Các trường hợp Chấp hành viên bán đấu giá tài sản kê biên
Chấp hành viên có được bán đấu giá trong trường hợp trung tâm dịch vụ bán đấu giá từ chối hay phải mời đấu giá giá viên điều hành hay không?
Gửi bởi: le van hung
Trả lời có tính chất tham khảo
Khoản 3 Điều 101 Luật Thi hành án dân sự quy định Chấp hành viên bán đấu giá tài sản kê biên trong các trường hợp sau đây:
a) Tại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản chưa có tổ chức bán đấu giá hoặc có nhưng tổ chức bán đấu giá từ chối ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản.
b) Động sản có giá trị từ 2.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.
Việc bán đấu giá đối với động sản phải được thực hiện trong thời hạn là 30 ngày, đối với bất động sản là 45 ngày, kể từ ngày định giá hoặc từ ngày nhận được văn bản của tổ chức bán đấu giá từ chối bán đấu giá.
Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ quy định bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai theo phương thức trả giá lên, có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc và trình tự, thủ tục được quy định tại Nghị định này. Phương thức trả giá lên là phương thức trả giá từ thấp lên cao cho đến khi có người trả giá cao nhất. Người đã là Chấp hành viên được miễn đào tạo nghề đấu giá.
Vì vậy, Chấp hành viên được điều hành bán đấu giá tài sản kê biên để thi hành án theo nguyên tắc và trình tự, thủ tục được quy định tại Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản trong trường hợp Trung tâm dịch vụ bán đấu giá từ chối ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản nếu ở địa phương đó không có tổ chức khác có chức năng bán đấu giá tài sản hoặc tổ chức này cũng từ chối ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản. Trường hợp Trung tâm dịch vụ bán đấu giá từ chối ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản nhưng có tổ chức khác có chức năng bán đấu giá tài sản đồng ý ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản, thì Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản với tổ chức đó để bán đấu giá tài sản đảm bảo thi hành án.
Các văn bản liên quan:
Nghị định 17/2010/NĐ-CP Về bán đấu giá tài sản
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Trả đơn yêu cầu thi hành án có đúng không?
Người được thi hành án có đơn đề nghị trả lại đơn yêu cầu thi hành án. Cơ quan thi hành án ra Quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án theo Điều 50 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 mà không tiến hành việc xác minh có được không?
Gửi bởi: Trần Văn Hường
Trả lời có tính chất tham khảo
Trả lại đơn yêu cầu thi hành án được quy định tại Điều 51 Luật Thi hành án dân sự, theo đó, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án trong các trường hợp sau đây:
a) Người phải thi hành án không có tài sản để thi hành án hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản chỉ đủ để thanh toán chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc tài sản đó theo quy định của pháp luật không được xử lý để thi hành án.
b) Người phải thi hành án không có thu nhập hoặc mức thu nhập thấp, chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải thi hành án và gia đình.
c) Tài sản kê biên không bán được mà người được thi hành án không nhận để thi hành án.
d) Người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ về trả vật đặc định nhưng vật phải trả không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được mà đương sự không có thoả thuận khác.
Tuy điều luật không quy định cụ thể, nhưng để trả đơn lại yêu cầu thi hành án theo quy định này thì phải có căn cứ thể hiện điều kiện đó. Căn cứ thể hiện điều kiện trả đơn yêu cầu thi hành án thông qua kết quả xác minh điều kiện thi hành án. Do đó, trong hồ sơ trả đơn yêu cầu thi hành án phải có tài liệu thể hiện đã xác minh điều kiện thi hành án mới bảo đảm việc trả đơn yêu cầu thi hành án có cơ sở.
Trường hợp bạn hỏi, tình tiết nêu ra chưa thực sự rõ, vì thế cần lưu ý hai trường hợp sau đây:
– Trường hợp người được thi hành án có đơn đề nghị trả lại đơn yêu cầu thi hành án mà có căn cứ trả đơn theo các trường hợp trả đơn nêu trên (vì đã ra quyết định thi hành án), thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án. Trường hợp này để có cơ sở ra quyết định trả đơn lại yêu cầu thi hành án phải thông qua kết quả xác minh điều kiện thi hành án.
– Trường hợp nếu chưa căn cứ trả đơn theo các trường hợp nêu trên(ví dụ do chưa xác minh điều kiện thi hành án), thì cơ quan thi hành án cần lập biên bản hoặc yêu cầu người được thi hành án nêu rõ trong đơn nội dung yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự không tiếp tục việc thi hành án và ra quyết định đình chỉ thi hành án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 Luật Thi hành án dân sự mà không ra quyết định trả đơn lại yêu cầu thi hành án.
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Việc thi hành án khi có thay đổi giá tài sản tại thời điểm thi hành án
Gia đình tôi được hưởng tài sản thừa kế của bố tôi nằm trong khối tài sản chung với bà A. Theo bản án thì bà A phải trả cho gia đình tôi 1/3 khối tài sản chung với bố tôi là ngôi nhà và diện tích đất là 1412m2 do bố tôi và bà A đứng tên mua chung năm 1997. Tại thời điểm bản án có hiệu lực (năm 2007) toà định giá 1/3 tài sản đó tương ứng với số tiền là 100 triệu đồng. Bà A không tự nguyện thi hành án, nên tháng 2/2008 gia đình tôi gửi đơn yêu cầu thi hành án. Đến tháng 9/2009 cơ quan thi hành án huyện tổ chức cưỡng chế kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án. Tại thời điểm cưỡng chế kê biên khối tài sản chung đã tăng giá gấp đôi với giá tại thời điểm bản án có hiệu lực. Trước khi tổ chức cưỡng chế kê biên gia đình tôi đã có đơn đề nghị cơ quan thi hành án định giá lại tài sản để đảm bảo quyền lợi cho chúng tôi, nhưng cơ quan thi hành án không định giá lại tài sản. Khi cưỡng chế kê biên, cơ quan thi hành án chỉ kê biên có 200m2 đất và ngôi nhà cấp 4 đã hết khấu hao (xây từ năm 1990 và toà án định giá ngôi nhà này năm 2007 là 6 triệu đồng). Chúng tôi rất bức xúc vì nếu cơ quan thi hành thi hành bản án theo giá trị bằng tiền, thì tại thời điểm này giá trị khối tài sản chung đã tăng, mà bà A chỉ phải kê biên có 200m2 đất và ngôi nhà cấp 4 đã hết khấu hao (xây từ năm 1990) thì thiếu công bằng. Nay tôi có một vài vấn đề sau:
Khi giải quyết vụ việc Chi cục Thi hành án huyện Đông Triều đã kê biên diện tích: 200m2 đất và một số cây cối nằm trong khối tài sản chung của bố tôi và bà A nhưng lại ra các Quyết định là kê biên tài sản của bà A để thi hành án và đem bán đấu giá số tài sản này chỉ bằng 1/3 giá Uỷ ban tỉnh Quảng Ninh quy định (quyền sử dụng đất tại vị trí thửa đất này là 1.500.000đồng/m2 đất ở). Theo giá Uỷ ban tỉnh quy định thì 200m2 đất có giá là 300 triệu đồng, nhưng cơ quan thi hành án cho tổ chức bán đấu giá toàn bộ khối tài sản kê biên với giá khởi điểm bằng 152 triệu đồng, qua cuộc bán đấu giá thì tài sản trên có giá là 170 triệu đồng. Hiện nay cơ quan THA gọi gia đình chúng tôi lên thanh toán bản án với giá trị thành tiền cho mỗi người thừa kế là 18.999.000 đồng theo bản án tuyên từ tháng 12/2007, trong khi tại thời điểm này giá trị tài sản chung của bố tôi và bà A đã tăng gấp 3 lần. Việc thanh toán tiền như trên gây thiệt thòi cho gia đình chúng tôi. Chúng tôi đã gửi đơn khiếu nại về việc giá trị tài sản tăng nhưng Chi cục Thi hành án huyện Đông Triều đã không chấp nhận, chúng tôi tiếp tục khiếu nại đến Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ninh, nhưng chưa có quyết định giải quyết khiếu nại thì Chi cục Thi hành án huyện Đông Triều lại ra quyết định yêu cầu chúng tôi nộp số tiền án phí còn lại theo bản án tuyên (bản án tuyên mỗi người thừa kế phải nộp số tiền là 9.999.999 đồng cho mỗi phần thừa kế được hưởng là 18.999.000 đồng, chúng tôi đã nộp tạm ứng là 300.000 đồng. Xin hỏi:
1) Việc Chi cục Thi hành án huyện Đông Triều cho rằng số tài sản kê biên (nằm trong khối tài sản chung của bố tôi và bà A, nhưng bản án giao cho bà A quản lý và thanh toán chênh lệch cho các đồng thừa kế như trên) là của bà A có đúng pháp luật không?
2) Chi cục Thi hành án huyện Đông Triều gửi bán đấu giá quyền sử dụng đất kê biên với giá thấp bằng 1/3 giá Uỷ ban tỉnh quy định như thế có đúng pháp luật không?
3) Gia đình tôi có được hưởng giá trị thực tế của khối tài sản di sản thừa kế của bố tôi để lại nằm trong khối tài sản chung của bà A mà toà đã giao cho bà A quản lý như nội dung bản án trên không?
4) Chi cục Thi hành án huyện Đông Triều ra quyết định triệu tập chúng tôi đến nộp số tiền còn lại của án phí khi chưa có quyết định giải quyết khiếu nại của cấp trên như thế có đúng không?
5) Tôi phải làm đơn khiếu nại đến cơ quan nào thì mới nhận được giải quyết?
Gửi bởi: Nguyen Hong Thuy
Trả lời có tính chất tham khảo
Trường hợp bà hỏi liên quan đến một vụ việc thi hành án dân sự cụ thể và bà hỏi nhiều nội dung trong cùng một vụ việc, nhưng lại không có hồ sơ thi hành án, vì thế chúng tôi không thể khẳng định việc làm của cơ quan thi hành án đúng hay sai. Tuy nhiên, chúng tôi trao đổi một số vấn đề để bà tham khảo theo thứ tự câu hỏi bà đặt ra, như sau:
1. Việc Chi cục Thi hành án huyện Đông Triều cho rằng số tài sản kê biên (nằm trong khối tài sản chung của bố tôi và bà A, nhưng bản án giao cho bà A quản lý và thanh toán chênh lệch cho các đồng thừa kế như trên) là của bà A có đúng pháp luật không?
Về nội dung này, gia đình bà được hưởng tài sản thừa kế của bố bà nằm trong khối tài sản chung với bà A, theo bản án thì bà A phải trả cho gia đình bà 1/3 khối tài sản chung với bố bà là ngôi nhà và diện tích đất là 1412m2 do bố bà và bà A đứng tên mua chung năm 1997. Như vậy, bản án của Tòa án đã xác định gia đình bà được hưởng thừa kế 1/3 tài sản đó tương ứng với số tiền là 100 triệu đồng, bà A được quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất nêu trên. Do đó, quyền và nghĩa vụ thi hành án đã được xác định độc lập, rõ ràng; toàn bộ tài sản là hiện vật đó là của bà A. Bà A có nghĩa vụ thi hành án trả cho gia đình bà 100 triệu đồng, nếu bà A không tự nguyện thi hành án thì cơ quan thi hành án có quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án, kể cả biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản mà Tòa án tuyên bà A được sở hữu, sử dụng nêu trên để thi hành án.
Tuy nhiên, nếu bản án chỉ tuyên giao cho bà A quản lý (quản lý hộ) mà không phải là giao cho bà A được sở hữu (nhà, tài sản khác gắn liền với đất), sử dụng đất (gắn liền với nhà, tài sản khác trên đất), thì cơ quan thi hành án không có cơ sở để kê biên, xử lý tài sản đó đảm bảo thi hành án, trừ trường hợp các đương sự có thoả thuận khác.
2. Chi cục Thi hành án huyện Đông Triều gửi bán đấu giá quyền sử dụng đất kê biên với giá thấp bằng 1/3 giá Uỷ ban tỉnh quy định như thế có đúng pháp luật không?
Việc định giá, bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự thực hiện quy định tại Điều 98, 99, 101 và Điều 104 Luật Thi hành án dân sự theo phương thức: Ngay khi kê biên tài sản mà đương sự thoả thuận được về giá tài sản hoặc về tổ chức thẩm định giá thì Chấp hành viên lập biên bản về thỏa thuận đó. Giá tài sản do đương sự thoả thuận là giá khởi điểm để bán đấu giá. Trường hợp đương sự có thoả thuận về tổ chức thẩm định giá thì Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá đó. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày kê biên tài sản, Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản kê biên trong các trường hợp đương sự không thoả thuận được về giá và không thoả thuận được việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá, tổ chức thẩm định giá do đương sự lựa chọn từ chối việc ký hợp đồng dịch vụ và thi hành phần bản án, quyết định quy định tại khoản 1 Điều 36 của Luật này. Chấp hành viên xác định giá trong các trường hợp sau đây: Không thực hiện được việc ký hợp đồng dịch vụ và tài sản kê biên thuộc loại tươi sống, mau hỏng hoặc có giá trị nhỏ mà đương sự không thoả thuận được với nhau về giá.
Việc định giá lại tài sản kê biên được thực hiện trong các trường hợp Chấp hành viên có vi phạm nghiêm trọng quy định tại Điều 98 của Luật này dẫn đến sai lệch kết quả định giá tài sản hoặc đương sự có yêu cầu định giá lại trước khi có thông báo công khai về việc bán đấu giá tài sản.
Tài sản đã kê biên được bán theo các hình thức bán đấu giá hoặc bán không qua thủ tục đấu giá.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày bán đấu giá không thành mà đương sự không yêu cầu định giá lại thì Chấp hành viên ra quyết định giảm giá tài sản để tiếp tục bán đấu giá. Mỗi lần giảm giá không quá mười phần trăm giá đã định. Trường hợp giá tài sản đã giảm thấp hơn chi phí cưỡng chế mà người được thi hành án không nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án thì tài sản được trả lại cho người phải thi hành án.
Căn cứ quy định này thì bảng giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định chỉ là một trong những căn cứ để xác định giá của tài sản đã kê biên. Kết quả bán tài sản lần cuối (bán đấu giá thành) tùy từng trường hợp cụ thể có thể cao hơn hoặc thấp hơn (do phải hạ giá nhiều lần để bán) giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định.
3. Gia đình tôi có được hưởng giá trị thực tế của khối tài sản di sản thừa kế của bố tôi để lại nằm trong khối tài sản chung của bà A mà toà đã giao cho bà A quản lý như nội dung bản án trên không?
Đây là câu hỏi liên quan đến quy định việc thi hành án khi có thay đổi giá tài sản tại thời điểm thi hành án. Điều 59 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Trường hợp theo bản án, quyết định mà một bên được nhận tài sản và phải thanh toán cho người khác giá trị tài sản họ được nhận, nhưng tại thời điểm thi hành án, giá tài sản thay đổi và một trong các bên đương sự có yêu cầu định giá tài sản đó thì tài sản được định giá theo quy định tại Điều 98 của Luật này để thi hành án”.
Tuy nhiên, điều luật này lại không quy định cụ thể việc định giá để thi hành án chia theo tỷ lệ như thế nào, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này cũng chưa quy định chi tiết. Do vậy, nếu án tuyên một bên được nhận tài sản, một bên được nhận tiền tương ứng với tỉ lệ giá trị của tài sản, khi thi hành án giá trị tài sản thay đổi (tăng hoặc giảm), cơ quan thi hành án dân sự thực hiện theo các trường hợp sau đây:
– Trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc định giá lại tài sản để thanh toán tiền cho nhau tương ứng với tỷ lệ giá trị tài sản được chia tại thời điểm thi hành án, thì cơ quan thi hành án tổ chức định giá tài sản để thi hành án theo thỏa thuận của các đương sự.
– Trường hợp các đương sự không thỏa thuận hoặc thỏa thuận không được, thì cơ quan thi hành án không tổ chức định giá tài sản mà thực hiện việc thi hành án theo đúng nội dung bản án. Theo đó, bên được nhận tài sản được thi hành án nhận tài sản, bên được nhận tiền được nhận tiền và lãi suất chậm thi hành án theo quyết định của bản án.
Vì thế, nếu bà B và gia đình bà không thỏa thuận hoặc thỏa thuận không được về việc định giá lại tài sản để thanh toán tiền cho nhau tương ứng với tỷ lệ giá trị tài sản được chia tại thời điểm thi hành án, thì gia đình bà chỉ được thi hành án với số tiền 100 triệu đồng và lãi chậm thi hành án của số tiền này theo đúng nội dung phần quyết định của bản án đã tuyên mặc dù khi thi hành án giá trị tài sản bà B nhận được đã thay đổi theo hướng tăng lên nhiều lần so với thời điểm xét xử.
