Sau khi Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản do cơ quan thi hành án dân sự kê biên (đất nông nghiệp) người trúng đấu giá tài sản đã được cơ quan thi hành án tiến hành giao tài sản trúng đấu giá theo quy định pháp luật, sau đó người phải thi hành án tái chiếm và sản xuất trên diện tích đất đã được cơ quan thi hành giao cho người trúng đấu giá.
Hỏi: Việc tái chiếm nêu trên của người phải thi hành án thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan nào? Hành vi nêu trên của người phải thi hành án được xử lý như thế nào? Văn bản nào hướng dẫn xử lý?
Gửi bởi: khanhmeo0910
Trả lời có tính chất tham khảo
Khoản 4 Điều 8 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ “quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự” quy định tài sản đã được giao trên thực tế cho người được nhận tài sản và người đó đã ký nhận vào biên bản giao, nhận tài sản nhưng sau đó bị đương sự chiếm lại thì cơ quan thi hành án dân sự không có trách nhiệm giao lại tài sản cho người được nhận tài sản. Người đã nhận tài sản có quyền yêu cầu Ủy ban nhân dân hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Hành vi tái chiếm và sản xuất trên diện tích đất đã được cơ quan thi hành án dân sự giao cho người trúng đấu giá tùy theo mức độ cụ thể được xử lý hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc phải bồi thường thiệt hại. Người bị tái chiếm có quyền yêu cầu Ủy ban nhân dân, cơ quan Công an xử lý hoặc đề nghị Tòa án giải quyết về bồi thường thiệt hại nếu có.
Các văn bản liên quan:
Nghị định 58/2009/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Thi hành lãi suất theo bản án của Toà án đã tuyên
Tôi có bản án được thi hành án số tiền hơn 800 triệu đồng, nhưng người phải thi hành án không có tiền để trả, đến nay đã hơn 8 năm. Bây giờ họ bán nhà để trả nợ thì số tiền của tôi có thể tính trượt giá theo giá gạo hoặc giá vàng để bớt thiệt thòi cho tôi hay phải bắt buộc tính theo lãi suất nợ quá hạn như đã nêu trong bản án.
Gửi bởi: Nguyễn Văn Hoàng
Trả lời có tính chất tham khảo
Theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự sự thì về nguyên tắc cơ quan thi hành án dân sự thi hành đúng nội dung bản án của Toà án, trừ trường hợp các đương sự có thoả thuận khác. Bản án của Toà tuyên bạn được thi hành án số tiền hơn 800 triệu đồng và lãi suất nợ quá hạn thì cơ quan thi hành án dân sự thi hành khoản tiền 800 triệu đồng và lãi suất nợ quá hạn theo quyết định của bản án cho bạn, mà không tính trượt giá theo giá gạo hoặc giá vàng.
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Có thể kê biên tài sản góp vốn không?
Vợ tôi là giám đốc một công ty THHH có hai thành viên góp vốn (vợ tôi góp 60% số vốn, thành viên còn lại góp 40% số vốn). Do làm ăn thua lỗ nên bị đối tác khởi kiện ra Toà án đòi số tiền 1,2 tỷ đồng. Tôi và vợ tôi có chung một số tài sản như đất, nhà. Vậy, cơ quan thi hành án có kê biên, xử lý nhà đất của tôi và vợ tôi không?
Gửi bởi: Giang
Trả lời có tính chất tham khảo
Trong trường hợp anh hỏi cần phải phân biệt tư cách pháp lý giữa pháp nhân là công ty trách nhiệm hữu hạn với cá nhân về quyền sở hữu tài sản, do đó phải xác định việc kiện ra Toà án với tư cách là công ty trách nhiệm hữu hạn phải thi hành án hay cá nhân vợ anh phải thi hành án. Trong trường hợp vợ anh phải thi hành án với tư cách cá nhân thì phần tài sản của vợ anh trong khối tài sản chung với anh có thể bị kê biên, bán đấu giá để thi hành án.
Trong trường hợp công ty trách nhiệm hữu hạn phải thi hành án thì theo quy định tại Điều 38 và 39 Luật Doanh nghiệp, thành viên của Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là doanh nghiệp trong đó thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp; thành viên phải góp vốn đầy đủ và đúng hạn bằng loại tài sản góp vốn như đã cam kết. Trường hợp thành viên thay đổi loại tài sản góp vốn đã cam kết thì phải được sự nhất trí của các thành viên còn lại; công ty thông báo bằng văn bản nội dung thay đổi đó đến cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày chấp thuận sự thay đổi. Người đại diện theo pháp luật của công ty phải thông báo bằng văn bản tiến độ góp vốn đăng ký đến cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày cam kết góp vốn và phải chịu trách nhiệm cá nhân về các thiệt hại cho công ty và người khác do thông báo chậm trễ hoặc thông báo không chính xác, không trung thực, không đầy đủ. Trường hợp có thành viên không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết thì số vốn chưa góp được coi là nợ của thành viên đó đối với công ty; thành viên đó phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh do không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết.
Như vậy, vợ anh góp 60% vốn vào công ty thì phải chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn góp đó. Công ty làm ăn thua lỗ bị kiện ra Toà án thì công ty phải thi hành án đối với khoản nợ do công ty phải trả theo quyết định của Toà án bằng tài sản của công ty. Vì thế, nếu vợ anh đã góp đầy đủ phần vốn góp của mình vào công ty bằng tài sản khác không phải là nhà đất của vợ chồng anh thì tài sản này không phải là tài sản của công ty nên không thể kê biên để thi hành nghĩa vụ của công ty. Trong trường hợp phần vốn góp vào công ty là phần nhà đất của vợ anh nêu trên hoặc vợ anh chưa góp đầy đủ vốn vào công ty thì phần tài sản là nhà đất của vợ anh có thể bị kê biên, xử lý để thi hành nghĩa vụ của công ty trong phạm vi vốn góp tương ứng với phần nghĩa vụ mà vợ anh phải trả đối với công ty.
Tuy nhiên, do nhà đất là tài sản chung của vợ chồng anh nhưng anh lại không tham gia vào công ty, vì thế phần tài sản của anh trong khối tài sản chung của vợ chồng anh được hoàn trả lại cho anh. Khi xử lý tài sản chung của vợ chồng, cơ quan thi hành án dân sự thực hiện theo quy định tại Điều 74 Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Trước khi cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung của người phải thi hành án với người khác, kể cả quyền sử dụng đất, Chấp hành viên phải thông báo cho chủ sở hữu chung biết việc cưỡng chế.Chủ sở hữu chung có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án xác định phần sở hữu của họ đối với tài sản chung. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, nếu chủ sở hữu chung không khởi kiện thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết. Trường hợp vợ hoặc chồng không đồng ý thì có quyềnkhởi kiện yêu cầu Toà án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày phần sở hữu được Chấp hành viên xác định. Hết thời hạn trên, đương sự không khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành xử lý tài sản và thanh toán lại cho vợ hoặc chồng của người phải thi hành án giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu của họ. Tài sản kê biên thuộc sở hữu chung đã xác định được phần sở hữu của các chủ sở hữu chung được xử lý như sau: Đối với tài sản chung có thể chia được thì Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế phần tài sản tương ứng với phần sở hữu của người phải thi hành án. Đối với tài sản chung không thể chia được hoặc nếu việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với toàn bộ tài sản và thanh toán lại cho chủ sở hữu chung còn lại giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu của họ. Khi bán tài sản chung, chủ sở hữu chung được quyền ưu tiên mua tài sản.
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Luật 60/2005/QH11 Doanh nghiệp
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Kê biên tài sản thi hành án
Ông A nợ ông B 100.000.000đ đã được Tòa án giải quyết. Sau khi có bản án, ông B đã gửi đơn đến cơ quan thi hành án dân sự để yêu cầu thi hành án. Qua xác minh ông A có đủ điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành. CHV xác minh ông A có 1 thửa đất nhưng ông A đã đổi với người anh ruột là ông C và sử dụng ổn định từ năm 1988 nhưng chưa làm thủ tục chuyển đổi đúng quy định pháp luật. Ông C đồng ý để cơ quan thi hành án kê biên phát mãi thi hành án cho ông B. Xin hỏi CHV có được quyền kê biên phần đất của ông C đổi với ông A để thi hành án cho ông A không? vì ông A nợ ông B từ năm 2003 đến nay chưa được giải quyết.
Gửi bởi: My Phuong
Trả lời có tính chất tham khảo
Do câu hỏi của bạn không nêu rõ diện tích đất ông A đã đổi cho ông C có thông qua thủ tục hành chính nhà nước hay chi trao đổi miệng với nhau và hiện nay diện tích đất như bạn hỏi đang đứng tên ai trong bản đồ địa chính và sổ quản lý nhà đất tại địa phương, trên đất đã có nhà ở và công trình xây dựng hay chưa.
Liên quan đến câu hỏi của bạn pháp luật hiện hành có quy định như sau:
Khoản 1 và 2 Điều 95 Luật Thi hành án dân sự quy định về kê biên nhà ở
1. Việc kê biên nhà ở là nơi ở duy nhất của người phải thi hành án và gia đình chỉ được thực hiện sau khi xác định người đó không có các tài sản khác hoặc có nhưng không đủ để thi hành án, trừ trường hợp người phải thi hành án đồng ý kê biên nhà ở để thi hành án.
2. Khi kê biên nhà ở phải kê biên cả quyền sử dụng đất gắn liền với nhà ở. Trường hợp nhà ở gắn liền với đất thuộc quyền sử dụng của người khác thì Chấp hành viên chỉ kê biên nhà ở và quyền sử dụng đất để thi hành án nếu người có quyền sử dụng đất đồng ý. Trường hợp người có quyền sử dụng đất không đồng ý thì chỉ kê biên nhà ở của người phải thi hành án, nếu việc tách rời nhà ở và đất không làm giảm đáng kể giá trị căn nhà.
Như vậy, nếu diện tích đất ông A đang sử dụng, đứng tên ông C và được ông C đồng ý bằng văn bản để cưỡng chế kê biên, phát mại đảm bảo nghĩa vụ thi hành án cho ông A thì Chấp hành viên được quyền cưỡng chế kê biên để đảm bảo cho việc thi hành án.
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Chuyên viên pháp lý – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Xác định trách nhiệm của UBND phường khi xác nhận đất không tranh chấp
Ngày 27/3/2012, ông A vay ông B số tiền 240 triệu đồng bằng giấy viết tay. Sau một thời gian ông A không trả nợ cho ông B, nên ông B đã gửi đơn ra Toà án huyện. Sau khi thụ lý vụ án, ngày 30/7/2012, Toà án đã gửi cho phường C công văn có nội dung: Sau khi thụ lý vụ án nguyên đơn cung cấp thông tin hiện tại ông A đang làm thủ tục chuyển nhượng nhà và đất ở khối 3 nhằm mục đích tẩu tán tài sản để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ và có đơn đề nghị Toà án và cơ quan có thẩm quyền tạm ngừng các giao dịch tài sản thuộc sở hữu của ông A.Để giải quyết triệt để, Toà án thông báo cho UBND phường C được biết để phối hợp thực hiện. Ngày 14/9/2012, Toà án đã có Quyết định số 32/2012/QĐ-DSST công nhận sự thỏa thuận của các đương sự với nội dung: ông A có nợ và có nghĩa vụ trả 240 triệu đồng cho ông B. Tuy nhiên, đến ngày 19/9/2012, UBND phường C đã xác nhận đất không tranh chấp của ông A tại khối 3 và ông A đã chuyển nhượng thửa đất cho người khác nhưng đến nay vẫn chưa trả nợ cho ông B. Xác định trách nhiệm của UBND phường C khi xác nhận đất không tranh chấp mặc dù đã nhận được Công văn của Toà án?
Gửi bởi: Nguyen Van Thanh
Trả lời có tính chất tham khảo
Nếu vụ việc đúng như nội dung bạn nêu thì việc xác định trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân phường C với nội dung đất không tranh chấp là phù hợp với thực tế, bởi vì vụ kiện giữa ông A và ông B là vụ kiện dân sự đòi tiền cho vay, còn diện tích đất thuộc quyền sử dụng của ông A không tranh chấp về quyền của ai được sử dụng, có lấn chiếm đất không hay đất có hay không thế chấp để vay tiền.
Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông A cho người khác phải thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, Luật Đất đai năm 2003, Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 19/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai. Theo đó, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản có chứng nhận của cơ quan công chứng hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất.
Vì thế, việc xác nhận của Uỷ ban nhân dân phường đất không có tranh chấp không có nghĩa rằng Uỷ ban nhân dân phường đồng ý và việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông A đã hoàn thành. Trong vụ việc này, Toà án đã có công văn gửi Uỷ ban nhân dân phường C thì Uỷ ban nhân dân phường C cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan thi hành án dân sự trong việc thi hành án dân sự trước khi xác nhận vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông A với người khác để đảm bảo việc thi hành án cho ông B thì tốt hơn.
Mặc dù, Uỷ ban nhân dân phường C xác nhận đất không tranh chấp, nhưng do ông A phải thi hành án trả tiền cho ông B và việc chuyển nhượng đất giữa ông A với người khác thực hiện sau khi Quyết định số 32/2012/QĐ-DSST ngày 14/9/2012 của Toà án có hiệu lực pháp luật, ông A có nghĩa vụ trả 240 triệu đồng cho ông B. Vì thế, nếu ông A không dùng tiền chuyển nhượng đất để thi hành án thì diện tích đất đó vẫn bị kê biên để thi hành án cho ông B theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự:“Kể từ thời điểm có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc trong trường hợp đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án mà tài sản bị bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố cho người khác, người phải thi hành án không thừa nhận tài sản là của mình thì bị kê biên, xử lý để thi hành án”.
Các văn bản liên quan:
Thông tư liên tịch 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự
Nghị định 181/2004/NĐ-CP Về thi hành Luật Đất đai
Luật 13/2003/QH11 Đất đai
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Xử lý tài sản thi hành án bán đấu giá nhưng không có người đăng ký mua
Tài sản thế chấp được cơ quan thi hành án đưa ra bán đấu giá, cơ quan bán đấu giá đã đăng báo rao bán tài sản nhưng không có ai đăng ký đấu giá. Bên được thi hành án (ngân hàng) đề nghị cơ quan thi hành án giảm giá bán (10%) để đưa ra đấu giá tiếp nhưng cơ quan thi hành án yêu cầu phải có sự đồng ý mức giá giá mới của bên phải thi hành án (chủ tài sản thế chấp) mới tiến hành được. Điều này khiến cho việc bán đấu giá bị đình trệ vì bên phải thi hành án không hợp tác. Lý do mà cơ quan thi hành án đưa ra là do lần bán đấu giá trước không có người đăng ký mua tài sản nên không được tính là một lần bán đấu giá không thành để có thể áp dụng Điều 104 của Luật Thi hành án dân sự (Cơ quan thi hành án cho rằng bán đấu giá không thành là phải có người đăng ký mua, nhưng không bán được). Vậy, yêu cầu của cơ quan thi hành án như trên là có đúng không? Và trường hợp bán đấu giá mà không có người đăng ký mua thì có được xem là bán đấu giá không thành không? Nhờ các anh chị cho ý kiến tư vấn giải quyết trong trường hợp này.
Gửi bởi: Dương Quang Tửu
Trả lời có tính chất tham khảo
Vấn đề bạn hỏi, một số Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã báo cáo xin chỉ đạo, hướng dẫn đối với trường hợp tài sản kê biên để đảm bảo thi hành án đã được đưa ra bán đấu giá công khai nhưng không có người tham gia đấu giá, trả giá. Bộ Tư pháp đã chỉ đạo Tổng cục Thi hành án dân sự chủ trì tổ chức cuộc họp liên ngành. Trên cơ sở cuộc họp liên ngành và văn bản góp ý của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 1569/BTP-TCTHADS ngày 27/02/2013 hướng dẫn về xử lý tài sản thi hành án bán đấu giá nhưng không có người tham gia đấu giá, trả giá, như sau:
Thứ nhất, về việc xử lý tài sản bán đấu giá nhưng không có người tham gia đấu giá, trả giá: Hiện nay, pháp luật về thi hành án dân sự tại Điều 104 Luật Thi hành án dân sự về xử lý tài sản bán đấu giá không thành quy định: “Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày bán đấu giá không thành mà đương sự không yêu cầu định giá lại thì Chấp hành viên ra quyết định giảm giá tài sản để tiếp tục bán đấu giá. Mỗi lần giảm giá không quá mười phần trăm giá đã định. Trường hợp giá tài sản đã giảm thấp hơn chi phí cưỡng chế mà người được thi hành án không nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án thì tài sản được trả lại cho người phải thi hành án”. Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 và Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/03/2010 của Chính phủ chưa có hướng dẫn cụ thể về trường hợp không có người tham gia đấu giá, trả giá. Tuy nhiên, trong trường hợp này nếu tiếp tục thông báo bán đấu giá thì cũng không bán được, dẫn đến việc xử lý tài sản kéo dài, ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự.
Do đó, việc tổ chức bán đấu giá tài sản thi hành án phải tuân theo quy định của Luật Thi hành án dân sự, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/03/2010 của Chính phủ và xem xét áp dụng quy định Điều 202 Luật Thương mại năm 2005. Cụ thể: trong quá trình bán đấu giá tài sản thi hành án mà không có người tham gia đấu giá, trả giá thì cơ quan thi hành án dân sự cần kiểm tra lại quá trình tổ chức bán đấu giá tài sản. Nếu việc tổ chức bán đấu giá tài sản chưa thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản thi hành án thì phải tổ chức thực hiện lại đúng với quy định của pháp luật. Nếu việc tổ chức bán đấu giá tài sản đã thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản nhưng không có người tham gia đấu giá, trả giá được coi là trường hợp bán đấu giá tài sản không thành để áp dụng các quy định pháp luật về thi hành án dân sự tiếp tục xử lý tài sản thi hành án.
Thứ hai, chi phí trong trường hợp bán đấu giá không có người tham gia đấu giá, trả giá: Các khoản chi phí hợp lý cho việc bán đấu giá tài sản cưỡng chế thi hành án trong trường hợp không có người tham gia đấu giá, trả giá áp dụng theo quy định về chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự. Cơ quan thi hành án dân sự thực hiện việc tạm ứng, thu, chi theo trình tự, thủ tục quy định tại Thông tư liên tịch số 184/2011/TTLT-BTC-BTP ngày 19/12/2011 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp hướng dẫn cơ chế quản lý tài chính về kinh phí tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự.
Các văn bản liên quan:
Thông tư liên tịch 184/2011/TTLT-BTC-BTP Hướng dẫn cơ chế quản lý tài chính về kinh phí tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự
Nghị định 58/2009/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Nghị định 17/2010/NĐ-CP Về bán đấu giá tài sản
Luật 36/2005/QH11 Thương mại
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Quyết định của Toà án
Năm 2008, theo Quyết định hoà giải thành của Toà án thì cha tôi được hưởng quyền sử dụng đất của 02 thửa đất của ông A. Tuy nhiên năm 2009 cha tôi mất mà vẫn chưa kịp làm thủ tục trước bạ. Hiện nay, chúng tôi (4 anh chị em) muốn làm thủ tục để nhận tài sản thừa kế của cha tôi nhưng do giấy tờ nhà đất vẫn chưa sang tên cho cha tôi và ông A cũng đi ra nước ngoài sinh sống, bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của 02 thửa đất mà cha tôi được hưởng chúng tôi không có vì thời điểm toà án ra quyết định thì ông A không chịu giao bản chính giấy chứng nhận QSDĐ cho cha tôi. Hiện nay anh chị em tôi muốn xin nhận thừa kế đối với 02 thửa đất này thì thủ tục như thế nào, các bước phải thực hiện là gì? Tôi xin cảm ơn.
Gửi bởi: Nguyễn Thị Hoà
Trả lời có tính chất tham khảo
Theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự thì trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án.
Do cha các bạn đã mất nên việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án được xác định trên cơ sở Điều 54 của Luật Thi hành án dân sự và quy định của Bộ luật Dân sự về thừa kế. Theo đó, trường hợp người được thi hành án là cá nhân chết thì quyền, nghĩa vụ thi hành án được chuyển giao cho người khác theo quy định của pháp luật về thừa kế. Các bạn là những người đồng thừa kế của cha bạn nên các bạn được thừa kế quyền và nghĩa vụ thi hành án. Do vậy, các bạn có thể yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án dân sự. Căn cứ vào khoản 2 Điều 35 của Luật Thi hành án dân sự, bạn nộp đơn tại cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh vì cơ quan cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh có thẩm quyền thi hành các bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án cấp huyện nơi cơ quan thi hành án dân sự có trụ sở, nhưng có đương sự ở nước ngoài cần phải ủy thác thi hành án.
Căn cứ vào đơn yêu cầu của bạn, cơ quan thi hành án cấp tỉnh sẽ ra Quyết định thi hành án.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày người thi hành án nhận được hoặc được thông báo hợp lệ Quyết định thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì cơ quan thi hành án sẽ tiến hành cưỡng chế thi hành án.
Việc cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định tại Điều 117 của Luật Thi hành án dân sự. Theo đó, Chấp hành viên sẽ tổ chức giao diện tích đất cho người được thi hành án. Khi tiến hành giao đất phải có sự tham gia của đại diện cơ quan quản lý nhà nước về đất đai cùng cấp và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất được chuyển giao.
Trên cơ sở Quyết định của Tòa án công nhận sự thỏa thuận của các bên và Quyết định thi hành án, các bạn có thể đề nghị Phòng Tài nguyên và Môi trường thực hiện trước bạ cho các bạn.
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Nguyễn Thị Phương Liên – Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Khởi kiện thành viên công ty phải thi hành án sau khi giải thể
Công ty chúng tôi được thi hành án theo quyết định ngày 02/04/2004 của Tòa án nhân dân TP.HCM, theo quyết định thi hành án ngày 17/4/2006 công ty A phải có trách nhiệm trả cho công ty chúng tôi khoản tiền 2.014.399.856 đồng vốn và lãi phát sinh nhưng mới chỉ thanh toán 100.000.000 triệu đồng. Chúng tôi đã nhiều lần có đơn yêu cầu thi hành án để đòi lại tiền nợ thì Cục Thi hành án dân sự TP.HCM trả lời rằng công ty A đã giải thể, không còn tài sản để thi hành án. Đến 6/2012, Sở Kế hoạch và Đầu tư TP.HCM cung cấp văn bản thông báo rằng công ty A đã giải thể từ ngày 17/8/2011 và có xác định trách nhiệm pháp lý của các thành viên trong công ty A sau khi doanh nghiệp giải thể trong thời gian là 3 năm kể từ ngày giải thể trên. Chi cục Thuế Quận 10 đã cung cấp hồ sơ của công ty A trong đó có quy định rõ trách nhiệm pháp lý sau giải thể của các thành viên trong đó ông B là đại diện pháp luật của công ty A và số dư vốn chủ sở hữu cuối năm còn lại là: 5.000.000.000 đồng (năm tỉ đồng). Việc công ty A do ông B làm Giám đốc đã có sự gian dối trong việc lập hồ sơ, lén lút hoàn tất việc giải thể doanh nghiệp khi chưa trả nợ đầy đủ cho công ty chúng tôi.
Xin hỏi: Công ty chúng tôi có được quyền khởi kiện ông B là đại diện pháp luật của công ty A và các thành viên của Hội đồng thành viên của công ty A có trách nhiệm hoàn trả toàn bộ số tiền nợ nói trên không? Xin chân thành cảm ơn.
Gửi bởi: Trần Quang Thoại
Trả lời có tính chất tham khảo
Theo nội dung vụ việc thì công ty A là người phải thi hành án, tuy nhiên khi chưa thi hành án xong thì công ty giải thể. Sở Kế hoạch và Đầu tư TP.HCM đã cung cấp văn bản thông báo rằng công ty A đã giải thể từ ngày 17/8/2011 và có xác định trách nhiệm pháp lý của các thành viên trong công ty A sau khi doanh nghiệp giải thể trong thời gian là 3 năm kể từ ngày giải thể trên. Chi cục Thuế Quận 10 đã cung cấp hồ sơ của công ty A trong đó có quy định rõ trách nhiệm pháp lý sau giải thể của các thành viên và số dư vốn chủ sở hữu cuối năm còn lại là: 5.000.000.000 đồng (năm tỉ đồng). Việc công ty A do ông B làm Giám đốc đã hoàn tất việc giải thể doanh nghiệp khi chưa trả nợ đầy đủ. Công ty A có sự gian dối trong việc lập hồ sơ giải thể để trốn nợ, khi so sánh hồ sơ do Chi cục Thuế Quận 10 cung cấp đã khẳng định nội dung hồ sơ giải thể công ty A không đảm bảo tính trung thực và tính chính xác, nên các thành viên của Hội đồng thành viên công ty A phải liên đới chịu trách nhiệm. Theo quy định tại Điều 40 Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01 tháng 10 năm 2010 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp: Thành viên Hội đồng quản trị công ty cổ phần, thành viên Hội đồng thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, chủ sở hữu công ty, chủ doanh nghiệp tư nhân, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, thành viên hợp danh chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của hồ sơ giải thể doanh nghiệp. Trường hợp hồ sơ giải thể không chính xác, giả mạo, những người quy định tại khoản 4 Điều này phải liên đới chịu trách nhiệm thanh toán số nợ chưa thanh toán, số thuế chưa nộp và quyền lợi của người lao động chưa được giải quyết và chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về những hệ quả phát sinh trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày nộp hồ sơ giải thể doanh nghiệp đến cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý về đầu tư.
Việc công ty A đã có sự gian dối trong việc lập hồ sơ giải thể doanh nghiệp nhằm mục đích để trốn tránh trách nhiệm trả nợ cho công ty bạn thì công ty bạn khởi kiện ông B là đại diện pháp luật của công ty A và các thành viên của Hội đồng thành viên của công ty A có trách nhiệm hoàn trả toàn bộ số tiền nợ nói trên là cần thiết để bảo đảm quyền lợi của mình.
Các văn bản liên quan:
Bộ luật 24/2004/QH11 Tố tụng dân sự
Nghị định 102/2010/NĐ-CP Hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Miễn nhiệm Thừa phát lại
Theo quyết định bổ nhiệm Thừa phát lại chỉ có giá trị trong vòng 6 tháng. Nếu quá 6 tháng không hành nghề mà muốn hành nghề thì có làm lại thủ tục bổ nhiệm hay vẫn sử dụng quyết định bổ nhiệm cũ. Xin cám ơn!
Gửi bởi: Trần văn quới
Trả lời có tính chất tham khảo
Tại điểm c khoản 2 và khoản 3, 4Điều 13 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ quy định về miễn nhiệm Thừa phát lại như sau:
“c) Không hành nghề Thừa phát lại kể từ ngày được bổ nhiệm từ 6 tháng trở lên, trừ trường hợp có lý do chính đáng;
3. Bộ trưởng Bộ Tư pháp tự mình hoặc theo đề nghị của Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh quyết định miễn nhiệm Thừa phát lại.
Hồ sơ đề nghị miễn nhiệm Thừa phát lại trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này phải có đơn xin miễn nhiệm gửi Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh và văn bản đề nghị của Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh.
Hồ sơ đề nghị miễn nhiệm Thừa phát lại trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này phải có tài liệu liên quan làm căn cứ cho việc đề nghị miễn nhiệm.
4. Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị miễn nhiệm Thừa phát lại, Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, quyết định miễn nhiệm Thừa phát lại và quyết định thu hồi thẻ Thừa phát lại.”
* Như vậy, việc không hành nghề Thừa phát lại kể từ ngày được bổ nhiệm từ 6 tháng trở lên có thể bị miễn nhiệm chứ không phải đương nhiên bị miễn nhiệm.
– Theo quy định tại khoản 3, 4 Điều 13 như trên thì việc miễn nhiệm Thừa phát lại do Bộ trưởng Bộ Tư pháp tự mình miễn nhiệm hoặc theo đề nghị của Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh quyết định miễn nhiệm Thừa phát lại. Việc miễn nhiệm phải có hồ sơ đề nghị miễn nhiệmvà các tài liệu liên quan làm căn cứ cho việc đề nghị miễn nhiệm.
Vậy, khi chưa có quyết định miễn nhiệm Thừa phát lại của Bộ Trưởng Bộ Tư pháp, khi hành nghề trở lại vẫn sử dụng quyết định bổ nhiệm cũ.
Các văn bản liên quan:
Nghị định 61/2009/NĐ-CP Về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh
Trả lời bởi: Bùi Khắc Chung – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Đòi quyền lợi chính đáng của mình
Tôi đã làm hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất tại Phòng công chứng và nay Giấy chủ quyền sử dụng đất mang tên của tôi nhưng cơ quan thi hành án dân sự có gửi thông báo kê biên tài sản trên nhằm đảm bảo việc thi hành án của người phải thi hành án chính là người chủ quyền sử dụng đất trước tôi. Vậy, sự việc trên có đúng pháp luật không và tôi phải liên hệ đâu để đòi quyền lợi chính đáng của tôi.
Gửi bởi: Nguyễn Duy Khanh
Trả lời có tính chất tham khảo
Trường hợp bạn hỏi, cần phải xác định thời điểm chuyển quyền sử dụng đất và thời điểm hoàn thành thủ tục chuyển quyền sử dụng đất của bạn trước hay sau khi có bản án của Toà án mà người đã chuyển quyền sử dụng đất cho bạn phải thi hành án.
Theo quy định tại Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 19/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản có chứng nhận của cơ quan công chứng hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất.
Tại khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự quy định: Kể từ thời điểm có bản án, quyết định sơ thẩm mà người phải thi hành án bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố tài sản của mình cho người khác, không thừa nhận tài sản là của mình mà không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên để thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; nếu có tranh chấp thì Chấp hành viên hướng dẫn đương sự thực hiện việc khởi kiện tại Toà án để bảo vệquyền và lợi ích hợp pháp của mình; hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo mà không có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án xử lý tài sản để thi hành án. Kể từ thời điểm có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc trong trường hợp đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án mà tài sản bị bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố cho người khác, người phải thi hành án không thừa nhận tài sản là của mình thì bị kê biên, xử lý để thi hành án.
Do vậy, nếu việc chuyển nhượng và hoàn thành chuyển nhượng quyền sử dụng đất sau thời điểm quy định nêu trên thì quyền sử dụng đất đó vẫn có thể bị kê biên để thi hành án. Nếu bạn có tranh chấp về quyền sử dụng đất đó thì thủ tục giải quyết yêu cầu của bạn về xác định quyền sử dụng tài sản phát sinh trong quá trình thi hành án thuộc thẩm quyền của Toà án theo khoản 4 Điều 179 Luật Thi hành án dân sự và được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Các văn bản liên quan:
Nghị định 181/2004/NĐ-CP Về thi hành Luật Đất đai
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Bộ luật 24/2004/QH11 Tố tụng dân sự
Thông tư liên tịch 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Xử lý hành vi tái chiếm đất đã giao cho người trúng đấu giá
Sau khi cơ quan thi hành án dân sự cưỡng chế giao tài sản (đất nông nghiệp) cho người trúng đấu giá tài sản do Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản bán, sau đó người phải thi hành án chiếm lại và sản xuất ngay trên diện tích đất mà cơ quan thi hành án cưỡng chế giao. Vậy hành vi trên của người phải thi hành án có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự hay không. Luật Thi hành án dân sự chỉ quy định sau khi cơ quan thi hành án giao tài sản cho người trúng đấu giá là hết thẩm quyền. Vậy, vụ việc trên hướng xử lý như thế nào, văn bản nào hướng dẫn?
Gửi bởi: Tran Ngoc Khanh
Trả lời có tính chất tham khảo
Khoản 4 Điều 8 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định tài sản đã được giao trên thực tế cho người được nhận tài sản và người đó đã ký nhận vào biên bản giao, nhận tài sản nhưng sau đó bị đương sự chiếm lại thì cơ quan thi hành án dân sự không có trách nhiệm giao lại tài sản cho người được nhận tài sản. Người đã nhận tài sản có quyền yêu cầu Ủy ban nhân dân hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Do vậy, trường hợp bạn nêu, cơ quan thi hành án dân sự đã giao đất cho người trúng đấu giá thì thực hiện theo quy định nêu trên.
Hành vi trái pháp luật của người phải thi hành án chiếm lại tài sản và sản xuất ngay trên diện tích đất mà cơ quan thi hành án dân sự đã cưỡng chế giao cho người trúng đấu giá có dấu hiệu của tội sử dụng trái phép tài sản quy định tại Điều 142 Bộ luật Hình sự năm 1999:
1. Người nào vì vụ lợi mà sử dụng trái phép tài sản của người khác có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến năm năm:
a) Phạm tội nhiều lần;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội gây hậu qủa đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến hai mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Vì vậy, người phải thi hành án sử dụng trái phép tài sản của người trúng đấu giá có thể bị xử lý hình sự và hành vi vi phạm nêu trên.
Các văn bản liên quan:
Nghị định 58/2009/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự
Bộ luật 15/1999/QH10 Hình sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Giải quyết tài sản tạm giữ đảm bảo thi hành án chủ động
Theo quyết định thi hành án ABC/QĐ-THA ngày 01/1/2012 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã B, tỉnh C thì ông Nguyễn Văn A phải nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng và án phí dân sự sơ thẩm 8.000.000 đồng. Tiếp tục tạm giữ xe môtô hiệu Attila (xe đã qua sử dụng) biển số kiểm soát ABCD để đảm bảo thi hành án. Quá trình tổ chức thi hành: Hiện nay, ông A đang thi hành án phạt tù giam. Tại nơi đăng ký thường trú ông A không có tài sản và thu nhập, mẹ ông A không có điều kiện nộp thay. Chấp hành viên đã tiến hành làm việc với ông A tại trại giam. Theo đó, ông A cung cấp đã làm mất giấy tờ chiếc xe Attila, chiếc xe Attila này mang biển số địa phương khác và ngoài tỉnh, là xe mua sang tay chưa sang tên (theo nội dung Bản án). Ông A yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thị xã B bán chiếc xe này để nộp án phí. Ông A yêu cầu được biết giá thẩm định chiếc xe này và giá sau khi bán được. Các thủ tục khác không cần biết.Theo đó, Chấp hành viên đã ra quyết định cưỡng chế thi hành án xử lý chiếc xe Attila. Tôi có một số vấn đề cần hỏi như sau:
1. Chiếc xe đã mất giấy tờ, lại là xe của tỉnh khác, và mua chưa sang tên vậy cơ quan thi hành án có cần phải xác minh nguồn gốc xe hay không?
2. Nếu không xác minh nguồn gốc xe mà đưa ra thẩm định giá và bán theo loại xe không giấy tờ (bán phụ tùng) có được hay không?
3. Nếu cơ quan thẩm định giá không đồng ý thẩm định, thì có thể yêu cầu phòng tài chính kế hoạch thị xã B thẩm định giá hay không? sau đó ủy quyền cho trung tâm bán đấu giá tài sản?
4. Việc xử lý xe theo hướng xe không giấy tờ khả năng đương sự khiếu nại hay không?
Gửi bởi: Vũ Hoàng Tuấn
Trả lời có tính chất tham khảo
*1. Điều 96 Luật Thi hành án dân sự quy định về kê biên phương tiện giao thông.
– Khoản 1 quy định “Trường hợp kê biên phương tiện giao thông của người phải thi hành án, Chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án, người đang quản lý, sử dụng phương tiện đó phải giao giấy đăng ký phương tiện đó, nếu có”.
– Khoản 3 Điều 96 quy định “Chấp hành viên có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền cấm chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp, cho thuê hoặc hạn chế giao thông đối với phương tiện bị kê biên”.
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì Chấp hành viên trước khi tiến hành kê biên cần phải xác minh làm rõ quyền sở hữu đối với tài sản là phương tiện giao thông.
* 2. Nếu không xác minh rõ quyền sở hữu tài sản là phương tiện giao thông trước khi kê biên để đảm bảo cho việc thi hành án, thì việc đưa tài sản ra thẩm định giá và bán đấu giá theo loại xe không giấy tờ (bán phụ tùng) là không đúng quy định.
* 3. Điều 98 Luật thi hành án dân sự quy định về định giá tài sản kê biên
1. Ngay khi kê biên tài sản mà đương sự thoả thuận được về giá tài sản hoặc về tổ chức thẩm định giá thì Chấp hành viên lập biên bản về thỏa thuận đó. Giá tài sản do đương sự thoả thuận là giá khởi điểm để bán đấu giá. Trường hợp đương sự có thoả thuận về tổ chức thẩm định giá thì Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá đó.
2. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày kê biên tài sản, Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản kê biên trong các trường hợp sau đây:
a) Đương sự không thoả thuận được về giá và không thoả thuận được việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá;
b) Tổ chức thẩm định giá do đương sự lựa chọn từ chối việc ký hợp đồng dịch vụ;
c) Thi hành phần bản án, quyết định quy định tại khoản 1 Điều 36 của Luật này.
3. Chấp hành viên xác định giá trong các trường hợp sau đây:
a) Không thực hiện được việc ký hợp đồng dịch vụ quy định tại khoản 2 Điều này;
b) Tài sản kê biên thuộc loại tươi sống, mau hỏng hoặc có giá trị nhỏ mà đương sự không thoả thuận được với nhau về giá. Chính phủ quy định về tài sản có giá trị nhỏ.
*4. Như vậy, nếu tài sản kê biên đúng thủ tục theo quy định của pháp luật, nhưng cơ quan thẩm định giá không đồng ý ký hợp đồng thẩm định giá tài sản kê biên theo Điều 98 Luật Thi hành án dân sự, thì Chấp hành viên căn cứ theo quy định của pháp luật để xác định giá tài sản và hoàn thiện thủ tục ký hợp đồng bán đấu giá tài sản theo quy định để đảm bảo cho việc thi hành án.
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Bùi Khắc Chung – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Xác định điều kiện về tài sản được xem là bán đấu giá không thành
Tài sản kê biên bán không ai mua, có phài là bán đấu giá không thành không?
Gửi bởi: Phan Thị Thanh Hồng
Trả lời có tính chất tham khảo
* Điều 38 và Điều 39 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ quy định về bán đấu giá tài sản:
– Tại khoản 1 Điều 38 quy định về rút lại giá đã trả, thì “1. Tại cuộc bán đấu giá tài sản, người đã trả giá cao nhất mà rút lại giá đã trả trước khi đấu giá viên điều hành cuộc bán đấu giá công bố người mua được tài sản thì cuộc bán đấu giá vẫn tiếp tục và bắt đầu từ giá của người trả giá liền kề trước đó. Trong trường hợp không có người trả giá tiếp thì cuộc bán đấu giá coi như không thành.”;
– Tại Điều 39 quy định về từ chối mua tài sản bán đấu giá, thì “1. Tại cuộc bán đấu giá, khi đấu giá viên điều hành cuộc bán đấu giá tài sản đã công bố người mua được tài sản bán đấu giá mà người này từ chối mua thì tài sản được bán cho người trả giá liền kề nếu giá liền kề đó cộng với khoản tiền đặt trước ít nhất bằng giá đã trả của người từ chối mua.
Đối với cuộc đấu giá bằng hình thức bỏ phiếu, trong trường hợp từ chối mua nêu trên mà có từ hai người trở lên cùng trả giá liền kề, nếu giá liền kề đó cộng với khoản tiền đặt trước ít nhất bằng giá đã trả của người từ chối mua thì tài sản được bán cho một trong hai người trả giá liền kề đó, sau khi đấu giá viên tổ chức bốc thăm để chọn ra người mua được tài sản bán đấu giá.
Trong trường hợp giá liền kề cộng với khoản tiền đặt trước nhỏ hơn giá đã trả của người từ chối mua thì cuộc bán đấu giá coi như không thành.
2. Trong trường hợp người trả giá liền kề không đồng ý mua thì cuộc bán đấu giá coi như không thành.”.
* Điều 202 Luật Thương mại quy định về đấu giá không thành, thì “Cuộc đấu giá được coi là không thành trong các trường hợp sau đây: 1. Không có người tham gia đấu giá, trả giá; 2. Giá cao nhất đã trả thấp hơn mức giá khởi điểm đối với phương thức trả giá lên.”.
Như vậy, trường hợp không có người đăng ký tham gia đấu giá mua tài sản, thì áp dụng tương tự quy định của Điều 202 Luật Thương mại, coi trường hợp này là một trong những trường hợp bán đấu giá tài sản không thành.
Do đó tài sản kê biên, bán đấu giá không có người mua được xem là tài sản bán đấu giá không thành.
Các văn bản liên quan:
Nghị định 17/2010/NĐ-CP Về bán đấu giá tài sản
Luật 36/2005/QH11 Thương mại
Trả lời bởi: Bùi Khắc Chung – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Kê biên tài sản tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án và các chi phí cần thiết
Ông A có vay Ngân hàng 400.000.000 đồng bằng tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất có diện tích 500 m2 và nhà ở. Theo tạm tính của Chấp hành viên thì giá trị toàn bộ tài sản thế chấp có giá trị 01 tỷ đồng (tài sản có thể tách rời không giảm giá trị). Hỏi: Chấp hành viên có quyền kê biên toàn bộ tài sản thế chấp hay chỉ kê biên một phần tài sản tương xứng với nghĩa vụ phải trả nợ vay.
Gửi bởi: Trần Tuấn Cường
Trả lời có tính chất tham khảo
Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự thì Chấp hành viên căn cứ vào nội dung bản án, quyết định; tính chất, mức độ, nghĩa vụ thi hành án; điều kiện của người phải thi hành án; đề nghị của đương sự và tình hình thực tế của địa phương để lựa chọn việc áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án thích hợp.Việc áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án và các chi phí cần thiết. Trường hợp người phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất lớn hơn nhiều lần so với nghĩa vụ phải thi hành án mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên vẫn có quyền áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế để thi hành án.
Do vậy, ông A vay Ngân hàng 400.000.000 đồng có tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất diện tích 500 m2 và nhà ở. Theo tạm tính của Chấp hành viên thì giá trị toàn bộ tài sản thế chấp có giá trị 01 tỷ đồng (tài sản có thể tách rời không giảm giá trị). thì Chấp hành viên chỉ kê biên phần tài sản tương xứng với nghĩa vụ phải trả nợ vay theo bản án và chi phí về thi hành án mà người phải thi hành án phải chịu.
Các văn bản liên quan:
Nghị định 58/2009/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Ra quyết định tiếp tục thi hành án khi người nhà nộp tiền thay
Trường hợp đang hoãn thi hành án, người phải thi hành án vẫn chưa có điều kiện thi hành án mà người nhà đến cơ quan thi hành án đề nghị được thi hành án thay một phần nghĩa vụ đang hoãn thi hành án của người phải thi hành án thì cơ quan thi hành án phải tiến hành những thủ tục gì? Cơ quan thi hành án ra quyết định tiếp tục thi hành án toàn bộ phần nghĩa vụ đang hoãn thi hành án hay chỉ ra quyết định tiếp tục thi hành án đối với phần nghĩa vụ được người nhà thi hành thay?
Gửi bởi: Nguyễn Thị Quỳnh Giang
Trả lời có tính chất tham khảo
Hoãn thi hành án dân sự được hiểu là dừng việc thi hành án khi có căn cứ pháp luật quy định. Các căn cứ hoãn thi hành án được quy định tại Điều 48 Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Cụ thể, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án trong các trường hợp sau đây:
a) Người phải thi hành án bị ốm nặng, có xác nhận của cơ sở y tế từ cấp huyện trở lên; chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án hoặc vì lý do chính đáng khác mà người phải thi hành án không thể tự mình thực hiện được nghĩa vụ theo bản án, quyết định;
b) Người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn thi hành án. Việc đồng ý hoãn phải lập thành văn bản ghi rõ thời hạn hoãn, có chữ ký của các bên. Trong thời gian hoãn thi hành án do có sự đồng ý của người được thi hành án thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án;
c) Người phải thi hành các khoản nộp ngân sách nhà nước không có tài sản hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản đó không đủ chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc có tài sản nhưng tài sản thuộc loại không được kê biên;
d) Tài sản kê biên có tranh chấp đã được Tòa án thụ lý để giải quyết;
đ) Việc thi hành án đang trong thời hạn cơ quan có thẩm quyền giải thích bản án, quyết định và trả lời kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 179 của Luật này.
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án khi nhận được yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị ít nhất 24 giờ trước thời điểm cưỡng chế thi hành án đã được ấn định trong quyết định cưỡng chế. Trường hợp cơ quan thi hành án nhận được yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị ít hơn 24 giờ trước thời điểm cưỡng chế đã được ấn định trong quyết định cưỡng chế thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có quyền quyết định hoãn thi hành án khi xét thấy cần thiết.
Trường hợp vụ việc đã được thi hành một phần hoặc đã được thi hành xong thì cơ quan thi hành án dân sự phải có văn bản thông báo ngay cho người yêu cầu hoãn thi hành án.
Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định của Toà án chỉ được yêu cầu hoãn thi hành án một lần để xem xét kháng nghị nhằm tránh hậu quả không thể khắc phục được.
Thời hạn hoãn thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định không quá 03 tháng, kể từ ngày ra văn bản yêu cầu hoãn thi hành án; trong thời gian hoãn thi hành án thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ khi căn cứ hoãn thi hành án quy định tại khoản 1 Điều này không còn, hết thời hạn hoãn thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khi nhận được văn bản trả lời của người có thẩm quyền kháng nghị về việc không có căn cứ kháng nghị thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định tiếp tục thi hành án.
Căn cứ quy định nêu trên, trường hợp bạn hỏi, việc thi hành án đang được hoãn, vì thế khi căn cứ hoãn thi hành án không còn thì cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định tiếp tục thi hành án đối với việc thi hành án đó, tức là toàn bộ nghĩa vụ thi hành án của việc thi hành án đó. Tuy cá nhân người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành nhưng người nhà của người phải thi hành án đến cơ quan thi hành án đề nghị nộp tiền để thi hành thay một phần nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án thì cơ quan thi hành án thu tiền, đồng thời ra quyết định tiếp tục thi hành án để thực hiện việc thi hành án đó. Sau khi đã thu và chi trả xong phần tiền mà người nhà của người phải thi hành án nộp thì cơ quan thi hành án ra quyết định hoãn thi hành án nếu có căn cứ hoãn thi hành án nêu trên. Cơ quan thi hành án dân sự cần lưu ý thông báo cho người phải thi hành án và cơ quan, tổ chức, cá nhân người liên quan biết về việc tiếp tục thi hành án, thu và chi trả tiền thi hành án do người nhà của người phải thi hành án nộp để thi hành thay cho người phải thi hành án, bảo đảm công khai, chặt chẽ thủ tục thi hành án dân sự.
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Thủ tục uỷ thác thi hành án dân sự
Tại Quyết định của Tòa án nhân dân huyện Đ tuyên ông V phải nộp 200.000đ tiền án phí ly hôn sơ thẩm và 100.000đ tiền án phí cấp dưỡng nuôi con. Ông Đ được chuyển 200.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án thành tiền án phí ly hôn sơ thẩm, ông V còn phải nộp 100.000đ tiền án phí cấp dưỡng nuôi. Sau khi quyết định có hiệu lực pháp luật, Tòa án nhân dân huyện Đ đã chuyển Quyết định sang cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ thi hành, Chi cục Thi hành án huyện Đ đã thụ lý. Sau khi nghiên cứu Quyết định của Tòa án xét thấy người phải thi hành án đang công tác tại huyện N, Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ đã xử lý khoản tiền 200.000đ tiền án phí ly hôn sơ thẩm, sau đó ra Quyết định ủy thác thi hành án cho Chi cục Thi hành án huyện N tiếp tục thi hành khoản 100.000đ tiền án phí cấp dưỡng nuôi con chung đối với ông V, nhưng các tài liệu trong hồ sơ ủy thác chỉ có 01 bản sao Quyết định của Tòa án. Quyết định ủy thác thi hành án chỉ căn cứ vào các Điều luật thi hành án và Quyết định của Tòa án mà không căn cứ quyết định thu hồi một phần quyết định thi hành án để ủy thác. Như vậy Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ đã làm đúng quy trình thủ tục chưa?
Gửi bởi: Giap
Trả lời có tính chất tham khảo
Trong trường hợp này, theo quyết định của Toà án nhân dân huyện Đ thì ông V phải thi hành khoản án phí tổng cộng là 300.000 đồng, do vậy khi nhận được quyết định của Toà án thì Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ phải chủ động ra quyết định thi hành án đối với 300.000 đồng tiền án phí theo quy định tại khoản 1 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự. Sau khi đã trích chuyển 200.000 đồng tiền tạm ứng án phí để nộp án phí đối với ông Đ, có căn cứ uỷ thác thi hành án đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện N thì Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ thực hiện việc uỷ thác thi hành án.
Theo quy định tại Điều 57 Luật Thi hành án dân sự thì trước khi ủy thác, cơ quan thi hành án dân sự phải xử lý xong tài sản tạm giữ, thu giữ, tài sản kê biên tại địa bàn có liên quan đến khoản uỷ thác. Trường hợp Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định thi hành án nhưng xét thấy cần ủy thác thì phải ra quyết định thu hồi một phần hoặc toàn bộ quyết định thi hành án và ra quyết định ủy thác cho nơi có điều kiện thi hành. Cơ quan thi hành án dân sự nhận ủy thác không được trả lại quyết định ủy thác cho cơ quan thi hành án dân sự đã ủy thác mà phải tiếp tục thực hiện việc thi hành án theo quy định của Luật này, trừ trường hợp quyết định ủy thác có sự nhầm lẫn, sai sót rõ ràng về thẩm quyền của cơ quan nhận ủy thác thi hành án, nội dung thi hành án. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án và thông báo bằng văn bản cho cơ quan thi hành án dân sự đã ủy thác về việc nhận được quyết định ủy thác.
Khi thực hiện uỷ thác, cơ quan uỷ thác gửi quyết định uỷ thác và các tài liệu liên quan đến việc uỷ thác để cơ quan nơi nhận uỷ thác thực hiện việc thi hành án chính xác. Quyết định uỷ thác của Chi cục Thi hành án dân sự thực hiện theo Mẫu số:C 07-THA ban hành theo Thông tưsố 09/2011/TT-BTP ngày 30/5/2011 của Bộ Tư pháp.
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Thông tư 09/2011/TT-BTP Về việc ban hành và hướng dẫn việc quản lý, sử dụng các loạibiểu mẫu nghiệp vụ thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với từng người phải thi hành án
Ngân hàng XBANK cấp tín dụng cho một Công ty A. Khoản cấp tín dụng được đảm bảo bằng thư bảo lãnh thanh toán cho XBANK của Ngân hàng X và các bất động sản là tài sản đảm bảo bao gồm: Nhà và đất của Công ty A, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của người thứ ba. Do Công ty A vi phạm nghĩa vụ trả nợ với XBANK nên XBANK khởi kiện vụ kiện tại Tòa án để yêu cầu giải quyết vụ việc. Tòa án đã xét xử sơ thẩm vào tháng 06/2012 và xét xử phúc thẩm vào tháng 12/2012 với phán quyết tại bản án phúc thẩm tuyên:
– Công ty A phải thanh toán cho Ngân hàng XBANK số tiền nợ theo hợp đồng tín dụng tính đến ngày xét xử là 97.866.989.298 đồng và toàn bộ tiền lãi phát sinh trên vốn gốc từ ngày xét xử cho đến khi trả hết nợ cho XBANK theo mức lãi suất nợ quá hạn quy định trong hợp đồng tín dụng giữa XBANK và Công ty A. Thời hạn thanh toán ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
– Quá thời hạn mà Công ty A không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ các khoản nợ thì:
+ Ngân hàng X phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo các thư bảo lãnh đã phát hành bằng cách thanh toán cho XBANK số tiền gốc của nghĩa vụ bảo lãnh là 50.000.000.000 đồng.
+ Phát mãi các tài sản đảm bảo của Công ty A và của bên thứ ba để thu hồi nợ cho XBANK.
Tháng 01/2013, XBANK có đơn yêu cầu thi hành án. Cơ quan thi hành án đã yêu cầu Tòa án giải thích bản án nội dung trong trường hợp Công ty A không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ các khoản nợ trong phần quyết định của bản án, thì cơ quan thi hành án có được xử lý khấu trừ ngay tiền trong tài khoản của Ngân hàng X để thi hành nghĩa vụ trả nợ theo các thư bảo lãnh với số tiền gốc của nghĩa vụ bảo lãnh là 50.000.000.000 đồng trước khi kê biên xử lý các tài sản bảo đảm được tuyên trong bản án hay không? Tháng 03/2013, Tòa án có văn bản trả lời nếu Công ty A không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ các khoản nợ trong phần quyết định của bản án phúc thẩm, cơ quan thi hành án được quyền đồng thời áp dụng biện pháp tài sản sau: Buộc Ngân hàng X phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo các thư bảo lãnh với số tiền gốc của nghĩa vụ bảo lãnh là 50.000.000.000 đồng, phát mãi các tài sản đảm bảo được tuyên trong phần quyết định của bản án phúc thẩm.
Vậy, XBANK có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án thực hiện cưỡng chế thi hành án đối với Ngân hàng X và các đương sự khác không? Hay vì trong văn bản của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao có giải thích cơ quan thi hành án được quyền đồng thời áp dụng biện pháp tài sản, do đó, việc khấu trừ tiền trong tài khoản của Ngân hàng X phải được thực hiện cùng một thời điểm với việc kê biên, phát mãi tài sản thế chấp của Công ty A và các tài sản thế chấp khác?
Gửi bởi: Uyên Nhi
Trả lời có tính chất tham khảo
Với nội dung vụ việc bạn hỏi thì có một số vấn đề pháp lý sau đây cần được nhận thức đúng trước khi khẳng định XBANK có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thực hiện cưỡng chế thi hành án đối với Ngân hàng X và các đương sự khác không?
1. Thứ nhất, về xác định người phải thi hành án theo nội dung bản án phúc thẩm của Toà án ?
Theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 thì người phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành. Khoản 2 Điều 9 Luật Thi hành án dân sự quy định người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật này.
Đối chiếu với quy định này và căn cứ vào nội dung bản án phúc thẩm nêu trên thì có hai người phải thi hành án được xác định theo hai thời điểm thực hiện nghĩa vụ:
– Một là Công ty A. Theo đó, Công ty A phải thanh toán cho Ngân hàng XBANK số tiền nợ theo hợp đồng tín dụng tính đến ngày xét xử là 97.866.989.298 đồng và toàn bộ tiền lãi phát sinh trên vốn gốc từ ngày xét xử cho đến khi trả hết nợ cho XBANK theo mức lãi suất nợ quá hạn quy định trong hợp đồng tín dụng giữa XBANK và Công ty A. Thời hạn thanh toán ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
– Hai là, Ngân hàng X: Ngân hàng X trở thành người phải thi hành án khi “quá thời hạn mà Công ty A không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ các khoản nợ”, Ngân hành X “phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo các thư bảo lãnh đã phát hành bằng cách thanh toán cho XBANK số tiền gốc của nghĩa vụ bảo lãnh là 50.000.000.000 đồng”. Vì vậy, Ngân hàng X là người phải thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của pháp luật để thi hành nghĩa vụ bảo lãnh là 50.000.000.000 đồng.
2. Về thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự:
Điều 71 Luật Thi hành án dân sự quy định 6 loại biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, gồm: Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án; trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ; khai thác tài sản của người phải thi hành án; buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ và buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định.
Sáu loại biện pháp cưỡng chế này bảo đảm cho 3 loại nghĩa vụ dân sự và được áp dụng đối với từng người phải thi hành án tuỳ theo nghĩa vụ của họ. Việc áp dụng từng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự có những quy định của thủ tục chung về cưỡng chế thi hành án dân sự nhưng cũng có đặc thù riêng của từng biện pháp cưỡng chế. Một hoặc nhiều người phải thi hành án có thể bị áp dụng đồng thời cùng một lúc một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế thi hành án, tuy nhiên mỗi biện pháp cưỡng chế phải ra một quyết định cưỡng chế thi hành án, vì thế việc đồng thời áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự không có nghĩa là việc áp dụng biện pháp cưỡng chế này phải thực hiện cùng lúc với biện pháp cưỡng chế khác hay thực hiện biện pháp cưỡng chế này phải chờ biện pháp cưỡng chế khác, mà mỗi biện pháp cưỡng chế thi hành án có tính độc lập nhau và phải được áp dụng kịp thời để trách tẩu tán tài sản, bảo đảm hiệu quả của việc thi hành án, hạn chế án dân sự tồn đọng.
Ví dụ, biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án được thực hiện thì Chấp hành viên phải xác minh cụ thể cưỡng chế tài sản gì, tình trạng tài sản đó có đang cầm cố, thế chấp hay không; tài sản đó có phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng tài sản hay không.v.v. nên phải có khoảng thời gian nhất định.
Tuy nhiên, biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản hoặc trừ vào thu nhập thì việc xác minh đơn giản hơn vì dễ dàng xác định được số tiền của người phải thi hành án có trong tài khoản hoặc thu nhập của họ được nhận lương từ người sử dụng lao động, vì thế việc áp dụng biện pháp cưỡng chế loại này nhanh và phải kịp thời nhằm hạn chế việc tẩu tán tiền trong tài khoản.
Trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành mà không tự nguyện thi hành án nhưng Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự không kịp thời áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dẫn đến gây thiệt hại cho đương sự (như chậm cưỡng chế làm cho người phải thi hành án phải chịu thêm lãi chậm thi hành án hoặc người được thi hành án chậm, không được thi hành án do tài sản bị hư hỏng, tẩu tán) thì Chấp hành viên phải bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Như vậy, từ những phân tích nêu trên cho thấy trong trường hợp bạn hỏi, đã quá thời hạn theo nội dung quyết định của Toà án thì XBANK có quyền yêu cầu Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với Ngân hàng X để thi hành án thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo các thư bảo lãnh với số tiền gốc của nghĩa vụ bảo lãnh là 50.000.000.000 đồng và áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với Công ty A để thi hành khoản tiền gốc còn lại trong số tiền nợ theo hợp đồng tín dụng tính đến ngày xét xử là 97.866.989.298 đồng, cùng toàn bộ tiền lãi phát sinh trên vốn gốc từ ngày xét xử cho đến khi trả hết nợ cho XBANK theo mức lãi suất nợ quá hạn quy định trong hợp đồng tín dụng. Việc cưỡng chế thi hành án đối với Ngân hàng X không nhất thiết phải thực hiện song song hoặc phải chờ việc xử lý các tài sản đảm bảo khác.
Các văn bản liên quan:
Luật 35/2009/QH12 Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Kê biên, xử lý quyền sử dụng đất chưa được cấp giấy chứng nhận
Tôi bị kê biên tài sản để trả nợ ngân hàng nhưng tôi không nhất trí với việc định giá tài sản đất và nhà. Cụ thể như sau: Ngôi nhà hiện tôi đang ở diện tích đất trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 190 m2. Diện tích thực tế 259 m2. Khi cơ quan thi hành án xuống kê biên kê luôn của tôi 259 m2 mặc dù trong biên bản kê biên tôi nhất trí với cơ quan thi hành án chỉ kê biên 190 m2 đất không được kê biên số diện tích thửa còn lại và nhà ở. Vậy mà sau một tháng kê biên, cơ quan thi hành án lại gửi thông báo kê biên hết số diện tích đất thực tế và nhà ở của tôi. Đồng thời quyền sử dụng đất này là đất cấp cho hộ gia đình, cơ quan thi hành án cũng không phân chia tài sản cho 3 đứa con tôi đã trên 18 tuổi. Vậy, cho tôi hỏi tôi có thể yêu cầu cơ quan thi hành án không được kê biên số diện tích 69 m2 còn lại được không? Nếu đất cấp cho hộ gia đình thì tôi phải làm thủ tục như thế nào để cơ quan thi hành án chia quyền lợi cho 3 đứa con tôi?
Gửi bởi: Lê Thị Năm
Trả lời có tính chất tham khảo
Vụ việc bạn hỏi có nhiều nội dung, tình tiết nhưng không có hồ sơ cụ thể nên chúng tôi không khẳng định cơ quan thi hành án dân sự kê biên tài sản đúng hay sai. Tuy nhiên, chúng tôi nêu một số vấn đề bạn tham khảo:
1. Về vấn đề có được kê biên, xử lý diện tích đất ngoài diện tích đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không ?
Theo quy định tại Điều 110 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Chấp hành viên chỉ kê biên quyền sử dụng đất của người phải thi hành án thuộc trường hợp được chuyển quyền sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai. Người phải thi hành án chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà thuộc trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai hoặc thuộc diện quy hoạch phải thu hồi đất, nhưng chưa có quyết định thu hồi đất thì vẫn được kê biên, xử lý quyền sử dụng đất đó.
Như vậy, nếu qua xác minh cho thấy diện tích đất của người phải thi hành án chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng người phải thi hành án đã sử dụng ổn định hoặc đã nhận chuyển nhượng và thuộc trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai (Điều 100, 101 Luật Đất đai năm 2013, trước đây là Điều 50 Luật Đất đai năm 2003) thì cơ quan thi hành án có quyền kê biên diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Chấp hành viên căn cứ vào nội dung bản án, quyết định; tính chất, mức độ, nghĩa vụ thi hành án; điều kiện của người phải thi hành án; đề nghị của đương sự và tình hình thực tế của địa phương để lựa chọn việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án thích hợp. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án và các chi phí cần thiết. Trường hợp người phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất lớn hơn nhiều lần so với nghĩa vụ phải thi hành án mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên vẫn có quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế để thi hành án.
2. Về vấn đề bảo đảm quyền lợi cho 03 con của bạn?
Nếu đúng là diện tích đất bạn nêu là đất thuộc quyền sử dụng của hộ gia đình thì ngoài bạn còn có phần quyền sử dụng đất của các thành viên khác trong gia đình mà chỉ có bạn là người phải thi hành án thì căn cứ quy định của Bộ luật Dân sự và Điều 74 Luật Thi hành án dân sự, trước khi cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung của người phải thi hành án với người khác, kể cả quyền sử dụng đất, Chấp hành viên phải thông báo cho chủ sở hữu chung biết việc cưỡng chế. Chủ sở hữu chung có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án xác định phần sở hữu của họ đối với tài sản chung. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, nếu chủ sở hữu chung không khởi kiện thì người được thi hành án hoặc Chấp hành viên có quyền yêu cầu Toà án xác định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để bảo đảm thi hành án.
Vì thế, nếu xác định được phần diện tích đất của 03 người con của bạn, đồng thời việc không kê biên, bán đấu giá diện tích của 03 người con không làm mất hoặc giảm đáng kể giá trị tài sản thì không kê biên diện tích đất thuộc quyền sử dụng của 03 con của bạ. Bạn và 03 con bạn có quyền đề nghị cơ quan thi hành án xem xét và cũng nên đề nghị cơ quan thi hành án tạo điều kiện cho bạn và các thành viên trong hộ gia đình bạn thỏa thuận với người được thi hành án trong việc xử lý nhà đất để đảm bảo quyền lợi của các bên phù hợp với quy định của pháp luật.
Các văn bản liên quan:
Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Luật 45/2013/QH13 Đất đai
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Cưỡng chế kê biên tài sản chuyển nhượng sau khi có bản án
Chi cục THADS thành phố A đang thụ lý vụ kiện dân sự theo bản án thì bà D phải trả cho bà S 200 triệu đồng, Chấp hành viên đã tống đạt Quyết định thi hành án hợp lệ và tiến hành xác minh tài sản của bà D thì được biết bà D đang sử dụng 250m2 đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng (sổ đỏ). Trong thời gian tự nguyện thi hành án 15 ngày, bà D đã chuyển nhượng cho ông H toàn bộ diện tích đất nêu trên có công chứng hợp đồng tại Văn phòng công chứng nhưng ông H chưa làm thủ tục sang tên tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Vậy Chấp hành viên có được kê biên 250m2 đất nêu trên không? Giá trị pháp lý của hợp đồng chuyển nhượng đã qua Công chứng như thế nào?
Gửi bởi: Võ Mạnh Quý
Trả lời có tính chất tham khảo
Khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao Hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự quy định về kê biên, xử lý tài sản để thi hành án. Theo đó, kể từ thời điểm có bản án, quyết định sơ thẩm mà người phải thi hành án bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố tài sản của mình cho người khác, không thừa nhận tài sản là của mình mà không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên để thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu có tranh chấp thì Chấp hành viên hướng dẫn đương sự thực hiện việc khởi kiện tại Toà án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo mà không có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án xử lý tài sản để thi hành án.
Kể từ thời điểm có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc trong trường hợp đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án mà tài sản bị bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố cho người khác, người phải thi hành án không thừa nhận tài sản là của mình thì bị kê biên, xử lý để thi hành án.
Trường hợp bạn nêu, trong thời gian tự nguyện thi hành án 15 ngày, bà D chuyển nhượng cho ông H toàn bộ diện tích 250 m2 đất, tức là sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Vì thế, Chấp hành viên có quyền kê biên tài sản nêu trên để đảm bảo thi hành án nếu bà D không thừa nhận tài sản là của mình. Cơ quan thi hành án cần đề nghị Công chứng thu hồi, hủy bỏ việc công chứng đó. Giá trị công chứng không còn nếu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức việc bán đấu giá thành tài sản và người mua được tài sản thi hành án bán đấu giá đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó theo quy định tại khoản 4 Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 19/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai.
Các văn bản liên quan:
Thông tư liên tịch 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự
Nghị định 181/2004/NĐ-CP Về thi hành Luật Đất đai
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Thi hành quyết định giám đốc thẩm
Gia đình tôi đã nhận được văn bản giám đốc thẩm vụ án. Tôi đã làm đơn đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Khoái Châu, Hưng Yên để yêu cầu thi hành án nhưng cán bộ thi hành án lại nói tôi phải chờ. Vậy cho tôi hỏi gia đình tôi phải chờ đến khi nào mới được thi hành bản án xong, trong khi đó tôi đã nộp đầy đủ các thủ tục cưỡng chế và các khoản tiền cho Chi cục Thi hành án dân sự cách đây đã 3 năm rồi.
Gửi bởi: ĐỖ QUANG NGỌC
Trả lời có tính chất tham khảo
Việc thi hành quyết định giám đốc thẩm thực hiện theo quy định tại Điều 134, 135 và 136 Luật Thi hành án dân sự. Do bạn không nêu rõ nội dung quyết định giám đốc thẩm tuyên như thế nào, do đó bạn xem xét 03 trường hợp sau đây để xác định trường hợp của mình:
1. Trường hợp quyết định giám đốc thẩm tuyên giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà bản án, quyết định đó chưa thi hành hoặc đã thi hành được một phần thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định tiếp tục thi hành án. Trường hợp bản án, quyết định đó đã thi hành xong thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự thông báo cho Toà án đã ra quyết định giám đốc thẩm, Viện kiểm sát cùng cấp và đương sự.
2. Trường hợp quyết định giám đốc thẩm tuyên giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Toà án cấp dưới đã bị huỷ hoặc bị sửa thì việc thi hành được thực hiện theo quyết định giám đốc thẩm và bản án, quyết định đúng pháp luật của Toà án cấp dưới đã bị huỷ hoặc bị sửa. Đối với phần bản án, quyết định của Toà án cấp dưới không bị huỷ, bị sửa mà chưa được thi hành thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định tiếp tục thi hành án; nếu đã thi hành xong thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự thông báo cho Toà án đã ra quyết định giám đốc thẩm, Viện kiểm sát cùng cấp và đương sự. Đối với phần bản án, quyết định của Tòa án hủy, sửa bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới mà đã thi hành được một phần hoặc đã thi hành xong thì đương sự có thể thỏa thuận với nhau về việc hoàn trả tài sản, phục hồi lại quyền tài sản; trường hợp tài sản thi hành án là động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản còn nguyên trạng thì cưỡng chế trả lại tài sản đó cho chủ sở hữu; trường hợp tài sản đã được chuyển dịch hợp pháp cho người thứ ba chiếm hữu ngay tình thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa hoặc tài sản thi hành án đã bị thay đổi hiện trạng thì chủ sở hữu tài sản ban đầu không được lấy lại tài sản nhưng được bồi hoàn giá trị của tài sản; trường hợp có yêu cầu về bồi thường thiệt hại thì cơ quan ra bản án, quyết định bị huỷ, sửa giải quyết theo quy định của pháp luật.
3. Trường hợp quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm tuyên huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại thì việc thi hành án được thực hiện theo bản án, quyết định sơ thẩm mới có hiệu lực pháp luật hoặc bản án phúc thẩm mới. Trường hợp quyết định giám đốc thẩm tuyên hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án đã xét xử vụ án và đình chỉ giải quyết vụ án mà phần tài sản trong bản án, quyết định bị hủy đã thi hành được một phần hoặc đã thi hành xong thìđương sự có thể thỏa thuận với nhau về việc hoàn trả tài sản, phục hồi lại quyền tài sản; trường hợp tài sản thi hành án là động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản còn nguyên trạng thì cưỡng chế trả lại tài sản đó cho chủ sở hữu; trường hợp tài sản đã được chuyển dịch hợp pháp cho người thứ ba chiếm hữu ngay tình thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa hoặc tài sản thi hành án đã bị thay đổi hiện trạng thì chủ sở hữu tài sản ban đầu không được lấy lại tài sản nhưng được bồi hoàn giá trị của tài sản; trường hợp có yêu cầu về bồi thường thiệt hại thì cơ quan ra bản án, quyết định bị huỷ, sửa giải quyết theo quy định của pháp luật.
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Đương sự không tự nguyện bồi thường thiệt hại khi có bản án của tòa án
Em tôi bị đánh thương tích 19% được tòa án huyện nơi hiện trường xảy ra vụ án giải quyết, nhưng thời gian đã qua 6 tháng từ ngày kết thúc phiên tòa mà chưa được bồi thường tiền chữa trị thuốc thang. Gia đình tôi phải làm gì để yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết giúp đỡ gia đình tôi. Chân thành cảm ơn!
Gửi bởi: Nguyễn Văn Lâm
Trả lời có tính chất tham khảo
Theo điểm a khoản 2 Điều 375 Bộ luật Tố tụng dân sự, Bản án, quyết định về bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất tinh thần của công dân được thi hành ngay mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị. Đối với trường hợp của bạn, sau khi có bản án, quyết định của tòa án thì bị đơn dân sự phải thi hành ngay bản án, quyết định đó, tức là phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho em bạn.
Gia đình bạn có quyền nộp đơn yêu cầu thi hành án (đơn yêu cầu có thể nộp trực tiếp hoặc qua đường bưu điện) hoặc trực tiếp đến cơ quan thi hành án nêu rõ nội dung yêu cầu và các thông tin liên quan đến việc thi hành án (Điều 32 Luật Thi hành án dân sự). Đơn yêu cầu thi hành án có các nội dung chính sau đây:
a) Họ, tên, địa chỉ của người yêu cầu;
b) Tên cơ quan thi hành án dân sự nơi yêu cầu;
c) Họ, tên, địa chỉ của người được thi hành án; người phải thi hành án;
d) Nội dung yêu cầu thi hành án;
đ) Thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.
Người làm đơn yêu cầu thi hành án phải ghi rõ ngày, tháng, năm và ký tên hoặc điểm chỉ. Trường hợp người yêu cầu thi hành án trực tiếp trình bày bằng lời nói tại cơ quan thi hành án dân sự thì phải lập biên bản ghi rõ các nội dung quy định trên, có chữ ký hoặc điểm chỉ của người yêu cầu và chữ ký của người lập biên bản. Biên bản có giá trị như đơn yêu cầu thi hành án. Kèm theo đơn yêu cầu thi hành án, phải có bản án, quyết định được yêu cầu thi hành và tài liệu khác có liên quan, nếu có. Gia đình bạn có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án quy định tại Điều 66 của Luật Thi hành án dân sự (Phong toả tài khoản; Tạm giữ tài sản, giấy tờ; Tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản).
Thời hạn tự nguyện thi hành án là 15 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án (theo khoản 1 Điều 45 Luật Thi hành án dân sự); sau thời gian này mà đương sự không tự nguyện thi hành án thì gia đình bạn yêu cầu cơ quan thi hành cưỡng chế (theo Điều 46 Luật Thi hành án dân sự).
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Bộ luật 24/2004/QH11 Tố tụng dân sự
Trả lời bởi: CTV3
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Khiếu nại về thẩm định giá tài sản thi hành án
Nhà tôi bị kê biên phát mãi thi hành án. Nay tôi yêu cầu Thi hành án cho định giá lại do công ty thẩm định giá do tôi nhận thấy có sai sót trong định giá nhà của tôi, cụ thể như sau:
Tổng diện tích nhà tôi là 200m2, trong đó 140m2 không phạm lộ giới còn 60m2 phạm lộ giới. Tổng diện tích 200m2 nhà tôi đã sử dụng ổn định từ năm 1982 (trước ngày 15/10/1993) và được UBND phường xác nhận đất không có tranh chấp thì theo Nghị định 197/2004/NĐ-CP và Nghị định 84/2007/NĐ-CP phải định giá toàn bộ 200m2, nhưng công ty thẩm định giá lại bỏ mất không định giá 60m2 phạm lộ giới, khiến cho giá trên chứng thư sai (thấp đi). Nay tôi muốn khiếu nại về giá thẩm định sai này nhưng có một số thắc mắc:
1) Theo quy định của cơ quan thi hành án thì tôi phải ứng tiền phí thi hành án cho cơ quan thi hành án giữ, nhưng tôi không được ký hợp đồng với công ty thẩm định giá mà phải để cơ quan thi hành án ký hợp đồng với công ty thẩm định giá. Vậy, tôi không có hợp đồng này thì lấy căn cứ gì để khiếu nại về giá?
2) Như vậy tôi nộp đơn khiếu nại về giá thẩm định sai cho ai, cơ quan nào? (Tôi đã nộp đơn khiếu nại cho Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án quận nhưng được trả lời là không thuộc thẩm quyền của họ và từ chối thụ lý).
3) Trong khi cơ quan đó chưa giải quyết xong khiếu nại của tôi về giá thẩm định sai thì Thi hành án đã đưa nhà tôi ra bán đấu giá với giá định sai nêu trên làm giá khởi điểm là đúng hay sai? Nếu đúng thì thiệt thòi quá lớn quyền lợi của nhà tôi khiến gia đình tôi tan gia bại sản trong trường hợp có người trúng đấu giá nhà tôi, cơ quan nào chịu trách nhiệm bồi thường? Nếu sai, tôi khiếu nại việc sai phạm này ở cơ quan nào?
Nếu bây giờ thuê công ty thẩm định giá khác thì tôi không có tiền trả phí cho họ.
Gửi bởi: Nguyễn Việt Nam
Trả lời có tính chất tham khảo
Với nội dung đúng như bạn nêu thì vấn đề không phải là khiếu nại về giá tài sản đã thẩm định mà là không thẩm định 60m2 đất trong số 200m2 đất. Vì vậy, bạn cần liên hệ với cơ quan thi hành án dân sự nơi đã kê biên và ký hợp đồng thẩm định giá nhà đất để yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự trả lời rõ diện tích đất đã kê biên, diện tích đất đã ký hợp đồng thẩm định giá và xác định rõ lỗi của cơ quan nào trong việc không định giá 60m2 đất.
Nếu hợp đồng thẩm định giá giữa cơ quan thi hành án dân sự và công ty thẩm định giá đã ký với diện tích 200m2 đất cùng với nhà gắn liền nhưng công ty thẩm định giá bỏ mất 60m2 đất không định giá thì lỗi của công ty thẩm định giá. Vì thế, bạn có quyền yêu cầu công ty thẩm định giá hoặc yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự huỷ kết quả định giá vì vi phạm hợp đồng đã ký giữa cơ quan thi hành án dân sự và công ty thẩm định giá, không thẩm định giá hết tài sản đã ký hợp đồng thẩm định giá. Trong trường hợp này, công ty thẩm định giá có lỗi nên công ty phải chịu toàn bộ chi phí thẩm định giá và bồi thường thiệt hại nếu có.
Trong trường hợp cơ quan thi hành án dân sự kê biên 200m2 đất nhưng phát hiện 60m2 đất nằm trong lộ giới nên không kê biên, không ký hợp đồng thẩm định giá diện tích đất 60m2 đất thì 60m2 đất này vẫn do bạn quản lý, sử dụng. Trong trường hợp này, theo quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và Nghị định số 58/2008/NĐ-CP ngày 13/7/2008 của Chính phủ thì cơ quan thi hành án dân sự phải thông báo cho bạn biết và phải xác định lại rõ ranh giới, diện tích đất kê biên, tiến hành định giá, bán đấu giá. Vì thế, bạn cần xác định đúng nội dung khiếu nại để khiếu nại cho đúng, không phải khiếu nại về giá của tài sản đã định.
Việc bạn yêu cầu định giá lại tài sản và phải chịu chi phí thẩm định lại nếu cơ quan thi hành án dân sự chỉ kê biên, ký hợp đồng thẩm định giá đối với 140m2 đất và công ty thẩm định giá thẩm định đúng diện tích 140m2 đất này theo hợp đồng đã ký kết với cơ quan thi hành án nhưng giá của 140m2 đất này bạn không đồng ý. Ví dụ, theo bạn giá 10 triệu đồng/m2 đất nhưng công ty thẩm định giá chỉ đưa ra kết quả 8 triệu đồng/m2 đất.
Các văn bản liên quan:
Nghị định 58/2008/NĐ-CP Hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Khi nào thực hiện niêm phong tài sản trước khi giao cho người phải thi hành án bảo quản
Khi thực hiện kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án, trường hợp nào Chấp hành viên phải thực hiện niêm phong tài sản trước khi giao cho người phải thi hành án bảo quản?
Gửi bởi: Kiều Duyên
Trả lời có tính chất tham khảo
Nội dung bạn hỏi thực hiện theo quy định tại Điều 93 và khoản 4 Điều 95 Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Khi kê biên đồ vật đang bị khoá hoặc đóng gói thì Chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án, người đang sử dụng, quản lý đồ vật mở khoá, mở gói; nếu họ không mở hoặc cố tình vắng mặt thì Chấp hành viên tự mình hoặc có thể thuê cá nhân, tổ chức khác mở khoá, phá khoá hoặc mở gói, trong trường hợp này phải có người làm chứng. Người phải thi hành án phải chịu thiệt hại do việc mở khoá, phá khóa, mở gói.
Trường hợp cần thiết, sau khi mở khoá, phá khoá, mở gói, Chấp hành viên niêm phong đồ vật và giao bảo quản theo quy định tại Điều 58 của Luật này. Pháp luật không quy định cụ thể“trường hợp cần thiết” là trường hợp nào, do đó Chấp hành viên phải cân nhắc và quyết định niên phong đồ vật đó hay không trước khi giao cho người bảo quản hoặc bảo quản tại kho cơ quan thi hành án dân sự.
Việc mở khoá, phá khoá, mở gói hoặc niêm phong phải lập biên bản, có chữ ký của những người tham gia và người làm chứng.
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Xử lý việc thi hành án chủ động trong trường hợp mẹ nộp tiền thay cho con
Bản án hình sự của Tòa án tuyên buộc Nguyễn Văn A phải nộp án phí, truy thu sung công quỹ nhà nước. Sau khi chủ động ra quyết định thi hành án, Chấp hành viên được phân công thi hành vụ việc xác minh điều kiện thi hành án của A cho thấy A đang chấp hành án phạt tù tại trại giam; tài sản riêng không có, tài sản chung không có, không có thu nhập để thi hành án nên xác định A không có điều kiện thi hành án.
Tuy nhiên, Chấp hành viên động viên mẹ của A tự nguyện nộp thay A khoản tiền theo quyết định thi hành án. Mẹ của A tuy điều kiện kinh tế có khó khăn nhưng đồng ý sẽ bàn bạc với gia đình có sẽ hướng nộpnộp dần số tiền trên cho A vào ngày 15 của tháng cuối quý. Trên thực tế, mẹ của A đã nộp tiền theo cam kết được một số quý. Vậy, trong trường hợp này, Chấp hành viên động viên mẹ A nộp tiền thi hành án có được không; cách thức xử lý hồ sơ thi hành án như thế nào, có ra quyết định hoãn thi hành án được không?
Gửi bởi:
Trả lời có tính chất tham khảo
1. Về việc Chấp hành viên động viên mẹ A nộp tiền thi hành án:
Việc Chấp hành viên động viên mẹ của A tự nguyện nộp tiền thi hành án cho A là cần thiết nhằm góp phần giảm bớt án dân sự tồn đọng, tạo điều kiện cho A được hưởng chính sách miễn, giảm thi hành án dân sự theo quy định tại Điều 61 Luật Thi hành án dân sự, cũng như hưởng chính sách đặc xá, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù cho A. Tuy nhiên, phải xác định rằng A là người phải thi hành án, mẹ của A không phải là người phải thi hành án nên Chấp hành viên không được bắt buộc mẹ A nộp tiền, không được cưỡng chế thi hành án đối với mẹ của A. Trong trường hợp này, Chấp hành viên cần lập biên bản chặt chẽ, ghi nhận cụ thể nội dung tự nguyện cam kết nộp tiền cho A của mẹ A làm cơ sở tiếp tục động viên mẹ A nộp tiền. Khi mẹ A nộp tiền thì cơ quan thi hành án dân sự phải kịp thời thu khoản tiền đó và khi đương sự yêu cầu xác nhận kết quả thi hành án thì trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu của đương sự, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự sự cấp giấy xác nhận kết quả để bảo đảm quyền lợi cho đương sự theo quy định tại Điều 53 Luật Thi hành án dân sự.
2. Về cách thức xử lý hồ sơ thi hành án:
Đây là việc thi hành án thuộc loại chủ động thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự. Trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự phải xử lý việc thi hành án theo đúng thủ tục do pháp luật quy định. Sau khi ra quyết định thi hành án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án phải phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành vụ việc. Chấp hành viên phải tiến hành xác minh điều kiện thi hành án và báo cáo đề xuất, xử lý vụ việc khi có căn cứ hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ, miễn, giảm thi hành án.
Trong trường hợp “người phải thi hành các khoản nộp ngân sách nhà nước không có tài sản hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản đó không đủ chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc có tài sản nhưng tài sản thuộc loại không được kê biên” (gọi tắt là người phải thi hành án không có tài sản) thì ra quyết định hoãn thi hành án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự. Đối với việc thi hành án thuộc diện chủ động thi hành án mà người phải thi hành án không có điều kiện thi hành án thì ít nhất 6 tháng một lần, Chấp hành viên phải thực hiện xác minh điều kiện thi hành án của đương sự; trường hợp người phải thi hành án không có điều kiện thi hành án mà đang chấp hành hình phạt tù hoặc không xác định được địa chỉ, nơi cư trú mới thì thời hạn xác minh giữa các lần không được quá một năm theo quy định tại khoản 5 Điều 6 Nghị định số 58/2008/NĐ-CP ngày 13/7/2008 của Chính phủ. Khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành (người phải thi hành có tài sản hoặc có người nào đó nộp tiền thay – trường hợp người khác nộp tiền thay thì phải là việc thực nộp tiền, nếu chỉ cam kết nộp nhưng chưa thực nộp tiền thì chưa có cơ sở coi là người phải thi hành án có điều kiện thi hành) thì căn cứ hoãn thi hành án không còn; trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ khi căn cứ hoãn thi hành án không còn, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định tiếp tục thi hành án.
Quy định về hoãn thi hành án trong trường hợp “người phải thi hành các khoản nộp ngân sách nhà nước không có tài sản hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản đó không đủ chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc có tài sản nhưng tài sản thuộc loại không được kê biên” là quy định mới của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 so với Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 nhằm hạn chế tình trạng Chấp hành viên để tồn đọng án chủ động, không tích cực trong việc xác minh, xử lý hồ sơ thi hành án và góp phần giải quyết việc thi hành án dân sự, tạo điều kiện cho cơ quan thi hành án dân sự xử lý hồ sơ thi hành án theo từng định kỳ thống kê, báo cáo kết quả thi hành án thuận lợi, cũng như kiểm sát việc thi hành án thường xuyên, chặt chẽ theo từng tháng tổ chức việc thi hành án của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự.
Căn cứ quy định của pháp luật về thi hành án dân sự hiện hành, trong trường hợp bạn hỏi, A là người phải thi hành án, A đang chấp hành án phạt tù tại trại giam; tài sản riêng không có, tài sản chung không có, không có thu nhập để thi hành án thì có căn cứ xác định A chưa có điều kiện thi hành án. Mặt khác, do mẹ của A cam kết nộp tiền để thực hiện nghĩa vụ cho A nhưng tại thời điểm cam kết chưa nộp, trong khi đó định kỳ hàng tháng cơ quan thi hành án phải thực hiện báo cáo kết quả thống kê thi hành án. Vì thế, những tháng mà mẹ của A chưa nộp (vì ngày 15 của tháng cuối quý mới nộp – tương ứng với việc 03 tháng nộp một lần) thì cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định hoãn thi hành án để thống kê kết quả thi hành án theo tháng quy định tạiThông tư số 01/2013/TT-BTP ngày 03/01/2013 của Bộ Tư pháp hướng dẫn Chế độ báo cáo thống kê thi hành án dân sự (thay thế Quyết định số 02/2006/QĐ-BTP ngày 14/4/2006 của Bộ Trưởng Bộ Tư pháp ban hành Chế độ thống kê thi hành án dân sự). Bởi vậy, trong trường hợp bạn nêu có cơ sở thực hiện hoãn thi hành án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự.
Việc xử lý hồ sơ thi hành án trong trường hợp bạn hỏi thực hiện như sau: Sau khi xác minh điều kiện thi hành án cho thấy A chưa có điều kiện thi hành án, mẹ của A đồng ý nộp tiền thay cho con vào ngày 15 của tháng cuối quý thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự. Khi mẹ của A nộp tiền thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định tiếp tục thi hành án, tiến hành thu tiền, báo cáo kết quả thi hành của 03 định kỳ (tháng) đó. Sau khi thu tiền của quý đó (03 tháng), nếu A vẫn không có tài sản thì cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án, khi mẹ của A nộp tiền thì ra quyết định tiếp tục thi hành án, thu tiền và thực hiện tương tự như lần thứ nhất. Những lần sau cũng thực hiện tương tự như lần thứ nhất và lần thứ hai.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, mẹ của A cam kết nộp tiền vào ngày 15 tháng cuối cùng của quý nhưng cũng có thể mẹ của A nộp sớm hơn (ví dụ mẹ của A nộp tiền vào ngày 10 tháng đầu tiên của quý) thì khi mẹ của A nộp tiền, cơ quan thi hành án phải ra quyết định tiếp tục thi hành án, thu ngay số tiền đó. Trường hợp mẹ của chậm nộp tiền, ví dụ ngày 15 của tháng thứ 15 mới nộp thì khi mẹ A nộp tiền, cơ quan thi hành án mới được ra quyết định tiếp tục thi hành án, thu tiền và báo cáo kết quả thi hành án của 15 tháng đó (báo cáo kết quả theo tháng, quý, năm quy định của Chế độ báo cáo thống kê thi hành án dân sự tại Thông tư số 01/2013/TT-BTP ngày 03/01/2013 của Bộ Tư pháp.
Các văn bản liên quan:
Nghị định 58/2008/NĐ-CP Hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Thông tư 01/2013/TT-BTP Hướng dẫn Chế độ báo cáo thống kê thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Miễn phí thi hành án đối với trường hợp đòi nhà cho thuê
Bản án tuyên chấm dứt hợp đồng thuê nhà và giao lại nhà. Vậy người nhận lại nhà cho thuê có phải nộp phí thi hành án của căn nhà được nhận không?
Gửi bởi: Huynh Ngoc Tram
Trả lời có tính chất tham khảo
Điều 5 Thông tư liên tịch số 144/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 22/09/2010 của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp hướng dẫn về chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án dân sự quy định người được thi hành án được miễn, giảm phí thi hành án như sau: Giảm 80% phí thi hành án đối với người được thi hành án là người có khó khăn về kinh tế. Người có khó khăn về kinh tế được giảm phí thi hành án là người thuộc chuẩn nghèo theo quy định của pháp luật hiện hành. Miễn phí thi hành án đối với các đối tượng được quy định tại Điều 2 Pháp lệnh Ưu đãi người có công với Cách mạng năm 2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Miễn phí thi hành án đối với người được thi hành án là người thuộc diện neo đơn, tàn tật, ốm đau kéo dài theo quy định của pháp luật hiện hành. Miễn phí thi hành án đối với trường hợp Tòa án xác định không có giá ngạch và không thu án phí có giá ngạch khi xét xử (như trường hợp đòi nhà cho thuê, đòi nhà cho ở nhờ…).
Đối chiếu với quy định nêu trên, bản án tuyên chấm dứt hợp đồng thuê nhà và giao lại nhà thì người được thi hành án phải chịu phí thi hành án dân sự theo quy định tại Điều 60 Luật Thi hành án dân sự, Điều 33 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự. Tuy nhiên, bản án tuyên chấm dứt hợp đồng thuê nhà và giao lại nhà mà Tòa án xác định không có giá ngạch và không thu án phí có giá ngạch khi xét xử thì được miễn phí thi hành án.
Để được miễn phí thi hành án, đương sự phải làm đơn đề nghị được miễn phí thi hành án theo mẫu (kèm theo các tài liệu có liên quan nếu có). Đơn đề nghị được miễn phí thi hành án (kèm theo các tài liệu có liên quan nếu có) được nộp cho cơ quan thu phí. Thủ trưởng cơ quan thu phí nơi nhận đơn xem xét, ra quyết định việc miễn phí thi hành án. Trường hợp người làm đơn không được miễn phí thi hành án thì cơ quan thu phí phải có thông báo cho đương sự biết và nêu rõ lý do về việc không được miễn phí thi hành án. Thời gian xem xét việc miễn phí thi hành án không quá 15 (mười lăm) ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn đề nghị được miễn phí thi hành án.
Các văn bản liên quan:
Thông tư liên tịch 144/2010/TTLT-BTC-BTP Hướng dẫn về chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án dân sự
Nghị định 58/2009/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Xử lý trong trường hợp định giá thiếu giá trị một số tài sản đã kê biên
Tài sản đã bán đấu giá thành nhưng sau đó phát hiện thấy việc thẩm định giá còn thiếu giá trị của một số tài sản đã kê biên thì có phải hủy kết quả bán đấu giá không hay vẫn phải bàn giao tài sản cho người mua?
Gửi bởi: Minh Lộc
Trả lời có tính chất tham khảo
Việc hủy kết quả bán đấu giá tài sản trong các trường hợp quy định tại Điều 48 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/03/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản và Điều 102 Luật Thi hành án dân sự. Theo đó, kết quả bán đấu giá tài sản bị hủy trong các trường hợp sau đây:
– Do thỏa thuận giữa người có tài sản bán đấu giá, người mua được tài sản bán đấu giá và tổ chức bán đấu giá tài sản, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; đối với tài sản thi hành án, thì còn phải có thỏa thuận của người phải thi hành án.
– Hợp đồng bán đấu giá tài sản, hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá bị Tòa án tuyên bố vô hiệu hoặc bị hủy theo quy định của pháp luật dân sự.
– Kết quả bán đấu giá tài sản bị hủy theo quyết định của người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Trường hợp kết quả bán đấu giá tài sản bị huỷ theo bản án, quyết định của Toà án thì việc xử lý tài sản để thi hành án được thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án dân sự. Việc xử lý hậu quả và bồi thường thiệt hại do kết quả bán đấu giá tài sản bị huỷ được giải quyết theo quy định của pháp luật, các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật, thì phải trả bằng tiền. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Căn cứ quy định của Bộ luật dân sự, Luật Thi hành án dân sự, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/03/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản, Nghị định số 125/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự thì người mua được tài sản đấu giá, người nhận tài sản để thi hành án được bảo vệ quyền sở hữu, sử dụng tài sản đã mua đấu giá, nhận để thi hành án. Trường hợp người mua được tài sản bán đấu giá đã nộp đủ tiền mua tài sản bán đấu giá nhưng bản án, quyết định bị đình chỉ thi hành án, kháng nghị, sửa đổi hoặc hủy thì cơ quan thi hành án dân sự tiếp tục hoàn thiện thủ tục giao tài sản, kể cả thực hiện việc cưỡng chế thi hành án để giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá, trừ trường hợp trình tự, thủ tục bán đấu giá vi phạm quy định của pháp luật do có lỗi của người mua được tài sản bán đấu giá; người phải thi hành án, người được thi hành án và người mua được tài sản bán đấu giá có thỏa thuận khác. Việc cưỡng chế giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá, người nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án thực hiện theo quy định về cưỡng chế thi hành án dân sự buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản.
Vì vậy, nếu chỉ vì định giá thiếu một số tài sản nhưng khi bán đấu giá thông báo tất cả các tài sản với giá khởi điểm của tất cả các tài sản đó và kết quả bán đấu giá không có lỗi của người mua được tài sản thì về nguyên tắc phải giao tài sản cho người trúng đấu giá (toàn bộ lô tài sản bán đấu giá đó). Người có lỗi trong việc định giá, tổ chức bán đấu giá thiếu tài sản phải bồi thường thiệt hại đối với phần tài sản định giá thiếu tương ứng với phần lỗi của họ.
Các văn bản liên quan:
Nghị định 17/2010/NĐ-CP Về bán đấu giá tài sản
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Nghị định 125/2013/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Cần liên hệ với cơ quan thi hành dân sự và xác minh điều kiện thi hành án
Cha tôi bị cô Nguyễn Thị Nguyệt Hằng chém bị thương tích 10% ở đầu và Tòa án đã xử Nguyễn Thị Nguyệt Hằng án treo thời gian thử thách 01 năm và phải đền bù thiệt hại cho cha tôi là 15 triệu đồng.Cha tôi đã làm đơn gởi tới cơ quan thi hành án và được nhận chỉ có 10 triệu đồng thôi, vẫn còn thiếu 5 triệu đồng nữa. Vậy, tôi phải làm gì để nhận thêm 5 triệu đồng từ cơ quan thi hành án hoặc từ người phải thi hành án?
Gửi bởi: Nguyễn Đình Minh Phúc
Trả lời có tính chất tham khảo
Nội dung câu hỏi của bạn không nêu rõ vì sao cha bạn chưa nhận được số tiền 5 triệu đồng bồi thường còn lại nên chúng tôi không thể trả lời cụ thể bạn nên làm thế nào. Tuy nhiên, kết quả thi hành án đối với phần bồi thường thiệt hại dân sự trong bản án hình sự của Tòa án phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có vấn đề người phải thi hành án có tiền, tài sản hay không; tài sản đã kê biên bán được hay chưa bán được v.v.
Vì thế, cha bạn (hoặc cha bạn ủy quyền cho bạn) cần liên hệ trực tiếp với cơ quan thi hành án dân sự nơi đã tổ chức việc thi hành án để hỏi rõ lý do vì sao chưa được nhận số tiền thi hành án còn lại. Trong trường hợp việc thi hành án chưa có kết quả do tài sản của người phải thi hành án đã bị kê biên nhưng chưa bán được do chưa có người mua thì cha bạn cần chờ kết quả bán tài sản. Trường hợp người phải thi hành án chưa có tài sản nên chưa thi hành được thì bạn nên xác minh và cung cấp thông tin về tài sản của người phải thi hành án cho cơ quan thi hành án để cơ quan thi hành án xử lý tài sản đó để thi hành án đối với phần tiền còn lại theo quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 hoặc trực tiếp yêu cầu người phải thi hành án trả số tiền phải thi hành án còn lại đó.
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Yêu cầu tiếp tục thi hành án cấp dưỡng nuôi con
Tôi xin hỏi cơ quan thi hành án dân sự đang tiếp nhận vụ án thu tiền nuôi con chung giúp tôi trong 18 năm, đã thực hiện được 2 năm. Bây giờ họ nói họ mệt mỏi và hồ sơ lưu lâu nên họ không thực hiện nữa, đúng hay sai. Họ nói để hai người trực tiếp nộp tiền nuôi con và họ có văn bản. Điều đó có đáng tin không?
Gửi bởi: Dương Thị Mai
Trả lời có tính chất tham khảo
Căn cứ quy định tại Điều 14, 15, 16, 17 và Điều 21 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 thì trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự phải trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định theo quy định.
Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định. Chấp hành viên phải kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được phân công; ra các quyết định về thi hành án theo thẩm quyền; thi hành đúng nội dung bản án, quyết định; áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án, bảo đảm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; thực hiện nghiêm chỉnh chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp Chấp hành viên; yriệu tập đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết việc thi hành án; xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải thi hành án hoặc phối hợp với cơ quan có liên quan xử lý vật chứng, tài sản và những việc khác liên quan đến thi hành án; quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án; lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án; thu giữ tài sản thi hành án; yêu cầu cơ quan Công an tạm giữ người chống đối việc thi hành án theo quy định của pháp luật; lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật về thi hành án; xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm; quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu hồi tiền, tài sản đã chi trả cho đương sự không đúng quy định của pháp luật, thu phí thi hành án và các khoản phải nộp khác; được sử dụng công cụ hỗ trợ trong khi thi hành công vụ theo quy định của Chính phủ; thực hiện nhiệm vụ khác theo sự phân công của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự. Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Chấp hành viên phải tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín.
Vì thế, cán bộ của cơ quan thi hành án dân sự nói mệt mỏi và hồ sơ lưu lâu nên không thực hiện việc thi hành án nữa là không có cơ sở. Vì thế, bạn có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án tiếp tục thực hiện việc thi hành án theo quy định của pháp luật.
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Có được ưu tiên thanh toán tiền bán tài sản cho bản án được Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không?
Có một vụ thi hành án bán tài sản để thi hành nhiều bản án, trong số đó có một bản án được Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Vậy đến khi bán được tài sản thì bản án đó có được ưu tiên hay không?
Gửi bởi: Thu Pham
Trả lời có tính chất tham khảo
Các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 102 Bộ luật Tố tụng dân sự bao gồm 13 loại: Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng; buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm; buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động; tạm đình chỉ việc thi hành quyết định sa thải người lao động; kê biên tài sản đang tranh chấp; cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp; cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp; cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hoá khác; phong toả tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong toả tài sản ở nơi gửi giữ; phong toả tài sản của người có nghĩa vụ; cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định và các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà pháp luật có quy định.
Việc ưu tiên thanh toán cho bản án đã được Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tùy thuộc vào trường hợp cụ thể và thực hiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành về thi hành án dân sự.Theo quy định tại Điều 47 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 thì số tiền thi hành án, sau khi trừ các chi phí thi hành án và khoản tiền quy định tại khoản 5 Điều 115 của Luật này, được thanh toán theo thứ tự: Tiền cấp dưỡng; tiền lương, tiền công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động; tiền bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần; án phí; các khoản phải thi hành án khác theo bản án, quyết định. Trường hợp có nhiều người được thi hành án thì việc thanh toán tiền thi hành án được thực hiện như sau: Việc thanh toán được thực hiện theo thứ tự quy định nêu trên; trường hợp trong cùng một hàng ưu tiên có nhiều người được thi hành án thì việc thanh toán được thực hiện theo tỷ lệ số tiền mà họ được thi hành án; Số tiền thi hành án thu theo quyết định cưỡng chế thi hành án nào thì thanh toán cho những người được thi hành án đã có đơn yêu cầu tính đến thời điểm có quyết định cưỡng chế đó. Số tiền còn lại được thanh toán cho những người được thi hành án theo các quyết định thi hành án khác tính đến thời điểm thanh toán. Số tiền còn lại được trả cho người phải thi hành án. Số tiền thu được từ việc bán tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bán tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành một nghĩa vụ cụ thể được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ được bảo đảm đó sau khi trừ các chi phí về thi hành án. Thứ tự thanh toán tiền thi hành án về phá sảnđược thực hiện theo quy định của pháp luật về phá sản. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày thu được tiền, Chấp hành viên phải thực hiện việc thanh toán tiền thi hành án.
Do vậy, trong trường hợp thu được tiền từ việc bán tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành một nghĩa vụ cụ thể được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ được bảo đảm đó sau khi trừ các chi phí về thi hành án.
Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 13 Điều 1 Nghị định số 125/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự thì nghĩa vụ cụ thể được ưu tiên thanh toán phải được xác định cụ thể trong bản án, quyết định của Toà án tuyên kê biên bảo đảm thi hành cho nghĩa vụ cụ thể đó. Vì thế, những nội dung Tòa án tuyên áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tạm giữ tài sản, cấm dịch chuyển tài sản, kê biên tài sản nói chung v.v. mà không tuyên rõ ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ cụ thể nào thì không được ưu tiên theo quy định này.
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Bộ luật 24/2004/QH11 Tố tụng dân sự
Nghị định 125/2013/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Trực tiếp yêu cầu bồi thường hoặc đề nghị khôi phục thời hiệu yêu cầu thi hành án
Bố tôi bị đánh thương tích 81% đã được Tòa án nhân dân tối cao xét xử sau hai lần kháng cáo trước đó. Trong bản án ghi rõ bị cáo phải bồi thường thiệt hại cho bố tôi là 74 triệu đồng và bị cáo phải chịu 14 năm tù giam tính từ thời điểm tháng 5 năm 2005. Thế nhưng đã gần 10 năm mà gia đình tôi vẫn chưa được bồi thường. Đã nhiều lần gia đình tôilàm đơn gửi đi cơ quan thi hành án của huyện nhưng không được phản hồi. Gần đây gia đình tôi lại tiếp tục làm đơn vì nghe tin bị cáo sắp được ra tù trước thời hạn. Khi gặp cán bộ thi hành án thì gia đình tôi nhận được câu trả lời là đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án. Vậy, gia đình tôi nên làm thế nào để lấy lại công bằng cho bố tôi (hiện nay đã bị thương tật liệt hai chân)? Nếu bị cáo được mãn hạn tù thì phải có trách nhiệm bồi thường như bản án nữa hay không, mong được giải đáp?
Gửi bởi: Nguyễn Văn Tuấn
Trả lời có tính chất tham khảo
1. Nội dung vụ việc bạn nêu chưa đầy đủ tình tiết để khẳng định thời hiệu yêu cầu thi hành án cụ thể thế nào. Bởi vì, trường hợp của bố bạn bản án có hiệu lực năm 2005 thì lúc đó áp dụng thời hiệu yêu cầu thi hành án quy định tại Điều 25 Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 21/4/2004. Trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án. Trong trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định của Toà án thì thời hạn ba năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn. Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn ba năm được áp dụng cho từng định kỳ, tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn. Đối với các trường hợp hoãn, tạm đình chỉ thi hành án theo quy định tại Điều 26 và Điều 27 của Pháp lệnh này thì thời gian hoãn, tạm đình chỉ không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án.
Sau đó, Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 nâng thời hiệu yêu cầu thi hành án từ 03 năm lên thành 05 năm.Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án. Trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì thời hạn 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn. Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn 05 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn. Đối với các trường hợp hoãn, tạm đình chỉ thi hành án theo quy định của Luật này thì thời gian hoãn, tạm đình chỉ không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án, trừ trường hợp người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn thi hành án.
2. Theo quy định của pháp luật, người được thi hành án chỉ được quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành án trong thời hiệu yêu cầu thi hành án do pháp luật quy định, nếu hết thời hạn đó mà không yêu cầu thi hành án thì hết quyền yêu cầu cơ quan thi hành án thi hành án. Tuy nhiên, việc hết quyền yêu cầu cơ quan thi hành án thi hành nhưng người được thi hành án vẫn có quyền trực tiếp yêu cầu người phải thi hành án thi hành quyền lợi cho mình bởi vì bản án chưa được thi hành thì vẫn còn hiệu lực.
Mặt khác, Điều 25 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 và Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định trường hợp người yêu cầu thi hành án chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án.
Khoản 3 Điều 2 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự quy định sự kiện bất khả kháng là trường hợp thiên tai, hỏa hoạn, địch họa; trở ngại khách quan là trường hợp đương sự không nhận được bản án, quyết định mà không phải do lỗi của họ; đương sự đi công tác ở vùng biên giới, hải đảo mà không thể gửi đơn yêu cầu thi hành án đúng hạn; tai nạn, ốm nặng đến mức mất khả năng nhận thức, phải điều trị nội trú hoặc do lỗi của cơ quan xét xử, cơ quan thi hành án dân sự hoặc cơ quan, cá nhân khác dẫn đến việc đương sự không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn hoặc đương sự chết mà chưa xác định được người thừa kế; tổ chức hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể, cổ phần hóa mà chưa xác định được tổ chức, cá nhân mới có quyền yêu cầu thi hành án theo quy định của pháp luật.
3. Vì vậy, bố bạn có thể trực tiếp yêu cầu người phải thi hành án bồi thường thiệt hại cho mình hoặc nếu có trở ngại khách quan, sự kiện bất khả kháng nêu trên thì làm đơn gửi cơ quan thi hành án dân sự nơi Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án đề nghị khôi phục thời hiệu yêu cầu thi hành án. Đơn đề nghị phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ của người yêu cầu; tên cơ quan thi hành án dân sự nơi yêu cầu; họ, tên địa chỉ của người được thi hành án, người phải thi hành án, nội dung của việc thi hành án, lý do không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn. Kèm theo đơn phải có bản án, quyết định được yêu cầu thi hành và tài liệu chứng minh lý do không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn.
Đối với trường hợp xảy ra thiên tai, hỏa hoạn, địch họa hoặc do đương sự chết mà chưa xác định được người thừa kế hay do trở ngại khách quan khác xảy ra tại địa phương nên không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn thì phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú. Đối với trường hợp do phải chữa bệnh nội trú nên không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn thì phải có xác nhận hoặc giấy nhập viện, xuất viện của tổ chức y tế cấp huyện trở lên. Đối với trường hợp do yêu cầu công tác nên không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn thì phải có xác nhận của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị hoặc giấy cử đi công tác của cơ quan, đơn vị đó. Đối với những trường hợp bất khả kháng, trở ngại khách quan khác nên không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn thì phải có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền hoặc tài liệu hợp pháp khác để chứng minh.
Xác nhận của tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải thể hiện rõ địa điểm, nội dung và thời gian xảy ra sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan dẫn đến việc đương sự không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn.
Căn cứ quy định tại Nghị định số 125/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự, trường hợp sau khi trừ đi thời gian xảy ra sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà thời hiệu yêu cầu thi hành án vẫn còn thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định khôi phục thời hiệu yêu cầu thi hành án; trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định khôi phục thời hiệu yêu cầu thi hành án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định thi hành án. Trường hợp đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án.
Các văn bản liên quan:
Nghị định 58/2009/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự
Pháp lệnh 13/2004/PL-UBTVQH11 Thi hành án dân sự
Nghị định 125/2013/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam