Công ty A phải làm sao để lấy lại số tiền được thi hành án

 

 

Công ty A có tranh chấp 01 hợp đồng mua bán với công ty B và được tòa án buộc công ty B phải thanh toán lại số tiền 52 triệu đồng. Đã chuyển bản án qua cơ quan thi hành án và làm yêu cầu thi hành án. Xin hỏi: Sau thời gian xác minh tài sản của công ty B, thì hầu hết tài sản đã thế chấp ngân hàng và mặt bằng của công ty B là thuê lại của người khác. Hiện công ty B vẫn đang hoạt động bình thường. Trong trường hợp này thì phía công ty A phải làm sao đề lấy lại số tiền trên? Công ty A có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án phong tỏa tài khoản giao dịch của công ty B không?

 

Gửi bởi: Lê Anh Tuấn

Trả lời có tính chất tham khảo

Trong trường hợp này, nếu công ty B có tiền trong tài khoản thì công ty A có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án phong tỏa tài khoản của công ty B và áp dụng biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản của công ty B để thi hành án theo quy định tại Điều 67 và Điều 76 Luật Thi hành án dân sự.

Trường hợp tai khỏan của công ty B không có tiền, nhưng theo bạn nêu thì sau thời gian xác minh tài sản của công ty B, hầu hết tài sản đã thế chấp ngân hàng và mặt bằng của công ty B là thuê lại của người khác. Như vậy, công ty B có tài sản không thế chấp, do đó công ty A có quyền đề nghị Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp kê biên, xử lý tài sản không thế chấp của công ty B để thi hành án.

Nếu tài sản không thế chấp này có giá trị không đáng kể hoặc thuộc diện tài sản không được kê biên, thì công ty A có thể đề nghị Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp kê biên, xử lý tài sản của công ty B đã thế chấp để thi hành án. Việc kê biên tài sản đang thế chấp phải đáp ứng điều kiện và thực hiện theo quy định tài Điều 90 Luật Thi hành án dân sự, như sau: Trường hợp người phải thi hành án không còn tài sản nào khác hoặc có tài sản nhưng không đủ để thi hành án, Chấp hành viên có quyền kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án đang cầm cố, thế chấp nếu giá trị của tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án. Khi kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp, Chấp hành viên phải thông báo ngay cho người nhận cầm cố, nhận thế chấp; khi xử lý tài sản kê biên, người nhận cầm cố, nhận thế chấp được ưu tiên thanh toán theo quy định tại khoản 3 Điều 47 của Luật này.

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Án phí, tiền phạt, sung công phải nộp đầy đủ vào ngân sách Nhà nước

 

 

Theo quy định trước đây khi cơ quan THADS đi nộp tiền sung công tiền án phí, phạt thì cơ quan thuế sẽ trích lại cho cơ quan THADS là 10% tổng số tiền sung công. Xin hỏi văn bản nào hướng dẫn việc trích lại số % này? Hiện nay có thay đổi gì không?

 

Gửi bởi: Vip Man Tha

Trả lời có tính chất tham khảo

Án phí do ngân sách trung ương quản lý, tiền phạt và tiền tịch thu sung công do ngân sách địa phương quản lý. Án phí, tiền phạt, tiền tịch thu sung công do cơ quan thi hành án dân sự thu theo thủ tục thi hành án dân sự là khoản tiền phải nộp đầy đủ 100% vào ngân sách Nhà nước, không có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định được trích lại 10% tổng số tiền sung công cho cơ quan thi hành án dân sự trước khi cơ quan thi hành án dân sự nộp số tiền này vào ngân sách Nhà nước.

Tuy nhiên, sau khi cơ quan thi hành án dân sự nộp đầy đủ số tiền này vào ngân sách Nhà nước, cơ quan thi hành án dân sự đề nghị Ủy ban nhân dân hỗ trợ kinh phí hoạt động và thực tế tùy địa phương quyết định mức hỗ trợ (tùy theo địa phương mà mức hỗ trợ khác nhau: 10% hoặc thấp hơn hoặc cao hơn mức này), có thể từ số tiền phạt, tịch thu sung công đó hoặc nguồn khác của địa phương.

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quyết định của Tòa án không đề cập đến lãi chậm thi hành án thì ra quyết định thi hành án như thế nào?

 

 

Trường hợp quyết định công nhận sự thoả thuận của đương sự không đề cập đến việc người phải thi hành án phải chịu lãi suất chậm thi hành án nếu không thực hiện nghĩa vụ. Nhưng đơn yêu cầu thi hành án lại yêu cầu tính cả lãi suất chậm thi hành án. Vậy cơ quan thi hành án ra quyết định như thế nào? Biết là thời điểm yêu cầu thi hành án vào tháng 10/2009.

 

Gửi bởi: Lê Văn Long

Trả lời có tính chất tham khảo

Theo quy định tại khoản 1 mục III Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản có quy định về tính lãi suất chậm thi hành án thì để bảo đảm quyền lợi cho bên được thi hành án, hạn chế việc bên phải thi hành án cố tình dây dưa, không tự nguyện thi hành án, cùng với việc quyết định khoản tiền mà bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán cho bên được thi hành án, khoản tiền phải nộp để đưa vào ngân sách Nhà nước (tiền tịch thu, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính, tiền phạt), Toà án phải quyết định rõ trong bản án hoặc quyết định là kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án tương ứng với thời gian chưa thi hành án. Tuy nhiên, trong quá trình thỏa thuận, các đương sự đã thống nhất với nhau không tính lãi chậm thi hành án (biên bản hòa giải thành đã xác định) nên nhiều trường hợp Tòa án không đề cập đến khoản này tại quyết định công nhận thỏa thuận của các đương sự.

Vì thế, về nguyên tắc, cơ quan thi hành án thi hành đúng nội dung quyết định công nhận thỏa thuận của các đương sự mà Tòa án không tuyên lãi chậm thi hành án thì chỉ ra quyết định thi hành đối với số tiền phải thi hành án theo quyết định của Tòa án, nên không ra quyết định thi hành án đối với lãi chậm thi hành án mặc dù đơn yêu cầu của người được thi hành án có nêu. Cơ quan thi hành án cần giải thích cho đương sự biết. Trường hợp có căn cứ xác định quyết định công nhận thỏa thuận đó chưa rõ thì đương sự, Thủ trưởng cơ quan thi hành án có quyền đề nghị Tòa án giải thích; nếu có căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì kiến nghị người có thẩm quyền xem xét lại quyết định công nhận thỏa thuận đó theo quy định của Luật Thi hành án dân sự và Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự.

Các văn bản liên quan:

Thông tư liên tịch 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thi hành án theo nội dung quyết định tại bản án của Tòa án

 

 

Năm 1997, bố mẹ tôi có làm ăn thua lỗ nên viết giấy tay bán nhà cho ông A với giá 65 cây vàng thời đó. Đến năm 2009, ông A kiện nhà tôi để lấy lại nhà. Nếu nhà tôi trả đủ tiền thì sẽ đưa lại nhà cho chúng tôi. Mẹ tôi vì muốn giữ lại ngôi nhà kỷ niệm nên đã cố gắng trả được 20 cây vàng thời điểm đó. Hiện nay người đó làm đơn yêu cầu thi hành án kê biên nhà tôi. Nhà tôi chỉ có 20m2 thì làm sao có giá là 65 cây vàng được. Cho tôi hỏi nếu thi hành án kê biên nhà và đấu giá bán không đủ số tiền trên thì nhà tôi có phải trả thêm tiền cho ông A hay không? Mong nhận được tư vấn!

 

Gửi bởi: tran thi hoa

Trả lời có tính chất tham khảo

Nội dung bạn hỏi chưa rõ bản án tuyên như thế nào, vì sao bố mẹ bạn lại viết giấy bán nhà với giá 65 cây vàng thời điểm năm 1997 trong khi nhà bạn chỉ có 20m2, việc bán nhà đó có đúng thực tế không hay chỉ là hợp đồng “giả cách” không đúng với giá trị thực tế của ngôi nhà? Trong trường hợp bố mẹ bạn bán nhà năm 1997 giá là 65 cây vàng hoàn toàn ngay thẳng, bố mẹ bạn không giao nhà nên ông A kiện đòi nhà, Tòa án xử buộc bố mẹ bán trả ông A 65 cây vàngg, mẹ bạn đã trả được 20 cây vàng. Như vậy, số vàng bố mẹ bạn còn phải trả là 45 cây vàng, do đó nếu bố mẹ bạn không tự nguyện trả vàng theo quyết định của Tòa án thì sẽ bị kê biên, bán đấu giá nhà để thi hành án. Nếu số tiền bán nhà không đủ trả số vàng còn lại là 45 cây vàng, thì bố mẹ bạn sẽ bị áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án phù hợp theo quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 để thi hành án đối với số vàng còn lại sau khi đã thanh toán từ số tiền bán ngôi nhà nêu trên, không kể chi phí cưỡng chế thi hành án.

Liên quan đến vấn đề này, tại Điều 59 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Trường hợp theo bản án, quyết định mà một bên được nhận tài sản và phải thanh toán cho người khác giá trị tài sản họ được nhận, nhưng tại thời điểm thi hành án, giá tài sản thay đổi và một trong các bên đương sự có yêu cầu định giá tài sản đó thì tài sản được định giá theo quy định tại Điều 98 của Luật này để thi hành án”. Tuy nhiên, điều luật lại không quy định cụ thể việc định giá để thi hành án chia theo tỷ lệ như thế nào, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này cũng chưa quy định chi tiết. Do đó, nhà của bố mẹ bạn chỉ có 20 m2, nếu bán không đủ để thi hành án, bố mẹ bạn và ông A không thỏa thuận được thì phải thi hành án theo đúng nội dung quyết định tại bản án của Tòa án.

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Người phải thi hành án tự bán tài sản đã kê biên để thanh toán tiền nợ vay thế chấp có đúng không?

 

 

Tôi là người được thi hành án. Thi hành án thị xã Tây Ninh đã tiến hành kê biên tài sản của bà T (người phải thi hành án) vào tháng 08/2010. Sau khi kê biên, thi hành án thị xã Tây Ninh lại không tiến hành định giá để bán đấu giá. Sau nhiều lần tôi thắc mắc thì thi hành án thị xã trả lời tài sản của bà T đang thế chấp ngân hàng. Tháng 05/2011, tôi phát hiện bà T đã tiến hành công chứng bán đất mà thi hành án thị xã kê biên cho người khác, tôi liền báo cho THA thị xã biết thì THA thị xã trả lời tôi như sau: Ngân hàng đã đồng ý cho bà T tự bán tài sản mà bà đã thế chấp để trả nợ ngân hàng chứ ngân hàng không bán đấu giá như thông báo. Sau đó, thi hành án thị xã có quyết định giải tỏa kê biên đối với tài sản của bà T và có văn bản đề nghị các cơ quan có thẩm quyền cho phép bà T làm thủ tục sang nhượng đất cho người mua. Họ trả đơn yêu cầu thi hành án của tôi vì lý do bà T hết tài sản. Xin hỏi:

1/ Thi hành án thị xã tây ninh cho rằng bà T được quyền tự bán tài sản để trả nợ ngân hàng theo Nghị định 163/2006 như vậy có đúng không?

2/ Sau khi bà T tự bán tài sản thế chấp cho ngân hàng (cũng là tài sản đang bị kê biên để THA) để trả nợ cho ngân hàng thì tài sản này thuộc quyền của bà T hay tài sản của người mua (khi bà T ra công chứng bán đất cho người mua thì tài sản phần đất này đang bị THA kê biên?

3/ Bây giờ tôi phải làm vì để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình? Tôi có quyền yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng công chứng mua bán đất giữa bà T với người mua không? Hay là yêu cầu THA thị xã tiếp tục xử lý tài sản của Bà T (bị kê biên trên) để thi hành án cho tôi?

Mong nhận được tư vấn!

Gửi bởi: nguyễn hữu lộc

Trả lời có tính chất tham khảo

Trường hợp ông hỏi, do không có hồ sơ cụ thể nên chúng tôi không khẳng định việc bán tài sản của bà T đúng hay sai. Tuy nhiên, theo nội dung ông nêu thì chúng tôi trao đổi, phân tích, đánh giá ở hai trường hợp sau đây:

Thứ nhất, nếu tài sản đang thế chấp mà cơ quan thi hành án đã kê biên để đảm bảo thi hành án lớn hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp tài sản đó và bà T không có tài sản khác, thì cơ quan thi hành án dân sự phải tổ chức bán đấu giá công khai tài sản nêu trên, trừ trường hợp có sự thỏa thuận thống nhất của các đương sự và những người có liên quan (trong đó có ông là người được thi hành án). Bởi lẽ, theo quy định tại Điều 90 Luật Thi hành án dân sự thì trường hợp người phải thi hành án không còn tài sản nào khác hoặc có tài sản nhưng không đủ để thi hành án, Chấp hành viên có quyền kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án đang cầm cố, thế chấp nếu giá trị của tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án. Khi kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp, Chấp hành viên phải thông báo ngay cho người nhận cầm cố, nhận thế chấp; khi xử lý tài sản kê biên, người nhận cầm cố, nhận thế chấp được ưu tiên thanh toán theo quy định tại khoản 3 Điều 47 của Luật này. Số tiền bán tài sản sau khi trừ chi phí cưỡng chế, ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ được thế chấp, được thanh tóan cho người được thi hành án.

Do vậy, nếu bà T tự bán tài sản thế chấp đã kê biên không được sự đồng ý của ông, của cơ quan thi hành án, không dùng số tiền còn lại sau khi thanh toán tiền cho ngân hàng để thi hành án cho ông thì đó là hành vi trái pháp luật, ông có quyền đề nghị cơ quan đã công chứng hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất hủy bỏ việc công chứng đó và đề nghị cơ quan thi hành án xử lý tài sản đó để thi hành án.

Thứ hai, nếu tài sản thế chấp nhỏ hơn nghĩa vụ được bảo đảm, chi phí cưỡng chế thi hành án và bà T có tài sản khác để thi hành án cho ông, thì ngân hàng có quyền xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ theo quy định tại Nghị đình số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/1996 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm. Việc xử lý tài sản này thực hiện theo phương thức xử lý tài sản bảo đảm thỏa thuận tại giao dịch bảo đảm đối với tài sản đó, trong đó có thể có việc bà T được quyền bán tài sản để trả nợ cho ngân hàng.

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Nghị định 163/2006/NĐ-CP Về giao dịch bảo đảm

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Người được ủy quyền chỉ được thực hiện công việc trong phạm vi được ủy quyền

 

 

Tôi đại diện cho đương sự tham gia tố tụng tại Tòa án nhân dân quận 2 theo giấy ủy quyền được Văn phòng Công chứng Bến Thành quận 1 xác nhận. Theo giấy ủy quyền tôi được tham gia phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm. Sau đó vụ án được Tòa án nhân dân quận 2 ra quyết định đình chỉ vụ án. Đương sự đem quyết định đến nhân lại tiền án phí thì được cán bộ Thi hành án quận 2 giải thích là phải làm giấy ủy quyền lại cho người được ủy quyền tham gia tố tụng nhận lại án phí, chứ người ủy quyền không được trực tiếp nhận án phí. Như vậy có phải Cán bộ Chi cục thi hành án dân sự quận 2 làm khó dân hay không? Vì trong các văn bản luật không thấy quy định như lời giải thích của cán bộ Chi cục Thi hành án dân sự quận 2. Mong nhận được tư vấn!

 

Gửi bởi: Trần văn Quới

Trả lời có tính chất tham khảo

Theo quy định tại Điều 139, 142, 143 và Điều 144 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì đại diện là việc một người (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện. Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện. Cá nhân không được để người khác đại diện cho mình nếu pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó. Quan hệ đại diện được xác lập theo pháp luật hoặc theo uỷ quyền. Người được đại diện có quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự do người đại diện xác lập. Người đại diện phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.

Đại diện theo uỷ quyền là đại diện được xác lập theo sự uỷ quyền giữa người đại diện và người được đại diện. Hình thức uỷ quyền do các bên thoả thuận, trừ trường hợp pháp luật quy định việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản. Cá nhân, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể uỷ quyền cho người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo uỷ quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện.

 

Người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Phạm vi đại diện theo uỷ quyền được xác lập theo sự uỷ quyền. Người đại diện chỉ được thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện. Người đại diện phải thông báo cho người thứ ba trong giao dịch dân sự biết về phạm vi đại diện của mình. Người đại diện không được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Như vậy, trong trường hợp ông hỏi, phạm vi ủy quyền cho ông đại diện chỉ là ông đại diện tham gia tố tụng tại Tòa án nhân dân quận 2 theo giấy ủy quyền được Văn phòng Công chứng Bến Thành quận 1 xác nhận, mà không bao gồm cả việc ủy quyền tham gia vào quá trình thi hành án. Do đó, ông đem quyết định đến nhận lại tiền tạm ứng án phí (chúng tôi nhận thấy đây là tiền tạm ứng án phí chứ không phải là tiền án phí như ông nêu, vì tiền tạm ứng án phí khác với tiền án phí) thì được cán bộ thi hành án quận 2 giải thích là phải làm giấy ủy quyền lại cho người được ủy quyền tham gia tố tụng nhận lại tiền tạm ứng án phí, chứ người ủy quyền không được trực tiếp nhận tiền tạm ứng án phí là có cơ sở, cán bộ đó có tinh thần trách nhiệm, tạo điều kiện cho ông biết cần phải làm giấy ủy quyền mới theo quy định của pháp luật. Trường hợp ông không có giấy ủy quyền thì ông nên hướng dẫn cho người đã ủy quyền cho ông tham gia tố tụng tại Tòa án đến cơ quan thi hành án để nhận lại tiền tạm ứng án phí, bởi vì khoản tạm ứng tiền án phí này muốn trả lại cho đương sự thì theo quy định tại khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Thủ trưởng cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án và thông báo cho đương sự đến nhận số tiền đó.

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thời hạn thực hiện cưỡng chế thi hành án

 

 

Theo bản án sơ, phúc thẩm tuyên buộc ngân hàng nông nghiệp nông thôn chi nhánh Chợ Xóm mới Nha Trang phải trả giấy tờ nhà cho gia đình chúng tôi (vì không được công chứng, không đăng ký giao dịch bảo đảm). Tôi có làm đơn yêu cầu Cục Thi hành án tỉnh Khánh Hòa thi hành theo bản án của tòa. Nhưng đến nay đã hơn 8 tháng (240 ngày) cơ quan thi hành án vẫn không làm thủ tục để cưỡng chế. Xin hỏi thời gian theo qui định là bao nhiêu ngày kể từ ngày nộp đơn yêu cầu thi hành án, để cơ quan thi hành án tiến hành cưỡng chế theo luật định. Nếu cơ quan thi hành án cố tình kéo dài thời gian cưỡng chế thì tôi phải đơn gửi đến những cơ quan nào để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình? Xin chân thành cảm ơn, và mong nhận được sự phúc đáp!

 

Gửi bởi: phan thị thu hà

Trả lời có tính chất tham khảo

Theo quy định tại Điều 9 Luật THADS năm 2008 thì Nhà nước khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án. Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật này.

Căn cứ Điều 45 và Điều 46 Luật THADS, thời hạn tự nguyện thi hành án là 15 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án. Trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên có quyền áp dụng ngay các biện pháp quy định tại Chương IV của Luật này. Hết thời hạn quy định nêu trên, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế. Không tổ chức cưỡng chế thi hành án trong thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ sáng ngày hôm sau, các ngày nghỉ, ngày lễ theo quy định của pháp luật và các trường hợp đặc biệt khác do Chính phủ quy định.

Tuy pháp luật hiện nay chưa quy định cụ thể bao nhiêu ngày sau khi hết thời hạn tự nguyện mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án thì Chấp hành viên phải thực hiện cưỡng chế thi hành án, nhưng trách nhiệm của Chấp hành viên là phải tổ chức việc thi hành án, áp dụng biện pháp cưỡng theo luật định, không được chây lười trong công tác. Vì vậy, nếu sự việc đúng như nội dung bà nêu thì Chấp hành viên cơ quan thi hành án chậm thực hiện việc cưỡng chế theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp có lý do chính đáng.

Việc cưỡng chế THADS do Chấp hành viên thực hiện, do đó căn cứ Điều 142 Luật THADS, bà khiếu nại đến Cục trưởng Cục THADS tỉnh Khánh Hòa, nếu Chấp hành viên đó không phải là Cục trưởng Cục THADS tỉnh Khánh Hòa để giải quyết khiếu nại lần đầu. Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Cục trưởng Cục THADS tỉnh Khánh Hòa thì bà khiếu nại tiếp đến Tổng cục trưởng Tổng cục THADS thuộc Bộ Tư pháp để được giải quyết khiếu nại lần hai. Quyết định giải quyết khiếu nại của Tổng cục trưởng Tổng cục THADS thuộc Bộ Tư pháp có hiệu lực thi hành.

Việc cưỡng chế thi hành án buộc ngân hàng nông nghiệp nông thôn chi nhánh Chợ Xóm mới Nha Trang phải trả giấy tờ nhà cho gia đình bà thực hiện theo Điều 116 Luật THADS về cưỡng chế trả giấy tờ. Theo đó, Chấp hành viên ra quyết định cưỡng chế buộc người phải thi hành án trả giấy tờ cho người được thi hành án.Trường hợp người phải thi hành án không thực hiện thì Chấp hành viên cưỡng chế buộc người đó trả giấy tờ để thi hành án. Trường hợp xác định người thứ ba đang giữ giấy tờ phải trả thì Chấp hành viên yêu cầu người đó giao giấy tờ đang giữ, nếu người thứ ba không tự nguyện giao thì Chấp hành viên cưỡng chế buộc người đó giao giấy tờ để thi hành án.

Trường hợp giấy tờ không thể thu hồi được nhưng giấy tờ nhà có thể cấp lại thì Chấp hành viên yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ra quyết định hủy giấy tờ đó và cấp giấy tờ mới cho người được thi hành án.

 

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Tòa án có thông báo đã nhận đơn yêu cầu xét xử giám đốc thẩm không phải là căn cứ đình chỉ thi hành án

 

 

Mẹ và cha tôi đã ly hôn, đã được tòa án tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm và chia tài sản, đồng thời giải quyết nợ. Trong thời gian này, mẹ tôi làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sang tên mẹ, như bản án đã nêu. Tuy nhiên các chủ nợ yêu cầu xét xử Giám đốc thẩm và Tòa án tối cao có thông báo là đã nhận được đơn yêu cầu của mấy chủ nợ. Nhưng không thông báo là đình chỉ thi hành án. Vậy tài sản của mẹ em đã được chia, có làm được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên mẹ em hay không. Vì phòng tài nguyên huyện nói là phải đình chỉ và không được làm. Mong nhận được tư vấn!

 

Gửi bởi: Nguyễn Duy Tân

Trả lời có tính chất tham khảo

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ thời điểm tuyên án. Bản án của Tòa án đang có hiệu hành pháp luật thì nguyên tắc hiến định mà Hiến pháp năm 1992 quy định tại Điều 136: Các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.

Điều 286 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án có quyền yêu cầu hoãn thi hành bản án, quyết định để xem xét việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Việc hoãn thi hành án được thực hiện theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự. Người đã kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đó cho đến khi có quyết định giám đốc thẩm.

Bản án phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang đã có hiệu lực pháp luật thì chỉ có Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao mới có quyền kháng nghị để xem xét lại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Khi Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chưa có văn bản yêu cầu hoãn thi hành án hoặc kháng nghị, tạm đình chri thi hành án thì bản án phúc thẩm vẫn có hiệu lực và được thi hành.

Việc Tòa án có thông báo đã nhận đơn của các chủ nợ yêu cầu xét xử giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm nhưng không có văn bản yêu cầu hoãn thi hành án hoặc kháng nghị, tạm đình chỉ thi hành án, thì bản án phúc thẩm đó vẫn được thi hành. Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện nói là phải đình chỉ và không được làm là không có cơ sở pháp luật.

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 24/2004/QH11 Tố tụng dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Chưa có kháng nghị bản án thì vẫn có thể bị cưỡng chế thi hành

 

 

Cho tôi xin được hỏi: Tôi có bản án dân sự đã có hiệu lực pháp luật ngày 14/01/2011 và có đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm ngày 31/08/2011. Vậy theo Nghị quyết 60/2011/QH12 mục 2, khoản d và Luật số 65/2011/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự Điều 284b, khoản 3 thì trong thời gian chờ đợi trả lời có kháng nghị hay không thì: Cơ quan thi hành án có quyền cưỡng chế theo bản án hay không?

 

Gửi bởi: Nguyễn mạnh Hải

Trả lời có tính chất tham khảo

Theo quy định tại Điều 2 Nghị quyết số 60/2011/QH12 ngày 29/3/2011 của Quốc hội về việc thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự số 65/2011/QH12 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/3/2011, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012:

Kể từ ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự được công bố đến ngày Luật này có hiệu lực: Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự được công bố áp dụng theo quy định tại Điều 288 của Bộ luật Tố tụng dân sự số 24/2004/QH11 (sau đây gọi là Bộ luật Tố tụng dân sự 2004). Thời hạn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động có hiệu lực pháp luật từ ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luất Tố tụng dân sự được công bố được áp dụng theo quy định tại Điều 284 và Điều 288 của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 65/2011/QH12. Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động nêu tại điểm a và điểm b khoản này được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004.

Kể từ ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự có hiệu lực: Đối với những vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động đã được Tòa án thụ lý trước ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự có hiệu lực, nhưng kể từ ngày Luật này có hiệu lực mới giải quyết sơ thẩm thì áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo Luật số 65/2011/QH12 để giải quyết. Đối với những vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động đã được Tòa án giải quyết sơ thẩm trước ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự có hiệu lực, nhưng kể từ ngày Luật này có hiệu lực mới xét xử phúc thẩm thì áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo Luật số 65/2011/QH12 để giải quyết. Đối với những bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động đã có hiệu lực pháp luật mà bị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trước ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự có hiệu lực nhưng kể từ ngày Luật này có hiệu lực mới xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm thì áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo Luật số 65/2011/QH12 để giải quyết. Đối với những bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động đã có hiệu lực pháp luật có đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong thời gian kể từ ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự được công bố cho đến trước ngày Luật này có hiệu lực mà chưa có kháng nghị của người có thẩm quyền, thì việc kháng nghị được thực hiện theo Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo Luật số 65/2011/QH12. Đối với những bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự có hiệu lực mà kể từ ngày Luật này có hiệu lực mới kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, trừ trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều này, thì căn cứ để thực hiện việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tung dân sự năm 2004; việc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 65/2011/QH12.

Nội dung này của Nghị quyết quy định về thời hạn kháng nghị, tuy nhiên khi chưa có kháng nghị của người có thẩm quyền thì theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật Thi hành án dân sự khi chưa có kháng nghị, tạm đình chỉ thi hành án thì bản án vẫn phải được thi hành, không phải là trong thời hạn này thì bản án chưa có hiệu lực thi hành nên không bị cưỡng chế thi hành án. Vì thế, bản án dân sự đã có hiệu lực pháp luật ngày 14/01/2011 và mặc dù ông có đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm ngày 31/08/2011 nhưng chưa được người có thẩm quyền ban hành kháng nghị, tạm đình chỉ thi hành án thì bà vẫn phải thi hành bản án đó, nếu không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của pháp luật.

Các văn bản liên quan:

Luật 65/2011/QH12 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật Tố tụng Dân sự

Bộ luật 24/2004/QH11 Tố tụng dân sự

Nghị quyết 60/2011/QH12 Về việc thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng Dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Trình tự thủ tục bán đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất và nhà ở thế chấp để thu hồi nợ

 

 

Tôi có thế chấp một giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và nhà ở do chính tôi đứng tên cho một ngân hàng A để vay 500 triệu đồng. Nhưng do tôi làm ăn kinh doanh bị thất bại giờ không có tiền trả ngân hàng, thời gian quá hạn đã hơn 1 năm. Phía ngân hàng thông báo sẽ kê biên, phát mãi và bán tài sản tôi đã thế chấp để thu lại vốn. Xin hỏi trình tự thủ tục của hoạt động này như thế nào? Nếu tôi muốn xin gia hạn để thu xếp tiền trả ngân hàng thì phải làm gì?

 

Gửi bởi: hoangcongbay

Trả lời có tính chất tham khảo

Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật Đất đai năm 2003, Luật Nhà ở năm 2005, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm thì khi xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất để thu hồi nợ, các bên thỏa thuận các phương thức khác nhau như Ngân hàng nhận chính tài sản bảo đảm, các bên cùng bán, giao cho bên thế chấp bán… trường hợp không thực hiện được theo thỏa thuận thì Ngân hàng được chủ động chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bán đấu giá tài sản. Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ tại Điều 61 quy định thu hồi nợ có liên quan đến quyền sử dụng đất thì bắt buộc phải bán đấu giá quyền sử dụng đất.

Trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất hiện nay thực hiện theo quy định tại Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ và Thông tư số 23/2010/TT-BTP ngày 06/12/2010 của Bộ Tư pháp. Theo đó có những nội dung cơ bản sau đây:

– Người có tài sản bán đấu giá có quyền lựa chọn tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp, hình thức bán đấu giá quy định tại Nghị định này để bán đấu giá tài sản, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Giá khởi điểm của tài sản bán đấu giá được xác định trước khi ký kết hợp đồng bán đấu giá tài sản hoặc trước khi chuyển giao tài sản để bán đấu giá, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

– Hợp đồng bán đấu giá tài sản được ký kết giữa tổ chức bán đấu giá tài sản và người có tài sản bán đấu giá hoặc người đại diện của người đó. Hợp đồng bán đấu giá tài sản phải được lập thành văn bản và có các nội dung chính sau đây: Họ, tên, địa chỉ của người có tài sản bán đấu giá; tên, địa chỉ của tổ chức bán đấu giá tài sản; liệt kê, mô tả tài sản bán đấu giá; giá khởi điểm của tài sản bán đấu giá; thời hạn, địa điểm bán đấu giá tài sản; tời hạn, địa điểm, phương thức giao tài sản để bán đấu giá; thời hạn, địa điểm, phương thức thanh toán tiền bán tài sản trong trường hợp bán đấu giá thành; phí, chi phí bán đấu giá tài sản trong trường hợp bán đấu giá thành và chi phí bán đấu giá tài sản trong trường hợp bán đấu giá không thành; quyền, nghĩa vụ của các bên; tách nhiệm do vi phạm hợp đồng và các nội dung khác do các bên thỏa thuận.

– Tổ chức bán đấu giá tài sản phải niêm yết việc bán đấu giá tài sản là bất động sản tại nơi bán đấu giá, nơi có bất động sản bán đấu giá và Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có bất động sản bán đấu giá chậm nhất là ba mươi ngày trước ngày mở cuộc bán đấu giá, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Đối với tài sản thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức, thời hạn niêm yết việc bán đấu giá tài sản có thể được rút ngắn theo thỏa thuận của các bên. Đối với tài sản bán đấu giá là động sản có giá khởi điểm từ ba mươi triệu đồng trở lên và bất động sản thì đồng thời với việc niêm yết, tổ chức bán đấu giá tài sản phải thông báo công khai ít nhất hai lần, mỗi lần cách nhau ba ngày trên phương tiện thông tin đại chúng của Trung ương hoặc địa phương nơi có tài sản bán đấu giá về việc bán đấu giá tài sản.

Việc thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng cũng được thực hiện đối với tài sản bán đấu giá là động sản có giá khởi điểm dưới ba mươi triệu đồng, nếu người có tài sản bán đấu giá yêu cầu.

– Người tham gia đấu giá tài sản phải nộp phí tham gia đấu giá và khoản tiền đặt trước. Phí tham gia đấu giá được thực hiện theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí. Khoản tiền đặt trước do tổ chức bán đấu giá tài sản và người có tài sản bán đấu giá thỏa thuận quy định nhưng tối thiểu là 1% và tối đa không quá 15% giá khởi điểm của tài sản bán đấu giá. Khoản tiền đặt trước được nộp cho tổ chức bán đấu giá tài sản.

Người tham gia đấu giá tài sản có thể ủy quyền bằng văn bản cho người khác thay mặt mình tham gia đấu giá. Trong trường hợp người tham gia đấu giá tài sản đã nộp khoản tiền đặt trước mua được tài sản bán đấu giá thì khoản tiền đặt trước được trừ vào giá mua; nếu không mua được tài sản, thì khoản tiền đặt trước được trả lại cho người tham gia đấu giá tài sản sau khi cuộc bán đấu giá kết thúc, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Trong trường hợp người đăng ký tham gia đấu giá tài sản đã nộp khoản tiền đặt trước nhưng không tham gia cuộc bán đấu giá mà không thuộc trường hợp bất khả kháng thì khoản tiền đặt trước đó thuộc về tổ chức bán đấu giá tài sản, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

– Cuộc bán đấu giá tài sản phải được tiến hành liên tục theo trình tự sau đây:

Mở đầu cuộc bán đấu giá tài sản, đấu giá viên điều hành cuộc bán đấu giá giới thiệu bản thân, người giúp việc; thông báo nội quy của cuộc bán đấu giá tài sản; công bố danh sách người đăng ký mua tài sản bán đấu giá và điểm danh để xác định người tham gia đấu giá tài sản; giới thiệu từng tài sản bán đấu giá; nhắc lại giá khởi điểm; thông báo bước giá và khoảng thời gian tối đa giữa các lần trả giá (nếu có); trả lời các câu hỏi của người tham gia đấu giá.

Đấu giá viên yêu cầu người tham gia đấu giá tài sản trả giá. Sau mỗi lần người tham gia đấu giá tài sản trả giá, đấu giá viên thông báo công khai về giá đã trả cho người người tham gia đấu giá tài sản.

Nếu sau ba lần đấu giá viên nhắc lại giá cao nhất đã trả mà không có người trả giá cao hơn thì đấu giá viên công bố người mua được tài sản bán đấu giá. Sau khi đấu giá viên công bố, người mua được tài sản bán đấu giá được coi là đã chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá.

Trong trường hợp giá cả cao nhất được công bố thấp hơn so với giá khởi điểm thì cuộc bán đấu giá tài sản coi như không thành.

Trong trường hợp đấu giá bằng bỏ phiếu, nếu có từ hai người trở lên cùng trả giá cao nhất, thì đấu giá viên tổ chức đấu giá tiếp giữa những người cùng trả giá cao nhất để chọn ra người mua được tài sản bán đấu giá. Nếu không có người trả giá cao hơn thì đấu giá viên tổ chức bốc thăm để chọn ra người mua được tài sản bán đấu giá.

Diễn biến của cuộc bán đấu giá tài sản phải được ghi vào biên bản bán đấu giá tài sản. Biên bản bán đấu giá tài sản phải có chữ ký của đấu giá viên điều hành cuộc bán đấu giá tài sản, người ghi biên bản, một người tham gia đấu giá và một người tham dự cuộc bán đấu giá (nếu có). Kết quả cuộc bán đấu giá tài sản được ghi vào Sổ đăng ký bán đấu giá tài sản. Trong trường hợp bán đấu giá tài sản thành thì đấu giá viên điều hành cuộc bán đấu giá tài sản lập hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá. Tùy từng trường hợp bán đấu giá tài sản cụ thể hoặc theo yêu cầu của người có tài sản bán đấu giá thì tổ chức bán đấu giá tài sản mời tổ chức, cá nhân có liên quan đến tham dự cuộc bán đấu giá.

– Hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá có giá trị xác nhận việc mua bán tài sản bán đấu giá, là cơ sở pháp lý để chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản bán đấu giá.

Trong trường hợp đã hết thời hạn đăng ký tham gia đấu giá tài sản mà chỉ có một người đăng ký mua tài sản bán đấu giá hoặc có nhiều người đăng ký tham gia đấu giá nhưng chỉ có một người tham gia cuộc bán đấu giá và trả giá ít nhất bằng giá khởi điểm thì tài sản được bán cho người đó, nếu người có tài sản bán đấu giá đồng ý. Việc bán tài sản trong trường hợp này chỉ được tiến hành sau khi đã thực hiện đầy đủ việc niêm yết, thông báo công khai, trưng bày tài sản và không có khiếu nại liên quan đến trình tự, thủ tục cho đến khi quyết định bán tài sản.

– Người có tài sản bán đấu giá chỉ được mua lại tài sản đã bán đấu giá nếu người mua được tài sản bán đấu giá đồng ý. Việc mua lại tài sản đã bán đấu giá được thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự về hợp đồng mua bán tài sản.

– Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá. Thời hạn cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản đã bán đấu giá được thực hiện theo quy định của pháp luật đối với loại tài sản đó. Căn cứ vào văn bản xác nhận kết quả bán đấu giá, cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho người mua được tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về đất đai.

Nếu bà muốn xin gia hạn để thu xếp tiền trả ngân hàng thì bà cần thỏa thuận thống nhất được với ngân hàng.

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Thông tư 23/2010/TT-BTP Quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản

Nghị định 181/2004/NĐ-CP Về thi hành Luật Đất đai

Luật 13/2003/QH11 Đất đai

Nghị định 17/2010/NĐ-CP Về bán đấu giá tài sản

Nghị định 163/2006/NĐ-CP Về giao dịch bảo đảm

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quy định về nhận tiền thi hành án

 

 

Trong bản án đương sự phải trả cho tôi 640 triệu đồng. Khi hết hạn tự giác chấp hành, tôi đã làm đơn đề nghị thi hành án theo quy định. Trong thời gian này đương sự chuyển trả cho tôi được 400 triệu đồng qua tài khoản, còn 140 triệu nộp tại Chi cục Thi hành án. Xin hỏi cách tính tiền chậm thi hành án? Khi lên thi hành án nhận tiền có cần có mặt cả hai vợ chồng, hay chỉ người đứng đơn? Số tiền chuyển qua tài khoản có tính phí thi hành án, khi thi hành án chưa có quyết định cưỡng chế hay không?

 

Gửi bởi: lưu văn ánh

Trả lời có tính chất tham khảo

Câu hỏi ông nêu có ba nội dung, chúng tôi trả lời từng nội dung như sau:

1. Về cách tính tiền chậm thi hành án?

Theo quy định tại khoản 1 mục III Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản, thì để bảo đảm quyền lợi cho bên được thi hành án, hạn chế việc bên phải thi hành án cố tình dây dưa, không tự nguyện thi hành án, cùng với việc quyết định khoản tiền mà bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán cho bên được thi hành án, khoản tiền phải nộp để đưa vào ngân sách Nhà nước (tiền tịch thu, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính, tiền phạt), toà án phải quyết định rõ trong bản án hoặc quyết định là kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án… Khi tính lãi chỉ tính lãi số tiền còn phải thi hành án, mà không tính lãi của số tiền lãi chưa trả trong quá trình thi hành án.

Đối chiếu với quy định này thì lãi chậm thi hành án của số tiền 400 triệu đồng tính từ ngày ông có đơn yêu cầu thi hành án đến ngày người phải thi hành án chuyển trả vào tài khoản cho ông số tiền này. Số tiền 140 triệu đồng tính từ ngày ông có đơn yêu cầu thi hành án đến ngày người phải thi hành án nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự. Mức lãi suất chậm thi hành án tính theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố theo quy định tại khoản 2 Điều 305 Bộ luật Dân sự năm 2005.

2. Khi lên thi hành án nhận tiền có cần có mặt cả hai vợ chồng hay chỉ người đứng đơn?

Bản án tuyên ông được nhận tiền, ông đã làm đơn yêu cầu thi hành án, do đó ông là người được thi hành án nên chỉ cần ông đến cơ quan thi hành án dân sự để nhận tiền là được mà không bắt buộc phải có mặt cả hai vợ chồng. Ông cũng có thể ủy quyền cho người khác thay ông đến nhận tiền được thi hành án.

3. Số tiền chuyển qua tài khoản có tính phí thi hành án, khi thi hành án chưa có quyết định cưỡng chế hay không ?

Do người phải thi hành án chuyển trả cho ông 400 triệu đồng qua tài khoản khi chưa có quyết định cưỡng chế thi hành án, do đó nếu ông rút đơn yêu cầu thi hành án đối với khoản tiền 400 triệu đồng này thì cơ quan thi hành án không thu phí thi hành án theo quy định tại khoản 4 Điều 2 Thông tư số liên tịch số 144/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 22/09/2010 của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp hướng dẫn về chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án dân sự: Đối với những vụ việc người được thi hành án có đơn rút đơn yêu cầu thi hành án thì nếu đương sự có thỏa thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự không tiếp tục việc thi hành án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 của Luật Thi hành án dân sự và người được thi hành án có đơn rút đơn yêu cầu thi hành án trước khi có quyết định cưỡng chế thi hành án, thì cơ quan thu phí không thu phí thi hành án.

Tuy nhiên, nếu ông không rút đơn yêu cầu thi hành án đối với khoản tiền này, thì không có căn cứ để cơ quan thi hành án không thu phí thi hành án.

Các văn bản liên quan:

Thông tư liên tịch 144/2010/TTLT-BTC-BTP Hướng dẫn về chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án dân sự

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Thông tư liên tịch 01/TTLT Hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Ai chịu chi phí thuê đo đạc, xác định mốc giới để thực hiện việc cưỡng chế thi hành án?

 

 

Người phải thi hành án bị kê biên, bán đấu giá tài sản và có người trúng đấu giá mua được. Khi sang tên giấy nhà và đất bán đấu giá thì phát sinh chi phí đo đạc để chuyển tên quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất. Xin hỏi người phải thi hành án chịu chi phí này hay người trúng đấu giá chịu?

 

Gửi bởi: Thao

Trả lời có tính chất tham khảo

Điều 73 Luật Thi hành án dân sự về chi phí cưỡng chế thi hành án quy định người phải thi hành án chịu chi phí cưỡng chế thi hành án sau đây:

a) Chi phí thông báo về cưỡng chế thi hành án;

b) Chi phí mua nguyên liệu, nhiên liệu, thuê phương tiện, thiết bị bảo vệ, y tế, phòng, chống cháy, nổ, các thiết bị, phương tiện cần thiết khác cho việc cưỡng chế thi hành án;

c) Chi phí cho việc định giá, giám định tài sản, bán đấu giá tài sản; chi phí định giá lại tài sản, trừ trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều này;

d) Chi phí cho việc thuê, trông coi, bảo quản tài sản; chi phí bốc dỡ, vận chuyển tài sản; chi phí thuê nhân công và khoản chi phục vụ cho việc xây ngăn, phá dỡ; chi thuê đo đạc, xác định mốc giới để thực hiện việc cưỡng chế thi hành án;

đ) Chi phí cho việc tạm giữ, thu giữ tài sản, giấy tờ;

e) Tiền bồi dưỡng cho những người trực tiếp tham gia cưỡng chế và bảo vệ cưỡng chế thi hành án.

Như vậy, trong trường hợp người phải thi hành án bị kê biên, bán đấu giá tài sản và có người trúng đấu giá mua được, khi sang tên giấy nhà và đất bán đấu giá thì phát sinh chi phí đo đạc để chuyển tên quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất, thì người phải thi hành án chịu chi phí này (chi phí thuê đo đạc, xác định mốc giới để thực hiện việc cưỡng chế thi hành án), trừ trường hợp người trúng đấu giá đồng ý chịu chi phí đó.

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Chế độ phụ cấp độc hại trong công tác thi hành án dân sự

 

 

Hiện nay tôi đang công tác tại một cơ quan thi hành án dân sự, công việc của tôi là quản lý kho vật chứng và làm báo cáo thống kê. Với công việc đó, xin hỏi tôi được hưởng phụ cấp độc hại không, về công tác báo cáo thống kê có được hưởng phụ cấp trách nhiệm không? Nếu có thì tôi phải làm thủ tục gì và căn cứ vào quy định nào của pháp luật.Trân trọng cám ơn!

 

Gửi bởi: Nguyễn Thị Thanh Thúy

Trả lời có tính chất tham khảo

Nội dung bạn hỏi có hai vấn đề như sau:

1. Về chế độ phụ cấp đối với thủ kho vật chứng

Căn cứ Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang và Thông tư số 07/2005/TT-BNV ngày 05 tháng 01 năm 2005 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp độc hại nguy hiểm đối với cán bộ, công chức, viên chức, thì phụ cấp độc hại, nguy hiểm đối với cán bộ, công chức, viên chức làm việc trực tiếp ở nơi độc hại nguy hiểm mà yếu tố độc hại nguy hiểm cao hơn bình thường chưa được tính vào hệ số lương, bao gồm:. Cán bộ, công chức (kể cả công chức dự bị), viên chức, những người đang trong thời gian tập sự, thử việc thuộc biên chế trả lương của các cơ quan nhà nước và các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước. Cán bộ, công chức, viên chức thuộc biên chế nhà nước và hưởng lương theo bảng lương do Nhà nước quy định được cử đến làm việc tại các hội, các tổ chức phi Chính phủ, các dự án và các cơ quan, tổ chức quốc tế đặt tại Việt Nam.

Nếu bạn được phân công làm nhiệm vụ thủ kho (có quyết định phân công), thì được hưởng phụ cấp độc hại hàng tháng, mức 2%/tháng lương.

2. Về chế độ phụ cấp trách nhiệm đối với người làm công tác thống kê:

Hiện nay chưa có quy định cho người làm công tác thống kê trong thi hành án dân sự hưởng phụ cấp trách nhiệm, nếu người đó chưa được bổ nhiệm chứuc danh thống kê viên. Do đó, bạn không được hưởng chế độ phụ cấp trách nhiệm đối với người làm công tác thống kê thi hành án.

Các văn bản liên quan:

Thông tư 07/2005/TT-BNV Hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp độc hại, nguy hiểm đối với cán bộ, công chức, viên chức

Nghị định 204/2004/NĐ-CP Về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức,viên chức và lực lượng vũ trang

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Tham khảo thêm:Cưỡng chế buộc người thứ ba giao giấy tờ để thi hành án

 

 

Tòa án tuyên buộc ông Xá giao trả tôi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hiện nay ông Xá đem thế chấp tại ngân hàng và ông Xá không có điều kiện trả tiền cho Ngân hàng để rút giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trả tôi. vậy tôi có thể yêu cầu thi hành án cưỡng chế ngân hàng trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tôi theo Điều 116 Luật Thi hành án dân sự được không?

 

Gửi bởi: trương thị út

Trả lời có tính chất tham khảo

Nếu đúng là Tòa án tuyên buộc ông Xá giao trả bà giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng sau đó ông Xá đem thế chấp tại ngân hàng để vay tiền thì việc làm đó là trái pháp luật. Ngân hàng cho ông Xá vay tiền có bảo đảm bằng tài sản có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ông Xá phải trả bà theo bản án của Tòa án mà không thẩm tra kỹ là chưa chặt chẽ.

Căn cứ Điều 116 Luật Thi hành án dân sự về cưỡng chế trả giấy tờ, Chấp hành viên ra quyết định cưỡng chế buộc người phải thi hành án trả giấy tờ cho người được thi hành án. Trường hợp người phải thi hành án không thực hiện thì Chấp hành viên cưỡng chế buộc người đó trả giấy tờ để thi hành án. Trường hợp xác định người thứ ba đang giữ giấy tờ phải trả thì Chấp hành viên yêu cầu người đó giao giấy tờ đang giữ, nếu người thứ ba không tự nguyện giao thì Chấp hành viên cưỡng chế buộc người đó giao giấy tờ để thi hành án. Trường hợp giấy tờ không thể thu hồi được nhưng có thể cấp lại thì Chấp hành viên yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ra quyết định hủy giấy tờ đó và cấp giấy tờ mới cho người được thi hành án. Đối với giấy tờ không thể thu hồi và cũng không thể cấp lại được thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án và hướng dẫn đương sự khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết.

Như vậy, ngân hàng đang giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ông Xá phải giao cho bà theo bản án thì cơ quan thi hành án có quyền cưỡng chế đối với ngân hàng nếu ngân hàng không tự nguyện giao. Trường hợp giấy tờ không thể thu hồi được(ví dụ ngân hàng làm mất, hỏng, không chịu giao nên không thu hồi được…) thì đây là giấy tờ có thể cấp lại nên Chấp hành viên yêu cầu cơ quan có thẩm quyền ra quyết định hủy giấy tờ đó và cấp giấy chứng nhận mới cho bà. Việc giải quyết khoản nợ giữa ngân hàng và ông Xá thực hiện bằng quan hệ dân sự hoặc vụ án khác nếu có tranh chấp.

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Công chứng của UBND phường đối với hợp đồng mua bán nhà ở khi thi hành án?

 

 

Tôi mua của ông A 1 mảnh đất có nhà cấp 4 hai tầng năm 2008. Hợp đồng này có công chứng của UBND phường sở tại. Năm 2011 ngôi nhà này bị cưỡng chế thi hành bản án đối với ông A để trả nợ. Hợp đồng này có trước khi bị thi hành án xin hỏi quý cơ quan việc thi hành đó có đúng pháp luật không? Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất và nhà đó có giá trị pháp lý không? Khi nhà tôi bị cưỡng chế thi hành án thì ai là người đền bù tài sản cho tôi khi ông A không còn gì để đền bù. Pháp luật có bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho tôi không hay là bảo vệ người được tòa án quyến định thi hành án? Mong nhận được tư vấn!

 

Gửi bởi: Nguyễn Công Khánh

Trả lời có tính chất tham khảo

Trường hợp ông nêu, có một số vấn đề pháp lý cần lưu ý sau đây:

1. Về việc công chứng hợp đồng mua bán nhà ở: Theo quy định của pháp luật về công chứng thì Ủy ban nhân dân phường không có thẩm quyền công chứng, mà chỉ có thẩm quyền chứng thực. Đối với hợp đồng mua bán nhà ở tại phường thuộc thị xã, thành phố thì hợp đồng này phải được công chứng tại Văn phòng công chứng theo quy định của Luật Nhà ở, Luật Đất đai, Luật Công chứng. Như vậy, hợp đồng mua bán nhà ở nêu trên có công chứng của UBND phường sở tại là chưa đúng quy định của pháp luật về mua bán nhà ở.

2. Về thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở:

Điều 168 Bộ luật dân sự về thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản tại khoản 1 quy định “việc chuyển quyền sở hữu đối với bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sở hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Tại khoản 5 Điều 93 Luật Nhà ở năm 2005 quy định “bên mua, bên nhận tặng cho, bên đổi, bên được thừa kế nhà ở có trách nhiệm nộp hồ sơ để được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở theo trình tự quy định tại Điều 16 của Luật này, trừ trường hợp bên bán nhà ở là tổ chức có chức năng kinh doanh nhà ở hoặc các bên có thỏa thuận khác. Quyền sở hữu nhà ở được chuyển cho bên mua, bên nhận tặng cho, bên thuê mua, bên nhận đổi nhà ở kể từ thời điểm hợp đồng được công chứng đối với giao dịch về nhà ở giữa cá nhân với cá nhân hoặc đã giao nhận nhà ở theo thỏa thuận trong hợp đồng đối với giao dịch về nhà ở mà một bên là tổ chức kinh doanh nhà ở hoặc từ thời điểm mở thừa kế trong trường hợp nhận thừa kế nhà ở”. Do vậy, thời điểm xác lập quyền sở hữu nhà ở cho bên mua đối với hợp đồng mua bán nhà ở giữa cá nhân với cá nhân, thì quyền sở hữu nhà ở được xác lập (chuyển cho) bên mua nhà ở kể từ thời điểm hợp đồng được công chứng (công chứng hợp pháp).

Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 688, Điều 692 Bộ luật Dân sự; Điều 46 Luật Đất đai và khoản 4 Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/11/2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai thì hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, thuê, thuê lại quyền sử dụng đất; hợp đồng hoặc văn bản tặng cho quyền sử dụng đất; hợp đồng thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Khoản 1 Luật Nhà ở quy định “Nhà ở theo quy định của Luật này là công trình xây dựng với mục đích để ở và phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân”. Do đó, có thể nói quy định tại Bộ luật dân sự, Luật đất đai và Luật Nhà ở về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng và xác lập quyền sở hữu đối với nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đồng thời là chủ sử dụng đất được xác định là khi chủ sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đồng thời là chủ sử dụng đất thực hiện các giao dịch dân sự về nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất và chuyển quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản đó, thì quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất trong trường hợp này được xác lập cho người nhận chuyển quyền kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất.

Vì thế, ông mua nhà nhưng chưa thực hiện đúng việc công chứng, chưa đăng ký quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất nên về mặt pháp lý nhà ở và quyền sử dụng đất chưa chuyển cho ông, hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất đó chưa hoàn thành.

3. Do ông không nêu rõ ngôi nhà này năm 2011 bị kê biên để đảm bảo thi hành án cho bản án tại thời điểm nào trước hay sau khi ông mua nhà (năm 2008), do vậy, chúng tôi nêu ra quy định sau đây để ông tham khảo:

Tại đoạn 2 điểm a khoản 1 Mục IV Thông tư liên tịch số 12/2001/TTLT-BTP-VKSNDTC ngày 26/2/2001 của Bộ Tư pháp và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao quy định: đối với các trường hợp sau khi có bản án, quyết định của Toà án, người phải thi hành án đã chuyển nhượng các tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, thì Chấp hành viên có quyền kê biên tài sản đó và có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền huỷ bỏ giao dịch đó. Người được thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hoặc khởi kiện yêu cầu Toà án huỷ bỏ giao dịch đó.

Đến nay, quy định này được thay thế bởi quy định tại khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/9/2010): Kể từ thời điểm có bản án, quyết định sơ thẩm mà người phải thi hành án bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố tài sản của mình cho người khác, không thừa nhận tài sản là của mình mà không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên để thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu có tranh chấp thì Chấp hành viên hướng dẫn đương sự thực hiện việc khởi kiện tại Toà án để bảo vệquyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo mà không có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án xử lý tài sản để thi hành án.

Kể từ thời điểm có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc trong trường hợp đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án mà tài sản bị bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố cho người khác, người phải thi hành án không thừa nhận tài sản là của mình thì bị kê biên, xử lý để thi hành án.

Thủ tục giải quyết yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự, đương sự về việc xác định quyền sở hữu, phân chia tài sản hoặc giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản phát sinh trong quá trình thi hành án thuộc thẩm quyền của Toà án theo khoản 4 Điều 179 Luật Thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thông báo mà không có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án xử lý tài sản theo quy định của pháp luật, trường hợp có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án chỉ xử lý tài sản khi có bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Ông có thể kiện đòi bồi thường thiệt hại từ người đã bán nhà cho ông nếu người bán nhà bán sau khi có bản án của Tòa án mà không dùng tiền để thi hành án nhằm bảo vệ quyền lợi của mình.

Các văn bản liên quan:

Thông tư liên tịch 12/2001/TTLT/BTP-VKSTC Hướng dẫn thực hiện một số quy định pháp luật về thi hành án dân sự.

Luật 13/2003/QH11 Đất đai

Thông tư liên tịch 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự

Nghị định 181/2004/NĐ-CP Về thi hành Luật Đất đai

Luật 82/2006/QH11 Công chứng

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Luật 56/2005/QH11 Nhà ở

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thời điểm có hiệu lực của giao dịc bảo đảm thế chấp quyền sử dụng đất

 

 

1. Đăng ký thế chấp được quy định trong Bộ luật Dân sự có phải là quy định bắt buộc không?

2. Việc cá nhân với cá nhân thực hiện việc vay tiền có thế chấp quyền sử dụng đất và đã được công chứng, nhưng không thực hiện việc đăng ký thế chấp. Sau khi bên vay (bên thế chấp) không trả được nợ, nên bên cho vay (bên nhận thế chấp) đã khởi kiện ra tòa. Tại quyết định công nhận sự thỏa thuận của Tòa án ghi: sau khi bên vay trả hết nợ gốc và lãi cho bên cho vay, thì bên cho vay trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bên vay. Do bên vay làm ăn thua lỗ, nên đang phải thi hành nhiều bản án. Khi ra quyết định kê biên đối với quyền sử dụng đất đang thế chấp nêu trên thì có 3 người cùng là người được thi hành án ở 3 bản án, quyết định khác nhau. Như vậy trong trường hợp này người cho vay có nhận thế chấp GCNQSD đất có được ưu tiên thanh toán hay không. Rất mong nhận được tư vấn!

 

Gửi bởi: Trương Quang Đạt

Trả lời có tính chất tham khảo

1. Điều 323 Bộ luật Dân sự về đăng ký giao dịch bảo đảm quy định giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm được quy định tại khoản 1 Điều 318 của Bộ luật này. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm được thực hiện theo quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm. Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường hợp pháp luật có quy định. Trường hợp giao dịch bảo đảm được đăng ký theo quy định của pháp luật thì giao dịch bảo đảm đó có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, kể từ thời điểm đăng ký.

Việc thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính; trong trường hợp pháp luật có quy định thì văn bản thế chấp phải được công chứng, chứng thực hoặc đăng ký theo quy định tại Điều 343 Bộ luật Dân sự.

Điều 350 Bộ luật Dân sự quy định bên nhận thế chấp tài sản có các nghĩa vụ sau đây: Trong trường hợp các bên thỏa thuận bên nhận thế chấp giữ giấy tờ về tài sản thế chấp thì khi chấm dứt thế chấp phải hoàn trả cho bên thế chấp giấy tờ về tài sản thế chấp; yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm xoá đăng ký trong các trường hợp quy định tại các điều 355, 356 và 357 của Bộ luật này.

Như vậy, tùy từng trường hợp cụ thể, đăng ký thế chấp tài sản (một trong các biện pháp bảo đảm) có thể bắt buộc hoặc không bắt buộc.

2. Điều 10 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm quy định giao dịch bảo đảm được giao kết hợp pháp có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, trừ các trường hợp sau đây:

 

a) Các bên có thoả thuận khác;

b) Cầm cố tài sản có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố;

c) Việc thế chấp quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng, tàu bay, tàu biển có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký thế chấp;

d) Giao dịch bảo đảm có hiệu lực kể từ thời điểm công chứng hoặc chứng thực trong trường hợp pháp luật có quy định.

Việc mô tả chung về tài sản bảo đảm không ảnh hưởng đến hiệu lực của giao dịch bảo đảm.

Do đó, về nguyên tắc giao dịch bảo đảm là thế chấp quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký thế chấp. Việc cá nhân với cá nhân thực hiện việc vay tiền có thế chấp quyền sử dụng đất và đã được công chứng, nhưng không thực hiện việc đăng ký thế chấp, thì giao dịch bảo đảm này chưa có hiệu lực pháp luật.

Trong vụ việc thi hành án cụ thể bạn nêu, do không có hồ sơ nên chúng tôi không khẳng định thứ tự thanh toán tiền thi hành án khi xử lý quyền sử dụng đất này theo quy định ưu tiên cho thế chấp tại khoản 3 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự (số tiền thu được từ việc bán tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bán tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành một nghĩa vụ cụ thể được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ được bảo đảm đó sau khi trừ các chi phí về thi hành án) hay theo quy định về thời điểm áp dụng biện pháp cưỡng chế khi những người được thi hành án đã có đơn yêu cầu thi hành án tại điểm b khoản 2 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự (số tiền thi hành án thu theo quyết định cưỡng chế thi hành án nào thì thanh toán cho những người được thi hành án đã có đơn yêu cầu tính đến thời điểm có quyết định cưỡng chế đó. Số tiền còn lại được thanh toán cho những người được thi hành án theo các quyết định thi hành án khác tính đến thời điểm thanh toán).

Tuy nhiên, nếu quyết định công nhận thỏa thuận của Tòa án đã xác định việc thế chấp quyền sử dụng đất giữa cá nhân với cá nhân nêu trên, thì cơ quan thi hành án thực hiện việc ưu tiên thanh toán cho bên nhận thế chấp quyền sử dụng đất theo quyết định của Tòa án. Trường hợp có tranh chấp về giao dịch bảo đảm thì cần hướng dẫn đương sự khởi kiện tại Tòa án để giải quyết.

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Nghị định 163/2006/NĐ-CP Về giao dịch bảo đảm

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong trường hợp không thu hồi được do người phải thi hành án không giao

 

 

Khi tiến hành kê biên tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất của người phải THA nhưng người phải THA không giao nộp GCNQSDĐ thì cơ quan THADS có ra quyết định cưỡng chế buộc người phải THA giao GCNQSDĐ hay không? Nếu có thì trường hợp này người phải THA vẫn không giao nộp thì cơ quan THA phải tiến hành những thủ tục gì để người mua được tài sản có đủ giấy tờ để tiến hành làm GCNQSDĐ.

 

Gửi bởi: Hoàng Văn Thuấn

Trả lời có tính chất tham khảo

Theo quy định tại Điều 110 và Điều 111 Luật Thi hành án dân sự thì Chấp hành viên chỉ kê biên quyền sử dụng đất của người phải thi hành án thuộc trường hợp được chuyển quyền sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai. Người phải thi hành án chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà thuộc trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai hoặc thuộc diện quy hoạch phải thu hồi đất, nhưng chưa có quyết định thu hồi đất thì vẫn được kê biên, xử lý quyền sử dụng đất đó. Khi kê biên quyền sử dụng đất, Chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án, người đang quản lý giấy tờ về quyền sử dụng đất phải nộp các giấy tờ đó cho cơ quan thi hành án dân sự.

Do vậy, nếu người phải thi hành án không giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Chấp hành viên xác minh tại nơi đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để xác định chính xác diện tích đất, sơ đồ địa chính và các thông tin khác về thửa đất đó. Sau khi có thông tin chính xác, Chấp hành viên thực hiện việc xử lý quyền sử dụng đất đã kê biên, kể cả việc bán đấu giá để thi hành án theo quy định của pháp luật.

Căn cứ Điều 106 Luật Thi hành án dân sự người mua được tài sản thi hành án, người nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án được pháp luật công nhận và bảo vệ quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản đó. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm làm thủ tục đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng cho người mua, người nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án. Cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm cung cấp đầy đủ những văn bản, giấy tờ cho người mua tài sản thi hành án, người nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án để làm hồ sơ đăng ký chuyển quyền sở hữu, sử dụng

Hồ sơ đăng ký chuyển quyền sở hữu, sử dụng gồm có:

a) Văn bản đề nghị của cơ quan thi hành án dân sự;

b) Bản sao bản án, quyết định;

c) Quyết định thi hành án, quyết định kê biên tài sản;

d) Văn bản bán đấu giá thành hoặc biên bản giao nhận tài sản để thi hành án;

đ) Giấy tờ khác có liên quan đến tài sản, nếu có.

Trường hợp tài sản là quyền sử dụng đất mà không có giấy chứng nhận hoặc không thu hồi được giấy chứng nhận thì cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.

Đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu mà không có giấy tờ đăng ký hoặc không thu hồi được giấy tờ đăng ký thì cơ quan có thẩm quyền đăng ký có trách nhiệm cấp giấy chứng nhận đăng ký quyền sở hữu.

Giấy tờ được cấp mới có giá trị thay thế cho giấy tờ không thu hồi được.

Do đó, nếu người phải thi hành án không giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì diện tích đất đó vẫn được xử lý và người mua được hoặc nhận quyền sử dụng đất để thi hành án được cấp giấy mới. Thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thực hiện theo quy định của Luật Đất đai và Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/11/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai.

Các văn bản liên quan:

Nghị định 181/2004/NĐ-CP Về thi hành Luật Đất đai

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Luật 13/2003/QH11 Đất đai

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Người phải thi hành án chỉ phải chịu chi phí cưỡng chế đã phát sinh

Sau khi có quyết định cưỡng chế mà người phải thi hành án tự nguyện thi hành thì có phải chịu chi phí cưỡng chế hay không?

Gửi bởi: Tran Thi Thuy Gian

Trả lời có tính chất tham khảo

Chi phí cưỡng chế thi hành án là các khoản chi phí do người phải thi hành án chịu để tổ chức cưỡng chế thi hành án, trừ trường hợp pháp luật quy định chi phí cưỡng chế thi hành án do người được thi hành án hoặc do ngân sách nhà nước chi trả.

Theo quy định tại Điều 73 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Điều 31 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ và Quyết định số 73/2007/QĐ-TTg ngày 25/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ, thì người phải thi hành án chịu chi phí cưỡng chế thi hành án sau đây:

– Chi phí thông báo về cưỡng chế thi hành án.

– Chi phí mua nguyên liệu, nhiên liệu, thuê phương tiện, thiết bị bảo vệ, y tế, phòng, chống cháy, nổ, các thiết bị, phương tiện cần thiết khác cho việc cưỡng chế thi hành án.

– Chi phí cho việc định giá, giám định tài sản, bán đấu giá tài sản; chi phí định giá lại tài sản, trừ trường hợp đó là chi phí xác minh theo yêu cẩu của người được thi hành án hoặc chi phí định giá lại tài sản nếu người được thi hành án yêu cầu định giá lại và trường hợp định giá lại do có vi phạm quy định về định giá.

– Chi phí cho việc thuê, trông coi, bảo quản tài sản; chi phí bốc dỡ, vận chuyển tài sản; chi phí thuê nhân công và khoản chi phục vụ cho việc xây ngăn, phá dỡ; chi thuê đo đạc, xác định mốc giới để thực hiện việc cưỡng chế thi hành án.

– Chi phí cho việc tạm giữ, thu giữ tài sản, giấy tờ.

– Tiền bồi dưỡng cho những người trực tiếp tham gia cưỡng chế và bảo vệ cưỡng chế thi hành án.

Những khoản chi phí này phải là những khoản đã thực chi và phải được dự trù trước khi cưỡng chế, thông báo cho người pahỉ thi hành án biết. Do đó, sau khi có quyết định cưỡng chế thi hành án mà người phải thi hành án tự nguyện thi hành án thì chỉ phải chịu những khoản chi phí cưỡng chế đã phát sinh, nếu không phát sinh thì người phải thi hành án không phải chịu chi phí cưỡng chế thi hành án.

Các văn bản liên quan:

Nghị định 58/2009/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự

Quyết định 73/2007/QĐ-TTg Về việc thực hiện chế độ bồi dưỡng đối với những người trực tiếp tham gia cưỡng chế thi hành án dân sự

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thư ký Thi hành án dân sự được hưởng phụ cấp thâm niên nghề

 

 

Xin cho tôi hỏi chức danh thư ký thi hành án dân sự có được hưởng phụ cấp ngành không? Nếu được thì thì mức phụ cấp đuợc tính như thế nào?

 

Gửi bởi: vũ thị hường

Trả lời có tính chất tham khảo

Ngày 09/3/2010, Bộ Tư pháp ban hành Công văn số 566/BTP-TCTHA về việc thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên nghề đối với cán bộ công chức thi hành án dân sự. Theo đó, thực hiện Nghị định số 76/2009/NĐ-CP ngày 15/9/2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, ngày 24/12/2009 Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư liên tịch số 04/2009/TTLT-BNV-BTC hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên đối với cán bộ, công chức đã được xếp lương theo ngạch hoặc chức danh chuyên ngành tòa án, kiểm sát, kiểm toán, thanh tra, thi hành án dân sự và kiểm lâm.

Để triển khai thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên nghề đối với các ngạch, chức danh chuyên ngành thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp yêu cầu các đồng chí Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh thực hiện theo đúng quy định tại các văn bản nêu trên và chú ý một số vấn đề sau đây:

1. Chế độ phụ cấp thâm niên nghề áp dụng đối với cán bộ, công chức trong biên chế xếp lương theo các ngạch hoặc các chức danh chuyên ngành thi hành án dân sự, bao gồm:

– Các ngạch Chấp hành viên của các cơ quan thi hành án dân sự địa phương;

– Thẩm tra viên, Thẩm tra viên chính, Thẩm tra viên cao cấp thi hành án thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự và các cơ quan thi hành án dân sự địa phương;

– Thư ký thi hành án dân sự.

2. Cách chi trả phụ cấp và nguồn kinh phí:

– Phụ cấp thâm niên nghề được chi trả cùng kỳ lương hàng tháng và được dùng để tính đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.

– Kinh phí thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên nghề đối với các ngạch, chức danh chuyên ngành thi hành án dân sự (bao gồm cả việc đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế) do ngân sách nhà nước chi trả trong dự toán ngân sách được giao hàng năm cho Tổng cục Thi hành án dân sự và các cơ quan thi hành án dân sự địa phương.

Để có kinh phí thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên nghề của năm 2009 và 2010, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổng hợp, báo cáo gửi về Tổng cục Thi hành án dân sự để kiểm tra, tổng hợp gửi Vụ Kế hoạch – Tài chính Bộ Tư pháp trình Bộ trưởng Bộ Tư pháp ký gửi Bộ Tài chính trình Chính phủ xem xét, quyết định cấp bổ sung kinh phí.

3. Mức % phụ cấp thâm niên nghề được tính như sau: Thư kí thi hành án dân sự có thời gian làm việc được tính hưởng phụ cấp này đủ 5 năm (60 tháng) thì được hưởng phụ cấp thâm niên nghề bằng 5% mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có); từ năm thứ 6 trở đi mỗi năm (đủ 12 tháng) được tính thêm 1%.

Các văn bản liên quan:

Thông tư liên tịch 04/2009/TTLT-BNV-BTC Hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên nghề đối với cán bộ, công chức đã được xếp lương theo các ngạch hoặc chức danh chuyên ngành tòa án, kiểm sát, kiểm toán, thanh tra, thi hành án dân sự và kiểm lâm

Nghị định 204/2004/NĐ-CP Về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức,viên chức và lực lượng vũ trang

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Giải thích cho đương sự về quyền khởi kiện tại Toà án

 

 

Tháng 01/2011 bà A đưa đơn ly hôn với ông B. tháng 10/2010 Tòa án xét xử cho bà A và ông B ly hôn đồng thời chia tài sản chung bà A được sử dụng 1000m2 đất, ông B sử dụng 1000m2 đất. Tháng 11/2010 bà A yêu cầu cơ quan THA tiến hành chia đất theo bản án. Cơ quan THA tiến hành cắm mốc chia đất. khi làm thủ tục giao nhận thì phát sinh GCNQSDĐ ông B đã sang nhượng cho ông C tháng 03/2010 có chứng thực của UBND xã. Vậy trong trường hợp này xin hỏi ta phải làm như thế nào?

 

Gửi bởi: Hoàng Văn Thuấn

Trả lời có tính chất tham khảo

Việc sang nhượng (chuyển nhượng) quyền sử dụng đất giữa ông B và ông C tháng 03/2010 thực hiện trước khi bà A và ông B đưa đơn lý hôn, đã được UBND xã chứng thực, nhưng chưa đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất nên chưa có hiệu lực pháp luật vì theo quy định tại Điều 168, Điều 688, Điều 692 Bộ luật Dân sự và khoản 4 Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/11/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai, thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất này chỉ có ông B và ông C ký kết mà không được sự đồng ý của bà C, trong khi đó diện tích đất này là tài sản chung của vợ chông bà B và ông A thì có thể hợp đồng này bị vô hiệu đối với phần tài sản của bà B trong không tài sản chung đó.

Do vậy, về mặt pháp lý, cơ quan thi hành án dân sự căn cứ Luật Thi hành án dân sự phải thi hành theo nội dung quyết định của Toà án đãtài sản chung bà A được sử dụng 1000m2 đất, ông B sử dụng 1000m2 đất.

Trong quá trình thi hành án phát sinh tranh chấp, thì Chấp hành viên cần giải thích cho đương sự biết về quyền khởi kiện tại Toà án theo thủ tục tố tụng dân sự quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Bộ luật 24/2004/QH11 Tố tụng dân sự

Nghị định 181/2004/NĐ-CP Về thi hành Luật Đất đai

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Lập bảng thống kê đầy đủ các tài liệu và số bút lục có trong hồ sơ thi hành án

 

 

Sau khi có Thông tư số 22/2011/TT-BTP ngày 02/12/2011 của Bộ Tư pháp về hướng dẫn thực hiện một số thủ tục trong quản lý hành chính về thi hành án dân sự. Thì việc đánh bút lục phải thực hiện hai lần, một lần là tại danh mục tài liệu của (bìa 03) thì còn phải lập một bản thống kê tài liệu giống như danh mục tài liệu (bìa 03) như vậy có đúng không? Nếu đúng thì sẽ bất cập một hồ sơ phải đánh bút lục hai lần. Mong được hướng dẫn cụ thể về vấn đề này?

 

Gửi bởi: Lê Hồng Thủy

Trả lời có tính chất tham khảo

Thông tư số 22/2011/TT-BTP ngày 02/12/2011 của Bộ Tư pháp về hướng dẫn thực hiện một số thủ tục trong quản lý hành chính về thi hành án dân sự có quy định quyết định thi hành án là căn cứ để Chấp hành viên lập hồ sơ thi hành án. Trong thời hạn không quá 02 ngày làm việc kể từ ngày được phân công, Chấp hành viên phải lập hồ sơ thi hành án.

Hồ sơ thi hành án phải thể hiện toàn bộ quá trình tổ chức thi hành án của Chấp hành viên đối với việc thi hành án. Chấp hành viên phải ghi chép các công việc và lưu giữ tất cả các tài liệu đã và đang thực hiện vào hồ sơ thi hành án gồm: bản án, quyết định; các biên bản bàn giao, xử lý vật chứng, tài sản đã kê biên, tạm giữ; biên bản xác minh, biên bản giải quyết việc thi hành án (có chữ ký của các đương sự vào tất cả các trang biên bản); giấy báo; giấy triệu tập; giấy mời; các đơn yêu cầu, khiếu nại về thi hành án; các biên lai, phiếu thu, phiếu chi; các tài liệu liên quan đến việc xử lý tài sản để thi hành án; các công văn, giấy tờ của cơ quan thi hành án, các tổ chức, cá nhân liên quan đến việc thi hành án, như: công văn xin ý kiến hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ thi hành án; công văn trao đổi với cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan trong quá trình thi hành án; công văn yêu cầu chuyển tiền, tang vật còn thiếu hoặc chưa chuyển giao cho cơ quan thi hành án và các giấy tờ, tài liệu khác liên quan.

Hồ sơ thi hành án phải có bìa in theo mẫu thống nhất. Chấp hành viên có trách nhiệm ghi đầy đủ, chi tiết nội dung các mục đã in trên bìa hồ sơ. Trường hợp bìa hồ sơ đã cũ, nát, ố nhàu thì được thay thế bằng bìa hồ sơ mới. Bìa hồ sơ mới phải ghi đầy đủ các cột mục, nội dung của bìa hồ sơ cũ.

Các tài liệu có trong hồ sơ thi hành án phải được sắp xếp cẩn thận, đánh số bút lục và liệt kê đầy đủ vào bảng danh mục in trên bìa hồ sơ thi hành án. Chấp hành viên phải liệt kê và sắp xếp tài liệu theo thứ tự bắt đầu từ bút lục số 01 cho đến bút lục cuối cùng.

Cơ quan thi hành án thực hiện khắc dấu bút lục để sử dụng theo mẫu thống nhất. Việc quản lý và sử dụng dấu bút lục thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng dấu.

Thứ tự đánh số bút lục và sắp xếp tài liệu của hồ sơ thi hành án: Các bút lục được đánh số theo phương pháp tịnh tiến về số và thứ tự từng tờ tài liệu có trong hồ sơ. Bút lục được đánh số một lần. Số bút lục được đánh vào góc phải, phía trên, mặt trước của từng tờ tài liệu và phải được đánh ngay sau khi có tài liệu của hồ sơ thi hành án. Mỗi tờ tài liệu được đánh một số bút lục (riêng bản án, quyết định chỉ đánh một bút lục; trường hợp có nhiều bản án, quyết định thì mỗi bản án, quyết định đánh một số bút lục). Số bút lục được đánh ngay sau khi tiếp nhận tài liệu theo trình tự thời gian tiếp nhận tài liệu. Trường hợp tại một thời điểm tiếp nhận nhiều tài liệu liên quan đến vụ việc thì tài liệu được đánh số bút lục theo thứ tự ngày tháng của tài liệu.

Tài liệu trong hồ sơ được xếp theo thứ tự sau: Đối với trường hợp thi hành án chủ động: tài liệu thứ nhất là quyết định thi hành án; tài liệu thứ hai là bản án, quyết định mà cơ quan thi hành án đưa ra thi hành. Đối với trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu: tài liệu thứ nhất là quyết định thi hành án; tài liệu thứ hai là đơn yêu cầu thi hành án; tài liệu thứ ba là bản án, quyết định mà cơ quan thi hành án đưa ra thi hành. Các tài liệu tiếp theo (nếu có) được sắp xếp theo thứ tự thời điểm cơ quan thi hành án có được tài liệu.

Việc sắp xếp tài liệu phải thể hiện tại trang 03 của bìa hồ sơ thi hành án (Danh mục tài liệu), từ bút lục số 01 rồi đến các bút lục tiếp theo.

Trước khi đưa hồ sơ vào lưu trữ, cơ quan thi hành án phải thực hiện việc kiểm tra, sắp xếp, hoàn tất các thủ tục để bảo đảm hồ sơ đầy đủ, chặt chẽ.

Để việc lưu trữ sổ sách, hồ sơ thi hành án chặt chẽ hơn và để tăng cường trách nhiệm của Chấp hành viên, Thông tư số 22/2011/TT-BTP quy định sau khi kết thúc việc thi hành án, Chấp hành viên được phân công tổ chức thi hành vụ việc phải kiểm tra lại các tài liệu có trong hồ sơ; lập bảng thống kê đầy đủ các tài liệu và số bút lục có trong hồ sơ; ký, ghi rõ họ tên và chuyển cho Thẩm tra viên kiểm tra, ký xác nhận vào phía dưới góc phải của bảng thống kê để Thủ trưởng cơ quan thi hành án phê duyệt đưa vào lưu trữ.

Như vậy, đây là quy định mới nên Chấp hành viên cơ quan thi hành án phải thực hiện và cần thực hiện bằng máy vi tính.

Các văn bản liên quan:

Thông tư 22/2011/TT-BTP Hướng dẫn thực hiện một số thủ tục trong quản lý hành chính về thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thời điểm hưởng chế độ phụ cấp thâm niên nghề thi hành án từ khi được bổ nhiệm Thư ký thi hành án

 

 

Tôi vào nghành từ năm 2006 ngạch chuyên viên thi hành án và công tác tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang, đến tháng 7 năm 2011 thì được chuyển sang thư ký thi hành án. Vậy cho tôi hỏi trong thời gian chuyên viên có được hưởng phụ cấp nghề không?

 

Gửi bởi: nguyen thanh long

Trả lời có tính chất tham khảo

Căn cứ Nghị định số 76/2009/NĐ-CP ngày 15/9/2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ “về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang” và Thông tư liên tịch số 04/2009/TTLT-BNV-BTC ngày 24/12/2009 Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính “hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên đối với cán bộ, công chức đã được xếp lương theo ngạch hoặc chức danh chuyên ngành tòa án, kiểm sát, kiểm toán, thanh tra, thi hành án dân sự và kiểm lâm” thì đối tượng được hưởng chế độ phụ cấp thâm niên đối với cán bộ, công chức của các cơ quan thi hành án dân sự, phải là người đã được xếp lương theo ngạch hoặc chức danh chuyên ngành tòa án, kiểm sát, kiểm toán, thanh tra, thi hành án dân sự và kiểm lâm, bao gồm:

– Chánh án và Phó Chánh án Tòa án nhân dân các cấp; Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp; Thư ký Tòa án và Thẩm tra viên ngành Tòa án (Thẩm tra viên cao cấp, Thẩm tra viên chính và Thẩm tra viên).

– Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân các cấp, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân các cấp, Điều tra viên các cấp và Kiểm tra viên ngành Kiểm sát (Kiểm tra viên cao cấp, Kiểm tra viên chính và Kiểm tra viên).

– Tổng kiểm toán nhà nước, Phó tổng kiểm toán nhà nước và Kiểm toán viên nhà nước (Kiểm toán viên cao cấp, Kiểm toán viên chính, Kiểm toán viên, Kiểm toán viên dự bị).

– Tổng thanh tra và Phó Tổng thanh tra, Chánh Thanh tra và Phó Chánh Thanh tra các cơ quan Thanh tra nhà nước, Thanh tra viên (Thanh tra viên cao cấp, Thanh tra viên chính, Thanh tra viên).

– Thủ trưởng và Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự các cấp, Chấp hành viên thi hành án dân sự các cấp, Thẩm tra viên thi hành án dân sự (Thẩm tra viên cao cấp, Thẩm tra viên chính và Thẩm tra viên thi hành án dân sự) và Thư ký thi hành án dân sự.

– Cục trưởng và Phó cục trưởng Cục Kiểm lâm, Chi cục trưởng và Phó chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm, Hạt trưởng và Phó Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm, Kiểm lâm viên (Kiểm lâm viên chính, Kiểm lâm viên, Kiểm lâm viên cao đẳng, Kiểm lâm viên trung cấp và Kiểm lâm viên sơ cấp.

Chế độ phụ cấp thâm niên nghề áp dụng đối với cán bộ, công chức trong biên chế xếp lương theo các ngạch hoặc các chức danh chuyên ngành thi hành án dân sự theo hướng dẫn tại Công văn số 566/BTP-TCTHA ngày 09/3/2010 của Bộ Tư pháp, bao gồm: Các ngạch Chấp hành viên của các cơ quan thi hành án dân sự địa phương; Thẩm tra viên, Thẩm tra viên chính, Thẩm tra viên cao cấp thi hành án thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự và các cơ quan thi hành án dân sự địa phương; Thư ký thi hành án dân sự.

Đối chiếu quy định này, trường hợp của bạn được bổ nhiệm Thư ký thi hành án dân sự tháng 7 năm 2011 thì thời điểm hưởng chế độ phụ cấp thâm niên nghề thi hành án từ khi được bổ nhiệm Thư ký thi hành án. Thời gian là chuyên viên không được hưởng phụ cấp thâm niên nghề thi hành án.

Các văn bản liên quan:

Thông tư liên tịch 04/2009/TTLT-BNV-BTC Hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên nghề đối với cán bộ, công chức đã được xếp lương theo các ngạch hoặc chức danh chuyên ngành tòa án, kiểm sát, kiểm toán, thanh tra, thi hành án dân sự và kiểm lâm

Nghị định 76/2009/NĐ-CP Về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

 

 

Tôi có vay một số tiền của bạn bè để kinh doanh hàng vải, do làm ăn thua lỗ nên chưa trả được nợ, vì vậy bị khởi kiện ra Tòa án. Các chủ nợ đề nghị Tòa án kê biên tài sản là nhà đất để bảo đảm thi hành án sau này và Tòa án, cơ quan thi hành án thị xã đã ra quyết định phong tỏa tài sản. Tài sản này tôi đang thế chấp cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thị xã. Tôi được biết tại khoản 4 Điều 4 Nghị định 163 năm 2006 về giao dịch bảo đảm có quy định: Trong trường hợp giao dịch bảo đảm được giao kết hợp pháp và có giá trị pháp lý đối với người thứ ba thì Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác không được kê biên tài sản bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ khác của bên bảo đảm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Tôi đến Tòa án và cơ quan thi hành án yêu cầu hủy bỏ quyết định nhưng Chánh án và Chi cục trưởng trả lời là ra quyết định phong tỏa chứ không phải kê biên nên không hủy. Xin hỏi việc Tòa án và cơ quan thi hành án ra quyết định phong tỏa tài sản là nhà, đất của tôi đang thế chấp ngân hàng là đúng hay sai, tôi có quyền yêu cầu hủy quyết định phong tỏa này hay không?

 

Gửi bởi: lttha

Trả lời có tính chất tham khảo

Thứ nhất, theo quy định Điều 99 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2005 thì trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền yêu cầu Toà án đang giải quyết vụ án đó áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 102 của Bộ luật này để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án. Trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền nộp đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 102 của Bộ luật này đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Toà án đó. Toà án chỉ tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp quy định tại Điều 119 của Bộ luật này.

Điều 102 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định các biện pháp khẩn cấp tạm thời:

1. Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

2. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng.

3. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm.

4. Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động.

5. Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định sa thải người lao động.

6. Kê biên tài sản đang tranh chấp.

7. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.

8. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp.

9. Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hoá khác.

10. Phong toả tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong toả tài sản ở nơi gửi giữ.

11. Phong toả tài sản của người có nghĩa vụ.

12. Cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định.

13. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà pháp luật có quy định.

Điều 108 Bộ luật này quy định biện pháp khẩn cấp tạm thời kê biên tài sản đang tranh chấp như sau: Kê biên tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản. Tài sản bị kê biên có thể được thu giữ, bảo quản tại cơ quan thi hành án hoặc lập biên bản giao cho một bên đương sự hoặc người thứ ba quản lý cho đến khi có quyết định của Toà án.

Điều 113 và Điều 114 Bộ luật này cung quy định phong toả tài sản ở nơi gửi giữ được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản đang gửi giữ và việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc bảo đảm cho việc thi hành án. Phong toả tài sản của người có nghĩa vụ được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản và việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc bảo đảm cho việc thi hành án.

Như vậy, Tòa án có quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và khi đã có quyết định này của Tòa án thì cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, về việc kê biên tài sản đang thế chấp để thi hành án:

Điều 90 Luật Thi hành án dân sự về kê biên, xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp quy định:

1. Trường hợp người phải thi hành án không còn tài sản nào khác hoặc có tài sản nhưng không đủ để thi hành án, Chấp hành viên có quyền kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án đang cầm cố, thế chấp nếu giá trị của tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án.

2. Khi kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp, Chấp hành viên phải thông báo ngay cho người nhận cầm cố, nhận thế chấp; khi xử lý tài sản kê biên, người nhận cầm cố, nhận thế chấp được ưu tiên thanh toán theo quy định tại khoản 3 Điều 47 của Luật này.

Do vậy, nếu tài sản của bà đang thế chấp thuộc diện quy định tại Điều này thì có thể bị kê biên để thi hành án.

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Bộ luật 24/2004/QH11 Tố tụng dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thu tiền phạt và tịch thu trong các vụ án về ma tuý

 

 

Thông tư 06/2007/TT-BTP ngày 05/7/2007 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một số thủ tục hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự quy định:Riêng đối với khoản tiền phạt và tịch thu từ các vụ án về ma tuý, Chấp hành viên yêu cầu kế toán nộp vào tài khoản tạm giữ của cơ quan tài chính mở tại Kho bạc Nhà nước theo quy định tại Thông tư liên tịch số 05/2001/TTLT-BTC-BCA ngày 16 tháng 01 năm 2001 của Bộ Tài chính, Bộ Công an hướng dẫn thực hiện Quyết định số 31/2000/QĐ-TTg ngày 02 tháng 03 năm 2000 của Thủ tướng Chính phủ về thành lập quỹ phòng chống ma tuý. Nay được thay thế bởi Thông tư số 22/2011/TT-BTP không có quy định trên. Xin hỏi chúng tôi sẽ thực hiện theo Thông tư mới có đúng không?

 

Gửi bởi: Nguyễn Thị Quyên

Trả lời có tính chất tham khảo

Thông tư số 06/2007/TT-BTP ngày 05/7/2007 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một số thủ tục hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự quy định: Riêng đối với khoản tiền phạt và tịch thu từ các vụ án về ma tuý, Chấp hành viên yêu cầu kế toán nộp vào tài khoản tạm giữ của cơ quan tài chính mở tại Kho bạc Nhà nước theo quy định tại Thông tư liên tịch số 05/2001/TTLT/BTC-BCA ngày 16 tháng 01 năm 2001 của Bộ Tài chính, Bộ Công an hướng dẫn thực hiện Quyết định số 31/2000/QĐ-TTg ngày 02 tháng 03 năm 2000 của Thủ tướng Chính phủ về thành lập quỹ phòng chống ma tuý. Thông tư này được thay thế bởi Thông tư số 22/2011/TT-BTP ngày 02/12/2011 của Bộ Tư pháp không có quy định trên, nên cơ quan thi hành án dân sự thực hiện theo Thông tư mới và quy định về chế độ kế toán nghiệp vụ thi hành án tại Thông tư số 91/2010/TT-BTC ngày 17/6/2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn kế toán nghiệp vụ thi hành án dân sự.

Đối với việc thu án phí, tiền phạt và các khoản phải thu khác đối với người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù (kể cả vụ án về ma tuý) thì thực hiện theo quy định tại Điều 128 Luật Thi hành án dân sự năm 2008: Giám thị trại giam, trại tạm giam nơi người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù thu các khoản tiền, tài sản mà người phải thi hành án, thân nhân của người phải thi hành án nộp để thi hành án và chuyển cho cơ quan thi hành án dân sự xử lý theo quy định của pháp luật. Trường hợp người phải thi hành án chuyển trại giam, trại tạm giam hoặc được đặc xá, được miễn chấp hành hình phạt tù hoặc chết thì Giám thị trại giam, trại tạm giam nơi người đó chấp hành hình phạt tù phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan thi hành án dân sự.

Các văn bản liên quan:

Thông tư 22/2011/TT-BTP Hướng dẫn thực hiện một số thủ tục trong quản lý hành chính về thi hành án dân sự

Thông tư 91/2010/TT-BTC Hướng dẫn kế toán nghiệp vụ thi hành án dân sự

Thông tư liên tịch 05/2001/TTLT/BTC-BCA Hướng dẫn thực hiện Quyết định số 31/2000/QĐ-TTg ngày 02/3/2000 của Thủ tướng Chính phủ về thành lập Quỹ phòng, chống ma túy.

Thông tư 06/2007/TT-BTP Hướng dẫn thực hiện một số thủ tục hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Truy lĩnh phụ cấp thâm niên nghề thi hành án dân sự

 

 

Trước đây tôi là Chấp hành viên thi hành án cấp huyện được 10 năm, do bị kỷ luật đã miễn nhiệm chức danh Chấp hành viên trước ngày 01/01/2009. Hiện tại tôi được bổ nhiệm là Thư ký thi hành án được 1 năm. Vậy tôi có được hưởng truy lĩnh phụ cấp thâm niêm nghề hay không?

 

Gửi bởi: Đặng Thế Phong

Trả lời có tính chất tham khảo

Vấn đề thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên nghề đối với cán bộ, công chức cơ quan thi hành án dân sự được áp dụng theo quy định tại Nghị định số 76/2009/NĐ-CP ngày 15/9/2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ “về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang” và Thông tư liên tịch số 04/2009/TTLT-BNV-BTC ngày 24/12/2009 Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính “hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên đối với cán bộ, công chức đã được xếp lương theo ngạch hoặc chức danh chuyên ngành tòa án, kiểm sát, kiểm toán, thanh tra, thi hành án dân sự và kiểm lâm” và hướng dẫn tại Công văn số 566/BTP-TCTHA ngày 09/3/2010 của Bộ Tư pháp. Theo đó, chế độ phụ cấp thâm niên nghề áp dụng đối với cán bộ, công chức trong biên chế xếp lương theo các ngạch hoặc các chức danh chuyên ngành thi hành án dân sự, bao gồm:

– Các ngạch Chấp hành viên của các cơ quan thi hành án dân sự địa phương;

– Thẩm tra viên, Thẩm tra viên chính, Thẩm tra viên cao cấp thi hành án thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự và các cơ quan thi hành án dân sự địa phương;

– Thư ký thi hành án dân sự.

Thời gian làm việc tính hưởng phụ cấp áp dụng theo quy định tại Điều 3 Thông tư liên tịch số 04/2009/TTLT-BNV-BTC ngày 24/12/2009 Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính. Thời gian làm việc được tính hưởng phụ cấp thâm niên nghề được xác định bằng tổng thời gian sau:

a) Thời gian làm việc được xếp lương theo một trong các ngạch hoặc chức danh của các chuyên ngành hải quan, tòa án, kiểm sát, kiểm toán, thanh tra, thi hành án dân sự, kiểm lâm, kiểm tra Đảng (nếu có thời gian gián đoạn mà thời gian làm việc được tính hưởng phụ cấp thâm niên nghề chưa hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần thì được cộng dồn);

b) Thời gian làm việc được hưởng phụ cấp thâm niên nghề trong quân đội, công an và cơ yếu (nếu có);

c) Thời gian đi nghĩa vụ quân sự theo luật định của các đối tượng quy định tại Điều 1 Thông tư này mà trước khi đi nghĩa vụ quân sự đang được hưởng phụ cấp thâm niên nghề.

2. Thời gian không được tính hưởng phụ cấp thâm niên nghề, bao gồm:

a) Thời gian tập sự;

b) Thời gian thực hiện chế độ công chức dự bị;

c) Thời gian làm các công việc xếp lương theo các ngạch hoặc chức danh ngoài quy định tại Điều 1 Thông tư này;

d) Thời gian làm việc trong quân đội, công an và cơ yếu không được tính hưởng phụ cấp thâm niên nghề;

đ) Thời gian nghỉ việc riêng không hưởng lương liên tục từ 01 tháng trở lên;

e) Thời gian nghỉ ốm đau, thai sản vượt quá thời hạn theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội;

g) Thời gian bị tạm đình chỉ công tác hoặc bị tạm giữ, tạm giam để phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử.

Đối chiếu với quy định này, trường hợp của anh có thời gian gián đoạn mà thời gian làm việc được tính hưởng phụ cấp thâm niên nghề chưa hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần thì được cộng dồn. Vì thế, theo tôi thì anh được xem xét truy lĩnh phụ cấp thâm niên nghề theo quy định nêu trên.

Các văn bản liên quan:

Thông tư liên tịch 04/2009/TTLT-BNV-BTC Hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên nghề đối với cán bộ, công chức đã được xếp lương theo các ngạch hoặc chức danh chuyên ngành tòa án, kiểm sát, kiểm toán, thanh tra, thi hành án dân sự và kiểm lâm

Nghị định 76/2009/NĐ-CP Về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Khi cơ quan thi hành án không ra quyết định cưỡng chế HTX

 

 

Ngày 26/3/2009 Tòa phúc thẩm đã tuyên HTX A phải trả cho tôi 140 triệu đồng. Thi hành án dân sự tỉnh Nam Định đã có quyết định ủy thác cho THADS huyện X ra quyết định thi hành án và xác định tài sản của HTX A có 1 máy cày 50 và một khu kiot rộng 124m2. Nhưng đến nay đã gần 3 năm THADS huyện X vẫn không ra quyết định cưỡng chế thi hành án. Tôi phải làm gì để giải quyết được?

 

Gửi bởi: do trong hung

Trả lời có tính chất tham khảo

Trường hợp bạn nêu không có hồ sơ cụ thể nên chúng tôi không khẳng định đúng hay sai vì tài sản đó có thuộc diện được kê biên hay không. Nếu là tài sản không được kê biên quy định tại Điều 87 Luật Thi hành án dân sự thì việc không ra quyết định cưỡng chế là không sai. Tài sản không được kê biên của hợp tác xã gồm:

Tài sản bị cấm lưu thông theo quy định của pháp luật; tài sản phục vụ quốc phòng, an ninh, lợi ích công cộng; tài sản do ngân sách nhà nước cấp cho cơ quan, tổ chức.

Tài sản sau đây của người phải thi hành án là doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ:

a) Số thuốc phục vụ việc phòng, chữa bệnh cho người lao động; lương thực, thực phẩm, dụng cụ và tài sản khác phục vụ bữa ăn cho người lao động;

b) Nhà trẻ, trường học, cơ sở y tế và thiết bị, phương tiện, tài sản khác thuộc các cơ sở này, nếu không phải là tài sản để kinh doanh;

c) Trang thiết bị, phương tiện, công cụ bảo đảm an toàn lao động, phòng, chống cháy nổ, phòng, chống ô nhiễm môi trường.

Trường hợp tài sản được kê biên nhưng Chấp hành viên không ra quyết định cưỡng chế thì bạn có quyền khiếu nại theo Điều 142 Luật Thi hành án dân sự đến Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hải Hậu, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh Nam Định để nghị giải quyết.

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Tài sản đứng tên chồng có thể là tài sản chung để thi hành án

 

 

Chị tôi có cho một chị bạn cùng thị trấn vay 2 tỷ đồng chỉ cam kết bằng giấy vay nợ mà không có tài sản thế chấp. Giờ chị bạn kia không có khả năng trả nợ. Chị tôi có kiện chị kia ra tòa án và tòa xử chị tôi thắng kiện. Tuy nhiên chị kia hiện không có tài sản cá nhân gì, chỉ có 1 ngôi nhà đứng tên chồng chị ấy. Vậy, liệu chị tôi có đòi được tiền không? Cơ quan thi hành án có đứng ra cưỡng chế ngôi nhà để trả tiền cho chị tôi không?

 

Gửi bởi: Đặng thị ninh

Trả lời có tính chất tham khảo

Trường hợp bạn hỏi, vấn đề quan trọng là xác định ngôi nhà đứng tên chồng chị kia (bạn của chị bạn) là tài sản chung của vợ chồng chị ấy hay của riêng chồng chị ấy. Theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về tài sản chung của vợ chồng, thì tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.

Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.

Điều 5 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình quy định về đăng ký tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Theo đó, các tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng khi đăng ký quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ và chồng theo quy định tại khoản 2 Điều 27 của Luật Hôn nhân và gia đình bao gồm: nhà ở, quyền sử dụng đất và những tài sản khác mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu. Việc đăng ký các tài sản, quyền tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng phải ghi tên của cả vợ và chồng theo quy định tại khoản 1 Điều này được thực hiện kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng đã đăng ký quyền sở hữu trước ngày Nghị định này có hiệu lực mà chỉ ghi tên của một bên vợ hoặc chồng, thì vợ chồng có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp lại giấy tờ đăng ký quyền sở hữu tài sản đó để ghi tên của cả vợ và chồng; nếu vợ chồng không yêu cầu cấp lại giấy tờ đăng ký quyền sở hữu tài sản, thì tài sản đó vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng; nếu có tranh chấp, bên nào cho đó là tài sản thuộc sở hữu riêng của mình, thì có nghĩa vụ chứng minh.

Như vậy, mặc dù nhà đất đứng tên chồng chị kia nhưng cũng có thể là tì sản chung của vợ chồng chị ấy.

Nếu tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng thì cơ quan thi hành án dân sự có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý phần tài sản chung của chị ấy trong khối tài sản chung theo quy định tại Điều 74 Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Trước khi cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung của người phải thi hành án với người khác, kể cả quyền sử dụng đất, Chấp hành viên phải thông báo cho chủ sở hữu chung biết việc cưỡng chế.

Chủ sở hữu chung có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án xác định phần sở hữu của họ đối với tài sản chung. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, nếu chủ sở hữu chung không khởi kiện thì người được thi hành án hoặc Chấp hành viên có quyền yêu cầu Toà án xác định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để bảo đảm thi hành án.

Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu chung của vợ, chồng thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết. Trường hợp vợ hoặc chồng không đồng ý thì có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày phần sở hữu được Chấp hành viên xác định. Hết thời hạn trên, đương sự không khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành xử lý tài sản và thanh toán lại cho vợ hoặc chồng của người phải thi hành án giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu của họ.

Tài sản kê biên thuộc sở hữu chung đã xác định được phần sở hữu của các chủ sở hữu chung được xử lý như sau: Đối với tài sản chung có thể chia được thì Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế phần tài sản tương ứng với phần sở hữu của người phải thi hành án. Đối với tài sản chung không thể chia được hoặc nếu việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với toàn bộ tài sản và thanh toán lại cho chủ sở hữu chung còn lại giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu của họ.

Khi bán tài sản chung, chủ sở hữu chung được quyền ưu tiên mua tài sản.

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Nghị định 70/2001/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình

Luật 22/2000/QH10 Hôn nhân và gia đình

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Kê biên, xử lý quyền sử dụng đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để thi hành án

 

 

Ngày 01/4/2006, TAND huyện X ra Quyết định số 15/QĐ-CNTT về việc công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong vụ “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Nội dung Quyết định nêu rõ bà M phải có nghĩa vụ trả nợ cho bà N số tiền là 79 triệu đồng. Trên cơ sở Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, bà N đã làm đơn yêu cầu thi hành án. Ngày 5/5/2006, Thi hành án dân sự huyện X ra Quyết định số 153/QĐ-THA để tổ chức thi hành án đối với bà M. Ngày 7/6/2006, bà M đã trả bà N số tiền là 02 triệu đồng. Bà N đã làm đơn yêu cầu Chi cục Thi hành án huyện X kê biên, bán đấu giá thửa đất số 138 tờ bản đồ số 10 với diện tích là 7.828m2 do vợ chồng bà M đang trực tiếp canh tác, sử dụng để trả số còn thiếu là 77 triệu đồng. Ngày 26/7/2006, Hội đồng định giá tiến hành định giá lô đất trên thì bà H (em ruột bà M) có đơn khiếu nại quyền sử dụng lô đất đang kê biên. Do đó, Hội đồng định giá ngưng tiến hành làm thủ tục thi hành án cho bà N để chờ kết quả giải quyết khiếu nại của UBND huyện X, xác định nguồn gốc đất trên là do ai trực tiêp khai phá, sử dụng. Ngày 20/10/2010, UBND huyện Đ đã ra quyết định số 3620/QĐ-UBND bác đơn của bà H về việc xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lý do là không đủ cơ sở pháp lý để cấp giấy. Nội dung quyết định cũng thể hiện diện tích đất trên có nguồn gốc là do vợ chồng bà M tự khai phá vào khoảng năm 1990 sử dụng vào mục đích trồng cây lâu năm. Đã nhiều lần, UBND xã mời vợ chồng bà M lên trao đổi, vận động để đăng ký quyền sử dụng đất trên nhằm đủ điều kiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng bà M, nhưng vợ chồng bà không công nhận diện tích đất đó là do vợ chồng bà tự khai phá và sử dụng. Do đó, UBND huyện đã thu hồi diện tích đất trên và giao cho UBND xã quản lý. Bà N đã nhiều lần làm đơn yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ kê biên, phát mại lô đất trên để buộc bà M thi hành án cho bà, nhưng không thể thi hành được do bà M không có tài sản hoặc nguồn thu nhập nào khác ngoài diện tích đất nói trên để kê biên bảo đảm cho việc thi hành án. Tuy nhiên, các cơ quan chức năng nói trên đều cho rằng mặc dù vợ chồng bà M sử dụng đất từ năm 1990 đến nay nhưng không có tên trong sổ địa chính và vợ chồng bà M cũng không công nhận phần đất trên do vợ chồng bà khai phá, sử dụng, đồng thời từ chối làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên không có cơ sở để phát mại thi hành án. Tôi muốn hỏi, trong trường hợp nêu trên, phải làm thế nào để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà N.

 

Gửi bởi: nguyễn công thọ

Trả lời có tính chất tham khảo

Trong trường hợp này, nếu có căn cứ khẳng định diện tích đất nêu trên của vợ chồng bà M đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quy định tại Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 do là: Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn đặc biệt ở miền núi, hải đảo, nay được Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất. Hoặc là hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất.

Diện tích đất nêu trên của gia đình bà M thuộc diện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được chuyển quyền sử dụng đất, thì thuộc loại quyền sử dụng đất được kê biên, xử lý để thi hành án theo quy định tại quy định tại Điều 110 và Điều 111 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Luật 13/2003/QH11 Đất đai

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Tiêu chuẩn về trình độ cử nhân chuyên ngành Luật để thi tuyển Chấp hành viên sơ cấp

 

 

Tôi tốt nghiệp Cử nhân kinh tế chuyên ngành Luật Kinh doanh, vậy có được tham gia học và thi tuyển Chấp hành viên không, theo Thông tư 10/2010/TT-BNV ngày 28/10/2010 của Bộ Nội vụ là tốt nghiệp cử nhân chuyên ngành Luật?

 

Gửi bởi: Nguyễn Thanh Vũ

Trả lời có tính chất tham khảo

Theo quy định tại Điều 6 Thông tư số 10/2010/TT-BNV ngày 28/10/2010 của Bộ Nội vụ thì Chấp hành viên sơ cấp là công chức chuyên môn nghiệp vụ thi hành án dân sự, có trách nhiệm trực tiếp tổ chức thi hành án đối với những vụ việc đơn giản, lượng tiền, tài sản phải thi hành án có giá trị nhỏ thuộc thẩm quyền thi hành của Cục Thi hành án dân sự, Chi cục Thi hành án dân sự và Phòng Thi hành án cấp quân khu.

Về năng lực phải có kiến thức lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên để vận dụng vào công tác thi hành án dân sự; nắm vững nội dung cơ bản về hệ thống pháp luật hiện hành; nắm vững nội dung pháp luật về thi hành án dân sự; biết áp dụng các nguyên tắc, chế độ, thủ tục về nghiệp vụ thi hành án; nắm được tình hình kinh tế, xã hội ở địa phương; có năng lực độc lập tổ chức thi hành những vụ việc thuộc thẩm quyền của cơ quan thi hành án cấp huyện; có khả năng giáo dục, thuyết phục đương sự thi hành bản án, quyết định của Toà án; có khả năng soạn thảo các văn bản liên quan đến chức trách, nhiệm vụ được giao.

Tiêu chuẩn về trình độ phải:

a) Có trình độ cử nhân chuyên ngành Luật trở lên;

b) Có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ ngạch chấp hành viên theo nội dung, chương trình của Bộ Tư pháp;

c) Có ngoại ngữ trình độ B trở lên (một trong năm thứ tiếng: Anh, Pháp, Nga, Đức, Trung Quốc) hoặc một ngoại ngữ khác theo yêu cầu của vị trí làm việc;

d) Có trình độ tin học văn phòng (sử dụng được các kỹ năng của Microsoft Word, Microsoft Excel, Internet để phục vụ công tác chuyên môn);

đ) Có thời gian làm công tác pháp luật từ 03 năm trở lên.

Tiêu chuẩn “Có trình độ cử nhân chuyên ngành Luật trở lên” được hiểu theo nghĩa chung là người có trình độ cử nhân chuyên ngành Luật (không phải chỉ là cử nhân Luật). Cử nhân (tiếng Anh là: Bachelor’s degree) là một học vị dành cho những người đã tốt nghiệp chương trình đại học hoặc cao đẳng với thời gian từ 2 đến 6 năm tùy theo quy định của mỗi quốc gia. Bằng cử nhân còn gọi chung là bằng tốt nghiệp đại học.

Ở Việt Nam, bằng cử nhân được cấp cho sinh viên tốt nghiệp đại học thuộc các ngành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội (cử nhân khoa học, cử nhân kinh tế, cử nhân luật…). Thời gian đào tạo của chương trình đào tạo cử nhân là 4 năm. Sinh viên tốt nghiệp đại học thuộc các ngành kỹ thuật được cấp bằng kỹ sư, với thời gian đào tạo từ 4 năm rưỡi đến 5 năm.

Theo quy định của Bộ Giáo dục và đào tạo nước ta hiện nay, mẫu phôi bằng tốt nghiệp đại học trong hệ thống giáo dục quốc dân được chia thành 6 loại. Mỗi loại phôi được dùng để cấp văn bằng tốt nghiệp cho các ngành tương ứng, cụ thể như sau: Ngành kỹ thuật cấp phôi “bằng kỹ sư”; ngành kiến trúc cấp phôi “bằng kiến trúc sư”; ngành y cấp phôi “bằng bác sĩ” hoặc “bằng cử nhân”; ngành dược cấp phôi “bằng dược sĩ” hoặc “bằng cử nhân”; các ngành khoa học cơ bản, sư phạm, luật, kinh tế cấp phôi “bằng cử nhân”; các ngành đào tạo khác cấp phôi “bằng tốt nghiệp đại học”.

Như vậy, bạn có trình độ cử nhân kinh tế chuyên ngành Luật (học ở các trường như: Trường Đại học kinh tế quốc dân khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh Khoa Luật Kinh tế) thì bảo đảm tiêu chuẩn về trình độ cử nhân chuyên ngành Luật để được thi tuyển Chấp hành viên.

Các văn bản liên quan:

Thông tư 10/2010/TT-BNV Quy định mã số, tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức chấp hành viên và thư ký thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Kê biên quyền sử dụng đất để thi hành án sau khi công chứng nhưng chưa đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất

 

 

Xin hỏi: Vào tháng 07/2011, cha mẹ tôi có làm hợp đồng tặng cho tôi 01 phần đất (có ra Công chứng). Và tôi đã nộp hồ sơ đến Phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh. cũng vào tháng 07/2011. Và đến tháng 08/2011, thì mẹ Tôi bị thưa kiện tại Toà án Tân Châu, và 02/2012 thì Toà án tỉnh Tây Ninh xử phúc thẩm, buộc bố mẹ tôi phải trả nợ là hơn 350.000.000 đồng.Vậy Chi cục Thi hành án Tân Châu có quyền kê biên phần đất mà bố mẹ Tôi làm hợp đồng chuyển nhượng cho tôi vào tháng 7/2011 vừa qua hay không. Thủ tục đăng ký này đã nộp vào 07/2011, nhưng đến nay vẫn chưa sang tên cho tôi xong. Nếu như Thi hành án kê biên thì tôi phải làm sao để bảo vệ quyền lợi ích này. Xin chân thành cám ơn!

 

Gửi bởi: nguyễn thị hữu rúc

Trả lời có tính chất tham khảo

Trong trường hợp bạn hỏi, vấn đề quan trọng là việc xác định hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất của mẹ bạn cho bạn có ngay tình hay không, có nhằm mục đích tẩu tán tài sản để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án hay không và thời điểm chuyển quyền sử dụng đất.

Theo quy định tại Điều 692 Bộ luật Dân sự năm 2005, khoản 4 Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai thì văn bản tặng cho quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Do vậy, nếu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất vào tháng 7/2011 nhưng chưa đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thì có thể bị kê biên để thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự.

Trường hợp quyền sử dụng đất nêu trên bị kê biên mà bạn cho rằng đó là quyền sử dụng đất của mình do đã hoàn thành thủ tục tặng cho trước khi có bản án, thì bạn thực hiện thủ tục yêu cầu Toà án xác định quyền sử dụng tài sản phát sinh trong quá trình thi hành án theo quy định tại khoản 4 Điều 179 Luật Thi hành án dân sự, khoản 7 Điều 25 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi năm 2010. Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thông báo mà không có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án xử lý tài sản theo quy định của pháp luật, trường hợp có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án chỉ xử lý tài sản khi có bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Các văn bản liên quan:

Thông tư liên tịch 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Bộ luật 24/2004/QH11 Tố tụng dân sự

Nghị định 181/2004/NĐ-CP Về thi hành Luật Đất đai

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com