4. Chi cục Thi hành án huyện Đông Triều ra quyết định triệu tập chúng tôi đến nộp số tiền còn lại của án phí khi chưa có quyết định giải quyết khiếu nại của cấp trên như thế có đúng không?
Án phí là một khoản thu nộp ngân sách nhà nước thuộc diện chủ động thi hành án, do đó khi chưa có quyết định giải quyết khiếu nại của cấp trên thì người phải thi hành án vẫn phải nộp, cơ quan thi hành án yêu cầu gia đình bà đến nộp số tiền còn lại của án phí là có cơ sở.
5. Tôi phải làm đơn khiếu nại đến cơ quan nào thì mới nhận được giải quyết?
Về vấn đề khiếu nại, bà phải xác định rõ khiếu nại đối với hành vi hoặc quyết định nào, của ai (Chấp hành viên hay Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự), thì mới xác định được thẩm quyền giải quyết khiếu nại theo Điều 142 Luật Thi hành án dân sự.
Nếu bà khiếu nại hành vi hoặc quyết định của Chấp hành viên không phải là Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh thì bà gửi đơn đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu là Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Triều. Trường hợp bà không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Triều thì bà gửi đơn đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai là Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ninh để được giải quyết. Quyết định giải quyết khiếu nại của Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ninh có hiệu lực thi hành.
Trường hợp bà khiếu nại hành vi hoặc quyết định của Chấp hành viên là Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Triều thì bà gửi đơn đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu là Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ninh để được giải quyết. Nếu bà không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Triều thì bà gửi đơn đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai là Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp để được giải quyết. Quyết định giải quyết khiếu nại của Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp có hiệu lực thi hành.
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Tài sản thừa kế trước khi bản án sơ thẩm có hiệu lực có phải thi hành án không?
Tài sản thừa kế trước khi bản án sơ thẩm có hiệu lực có phải thi hành án không?
Gửi bởi: bui nhat minh
Trả lời có tính chất tham khảo
Căn cứ quy định tại Điều 245 và Điều 636 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì việc xác lập quyền sở hữu do được thừa kế, theo đó người thừa kế có quyền sở hữu đối với tài sản thừa kế theo quy định tại Phần thứ tư của Bộ luật này. Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.
Đối với việc thừa kế nhà ở, theo quy định tại khoản 5 Điều 93 Luật Nhà ở năm 2005, bên mua, bên nhận tặng cho, bên đổi, bên được thừa kế nhà ở có trách nhiệm nộp hồ sơ để được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở theo trình tự quy định tại Điều 16 của Luật này, trừ trường hợp bên bán nhà ở là tổ chức có chức năng kinh doanh nhà ở hoặc các bên có thỏa thuận khác. Quyền sở hữu nhà ở được chuyển cho bên mua, bên nhận tặng cho, bên thuê mua, bên nhận đổi nhà ở kể từ thời điểm hợp đồng được công chứng đối với giao dịch về nhà ở giữa cá nhân với cá nhân hoặc đã giao nhận nhà ở theo thỏa thuận trong hợp đồng đối với giao dịch về nhà ở mà một bên là tổ chức kinh doanh nhà ở hoặc từ thời điểm mở thừa kế trong trường hợp nhận thừa kế nhà ở.
Đối với trình tự, thủ tục thừa kế quyền sử dụng đất, Điều 151 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/204 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai thì người nhận thừa kế nộp một (01) bộ hồ sơ gồm có: Di chúc; biên bản phân chia thừa kế; bản án, quyết định giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật; đơn đề nghị của người nhận thừa kế đối với trường hợp người nhận thừa kế là người duy nhất. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có).
Việc đăng ký thừa kế được thực hiện như sau: Trong thời hạn không quá bốn (04) ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, làm trích sao hồ sơ địa chính; gửi số liệu địa chính cho cơ quan thuế để xác định nghĩa vụ tài chính (nếu có); chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp hoặc thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp phải cấp mới giấy chứng nhận. Trong thời hạn không quá ba (03) ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo nghĩa vụ tài chính, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất hoặc Ủy ban nhân dân xã, thị trấn nơi có đất có trách nhiệm thông báo cho bên nhận thừa kế quyền sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật. Trong thời hạn không quá ba (03) ngày làm việc kể từ ngày bên nhận thừa kế quyền sử dụng đất thực hiện xong nghĩa vụ tài chính, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất hoặc Ủy ban nhân dân xã, thị trấn nơi có đất có trách nhiệm trao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Do câu hỏi chưa cụ thể, vì thế, việc xử lý tài sản thừa kế trước khi bản án sơ thẩm có hiệu lực liên quan đến việc thi hành án cần phân biệt hai trường hợp sau đây:
– Nếu người phải thi hành án được nhận tài sản là di sản thừa kế trước khi có bản án của Tòa án, thì đó là tài sản của người phải thi hành án, vì vậy cơ quan thi hành án có quyền kê biên, xử lý để thi hành án. Tuy nhiên, trong trường hợp tài sản là di sản thừa kế chưa chia nên chưa xác định được phần tài sản của người phải thi hành án trong khối di sản đó, thì phải thực hiện thủ tục phân chia, xác định phần tài sản của người phải thi hành án theo quy định tại Điều 74 Luật Thi hành án dân sự.
– Trường hợp người phải thi hành án chết mà có di sản để lại thì thực hiện việc chuyển giao quyền, nghĩa vụ thi hành án theo quy định tại Điều 74 Luật Thi hành án dân sự 2008 và Điều 7 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Các văn bản liên quan:
Thông tư liên tịch 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự
Nghị định 181/2004/NĐ-CP Về thi hành Luật Đất đai
Luật 13/2003/QH11 Đất đai
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Căn cứ từ chối đơn yêu cầu thi hành án
Ông A khởi kiện Quyết định hành chính của UBND huyện. Toà án cấp sơ thẩm tuyên bác đơn khởi kiện của ông A, còn Toà cấp phúc thẩm tuyên chấp nhận đơn khởi kiện của ông A, xử huỷ Quyết định hành chính của UBND huyện. Ông A làm đơn yêu cầu thi hành án yêu cầu cơ quan Thi hành án ra Quyết định huỷ Quyết định hành chính của UBND huyện. Cơ quan Thi hành án từ chối nhận đơn của ông A có đúng không? Căn cứ pháp lý nào để từ chối nhận đơn? Nếu áp dụng Điều 1, Điều 35,36 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 có đảm bảo tính pháp lý không hay còn phải căn cứ vào văn bản nào nữa?
Gửi bởi: Bùi Thị Thuỳ Trang
Trả lời có tính chất tham khảo
1. Căn cứ quy định của pháp luật hiện nay thì việc cơ quan thi hành án dân sự không nhận đơn yêu cầu thi hành án của ông A đối với khoản Toà cấp phúc thẩm tuyên chấp nhận đơn khởi kiện của ông A xử huỷ Quyết định hành chính của UBND huyện là có cơ sở.
Bởi vì, Điều 1 Luật Thi hành án dân sự quy định nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Toà án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài thương mại (sau đây gọi chung là bản án, quyết định); hệ thống tổ chức thi hành án dân sự và Chấp hành viên; quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động thi hành án dân sự.
Tuy nhiên theo Pháp lệnh Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 thì:
“1- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác thi hành án hành chính trong phạm vi cả nước.
2- Cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của Toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành. Thủ trưởng cơ quan nhà nước cấp trên trực tiếp có trách nhiệm theo dõi, giám sát việc thi hành án hành chính; trong trường hợp cần thiết có quyền buộc phải chấp hành quyết định của Toà án về vụ án hành chính. Người nào thiếu trách nhiệm trong việc thi hành án hành chính hoặc cố tình không chấp hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính, thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
3- Các quyết định về phần tài sản, quyền tài sản trong các bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính được thi hành theo Pháp lệnh Thi hành án dân sự (nay là Luật Thi hành án dân sự)”
Mặt khác, tại khoản 3 Điều 2 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự quy định: Đối với bản án, quyết định của Toà hành chính, cơ quan thi hành án dân sự chỉ thụ lý và ra quyết định thi hành án đối với phần nghĩa vụ về tài sản như án phí, bồi thường thiệt hại, trả lại tài sản, giao lại đất đai được tuyên cụ thể trong bản án, quyết định của Toà án. Những nội dung khác của bản án, quyết định như tuyên bác đơn kiện, giữ nguyên quyết định hành chính hoặc huỷ quyết định hành chính, không tuyên rõ các quyền và nghĩa vụ cụ thể về các khoản tài sản nêu trên thì do cơ quan hành chính có thẩm quyền thi hành.
2. Kể từ ngày 01/7/2011 khi Luật Tố tụng hành chính có hiệu lực thi hành thì việc thi hành án hành chính có cụ thể hơn trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự, song vẫn cần lưu ý là cơ quan thi hành án dân sự chỉ thụ lý và ra quyết định thi hành án đối với phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án hành chính như hiện nay. Đối với phần không phải là tài sản, thì cơ quan thi hành án có trách nhiệm đôn đốc theo quy định tại các Điều 243, 244 và 245 Luật Tố tụng hành chính năm 2010.
Theo đó, việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính được thực hiện như sau:
a) Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án về việc không chấp nhận yêu cầu khởi kiện quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri thì các bên đương sự phải tiếp tục thi hành quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri theo quy định của pháp luật;
b) Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã hủy toàn bộ hoặc một phần quyết định hành chính, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh thì quyết định hoặc phần quyết định bị hủy không còn hiệu lực. Các bên đương sự căn cứ vào quyền và nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án để thi hành;
c) Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã hủy quyết định kỷ luật buộc thôi việc thì quyết định kỷ luật buộc thôi việc bị hủy không còn hiệu lực. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của Tòa án, người đứng đầu cơ quan, tổ chức đã ra quyết định kỷ luật buộc thôi việc phải thực hiện bản án, quyết định của Tòa án;
d) Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã tuyên bố hành vi hành chính đã thực hiện là trái pháp luật thì người phải thi hành án phải đình chỉ thực hiện hành vi hành chính đó, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của Tòa án;
đ) Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án tuyên bố hành vi không thực hiện nhiệm vụ, công vụ là trái pháp luật thì người phải thi hành án phải thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của Tòa án;
e) Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án buộc cơ quan lập danh sách cử tri sửa đổi, bổ sung danh sách cử tri thì người phải thi hành án phải thực hiện ngay việc sửa đổi, bổ sung đó khi nhận được bản án, quyết định của Tòa án;
g) Trường hợp Tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải thi hành ngay khi nhận được quyết định;
h) Các quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án được thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
Người phải thi hành án phải thông báo bằng văn bản về kết quả thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án đó.
Yêu cầu thi hành bản án, quyết định của Tòa án: Trường hợp người phải thi hành án không thi hành án thì người được thi hành án có quyền yêu cầu người phải thi hành án thi hành ngay bản án, quyết định của Tòa án quy định tại điểm e và điểm g khoản 1 Điều 243 của Luật này.
Trường hợp hết 30 ngày, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc hết thời hạn thi hành án theo bản án, quyết định của Tòa án mà người phải thi hành án không thi hành án thì người được thi hành án có quyền yêu cầu bằng văn bản đối với người phải thi hành bản án, quyết định của Tòa án theo quy định tại các điểm b, c, d và đ khoản 1 Điều 243 của Luật này.
Trường hợp người phải thi hành án không thi hành bản án, quyết định của Tòa án thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày có yêu cầu bằng văn bản quy định tại khoản 2 Điều này, người được thi hành án có quyền gửi đơn đề nghị cơ quan thi hành án dân sự nơi Tòa án đã xét xử sơ thẩm đôn đốc việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Khi nhận được đơn đề nghị đôn đốc của người được thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự đôn đốc người phải thi hành án thi hành án và thông báo bằng văn bản với cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải thi hành án để chỉ đạo việc thi hành án và Viện kiểm sát cùng cấp để thực hiện việc kiểm sát thi hành án.
Khi nhận được đơn đề nghị đôn đốc của người được thi hành án quy định tại khoản 3 Điều này, cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm mở sổ theo dõi, quản lý việc thi hành án của người được thi hành án. Người được thi hành án có trách nhiệm cung cấp cho cơ quan thi hành án dân sự bản sao bản án, quyết định của Tòa án và các tài liệu khác có liên quan để chứng minh đã có đơn đề nghị hợp lệ nhưng người phải thi hành án cố tình không thi hành án.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn đề nghị đôn đốc của người được thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự phải có văn bản đôn đốc người phải thi hành án thực hiện việc thi hành án theo đúng nội dung của bản án, quyết định của Tòa án.
Trách nhiệm thực hiện yêu cầu thi hành án: Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản của cơ quan thi hành án dân sự về việc đôn đốc thi hành bản án, quyết định của Tòa án, người phải thi hành án có trách nhiệm thông báo bằng văn bản kết quả thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự.
Hết thời hạn quy định nhưng người phải thi hành án không thi hành án, không thông báo kết quả thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải thi hành án biết để xem xét, chỉ đạo việc thi hành án và xử lý trách nhiệm theo quy định của pháp luật, đồng thời gửi cho cơ quan thi hành án dân sự hoặc cơ quan quản lý thi hành án dân sự cấp trên trực tiếp để theo dõi, giúp cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải thi hành án chỉ đạo việc thi hành án.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản thông báo của cơ quan thi hành án, cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải thi hành án phải xem xét, chỉ đạo việc thi hành án theo quy định của pháp luật và thông báo cho cơ quan thi hành án biết.
Các văn bản liên quan:
Thông tư liên tịch 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Luật 64/2010/QH12 Tố tụng hành chính
Pháp lệnh 29/2006/PL-UBTVQH11 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Điều kiện kê biên tài sản thế chấp để thi hành án
Bản án tuyên: Ông A phải trả cho ông B số tiền 500 triệu đồng. Qua thời gian tự nguyện thi hành án, ông A không tự nguyện thi hành. Chấp hành viên tiến hành xác minh và phát hiện ông A có tài sản đang đứng tên thế chấp tại ngân hàng với số tiền là 1 tỷ đồng, gồm 2 quyền sử dụng đất và 1 quyền sở hữu nhà ở:
– Quyền sử dụng đất với diện tích 500m2 đất thổ cư do ông A đứng tên.
– Quyền sử dụng đất với diện tích 800m2 đất thổ cư do mẹ của ông A đứng tên.
– Quyền sở hữu nhà ở do mẹ ông A đứng tên (trên diện tích 800m2 đất thổ cư)
Mẹ ông A bảo lãnh cho ông A thế chấp. Qua khảo sát giá trị quyền sử dụng đất do ông A đứng tên thì chỉ có giá trị khoảng 600.000.000 đồng. Nếu Chấp hành viên chỉ kê biên quyền sử dụng đất của ông A thì không đủ để thanh toán cho ngân hàng. Như vậy, Chấp hành viên có được quyền kê biên toàn bộ tài sản thế chấp nêu trên để thanh toán cho ngân hàng và thanh toán cho người được thi hành án hay không?
Gửi bởi: nguyenhung
Trả lời có tính chất tham khảo
Theo quy định tại Điều 90 Luật Thi hành án dân sự thì việc kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án đang thế chấp phải đảm bảo hai điều kiện sau đây:
– Người phải thi hành án không còn tài sản nào khác hoặc có tài sản nhưng không đủ để thi hành án.
– Giá trị của tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án.
Trong trường hợp bạn hỏi, tài sản ông A đứng tên thế chấp có hai loại tài sản là của mẹ ông A bảo lãnh cho ông A vay tiền (Quyền sử dụng đất với diện tích 800m2 đất thổ cư và quyền sở hữu nhà ở do mẹ ông A đứng tên trên diện tích 800m2 đất thổ cư). Ông A chỉ có quyền sử dụng đất với diện tích 500m2 đất thổ cư do ông A đứng tên, thì cơ quan thi hành án chỉ có quyền xem xét việc xử lý quyền sử dụng đất của ông A để thi hành án. Vì vậy, nếu ông A, mẹ ông A và ngân hàng không đồng ý thì Chấp hành viên không được quyền kê biên toàn bộ tài sản thế chấp nêu trên để thanh toán cho ngân hàng và thanh toán cho người được thi hành án.
Ông A phải thi hành án trả cho ông B số tiền 500 triệu đồng (chưa kể lãi chậm thi hành án), nhưng giá trị quyền sử dụng đất của ông A chưa có con số cụ thể để đảm bảo thi hành án là bao nhiêu tiền trong số tiền 01 tỷ đồng ông A đã vay của ngân hàng, thì Chấp hành viên không được quyền chủ động kê biên quyền sử dụng đất của ông A đã thế chấp nêu trên. Trong trường hợp quyền sử dụng đất của ông A được thế chấp hợp pháp có giá trị bằng hoặc nhỏ hơn nghĩa vụ phải thanh toán cho khoản tiền vay của ông A bảo đảm bằng quyền sử dụng đất đó thì căn cứ khoản 3 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 23/7/2010 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Chấp hành viên phải thông báo cho ngân hàng nhận thế chấp biết nghĩa vụ của người phải thi hành án; yêu cầu ngân hàng nhận thế chấp thông báo để cơ quan thi hành án kê biên tài sản đã thế chấp khi người vay thanh toán hợp đồng đã ký hoặc để kê biên phần tiền, tài sản còn lại (nếu có) sau khi tài sản bị bên nhận thế chấp xử lý để thanh toán hợp đồng đã ký.
Cơ quan thi hành án dân sự cần phối hợp chặt chẽ với ngân hàng trong việc xử lý tài sản để vừa thanh toán được tiền trả ngân hàng, vừa đảm bảo hiệu quả việc thi hành án.
Các văn bản liên quan:
Thông tư liên tịch 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Kê biên tài sản có đúng không?
Tôi là người phải thi hành án trả cho ông A số tiền 2 tỷ đồng. Cơ quan thi hành án đã thực hiện việc kê biên tài sản của tôi là nhà ở và quyền sử dụng đất ở ước tính trị giá là 5 tỷ đồng. Sau khi kê biên xong được 10 ngày, ông A phát hiện tôi có 500 triệu đồng tiền gửi tại ngân hàng và đã báo cho cơ quan thi hành án. Cơ quan thi hành án lại ra Quyết định kê biên tiếp số tiền 500 triệu đồng của tôi ở ngân hàng để thi hành án. Xin hỏi cơ quan thi hành án thực hiện việc kê biên có đúng pháp luật hay không?
Gửi bởi: Huỳnh thị mai Bình
Trả lời có tính chất tham khảo
Điều 71 Luật Thi hành án dân sự quy định 06 loại biện pháp cưỡng chế thi hành án báo gồm: Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án. Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án. Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ. Khai thác tài sản của người phải thi hành án. Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ. Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định.
Căn cứ từng trường hợp cụ thể, Chấp hành viên lựa chọn biện pháp cưỡng chế phù hợp, bảo đảm hiệu quả việc thi hành án. Trong việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ, pháp luật hiện nay không quy định cấm việc đã kê biên nhà ở và quyền sử dụng đất ở lại được xử lý tài sản khác là tiền của người phải thi hành án để đảm bảo thi hành án. Vì thế, trường hợp bà hỏi, ngoài tài sản là nhà ở, đất ở đã kê biên và số tiền bà đang gửi tại ngân hàng, thì sau khi kê biên tài sản là nhà ở và đất ở, mới phát hiện bà có khoản tiền lớn (500 triệu đồng) đang gửi tại ngân hàng, thì cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp cần thiết để xử lý khoản tiền đó đảm bảo thi hành án là không trái pháp luật.
Tuy nhiên, trường hợp bà nêu, số tiền nêu trên đang gửi tại ngân hàng, nhưng cơ quan thi hành án ra quyết đinh kê biên số tiền này thì việc ra quyết định kê biên tiền là chưa phù hợp về lựa chọn biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Trong trường hợp này, Chấp hành viên thực hiện theo quy định tại Điều 81 Luật Thi hành án dân sự về thu tiền của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ: “Trường hợp phát hiện người thứ ba đang giữ tiền của người phải thi hành án thì Chấp hành viên ra quyết định thu khoản tiền đó để thi hành án. Người thứ ba đang giữ tiền của người phải thi hành án có nghĩa vụ giao nộp tiền cho Chấp hành viên để thi hành án. Chấp hành viên lập biên bản thu tiền, cấp biên lai cho người thứ ba đang giữ tiền và thông báo cho người phải thi hành án. Trường hợp người thứ ba đang giữ tiền không ký vào biên bản thì phải có chữ ký của người làm chứng”.
Trường hợp số tiền 500 triệu đồng của bà gửi trong tài khoản tại ngân hàng, thì Chấp hành viên thực hiện theo Điều 76 Luật Thi hành án dân sự về khấu trừ tiền trong tài khoản, như sau: Chấp hành viên ra quyết định khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành án, số tiền khấu trừ không được vượt quá nghĩa vụ thi hành án và chi phí cưỡng chế. Ngay sau khi nhận được quyết định về khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành án, cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản phải khấu trừ tiền để chuyển vào tài khoản của cơ quan thi hành án dân sự hoặc chuyển cho người được thi hành án theo quyết định khấu trừ.
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Ra quyết định thi hành án trong trường hợp ủy quyền làm đơn yêu cầu thi hành án
Trường hợp ủy quyền cho người khác làm đơn yêu cầu thi hành án thì trong quyết định thi hành án đó, người được thi hành án là người ủy quyền hay người được ủy quyền? Mong nhận được tư vấn!
Gửi bởi: TRABNI
Trả lời có tính chất tham khảo
Khoản 2 và khoản 3 Điều 3 Luật Thi hành án dân sự giải thích từ ngữ Người được thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng quyền, lợi ích trong bản án, quyết định được thi hành. Người phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành. Do đó, người được người được thi hành án ủy quyền không phải là người được thi hành án.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao “hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự” trường hợp đương sự có uỷ quyền cho người khác yêu cầu thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu của người được uỷ quyền.
Trong trường hợp này, Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu của người được uỷ quyền, nhưng cần lưu ý rằng người được ủy quyền yêu cầu thi hành án không phải là người được thi hành án hoặc người phải thi hành án, họ chỉ là người được người được thi hành án hoặc người phải thi hành án ủy quyền thực hiện công việc yêu cầu thi hành án, chứ không phải là người được hưởng quyền, lợi ích hoặc phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành.
Vì thế trong quyết định thi hành án có phần căn cứ đơn yêu cầu thi hành án của người được ủy quyền để ra quyết định thi hành án, nhưng quyết định thi hành án phải thể hiện rõ ai là người được thi hành án, người phải thi hành án và ai là người được ủy quyền làm đơn yêu cầu thi hành án.
Các văn bản liên quan:
Thông tư liên tịch 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Cưỡng chế giao nhà cho người được thi hành án
Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm của Tòa án tỉnh K năm 2010 quyết định: “Giao ngôi nhà 3 tầng có diện tích 200m2 cho chị A. Chị A phải có trách nhiệm thanh toán cho anh B 1 tỷ đồng”. Cũng trong năm 2010 chị A đã làm đơn yêu cầu thi hành án để thanh toán cho anh B 1 tỷ và yêu cầu cơ quan thi hành án giao nhà. Sau khi nhận đơn, cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án: “Giao ngôi nhà 3 tầng có diện tích 200m2 cho chị A. Chị A phải có trách nhiệm thanh toán cho anh B 1 tỷ đồng”. Hỏi:
Trong bản án trên Tòa án không tuyên rõ nghĩa vụ của anh B là phải giao nhà cho chị A mà chỉ tuyên chung chung: “Giao ngôi nhà 3…”. Cơ quan thi hành án tỉnh K ra quyết định như trên có đúng không? Cơ quan thi hành án có phải làm thủ tục buộc anh B giao nhà hay không? Hướng xử lý vấn đề này như thế nào?
Gửi bởi: ma thi chinh kontum
Trả lời có tính chất tham khảo
Nội dung bản án tuyên như trên đã rõ “Giao ngôi nhà 3 tầng có diện tích 200m2 cho chị A. Chị A phải có trách nhiệm thanh toán cho anh B 1 tỷ đồng”, vì khi phân tích bản án cho thấy đây là bản án về hôn nhân và gia đình chia tài sản chung của anh B và chị A, chị A được nhận tài sản bằng toàn bộ hiện vật là nhà và phải thanh toán giá trị phần hiện vật cho anh B là 01 tỷ đồng, chị A thi hành án thanh toán tiền cho anh B thì anh B có nghĩa vụ thi hành án giao nhà cho chị A.
Trong trường hợp này, chị A đã làm đơn yêu cầu thi hành án để thanh toán cho anh B 1 tỷ đồng và yêu cầu cơ quan thi hành án giao nhà, sau khi nhận đơn, cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án: “Giao ngôi nhà 3 tầng có diện tích 200m2 cho chị A. Chị A phải có trách nhiệm thanh toán cho anh B 1 tỷ đồng” là đúng nội dung bản án. Chị A nộp số tiền 1 tỷ đồng thì cơ quan thi hành án thu và thông báo cho anh B biết để đến nhận tiền. Anh B phải chịu phí thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Thông tư số liên tịch số 144/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 22/09/2010 của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp hướng dẫn về chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án dân sự.
Đối với khoản “Giao ngôi nhà 3 tầng có diện tích 200m2 cho chị A”, cơ quan thi hành án thực hiện thủ tục giao nhà cho chị A. Trường hợp anh A và những người khác (nếu có) đang quản lý, sử dụng nhà mà không tự nguyện chuyển đồ đạc và ra khỏi nhà, thì cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp cưỡng chế giao nhà cho người được thi hành án quy định tại khoản 5 Điều 71 và Điều 115 Luật Thi hành án dân sự.
Theo đó, Chấp hành viên buộc người phải thi hành án và những người khác có mặt trong nhà ra khỏi nhà, đồng thời yêu cầu họ tự chuyển tài sản ra khỏi nhà; nếu họ không tự nguyện thực hiện thì Chấp hành viên yêu cầu lực lượng cưỡng chế đưa họ cùng tài sản ra khỏi nhà. Trường hợp họ từ chối nhận tài sản, Chấp hành viên phải lập biên bản ghi rõ số lượng, chủng loại, tình trạng từng loại tài sản và giao tài sản cho tổ chức, cá nhân có điều kiện bảo quản hoặc bảo quản tại kho của cơ quan thi hành án dân sự và thông báo địa điểm, thời gian để người có tài sản nhận lại tài sản.
Trường hợp người phải thi hành án cố tình vắng mặt mặc dù đã được thông báo quyết định cưỡng chế thì Chấp hành viên thực hiện việc cưỡng chế. Hết thời hạn 03 tháng, kể từ ngày thông báo mà người có tài sản bảo quản không đến nhận thì tài sản đó được xử lý theo quy định tại khoản 2 Điều 126 của Luật này, trừ trường hợp có lý do chính đáng.
Các văn bản liên quan:
Thông tư liên tịch 144/2010/TTLT-BTC-BTP Hướng dẫn về chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án dân sự
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Thi hành án đối với nghĩa vụ liên đới
Tôi có vay tiền của một số người, tổng cộng là 3,2 tỉ. Trong đó, vì thương vợ bị xiết nợ nên chồng tôi có kí vào 2 giấy vay nhận tiền, tổng cộng là 1,6 tỉ; các giấy tờ vay nợ khác chồng tôi không kí. Tòa dân sự đã tuyên:
– Buộc vợ chồng tôi phải trả 3,2 tỉ đồng (chồng tôi phải liên đới chịu trách nhiệm theo điều 25 Luật Hôn nhân gia đình là 1,6 tỉ);
– Nếu chưa trả, hàng tháng phải chịu lãi suất quá hạn của ngân hàng.
Do làm ăn thua lỗ, tôi đã phải bán tất cả tài sản do vợ chồng tôi làm ra trong thời kì hôn nhân để trả nợ, hàng tháng tôi vẫn trả tiền cho đội thi hành án theo thu nhập của tôi. Tuy nhiên, đội thi hành án đã kê biên mảnh đất mà mẹ chồng tôi đã cho riêng chồng tôi, đứng tên một mình chồng tôi. Ngôi nhà trên đất mẹ chồng tôi chưa cho vì bà vẫn đang ở đó. Bạn tôi có xây 4 gian nhà trên đất này từ năm 2005 đến nay để cho thuê trọ, lợi nhuận thu được bạn tôi và mẹ chồng tôi được hưởng.
Tôi muốn hỏi:
– Chồng tôi phải dùng tài sản của mình để trả nợ riêng của tôi là đúng hay sai? Mảnh đất của chồng tôi giá trị lớn hơn khoản nợ riêng của chồng tôi gấp nhiều lần, thì cơ quan thi hành án kê biên toàn bộ hay một phần mảnh đất (đây là chỗ ở duy nhất của gia đình tôi)?
– Đội thi hành án kê biên toàn bộ mảnh đất và tất cả tài sản có trên đất (gồm 1 căn nhà mẹ chồng tôi xây, hiện vẫn đang ở và 4 căn nhà bạn tôi xây) để thi hành khoản nợ riêng của tôi là đúng hay sai?
– Việc phát mại tài sản của mẹ chồng tôi và bạn tôi để trả nợ cho tôi là đúng hay sai? – Nếu chồng tôi không đồng ý với quyết định của đội thi hành án thì phải gửi đơn khiếu nại tới đâu? Thủ tục như thế nào? Cơ quan nào thụ lý và giải quyết?
Gửi bởi: Nguyễn Ánh Ngọc
Trả lời có tính chất tham khảo
1. Về trách nhiệm liên đới trong thi hành án dân sự:
Theo nội dung bà trình bày thì chồng bà thương bà nên đã đồng ý ký giấy vay nợ, bản án của Tòa án đã tuyên: Buộc vợ chồng bà phải trả 3,2 tỉ đồng (chồng bà phải liên đới chịu trách nhiệm theo Điều 25 Luật Hôn nhân và gia đình là 1,6 tỉ đồng); nếu chưa trả, hàng tháng phải chịu lãi suất quá hạn của ngân hàng. Như vậy, chồng bà có trách nhiệm liên đới cùng bà phải thi hành án đối với khoản tiền nêu trên.
Căn cứ quy định tại Điều 298 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì nghĩa vụ dân sự liên đới là nghĩa vụ do nhiều người cùng phải thực hiện và bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Trong trường hợp một người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thì có quyền yêu cầu những người có nghĩa vụ liên đới khác phải thực hiện phần nghĩa vụ liên đới của họ đối với mình. Trong trường hợp bên có quyền đã chỉ định một trong số những người có nghĩa vụ liên đới thực hiện toàn bộ nghĩa vụ, nhưng sau đó lại miễn cho người đó thì những người còn lại cũng được miễn thực hiện nghĩa vụ. Trong trường hợp bên có quyền chỉ miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho một trong số những người có nghĩa vụ liên đới không phải thực hiện phần nghĩa vụ của mình thì những người còn lại vẫn phải liên đới thực hiện phần nghĩa vụ của họ.
Trong việc thi hành án dân sự đối với nghĩa vụ liên đới, theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự và Khoản 1 Điều 2, Điều 5 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự: Trường hợp thi hành quyền, nghĩa vụ liên đới thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra một quyết định thi hành án chung cho những người có quyền, nghĩa vụ liên đới. Trường hợp có nhiều người phải thực hiện nghĩa vụ liên đới thì nếu người được thi hành án yêu cầu một hoặc một số người trong những người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ liên đới thi hành toàn bộ nghĩa vụ thì cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án đối với người đó.
Trường hợp bản án, quyết định của Toà án mà theo đó nghĩa vụ liên đới không xác định rõ phần nghĩa vụ của từng người, thì cơ quan thi hành án yêu cầu một hoặc một số người có điều kiện thi hành án thực hiện toàn bộ nghĩa vụ liên đới. Trường hợp bản án, quyết định của Toà án mà theo đó nghĩa vụ liên đới xác định rõ phần của từng người và họ đều có điều kiện thi hành án, thì cơ quan thi hành án yêu cầu mỗi người thực hiện phần nghĩa vụ của mình. Nếu người có nghĩa vụ liên đới không có điều kiện thi hành án, thì cơ quan thi hành án yêu cầu những người có điều kiện thi hành án thực hiện thay phần nghĩa vụ của người đó. Người đã thực hiện thay phần nghĩa vụ thi hành án có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ liên đới khác thanh toán lại phần nghĩa vụ mà người đó đã thực hiện thay cho họ theo quy định tại Điều 298 của Bộ luật Dân sự.
Do đó, nếu bà không có tài sản để thi hành án, thì cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản của chồng bà để đảm bảo thi hành toàn bộ nghĩa vụ liên đới của chồng bà và bà là có cơ sở pháp luật.
2. Về phạm vi xử lý tài sản để thi hành án:
Về nguyên tắc, cơ quan thi hành án dân sự chỉ được kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án tương ứng với số tiền phải thi hành án và chi phí về thi hành án. Do đó, nếu tài sản của chồng bà có giá trị lớn hơn khoản nợ riêng của chồng bà và của bà (toàn bộ nghĩa vụ liên đới) gấp nhiều lần mà có thể tách rời được, thì cơ quan thi hành án chỉ được phần tài sản tương ứng với số tiền phải thi hành án và chi phí về thi hành án. Tuy nhiên, nếu tài sản đó không thể tách rời hoặc tách ra sẽ làm mất hoặc giảm đáng kể giá trị của tài sản thì cơ quan thi hành án có quyền kê biên, xử lý toàn bộ tài sản để đảm bảo thi hành án.
3. Về việc phát mại tài sản của mẹ chồng bà và bạn bà để trả nợ cho bà là đúng hay sai?
Nếu mẹ chồng bà và bạn bà không đồng ý thì cơ quan thi hành án không được phát mại tài sản của mẹ chồng bà và bạn bà để trả nợ cho bà và chồng bà. Tuy nhiên, mẹ chồng bà và bạn bà phải chứng minh được tài sản đó là của mình.
Khi cơ quan thi hành án kê biên tài sản, mẹ chồng bà và bạn bà cho rằng tài sản đó là của mình hoặc có chung tài sản thì căn cứ Điều 174, 175 Luật Thi hành án dân sự và khoản 2 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Tòa án gải quyết như sau: Thủ tục giải quyết yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự, đương sự về việc xác định quyền sở hữu, phân chia tài sản hoặc giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản phát sinh trong quá trình thi hành án thuộc thẩm quyền của Toà án theo khoản 4 Điều 179 Luật Thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thông báo mà không có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án xử lý tài sản theo quy định của pháp luật, trường hợp có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án chỉ xử lý tài sản khi có bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
4. Về việc không đồng ý đối với quyết định của Đội thi hành án ?
Hiện nay, Đội thi hành án dân sự đã được đổi thành Chi cục Thi hành án dân sự. Vì thế, nếu chồng bà không đồng ý với quyết định của Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự thì có quyền khiếu nại đến Cục trưởng cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh nơi có Chi cục Thi hành án dân sự đó hoặc khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết tranh chấp tài sản, xác định, phân chia phần tài sản theo quy định tại Điều 174, 175 Luật Thi hành án dân sự và khoản 2 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC nêu trên.
Các văn bản liên quan:
Thông tư liên tịch 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự
Nghị định 58/2009/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự
Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Tạm đình chỉ thi hành án nên chưa xử lý tài sản đã có quyết định kê biên
Cơ quan thi hành án đã ra quyết định kê biên tài sản của người phải thi hành án để đảm bảo cho 04 bản án. Trong quá trình chuẩn bị kê biên cơ quan thi hành án nhận được quyết định tạm đình chỉ của cơ quan có thẩm quyền yêu cầu tạm đình chỉ thi hành 01 trong số 04 bản án đó. Vậy cơ quan thi hành án xử lý như thế nào? Căn cứ theo văn bản hướng dẫn nào? Nếu sau này cơ quan có thẩm quyền giữ y bản án, nhưng tài sản đã thanh lý và chia xong thì quyền lợi của người được thi hành án sẽ được đảm bảo như thế nào?
Gửi bởi: Trần Hải Long
Trả lời có tính chất tham khảo
Điều 49 Luật Thi hành án dân sự về tạm đình chỉ thi hành án quy định như sau:
1. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự thông báo về việc tạm đình chỉ thi hành án khi nhận được quyết định tạm đình chỉ thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định đã được thi hành một phần hoặc toàn bộ thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải thông báo ngay bằng văn bản cho người đã kháng nghị.
Trong thời gian tạm đình chỉ thi hành án do có kháng nghị thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án.
2. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án khi nhận được thông báo của Toà án về việc đã thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với người phải thi hành án.
Thời hạn ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án là 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của Toà án.
3. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sựra quyết định tiếp tục thi hành án trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được một trong các quyết định sau đây:
a) Quyết định rút kháng nghị của người có thẩm quyền;
b) Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án giữ nguyên bản án, quyết định bị kháng nghị;
c) Quyết định của Toà án về việc đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản, đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.
Vì vậy, trong trường hợp người có thẩm quyền đã tạm đình chỉ thi hành án thì bản án bị tạm đình chỉ chưa tiếp tục thi hành, do đó những hoạt động liên quan đến việc thi hành bản án đó cũng phải dừng lại, trong đó có việc kê biên tài sản để thi hành bản án đó. Bởi thế, trong trường hợp cơ quan thi hành án đã ra quyết định kê biên tài sản của người phải thi hành án để đảm bảo cho 04 bản án, khi chuẩn bị kê biên cơ quan thi hành án nhận được quyết định của người có thẩm quyền tạm đình chỉ thi hành 01 trong số 04 bản án đó, thì cơ quan thi hành án cần thông báo cho tất cả các đương sự của 04 bản án biết về việc tạm đình chỉ thi hành án và chưa thực hiện việc xử lý tài sản vì tài sản đó đã có quyết định cưỡng chế kê biên để đảm bảo thi hành cho cả 04 bản án nhưng có 01 bản án bị tạm đình chỉ thi hành. Sau khi hết thời hạn tạm đình chỉ, nếu có căn cứ tiếp tục việc thi hành án theo quy định nêu trên hoặc bản án sau tuyên y án cũ thì cơ quan thi hành án thực hiện việc xử lý tài sản để thi hành 04 bản án.
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Có bị kê biên nhà đã mua nhưng chưa đăng ký quyền sở hữu không?
Tháng 9/2010 tôi đã thỏa thuận mua 1 căn nhà của bà A và đã thực hiện việc công chứng, thanh toán tiền đầy đủ (có biên nhận), tuy nhiên vì công tác xa nên tôi chưa thực hiện việc đăng kí quyền sở hữu. Đến tháng 12/10 bà A và bà C xảy ra tranh chấp vay mượn tiền (bà C cho bà A vay tiền lấy lãi). Bà C đã khởi kiện bà A để đòi tiền tại tòa án. Vậy xin hỏi: trong trường hợp bản án tòa tuyên bà A phải trả tiền cho bà C nhưng bà A lại không còn tài sản gì để thực hiện việc thi hành án thì căn nhà mà bà A đã chuyển nhượng cho tôi có bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ của bà A hay không? Căn cứ theo quy định nào để thực hiện việc kê biên. Xin cám ơn!
Gửi bởi: Hoàng Tố Trinh
Trả lời có tính chất tham khảo
Theo quy định tại Điều 688, Điều 692 Bộ luật Dân sự 2005; Điều 46 Luật Đất đai 2003 và Khoản 4 Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/11/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai thì hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, thuê, thuê lại quyền sử dụng đất; hợp đồng hoặc văn bản tặng cho quyền sử dụng đất; hợp đồng thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Như vậy, trường hợp chuyển đổi, chuyển nhượng và tặng cho quyền sử dụng đất không có tài sản gắn liền với đất, thì quyền sử dụng đất được xác lập cho người nhận chuyển đổi, chuyển nhượng và nhận tặng cho quyền sử dụng đất kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên, Điều 168 Bộ luật Dân sự về thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản tại khoản 1 quy định “việc chuyển quyền sở hữu đối với bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sở hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”. Tại khoản 5 Điều 93 Luật Nhà ở năm 2005 quy định “bên mua, bên nhận tặng cho, bên đổi, bên được thừa kế nhà ở có trách nhiệm nộp hồ sơ để được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở theo trình tự quy định tại Điều 16 của Luật này, trừ trường hợp bên bán nhà ở là tổ chức có chức năng kinh doanh nhà ở hoặc các bên có thỏa thuận khác. Quyền sở hữu nhà ở được chuyển cho bên mua, bên nhận tặng cho, bên thuê mua, bên nhận đổi nhà ở kể từ thời điểm hợp đồng được công chứng đối với giao dịch về nhà ở giữa cá nhân với cá nhân hoặc đã giao nhận nhà ở theo thỏa thuận trong hợp đồng đối với giao dịch về nhà ở mà một bên là tổ chức kinh doanh nhà ở hoặc từ thời điểm mở thừa kế trong trường hợp nhận thừa kế nhà ở”.
Do có sự quy định không đồng bộ tại Bộ luật Dân sự 2005, Luật Đất đai 2003 và Luật Nhà ở 2005 về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng và xác lập quyền sở hữu đối với nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đồng thời là chủ sử dụng đất như đã nêu trên, tuy nhiên tại Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ quy định giấy chứng nhận có tên gọi là “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”. Vì thế, khi chủ sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đồng thời là chủ sử dụng đất thực hiện các giao dịch dân sự về nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất và chuyển quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản đó, thì quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất trong trường hợp này được xác lập cho người nhận chuyển quyền kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất.
Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Nhà ở và các văn bản pháp luật liên quan có quy định về thời điểm xác lập quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản khác nhau, nên khi xử lý tài sản là quyền sử dụng đất, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất để bảo đảm thi hành án, cơ quan thi hành án còn phải căn cứ pháp luật về thi hành án dân sự để thực hiện.
Tại đoạn 2 Điểm a Khoản 1 Mục IV Thông tư liên tịch số 12/2001/TTLT/BTP-VKSTC ngày 26/2/2001 của Bộ Tư pháp và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao quy định: đối với các trường hợp sau khi có bản án, quyết định của Toà án, người phải thi hành án đã chuyển nhượng các tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, thì Chấp hành viên có quyền kê biên tài sản đó và có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền huỷ bỏ giao dịch đó. Người được thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hoặc khởi kiện yêu cầu Toà án huỷ bỏ giao dịch đó. Đến nay, quy định này đã được thay thế bởi quy định tại Khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/9/2010): “kể từ thời điểm có bản án, quyết định sơ thẩm mà người phải thi hành án bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố tài sản của mình cho người khác, không thừa nhận tài sản là của mình mà không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên để thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu có tranh chấp thì Chấp hành viên hướng dẫn đương sự thực hiện việc khởi kiện tại Toà án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo mà không có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án xử lý tài sản để thi hành án”.
Như vậy, đối với quyền sử dụng đất, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của người phải thi hành án đã được xác lập quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản cho người khác thông qua hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho hợp pháp theo quy định của pháp luật (đã được công chứng, chứng thực hoặc đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất) trước khi có bản án, quyết định sơ thẩm, thì chưa có cơ sở kê biên, xử lý để đảm bảo thi hành án, trừ trường hợp đương sự có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác. Do đó, nếu căn nhà bà mua là nhà kiên cố xây dựng trên toàn bộ diện tích đất đó thì không thể kê biên để thi hành án. Trường hợp nhà chỉ xây dựng trên một phần đất, thì phần đất trống không có nhà nếu tách rời mà không mất hoặc giảm đáng kể giá trị của nhà ở có thể bị kê biên để đảm bảo thi hành án, vì về mặt pháp lý diện tích đất này chưa hoàn thành thủ tục chuyển quyền cho người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Các văn bản liên quan:
Thông tư liên tịch 12/2001/TTLT/BTP-VKSTC Hướng dẫn thực hiện một số quy định pháp luật về thi hành án dân sự.
Luật 13/2003/QH11 Đất đai
Thông tư liên tịch 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự
Nghị định 88/2009/NĐ-CP Về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
Nghị định 181/2004/NĐ-CP Về thi hành Luật Đất đai
Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Luật 56/2005/QH11 Nhà ở
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Chuyển giao quyền và nghĩa vụ khi người được thi hành án chết không để lại di chúc
Việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ khi người được thi hành án chết không để lại di chúc được quy định như thế nào? Cơ quan thi hành án sẽ giải quyết việc chuyển quyền và nghĩa vụ như thế nào?
Gửi bởi: chu quảng khánh
Trả lời có tính chất tham khảo
Chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án được quy định tại Điều 54 Luật Thi hành án dân sự và Điều 7 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự. Trường hợp người được thi hành án, người phải thi hành án là cá nhân chết thì quyền, nghĩa vụ thi hành án được chuyển giao cho người khác theo quy định của pháp luật về thừa kế. Trường hợp này thì cá nhân, tổ chức được chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án có quyền làm đơn yêu cầu thi hành án hoặc phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án đối với cá nhân, tổ chức mới tương ứng với quyền, nghĩa vụ thi hành án được chuyển giao và ra quyết định thu hồi quyết định thi hành án trước đây. Đối với các quyết định, thông báo khác về thi hành án thì tùy từng trường hợp cụ thể mà cơ quan thi hành án dân sự giữ nguyên, thu hồi hoặc ra các quyết định, thông báo khác phù hợp theo quy định. Trường hợp đương sự thỏa thuận về việc chuyển giao quyền, nghĩa vụ về thi hành án cho người thứ ba thì người thứ ba có quyền, nghĩa vụ của đương sự.
Trường hợp thi hành nghĩa vụ về trả tài sản mà người phải thi hành án đã chết nhưng có người đang trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản đó thì cơ quan thi hành án ấn định thời hạn không quá 30 ngày để người quản lý, sử dụng tài sản của người phải thi hành án giao tài sản cho người được thi hành án. Hết thời hạn này mà họ không thực hiện hoặc tài sản không có người quản lý, sử dụng trực tiếp thì cơ quan thi hành án tổ chức giao tài sản, kể cả cưỡng chế giao tài sản cho người được thi hành án theo quy định của pháp luật.
Trường hợp người phải thi hành nghĩa vụ về thanh toán tiền đã chết mà có để lại tài sản thì cơ quan thi hành án có văn bản thông báo, ấn định thời hạn không quá 30 ngày để người thừa kế hoặc người quản lý di sản của người phải thi hành án thoả thuận thực hiện. Hết thời hạn này, nếu người thừa kế hoặc người quản lý di sản không thoả thuận được việc thực hiện nghĩa vụ của người phải thi hành án, thì cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với tài sản để lại của người phải thi hành án để đảm bảo thi hành án, đồng thời ấn định thời hạn 30 ngày kể từ ngày thông báo để những người liên quan đến tài sản thực hiện quyền khởi kiện. Hết thời hạn này mà không có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án xử lý tài sản để thi hành án theo quy định của pháp luật.
Việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ khi người được thi hành án chết không để lại di chúc theo quy định tại Phần thứ tư Bộ luật Dân sự năm 2005 về thừa kế theo pháp luật. Theo đó phải xác định được người thừa kế của người được thi hành án. Khi đã xác định được cá nhân, tổ chức được chuyển giao quyền và nghĩa vụ của người được thi hành án thì thực hiện việc thi hành án theo quy định nêu trên.
Các văn bản liên quan:
Thông tư liên tịch 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Có thể kê biên tài sản để thi hành án cho hộ gia đình không?
Quyết định của Tòa án tuyên hộ gia đình ông A phải trả nợ vay ngân hàng số tiền là 167.000.000 đồng. Sau khi án có hiệu lực ông A thỏa thuận với ngân hàng cho bán chiếc tàu đánh cá với giá 70.000 đồng để trả. Số tiền còn lại ông A không có khả năng trả tiếp. Qua xác minh được biết hiện ông A đang được mẹ để ủy quyền cho dùng nhà và đất để vay thêm vốn ngân hàng làm ăn với một hợp đồng vay vốn khác và cho ông A toàn quyền quyết định, xử lý để trả nợ ngân hàng. Vậy cơ quan thi hành án có được kê biên xử lý nhà và đất trên để thi hành án khoản vay trước hay không? Được biết nhà và đất được mẹ ủy quyền để thế chấp với khoản vay sau này ông A vẫn trả nợ đúng hạn và không có tranh chấp phải ra tòa.
Gửi bởi: Tran Thi Mai
Trả lời có tính chất tham khảo
Trường hợp này, cơ quan thi hành án phải xác minh làm rõ nhà và đất nêu trên có thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án hay không và mẹ ông A có phải người phải thi hành án hay không ?
Theo quyết định của Tòa án tuyên hộ gia đình ông A phải trả nợ vay ngân hàng số tiền là 167.000.000 đồng, vậy hộ gia đình ông A là những ai, có bao gồm cả mẹ ông A hay không? Nếu mẹ ông A là thành viên trong hộ gia đình ông A, mẹ ông A cũng là người phải thi hành án cùng với ông A và những thành viên khác trong hộ gia đình ông A thì cơ quan thi hành án có thể kê biên, xử lý nhà và đất trên để thi hành án.
Trường hợp mẹ ông A không phải là thành viên trong hộ gia đình ông A (ví dụ: ông A đã lấy vợ, sinh con và lập sổ hộ khẩu gia đình riêng, hộ gia đình ông A chỉ gồm 03 người là ông A, vợ ông A và con trai ông A), mẹ ông A không phải là thành viên trong hộ gia đình ông A, không phải thi hành án, thì cơ quan thi hành án không được kê biên xử lý nhà và đất của mẹ ông A để thi hành án cho hộ gia đình ông A, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác (ví dụ: mẹ ông A, ông A và Ngân hàng đồng ý để cơ quan thi hành kê biên, xử lý nhà và đất của mẹ ông A để thi hành án cho hộ gia đình ông A).
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Không kê biên tài sản phục vụ quốc phòng an ninh, lợi ích công cộng
Tại khoản 1 Điều 87 Luật THADS có quy định về tài sản không được kê biên, trong đó có tài sản phục vụ quốc phòng, an ninh, lợi ích công cộng; tài sản do ngân sách nhà nước cấp cho cơ quan, tổ chức. Hiện nay, có nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công ích, quốc phòng an ninh (ví dụ như: Viettel, các tổng tông ty xây dựng của Bộ Quốc phòng, các doanh nghiệp thuộc UBND…). Vậy căn cứ vào đâu để Chấp hành viên biết tài sản nào của doanh nghiệp dùng để phục vụ quốc phòng, an ninh, lợi ích công cộng không được kê biên? Ngoài ra, Điều 87 của Luật THADS thuộc mục 6 về “Cưỡng chế thi hành án đối với tài sản là vật”. Như vậy, điều này có được áp dụng cho trường hợp tài sản là tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản không?
Gửi bởi: phan văn thụy
Trả lời có tính chất tham khảo
1. Điều 87 Luật Thi hành án dân sự quy định tài sản không được kê biên gồm: Tài sản bị cấm lưu thông theo quy định của pháp luật; tài sản phục vụ quốc phòng, an ninh, lợi ích công cộng; tài sản do ngân sách nhà nước cấp cho cơ quan, tổ chức. Tài sản sau đây của người phải thi hành án là cá nhân: Số lương thực đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người phải thi hành án và gia đình trong thời gian chưa có thu nhập, thu hoạch mới; số thuốc cần dùng để phòng, chữa bệnh của người phải thi hành án và gia đình; vật dụng cần thiết của người tàn tật, vật dụng dùng để chăm sóc người ốm; đồ dùng thờ cúng thông thường theo tập quán ở địa phương; công cụ lao động cần thiết, có giá trị không lớn được dùng làm phương tiện sinh sống chủ yếu hoặc duy nhất của người phải thi hành án và gia đình; đồ dùng sinh hoạt cần thiết cho người phải thi hành án và gia đình. Tài sản sau đây của người phải thi hành án là doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ: Số thuốc phục vụ việc phòng, chữa bệnh cho người lao động; lương thực, thực phẩm, dụng cụ và tài sản khác phục vụ bữa ăn cho người lao động; nhà trẻ, trường học, cơ sở y tế và thiết bị, phương tiện, tài sản khác thuộc các cơ sở này, nếu không phải là tài sản để kinh doanh; trang thiết bị, phương tiện, công cụ bảo đảm an toàn lao động, phòng, chống cháy nổ, phòng, chống ô nhiễm môi trường.
Việc xác định tài sản nào phục vụ quốc phòng, an ninh, lợi ích công cộng không được kê biên tùy từng trường hợp cụ thể căn cứ vào nhiều yếu tố, nhưng có thể xác định đó là tài sản như: Đường giao thông, cầu, cống, vỉa hè, hệ thống cấp thoát nước, sông, hồ, đê, đập, thủy lợi, trường học, bệnh viện, chợ, công viên, vườn hoa, khu vui chơi cho trẻ em, quảng trường, sân vận động, sân bay, bến cảng, nhà ga, bến xe và các công trình công cộng khác. Tài sản chuyên dùng phục vụ quốc phòng, an ninh áp dụng đối với các trường hợp sau đây: Nhà, đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; vũ khí, khí tài, trang bị chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh; tàu, thuyền, ôtô, xe máy thuộc danh mục tài sản đặc biệt hoặc tài sản chuyên dùng vào mục đích quốc phòng, an ninh được Bộ Quốc phòng hoặc Bộ Công an cấp giấy đăng ký phương tiện; nhà, đất thuộc tài sản Nhà nước hoặc của Đảng, dùng làm trụ sở làm việc, cơ sở hoạt động sự nghiệp của cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp.
2. Mục 6 Luật Thi hành án dân sự quy định về “Cưỡng chế thi hành án đối với tài sản là vật”. Tài sản là vật theo quy định này là tài sản cụ thể như: nhà ở, xe máy, ô tô. Đối với các tài sản khác thì áp dụng quy định tại mục khác để cưỡng chế thi hành án, như: tài sản là tiền áp dụng mục 3, tài sản là giấy tờ có giá áp dụng mục 4, tài sản là quyền sở hữu trí tuệ áp dụng mục 5, tài sản là quyền sử dụng đất áp dụng mục 8 của Luật Thi hành án dân sự.
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án khi người phải thi hành án chết
Thủ tục thi hành án về việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án khi người phải thi hành án chết?
Gửi bởi: thanhnhon
Trả lời có tính chất tham khảo
Nội dung này được thực hiện theo quy định tại Điều 74 Luật Thi hành án dân sự 2008 và Điều 7 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự. Theo đó, trường hợp người được thi hành án, người phải thi hành án là cá nhân chết thì quyền, nghĩa vụ thi hành án được chuyển giao cho người khác theo quy định của pháp luật về thừa kế. Pháp luật về thừa kế tại Bộ luật Dân sự năm 2005 có quy định thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc. Khi người phải thi hành án chết thì tổ chức, cá nhân được thừa kế được hưởng di sản và phải thực hiện nghĩa vụ của người để lại di sản trong phạm vi phần di sản được hưởng.
Tổ chức, cá nhân được chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án có quyền làm đơn yêu cầu thi hành án hoặc phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thi hành án theo quy định của Luật Thi hành án dân sự. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án đối với cá nhân, tổ chức mới tương ứng với quyền, nghĩa vụ thi hành án được chuyển giao và ra quyết định thu hồi quyết định thi hành án trước đây. Đối với các quyết định, thông báo khác về thi hành án thì tùy từng trường hợp cụ thể mà cơ quan thi hành án dân sự giữ nguyên, thu hồi hoặc ra các quyết định, thông báo khác phù hợp theo quy định của Luật Thi hành án dân sự. Trường hợp đương sự thỏa thuận về việc chuyển giao quyền, nghĩa vụ về thi hành án cho người thứ ba thì người thứ ba có quyền, nghĩa vụ của đương sự.
Trường hợp thi hành nghĩa vụ về trả tài sản mà người phải thi hành án đã chết nhưng có người đang trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản đó thì cơ quan thi hành án ấn định thời hạn không quá 30 ngày để người quản lý, sử dụng tài sản của người phải thi hành án giao tài sản cho người được thi hành án. Hết thời hạn này mà họ không thực hiện hoặc tài sản không có người quản lý, sử dụng trực tiếp thì cơ quan thi hành án tổ chức giao tài sản, kể cả cưỡng chế giao tài sản cho người được thi hành án theo quy định của pháp luật.
Trường hợp người phải thi hành nghĩa vụ về thanh toán tiền đã chết mà có để lại tài sản thì cơ quan thi hành án có văn bản thông báo, ấn định thời hạn không quá 30 ngày để người thừa kế hoặc người quản lý di sản của người phải thi hành án thoả thuận thực hiện. Hết thời hạn này, nếu người thừa kế hoặc người quản lý di sản không thoả thuận được việc thực hiện nghĩa vụ của người phải thi hành án, thì cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với tài sản để lại của người phải thi hành án để đảm bảo thi hành án, đồng thời ấn định thời hạn 30 ngày kể từ ngày thông báo để những người liên quan đến tài sản thực hiện quyền khởi kiện. Hết thời hạn này mà không có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án xử lý tài sản để thi hành án theo quy định của pháp luật.
Các văn bản liên quan:
Thông tư liên tịch 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Có thể kê biên tài sản thế chấp để thi hành án hay không?
Theo Bản án số 61/2010/DSST ngày 11 tháng 8 năm 2010, buộc A thi hành cho B số tiền 4.023.000.000 đồng và lãi suất chậm thi hành án. Qua xác minh, A có 1 tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất nhưng đã thế chấp cho một cá nhân để vay số tiền 3.000.000.000 đồng. Hợp đồng được công chứng tại phòng công chứng nhà nước trước ngày có Bản án sơ thẩm. Như vậy, hợp đồng công chứng trên có giá trị pháp lý không, và chấp hành viên có thể kê biên tài sản của A để đảm bảo thi hành án không?
Gửi bởi: Nguyễn Hữu Phước
Trả lời có tính chất tham khảo
Theo quy định tại Điều 342 Bộ luật Dân sự thì thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp. Trong trường hợp thế chấp toàn bộ bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ của bất động sản, động sản đó cũng thuộc tài sản thế chấp. Trong trường hợp thế chấp một phần bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ thuộc tài sản thế chấp, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.Tài sản thế chấp cũng có thể là tài sản được hình thành trong tương lai. Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ. Các bên có thể thỏa thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp.
Việc thế chấp quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định tại các điều từ Điều 715 đến Điều 721 của Bộ luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Theo đó, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên sử dụng đất (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng quyền sử dụng đất của mình để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp). Bên thế chấp được tiếp tục sử dụng đất trong thời hạn thế chấp.
Trong trường hợp bạn nêu, việc thế chấp hợp pháp đã được lập hợp đồng công chứng tại Phòng công chứng nhà nước trước ngày có bản án sơ thẩm, hợp đồng đó đúng pháp luật thì có giá trị pháp lý, nên người nhận thế chấp đó được pháp luật bảo vệ quyền ưu tiên thanh toán từ tài sản thế chấp.
Việc thế chấp tài sản hợp pháp trước khi có bản án sơ thẩm, thì cơ quan thi hành án được kê biên, xử lý tài sản nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 90 Luật Thi hành án dân sự. Đó là trường hợp người phải thi hành án không còn tài sản nào khác hoặc có tài sản nhưng không đủ để thi hành án, Chấp hành viên có quyền kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án đang thế chấp nếu giá trị của tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án. Khi kê biên tài sản đang thế chấp, Chấp hành viên phải thông báo ngay cho người nhận nhận thế chấp; khi xử lý tài sản kê biên, người nhận nhận thế chấp được ưu tiên thanh toán theo quy định tại khoản 3 Điều 47 của Luật Thi hành án dân sự.
Trường hợp quyền sử dụng đất đã được thế chấp hợp pháp mà có giá trị bằng hoặc nhỏ hơn nghĩa vụ phải thanh toán theo hợp đồng thế chấp thì Chấp hànhviên phải thông báo cho người nhận thế chấp biết nghĩa vụ của người phải thi hành án; yêu cầu người nhận thế chấp thông báo để cơ quan thi hành án kê biên tài sản đã thế chấp khi người vay thanh toán hợp đồng đã ký hoặc để kê biên phần tiền, tài sản còn lại (nếu có) sau khi tài sản bị bên nhận thế chấp xử lý để thanh toán hợp đồng đã ký theo quy định tại khoản 3 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự.
Các văn bản liên quan:
Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Thông tư liên tịch 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Đối tượng hưởng chế độ phụ thâm niên nghề thi hành án
Tôi là bộ đội xuất ngũ về công tác tại Tòa án từ năm 1985 và được phân công làm công tác thi hành án. Xin hỏi tôi có được hưởng chế độ trợ cấp thâm niên nghề hay không?
Gửi bởi: vu khac hien
Trả lời có tính chất tham khảo
Theo quy định tại Nghị định số 76/2009/NĐ-CP ngày 15/9/2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ “về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang” và Thông tư liên tịch số 04/2009/TTLT-BNV-BTC ngày 24/12/2009 Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính “hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên đối với cán bộ, công chức đã được xếp lương theo ngạch hoặc chức danh chuyên ngành tòa án, kiểm sát, kiểm toán, thanh tra, thi hành án dân sự và kiểm lâm” thì đối tượng được hưởng chế độ phụ cấp thâm niên đối với cán bộ, công chức của các cơ quan thi hành án dân sự, phải là người đã được xếp lương theo ngạch hoặc chức danh chuyên ngành tòa án, kiểm sát, kiểm toán, thanh tra, thi hành án dân sự và kiểm lâm, bao gồm:
– Chánh án và Phó chánh án Tòa án nhân dân các cấp; Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp; Thư ký Tòa án và Thẩm tra viên ngành Tòa án (Thẩm tra viên cao cấp, Thẩm tra viên chính và Thẩm tra viên).
– Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân các cấp, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân các cấp, Điều tra viên các cấp và Kiểm tra viên ngành Kiểm sát (Kiểm tra viên cao cấp, Kiểm tra viên chính và Kiểm tra viên).
– Tổng kiểm toán nhà nước, Phó tổng kiểm toán nhà nước và Kiểm toán viên nhà nước (Kiểm toán viên cao cấp, Kiểm toán viên chính, Kiểm toán viên, Kiểm toán viên dự bị).
– Tổng thanh tra và Phó Tổng thanh tra, Chánh Thanh tra và Phó Chánh Thanh tra các cơ quan Thanh tra nhà nước, Thanh tra viên (Thanh tra viên cao cấp, Thanh tra viên chính, Thanh tra viên).
– Thủ trưởng và Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự các cấp, Chấp hành viên thi hành án dân sự các cấp, Thẩm tra viên thi hành án dân sự (Thẩm tra viên cao cấp, Thẩm tra viên chính và Thẩm tra viên thi hành án dân sự) và Thư ký thi hành án dân sự.
– Cục trưởng và Phó cục trưởng Cục Kiểm lâm, Chi cục trưởng và Phó chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm, Hạt trưởng và Phó Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm, Kiểm lâm viên (Kiểm lâm viên chính, Kiểm lâm viên, Kiểm lâm viên cao đẳng, Kiểm lâm viên trung cấp và Kiểm lâm viên sơ cấp.
Chế độ phụ cấp thâm niên nghề áp dụng đối với cán bộ, công chức trong biên chế xếp lương theo các ngạch hoặc các chức danh chuyên ngành thi hành án dân sự theo hướng dẫn tại Công văn số 566/BTP-TCTHA ngày 09/3/2010 của Bộ Tư pháp, bao gồm: Các ngạch Chấp hành viên của các cơ quan thi hành án dân sự địa phương; Thẩm tra viên, Thẩm tra viên chính, Thẩm tra viên cao cấp thi hành án thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự và các cơ quan thi hành án dân sự địa phương; Thư ký thi hành án dân sự.
Căn cứ quy định này, trường hợp anh là bộ đội xuất ngũ về công tác tại Tòa án từ năm 1985 và được phân công làm công tác thi hành án, nếu đã là đối tượng nêu trên (như: Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên ngành Tòa án, Chấp hành viên, Thẩm tra viên ngành Thi hành án…) thì được hưởng chế độ phụ cấp thâm niên nghề. Trường hợp anh là bộ đội xuất ngũ về công tác tại Tòa án từ năm 1985 và được phân công làm công tác thi hành án, nhưng không là đối tượng nêu trên (chỉ là cán bộ tòa án, như: lái xe, bảo vệ, cán sự hoặc chuyên viên) thì không thuộc đối tượng được hưởng chế độ phụ cấp thâm niên nghề thi hành án.
Các văn bản liên quan:
Thông tư liên tịch 04/2009/TTLT-BNV-BTC Hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên nghề đối với cán bộ, công chức đã được xếp lương theo các ngạch hoặc chức danh chuyên ngành tòa án, kiểm sát, kiểm toán, thanh tra, thi hành án dân sự và kiểm lâm
Nghị định 76/2009/NĐ-CP Về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Không nhận hồ sơ ủy thác thi hành án có đúng không?
Tôi ly hôn chồng năm 2007. Theo quyết định của bản án chồng tôi phải đóng góp phí tổn nuôi con chung mổi tháng 200.000 đồng, kể từ tháng 5/2007 cho đến khi con tôi tròn 18 tuổi (con tôi sinh năm 2004. Bản án có hiệu lực tôi làm đơn yêu cầu thi hành án, cơ quan THA thụ lý và tổ chức thi hành cho tôi, sau một thời gian thi hành cơ quan THA vẫn không thu được khoản tiền nào. Qua xác minh được biết chồng tôi đã vào trú tại huyện H, tỉnh ở miền Nam, ở địa phương không để lại tài sản gì. Cơ quan thi hành án đã ủy thác vào thi hành án huyện H. Cơ quan THA huyện H đã thụ lý và tiếp tục thi hành cho tôi, sau một thời gian đến năm 2010, qua xác minh cơ quan THA huyện H biết chồng tôi trở về địa phương cũ, không để lại tài sản gì tại huyện H, nên đã ủy về cơ quan THA ban đầu và thông báo cho tôi. Tôi đến làm việc với cơ quan THA nơi tòa án xử ban đầu thi họ cho biết trường hợp này họ không nhận ủy thác lại và họ đã làm công văn kèm theo hồ sơ đề nghị cơ quan THA huyện H trả đơn theo quy định. Như vậy, cơ quan THA nơi tòa án xử ban đầu không nhận hồ sơ ủy thác của cơ quan THA huyện H có đúng không và cơ quan THA huyện H trả đơn lại cho tôi có đúng không? Trân trọng cảm ơn!
Gửi bởi: Nguyễn Thị Lưu
Trả lời có tính chất tham khảo
Theo quy định tại Điều 51 Luật Thi hành án dân sự thì thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án trong các trường hợp sau đây:
a) Người phải thi hành án không có tài sản để thi hành án hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản chỉ đủ để thanh toán chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc tài sản đó theo quy định của pháp luật không được xử lý để thi hành án;
b) Người phải thi hành án không có thu nhập hoặc mức thu nhập thấp, chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải thi hành án và gia đình;
c) Tài sản kê biên không bán được mà người được thi hành án không nhận để thi hành án;
d) Người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ về trả vật đặc định nhưng vật phải trả không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được mà đương sự không có thoả thuận khác.
Tại khoản 1 Điều 55 Luật Thi hành án dân sự quy định thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải uỷ thác thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở.
Khoản 2 Điều 57 Luật Thi hành án dân sự quy định cơ quan thi hành án dân sự nhận ủy thác không được trả lại quyết định ủy thác cho cơ quan thi hành án dân sự đã ủy thác mà phải tiếp tục thực hiện việc thi hành án theo quy định của Luật này, trừ trường hợp quyết định ủy thác có sự nhầm lẫn, sai sót rõ ràng về thẩm quyền của cơ quan nhận ủy thác thi hành án, nội dung thi hành án. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án và thông báo bằng văn bản cho cơ quan thi hành án dân sự đã ủy thác về việc nhận được quyết định ủy thác.
Căn cứ quy định nêu trên, nếu nội dung vụ việc đúng như bà nêu, cơ quan thi hành án ban đầu đã ủy thác vào cơ quan thi hành án huyện H ở một tỉnh miền Nam. Cơ quan thi hành án huyện H đã thụ lý và tiếp tục thi hành cho bà, sau một thời gian đến năm 2010, qua xác minh cơ quan thi hành án huyện H biết chồng bà trở về địa phương cũ, không để lại tài sản gì tại huyện H, nên đã ủy về cơ quan thi hành án ban đầu và thông báo cho bà là có cơ sở (có tài liệu xác định chồng bà đã trở về địa phương cũ) mặc dù không có căn cứ xác định chồng bà có tài sản ở địa phương cũ. Cơ quan thi hành án huyện H đã ủy thác trở lại cho cơ quan thi hành án nơi Tòa án đã xét xử sơ thẩm (là nơi chồng bà trở về địa phương), nhưng cơ quan thi hành án này không nhận hồ sơ ủy thác của cơ quan thi hành án huyện H và trả lại hồ sơ ủy thác cho cơ quan thi hành án huyện H là không có căn cứ. Cơ quan thi hành án huyện H ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án cho bà cũng không phù hợp với Điều 51 Luật Thi hành án dân sự vì chưa có cơ sở khẳng định khi trả đơn chồng bà không có tài sản tại địa phương nơi trở về. Như vậy, cả hai cơ quan thi hành án đều làm chưa đúng, chưa bảo đảm chặt chẽ về căn cứ, tuy nhiên có thể nói việc làm chưa đúng của cơ quan thi hành án huyện H có phần do việc làm chưa đúng của cơ quan thi hành án nơi Tòa án đã xét xử sơ thẩm.
Lẽ ra, trong trường hợp này, cơ quan thi hành án nơi Tòa án đã xét xử sơ thẩm (ban đầu) nhận ủy thác (pháp luật hiện nay không cấm việc ủy thác trở lại khi có căn cứ ủy thác) ra quyết định thi hành án và tiến hành xác minh, nếu có căn cứ xác định không xác định được địa chỉ của chồng bà hoặc chồng bà đã trở về địa phương nhưng không có tài sản tại địa phương và cùng với căn cứ kết quả thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự huyện H để ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án cho bà. Cách thức làm này đảm bảo chặt chẽ về thủ tục thi hành án, trả lại đơn có căn cứ và thể hiện sự phối hợp, không đùn đầy trách nhiệm thi hành án giữa các cơ quan thi hành án dân sự, góp phần giải quyết án tồn đọng trong toàn Ngành thi hành án dân sự.
Tuy nhiên, trong vụ việc này, mặc dù hai cơ quan thi hành án thực hiện chưa đúng thủ tục thi hành án, nhưng nếu chồng bà không có tài sản tại địa phương nơi đã trở về, thì quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án do cơ quan thi hành án huyện H ban hành cần được chấp nhận. Do đó, khi chồng bà có điều kiện thi hành (bà phát hiện được tại địa phương nơi chồng bà trở về hoặc nơi khác) thì bà có quyền yêu cầu thi hành bản án tại cơ quan thi hành án nơi chồng bà có tài sản (kể cả cơ quan thi hành án nơi Tòa án đã xét xử ban đầu hoặc nơi khác có tài sản của chồng bà, vì thẩm quyền thi hành án khi đã trả đơn không phụ thuộc vào địa giới hành chính) trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 30 của Luật Thi hành dân sự, kể từ ngày phát hiện người phải thi hành án có điều kiện thi hành.
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Mua tài sản từ người nhận thế chấp
Công ty TNHH A có vay của ngân hàng số tiền là 20 tỷ, có thế chấp tài sản là căn nhà của bà B (đồng thời là giám đốc công ty A luôn). Sau đó công ty làm ăn thua lỗ nên bà B (đồng sở hữu căn nhà trên và là đại diện hợp pháp của các đồng sở hữu khác) có phối hợp cùng ngân hàng bán căn nhà trên cho một người khác và có công chứng hợp lệ, ngày công chứng là ngày 6/11. Người mua đã chuyển khoản thẳng số tiền vào tài khoản của ngân hàng, tổng cộng bán được 21 tỷ (trong khi cả gốc và lãi là 22 tỷ), phần còn lại thỏa thuận sẽ trả sau. Hợp đồng ghi tên người bán là Bà B và người mua, tuy nhiên do ngân hàng đứng ra làm thủ tục. Khi đi đăng bộ thì bị cơ quan thi hành án ra quyết định ngăn chặn chuyển nhượng, mua bán nhà, lý do: bà B này đã bị xử thua kiện, phải trả cho bà C (bên được thi hành án) 3 tỷ đồng, vì vậy bà B yêu cầu bên thi hành án ra quyết định ngăn chặn việc bán căn nhà trên do bà B chỉ có một tài sản duy nhất là căn nhà này.
Xin hỏi: Việc ra quyết định trên có đúng không? Theo Luật Thi hành án dân sự thì tài sản đang thế chấp cầm cố mà không đủ để thanh toán nợ thì không được đem ra kê biên. Tuy nhiên khi liên hệ với Chấp hành viên thì được trả lời, nếu là ngân hàng đứng ra bán tài sản thì không kê biên, còn trên hợp đồng là bà B bán. Làm thế nào để đảm bảo quyền lợi của người mua? Mong nhận được tư vấn!
Gửi bởi: nguyễn linh vân
Trả lời có tính chất tham khảo
Nội dung, tình tiết câu hỏi của bạn chưa đầy đủ cụ thể, không có hồ sơ thi hành án, nên chúng tôi không thể trả lời việc ra quyết định trên đúng hay không, tuy nhiên chúng tôi nêu ra một vài vấn đề trao đổi như sau:
– Theo nội dung vụ việc, thì bà B đã bị xử thua kiện, phải trả cho bà C (bên được thi hành án) 3 tỷ đồng là một việc thi hành dân sự, nên cơ quan thi hành án xác minh, xử lý tài sản thuộc sở hữu của bà B để thi hành án. Bà đứng tên ký hợp đồng bán tài của mình sau khi có bản án nhưng không dùng tiền đó để thi hành án thì cơ quan thi hành án có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để xử lý tài sản đó theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo thi hành án, ngăn chặn việc tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.
– Tài sản của bà B đã thế chấp trước khi có bản án và thế chấp hợp pháp, thì cơ quan thi hành án chỉ được kê biên, xử lý khi có đủ điều kiện quy định tại Điều 90 Luật Thi hành án dân sự. Đó là trường hợp người phải thi hành án không còn tài sản nào khác hoặc có tài sản nhưng không đủ để thi hành án và nếu giá trị của tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án. Khi kê biên tài sản đang thế chấp, Chấp hành viên phải thông báo ngay cho người nhận nhận thế chấp; khi xử lý tài sản kê biên, người nhận nhận thế chấp được ưu tiên thanh toán theo quy định tại khoản 3 Điều 47 của Luật Thi hành án dân sự.
Trường hợp tài sản đã được thế chấp hợp pháp mà có giá trị bằng hoặc nhỏ hơn nghĩa vụ phải thanh toán theo hợp đồng thế chấp thì Chấp hành viên phải thông báo cho người nhận thế chấp biết nghĩa vụ của người phải thi hành án; yêu cầu người nhận thế chấp thông báo để cơ quan thi hành án kê biên tài sản đã thế chấp khi người vay thanh toán hợp đồng đã ký hoặc để kê biên phần tiền, tài sản còn lại (nếu có) sau khi tài sản bị bên nhận thế chấp xử lý để thanh toán hợp đồng đã ký theo quy định tại khoản 3 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự. Do vậy, nếu ngân hàng bán tài sản thế chấp với tư cách là người nhận thế chấp xử lý tài sản thế chấp theo hợp đồng chế chấp thì cơ quan thi hành án không kê biên tài sản đó. Trong trường hợp này, bà B và người mua tài sản nên thỏa thuận hủy hợp đồng mua bán tài sản, ngân hàng xử lý tài sản thế chấp của bà B thì người đã mua tài sản của bà B có quyền mua tài sản này từ ngân hàng.
Các văn bản liên quan:
Thông tư liên tịch 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Anh ruột của Chấp hành viên có được tham gia đấu giá tài sản không?
Anh ruột của Chấp hành viên, công chức trực tiếp thi hành vụ việc xử lý tài sản của ông Nguyễn Văn A có được đăng ký mua đấu giá tài sản thi hành án của ông A không?
Gửi bởi: Nguyễn Thị Ngọc Sang
Trả lời có tính chất tham khảo
Điều 30 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản quy định người không được tham gia đấu giá tài sản gồm:
1. Người không có năng lực hành vi dân sự, người bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc người tại thời điểm đấu giá không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình.
2. Người làm việc trong tổ chức bán đấu giá tài sản, nơi thực hiện việc bán đấu giá tài sản đó, cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột của người đó; người trực tiếp giám định, định giá tài sản, cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột của người đó.
3. Người được chủ sở hữu ủy quyền bán tài sản; người ra quyết định tịch thu tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; người có thẩm quyền quyết định bán tài sản nhà nước; người ký hợp đồng thuê tổ chức bán đấu giá tài sản để bán đấu giá tài sản nhà nước; cá nhân, tổ chức có quyền bán tài sản của người khác theo quy định của pháp luật.
4. Người không có quyền mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật, bao gồm:
a) Người không được tham gia mua tài sản để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự;
b) Người không đủ điều kiện tham gia mua tài sản đối với một số loại tài sản theo quy định của pháp luật về loại tài sản đó.
5. Người không được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất; người không thuộc trường hợp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
Trong hoạt động thi hành án dân sự, Điều 101 Luật Thi hành án dân sự quy định tài sản đã kê biên được bán theo các hình thức bán đấu giá và bán không qua thủ tục đấu giá. Việc bán đấu giá đối với tài sản kê biên là động sản có giá trị từ trên 10.000.000 đồng và bất động sản do tổ chức bán đấu giá thực hiện. Đương sự có quyền thoả thuận về tổ chức bán đấu giá trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc, kể từ ngày định giá. Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản với tổ chức bán đấu giá do đương sự thoả thuận. Trường hợp đương sự không thoả thuận được thì Chấp hành viên lựa chọn tổ chức bán đấu giá để ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản. Việc ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản được tiến hành trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày định giá. Việc bán đấu giá đối với động sản phải được thực hiện trong thời hạn là 30 ngày, đối với bất động sản là 45 ngày, kể từ ngày ký hợp đồng.
Chấp hành viên bán đấu giá tài sản kê biên trong các trường hợp sau đây: Tại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản chưa có tổ chức bán đấu giá hoặc có nhưng tổ chức bán đấu giá từ chối ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản; động sản có giá trị từ 2.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. Việc bán đấu giá đối với động sản phải được thực hiện trong thời hạn là 30 ngày, đối với bất động sản là 45 ngày, kể từ ngày định giá hoặc từ ngày nhận được văn bản của tổ chức bán đấu giá từ chối bán đấu giá.. Chấp hành viên bán không qua thủ tục bán đấu giá đối với tài sản có giá trị dưới 2.000.000 đồng hoặc tài sản tươi sống, mau hỏng.Việc bán tài sản phải được thực hiện trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc, kể từ ngày kê biên. Thủ tục bán đấu giá được thực hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản.
Do vậy, để xác định anh ruột của Chấp hành viên (Chấp hành viên là công chức trực tiếp thi hành vụ việc xử lý tài sản của ông Nguyễn Văn A) có được đăng ký mua đấu giá tài sản thi hành án của ông A không phải phân biệt 02 trường hợp sau đây:
– Trường hợp Chấp hành viên bán đấu giá tài sản kê biên tài sản của ông Nguyễn Văn A, thì anh ruột của Chấp hành viên không được tham gia đấu giá tài sản đó.
– Trường hợp tổ chức có chức năng bán đấu giá tài sản (Trung tâm dịch vụ bán đấu giá hoặc doanh nghiệp có chức năng bán đấu giá tài sản) bán tài sản của ông Nguyễn Văn A theo hợp đồng ủy quyền của Chấp hành viên, thì hiện nay pháp luật không cấm, nên anh ruột của Chấp hành viên được tham gia đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, nếu anh ruột của Chấp hành viên là người trúng đấu giá tài sản thì Chấp hành viên đó phải từ chối thực hiện việc thi hành án này (Thủ trưởng cơ quan thi hành án phải phân công Chấp hành viên khác thực hiện) vì khoản 5 Điều 21 Luật Thi hành án dân sự quy định những việc Chấp hành viên không được làm, trong đó có thực hiện việc thi hành án liên quan đến quyền, lợi ích của bản thân và những người sau đây: Vợ, chồng, con đẻ, con nuôi; cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, bác, chú, cậu, cô, dì và anh, chị, em ruột của Chấp hành viên, của vợ hoặc chồng của Chấp hành viên và cháu ruột mà Chấp hành viên là ông, bà, bác, chú, cậu, cô, dì.
Các văn bản liên quan:
Nghị định 17/2010/NĐ-CP Về bán đấu giá tài sản
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Kỹ sư Tin học liệu có chuyển sang ngạch Chấp hành viên được không?
Tôi muốn hỏi: tôi là kỹ sư Tin học liệu có chuyển sang ngạch Chấp hành viên được không?
Gửi bởi: Nguyễn Hoàng Minh
Trả lời có tính chất tham khảo
Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định theo quy định. Chấp hành viên có ba ngạch là Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp.
Điều 18 Luật Thi hành án dân sự quy định tiêu chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên gồm:
1. Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, trung thực, liêm khiết, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ cử nhân luật trở lên, có sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ được giao thì có thể được bổ nhiệm làm Chấp hành viên.
2. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này và có đủ các điều kiện sau thì được bổ nhiệm làm Chấp hành viên sơ cấp:
a) Có thời gian làm công tác pháp luật từ 03 năm trở lên;
b) Đã được đào tạo nghiệp vụ thi hành án dân sự;
c) Trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên sơ cấp.
3. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này và có đủ các điều kiện sau thì được bổ nhiệm làm Chấp hành viên trung cấp:
a) Có thời gian làm Chấp hành viên sơ cấp từ 05 năm trở lên;
b) Trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên trung cấp.
4. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này và có đủ các điều kiện sau thì được bổ nhiệm làm Chấp hành viên cao cấp:
a) Có thời gian làm Chấp hành viên trung cấp từ 05 năm trở lên;
b) Trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên cao cấp.
5. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 2 Điều này, là sỹ quan quân đội tại ngũ thì được bổ nhiệm làm Chấp hành viên trong quân đội.
Tiêu chuẩn để được bổ nhiệm Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp trong quân đội được thực hiện theo quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều này.
6. Người đang là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên chuyển công tác đến cơ quan thi hành án dân sự có thể được bổ nhiệm làm Chấp hành viên ở ngạch tương đương mà không qua thi tuyển.
7. Trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định, người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này, đã có thời gian làm công tác pháp luật từ 10 năm trở lên thì có thể được bổ nhiệm Chấp hành viên trung cấp hoặc đã có thời gian làm công tác pháp luật từ 15 năm trở lên thì có thể được bổ nhiệm Chấp hành viên cao cấp.
Hiện nay, trong ngành Thi hành án dân sự đang thực hiện việc chuyển ngạch Chấp hành viên (từ ngạch Chấp hành viên cấp huyện, Chấp hành viên cấp tỉnh sang ngạch Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp). Việc chuyển ngạch này áp dụng đối với những người đang là Chấp hành viên. Do đó, nếu bạn là kỹ sư tin học và đồng thời đang là Chấp hành viên thì có thể được chuyển sang ngạch Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp hoặc Chấp hành viên cao cấp. Sau lần chuyển ngạch này sẽ không thực hiện việc chuyển ngạch từ ngạch Chấp hành viên cấp huyện, Chấp hành viên cấp tỉnh sang ngạch Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp, mà phải thực hiện việc thi tuyển Chấp hành viên và thi nâng ngạch Chấp hành viên.
Vì thế, trường hợp bạn là kỹ sư tin học nhưng chưa là Chấp hành viên, có đủ điều kiện dự thi tuyển Chấp hành viên và trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên thì được bổ nhiệm Chấp hành viên và nâng ngạch Chấp hành viên theo quy định.
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Ủy thác trả lại tài sản cho đương sự là không đúng
Cơ quan thi hành án dân sự huyện A gửi hồ sơ ủy thác thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự huyện B (khác tỉnh) về việc trả lại tài sản cho đương sự là một chiếc điện thoại di động theo như bản án của tòa tuyên. Đương sự có hộ khẩu thường trú tại huyện B nhưng cơ quan Thi hành án dân sự huyện B đã gửi trả ngược lại hồ sơ ủy thác cho huyện A, kèm theo biên bản xác minh là đương sự đã bỏ địa phương đi đâu không rõ. Đồng thời cho rằng luật không cho phép ủy thác thi hành án là “tài sản” theo Điều 55 Luật Thi hành án dân sự là đúng hay sai? Mong nhận được tư vấn!
Gửi bởi: nguyễn ngọc phổ
Trả lời có tính chất tham khảo
Điều 57 Luật Thi hành án dân sự về thực hiện ủy thác thi hành án quy định:
1. Trước khi ủy thác, cơ quan thi hành án dân sự phải xử lý xong tài sản tạm giữ, thu giữ, tài sản kê biên tại địa bàn có liên quan đến khoản uỷ thác. Trường hợp Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định thi hành án nhưng xét thấy cần ủy thác thì phải ra quyết định thu hồi một phần hoặc toàn bộ quyết định thi hành án và ra quyết định ủy thác cho nơi có điều kiện thi hành.
2. Cơ quan thi hành án dân sự nhận ủy thác không được trả lại quyết định ủy thác cho cơ quan thi hành án dân sự đã ủy thác mà phải tiếp tục thực hiện việc thi hành án theo quy định của Luật này, trừ trường hợp quyết định ủy thác có sự nhầm lẫn, sai sót rõ ràng về thẩm quyền của cơ quan nhận ủy thác thi hành án, nội dung thi hành án.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án và thông báo bằng văn bản cho cơ quan thi hành án dân sự đã ủy thác về việc nhận được quyết định ủy thác.
Đối chiếu với quy định này thì cơ quan thi hành án dân sự huyện A thụ lý thi hành việc thi hành án chủ động trả lại tài sản cho đương sự là một chiếc điện thoại di động theo như bản án của tòa tuyên. Đây là tài sản tạm giữ hoặc thu giữ có liên quan đến khoản uỷ thác, do đó cơ quan thi hành án dân sự huyện A phải xử lý xong chiếc điện thoại di động theo như bản án của Tòa án tuyên, mà không được ủy thác việc thi hành án này cho cơ quan thi hành án dân sự huyện B. Do vậy, cơ quan thi hành án dân sự huyện B đã gửi trả lại hồ sơ ủy thác thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự huyện A để cơ quan thi hành án dân sự huyện A xử lý việc thi hành án theo thẩm quyền quy định của pháp luật là có cơ sở.
Trong trường hợp này, căn cứ Điều 126 Luật Thi hành án dân sự, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự huyện A ra quyết định trả lại tài sản trong trường hợp bản án, quyết định tuyên trả lại tài sản cho đương sự. Sau khi có quyết định trả lại tài sản, Chấp hành viên thông báo cho đương sự thời gian, địa điểm nhận tài sản.
Hết thời hạn 03 tháng, kể từ ngày được thông báo nhưng đương sự không đến nhận tài sản mà không có lý do chính đáng thì Chấp hành viên xử lý tài sản theo quy định tại các Điều 98, 99 và 101 của Luật này và gửi số tiền thu được theo hình thức tiết kiệm không kỳ hạn, đồng thời thông báo cho đương sự. Hết thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật mà đương sự vẫn không đến nhận số tiền đã được gửi tiết kiệm mà không có lý do chính đáng thì cơ quan thi hành án dân sự làm thủ tục sung quỹ nhà nước. Đối với tài sản không bán được hoặc bị hư hỏng không còn giá trị sử dụng thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định tiêu huỷ và tổ chức tiêu huỷ tài sản theo quy định tại Điều 125 của Luật này.
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Có thể yêu cầu Văn phòng Thừa phát lại thi hành án
Kính gửi Quý cơ quan. Ngân hàng tôi kiện công ty A, tòa án Tp. HCM xử sơ thẩm, sau đó Ngân hàng tôi đã có đơn yêu cầu thi hành án gửi Cục THADS Tp. HCM. Nhưng sau đó Công ty A thỏa thuận với Ngân hàng tôi là sẽ giao tài sản bảo đảm để trừ nợ, chúng tôi đã có đơn xin rút yêu cầu thi hành án, THA Tp. HCM ra quyết định đình chỉ THA. Sau đó phía Công ty A không giao tài sản trừ nợ (không chịu ký công chứng hợp đồng chuyển nhượng tài sản). Vậy xin cho hỏi có cách nào yêu cầu thi hành án lại không. Mong nhận được tư vấn. Xin chân thành cảm ơn Quý cơ quan.
Gửi bởi: Trần Quang Vinh
Trả lời có tính chất tham khảo
Căn cứ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 Luật Thi hành án dân sự về đình chỉ thi hành án thì thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sựphải ra quyết định đình chỉ thi hành án trong trường hợp đương sự có thoả thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự không tiếp tục việc thi hành án. Trong trường hợp này, các bên đương sự không có quyền yêu cầu thi hành án trở lại tại cơ quan thi hành án dân sự, nhưng vẫn được quyền tiếp tục thi hành án không thông qua cơ quan thi hành án dân sự.
Tại khoản 1 Điều 35 của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh quy định: Cùng một nội dung yêu cầu, cùng một thời điểm, người yêu cầu chỉ có quyền làm đơn yêu cầu một Văn phòng Thừa phát lại hoặc cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án. Nghị định số 61/2009/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi hành không quy định về việc Văn phòng Thừa phát lại không được thụ lý các vụ việc thi hành án cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định đình chỉ thi hành án. Vì vậy, đối với trường hợp Ngân hàng anh kiện công ty A, tòa án Tp. HCM xử sơ thẩm, sau đó Ngân hàng anh đã có đơn yêu cầu thi hành án gửi Cục Thi hành án dân sự Tp. HCM, nhưng sau đó Công ty A thỏa thuận với Ngân hàng anh là sẽ giao tài sản bảo đảm để cấn trừ nợ, sau đó Ngân hàng anh đã có đơn xin rút yêu cầu thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự Tp. HCM ra quyết định đình chỉ thi hành án, nhưng sau đó phía Công ty A không giao tài sản cấn trừ nợ (không chịu ký công chứng hợp đồng chuyển nhượng tài sản), thì Ngân hàng anh vẫn có quyền yêu cầu Văn phòng Thừa phát lại tổ chức thi hành.
Hiện nay, tại thành phố Hồ Chí Minh đã thành lập 05 Văn phòng Thừa phát lại, vì vậy Ngân hàng anh có thể làm đơn yêu cầu Văn phòng Thừa phát lại tổ chức thi hành án, tuy nhiên, việc thi hành án phải còn trong thời hiệu yêu cầu thi hành án theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.
Các văn bản liên quan:
Nghị định 61/2009/NĐ-CP Về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Tự nguyện thi hành án có được hưởng quyền lợi gì hay không?
Nếu tự nguyện thi hành án thì tôi có được hưởng quyền lợi gì không?
Gửi bởi: Truong Gia Han
Trả lời có tính chất tham khảo
Hiện nay, không có quy định nào quy định tự nguyện thi hành án được hưởng quyền lợi cụ thể nào, tuy nhiên, nếu tự nguyện thi hành án thì có nhiều lợi ích, như: không bị áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án, lãi suất chậm thi hành án, chi phí cưỡng chế thi hành án.v.v.
Theo quy định tại Điều 9 Luật THADS năm 2008 thì tự nguyện thi hành án là một trong hai biện pháp thi hành án dân sự, cụ thể: “1. Nhà nước khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án. 2. Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật này”. Tự nguyện thi hành án là xuất phát từ phía các bên đương sự, nhằm thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự đã được bản án, quyết định ghi nhận, thể hiện ý chí và sự mong muốn của các đương sự. Mặt khác, tự nguyện thi hành án còn là một biện pháp của Chấp hành viên được áp dụng trong quá trình thi hành án.
Kết quả của tự nguyện thi hành án là tiền đề, là cơ sở, là căn cứ để Chấp hành viên áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án nếu đương sự không tự nguyện thi hành. Tự nguyện thi hành án là biện pháp đầu tiên, quan trọng để các Chấp hành viên thi hành bản án, quyết định trên thực tế. Mặt khác, tự nguyện thi hành án cũng là mục tiêu phấn đấu và cũng là sự mong muốn hướng tới của các cơ quan thi hành án nói chung và của các Chấp hành viên nói riêng bởi hiệu quả của việc tự nguyện thi hành án là rất cao, góp phần giữ vững được sự ổn định tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội trong khu vực, thắt chặt được mối quan hệ đoàn kết, tiết kiệm thời gian, tiền của, công sức và tác động đến ý thức chấp hành pháp luật của công dân. Chủ thể của tự nguyện thi hành án không chỉ là người được thi hành án, người phải thi hành án, mà còn có thể là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
Đối với người được thi hành án, sự tự nguyện của người được thi hành án chính là họ dùng quyền lợi của mình đã được Bản án có hiệu lực pháp luật ghi nhận để thể hiện sự tự nguyện của mình. Sự tự nguyện thi hành án của người được thi hành án thể hiện ở chỗ họ có thể thỏa thuận với người phải thi hành án về thời gian, địa điểm, phương thức thi hành án, nhưng thỏa thuận này không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Việc tự nguyện thi hành án của người được thi hành án cũng được Nhà nước khuyến khích và được thể hiện dưới một cơ chế khác, đó là người được thi hành án cũng có thể đơn phương tự nguyện đồng ý cho bên phải thi hành án hoãn thi hành án, thời gian hoãn do bên được thi hành án quyết định. Hoặc người được thi hành án cũng có thể đơn phương tự nguyện từ bỏ quyền và lợi ích của họ được hưởng theo bản án quyết định, nếu việc từ bỏ này không làm ảnh hưởng đến lợi ích Nhà nước hoặc của người khác. Cả hai trường hợp nói trên, tuy cách xử lý khác nhau nhưng về bản chất đều giống nhau đó là thể hiện việc tự nguyện thi hành án của người được thi hành án.
Đối với người phải thi hành án, khi nói đến tự nguyện thi hành án là chủ yếu nói đến sự tự nguyện thi hành án của người phải thi hành án. Đây là đối tượng thể hiện một cách trực tiếp nhất, cụ thể nhất về bản chất và hình thức của tự nguyện thi hành án. Vì vậy, người phải thi hành án là đối tượng mà các cơ quan thi hành án, các Chấp hành viên đặc biệt quan tâm và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ của mình đối với Quyết định thi hành án. Việc tự nguyện thi hành án của người phải thi hành án có thể được thực hiện đầy đủ, kịp thời và đúng với quyết định thi hành án; cũng có thể họ chỉ tự nguyện thực hiện một phần trong các khoản phải thi hành án. Vì vậy, một mặt, phải ghi nhận sự tự nguyện của người phải thi hành án, mặt khác phải tiếp tục động viên, khuyến khích họ nên có thái độ tự giác, tự nguyện trong việc chấp hành pháp luật.
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Thời hạn thi hành án dân sự là bao lâu?
Tôi sinh năm 1986, năm 1997 thì bố mẹ ly hôn. Về phần tài sản thừa kế, cả bố và mẹ tôi đều đồng ý để tôi sử dụng mảnh đất mà bố tôi đang ở hiện nay. Đến năm tôi 18 tuổi thì bố tôi phải chuyển quyền sử dụng lại cho tôi. Nhưng đến ngày 20/7/2011 tôi có ra phường hỏi về vấn đề này thì được biết phải làm đơn ra tòa để xử lại vì hiệu lực thi hành án chỉ trong vòng 5 năm, tính từ lúc tôi đủ 18 tuổi. Xin hỏi pháp luật quy định như thế nào về thời hạn thi hành án? Hiện nay bố tôi không chịu chuyển quyền sử dụng đất lại cho tôi. Tôi có phải làm đơn ra tòa hay không?
Gửi bởi: PhanHuyHung
Trả lời có tính chất tham khảo
* Nội dung bạn hỏi liên quan đến quy định về thời hiệu yêu cầu thi hành án chứ không phải thời hạn thi hành án.
Thời hiệu yêu cầu thi hành án là thời hạn mà người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án; hết thời hạn đó thì mất quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án theo quy định của Luật Thi hành án dân sự.
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự về thời hiệu yêu cầu thi hành án quy định như sau:
– Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án.
Trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì thời hạn 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn 05 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
– Đối với các trường hợp hoãn, tạm đình chỉ thi hành án theo quy định của Luật này thì thời gian hoãn, tạm đình chỉ không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án, trừ trường hợp người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn thi hành án.
– Trường hợp người yêu cầu thi hành án chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án.
Bạn sinh năm 1986, năm 1997 thì bố mẹ ly hôn, về phần tài sản, cả bố và mẹ bạn đều đồng ý để bạn sử dụng mảnh đất mà bố bạn đang ở hiện nay, đến năm bạn 18 tuổi thì bố bạn phải chuyển quyền sử dụng lại cho bạn. Như vậy, thời hiệu yêu cầu thi hành án đối với nội dung đến năm bạn 18 tuổi thì bố bạn phải chuyển quyền sử dụng lại cho bạn được ấn định là 05 năm kể từ ngày bạn đủ 18 tuổi (2009). Vì vậy, trước năm 2010, bạn chưa yêu cầu thi hành án thì bạn mất quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành bản án đó, trừ trường hợp bạn chứng minh được do có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng dẫn đến việc bạn không yêu cầu thi hành án đúng thời hạn được mà thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng bảo đảm vẫn còn thời hiệu yêu cầu thi hành án.
* Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan được quy định tại khỏan 3 Điều 2 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ “quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự” thuộc một trong các trường hợp sau đây:
– Sự kiện bất khả kháng là trường hợp thiên tai, hỏa hoạn, địch họa.
– Trở ngại khách quan là trường hợp đương sự không nhận được bản án, quyết định mà không phải do lỗi của họ; đương sự đi công tác ở vùng biên giới, hải đảo mà không thể gửi đơn yêu cầu thi hành án đúng hạn; tai nạn, ốm nặng đến mức mất khả năng nhận thức, phải điều trị nội trú hoặc do lỗi của cơ quan xét xử, cơ quan thi hành án dân sự hoặc cơ quan, cá nhân khác dẫn đến việc đương sự không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn hoặc đương sự chết mà chưa xác định được người thừa kế; tổ chức hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể, cổ phần hóa mà chưa xác định được tổ chức, cá nhân mới có quyền yêu cầu thi hành án theo quy định của pháp luật.
Trường hợp do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan dẫn đến việc không thể gửi đơn yêu cầu thi hành án đúng hạn theo quy định thì đương sự có quyền gửi đơn đề nghị Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành án xem xét. Thời gian xảy ra sự kiện bất khả kháng hoặc xảy ra trở ngại khách quan nên không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án.
Đơn đề nghị phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ của người yêu cầu; tên cơ quan thi hành án dân sự nơi yêu cầu; họ, tên địa chỉ của người được thi hành án, người phải thi hành án, nội dung của việc thi hành án, lý do không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn. Kèm theo đơn phải có bản án, quyết định được yêu cầu thi hành và tài liệu chứng minh lý do không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn.
Đối với trường hợp xảy ra thiên tai, hỏa hoạn, địch họa hoặc do đương sự chết mà chưa xác định được người thừa kế hay do trở ngại khách quan khác xảy ra tại địa phương nên không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn thì phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú. Đối với trường hợp do phải chữa bệnh nội trú nên không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn thì phải có xác nhận hoặc giấy nhập viện, xuất viện của tổ chức y tế cấp huyện trở lên. Đối với trường hợp do yêu cầu công tác nên không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn thì phải có xác nhận của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị hoặc giấy cử đi công tác của cơ quan, đơn vị đó. Đối với những trường hợp bất khả kháng, trở ngại khách quan khác nên không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn thì phải có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền hoặc tài liệu hợp pháp khác để chứng minh.
Xác nhận của tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải thể hiện rõ địa điểm, nội dung và thời gian xảy ra sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan dẫn đến việc đương sự không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn.
* Do vậy, nếu có căn cứ chứng minh có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng thì bạn làm đơn đề nghị Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự nơi Tòa án đã xét xử sơ thẩm xem xét không tính thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng vào thời hiệu yêu cầu thi hành án để ra quyết định thi hành án và tổ chức việc thi hành án buộc bố bạn giao đất cho bạn theo nội dung bản án của Tòa án đã tuyên.
Các văn bản liên quan:
Nghị định 58/2009/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Có giải tỏa kê biên đất theo đề nghị của người được thi hành án không?
Những người được thi hành án đều thống nhất đề nghị cho chuyển quyền một phần diện tích đất kê biên cho người đang tranh chấp về tài sản kê biên khởi kiện tại tòa án. Mặc dù phần tài sản còn lại không đủ thi hành án thì Chấp hành viên có thể căn cứ điểm a khoản 1 Điều 105 Luật Thi hành án giải tỏa kê biên đối với phần diện tích đất trên được không?
Gửi bởi: Mai Thị Thu Cúc
Trả lời có tính chất tham khảo
Điều 105 Luật Thi hành án dân sự quy định về giải toả kê biên tài sản như sau:
1. Việc giải toả kê biên tài sản được thực hiện trong các trường hợp sau đây:
a) Đương sự thoả thuận về việc giải toả kê biên tài sản mà không ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba;
b) Đương sự đã thực hiện xong nghĩa vụ thi hành án và các chi phí thi hành án theo quy định của Luật này;
c) Có quyết định của người có thẩm quyền hủy bỏ quyết định kê biên tài sản;
d) Có quyết định đình chỉ thi hành án theo quy định tại Điều 50 của Luật này.
2. Chấp hành viên ra quyết định giải toả kê biên và trả lại tài sản cho người phải thi hành án trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này.
Căn cứ quy định này, những người được thi hành án đều thống nhất đề nghị cho chuyển quyền một phần diện tích đất kê biên cho người đang tranh chấp về tài sản kê biên khởi kiện tại tòa án, thì chưa có cơ sở giải tỏa kê biên đối với phần diện tích đất đó, vì chưa rõ người phải thi hành án có đồng ý không, có ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba không.
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Thống nhất thời gian khấu trừ tiền thu nhập để thi hành án
Theo quy định tại phần 3, mục 3.1, điểm a của công văn số 5847/BHXH-BC ngày 30 tháng 12 năm 2010 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam về việc khấu trừ tiên lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hàng tháng của người hưởng để thi hành án dân sự thì: “BHXH huyện phải làm việc cụ thể và thống nhất bằng văn bản với cơ quan thi hành án dân sự về số tiền khấu trừ lương hàng tháng; thời gian khấu trừ (thời gian bắt đầu và thời gian thực hiện xong khấu trừ) của từng đối tượng…”. Trường hợp này thì mốc thời gian cuối cùng để tính khoản lãi suất chậm thi hành án là thời điểm nào? Vì khi thi hành xong các khoản phải thi hành án thì thời gian có thể sẽ kéo dài trong nhiều năm, mà cơ quan BHXH lại yêu cầu cơ quan thi hành án phải có văn bản thống nhất về “thời gian thực hiện xong khấu trừ”. Vậy có được lấy thời điểm ra quyết định cưỡng chế bằng hình thức khấu trừ trên là thời mốc thời gian cuối để tính lãi suất hay không? Rất mong nhận được câu trả lời sớm của trang tin. Chân thành cảm ơn!
Gửi bởi: Hà
Trả lời có tính chất tham khảo
Lãi suất chậm thi hành án là một khoản thi hành án theo bản án, quyết định của Tòa án. Cách xác định thời điểm và cách tính lãi phát sinh do chậm thi hành án hiện nay căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 305 Bộ luật Dân sự năm 2005, Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997, Công văn số 165/KHXX ngày 18/10/2007 của Tòa án nhân dân tối cao và Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước công bố mức lãi suất cơ bản cho từng thời điểm. Lãi suất chậm thi hành án được tính theo từng loại việc như sau: Kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp chủ động thi hành) và từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án (trường hợp thi hành theo đơn yêu cầu) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chưa thi hành án. Khi tính lãi chậm thi hành án chỉ tính lãi của số tiền còn phải thi hành án, mà không tính lãi của số tiền chưa trả trong quá trình thi hành án.
Do vậy, trong trường hợp bạn hỏi, về nguyên tắc lãi chậm thi hành án phải được tính toán chi trả đối với từng định kỳ thi hành án tại thời điểm cơ quan thi hành án thu được tiền theo quyết định khấu trừ lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hàng tháng của người phải thi hành án, vì thế không phải bất kỳ trường hợp nào cũng có thể xác định cụ thể, chính xác tuyệt đối thời gian thực hiện xong khấu trừ, nên không thể lấy thời điểm ra quyết định cưỡng chế bằng hình thức khấu trừ là thời mốc thời gian cuối để tính lãi suất chậm thi hành án.
Trong trường hợp này, cơ quan thi hành án dân sự có thể thống nhất cụ thể với Bảo hiểm xã hội về số tiền khấu trừ lương hàng tháng, thời gian bắt đầu khấu trừ của từng đối tượng. Đối với “thời gian thực hiện xong khấu trừ”, thì tùy trường hợp cụ thể để thống nhất, ví dụ: chỉ khấu trừ 03 tháng là đủ toàn bộ tiền thi hành án, kể cả lãi chậm thi hành án, thì cơ quan thi hành án thống nhất với Bảo hiểm xã hội huyện thời gian thực hiện xong khấu trừ là hết tháng thứ ba kể từ thời điểm khấu trừ. Trường hợp vụ việc khấu trừ kéo dài nhiều năm, chưa biết cụ thể thời điểm kết thúc do có thể có thay đổi (như: do người phải thi hành án thay đổi nơi nhận tiền lương hưu, trợ cấp hoặc thay đổi mức hưởng tiền lương hưu, trợ cấp), thì cơ quan thi hành án dân sự cần thống nhất với Bảo hiểm xã hội về “thời gian thực hiện xong khấu trừ” khi người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ thi hành án hoặc khi có thay đổi theo thông báo của cơ quan thi hành án.
Các văn bản liên quan:
Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Chủ động thi hành án trong trường hợp người phải thi hành án chết
Trường hợp cơ quan thi hành án đã ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu và đã xác minh người phải thi hành án đã chết. Sau đó toà án mới chuyển giao bản án cho cơ quan thi hành án để ra quyết định thi hành án chủ động. Vậy cơ quan thi hành án có ra quyết định thi hành án chủ động hay không? Nếu ra thì người phải thi hành án là ai? Thông báo thi hành án như thế nào? Cơ sở pháp lý liên quan đến vấn đề này? Biết rằng người phải thi hành án đã chết có để lại di sản. Mong nhận được tư vấn!
Gửi bởi: Phạm xuân Quỳ
Trả lời có tính chất tham khảo
Trường hợp bạn hỏi, pháp luật hiện nay chưa quy định cụ thể, vì thế nên lưu ý, cơ quan thi hành án đã ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu và xác minh cho thấy người phải thi hành án đã chết nhưng có để lại di sản thì thực hiện việc chuyển gaio quyền, nghĩa vụ thi hành án. Theo đó cần phân biệt các trường hợp sau:
1. Nếu chưa xác định được người thừa kế để thực hiện việc chuyển giao quyền, nghĩa vụ thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án phải chủ động ra quyết định thi hành án trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của Tòa án quy định tại khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự đối với người đó.
Cơ quan thi hành án thực hiện việc chuyển giao quyền, nghĩa vụ thi hành án theo quy định tại Điều 54 Luật Thi hành án dân sự và Điều 7 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự:
– Trường hợp thi hành nghĩa vụ về trả tài sản mà người phải thi hành án đã chết nhưng có người đang trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản đó thì cơ quan thi hành án ấn định thời hạn không quá 30 ngày để người quản lý, sử dụng tài sản của người phải thi hành án giao tài sản cho người được thi hành án. Hết thời hạn này mà họ không thực hiện hoặc tài sản không có người quản lý, sử dụng trực tiếp thì cơ quan thi hành án tổ chức giao tài sản, kể cả cưỡng chế giao tài sản cho người được thi hành án theo quy định của pháp luật.
– Trường hợp người phải thi hành nghĩa vụ về thanh toán tiền đã chết mà có để lại tài sản thì cơ quan thi hành án có văn bản thông báo, ấn định thời hạn không quá 30 ngày để người thừa kế hoặc người quản lý di sản của người phải thi hành án thoả thuận thực hiện. Hết thời hạn này, nếu người thừa kế hoặc người quản lý di sản không thoả thuận được việc thực hiện nghĩa vụ của người phải thi hành án, thì cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với tài sản để lại của người phải thi hành án để đảm bảo thi hành án, đồng thời ấn định thời hạn 30 ngày kể từ ngày thông báo để những người liên quan đến tài sản thực hiện quyền khởi kiện. Hết thời hạn này mà không có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án xử lý tài sản để thi hành án theo quy định của pháp luật.
Trường hợp thực hiện được việc chuyển giao quyền, nghĩa vụ thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định thu hồi quyết định thi hành án trước đây. Đối với các quyết định, thông báo khác về thi hành án thì tùy từng trường hợp cụ thể mà cơ quan thi hành án dân sự giữ nguyên, thu hồi hoặc ra các quyết định, thông báo khác phù hợp theo quy định tại khoản 3 Điều 54 Luật Thi hành án dân sự.
2. Trường hợp đã xác định được người thừa kế và thực hiện được việc chuyển giao quyền, nghĩa vụ thi hành án cho người thừa kế, thì tổ chức, cá nhân được chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án có quyền làm đơn yêu cầu thi hành án, phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án đối với cá nhân, tổ chức mới tương ứng với quyền, nghĩa vụ thi hành án được chuyển giao. Tuy nhiên, trong trường hợp này phải bảo đảm thời hạn ra quyết định thi hành án trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định do Tòa án chuyển giao.
Các văn bản liên quan:
Thông tư liên tịch 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Gmail: luatlvn@gmail.com
Xử lý việc thi hành án bồi thường cho cơ quan nhà nước trước ngày 01/7/2004
Tại Chi cục Thi hành án chúng tôi, một số trường hợp Chi cục Thi hành án (trước đây là Đội thi hành án huyện) đã chủ động ra quyết định thi hành án khoản bồi thường cho cơ quan nhà nước từ những năm 1994 và tổ chức thi hành án từ đó đến nay. Trong thời gian có hướng dẫn về việc thông báo cho các cơ quan, tổ chức làm đơn yêu cầu thi hành án trong thời hạn nhất định và nếu không làm đơn thì ra quyết định đình chỉ đối với những trường hợp này. Tuy nhiên, tại Chi cục chúng tôi lại không thực hiện hướng dẫn làm thông báo tại thời điểm trước đó. Nay, những trường hợp phải bồi thường nói trên không có điều kiện để thi hành án. Vậy chúng tôi phải xử lý như thế nào?
Gửi bởi: Hoang Dinh Hung
Trả lời có tính chất tham khảo
Nội dung bạn hỏi liên quan đến vấn đề thực hiện việc thay đổi cơ chế thu hẹp phạm vi loại việc chủ động ra quyết định thi hành án quy định tại Điều 22 Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 14/01/2004 (Thủ trưởng cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành phần bản án, quyết định sau đây: Án phí, lệ phí Toà án, trả lại tiền tạm ứng án phí, lệ phí Toà án. Hình phạt tiền. Tịch thu tài sản, truy thu thuế, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính. Xử lý vật chứng, tài sản đã thu giữ. Thu hồi đất theo quyết định của Toà án. Quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án) so với Điều 20 Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 21/4/1993 (Thủ trưởng cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành bản án, quyết định về trả lại tài sản hoặc bồi thường thiệt hại tài sản xã hội chủ nghĩa, phạt tiền, tịch thu tài sản và án phí; các quyết định khẩn cấp tạm thời để bảo đảm lợi ích cấp thiết của đương sự, bảo đảm cho việc xét xử và thi hành án).
Để giải quyết vướng mắc đối với trường hợp trước đây cơ quan thi hành án đã chủ động ra quyết định thi hành án và tổ chức thi hành mà chưa thi hành xong, nhưng theo quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự 2004 thuộc diện thi hành theo đơn yêu cầu, sau khi trao đổi thống nhất với Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 404/TP-THA ngày 24/02/2005 gửi các Phòng Thi hành án tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tại điểm 1.2 mục 1 Công văn này hướng dẫn: “Trong trường hợp trước đây cơ quan thi hành án đã chủ động ra quyết định thi hành án và tổ chức thi hành mà chưa thi hành xong, nhưng theo quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự 2004 thuộc diện thi hành theo đơn yêu cầu, thì cơ quan thi hành án phải có văn bản hướng dẫn cho người được thi hành làm đơn yêu cầu thi hành án theo quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự 2004.
Trong trường hợp nêu trên, nếu người phải thi hành án không có tài sản để thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án cho người được thi hành án đã có đơn yêu cầu thi hành án.
Trong trường hợp cơ quan thi hành án đã hướng dẫn nhưng người được thi hành án không yêu cầu thi hành án, thì hết thời hạn 3 năm kể từ ngày Pháp lệnh Thi hành án dân sự 2004 có hiệu lực thi hành (01/7/2004), cơ quan thi hành án căn cứ khoản 8 Điều 28 Pháp lệnh này ra quyết định đình chỉ thi hành án”. Tuy nhiên, ngày 27/4/2009 Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 861/QĐ-BTP hủy bỏ Công văn số 404/TP-THA nêu trên.
Trường hợp bạn hỏi, do cơ quan thi hành án không thực hiện hướng dẫn của Bộ Tư pháp nên dẫn đến hậu quả còn tồn những việc thi hành án mà lẽ ra đã được xử lý xong nhưng nay không còn căn cứ để xử lý. Vì vậy, cơ quan thi hành án dân sự cần rà soát, lập danh sách cụ thể các vụ việc còn tồn đó, xác định rõ nguyên nhân, tình trạng vụ việc, lỗi của người có trách nhiệm giải quyết và báo cáo cơ quan cấp trên có thẩm quyền đề nghị hướng dẫn xử lý. Trong trường hợp này, Chi cục Thi hành án dân sự cần báo cáo Cục Thi hành án dân sự để Cục Thi hành án dân sự tổng hợp báo cáo Tổng cục Thi hành án dân sự để Tổng cục Thi hành án dân sự báo cáo đề nghị Lãnh đạo Bộ Tư pháp thống nhất với các cơ quan liên quan hướng dẫn biện pháp thực hiện.
Các văn bản liên quan:
Pháp lệnh 13/2004/PL-UBTVQH11 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS
Tham khảo thêm:
SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ
--- Gọi ngay 1900.0191 ---
(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)
Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam