm bắt lửa vào can xăng bốc cháy. Sau khi sự việc xảy ra, cơ quan điều tra phát hiẹn là M đã đưa can xăng và bật lửa cho ông K nhằm mục đích trêu chọc ông K.

  1. Trong trường hợp do người dùng chất kích thích gây ra

Người phạm tội do uống rượu hoặc do dùng chất kích thích khác mà lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi cả mình thì vẫn phải bồi thường thiệt hại do họ gây ra. Tuy nhiên, nếu người phạm tội lại bị người khác cố ý làm cho họ say hoặc lâm vào trong tình trạng mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, thì người có hành vi cố ý đó phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người bị hại. Ví dụ: Q và N biết A khong uống rượu, nhưng đã đè A ra đổ rượu vào miệng cho đến khi A bị say không biết gì nữa, Q và N thấy A bị say khong những không đưa A về mà còn để A voà trong trường phỏ thông cơ sở đuổi đánh các em học sinh còn mình thì đứng cười. Do vị A rượt đuổi một số em chạy khong kịp nên đã bị A đẩy ngã, trong đó có một em bị đập đầu vào gốc cây bị chấn thương sọ não có tỷ lệ thương tật 61% và phải bỏ học.

  1. Trong trường hợp nhiều người cùng gây ra thiệt hại

trong trường hợp nhiều người cùng gây ra thiệt hại, thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị hại, trách nhiệm liên đới là trách nhiệm của nhiều người cùng phải bồi thường cho người khác, mặc dù mỗi người có phần trách nhiệm riêng của mình theo phần tương ứng với mực độ lỗi của họ, nhưng cơ quan thi hành án có thể buộc một người trong số nhưng người đó phải trả toàn bộ khoản tiền mà người bị hại được hưởng, rồi sau đó những người khác có nghĩa vụ thanh toán lại cho họ. Trong trường hợp không xác định được mức độ lỗi của mỗi người, thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau.

  1. Trong trường hợp do người của pháp nhân, do công chức, viên chức Nhà nước gây ra

Pháp nhân phải bồi thường tiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ do pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bòi thường, thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả khoản tiền mà pháp nhân đã bỏ ra bồi thường cho người bị hại.

Cơ quan Nhà nước phải bồi thường thiệt hại do cong chức, viên chức của mình gây ra trong khi thi hành công vụ và có trách nhệm yêu cầu công chức, viên chức phải hoằn trả khoản tiền mà cơ quan đã bồi thường cho người bị hại.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU

  1. Các tội xâm phạm sở hữu quy định trong chương XIV Bộ luật hình sự năm 1999 là các tội được sát nhập từ các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa quy định tại chương IV và các tội xâm phạm sở hữu của công dân quy định tại chương VI Bộ luật hình sự năm 1985.

Về tội phạm, chương XIV chỉ còn quy định 13 tội danh phản ảnh đúng bản chất của tên chương là các tội xâm phạm sở hữu, một số tội tuy có xâm phạm sở hữu nhưng xuất phát từ bản chất của hành vi nên được nhà làm luật quy định ở các chương khác như: Tội tham ô; tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản  được quy định tại Mục A Chương XXI các tội phạm về tham nhũng.v.v…

Về hình phạt, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định trong tất cả các tội đều nhẹ hơn hình phạt trong các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và nặng hơn hình phạt trong các tội xâm phạm tài sản của công dân quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985. Hình phạt bổ sung được quy định ngay trong cùng một điều luật.

  1. Đa số các tội xâm phạm sở hữu là các tội có tính chất chiếm đoạt. Trong số 13 tội quy định trong chương XIV Bộ luật hình sự năm 1999, thì có tới 8 tội có tính chất chiếm đoạt đó là các tội: Cướp tài sản; bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; cưỡng đoạt tài sản; cướp giật tài sản; công nhiên chiếm đoạt tài sản; trộm cắp tài sản; lừa đảo chiếm đoạt tài sản và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Đặc điểm nổi bật của các tội xâm phạm sở hữu là có tính chất chiếm đoạt, nhưng không phải tội phạm nào có tính chất chiếm đoạt đều là tội xâm phạm sở hữu. Ngược lại tội xâm phạm sở hữu không nhất thiết có tính chất chiếm đoạt như các tội: chiếm giữ trái phép tài sản; sử dụng trái phép tài sản; huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản; thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản và vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản không phải là các tội có tính chất chiếm đoạt.

  1. Đa số các tội xâm phạm sở hữu là các tội được thực hiện do cố ý. Trong số 13 tội quy định trong chương XIV Bộ luật hình sự năm 1999, thì có tới 11 tội được thực hiện do cố ý, đó là các tội: Cướp tài sản; bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; cưỡng đoạt tài sản; cướp giật tài sản; công nhiên chiếm đoạt tài sản; trộm cắp tài sản; lừa đảo chiếm đoạt tài sản; lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; chiếm giữ trái phép tài sản; sử dụng trái phép tài sản và huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Chỉ có hai tội được thực hiện do vô ý, đó là các tội: thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản và vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản.
  2. Hậu quả của các tội xâm phạm sở hữu gây ra chủ yếu là thiệt hại về tài sản. Có thể nói, thiệt hại về tài sản là thước đo để đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Trong một số tội, giá trị tài sản bị thiệt hại còn là căn cứ để phân biệt tội phạm với hành vi vi phạm như: Công nhiên chiếm đoạt tài sản; trộm cắp tài sản; lừa đảo chiếm đoạt tài sản; lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; chiếm giữ trái phép tài sản; sử dụng trái phép tài sản; huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản; thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản và vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản, nếu chưa đến mức quy định của Bộ luật hình sự thì chưa bị coi là tội phạm. Ví dụ: trộm cắp dưới 500.000 đồng nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng, chưa bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt, chưa bị kết án về hành vi chiếm đoạt hoặc tuy đã bị kết án về hành vi chiếm đoạt những đã được xoá án thì chưa bị coi là tội phạm.

Tuy nhiên, đối với một số tội phạm, ngoài thiệt hại về tài sản, tội xâm phạm sở hữu còn xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người; xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội; xâm phạm đến hoạt động của các cơ quan, tổ chức… Ví dụ: Tội cướp tài sản, ngoài việc xâm phạm đến tài sản, trong nhiều trường hợp còn xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ của con người; Lợi dụng chức vụ quyền hạn để lừa đảo chiếm đoạt tài sản, để lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, để sử dụng trái phép tài sản còn xâm phạm đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức…

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN (ĐIỀU 135)

Cưỡng đoạt tài sản là hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản.

Đặc trưng cơ bản của tội cưỡng đoạt tài sản là người phạm tội đã có hành vi uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản bằng những thủ đoạn đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác làm cho người có trách nhiệm về tài sản lo sợ mà phải giao tài sản cho người phạm tội.

Đe doạ sẽ dùng vũ lực là hành vi ( lời nói hoặc hành động) làm cho người bị đe doạ sợ nếu không giao tài sản cho người phạm tội thì sẽ bị đánh đập tra khảo, bị đau đớn về thể xác.

Thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần là những thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng ngoài việc đe doạ sẽ dùng vũ lực và thủ đoạn này đã uy hiếp tinh thần của người có tài sản hoặc của người có trách nhiệm về tài sản như: Doạ sẽ tố cáo với chồng về việc vợ ngoại tình, doạ sẽ tố cáo việc phạm tội hoặc việc làm sai trái của người có tàig sản hoặc người có tránh nhiệm về tài sản.v.v…

Có thể nói, cưỡng đoạt tài sản là tìm mọi cách làm cho người có tài sản hoặc người có trách nhiệm về tài sản sợ hãi phải giao tài sản cho người phạm tội. Như vậy, hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác mà người phạm tội thực hiện là nhằm chiếm đoạt tài sản.

Nếu hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhưng không nhằm chiếm đoạt tài sản thì không phải là tội cưỡng đoạt tài sản mà tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người có hành vi phạm các tội như: Khủng bố quy định tại Điều 81; bức tử quy định tại Điều 100; cưỡng dâm hoặc cưỡng dâm trẻ em quy định tại các Điều 113, 114; cưỡng ép kết hôn quy định tại Điều 146.v.v…

Nếu người phạm tội đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác và cũng nhằm chiếm đoạt tài sản nhưng tài sản đó lại là đối tượng của tội phạm khác thì cũng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản mà tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội như: Chiếm đoạt chất ma tuý quy định tại Điều 194; chiếm đoạt tin chất dùng vào việc sản xuất trái phép ma tuý quy định tại Điều 195; chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự quy định tại Điều 230; chiếm đoạt vật liệu nổ quy định tại Điều 232; chiếm đoạt vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ quy định tại Điều 233; chiếm đoạt chất phóng xạ quy định tại Điều 236; chiếm đoạt tài liệu bí mật Nhà nước quy định tại Điều 268 ; cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước người trái phép quy định tại Điều 275; chiếm đoạt chiến lợi phẩm quy định tại Điều 337.v.v…

Tội cưỡng đoạt tài sản quy định tại Điều 135 Bộ luật hình sự là tội phạm đã được quy định tại Điều 130 ( tội cưỡng đoạ tài sản xã hội chủ nghĩa ) và Điều 153 (tội cưỡng đoạt tài sản của công dân) Bộ luật hình sự năm 1985. So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 135 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều sửa đổi bổ sung, nhất là đối với các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, quy định cụ thể hơn, dễ áp dụng hơn. Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hai tọi danh khác nhau về cùng một hành vi cưỡng đoạt tài sản. Nay Bộ luật hình sự năm 1999 quy định thành một tội cưỡng đoạt tài sản, không phân biệt tài sản xã hội chủ nghĩa hay tài sản của công dân cũng là nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn mới.

Tội cưỡng đoạt tài sản quy định tại Điều 135 Bộ luật hình sự nói chung có khung hình phạt nặng hơn tội cưỡng đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 153 và nhẹ hơn tội cưỡng đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 130 Bộ luật hình sự năm 1985.

Về cơ cấu, tội cưỡng đoạt tài sản tài sản quy định tại Điều 135 Bộ luật hình sự được cấu tạo thành 5 khoản ( Điều 130 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ có 3 khoản, còn Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ có 2 khoản).

Nhà làm luật quy định thêm nhiều tình tiết là yếu tố định khung hình phạt  mà Điều 130 và Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định, như phạm tội có tổ chức; phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng; giá trị tài sản được lượng hoá bằng một số tiền cụ thể mà không quy định tài sản có giá trị lớn như trước

Hình phạt bổ sung cũng được quy định ngay trong điều luật.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

  1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội cưỡng đoạt tài sản cũng tương tự như đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự , người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 135, vì khoản 1 Điều 135 là tội phạm nghiêm trọng và theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; khoản 1 Điều 135 chỉ là tội phạm nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là năm năm tù.

Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội cưỡng đoạt tài sản cần chú ý độ tuổi của người phạm tội và các tình tiết định khung hình phạt. Nếu người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 135 Bộ luật hình sự thì chỉ cần xác định người phạm tội đã đủ 14 tuổi là đã phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng nếu người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 135 Bộ luật hình sự thì người phạm tội phải đủ 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự.

  1. Các dấu hiệu về khách thể của tội phạm

Khách thể của tội cưỡng đoạt tài sản cũng tương tự như tội cướp tài sản và tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tức là  cùng một lúc xâm phạm đến hai khách thể ( quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân), nhưng chủ yếu là quan hệ tài sản. Nếu có xâm phạm đến quan hệ nhân thân thì không phải là những thiệt hại về thể chất (tính mạng, thương tật), mà chỉ có thể là những thiệt hại về tinh thần ( sự sợ hãi, lo âu), tuy có ảnh hưởng đến sức khoẻ nhưng không gây ra thương tích cho người bị hại; tính chất và mức độ xâm phạm đến quan hệ nhân thân ít nghiêm trọng hơn nhiều so với tội cướp tài sản hoặc tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.

  1. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan

Người phạm tội cưỡng đoạt tài sản có thể thực hiện một trong những hành vi khách quan sau:

– Hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực

Đe doạ sẽ dùng vũ lực là hành vi có thể dược thực hiện bằng cử chỉ, hành động hoặc bằng lời nói, nhưng dù được thực hiện bằng hình thức nào thì việc dùng vũ lực cũng không xảy ra ngay tức khắc. Đây là dấu hiệu chủ yếu để phân biệt với tội cướp tài sản quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự. Trong thực tế, có những trường hợp người bị hại bị người phạm tội đe doạ sẽ dùng vũ lực nếu không giao tài sản cho người phạm tội nhưng người bị hại không sợ và không giao tài sản cho người phạm tội, sau đó người phạm tội đã thực hiện hành vi vũ lực đối với người bị hại thì cũng không phải là hành vi cướp tài sản mà vẫn là hành vi cưỡng đoạt tài sản. Ví dụ: Tạ Phú C đã có hành vi đe doạ cháu Nguyễn Thị O là học sinh lớp 6 nếu không đưa cho C  50.000 đồng thì ngày mai đi học sẽ bị đánh. Cháu O rất lo sợ nhưng không biết lấy đâu ra 50.000 đồng đưa cho C, nên hôm sau cháu O rủ thêm bốn bạn khác cùng đi để nếu C có gây sự thì đã có các bạn can thiệp. Hôm sau, cháu O cùng các bạn trên đường đi đến trường thì bị C chặn đường đánh vì cháu O không thực hiện yêu cầu của C, các bạn cùng đi với  cháu O đã kịp báo cho lực lượng bảo vệ bắt C. Việc C thực hiện lời đe doạ của mình đối người bị hại nhưng không vì thế mà cho rằng hành vi của C là hành vi phạm tội cướp tài sản, vì sau khi đe doạ sẽ dùng vũ lực đối với cháu O nếu cháu không giao tài sản thì hành vi cưỡng đoạt tài sản của C đã hoàn thành, còn việc C đánh cháu O thật là hậu quả do hành vi cưỡng đoạt tài sản của C gây ra cho cháu O chức không phải là hành vi nhằm chiếm đoạt tài sản của cháu O. Tuy nhiên, nếu trước hoặc trong khi đánh cháu O, C vẫn yêu cầu cháu O phải đưa tiền cho C, thì hành vi cưỡng đoạt tài sản của C đã chuyển hoá thành hành vi cướp tài sản và trong trường hợp này C sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự.

Nói chung, người phạm tội chỉ đe doạ dùng vũ lực, nếu người bị hại không giao tài sản thì người phạm tội cũng không dùng vũ lực. Tuy nhiên cũng không loại trừ trường hợp người phạm tội vẫn thực hiện lời đe doạ của mình để trả thù như trường hợp Tạ Phú C đối với cháu O nêu trên.

Nếu người phạm tội đe doạ sẽ dùng vũ lực và nói rõ ý định của mình buộc người có trách nhiệm về tài sản phải giao tài sản cho người phạm tội trong một thời gian nhất định thì việc xác định hành vi phạm tội của họ dễ dàng hơn nhiều so với trường hợp người phạm tội đe doạ sẽ dùng vũ lực trực tiếp đối với người có trách nhiệm về tài hoặc đối với người khác để buộc họ phải giao tài sản cho người phạm tội. Đây cũng là trường hợp thực tiễn xét xử dễ nhầm lẫn với tội cướp tài sản, bởi vì nếu xác định người phạm tội đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc thì đó là hành vi phạm tội cướp tài sản. Ví dụ: Võ Công L thấy em Trần Mai H 10 tuổi có đeo dây chuyền vàng, L rủ em H đi vào công viên Lê-nin để chơi. Khi đi qua chỗ vắng, L nói với cháu H cởi dây chuyền đưa cho y nếu không sẽ bị đẩy xuống hồ, em H sợ định bỏ chạy thì L kéo em H lại rồi dùng tay giật chiếc dây chuyền của em H và doạ nếu kêu sẽ bóp cổ, rồi y bỏ đi. Nếu xác định người phạm tội chỉ đe doạ sẽ dùng vũ lực chứ không có căn cứ cho rằng người phạm tội dùng vũ lực ngay tức khắc nếu người có trách nhiệm về tài sản không giao tài sản cho người phạm tội thì đó là hành vi cưỡng đoạt tài sản. Ví dụ: Đào Văn T đang ngồi uống Cà phê trong quán nhìn thấy cháu Hoàng Kim D có đeo một chiếc đồng hồ loại đắt tiền liền nảy ý định chiếm đoạt; T đến gần cháu D dăm doạ: “Cởi đồng hồ đưa cho tao nếu không ăn đòn”, cháu D hoảng sợ  chạy ra ngoài và hô cướp! cướp! Thấy em D hô cướp, T liền bỏ chạy nhưng mọi người trong quán đuổi bắt được y.

Người phạm tội có thể đe doạ sẽ dùng vũ lực đối với người có trách nhiệm về tài sản nhưng cũng có thể đe doạ sẽ dùng vũ lực đối với người khác ( chủ yếu là đối với người thân của người có trách nhiệm với tài sản ). Ví dụ: Lê Minh Th viết thư cho chị Trần Thị Thu H với nội dung: “Nếu không giao cho Th 20.000.000 đồng thì Th sẽ chặn đường đánh cháu Trần Đức Tr hoặc sẽ bắt cóc cháu Tr đem bán ra nước ngoài”. Vì sợ Th thực hiện lời đe doạ nên chị H đã phải giao cho Th số tiền mà Th yêu cầu.

-Những thủ đoạn người phạm tội dùng để uy hiếp tinh thần người bị hại nằm chiếm đoạt tài sản

Ngoài hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực đối với người có trách nhiệm về tài sản nhằm chiếm đoạt tài sản, thì người phạm tội còn có thể thực hiện những thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản để chiếm đoạt tài sản.

Thông thường người phạm tội dùng những thủ đoạn như:

– Doạ sẽ huỷ hoại tài sản nếu người có trách nhiệm về tài sản không giao tài sản cho người phạm tội. Ví dụ: Doạ sẽ đốt nhà, đốt xe; doạ sẽ đập phá nhà, đập phá xe hoặc những tài sản khác…

– Doạ sẽ tố cáo hành vi sai phạm hoặc những bí mật đời tư của người có trách nhiệm về tài sản mà họ không muốn cho ai biết. Ví dụ: A biết B có ngoại tình với chị H, nên A viết thư yêu cầu B phải giao cho y một số tiền, nếu không y sẽ nói cho vợ của B biết về việc ngoại tình của B.

– Bịa đặt, vu khống người có trách nhiệm về tài sản. Ví dụ: Trần Tuấn A là phóng viên một tờ báo của một ngành, viết một bài vu khống đồng chí Nguyễn Văn T là Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện đã quan hệ bất chính với chị Trần Thị M là nhân viên văn thư của huyện. Tuấn A không gửi bài đăng báo mà giử cho đồng chí T với lời yêu cầu bóng gió “anh nên thu xếp cho êm” và gọi điện thoại gợi ý cho đồng chí T chi một số tiền, y sẽ “dẹp yên” chuyện này. Mặc dù không có việc quan hệ bất chính với chị M, nhưng vì sợ nếu A cho đăng bài báo thì uy tín của mình bị ảnh hưởng, nhất là sắp đến kỳ bầu cử lại Hội đồng nhân dân huyện, nên đồng chí T đã phải giao cho A một khoản tiền. Sau khi nhận được tiền, Tuấn A thấy có thể tiếp tục tống tiền được đồng chí T nên lại  gọi điện yêu cầu  đồng chí giao thêm tiền để lo việc, nhưng đồng chí T đã tố cáo hành vi tống tiền của A.

 – Giả danh là cán bộ, chiến sĩ Công an, Quân đội, Thuế vụ, Hải quan… để kiểm tra, bắt giữ, khám người có trách nhiệm về tài sản buộc họ phải giao nộp tiền hoặc tài sản. Ví dụ: Bùi Huy T, Vũ Văn Đ và Hoàng Văn H đã giả danh Cảnh sát giao thông để chặn xe tải do anh Đinh Văn Th lái, buộc anh Th phải nộp một số tiền nếu không sẽ đưa xe về trụ sở. Vì anh Th chở hàng tươi sống nếu để chúng đưa xe về trụ sở thì sẽ hỏng hết hàng nên anh Th đã giáo cho bọn chúng một số tiền.

Cưỡng đoạt tài sản là hành vi được thực hiện một cách công khai, trắng trợn. Tuy nhiên, sự công khai trắng trợn chủ yếu đối với người có trách nhiệm về tài sản, còn đối với những người khác, người phạm tội không quan tâm, nếu hành vi phạm tội được thực hiện ở nơi công cộng, người phạm tội chỉ công khai trắng trợn với người có trách nhiệm về tài sản còn những người khác thì người phạm tội lại có ý thức lén lút.

Hậu quả

Tội cưỡng đoạt tài sản là tội có cấu thành hình thức, điều này được thể hiện ngay điều văn của điều luật “nhằm chiếm đoạt tài sản”, do đó cũng như đối với tội cướp tài sản và tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt, hậu quả  không phải là yếu tố bắt buộc để định tội, nếu người phạm tội chưa gây ra hậu quả nhưng có ý thức chiếm đoạt và đã thực hiện hành vi đe dạo sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản là tội phạm đã hoàn thành. Tuy nhiên, nếu gây ra hậu quả thì tuỳ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm mà người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt nặng hơn hoặc là tình tiết xem xét khi quyết định hình phạt.

Nếu hậu quả chưa xảy ra ( người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản) thì cũng không vì thế mà cho rằng tội cưỡng đoạt tài sản được thực hiện ở giai đoạn chưa đạt, vì người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan đó là đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc đã dùng thủ đoạn uy hiếp tinh thần người có trách nhiệm đến tài sản. Tuy nhiên, nếu người phạm tội chưa thực hiện hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc chưa dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người có trách nhiệm về tài sản, thì hành vi phạm tội thuộc trường hợp chuẩn bị phạm tội. Ví dụ: A, B, C bàn bạc sẽ viết thư đe doạ D nhằm buộc D phải giao cho cúng một số tiền, nhưng chưa viết thư hoặc dã viết thư rồi nhưng chưa gửi cho D thì bị phát hiện. Theo quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự thì người chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, do đó chỉ người chuẩn bị phạm tội cưỡng đoạt tài sản theo khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 135 Bộ luật hình sự mới phải chịu trách nhiệm hình sự, vì khoản 1 Điều 135 không phải là tội phạm rất nghiêm trọng.

Do cấu tạo của Điều 135 Bộ luật hình sự không có quy định trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ của người khác là tình tiết định khung hình phạt. Do đó, nếu người phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người bị hại hoặc của người khác thì tuy từng trường hợp mà người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoe của người khác theo Điều 104 Bộ luật hình sự. Ví dụ: Sau khi đã cưỡng đoạt được tài sản, người phạm tội bỏ đi thì bị phát hiện nên đã dùng vũ lực tấn công người bị hại hoặc người đuổi bắt gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ cho những người này.

  1. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm

Cũng như đối với tội cướp tài sản và tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản cũng được thực hiện do cố ý. Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Nếu hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người có trách nhiệm về tài sản lại nhằm một mục đích khác mà không nhằm chiếm đoạt tài sản thì không phải là tội cưỡng đoạt tài sản mà tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội phạm tương ứng khác. Ví dụ: Để thù anh Đinh Văn Q, nên Đỗ Cao Th đã viết đơn vu khống anh Q  dùng bằng tốt nghiệp phổ thông giả nhằm ngăn cản việc anh Q sắp được đề bạt. Hành vi của Đỗ Cao Th là hành vi phạm tội vu khống quy định tại Điều 122 Bộ luật hình sự.

Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội có thể có trước khi thực hiện hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người có trách nhiệm về tài sản, nhưng cũng có thể xuất hiện trong hoặc sau khi đã thực hiện hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người có trách nhiệm về tài sản. Ví dụ: Trong trường hợp của Đỗ Cao Th nêu trên, nếu sau khi đã viết đơn vu khống, Đỗ Cao Th lại có yêu cầu anh Q phải giao cho y một khoản tiền thì y mới rút đơn bãi nại cho anh Q thì hành vi của Th đã chuyển hoá từ tội vu khống thành tội cưỡng đoạt tài sản.

 Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc để xác định tội danh. Tuy nhiên, ngoài mục đích chiếm đoạt, người phạm tội còn có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hoặc chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản. Ví dụ: Nguyễn Tiến D, có thù với anh Trịnh Quốc H nên D đã rủ Đỗ Văn S và Lê Thị T viết thư cho vợ anh H vu khống anh H có quan hệ bất chính với một cô sinh viên để trả thù, nhưng khi bàn với S và T thì S và T nói : “Chúng tao cần tiền”. Sau khi đã viết thư vu khống anh H, S và T điện thoại cho anh H phải nộp 50.000.000 đồng nếu không sẽ gửi tiép thư cho cơ quan anh H, D biết việc làm của S và T nhưng không nói gì. Trong trường hợp này, lúc đầu Nguyễn Tiến D chỉ có ý định trả thù anh H, nhưng khi bàn với đồng bọn, D đã tiếp nhận mục đích của S và T, nên D cũng phải chịu trách nhiệm về tội cưỡng đoạt đoạt tài sản cùng với S và T.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Phạm tội cưỡng đoạt tài sản không có các tình tiết định khung hình phạt

Theo quy định tại khoản 1 Điều 135 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội cưỡng đoạt tài sản không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 135 có thể bị phạt từ một năm đến năm năm tù. Khoản 1 Điều 135 Bộ luật hình sự là cấu thành cơ bản của tội cưỡng đoạt tài sản, là tội phạm  nghiêm trọng. So với tội cưỡng đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 1 Điều 135 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng không nặng hơn và cũng không nhẹ hơn khoản 1 Điều 130 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội cưỡng đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, đối với hành vi phạm tội cưỡng đoạt tài sản của công dân xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau ngày 4-1-2000 ( ngày Chủ tịch nước công bố Bộ luật hình sự năm 1999), mới phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì không được áp dụng khoản 1 Điều 135 Bộ luật hình sự năm 1999, nhưng đối với hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000  mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện, xử lý thì không được áp dụng Điều 135 Bộ luật hình sự 1999 để điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội mà phải áp dụng Điều 130 Bộ luật hình sự năm 1985, vì theo khoản 1 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 thì điều luật được áp dụng đối với hành vi phạm tội là điều luật đang có hiệu lực thi hành tại thời điểm mà hành vi phạm tội được thực hiện, nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 7. Tuy nhiên, tại mục 4 Thông tư liên tịch số 02/2000 TTLT của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an đã hướng dẫn: “Đối với những Tội phạm đã được quy định trong một điều luật của Bộ luật hình sự năm 1985, nay theo cách so sánh tại các điểm từ điểm b1 đến điẻm b6 Mục 2 và tại các điểm từ điểm d1 đến điểm d6 Mục 3 Thông tư này mà vẫn giữ nguyên trong điều luật tương ứng của Bộ luật hình sự 1999, thì áp dụng điều luật của Bộ luật hình sự năm 1999 để truy cứu trách nhiệm hình sự. Hướng dẫn này không đúng với quy định tại khoản 1 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999, đề nghị các cơ quan ban hành Thông tư này cần sửa đổi để phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999.

Khoản 1 Điều 135 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là năm năm tù.  Theo quy định tại điểm d Mục 3 Nghị quyết 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội, thì không xử lý về hình sự đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đến bảy năm tù; nếu vụ án đang được điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trong trường hợp người đó đã bị kết án và đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; nếu người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án, thì được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt và tại điểm b Mục 3 Nghị quyết 229/2000/NQ-UBTVQH10 ngày 28-1-2000 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội  quy định: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu Bộ luật hình sự năm 1999 quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 7 năm tù đối với tội phạm mà người đó thực hiện” thì  thuộc trường hợp được áp dụng điểm d Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội. Theo các Nghị quyết trên, thì người phạm tội cưỡng đoạt tài sản của công dân xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1985, nay khoản 1 Điều 135 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có khung hình phạt từ một năm đến năm năm tù nên được áp dụng điểm d Mục 3 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội cưỡng đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 135 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu các tình tiết khác như nhau thì mức hình phạt đối với người phạm tội phu thuộc vào những yếu tố sau:

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có ít hoặc không có tình tiết tăng nặng;

– Người phạm tội không có tình tiết giảm nhẹ phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ được phạt nhẹ hơn người có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội chiếm đoạt được tài sản phải bị phạt nặng hơn người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản; tài sản bị chiếm đoạt càng nhiều, hình phạt càng nặng.

– Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt có thể được áp dụng dưới mức một năm tù hoặc được chuyển sang loại hình phạt khác nhẹ hơn; nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì cũng có thể được hưởng án treo.

  1. Cưỡng đoạt tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 135 Bộ luật hình sự

Có tổ chức

Trường hợp phạm tội này tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, các dấu hiệu về phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với phạm tội cưỡng đoạt tài sản có tổ chức còn có những đặc điểm riêng sau:

Người thực hành là người trực tiếp thực hiện hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc trực tiếp dùng những thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm về tài sản; chuyển lời đe doạ, thư từ hoặc những tài liệu có nội dung uy hiếp tinh thần đến chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm về tài sản; tiếp nhận tài sản do chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm về tài sản giao cho người phạm tội …

Người thực hành trong vụ án cưỡng đoạt tài sản cũng có thể có hành vi thái quá trong quá trình thực hiện tội phạm. Ví dụ: A, B, C bàn bạc giao cho C đến nhà chị H đe doạ chị H phải chia cho chúng một phần tiền trúng thưởng xổ số nếu không chúng sẽ nói với chồng của chị H về việc chị H có quan hệ bất chính với anh T. Khi C đến thực hiện kế hoạch mà chúng đã bàn bạc từ trước, thì bị chị H khước từ và thách thức sẽ báo cho Công an biết về hành vi tống tiền của bọn chúng. Một phần vì sợ bị phát hiện, một phần vì muốn chiếm đoạt được tiền của chị H nên C đã rút dao trong người khống chế chị H buộc chị H phải mở tủ lấy tiền đưa cho C. Trong lúc chị H đang mở tủ thì lực lượng cảnh sát đã kịp thời đến bắt  C. Trong trường hợp này, hành vi của C không còn là hành vi dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần chị H như lúc đầu chúng đã bàn mà đã trở thành hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc nên hành vi của C là hành vi thái quá của người thực hành, C bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản còn A và B bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản.

Tuy nhiên, nếu hành vi thái quá đó chỉ nhằm thực hiện hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực mà những người đồng phạm khác mong muốn thì hành vi thái quá của người thực hành tất cả những đồng phạm khác phải chịu. Ví dụ: Nguyễn Tất N, Lê Văn T và Nguyễn Xuân H bàn bạc thống nhất viết thư cho chị Trần Thị X với nội dung: “nếu đúng 5 giờ ngày mai không giao cho chúng 4 lượng vàng 9999 thì chúng sẽ đưa bức ảnh mà chúng đã chụp lén được cảnh chị X cùng với anh Nguyễn Văn B đang ôm hôn nhau cho chồng chị X” . Theo kế hoạch, thì Lê Văn T có nhiệm vụ chuyển thư cho chị X và cho chị X xem bức ảnh mà chúng chụp lén được. Nhưng khi T đưa thư và ảnh cho chị X xem, chị X không hề tỏ ra lo sợ mà còn nói với T: “ Các chú không doạ nổi tôi đâu ! tôi và chồng tôi đã ly hôn rồi và tôi sắp kết hôn với người trong ảnh”. Thấy không doạ được chị X, T liền nghĩ ngay ra một cách khác là doạ chị X: “nếu chị không đưa tiền thì con trai chị sẽ bị bắt cóc”. Chị X không sợ lời đe doạ về bức ảnh nhưng lại lo sợ con trai mình bị bắt cóc, nên đã hứa với T đúng 5 giờ ngày mai chúng sẽ nhận đựơc vàng. Sau khi T đi khỏi, chị X đã nhờ lực lượng cảnh sát can thiệp nên N, T và H đều bị bắt. Trong trường hợp này tuy T có hành vi thái quá nhưng hành vi này không nhằm mục đích chung mà các đồng phạm khác đặt ra và hành vi thái quá của T cũng là dấu hiệu của tội cưỡng đoạt tài sản nên N và H vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi thái quá của T.

Người tổ chức trong vụ án cưỡng đoạt tài sản cũng tương tự như đối với người tổ chức trong các vụ án khác, họ cũng là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc cưỡng đoạt tài sản. Tuy nhiên, người tổ chức trong vụ án cưỡng đoạt tài sản chủ yếu là người vạch kế hoạch, chỉ huy việc thực hiện kế hoạch uy hiếp tinh thần của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm về tài sản.

Người xúi giục trong vụ án cưỡng đoạt tài sản là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người đồng phạm khác thực hiện tội phạm. Thực tiễn xét xử cho thấy, người xúi giục trong vụ án cưỡng đoạt tài sản thường là những người có mâu thuẫn với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm về tài sản, nhưng không có khả năng tổ chức, thực hiện hành vi đe doạ sẽ dùng vũ cũng như không có khả năng tự mình dùng những thủ đoạn nhằm uy hiếp tinh thần của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm về tài sản nên xúi dục người khác thực hiện việc cưỡng đoạt, đồng thời có một số hành vi giúp sức cho việc thực hiện tội phạm như: chỉ mặt, chỉ nhà, cung cấp quy luật đi về của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm về tài sản cho đồng bọn… Tuy nhiên, trong một số trường hợp, người xúi giục trong vụ án cưỡng đoạt tài sản đồng thời là người tổ chức.

Người giúp sức trong vụ án cưỡng đoạt tài sản là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn nhằm uy hiếp tinh thần của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm về tài sản  như: cho đồng bọn dùng điện thoại của mình để gọi điện cho chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm về tài sản; chuyển thư, nhắn tin cho chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm về tài sản về nội dung lời đe doạ; nhận tiền hoặc tài sản của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm về tài sản chuyển giao cho đồng bọn…

Có tính chất chuyên nghiệp

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm b khoản 2 Điều 133 và điểm b khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự, nhưng trường hợp phạm tội này là trường hợp cưỡng đoạt tài sản có tính chất chuyên nghiệp.

Cưỡng đoạt có tính chất chuyên nghiệp là trường hợp người phạm tội chủ yếu lấy việc cưỡng đoạt tài sản  là nguồn sống chính của bản thân và gia đình mình, nếu người phạm tội lấy việc phạm tội là nguồn sống chính, nhưng mới phạm tội cưỡng đoạt tài sản một lần thì không thuộc trường hợp cưỡng đoạt tài sản có tính chất chuyên nghiệp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 135 Bộ luật hình sự mà thuộc trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

Tái phạm nguy hiểm

Trường hợp phạm tội này hoàn toàn tương tự như trường hợp tái phạm nguy hiểm quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự và bất kỳ trường hợp tái phạm nguy hiểm nào được quy định trong Bộ luật hình sự. Các dấu hiệu về tái phạm nguy hiểm được quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, phạm tội cưỡng đoạt tài sản trong trường hợp tái phạm nguy hiểm khi:

– Người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội cưỡng đoạt tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 135 Bộ luật hình sự, nếu chỉ phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 135 Bộ luật hình sự thì chưa thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm vì khoản 1 Điều 135 Bộ luật hình sự không phải là tội phạm rất nghiêm trọng.

– Người phạm tội đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội cưỡng đoạt tài sản không phân biệt phạm tội thuọc trường hợp quy định tại khoản nào của Điều 135 Bộ luật hình sự.

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như các trường hợp phạm tội quy định tại điểm e khoản 2 Điều 133; điểm h khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự. Việc chiếm đoạt được hay không, không phải là dấu hiệu bắt buộc để xác định trường hợp phạm tội này mà chỉ cần chứng minh người phạm tội có ý định chiếm đoạt số tiền từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng là người phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điẻm d khoản 2 Điều 135 Bộ luật hình sự rồi.

Gây hậu quả nghiêm trọng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm g khoản 2 Điều 133; điểm i khoản 2 Điều 134, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này là hậu quả nghiêm trọng là do hành vi phạm tội cưỡng đoạt tài sản gây ra.

Cưỡng đoạt tài sản gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp do hành vi phạm tội cưỡng đoạt tài sản nên đã gây ra những thiệt hại khác ngoài những thiệt hại đã được quy định là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt. Những thiệt hại này gọi chung là “hậu quả nghiêm trọng”.

Cũng như các trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng khác, hậu quả nghiêm trọng do hành vi cưỡng đoạt tài sản gây ra cũng phải tương đương với các tình tiết định khung quy định tại khoản 2 Điều 135 Bộ luật hình sự vì nó cũng là một tình tiết định khung hình phạt được quy định trong một khung. Căn cứ vào các quy định tại Điều 135 Bộ luật hình sự, qua thực tiến xét xử có thể coi những thiệt hại sau là hậu quả nghiêm trọng do hành vi phạm tội cưỡng đoạt tài sản gây ra:

– Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 40%;

– Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa đến 21% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người đó cộng lại từ 21% đến 40%;

– Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật dưới 21% và còn gây thiệt hại vè tài sản có giá trị dưới 50.000.000 đồng;

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, nhưng không phải là tài sản bị chiếm đoạt;

– Ngoài những thiệt hại về về tính mạng, sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi cưỡng đoạt tài sản gây ra, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho nhiều người trên một địa bàn nhất định, làm cho nhiều người vì quá sợ hãi nên phải bỏ học, bỏ việc làm, không dám lao động sản xuất, không dám buôn bán.v.v… Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 135 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ ba năm đến mười năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:

 Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới ba năm tù) nhưng không được dưới một năm tù. Việc cho người phạm tội được hưởng án treo phải rất thận trọng và phải đảm bảo đúng các quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

– Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 135 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 135 Bộ luật hình sự;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;

 – Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.

  1. Cưỡng đoạt tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 135 Bộ luật hình sự

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm d khoản 2 Điều 135 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ tài sản bị chiếm đoạt ở mức từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng. Đây là giá trị tài sản bị chiếm đoạt rất lớn và cũng như trường hợp phạm tội quy định tại điểm d khoản 2 Điều 135 Bộ luật hình sự, chỉ cần xác định người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng chứ không nhất thiết phải xác định người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa.

Gây hậu quả rất nghiêm trọng

Trương hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 135 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ hậu quả mà người phạm tội gây ra trong trường hợp này là hậu quả rất nghiêm trọng. Cũng như đối với các trường hợp phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng khác, hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi cưỡng đoạt tài sản gây ra cũng phải tương đương với các tình tiết định khung quy định tại khoản 3 Điều 135 Bộ luật hình sự vì nó cũng là một tình tiết định khung hình phạt được quy định trong một khung. Căn cứ vào các quy định tại Điều 135 Bộ luật hình sự và thực tiễn xét xử có thể coi những thiệt hại sau đây là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi phạm tội cưỡng đoạt gây ra:

– Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 41% đến 60%;

– Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa đến 41% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người đó cộng lại từ 41% đến 60%;

– Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật dưới 41% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị dưới 200.000.000 đồng;

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, nhưng không phải là tài sản bị chiếm đoạt;

– Ngoài những thiệt hại về sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi cưỡng đoạt tài sản gây ra, như ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng rất xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho rất nhiều người trên một địa bàn nhất định, làm cho rất nhiều người vì quá sợ hãi nên phải bỏ học, bỏ việc làm, không dám lao động sản xuất, không dám buôn bán.v.v… Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 135 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, cũng là tội phạm rất nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:

Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới bảy năm tù) nhưng không được dưới ba năm tù.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

– Người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 135 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 135 Bộ luật hình sự;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;

 – Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.

  1. Cưỡng đoạt tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 135 Bộ luật hình sự

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm d khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 135 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ tài sản bị chiếm đoạt ở mức từ năm trăm triệu đồng trở lên. Đây là giá trị tài sản bị chiếm đoạt đặc biệt lớn và cũng như trường hợp phạm tội quy định tại điểm d khoản 2 và điểm a khoản 3  Điều 135 Bộ luật hình sự, chỉ cần xác định người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên chứ không nhất thiết phải xác định người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa.

Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng

Trương hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm đ khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 135 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ hậu quả mà người phạm tội gây ra trong trường hợp này là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi cưỡng đoạt tài sản gây ra cũng phải tương đương với các tình tiết định khung quy định tại khoản 4 Điều 135 Bộ luật hình sự vì nó cũng là một tình tiết định khung hình phạt được quy định trong một khung. Căn cứ vào các quy định tại Điều 135 Bộ luật hình sự, qua thực tiễn xét xử có, thể coi những thiệt hại sau đây là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi phạm tội cưỡng đoạt tài sản gây ra:

– Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;

– Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa đến 61% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người đó cộng lại từ 61% trở lên;

– Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật dưới 61% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị dưới 500.000.000 đồng;

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500.000.000 đồng trở lên, nhưng không phải là tài sản bị chiếm đoạt;

– Ngoài những thiệt hại về về tính mạng, sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi cưỡng đoạt tài sản gây ra, như ảnh hưởng đặc biệt xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng đặc biệt xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho rất nhiều người trên một địa bàn nhất định, làm cho rất nhiều người vì quá sợ hãi nên phải bỏ học, bỏ việc làm, không dám lao động sản xuất, không dám buôn bán.v.v… Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 135 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý:

Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới mười hai năm năm tù) nhưng không được dưới bảy năm tù.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

– Người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 135 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 135 Bộ luật hình sự;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;

 – Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chưa bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.

  1. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội cưỡng đoạt tài sản

Theo quy định tại khoản 5 Điều 135 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội cưỡng đoạt tài sản còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

So với tội cưỡng đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 130 và tội cưỡng đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hình phạt bổ sung đối với tội cưỡng đoạt tài sản quy định tại Điều 135 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều điểm được sửa đổi bổ sung.

Bỏ hình phạt quản chế hoặc cấm cư trú

Hình phạt tiền là loại hình phạt mới được quy định đối với người phạm tội cưỡng đoạt tài sản, mức phạt tiền là từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng. Có thể nói, đây là khung hình phạt tiền đối với người phạm tội cưỡng đoạt tài sản. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội cưỡng đoạt tài sản thì không được phạt trên một trăm triệu đồng, nhưng nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì có thể phạt dưới mười triệu đồng nhưng không được dưới một triệu đồng vì theo quy định tại khoản 3 Điều 30 Bộ luật hình sự mức phạt tiền không được dưới một triệu đồng.

Việc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản của người phạm tội cưỡng đoạt tài sản phải chú đến các quy định tại Điều 40 Bộ luật hình sự về loại hình phạt này. Chỉ tịch thu tài sản thuộc quyền sở hữu của người phạm tội, không tịch thu các loại tài sản là đồ trang sức, vật kỷ niệm của người phạm tội. Nếu tịch thu toàn bộ tài sản thì vẫn phải để cho người phạm tội và gia đình họ có điều kiện sinh sống.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI MUA BÁN, ĐÁNH TRÁO HOẶC CHIẾM ĐOẠT TRẺ EM (ĐIỀU 120)

Đây là tội phạm bao gồm nhiều hành vi phạm tội độc lập với nhau nhưng cùng xâm phạm đến một đối tượng, đó là trẻ em. Loại tội phạm này cũng tương tự nhưột só tội phạm khác quy định trong Bộ luật hình sự, nhà làm luật quy định nhiều hành vi phạm tội tương tự với nhau về tính chất mức đọ nguy hiểm cho xã hội trong cùng một điều luật, nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm. Thực tiễn xét xử cho thấy nhiều vụ án, người phạm tội vừa có hành vi chiếm đoạt, vừa có hành vi mua bán, lại vừa có hành vi đánh tráo trẻ em, nếu tách các hành vi đó ra để truy cứu trách nhiệm hình sự về từng tội phạm riêng thì cũng không thoả đáng, nên nhà làm luật quy định chung trong cùng một điều luật để tuỳ từng trường hợp cụ thể, các cơ quan tiến hành tố tụng vận dụng cho phù hợp.

Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em là tội phạm trước đây được quy định tại Điều 149 Bộ luật hình sự năm 1985 thuộc Chương các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình và các tội phạm đối với người chưa thành niên, với tên tội danh là “tội bắt trộm, mua bán hoặc đánh tráo trẻ em”. Nay được đưa về chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người với tên tội danh là “tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em” là hoàn toàn chính xác về kỹ thuật lập pháp và thực tiễn xét xử. Vì, tội phạm này đích thực xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người mà người bị xâm phạm là trẻ em. Nếu trước đây chỉ quy định hành vi bắt trộm trẻ em, nhưng thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp người phạm tội không bắt trộm mà dùng nhiều thủ đoạn, thậm chí dùng cả vũ lực để bắt trẻ em, nên nhà làm luật thay từ bắt trộm trẻ em thành từ chiếm đoạt trẻ em là hoàn toàn chính xác.

CÁC DẤU HIỆU CỦA TỘI PHẠM

  1. Đối với người phạm tội

Theo điều văn của điều luật thì “người nào mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em dưới bất kỳ hình thức nào” đều bị coi là tội phạm. Quy định này cần hiểu là:

– Mua bán trẻ em là hành vi coi trẻ em như một món hàng để trao đổi lấy tiền hoặc lợi ích vật chất khác. Như vậy, hành vi mua bán trẻ em cũng giống như hành vi mua bán phụ nữ. Tuy nhiên, mục đích của việc mua bán trẻ em có những trường hợp xuất phát từ tình cảm. Ví dụ: Vì không có con nên vợ chồng anh D chị K đã mua một bé gái về làm con nuôi hoặc vì phong tục tập quán như: Do không có con trai, nên vợ chồng anh T chị N đã mua một bé trai về làm con nuôi đẻ có người nỗi dõi tổ tiên. Có trường hợp lại do mê tín dị đoan cho rằng phải nuôi một bé trai thì vợ chồng mới sinh được con trai, nên vợ chồng anh B chị H đã mua một bé trai về nuôi để hy vọng mình sẽ sinh được con trai. v.v… chứ không hoàn toàn mang tính thương mại thuần tuý. Cho dùvới động cơ, mục đích nào thì hành vi mua bán trẻ em cũng đều bị pháp luật cấm và người có hành vi này vẫn bị coi là tội phạm.

– Đánh tráo trẻ em là dùng trẻ em này để đổi lấy một trẻ em khác theo ý muốn của mình. Việc đánh tráo này thường xảy ra trong các nhà hộ sinh, khi đứa trẻ sinh ra ngoài ý muốn của cha mẹ chúng như: mong muốn có con trai thì lại sinh ra con gái hoặc ngược lại. Hành vi đánh tráo có thể do chính bố mẹ đứa trẻ thực hiện nhưng cũng có thể do thầy thuốc hoặc nhân viên y tế trong Bệnh viện hoặc nhà hộ sinh thực hiện hoặc do người khác thực hiện.

– Chiếm đoạt trẻ em dưới bất kỳ hình thức nào là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực, dùng thủ đoạn gian dối, lén lút, công nhiên hoặc thủ đoạn khác để chiếm đoạt trẻ em. Chỉ có hình vi chiếm đoạt nhà làm luật mới quy định dưới bất kỳ hình thức nào, còn hành vi mua bán và hành vi đánh tráo không thể quy định mua bán hoặc đánh tráo dưới bất kỳ hình thức nào. Chiếm đoạt dưới bất kỳ hình thức nào là để phân biệt với trường hợp trước đây quy định bắt trộm trẻ em chỉ mới nói lên hình thức lén lút, còn thực tế có nhiều vụ án người phạm tội không chỉ bắt trộm mà còn dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực, dùng thủ đoạn gian dối… để bắt đứa trẻ.

Khi xác định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng cần căn cứ vào hành vi phạm tội cụ thể của người phạm tội để xác định tội danh đối với họ. Nếu người phạm tội chỉ có hành vi mua bán thì tội danh của họ là tội “mua bán trẻ em”, nếu hành vi của người phạm tội là hành vi chiếm đoạt thì định tội là “chiếm đoạt trẻ em”, nếu hành vi của người phạm tội là hành vi chiếm đoạt thì định tội là “chiếm đoạt trẻ em”.

Trường hợp người phạm tội có hai hành vi hoặc cả ba hành vi quy định trong điều luật thì tuỳ từng trường hợp có thể định tội ” mua bán và đánh tráo trẻ em “hoặc” mua bán, đánh tráo và chiếm đoạt trẻ em”, không nên định tội  “mua bán hoặc chiếm đoạt trẻ em” vì định tội như vậy, không biết người phạm tội có hành vi nào.

Trường hợp người phạm tội mua bán một trẻ em và chiếm đoạt một trẻ em khác thì truy cứu người phạm tội về hai tội danh khác nhau: tội mua bán trẻ em và  tội chiếm đoạt trẻ em và áp dụng Điều 50 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt như trong trường hợp một người phạm nhiều tội.

  1. Đối với người bị hại

Người bị hại là người dưới 16 tuổi. Tuổi của người bị hại là một tình tiết thuộc yếu tố khách quan không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của người phạm tội; chỉ cần xác định người bị hại là người dưới 16 tuổi mà người phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt là phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em rồi.

Nói chung đối với trường hợp trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, người phạm tội thường có hành vi mua bán, nhất là đối với những trẻ em gái, người phạm tội thường có hành vi mua bán, đối với trẻ em dưới 13 tuổi người phạm tội thường có hành vi mua bán để giao cho người khác, nhất là người nước ngoài làm con nuôi, đối với các trẻ em mới đẻ người phạm tội thường có hành vi chiếm đoạt, đánh tráo nhằm thoả mãn nhu cầu của mình hoặc của người khác.

Nếu trẻ em bị chiếm đoạt bằng hình thức bắt cóc làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự hình sự về tội bắt cóc nhằm chiếm doạt tài sản quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự mà không bị truy cứu về tội này.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt một trẻ em và không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự ( khoản 2 Điều 120)

Đây là trường hợp phạm tội không có các tình tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự và người phạm tội bị truy cứ trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 120 có khung hình phạt từ ba năm đến đến mười năm tù, là tội phạm rất nghiêm trọng, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, thì Toà án có thể áp dụng mức hình phạt ba năm tù, trường hợp áp dụng hình phạt dưới ba năm tù hoặc chuyển sang hình phạt khác nhẹ hơn phải hết sức thận trọng và là cá biệt.

  1. Phạm tội có tổ chức ( điểm a khoản 2 Điều 120)

Cũng như trường hợp phạm tội có tổ chức khác, mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em có tổ chức là trường hợp nhiều người tham gia, trong đó có người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy có người trực tiếp thực hiện tội phạm, có người xúi giục, hoặc giúp sức, nhưng tất cả đều chung một mục đích là làm thế nào để mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt được trẻ em. Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em có tổ chức là trường hợp phạm tội nguy hiểm hơn trường hợp phạm tội không có tổ chức, vì phạm tội có tổ chức do có sự phận công, cấu kết chặt chẽ giữa những người thực hiện tội phạm nên chúng dễ dàng thực hiện việc mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em và cũng dễ dàng che giấu hành vi phạm tội của mình.

  1. Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp ( điểm b khoản 2 Điều 120)

Cũng giốn như trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp khác, phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt được trẻ em có tính chất chuyên nghiệp là người phạm tội lấy việc mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt được trẻ em là nguồn sống chính cho mình.

Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là tình tiết thuộc đặc điẻm cá nhân người phạm tội, có thể có ở người phạm tội này mà không có ở người phạm tội khác. Trong vụ án co đồng phạm hoặc phạm tội có tổ chức có thể chỉ có một hoặc một số người thuộc trường hợp có tính chất chuyên nghiệp, chứ không phải tất cả những người đồng phạm đều phải chịu chung tình tiết có tính chất chuyên nghiệp với người phạm tội có tình tiết này.

  1. Phạm tội vì động cơ đê hèn ( điểm c khoản 2 Điều 120)

 Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em vì động cơ đê hèn cũng tương tự như trường hợp phạm tội vì động cơ đê hèn khác, chỉ khác ở chỗ, sự hèn hạ của người phạm tội lại không trực tiếp xâm phạm đến thể xác của người định trả thù mà thông qua hành mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt con em của người muốn trả thù, làm cho tinh thần của người mà người phạm tội muốn trả thù bị suy sụp. Ví dụ: Chỉ vì chị H không đồng ý kết hôn với T, nên T đã bắt con của chị H giấu ở một nơi rồi giả vờ tìm kiếm để gây cảm tình với chị H, để chị H đồng ý kết hôn với T. So với Điều 149 Bộ luật hình sự năm 1985 thì tình tiết này là tình tiết định khung tăng nặng mới được quy định, nên không áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.

  1. Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt nhiều trẻ em ( điểm d khoản Điều 120)

Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt nhiều trẻ em là trường hợp một người hoặc nhiều người một lần hoặc nhiều lần cộng lại đã mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt từ hai trẻ em trở lên. Do điều luật không quy định tình tiết “phạm tội nhiều lần” như đối với một số tội phạm khác nên cần phải hiều mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt nhiều trẻ em bao gồm cả trường hợp một lần và trường hợp nhiều lần, nhưng số lượng trẻ em bị mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt từ hai trẻ em trở lên là người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự. Khi áp dụng tình tiết này cần chú ý:

– Nếu một người mua bán một trẻ em và đánh tráo một trẻ em thì người phạm tội chỉ bị truy cứu về tội ” mua bán, đánh tráo trẻ em” với tình tiết ” mua bán, đánh tráo nhiều trẻ em;

– Nếu mua bán một trẻ em, đánh tráo một trẻ em và chiếm đoạt một trẻ em thì người phạm tội cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự nhưng tội danh phải ghi là “mua bán, đánh tráo và chiếm đoạt trẻ em”;

– Nếu mua bán nhiều lần và mỗi lần một trẻ em thì người phạm tội cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự với tình tiết ” mua bán nhiều trẻ em”;

– Nếu mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt nhiều lần, nhưng chỉ có một trẻ em bị mua bán, đánh tráo hoặc bị chiếm đoạt thì người phạm tội chỉ bị truy cứu theo khoản 1 Điều 120 Bộ luật hình sự.

  1. Để đưa ra nước ngoài ( điểm đ khoản 2 Điều 120)

Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em để đưa ra nước ngoài là trường hợp trước, trong hoặc sau khi mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt  trẻ em người phạm tội có ý định đưa đứa trẻ đó ra nước ngoài. Nếu đứa trẻ đó chưa bị đưa ra nước ngoài, nhưng nếu có căn cứ xác định người phạm tội có ý định đưa đứa trẻ ra nước ngoài, thìnpt vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm đ khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự với tình tiết “để đưa ra nước ngoài”.

Mục đích của việc đưa đứa trẻ ra nước ngoài làm gì, người phạm tội có thể biết và cũng có thể không biết (không buộc người phạm tội phải biết), nhưng nếu người phạm tội biết đưa đứa trẻ ra nước ngoài để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo hoặc vào mục đích mại dâm thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm e hoặc điểm g khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự.

  1. Để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo ( điẻm e khoản 2 Điều 120)

 ua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo là trường hợp sử dụng đứa trẻ bị mua bán, bị đánh tráo, bị chiếm đoạt vào mục đích trái với nhân đạo như: sử dụng đứa trẻ vào việc trộm cắp, lừa đảo, lao động cực nhọc để lấy tiền hoặc sử dụng đứa trẻ vào những mục đích tàn ác khác. So với Điều 149 Bộ luật hình sự năm 1985 thì tình tiết này là tình tiết định khung tăng nặng mới được quy định, nên không áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.

  1. Để sử dụng vào mục đích mại dâm (điểm g khoản 2 Điều 120)

Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em để sử dụng vào mục đích mại dâm là trường hợp sử dụng đứa trẻ bị mua bán, bị đánh tráo, bị chiếm đoạt vào việc mại dâm như: Mua các em gái về buộc phải bán dâm, bán các em gái cho các ổ mại dâm. Nếu người phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em để sử dụng vào việc chứa mại dâm hoặc môi giới mại dâm thì còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chứa mại dâm theo Điều 254  hoặc tội môi giới mại dâm theo Điều 255 Bộ luật hình sự. So với Điều 149 Bộ luật hình sự năm 1985 thì tình tiết này cũng là tình tiết định khung tăng nặng mới được quy định, nên không áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.

  1. Người phạm tội là người thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm (điểm h khoản 2 Điều 120)

Cũng tường tự như các trường hợp tái phạm nguy hiểm khác, người phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm là người đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em hoặc đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em.

Vì tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em là tội phạm rất nghiêm trọng ( khoản 1 Điều 120) là tội đặc biệt nghiêm trọng ( khoản 2 Điều 120). Do đó, nếu người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích hoặc đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em thì  người phạm tội theo khoản nào của Điều 120 cũng thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, nếu phạm tội có một trong các tình tiết quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g hoặc điểm i khoản 2 thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tình tiết định khung hình phạt là tái phạm nguy hiểm và các tình tiết tương ứng theo các điểm từ a đến g hoặc điểm i khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự .

  1. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng ( điểm i khoản 2 Điều 120)

Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp do hành vi phạm tội mà gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội như: làm cho đứa trẻ bị ốm đau dẫn đến tử vong; làm cho người thân của đứa trẻ phải bỏ công việc đi tìm đứa trẻ mất nhiều ngày, tốn kém đến thời gian, tiền bạc; làm ảnh hưởng lớn đến các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước như chính sách cho người nước ngoài nhận trẻ em nước ta làm con nuôi v.v…

Khi đánh giá hành vi mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em gây hậu quả nghiêm trọng cần căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xem xét một cách khách quan toàn diện tất cả các tình tiết của vụ án và hậu quả do hành vi mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em gây  ra  để xác định hậu quả của hành vi do người phạm tội thực hiện đã nghiêm trọng chưa.

Phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em thuộc các trường hợp: có tổ chức; có tính chất chuyên nghiệp; vì động cơ đe hèn; mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt nhiều trẻ em; đẻ đưa ra nước ngoài; để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo; đẻ sử dụng vào mục đích mại dâm; tái phạm nguy hiểm; gây hậu quả nghiêm trọng thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự có khung hình phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân. Đây là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, nếu người phạm tội chỉ có một tình tiết định khung hình phạt trong khi đó không có tình tiết tăng nặng mà lại có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì có thể được áp dụng hình phạt phạt dưới mười lăm năm tù, nhưng không được dưới ba năm tù, vì theo Điều 47 Bộ luật hình sự khi quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết định khung hình phạt lại có tình tiết tăng nặng, không có hoặc chỉ có một tình tiết giảm nhẹ thì không được quyết định mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt. So với khoản 2 Điều 149 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khung hình phạt quy định ở khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự năm 1999 là nặng hơn, nên không áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.

Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm hoặc phạt quản chế từ một năm đến năm năm theo khoản 3 Điều 120 Bộ luật hình sự. So với Điều 150 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hình phạt bổ sung quy định tại khoản 3 Điều 120 Bộ luật hình sự năm 1999 là quy định không có lợi cho người phạm tội, bởi vì theo Điều 150 Bộ luật hình sự năm 1985 thì chỉ đối với trường hợp tái phạm nguy hiểm thì người phạm tội mới có thể bị phạt quản chế từ một năm đến năm năm, không quy định hình phạt tiền, hình phạt cấm dảm nhiệm chức vụ, hình phạt cấm làm hành nghề hoặc công việc nhất định. Do đó đối với trường hợp phạm tội này không áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Chủ thể của các tội xâm phạm sở hữu phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự

Chủ thể của tội phạm nói chung và của các tội xâm phạm sở hữu nói riêng là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng không phải ai thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cũng đều là chủ thể của tội phạm mà chỉ những người có năng lực trách nhiệm hình sự mới là chủ thể của tội phạm.

Bộ luật hình sự không quy định năng lực trách nhiệm hình sự là gì, mà chỉ quy định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 13) và tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12). Từ quy định này, chúng ta có thể hiểu chủ thể của tội phạm phải là người ở một độ tuổi nhất định và là người nhận thức được và điều khiển được hành vi của mình.

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

Luật hình sự nước nào cũng quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhưng không phải nước nào cũng quy định giống nhau, điều đó hoàn T tuỳ thuộc vào thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm của mỗi nước, vào sự phát triển về sinh học của con người ở mỗi quốc gia khác nhau: ở Anh từ 8 tuổi, ở Mỹ từ 7 tuổi, ở Thụy Điển từ 15 tuổi, ở Nga từ 14 tuổi, ở Pháp từ 13 tuổi, ở các nước đạo Hồi như Ai -Cập, Li-băng, I -Rắc từ 7 tuổi. v.v…1

ở nước ta, căn cứ vào thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, có tham khảo luật hình sự của các nước khác trên thế giới và trong khu vực, Bộ luật hình sự đã quy định: Người đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Người đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm ( Điều 12 Bộ luật hình sự ).

Vấn đề đặt ra về lý luận cần phải giải quyết, đó là vì sao người chưa đủ 14 tuổi lại không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ gây ra ? Khoa học luật hình sự xác định tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự chủ yếu dựa vào tiêu chuẩn về sự phát triển tâm sinh lý của con người, trong đó đạc biệt nhấn mạnh đến sự phát triển về quá trình nhận thức của con người và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.

Người chưa đủ 14 tuổi, trí tuệ chưa phát triển đầy đủ nên chưa nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội về hành vi của mình, chưa đủ khả nặng tự chủ khi hành động nên họ không bị coi là có lỗi về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện. Một hành vi được coi là không có lỗi cũng tức là không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên họ không phải chịu trách nhiệm hình sự ( loại trừ trách nhiệm hình sự )

Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi được coi là người chưa có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Do đó họ cũng chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm theo quy định của pháp luật chứ không chịu trách nhiệm hình sự về tất cả các tội phạm. Theo luật hình sự nước ta thì người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng  (khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự).

– Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt  đối với tội ấy là đến ba năm tù. Đối với các tội xâm phạm sở hữu có các trường hợp sau đây là tội phạm ít nghiêm trọng:

 Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng (khoản 1  Điều 137); tội trộm cắp tài sản có giá trị từ 500.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng (khoản 1 Điều 138); tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng (khoản 1 Điều 139); tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 1.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng (khoản 1 Điều 140); tội chiếm giữ trái phép tài sản có giá trị từ 5.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng (khản 1 Điều 141); tội sử dụng trái phép tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên (khoản 1 Điều 142); tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có gí trị từ 500.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng (khoản 1 Điều 143); tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước có gía trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng (khoản 1 Điều 144); tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng (khoản 1 và 2 Điều 145).

– Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây y nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt  đối với tội ấy là đến bảy năm tù. Đối với các tội xâm phạm sở hữu có các trường hợp sau đây là tội phạm nghiêm trọng:

Các tội quy định tại: khoản 1 Điều 134; khoản 1 Điều 135; khoản 1 Điều 136; khoản 2 Điều 137; khoản 2 Điều 138; khoản 2 Điều 139; khoản 2 Điều 140; khoản 2 Điều 141; khoản 2 Điều 142; khoản 2 Điều 143 và khoản 2 Điều 144.

– Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây y nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt  đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù. Đối với các tội xâm phạm sở hữu có các trường hợp sau đây là tội phạm rất nghiêm trọng:

Các tội quy định tại: khoản 1 và 2 Điều 133; khoản 2 Điều 134; khoản 2 và 3 Điều 135; khoản 2 và 3 Điều 136; khoản 3 Điều 137; khoản 3 Điều 138; khoản 3 Điều 139; khoản 3 Điều 140; khoản 3 Điều 143 và khoản 3 Điều 144.

 – Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây y nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Đối với các tội xâm phạm sở hữu có các trường hợp sau đây là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng:

 Các tội quy định tại:  khoản 3 và 4 Điều 133; khoản 3 và 4 Điều 134; khoản 4 Điều 135; khoản 4 Điều 136; khoản 4 Điều 137; khoản 4 Điều 138; khoản 4 Điều 139; khoản 4 Điều 140 và khoản 4 Điều 143.

Nếu người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi lại phạm tội do vô ý thì chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối chiếu với các quy định về các tội xâm phạm sở hữu không có tội phạm nào được thực hiện do vô ý lại là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, nên người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi lại phạm tội do vô ý xâm phạm sở hữu thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Một người chưa đủ 18 tuổi khi thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì khi điều tra, truy tố và xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng ( Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án) phải xác định rõ tuổi của họ. Cách tính đủ tuổi là tính theo tuổi tròn. Ví dụ: Sinh ngày 1-1-1980 thì ngày 1-1-1994 mới đủ 14 tuổi và ngày 1-1-1996 mới đủ 16 tuổi. Trong trường hợp không có điều kiện xác định chính xác ngày sinh thì tính ngày sinh theo ngày cuối cùng của tháng sinh. Ví dụ: Chỉ biết tháng sinh của người phạm tội là tháng 4-1981 mà không biết ngày nào thì lấy ngày 30-4-1981 là ngày sinh của họ. Trường hợp cũng không có điều kiện xác định chính xác tháng sinh thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng năm sinh là ngày sinh của người phạm tội. Ví dụ: Chỉ biết năm sinh của người phạm tội là năm 1983 thì ngày sinh của người phạm tội là ngày 31-12-1983. Các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử phải tiến hành hết các biện pháp xác minh mà không thể chứng minh được ngày tháng năm sinh thì mới lấy ngày cuối cùng trong tháng hoặc tháng cuối cùng trong năm làm ngày sinh của người phạm tội. Trong hồ sơ vụ án nhất thiết phải có bản sao giấy khai sinh (nếu là trường hợp có giấy khai sinh) hoặc các biên bản xác minh có xác nhận của các cơ quan có thẩm quyền (nếu là trường hợp không có giấy khai sinh). Nếu có nhiều tài liệu phản ánh tuổi của người phạm tội khác nhau thì việc xác định tuổi của người phạm tội theo hướng có lợi cho họ.

Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự

Theo quy định tại khoản 1 Điều 13 Bộ luật hình sự, thì tình trạng không có nặng lực trách nhiệm hình sự là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.

Như vậy, tiêu chuẩn ( dấu hiệu) để xác định một người không có năng lực trách nhiệm hình sự là mắc bệnh ( tiêu chuẩn y học) và tâm lý( mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển). Cả hai dấu hiệu này có mối liên quan chặt chẽ với nhau, cái này là tiền đề của cái kia và ngược lại. Một người vì mắc bệnh nên mất khả năng điều khiển và bị mất khả năng điều khiển vì họ mắc bệnh.

Cho đến nay chưa có giải thích chính thức nào về trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, về lý luận cũng như thực tiễn xét xử đã thừa nhận một người không có năng lực trách nhiệm hình sự khi họ mắc một trong các bệnh sau: Bệnh tâm thần kinh niên, bệnh loạn thần, bệnh si ngốc, các bệnh gây rối loạn tinh thần tạm thời.

 Một người bị mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh làm mất khả năng nhận thức phải được Hội đồng giám định tâm thần xác định và kết luận. ở nước ta, ngành tâm thần học mới ra đời, nhưng đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, cho đến nay, những kiến thức về tâm thần học trong nhân dân và ngay trong đội ngũ cán bộ y tế còn hạn chế, chưa đáp ứng được sự đòi hỏi về phòng và chữa bệnh tâm thần cũng như việc xác định năng lực trách nhiệm hình sự đối với người mắc bệnh tâm thần thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Có nhiều trường hợp, có những kết luận trái ngược nhau về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự  giữa các Hội đồng giám định tâm thần làm cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội không chính xác. Thậm chí có trường hợp kết luận của Hội đồng giám định không được các cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận vì kết luận đó thiếu cơ sở khoa học, không phù hợp với trạng thái tầm thần của người phạm tội.

Thực tiễn xét xử cho thấy có trường hợp một người bị mắc bệnh tâm thần nhưng họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự bởi vì khi thực hiện hành vi tội phạm họ không mắc bệnh. Pháp luật nước ta cũng như một số nước trên thế giới đều quy định: Chỉ người nào thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng họ đang bị bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức thì mới không bị truy cứu trách nhiệm hình sự (loại trừ trách nhiệm hình sự ).

Chỉ khi nào người mắc bệnh tâm thần tới mức làm mất khả năng nhận thức hành vi của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra mới được coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự. Nếu bệnh của họ chưa tới mức làm mất khả năng nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình thì tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể, họ phải chịu toàn bộ hoặc một phần trách nhiệm hình sự .

Một người mắc bệnh tâm thần trong khi thực hiện hành vi phạm tội, họ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng họ phải bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Đối với người, lúc thực hiện hành vi phạm tội họ không mắc bệnh tâm thần nhưng sau khi phạm tội và trước khi bị kết án mà họ lại mắc bệnh tâm thần tới mức không nhận thức được hành vi của mình thì họ cũng được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, nhưng sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.

Người phạm tội cũng được loại trừ trách nhiệm hình sự nếu khi thực hiện hành vi phạm tội họ mắc một bệnh nào đó và bệnh đó đã làm mất khả năng điều khiển hành vi của mình. Đây là trường hợp người phạm tội vẫn nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vị bị bệnh nên họ không điều khiển được hành vi của mình theo ý muốn nên đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Thông thường những người ở trong tình trạng này là trường hợp theo quy định của pháp luật buộc họ phải hành động, nhưng vì bị bệnh nên họ không thể hành động theo ý muốn nên đã gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Ví dụ: Một nhân viên Đường sắt có nhiệm vụ bẻ ghi cho Tàu hoả đi vào đúng đường ray, nhưng vì người này bị lên cơn sốt ác tính nên không thể thực hiện được nhiệm vụ được giao làm cho Tàu hoả đâm vào đoàn tầu đang đỗ trong ga gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến người và tài sản.

Phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích khác

Theo quy định tại Điều 14 Bộ luật hình sự thì Người phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích khác vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự .

Luật hình sự nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới không loại trừ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội do say rượu hoặc do dùng chất kích thích mạnh khác. Bởi vì trước đó họ là người có năng lực trách nhiệm hình sự và khi họ uống rượu hoặc sử dụng chất kích thích là tự họ đặt mình vào tình trạng “say” nên họ có lỗi. Say rượu là một hiện tượng không bình thường trong xã hội, là một thói xấu trong sinh hoạt, việc bắt người say rượu phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tội phạm do họ gây ra còn là biểu thị thái độ nghiêm khắc của xã hội đối với tệ nạn say rượu. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng nếu người phạm tội không có lỗi trong việc uống rượu và như vậy họ cũng không có lỗi trong việc say rượu sẽ được thừa nhận là không có năng lực trách nhiệm hình sự  vì đó là một loại thuộc trường hợp say rượu bệnh lý. Thực tiễn xét xử cũng đã xảy ra trường hợp Hội đồng giám định pháp y tâm thần của kết luận người phạm tội do say rượu bệnh lý, nhưng họ vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, ở một số nước, trong đó có các nước Cộng hoà thuộc Liên Xô cũ coi trường hợp say rượu bệnh lý được loại trừ trách nhiệm hình sự .

Trong một số trường hợp chỉ một hoặc một số người mới là chủ thể của tội phạm, khoa học luật hình sự gọi là chủ thể đặc biệt. Tuy nhiên, đối với các tội xâm phạm sở hữu chỉ có một trường hợp có chủ thể đặc biệt, đó là tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước quy định tạ Điều 144 Bộ luật hình sự.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC ( ĐIỀU 121)

Làm nhục người khác là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của con người.

CÁC DẤU HIỆU CỦA TỘI PHẠM

  1. Đối với người phạm tội

Người phạm tội phải là người có hành vi (hành động) được thể hiện bằng lời nói hoặc hành động xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm danh dự của người khác như: lăng mạ, chửi rủa thậm tệ, lột quần áo giữa đám đông người, thoả mãn thú vui của xác thịt v.v…Tất cả những hành vi này chưa tới mức cấu thành tội phạm như: Hiếp dâm, cưỡng dâm và không thuộc trường hợp dâm ô với trẻ em, mà chỉ xúc phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của người khác. Ví dụ: Một bọn lưu manh bắt một cô gái mà chúng nghi là cô này đã báo cho Công an bắt chúng về hành vi tụ tập đánh bạc ăn tiền, rồi đưa cô gái này đến một đoạn đường vắng lột trần truồng thay phiên nhau có hành vi dâm ô với cô gái rồi thả cho cô gái này về nhưng không cho mặc quần áo.

Ý thức chủ quan của người phạm tội là mong muốn cho người bị hại bị nhục với nhiều động cơ khác nhau như: để trả thù, có thể trả thù chính người bị hại hoặc cũng có thể trả thù người thân của người bị hại, để thoả mãn thú vui xác thịt.

Để làm nhục người khác, người phạm tội có thể có những hành vi vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực như: bắt trói, tra khảo, vật lộn, đấm đá hoặc dùng phương tiện nguy hiểm khống chế đe doạ buộc người bị hại phải làm theo ý muốn của mình, nhưng tất cả các hành vi, thủ đoạn đó chỉ nhằm mục đích là làm nhục chứ không nhằm mục đích khác. Tuy nhiên, nếu hành vi đó lại cấu thàh một tội riêng thì tuỳ trường hợp cụ thể người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm nhục và tội tương ứng với hành vi đã thực hiện. Ví dụ: Phan Anh T là một tên có nhiều tiến án tiền sự, T yêu chị Lê Thị H nhưng chị H lại yêu anh Đỗ Mạnh K. Biết anh K đã có vợ, nên T rủ thêm Bùi Công Q hẹn anh K đến chỗ vắng để giải quyết việc yêu đương, anh K nhận lời đến chỗ hẹn thì bị T và Q dùng dao găm khống chế bắt anh K phải cởi hết quần áo đưa cho bọn chúng, anh K xin được mặc chiếc quần lót (quần đùi) nhưng chúng không cho, anh K định bỏ chạy thì bị T đâm một nhát vào bụng rồi chúng ôm quần áo của anh K về đưa cho vợ anh K nói rằng anh K đã ngủ với vợ người khác bị bắt quả tang. Anh K bị thương phải đưa vào bệnh viện cấp cứu và điều trị 40 ngày. Kết luận pháp y xác định anh K bị thương tích có tỷ lệ thương tật 35%. Trong trường hợp này, ngoài tội làm nhục người khác, Phan Anh T và Bùi Công Q còn bị truy tố trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự.

  1. Về phía người bị hại.

Là người bị xâm phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự. Việc xác định như thế nào là nhân phẩm, danh dự bị xâm phạm nghiêm trọng cũng là một vấn đề khá phức tạp, bởi vì cùng bị xâm phạm như nhau, nhưng có người bị thấy nhục hoặc rất nhục, nhưng có người lại thấy bình thường, không thấy bị nhục. Về phía người phạm tội cũng có nhận thức tương tự như vậy, họ cho rằng với hành vi như thế thì người bị làm nhục sẽ nhục hoặc rất nhục, nhưng người bị hại lại thấy chưa bị nhục. Những chuẩn mực này, nếu chỉ căn cứ vào ý thức chủ quan của người phạm tội hay người bị hại thì cũng chưa thể xác định một cách chính xác được mà phải kết hợp với các yếu tố như: trình độ nhận thức, mối quan hệ gia đình và xã hội, địa vị xã hội, quá trình hoạt động của bản thân người bị hại, phong tục tập quán, truyền thống gia đình v.v… Dư luận xã hội trong trường hợp này cũng có ý nghĩa quan trọng để xác định nhân phẩm, danh dự của người bị hại bị xâm phạm tới mức nào. Sự đánh giá của xã hội trong trường hợp này có ý nghĩa rất lớn để xác định hành vi phạm tội của người có hành vi làm nhục.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Làm nhục một người và không thuộc trường hợp quy định tại khoản Điều 121 Bộ luật hình sự ( khoản 1 Điều 121)

Đây là trường hợp phạm tội không có tình tiết là yếu tố định khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 121 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội phạm. Người phạm tội thuộc trường hợp này bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. Tuy nhiên so với khoản 1 Điều 116 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này thì khoản 1 Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1999 có mức hình phạt cải tạo không giam giữ cao hơn ( hai năm so với một năm). Vì vậy, nếu áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội thực hiện hành vi trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý thì chỉ được áp dụng cao nhất là một năm.

Theo Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự thì phạm tội làm nhục người khác thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 121 Bộ luật hình sự chỉ bị khởi tố theo yêu cầu của người bị hại. Nếu người bị hại không yêu cầu thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

  1. Phạm tội nhiều lần ( điểm a khoản 2 Điều 121)

Là trường hợp làm nhục từ hai lần trở lên đối với một người và nếu tách mỗi lần ra thì hành vi phạm tội vẫn cấu thành tội làm nục người khác theo khoản 1 Điều 121 Bộ luật hình sự. Đây là tình tiết định khung hình phạt mới được quy định tại khoản 2 Điều 121 Bộ luật hình sự nên không áp dụng đối với hành vi thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.

  1. Đối với nhiều người ( điểm b khoản 2 Điều 121)

Là trường hợp người phạm tội đã cùng một lúc hoặc nhiều lần làm nhục từ hai người trở lên. Nếu cùng một lúc làm nhục nhiều người hoăc nhiều lần làm nhục nhưng mỗi lần chỉ làm nhục một người thì chỉ bị coi là làm nhục nhiều người, nhưng nếu có một người trong số những người bị làm nhục bị làm nhục nhiều lần thì người phạm tội còn bị coi là làm nhục nhiều lần theo điểm a khoản 2 Điều 121 Bộ luật hình sự. Đây cũng là tình tiết định khung hình phạt mới được quy định tại khoản 2 Điều 121 Bộ luật hình sự nên không áp dụng đối với hành vi thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.

  1. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm nhục người khác (điểm c khoản 2 Điều 121)

Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một cong vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ.

Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm nhục người khác là hành vi do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện và hành vi làm nhục người khác đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của họ, nếu họ không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó có thể thực hiện việc làm nhục người bị hại; chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện việc làm nhục một cách dễ dàng. Tuy nhiên, người phạm tội  có việc lợi dụng chức vụ để làm nhục thì mới bị coi là có tình tiết tăng nặng. Nếu tội phạm do họ thực hiện không liên quan gì đến chức vụ, quyền hạn của họ thì dù họ có chức vụ, quyền hạn thì cũng không bị coi là lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm nhục.

Đây cũng là tình tiết định khung hình phạt mới được quy định tại khoản 2 Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1999, nên không áp dụng đối với hành vi thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý.

 

  1. Làm nhục người thi hành công vụ ( điểm d khoản 2 Điều 121)

Đây là trường hợp người bị hại là người thi hành công vụ và vì thi hành công vụ mà bị làm nhục, bao gồm cả trường hợp đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ mà bị làm nhục. Người thi hành công vụ là người được các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội giao một nhiệm vụ cụ thể và thực hiện nhiệm vụ đó như: Cảnh sát làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự, làm nhiệm vụ bảo đảm an toàn giao thông; Điều tra viên làm nhiệm vụ điều tra một vụ án hình sự; Kiểm sát viên kiểm sát việc tuân theo pháp luật; Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đang xét xử vụ án hoặc đang giải quyết một vụ án; bảo vệ cơ quan xí nghiệp, các công chức, viên chức của cơ quan nhà nước đang thực hiện nhiệm vụ trong công sở hoặc ngoài công sở v.v…

Làm nhục người thi hành công vụ là hành vi nghiêm trọng hơn làm nhục người khác vì khi thi hành công vụ, người bị hại thay mặt Nhà nước, tổ chức xã hội chứ không phải nhân danh cá nhân họ, làm nhục người thi hành công vụ là làm mất uy tín, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với cơ quan Nhà nước tổ chức xã hội.

  1. Làm nhục người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình (điểm đ khoản 2 Điều 121)

Người dạy dỗ người phạm tội là thầy, cô giáo trong các trường trong hệ thống các trường đào tạo giáo dục của Nhà nước hoặc của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, cũng có thể chỉ là người dạy dỗ người phạm tội theo một hợp đồng dân sự như: gia sư, huấn luyện viên… Nói chung những người dạy dỗ người phạm tội là những người thầy mà người phạm tội lẽ ra phải kính trọng, lễ phép.

Người nuôi dưỡng người phạm tội là những người có trách nhiệm nuôi dưỡng người phạm tội. Trách nhiệm này có thể do quan hệ huyết thống như bố mẹ đối với con cái, ông bà đối với cháu, anh, chị đối với các em; có thể do quan hệ hôn nhân trong trường hợp người vợ hoặc người chồng không còn khả năng lao động phải sống nhờ vào người vợ hoặc người chồng; có thể do quan hệ xã hội mà phát sịnh mối quan hệ giữa người có trách nhiệm nuôi dưỡng với người được nuôi dưỡng như: nuôi dưỡng trẻ mồ côi, nuôi dưỡng thương bệnh binh, nuôi dưỡng người cao tuổi cô đơn, nuôi dưỡng bệnh nhân…

Người chăm sóc người phạm tội là những người theo nghĩa vụ hoặc theo hợp đồng có trách nhiệm chăm sóc người phạm tội. Nói chung, người có trách nhiệm nuôi dưỡng đồng thời là người có trách nhiệm chăm sóc. Tuy nhiên cũng có trường hợp chỉ chăm sóc mà không nuôi dưỡng hoặc chỉ có nuôi dưỡng mà không có chăm sóc. Người chăm sóc là người trực tiếp tiếp xúc với người phạm tội như chăm sóc sức khoẻ, chăm sóc những sinh hoạt hành ngày như cho ăn, cho uống…

Người chữa bệnh cho người phạm tội là những người thầy thuốc như: bác sỹ, y tá hoặc nhân viên y tế… những người này có thể là người nuôi dưỡng, chăm sóc cho người phạm tội nhưng cũng có thể chỉ chữa bệnh cho người phạm tội còn chăm sóc nuôi dưỡng lại là người khác.

Đây cũng là tình tiết định khung hình phạt mới được quy định tại khoản 2 Điều 121 Bộ luật hình sự nên không áp dụng đối với hành vi thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.

Phạm tội nhiều lần; đối với nhiều người; đối với người thi hành công vụ; đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình thị người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 121 Bộ luật hình sự có khung hình phạt tù từ một năm đến ba năm. So với khoản 2 Điều 116 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1999 năng hơn. Do đó không áp dụng đối với hành vi thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.

Ngài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm theo khoản 3 Điều 121 Bộ luật hình sự. Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định hình phạt bổ sung đối với tội làm nhục người khác, vì vậy đói với người phạm tội làm nhục người khác trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý thì không được áp dụng hình phạt bổ sung đối với họ.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com