Có thể yêu cầu ngăn chặn chuyển dịch tài sản?

 


Sau khi bản án có hiệu lực, tôi là nguyên đơn có thể yêu cầu thi hành án ngăn chặn khẩn cấp giao dịch chuyển nhượng trên mọi hình thức đối với căn nhà của bị đơn được hay không? Do căn nhà trên đang thế chấp tại ngân hàng ACB Tân Bình. Cảm ơn Quý cơ quan.

 

Gửi bởi: huynh tan phuong

Trả lời có tính chất tham khảo

 

Tại khoản 1 Điều 66 Luật Thi hành án quy định: Chấp hành viên có quyền tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự áp dụng ngay biện pháp bảo đảm thi hành án nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án.

Như vậy bạn có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành ngăn chặn giao dịch chuyển nhượng.

 

CÔNG TY LUẬT TNHH ĐẠI VIỆT

Địa chỉ: Số 335 Kim Mã – Ba Đình – Hà Nội

Điện thoại: 04.3747 8888 – Email: info@luatdaiviet.vn

 

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: z

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thời hạn miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án

 

 

Theo Thông tư liên tịch 10/2010/TTLT-BTP-BTC-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 25/5/2010 hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước, trong thời hạn bao nhiêu năm thì tôi được miễn giảm tiền phạt và tiền bồi thường cho Nhà nước.

 

Gửi bởi: Lê Trung Quang

Trả lời có tính chất tham khảo

 

Theo Thông tư liên tịch số 10/2010/TTLT-BTP-BTC-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 25/5/2010 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước thì “Khoản thu nộp ngân sách nhà nước” là các khoản tiền thu được phải nộp vào Ngân sách nhà nước gồm: tiền phạt, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, tịch thu sung quỹ nhà nước được xác định trong bản án, quyết định của Toà án.

Thông tư liên tịch 10/2010/TTLT-BTP-BTC-BCA-VKSNDTC-TANDTC không quy định điều kiện, thời gian miễn, giảm đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước vì đã được quy định tại Điều 61 Luật Thi hành án dân sự và Điều 26 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ, cụ thể như sau:

Thứ nhất, Điều 61 Luật Thi hành án dân sự: Điều kiện miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước

“1. Người phải thi hành án không có tài sản để thi hành các khoản thu nộp ngân sách nhà nước thì có thể được xét miễn nghĩa vụ thi hành án khi hết thời hạn sau đây:

a) 05 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án đối với các khoản án phí không có giá ngạch;

b) 10 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án đối với các khoản thu nộp ngân sách nhà nước có giá trị dưới 5.000.000 đồng.

2. Người phải thi hành án đã thi hành được một phần khoản thu nộp ngân sách nhà nước mà không có tài sản để thi hành án thì có thể được xét miễn thi hành phần nghĩa vụ còn lại khi hết thời hạn sau đây:

a) 05 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án mà phần nghĩa vụ còn lại có giá trị dưới 5.000.000 đồng;

b) 10 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án mà phần nghĩa vụ còn lại có giá trị dưới 10.000.000 đồng.

3. Người phải thi hành án đã thi hành được một phần khoản thu nộp ngân sách nhà nước mà không có tài sản để thi hành án thì có thể được xét giảm một phần nghĩa vụ thi hành án sau khi hết thời hạn sau đây:

a) 05 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án mà phần nghĩa vụ còn lại có giá trị từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng;

b) 10 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án mà phần nghĩa vụ còn lại có giá trị từ trên 100.000.000 đồng.

4. Việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án được tiến hành thường xuyên nhưng mỗi người phải thi hành án chỉ được xét miễn hoặc giảm một lần trong 01 năm. Trường hợp một người phải thi hành nhiều khoản nộp ngân sách nhà nước trong nhiều bản án, quyết định khác nhau thì đối với mỗi bản án, quyết định, người phải thi hành án chỉ được xét miễn hoặc giảm thi hành án một lần trong 01 năm”.

Thứ hai, Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ: Miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước

“1. Người phải thi hành nghĩa vụ đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước đã thi hành được ít nhất bằng 1/20 khoản phải thi hành, nhưng giá trị không được thấp hơn mức án phí không có giá ngạch thì được xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61 Luật Thi hành án dân sự.

2. Khoản thu nộp cho ngân sách nhà nước được xét miễn, giảm là khoản nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án. Khi khoản nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định được miễn, giảm thì phần lãi chậm thi hành án trên số tiền được miễn, giảm đương nhiên được miễn.

Khi người phải thi hành án được miễn toàn bộ khoản nghĩa vụ thu nộp cho ngân sách hoặc được giảm đến hết khoản nghĩa vụ thu nộp ngân sách nhà nước theo quyết định thi hành án thì việc thi hành án kết thúc.

3. Mức xét giảm khoản nghĩa vụ thu nộp ngân sách nhà nước được thực hiện như sau:

a) Đối với khoản nghĩa vụ phải thi hành án còn lại có giá trị từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, mỗi lần giảm không quá 1/3 số tiền còn lại phải thi hành án;

b) Đối với khoản nghĩa vụ phải thi hành án còn lại có giá trị từ trên 100.000.000 đồng, mỗi lần giảm không quá 1/5 số tiền còn lại phải thi hành án.

4. Việc lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm khoản nghĩa vụ thu nộp ngân sách nhà nước do cơ quan thi hành án dân sự đang tổ chức việc thi hành án thực hiện. Trường hợp việc thi hành án đang do Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh tổ chức thi hành thì Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm và chuyển cho Tòa án nhân dân cấp huyện nơi Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh đóng trụ sở”.

Trường hợp bạn hỏi, bạn không nêu rõ số tiền phạt là bao nhiêu, bản án có từ khi nào, đã ra quyết định thi hành án chưa, bạn đã thi hành được bao nhiêu, nên chúng tôi không thể trả lời cụ thể bao nhiêu năm thì bạn được miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án. Mặt khác, khoản tiền bồi thường cho Nhà nước đó là khoản gì, bạn đối chiếu với quy định nêu trên để xác định có thuộc diện được miễn, giảm không; nếu không phải là khoản truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, tịch thu sung quỹ nhà nước được xác định trong bản án, quyết định của Toà án, thì không được miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án. Bạn căn cứ các quy định nêu trên để tự xác định cho trường hợp của mình.

 

 

Các văn bản liên quan:

Nghị định 58/2009/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Thông tư liên tịch 10/2010/TTLT-BTP-BTC-BCA-VKSNDTC-TANDTC Hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Có quyền kê biên tài sản đã được chia khi ly hôn để thi hành án trả tiền chênh lệch không?

 

 

Tại Bản án số 24/2010/DSPT ngày 27/05/2010 của TAND tỉnh Bắc Ninh về việc ly hôn. Theo bản án chị Lê Thị Quýt được sở hữu, sử dụng 01 ngôi nhà cấp bốn nằm trên diện tích 60m2 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên anh Trần Văn Toàn, nhưng phải trích trả anh Trần Văn Toàn số tiền chênh lệch chia tài sản là: 217.328.000đ. Ngày 01/07/2010 anh Trần Văn Toàn có đơn đề nghị đến cơ quan thi hành án dân sự thi hành số tiền 217.328.000đ. Cơ quan thi hành án đã nhiều lần đôn đốc thuyết phục chị Quýt thi hành số tiền trên nhưng chị Quýt không tự nguyện thi hành. Vậy, cơ quan thi hành án có thể kê biên cưỡng chế thửa đất trên để đảm bảo cho việc thi hành án hay không?

 

Gửi bởi: Nguyễnn Thị Điệp

Trả lời có tính chất tham khảo

 

Trong trường hợp bạn hỏi, bản án của Tòa án đã quyết định chị Lê Thị Quýt được sở hữu, sử dụng 01 ngôi nhà cấp bốn nằm trên diện tích 60m2, thì như vậy tài sản này của chị Quýt. Chị Quýt phải thi hành nghĩa vụ trả tiền trích trả anh Trần Văn Toàn số tiền chênh lệch chia tài sản là 217.328.000 đồng. Anh Toàn đã có đơn yêu cầu thi hành án, cơ quan thi hành án đã nhiều lần đôn đốc, thuyết phục chị Quýt thi hành số tiền trên nhưng chị Quýt không tự nguyện thi hành án, thì Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự có quyền kê biên tài sản mà Tòa án đã xác định tài sản đó là của người phải thi hành án để đảm bảo thi hành án.

Tuy nhiên, cần lưu ý là theo quy định tại khoản 1 Điều 95 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 thì việc kê biên nhà ở là nơi ở duy nhất của người phải thi hành án và gia đình chỉ được thực hiện sau khi xác định người đó không có các tài sản khác hoặc có nhưng không đủ để thi hành án, trừ trường hợp người phải thi hành án đồng ý kê biên nhà ởđể thi hành án.

 

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Đã trả đơn yêu cầu thi hành án thì tính lãi suất chậm thi hành án từ khi nào?

 

 

Bản án tuyên ông A trả cho ông B số tiền cụ thể và lãi suất chậm thi hành án kể từ ngày ông A có đơn yêu cầu thi hành án. Cơ quan thi hành án đã thụ lý và ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu. Trong thời gian tổ chức thi hành, ông B đã trả được 1/2 số tiền, cơ quan thi hành án tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của ông B, kết quả ông B chưa có điều kiện thi hành án và đã trả lại đơn yêu cầu thi hành án cho ông A từ tháng 3/2003 đến 12/2009 cơ quan thi hành án đã thụ lí lại vì ông B đã có điều kiện thi hành án trở lại. Trong thời gian từ 3/2003 đến 12/2009 cơ quan thi hành án có được tính lãi suất chậm trả đối với ông B không? Có được truy thu tiền cấp dưỡng nuôi con khi đứa bé đã trưởng thành? (trước đây thi hành án đã trả lại đơn yêu cầu và đến khi đứa bé đã trưởng thành bên phải thi hành án có điều kiện thi hành án trở lại, đồng thời thi hành án đã thụ lí trở lại – ra quyết định)

 

Gửi bởi: La Van Nhieu

Trả lời có tính chất tham khảo

Theo quy định tại khoản 1 Mục III Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản có quy định về tính lãi suất chậm thi hành án: “Để bảo đảm quyền lợi cho bên được thi hành án, hạn chế việc bên phải thi hành án cố tình dây dưa, không tự nguyện thi hành án, cùng với việc quyết định khoản tiền mà bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán cho bên được thi hành án, khoản tiền phải nộp để đưa vào ngân sách Nhà nước (tiền tịch thu, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính, tiền phạt), toà án phải quyết định rõ trong bản án hoặc quyết định là kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật Dân sự (nay là “lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố” quy định tại khoản 2 Điều 305 Bộ luật Dân sự năm 2005 thay cho “lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định” theo quy định tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật Dân sự năm 1995), trừ trường hợp được hướng dẫn tại khoản 3 phần 1 Thông tư này về các khoản vay của tổ chức Ngân hàng, tín dụng. Khi tính lãi chỉ tính lãi số tiền còn phải thi hành án, mà không tính lãi của số tiền lãi chưa trả trong quá trình thi hành án”.

Pháp luật hiện nay không có quy định nào về trường hợp việc thi hành án đã trả đơn yêu cầu thi hành án do người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án trong thời gian trả đơn yêu cầu thi hành án. Vì thế, trong trường hợp nêu trên, lãi suất chậm thi hành án được tính đối với số tiền còn phải thi hành án kể từ khi người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án (được hiểu là từ lần đầu, chứ không phải lần sau). Nguyên tắc thanh toán tiền thi hành án khi thu được tiền, thì phải thanh toán khoản lãi trước rồi đến tiền gốc. Do vậy, ông B đã thi hành án được ½ số tiền (bao gồm cả tiền tiền lãi) trước khi trả đơn yêu cầu thi hành án, thì lãi suất chậm thi hành án đối với số tiền gốc còn phải thi hành án được tính từ sau tháng thanh toán tiền thi hành án đến khi thi hành xong.

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Thông tư liên tịch 01/TTLT Hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

 Yêu cầu Toà án chia di sản để thi hành án

 

 

Ông A là người phải thi hành án, có tài sản là 01 ngôi nhà gắn liền với quyền sử dụng đất đứng tên hai vợ chồng ông A. Quá trình đôn đốc thi hành án, vợ ông A đã gửi đơn khởi kiện chia tài sản chung của 2 vợ chồng. Toà án đã thụ lý đơn nhưng chưa xét xử thì vợ ông A chết. Do vậy, Toà án đã đình chỉ việc khởi kiện chia tài sản chung. Nay cơ quan THA muốn kê biên tài sản chung của vợ chồng ông A thì có phải hướng dẫn các con của vợ chồng ông A khởi kiện ra Toà để chia di sản không?

 

Gửi bởi: Nguyễn Minh Huệ

Trả lời có tính chất tham khảo

Trong trường hợp nêu trên, khi vợ ông A chết thì Tòa án đình chỉ vụ kiện phân chia tài sản chung của vợ chồng ông A do vợ ông A đã khởi kiện là có cơ sở. Tuy nhiên, lại phát sinh việc thừa kế tài sản của vợ ông A cho những người thừa kế của vợ ông A (như: ông A và các con của vợ chồng ông A), vì vậy cơ quan thi hành án kê biên phần tài sản của ông A trong khối tài sản chung đó thì phải xác định rõ những người được thừa kế tài sản của vợ ông A. Sau khi xác định đầy đủ những người được thừa kế tài sản của vợ ông A, cơ quan thi hành án áp dụng Điều 74 Luật Thi hành án dân sự để cưỡng chế đối với tài sản chung. Trước khi cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung của người phải thi hành án với người khác, kể cả quyền sử dụng đất, Chấp hành viên phải thông báo cho chủ sở hữu chung biết việc cưỡng chế. Chủ sở hữu chung có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án xác định phần sở hữu của họ đối với tài sản chung (trong vụ việc trên là chia thừa kế). Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, nếu chủ sở hữu chung không khởi kiện thì người được thi hành án hoặc Chấp hành viên có quyền yêu cầu Toà án xác định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để bảo đảm thi hành án.

Tài sản kê biên thuộc sở hữu chung đã xác định được phần sở hữu của các chủ sở hữu chung được xử lý như sau:

a) Đối với tài sản chung có thể chia được thì Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế phần tài sản tương ứng với phần sở hữu của người phải thi hành án.

b) Đối với tài sản chung không thể chia được hoặc nếu việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với toàn bộ tài sản và thanh toán lại cho chủ sở hữu chung còn lại giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu của họ.

Khi bán tài sản chung, chủ sở hữu chung được quyền ưu tiên mua tài sản.

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thẩm định lại giá tài sản để tiếp tục bán đấu giá theo yêu cầu của người phải thi hành án

 

 

Trường hợp tài sản bán đấu giá đã giảm thấp hơn chi phí cưỡng chế thi hành án nhưng người phải thi hành án yêu cầu thẩm định lại giá tài sản trên, tiếp tục bán đấu giá theo giá đã thẩm định có được giải quyết?

 

Gửi bởi: Nguyễn Khánh Vinh

Trả lời có tính chất tham khảo

Điều 104 Luật Thi hành án dân sự 2008 quy định xử lý tài sản bán đấu giá không thành, theo đó trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày bán đấu giá không thành mà đương sự không yêu cầu định giá lại thì Chấp hành viên ra quyết định giảm giá tài sản để tiếp tục bán đấu giá. Mỗi lần giảm giá không quá mười phần trăm giá đã định. Trường hợp giá tài sản đã giảm thấp hơn chi phí cưỡng chế mà người được thi hành án không nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án thì tài sản được trả lại cho người phải thi hành án.

Trong trường hợp này, Luật Thi hành án dân sự 2008 lại không quy định rõ là cần có thỏa thuận của các bên đương sự không hay chỉ cần người được thi hành án đồng ý là Chấp hành viên cơ quan thi hành án thực hiện việc giao tài sản cho người đó để trừ vào số tiền được thi hành án; thế nhưng, hiện nay các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật này cũng không quy định cụ thể thêm vấn đề này. Trong khi đó tại điểm b khỏan 1 Điều 99 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Đương sự có yêu cầu định giá lại trước khi có thông báo công khai về việc bán đấu giá tài sản”. Vì vậy, trường hợp tài sản bán đấu giá đã giảm thấp hơn chi phí cưỡng chế nhưng người phải thi hành án yêu cầu thẩm định lại giá tài sản, tiếp tục bán đấu giá theo giá đã thẩm định thì cơ quan thi hành án cần thực hiện việc định giá lại, tiếp tục bán đấu giá tài sản theo yêu cầu của đương sự.

Người phải thi hành án có yêu cầu thẩm định giá phải chịu chi phí thẩm định giá lại tài sản. Người được thi hành án có quyền đăng ký mua tài sản đấu giá, nếu không có ai đăng ký mua tài sản ngoài người được thi hành án, thì việc bán đấu giá tài sản trong trường hợp chỉ có một người tham gia đấu giá được thực hiện theo quy định tại khỏan 2 Điều 37 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/03/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản: Trong trường hợp đã hết thời hạn đăng ký tham gia đấu giá tài sản mà chỉ có một người đăng ký mua tài sản bán đấu giá hoặc có nhiều người đăng ký tham gia đấu giá nhưng chỉ có một người tham gia cuộc bán đấu giá và trả giá ít nhất bằng giá khởi điểm thì tài sản được bán cho người đó, nếu người có tài sản bán đấu giá đồng ý. Việc bán tài sản trong trường hợp này chỉ được tiến hành sau khi đã thực hiện đầy đủ việc niêm yết, thông báo công khai, trưng bày tài sản và không có khiếu nại liên quan đến trình tự, thủ tục cho đến khi quyết định bán tài sản”.

Các văn bản liên quan:

Nghị định 17/2010/NĐ-CP Về bán đấu giá tài sản

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

 Có phải ra quyết định tiếp tục trước khi ra quyết định đình chỉ thi hành án không?

 

 

Trường hợp hồ sơ thi hành án đang hoãn mà người phải thi hành án chết thì có phải ra quyết định tiếp tục trước khi ra quyết định đình chỉ thi hành án không?

 

Gửi bởi: nguyen bich ngoc

Trả lời có tính chất tham khảo

 

Trường hợp bạn hỏi, cần lưu ý hai trường hợp:

1. Nếu người phải thi hành án chết mà có để lại di sản hoặc theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của người đó theo bản án, quyết định được chuyển giao cho người thừa kế, thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án phải ra quyết định tiếp tục thi hành án khi không còn căn cứ hõan thi hành án theo quy định tại khoản 5 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ khi căn cứ hoãn thi hành án quy định tại khoản 1 Điều này không còn, hết thời hạn hoãn thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khi nhận được văn bản trả lời của người có thẩm quyền kháng nghị về việc không có căn cứ kháng nghị thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định tiếp tục thi hành án) để tổ chức việc thi hành án. Khi đã tổ chức thi hành án hết tài sản do người phải thi hành án để lại tương ứng với phần nghĩa vụ hoặc đã thực hiện xong nghĩa vụ của người đó theo bản án, quyết định được chuyển giao cho người thừa kế (lưu ý phải thực hiện theo quy định về chuyển giao quyền, nghĩa vụ thi hành án), thì Thủ trưởng cơ quan thi hành ra quyết định đình chỉ thi hành án đối với phần nghĩa vụ thi hành án còn lại đó.

2. Trường hợp người phải thi hành án chết không để lại di sản hoặc theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của người đó theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế, thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sựphải ra quyết định đình chỉ thi hành án theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 50 Luật Thi hành án dân sự mà không ra quyết định tiếp tục thi hành án trước khi ra quyết định đình chỉ thi hành án.

 

 

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Người phải thi hành án phải chịu chi phí xác minh điều kiện thi hành án

 

 

Tôi là người được thi hành án 300.000.000 đồng từ ông Nguyễn Văn Bảy theo bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Tôi làm đơn yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự thi hành án cho tôi, thì Chi cục Thi hành án dân sự yêu cầu tôi phải có tài liệu chứng minh đã xác minh điều kiện thi hành án của ông Bảy, nếu không có thì phải đề nghị cơ quan thi hành án xác minh điều kiện thi hành án và phải chịu chi phí xác minh. Như vậy có đúng không?

 

Gửi bởi: Nguyễn Thị Mai

Trả lời có tính chất tham khảo

 

Trách nhiệm xác minh điều kiện thi hành án của người được thi hành án là một loại quy định mới được thực hiện theo Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Đây là quy định nhằm nâng cao vai trò và trách nhiệm của người được thi hành án trong hoạt động thi hành án dân sự, giảm tải một phần công việc cho cơ quan thi hành án dân sự và góp phần bảo đảm cho hoạt động thi hành án dân sự hiệu quả hơn.

Tại khoản 1 Điều 44 Luật Thi hành án dân sự có quy định “trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu, nếu người được thi hành án đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà không thể tự xác minh được điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì có thể yêu cầu Chấp hành viên tiến hành xác minh. Việc yêu cầu này phải được lập thành văn bản và phải ghi rõ các biện pháp đã được áp dụng nhưng không có kết quả, kèm theo tài liệu chứng minh”. Điểm a khoản 2 Điều 73 Luật Thi hành án dân sự còn quy định người được thi hành án phải chịu “Chi phí xác minh theo quy định tại khoản 1 Điều 44 của Luật này”. Tại khoản 1 Điều 31 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ về chi phí cưỡng chế thi hành án cũng có quy định: Người được thi hành án có yêu cầu Chấp hành viên xác minh điều kiện thi hành án phải trả các chi phí thực tế, hợp lý cho việc xác minh. Chi phí xác minh điều kiện thi hành án do Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Tài chính quy định cụ thể.

Như vậy, nếu bà không có tài liệu chứng minh đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà không thể tự xác minh được điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, thì Chi cục Thi hành án dân sự yêu cầu bà phải có tài liệu chứng minh đã xác minh điều kiện thi hành án của ông Bảy, nếu không có thì phải đề nghị cơ quan thi hành án xác minh điều kiện thi hành án và phải chịu chi phí xác minh. Tuy nhiên, đến nay Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Tài chính quy định cụ thể các chi phí thực tế, hợp lý cho việc xác minh mà người được thi hành án phải chịu trong trường hợp này.

Các văn bản liên quan:

Nghị định 58/2009/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

 Thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với hành vi của Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự

 

 

Tôi khiếu nại đối với hành vi của 1 Chấp hành viên. Tôi được biết chấp hành viên này đồng thời là Cục trưởng Cục thi hành án dân sự. Vậy ai là người giải quyết khiếu nại lần đầu cho tôi?

 

Gửi bởi: Trần Văn Mai

Trả lời có tính chất tham khảo

Khoản 3 Điều 142 Luật Thi hành án dân sự 2008 quy định Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại quyết định, hành vi trái pháp luật của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh; khiếu nại đối với quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh.

Theo quy định tại Điều 2 Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09/9/2009 của Chính phủ quy định hệ thống tổ chức thi hành án dân sự, cơ quan quản lý thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp là Tổng cục Thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh là Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Như vậy, căn cứ các quy định nêu trên, khiếu nại đối với hành vi do Chấp hành viên là Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự thì Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp là người giải quyết lần đầu. Nguyên tắc xác định thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự là người đã ra quyết định hoặc thực hiện hành vi bị khiếu nại không được tự mình giải quyết khiếu nại, mà phải là cấp trên để đảm bảo việc giải quyết khiếu nại được khách quan. Nguyên tắc này được thể hiện rất rõ ở Điều 142 Luật Thi hành án dân sự năm 20008 quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại về thi hành án.

Các văn bản liên quan:

Nghị định 74/2009/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thỏa thuận mức trừ vào thu nhập để thi hành án

 

 

Cho hỏi: Qui định về cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án. Người được và người phải thi hành án thỏa thuận khấu trừ 50% tiền lương để thi hành án, như vậy có trái với qui định tại khoản 3 Điều 78 Luật THADS năm 2008 hay không? (Ngoài tiền lương không còn khoản thu nhập nào khác)

 

Gửi bởi: alongshop

Trả lời có tính chất tham khảo

Điều 78 Luật Thi hành án dân sự 2008 quy định biện pháp cưỡng chế: Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.

1. Thu nhập của người phải thi hành án gồm tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao động và thu nhập hợp pháp khác.

2. Việc trừ vào thu nhập của người phải thi hành án được thực hiện trong các trường hợp sau đây:

a) Theo thỏa thuận của đương sự;

b) Bản án, quyết định ấn định trừ vào thu nhập của người phải thi hành án;

c) Thi hành án cấp dưỡng, thi hành án theo định kỳ, khoản tiền phải thi hành án không lớn hoặc tài sản khác của người phải thi hành án không đủ để thi hành án.

3. Chấp hành viên ra quyết định trừ vào thu nhập của người phải thi hành án. Mức cao nhất được trừ vào tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao động là 30% tổng số tiền được nhận hàng tháng, trừ trường hợp đương sự có thoả thuận khác. Đối với thu nhập khác thì mức khấu trừ căn cứ vào thu nhập thực tế của người phải thi hành án, nhưng phải đảm bảo điều kiện sinh hoạt tối thiểu của người đó và người được nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật.

4. Cơ quan, tổ chức, người sử dụng lao động, Bảo hiểm xã hội nơi người phải thi hành án nhận tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp và các thu nhập hợp pháp khác có trách nhiệm thực hiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.

Như vậy, người được và người phải thi hành án thỏa thuận khấu trừ 50% tiền lương để thi hành án, thì không trái với quy định tại khoản 3 Điều 78 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

 Thời điểm tính lãi suất chậm thi hành án trong trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu

 

 

Bản án kinh tế của Tòa án tối cao xét xử năm 2007 tuyên Công ty A phải bồi thường cho Công ty B là 100 triệu đồng. Năm 2010, Công ty B (bên được thi hành án) mới làm đơn yêu cầu thi hành án theo nội dung bản án. Đề nghị hướng dẫn thời điểm tính lãi suất: Tính lãi suất kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật (vì đơn làm trong thời hiệu yêu cầu thi hành án) hay chỉ tính từ thời điểm có đơn yêu cầu thi hành án.

 

Gửi bởi: Thien Bach

Trả lời có tính chất tham khảo

Theo quy định tại khoản 1 mục III Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản, thì để bảo đảm quyền lợi cho bên được thi hành án, hạn chế việc bên phải thi hành án cố tình dây dưa, không tự nguyện thi hành án, cùng với việc quyết định khoản tiền mà bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán cho bên được thi hành án, khoản tiền phải nộp để đưa vào ngân sách Nhà nước (tiền tịch thu, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính, tiền phạt), toà án phải quyết định rõ trong bản án hoặc quyết định là kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án… Khi tính lãi chỉ tính lãi số tiền còn phải thi hành án, mà không tính lãi của số tiền lãi chưa trả trong quá trình thi hành án.

Đối chiếu với quy định nêu trên, trường hợp Công ty A phải bồi thường cho Công ty B là 100 triệu đồng như bạn nêu, lãi suất chậm thi hành án tính kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (Công ty B).

Các văn bản liên quan:

Thông tư liên tịch 01/TTLT Hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thời hiệu yêu cầu thi hành án đối với nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con

 

 

Cho hỏi: Thời hiệu yêu cầu thi hành án đối với nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con trong Bản án hôn nhân gia đình tính như thế nào? Ví dụ: A phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho B 500.000 đồng/tháng. Án có hiệu lực pháp luật từ ngày 01/02/2005, nhưng đến ngày 01/8/2010 B mới có đơn yêu cầu thi hành án (không rơi vào trường hợp qui định tại khoản 3 Điều 30 Luật THADS năm 2008), vậy thì cơ quan thi hành án xử lý như thế nào?

Có hai quan điểm:

– Quan điểm thứ nhất:Từ chối nhận đơn yêu cầu do hết thời hiệu yêu cầu thi hành án theo qui định tại khoản 1 Điều 30 Luật THADS năm 2008.

– Quan điểm thứ hai: Vẫn nhận đơn và ra quyết định thi hành án theo qui định và trừ khoản thời gian từ tháng 01/2005 đến tháng 7/2005. Tức là ra quyết định thi hành án với nghĩa vụ cấp dưỡng từ ngày 01/8/2005.

Vậy quan điểm nào là đúng? Mong được hồi đáp. Chân thành cảm ơn!

 

Gửi bởi: alongshop

Trả lời có tính chất tham khảo

Điều 30 Luật Thi hành án dân sự 2008 quy định về thời hiệu yêu cầu thi hành án, theo đó trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án. Trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì thời hạn 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn.

Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn 05 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn.

Đối với các trường hợp hoãn, tạm đình chỉ thi hành án theo quy định của Luật này thì thời gian hoãn, tạm đình chỉ không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án, trừ trường hợp người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn thi hành án. Trường hợp người yêu cầu thi hành án chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án.

Trong trường hợp theo bản án hoặc quyết định của Tòa án A phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho B 500.000 đồng/tháng như bạn nêu thì bản án, quyết định đó thi hành theo định kỳ từng tháng (500.000 đồng/tháng). Án có hiệu lực pháp luật từ ngày 01/02/2005, nhưng đến ngày 01/8/2010 B mới có đơn yêu cầu thi hành án, vì vậy thời hạn yêu cầu thi hành án là 05 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn. Do đó, quan điểm 2 là đúng.

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bảng quy định giá các loại đất trên địa bàn cấp tỉnh chỉ là một trong những căn cứ để xác định giá tài sản thu phí thi hành án

 

 

Bản án của Toà án nhân dân tỉnh H đã tuyên ông Nguyễn Văn A phải trả cho bà Trần Thị B diện tích 1090m2 đất nông nghiệp có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số LG ngày…tháng…năm…, nhưng không tuyên giá trị tài sản là bao nhiêu.

Hỏi : Khi thụ lý hồ sơ, ra Quyết định thi hành án, cơ quan thi hành án có phải tạm ước tính giá trị tài sản để lập Bảng xác định không? Và sau khi giải quyết giao đất cho bà B xong cơ quan thi hành án có phải thành lập Hội đồng định giá, định giá tài sản để thu phí thi hành án không hay chỉ cần dựa vào Bảng quy định giá các loại đất trên địa bàn tỉnh H do UBND tỉnh H quyết định ban hành để làm căn cứ xác định thu phí thi hành án?

 

Gửi bởi: Mai Thị Hoà

Trả lời có tính chất tham khảo

 

Hiện nay, việc định giá tài sản để thu phí thi hành án thực hiện theo Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và điểm b khoản 2 mục 2 Thông tư liên tịch số 68/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 21/7/2008 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp (nay là Thông tư liên tịch số 144/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 22/9/2010, có hiệu lực kể từ ngày 06/11/2010) hướng dẫn chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án có quy định trường hợp giao tài sản: Trong thời hạn không quá 15 (mười lăm) ngày làm việc trước ngày dự kiến giao trả tài sản, cơ quan thu phí có trách nhiệm ra thông báo thu phí thi hành án mà người được thi hành án phải nộp theo hướng dẫn tại Thông tư này.

– Nếu quyết định của Toà án không tuyên giá trị tài sản hoặc có tuyên nhưng không còn phù hợp (thay đổi quá 20%) so với giá thị trường tại thời điểm thu phí thì cơ quan thu phí lập Hội đồng định giá tài sản (theo Thông tư liên tịch số 144/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 22/9/2010 là tổ chức định giá tài sản) để xác định phí thi hành án phải nộp của người được thi hành án. Chi phí định giá do cơ quan thi hành án chi trả từ nguồn phí thi hành án được để lại.

– Nếu giao tài sản mà người được thi hành án chưa nộp phí thi hành án, cơ quan thu phí có thể kê biên, phong toả tài sản được thi hành án và ấn định thời hạn không quá 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày giao trả tài sản để người được thi hành án nộp phí thi hành án. Quá thời hạn trên, người được thi hành án không nộp phí thi hành án thì cơ quan thu phí có quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế để thi hành án, bao gồm cả việc bán đấu giá tài sản đã giao cho người được thi hành án để bảo đảm thu hồi tiền phí thi hành án. Chi phí định giá, bán đấu giá tài sản do người được thi hành án chi trả.

Việc định giá, định giá lại tài sản và bán đấu giá tài sản để thu hồi tiền phí thi hành án được thực hiện theo quy định của pháp luật về định giá, bán đấu giá tài sản để thi hành án.

Trong trường hợp tổ chức thẩm định giá thực hiện việc thẩm định giá, thì theo quy định tại Nghị định số 101/2005/NĐ-CP ngày 03/8/2005 của Chính phủ về thẩm định giá và Thông tư số 17/2006/TT-BTC ngày 13/3/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định số 101/2005/NĐ-CP quy định tổ chức thẩm định giá chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động nghề nghiệp và kết quả thẩm định giá.

Việc xử lý tranh chấp về kết quả thẩm định giá thực hiện theo Điều 23 Nghị định số 101/2005/NĐ-CP nêu trên như sau: Bên cung cấp dịch vụ thẩm định giá và bên sử dụng kết quả thẩm định giá phải có trách nhiệm thực hiện những cam kết đã ghi trong hợp đồng. Việc giải quyết tranh chấp phát sinh trong thực hiện hợp đồng thẩm định giá được thực hiện theo quy định của pháp luật về hợp đồng. Trường hợp có tranh chấp về kết quả thẩm định giá thì các bên tiến hành thủ tục xử lý tranh chấp theo một trong hai hình thức sau: Thoả thuận với nhau để giải quyết. Thẩm định lại: Trong trường hợp không công nhận kết quả thẩm định giá của chứng thư thẩm định giá ban đầu thì bên yêu cầu thẩm định giá có quyền yêu cầu doanh nghiệp thẩm định giá khác thẩm định lại và phải trả tiền dịch vụ thẩm định giá. Nếu chứng thư thẩm định giá lại phù hợp với kết quả của chứng thư thẩm định giá ban đầu thì chứng thư thẩm định giá ban đầu có giá trị cuối cùng. Nếu doanh nghiệp thẩm định giá ban đầu hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầuthẩm định lại không thừa nhận kết quả thẩm định lại thì các bên có thể thoả thuận giải quyết bằng trọng tài theo quy định của pháp luật về trọng tài thương mại hoặc toà án theo quy định của pháp luật.

– Trong trường hợp Chấp hành viên xác định giá do không ký được hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá, thì căn cứ khoản 2 Điều 15 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ, Chấp hành viên tham khảo ý kiến của cơ quan tài chính, cơ quan chuyên môn có liên quan trước khi xác định giá của tài sản kê biên. Việc tham khảo ý kiến của cơ quan tài chính, cơ quan chuyên môn có liên quan trước khi xác định giá của tài sản để thu phí thi hành án có thể thực hiện thông qua việc Chấp hành viên mời Hội đồng định giá gồm Chấp hành viên là Chủ tịch Hội đồng, đại diện cơ quan tài chính, cơ quan chuyên môn có liên quan là thành viên. Tuy nhiên, giá do Hội đồng đưa ra cũng chỉ là căn cứ để Chấp hành viên xác định giá tài sản, Chấp hành viên phải chịu trách nhiệm về việc xác định giá tài sản.

Giá trị của tài sản được định phải theo giá thị trường tại thời điểm định giá. Bảng khung giá các loại đất do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành chỉ là một trong những căn cứ để Chấp hành viên xác định giá của quyền sử dụng đất.

Thực tế cho thấy, đối với quyền sử dụng đất thì giá được định thường là giá bằng hoặc cao hơn (không thấp hơn) khung giá các loại đất do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, trong hồ sơ định giá của Chấp hành viên phải thể hiện là định giá theo giá thị trường, trong đó có căn cứ khung giá các loại đất do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành áp dụng tại thời điểm định giá.

Các văn bản liên quan:

Thông tư liên tịch 144/2010/TTLT-BTC-BTP Hướng dẫn về chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án dân sự

Nghị định 58/2009/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Nghị định 101/2005/NĐ-CP Về thẩm định giá

Thông tư liên tịch 68/2008/TTLT-BTC-BTP Hướng dẫn chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án

Thông tư 17/2006/TT-BTC Hướng dẫn thực hiện Nghị định số 101/2005/NĐ-CP ngày 03 tháng 8 năm 2005 của Chính phủ về Thẩm định giá

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thanh toán tiền thi hành án cho khoản đã có quyết định thi hành án

 

 

Theo bản án số 05/HSST, ngày 12/3/2010 của Tòa án nhân dân huyện Lai Vung tỉnh Đồng Tháp có hiệu lực thi hành, bị cáo Nguyễn Văn A có nghĩa vụ nộp án phí HSST là 200.000đ và án phí DSST là 3.900.000đ, bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tổn thất tinh thần cho ông B là 78.000.000đ, tiếp tục quản lý xe mô tô BS: 66K1 – 2671 để đảm bảo THA. Tòa án Lai Vung chuyển bản án sang cho Chi cục THADS để ra quyết định thi hành. Chi cục THADS Lai Vung ra quyết định phần chủ động giao CHV thi hành, CHV đã bán chiếc xe theo quy định và thu hết cho phần án phí, mãi đến khoảng 03 tháng sau thì người bị hại mới làm đơn để yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 78.000.000đ. Hỏi CVH bán xe của bị cáo đã thu hết cho phần án phí mà không thực hiện theo thứ tự ưu tiên như vậy có đúng không. Theo thứ tự ưu tiên thì tiền bồi thường sức khỏe, tổn thất tinh thần trước phần án phí, nhưng CHV giải thích là do người bị hại chưa làm đơn yêu cầu nên khi bán xe CHV kê biên cho quyết định chủ động thì chỉ thanh toán cho quyết định đó.

 

Gửi bởi: Võ Thành Trí

Trả lời có tính chất tham khảo

Căn cứ điểm a và b khoản 1 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự 2008 quy định thứ tự thanh toán tiền thi hành án thì đối với khoản tiền bồi thường thiệt hại về sức khoẻ, tổn thất về tinh thần được ưu tiên thanh toán trước khoản tiền án phí. Để quyền ưu tiên này thực hiện được còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như: Nội dung bản án, quyết định của Tòa án;người được thi hành án có hay không yêu cầu thi hành án; thời điểm ra quyết định thi hành án và thanh tóan tiền thi hành án; thỏa thuận của các đương sự.v.v.

Khỏan tiền án phí là khỏan thuộc diện Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành theo quy định tại khỏan 1 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự; trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định thi hành án. Khoản tiền bồi thường thiệt hại về sức khoẻ, tổn thất về tinh thần thuộc diện Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự chỉ ra quyết định thi hành án khi có đơn yêu cầu thi hành án; thời hạn ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu là 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu thi hành án quy định tại khỏan 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự.

Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định thi hành án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành quyết định thi hành án đó.

Khi đã thu được tiền thi hành án, theo quy định tại khoản 5 của Điều Điều 47 Luật Thi hành án dân sự trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày thu được tiền, Chấp hành viên phải thực hiện việc thanh toán tiền thi hành án. Do vậy, trong trường hợp nêu trên,sau khi nhận được bản án của Tòa án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án đã chủ động ra quyết định thi hành án và phân công Chấp hành viên thi hành đối với khoản án phí, Chấp hành viên đã thu được tiền và thanh tóan tiền án phí từ việc bán tài sản của người phải thi hành án, sau đó người được thi hành án khoản tiền bồi thường thiệt hại về sức khoẻ, tổn thất về tinh thần mới có đơn yêu cầu thi hành án, thì việc thanh toán tiền án phí là có cơ sở.

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

 Thi hành án đối với vật cùng loại

 

 

Bản án tuyên: Buộc ông A phải có trách nhiệm trả cho ông B 200 giạ lúa. Cơ quan thi hành án xác minh được biết ông A canh tác 20.000m2 đất nông nghiệp chuẩn bị thu hoạch. Hỏi: Lúa có phải là vật cùng loại không? Trong trường hợp này Chấp hành viên áp dụng khoản 2 Điều 114 Luật Thi hành án dân sự 2008 được hay không? Hoặc xử lý như thế nào trong trường hợp này?

 

Gửi bởi: nguyen van tam

Trả lời có tính chất tham khảo

Việc xác định lúa có phải là vật cùng loại hay không phải căn cứ vào nội dung quyết định của Toà án và quy định của pháp luật.Vật cùng loại theo quy định tại khoản 1 Điều 179 Bộ luật Dân sự 2005 là những vật có cùng hình dáng, tính chất, tính năng sử dụng và xác định được bằng những đơn vị đo lường. Vật cùng loại có cùng chất lượng có thể thay thế cho nhau.

Khi thi hành án đối với vật cùng cùng loại, căn cứ khoản 2 Điều 114 Luật Thi hành án dân sự 2008, Chấp hành viên thực hiện việc cưỡng chế theo nội dung bản án, quyết định. Trường hợp vật phải trả không còn hoặc hư hỏng, giảm giá trị thì Chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án trả vật cùng loại hoặc thanh toán giá trị của vật cùng loại, trừ trường hợp đương sự có thoả thuận khác.

Trong trường hợp bạn hỏi, bản án của Toà án tuyên buộc ông A phải có trách nhiệm trả cho ông B 200 giạ lúa, nhưng không tuyên rõ đó là lúa gì (lúa nếp hay lúa tẻ, lúa tẻ thì là loại lúa gì v.v.), do đó cơ quan thi hành án dân sự có văn bản kiến nghị Toà án giải thích rõ, trên cơ sở đó thực hiện việc thi hành án. Ví dụ, Toà án giải thích đó là 200 giạ lúa tẻ Bắc Hương, thì cơ quan thi hành án buộc ông A phải trả cho ông B 200 giạ lúa cùng loại là lúa tẻ Bắc Hương. Trong trường hợp khi thi hành án không còn loại lúa tẻ Bắc Hương thì phải thanh toán giá trị của vật cùng loại, trừ trường hợp đương sự có thoả thuận khác theo quy định tại khoản 2 Điều 114 Luật Thi hành án dân sự 2008.

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ thi hành án

 

 

1. Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 58 Luật Thi hành án dân sự 2008 thì thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định đình chỉ khi đương sự có thỏa thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu không tiếp tục việc thi hành án. Tuy nhiên tại một số cơ quan thi hành án đã yêu cầu đương sự phải có cam kết từ bỏ quyền và lợi ích họ được hưởng theo BA,QĐ thì mới đình chỉ. Việc làm này đúng hay sai?

2. Trong pháp luật thi hành án dân sự không có điều luật quy định hậu quả pháp lý của việc đình chỉ THA. Như vậy, khi đương sự không yêu cầu tiếp tục việc thi hành án và cơ quan THA đã ra QĐ đình chỉ thì về sau đương sự có quyền yêu cầu THA trở lại tại cơ quan THA hay tại tổ chức TPL không?

 

Gửi bởi: Phan Văn Thụy

Trả lời có tính chất tham khảo

1. Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 58 Luật Thi hành án dân sự 2008 thì thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định đình chỉ khi đương sự có thoả thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự không tiếp tục việc thi hành án, trừ trường hợp việc đình chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.

Việc cơ quan thi hành án yêu cầu đương sự phải có cam kết từ bỏ quyền và lợi ích họ được hưởng theo quyết định trước khi ra quyết định đình chỉ để quyết định việc thu phí thi hành án quy định tại điểm d khoản 2 mục II Thông tư liên tịch số 68/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 21/7/2008 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp hướng dẫn chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án là cần thiết, vì: “Nếu người được thi hành án có đơn rút đơn yêu cầu thi hành án thì thực hiện như sau:

+ Nếu người được thi hành án có văn bản từ bỏ quyền và lợi ích mà họ được hưởng theo quy định tại khoản 3 Điều 28 của Pháp lệnh Thi hành án dân sự hoặc có đơn rút đơn yêu cầu thi hành án trước khi có quyết định cưỡng chế thi hành án, thì cơ quan thu phí không thu phí thi hành án;

+ Nếu người được thi hành án không từ bỏ quyền và lợi ích mà họ được hưởng theo quy định tại khoản 3 Điều 28 của Pháp lệnh Thi hành án dân sự và việc rút đơn thực hiện sau khi có quyết định cưỡng chế thi hành án, thì người được thi hành án phải nộp 1/3 (một phần ba) số phí thi hành án phải nộp như của trường hợp không rút đơn;

+ Nếu người được thi hành án không từ bỏ quyền và lợi ích mà họ được hưởng theo quy định tại khoản 3 Điều 28 của Pháp lệnh Thi hành án dân sự và việc rút đơn thực hiện sau khi cơ quan thi hành án đã thực hiện xong việc cưỡng chế, đã thu được tiền, tài sản để chi trả hoặc giao trả cho người được thi hành án, thì cơ quan thu phí vẫn thu phí thi hành án theo quy định tại Thông tư này”. Nội dung này được sửa đổi tương tự cho phù hợp với Điều 50 Luật Thi hành án dân sự tại Thông tư liên tịch số 144/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 22/9/2010, có hiệu lực kể từ ngày 06/11/2010, thay thế Thông tư liên tịch số 68/2008/TTLT-BTC-BTP nêu trên.

2. Đình chỉ thi hành án là việc cơ quan thi hành án ngừng hẳn việc thi hành bản án, quyết định dân sự khi có những căn cứ theo quy định của pháp luật. Đặc điểm của đình chỉ thi hành án là việc chấm dứt thi hành đối với các bản án, quyết định dân sự. Việc thi hành án sau khi bị đình chỉ sẽ không được đưa ra thi hành nữa, các bên đương sự cũng chấm dứt mọi quyền và nghĩa vụ của họ đã tuyên trong bản án, kể cả nghĩa vụ đối với Nhà nước, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Cơ quan thi hành án chỉ ra quyết định đình chỉ thi hành án khi có những căn cứ theo quy định của pháp luật.

Điều 50 Luật thi hành án dân sự 2008 quy định các trường hợp thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định đình chỉ thi hành án trong đó có các trường hợp do nguyên nhân khách quan, như: Bản án, quyết định bị hủy một phần hoặc toàn bộ; người phải thi hành án chết không để lại di sản hoặc theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của người đó theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế; người phải thi hành án là tổ chức đã bị giải thể, không còn tài sản mà theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của họ không được chuyển giao cho tổ chức khác… Các trường hợp trên, có trường hợp người được thi hành án không còn quyền yêu cầu (đối với phần bản án, quyết định đã bị hủy) hoặc không thể yêu cầu (do người phải thi hành án chết mà không để lại di sản hoặc nghĩa vụ thi hành án không được chuyển giao cho người khác).

Bên cạnh đó, Luật Thi hành án dân sự cũng quy định trường hợp cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định đình chỉ thi hành án khi đương sự có thoả thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự không tiếp tục việc thi hành án, trừ trường hợp việc đình chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba (điểm c khoản 1 Điều 50). Trong trường hợp này, các bên đương sự vẫn được quyền tiếp tục thi hành án không thông qua cơ quan thi hành án dân sự.

Liên quan đến vấn đề này, khoản 1 Điều 35 của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh quy định: Cùng một nội dung yêu cầu, cùng một thời điểm, người yêu cầu chỉ có quyền làm đơn yêu cầu một Văn phòng Thừa phát lại hoặc cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án. Nghị định số 61/2009/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi hành không quy định về việc Văn phòng Thừa phát lại không được thụ lý các vụ việc thi hành án cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định đình chỉ thi hành án.

Vì vậy, đối với trường cơ quan thi hành án đã ra quyết định đình chỉ thi hành án do người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự không tiếp tục việc thi hành án thì sau đó họ vẫn có quyền yêu cầu Văn phòng Thừa phát lại tổ chức thi hành.

Các văn bản liên quan:

Thông tư liên tịch 144/2010/TTLT-BTC-BTP Hướng dẫn về chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án dân sự

Nghị định 61/2009/NĐ-CP Về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Thông tư liên tịch 68/2008/TTLT-BTC-BTP Hướng dẫn chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Yêu cầu giao tài sản bán đấu giá thành

 

 

Tôi mua trúng đấu giá tài sản (gồm nhà và đất) do Cục Thi hành án dân sự tỉnh An Giang ủy quyền cho Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh An Giang bán. Tôi đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính (nộp đủ tiền mua tài sản). Nhưng đến nay vẫn chưa nhận được tài sản mua. Hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá số 53/HĐ.MBTSBĐG lập ngày 14/04/2010. Nay đã hơn 05 (năm) tháng kể từ ngày mua. Vậy có quá hạn luật định về quyền của người mua tài sản không? Tôi phải khiếu nại yêu cầu bồi thường thiệt hại ở cơ quan nào?

 

Gửi bởi: Phan Thị Triều

Trả lời có tính chất tham khảo

Trường hợp của bà, việc mua tài sản bán đấu giá theo quy định tại Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản (này là Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/03/2010). Theo quy định tại Điều 24 Nghị định số 05/2005/NĐ-CP nêu trên thì thời hạn, phương thức, địa điểm thanh toán tiền mua tài sản đã bán đấu giá do người bán đấu giá tài sản và người mua được tài sản bán đấu giá thoả thuận trong văn bản bán đấu giá tài sản. Thời hạn, địa điểm giao tài sản đã bán đấu giá do người bán đấu giá tài sản và người mua được tài sản bán đấu giá thoả thuận trong văn bản bán đấu giá tài sản. Việc giao tài sản đã bán đấu giá là tài sản thi hành án cho người mua được tài sản bán đấu giá được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.

Pháp luật về thi hành án dân sự quy định nếu người phải thi hành án (người có tài sản bị bán đấu giá) không tự nguyện giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá thì bị cưỡng chế thi hành án buộc phải giao tài sản, chuyển quyền sử dụng cho người mua được tài sản.

Vì vậy, nếu đã quá thời hạn giao tài sản thoả thuận trong văn bản bán đấu giá tài sản, mà bà chưa nhận được tài sản, thì bà có quyền yêu cầu Cục Thi hành án dân sự tỉnh An Giang có biện pháp để thực hiện việc giao tài sản bán đấu giá thành.

Các văn bản liên quan:

Nghị định 17/2010/NĐ-CP Về bán đấu giá tài sản

Nghị định 05/2005/NĐ-CP Về bán đấu giá tài sản

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Xử lý số tiền người phải thi hành án không nhận

 

 

Số tiền thu được sau khi kê biên và bán đấu giá tài sản của người phải thi hành án đã được tiến hành chi trả theo quy định. Sau khi chi trả Chấp hành viên đã báo gọi người phải thi hành án lên nhận lại số tiền còn thừa nhưng người phải thi hành án (là người bị kê biên tài sản) không nhận. Vậy số tiền đó phải xử lý như thế nào?

 

Gửi bởi: thu huyen

Trả lời có tính chất tham khảo

Về vấn đề này, sau khi Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được ban hành, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2009, đến nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào hướng dẫn cụ thể.

Tuy nhiên, trước khi có Luật Thi hành án dân sự dân sự năm 2008, căn cứ Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 06/2007/TT-BTP ngày 05/7/2007 “Hướng dẫn thực hiện một số thủ tục hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự”, trong đó có hướng dẫn về chi trả tiền thi hành án tại điểm 3.2.1 khoản 3.2 Điều 3 Mục III với nội dung như sau:

“Trong thời hạn không quá 10 ngày làm việc kể từ ngày thu tiền thi hành án, cơ quan thi hành án phải tiến hành chi trả các đối tượng được thi hành án theo thứ tự quy định tại Điều 51, Điều 52 của Pháp lệnh thi hành án dân sự 2004 và thu phí thi hành án theo quy định tại Thông tư liên tịch số 43/2006/TTLT-BTC-BTP ngày 19 tháng 5 năm 2006 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp và có biện pháp xử lý các khoản tiền, tài sản tồn đọng theo các hình thức sau đây:

3.2.1. Đối với những khoản tiền đã có báo gọi nhưng đương sự chưa đến nhận hoặc chưa xác định được địa chỉ của người nhận. Trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày thông báo mà đương sự không đến nhận, thì cơ quan thi hành án làm thủ tục đứng tên gửi số tiền đó vào Ngân hàng theo loại tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. Đồng thời mở sổ theo dõi ghi thông tin về sổ tiết kiệm cùng với tên người được thi hành án, số ngày, tháng, năm của bản án hay quyết định thi hành án. Hết thời hạn 03 năm kể từ ngày thông báo mà người được thi hành án không đến nhận thì cơ quan thi hành án làm thủ tục chuyển nộp sung công quỹ số tiền, tài sản đó vào Ngân sách Nhà nước.”

Hiện nay, Bộ Tư pháp đang tiến xây dựng Thông tư thay thế Thông tư số 06/2007/TT-BTP nêu trên cho phù hợp với Luật Thi hành án dân sự 2008, trong đó có nội dung hướng dẫn về vấn đề này. Do vậy, trước mắt, số tiền còn thừa của người phải thi hành án sau khi thực hiện chi trả theo quy định mà người phải thi hành án không nhận thì cơ quan thi hành án làm thủ tục đứng tên gửi số tiền đó vào Ngân hàng theo loại tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, đồng thời mở sổ theo dõi ghi thông tin về sổ tiết kiệm cùng với tên người được thi hành án, số ngày, tháng, năm của bản án hay quyết định thi hành án. Sau khi có văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn chính thức sẽ xử lý số tiền nêu trên.

Các văn bản liên quan:

Thông tư 06/2007/TT-BTP Hướng dẫn thực hiện một số thủ tục hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Định giá tài sản để thu phí thi hành án

 

 

Xác định giá trị tài sản để thu phí thi hành án (tài sản là giá trị QSDĐ) dựa theo giá trị thị trường có đúng không?

 

Gửi bởi: Lê Giang Sơn

Trả lời có tính chất tham khảo

 

1. Tại điểm b khoản 2 mục 2 Thông tư liên tịch số 68/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 21/7/2008 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp (nay là Thông tư liên tịch số 144/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 22/9/2010, có hiệu lực kể từ ngày 06/11/2010) hướng dẫn chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án có quy định trường hợp giao tài sản: Trong thời hạn không quá 15 (mười lăm) ngày làm việc trước ngày dự kiến giao trả tài sản, cơ quan thu phí có trách nhiệm ra thông báo thu phí thi hành án mà người được thi hành án phải nộp theo hướng dẫn tại Thông tư này.

– Nếu quyết định của Toà án không tuyên giá trị tài sản hoặc có tuyên nhưng không còn phù hợp (thay đổi quá 20%) so với giá thị trường tại thời điểm thu phí thì cơ quan thu phí lập Hội đồng định giá tài sản (theo Thông tư liên tịch số 144/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 22/9/2010 là tổ chức định giá giá tài sản) để xác định phí thi hành án phải nộp của người được thi hành án. Chi phí định giá do cơ quan thi hành án chi trả từ nguồn phí thi hành án được để lại.

– Nếu giao tài sản mà người được thi hành án chưa nộp phí thi hành án, cơ quan thu phí có thể kê biên, phong toả tài sản được thi hành án và ấn định thời hạn không quá 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày giao trả tài sản để người được thi hành án nộp phí thi hành án. Quá thời hạn trên, người được thi hành án không nộp phí thi hành án thì cơ quan thu phí có quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế để thi hành án, bao gồm cả việc bán đấu giá tài sản đã giao cho người được thi hành án để bảo đảm thu hồi tiền phí thi hành án. Chi phí định giá, bán đấu giá tài sản do người được thi hành án chi trả.

Việc định giá, định giá lại tài sản và bán đấu giá tài sản để thu hồi tiền phí thi hành án được thực hiện theo quy định của pháp luật về định giá, bán đấu giá tài sản để thi hành án.

2. Việc định giá tài sản hiện nay thực hiện theo quy định tại Điều 98 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, theo đó cần lưu ý một số vấn đề như sau:

– Ngay khi kê biên tài sản mà đương sự thoả thuận được về giá tài sản hoặc về tổ chức thẩm định giá thì Chấp hành viên lập biên bản về thỏa thuận đó. Giá tài sản do đương sự thoả thuận là giá khởi điểm để bán đấu giá. Trường hợp đương sự có thoả thuận về tổ chức thẩm định giá thì Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá đó.

– Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày kê biên tài sản, Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản kê biên trong các trường hợp sau đây: Đương sự không thoả thuận được về giá và không thoả thuận được việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá. Tổ chức thẩm định giá do đương sự lựa chọn từ chối việc ký hợp đồng dịch vụ;

– Chấp hành viên xác định giá trong các trường hợp: Không thực hiện được việc ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá. Tài sản kê biên thuộc loại tươi sống, mau hỏng hoặc có giá trị nhỏ mà đương sự không thoả thuận được với nhau về giá.

– Trong trường hợp tổ chức thẩm định giá thực hiện việc thẩm định giá, thì theo quy định tại Nghị định số 101/2005/NĐ-CP ngày 03/8/2005 của Chính phủ về thẩm định giá và Thông tư số 17/2006/TT-BTC ngày 13/3/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định số 101/2005/NĐ-CP quy định tổ chức thẩm định giá chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động nghề nghiệp và kết quả thẩm định giá.

Việc xử lý tranh chấp về kết quả thẩm định giá thực hiện theo Điều 23 Nghị định số 101/2005/NĐ-CP nêu trên như sau: Bên cung cấp dịch vụ thẩm định giá và bên sử dụng kết quả thẩm định giá phải có trách nhiệm thực hiện những cam kết đã ghi trong hợp đồng. Việc giải quyết tranh chấp phát sinh trong thực hiện hợp đồng thẩm định giá được thực hiện theo quy định của pháp luật về hợp đồng.

Trường hợp có tranh chấp về kết quả thẩm định giá thì các bên tiến hành thủ tục xử lý tranh chấp theo một trong hai hình thức sau: Thoả thuận với nhau để giải quyết. Thẩm định lại: Trong trường hợp không công nhận kết quả thẩm định giá của chứng thư thẩm định giá ban đầu thì bên yêu cầu thẩm định giá có quyền yêu cầu doanh nghiệp thẩm định giá khác thẩm định lại và phải trả tiền dịch vụ thẩm định giá. Nếu chứng thư thẩm định giá lại phù hợp với kết quả của chứng thư thẩm định giá ban đầu thì chứng thư thẩm định giá ban đầu có giá trị cuối cùng. Nếu doanh nghiệp thẩm định giá ban đầu hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầuthẩm định lại không thừa nhận kết quả thẩm định lại thì các bên có thể thoả thuận giải quyết bằng trọng tài theo quy định của pháp luật về trọng tài thương mại hoặc Toà án theo quy định của pháp luật.

– Trong trường hợp Chấp hành viên xác định giá do không ký được hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá, thì căn cứ khoản 2 Điều 15 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ, Chấp hành viên tham khảo ý kiến của cơ quan tài chính, cơ quan chuyên môn có liên quan trước khi xác định giá của tài sản kê biên.

Giá trị của tài sản được định phải theo giá thị trường tại thời điểm định giá. Ý kiến của cơ quan tài chính, cơ quan chuyên môn có liên quan và khung giá các loại đất tại thời điểm định giá là không phải là căn cứ duy nhất để Chấp hành viên xác định giá của tài sản (trong đó có quyền sử dụng đất).

Các văn bản liên quan:

Thông tư liên tịch 144/2010/TTLT-BTC-BTP Hướng dẫn về chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án dân sự

Nghị định 58/2009/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Nghị định 101/2005/NĐ-CP Về thẩm định giá

Thông tư liên tịch 68/2008/TTLT-BTC-BTP Hướng dẫn chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án

Thông tư 17/2006/TT-BTC Hướng dẫn thực hiện Nghị định số 101/2005/NĐ-CP ngày 03 tháng 8 năm 2005 của Chính phủ về Thẩm định giá

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Có phải kê biên trong trường hợp người phải thi hành án đồng ý phát mãi tài sản không?

 

 

Trong trường hợp đương sự đồng ý để cơ quan THA phát mãi tài sản để đảm bảo THA thì CHV có cần tiến hành thủ tục kê biên hay không? Trình tự thủ tục áp dụng để thẩm định giá, bán đấu giá đối với trường hợp này nếu không phải kê biên sẽ như thế nào?

 

Gửi bởi: Phan Văn Thụy

Trả lời có tính chất tham khảo

Nội dung bạn hỏi, nghĩa vụ thi hành án là nghĩa vụ trả tiền (ví dụ theo bản án của Toà án thì ông A phải trả ông B 100.000.000 đồng), nên người phải thi hành án có nghĩa vụ thi hành án trả tiền. Nếu người phải thi hành án không tự nguyện thi hành nghĩa vụ trả tiền, Chấp hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế cần thiết để đảm bảo việc thi hành án, trong đó có biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ quy định tại khoản 3 Điều 71 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Việc người phải thi hành án đồng ý để cơ quan thi hành án phát mãi tài sản để đảm bảo thi hành án không phải là tự nguyện thi hành nghĩa vụ trả tiền theo bản án của Toà án. Do đó, Chấp hành viên cơ quan thi hành án phải thực hiện chặt chẽ, đầy đủ trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành án trong việc cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản đó để đảm bảo thi hành án.

Việc người phải thi hành án đồng ý để cơ quan thi hành án phát mãi tài sản để đảm bảo thi hành án là điều kiện thuận lợi cho việc cưỡng chế thi hành án, hạn chế khiếu nại, tố cáo có thể xảy ra từ phía người phải thi hành án. Chấp hành viên không được chủ quan, lấy đó làm căn cứ để thực hiện không đúng các bước, các công việc của quá trình cưỡng chế thi hành án.

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Cơ quan thi hành án từ chối nhận tiền thi hành án có đúng không?

 

 

Tôi là người bị thi hành án, cơ quan Thi hành án (THA) tại địa phương đã có quyết định cưỡng chế. Trước khi việc cưỡng chế xảy ra, tôi đem tiền (tương ứng 4% số tiền phải thi hành) đến cơ quan THA nộp thì bị từ chối vì 2 lý do:

1. Đã ra quyết định cưỡng chế;

2. Số tiền nộp không đủ bằng số tiền phải thi hành án.

Tôi xin hỏi cơ quan THA từ chối nhận tiền THA của tôi có đúng không?

 

Gửi bởi: Lê Thị Bích Hằng

Trả lời có tính chất tham khảo

Pháp luật thi hành án dân sự quy định Nhà nước khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án. Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án.

Trường hợp bà hỏi, do bà không tự nguyện thi hành án, nên Chấp hành viên của cơ quan thi hành án ra quyết định cưỡng chế thi hành án là có cơ sở. Khi Chấp hành viên chưa thực hiện việc cưỡng chế kê biên tài sản, bà đem tiền (tương ứng 4% số tiền phải thi hành) đến cơ quan thi hành án nộp nhưng bị từ chối, thì việc từ chối nhận tiền là không có căn cứ.

Song, việc bà đem không đầy đủ số tiền phải thi hành án và chi phí cưỡng chế thi hành án đã phát sinh thì cũng không phải là cơ sở để cơ quan thi hành án không cưỡng chế thi hành án nữa. Trong trường hợp này, cơ quan thi hành án thu số tiền bà đem đến nộp và vẫn có quyền tiến hành áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản tương ứng với số tiền mà bà còn phải thi hành án. Tài sản sẽ kê biên là một thể thống nhất, nếu tách ra sẽ làm mất hoặc giảm đáng kể giá trị của tài sản, thì cơ quan thi hành án có quyền kê biên, xử lý toàn bộ tài sản đó để đảm bảo thi hành án.

Căn cứ quy định tại khoản 5 Điều 101 Luật Thi hành án dân sự 2008, trước khi mở cuộc bán đấu giá 01 ngày làm việc, bà là người phải thi hành án có quyền nhận lại tài sản nếu nộp đủ tiền thi hành án và thanh toán các chi phí thực tế, hợp lý đã phát sinh từ việc cưỡng chế thi hành án, tổ chức bán đấu giá. Người phải thi hành án có trách nhiệm hoàn trả phí tổn thực tế, hợp lý cho người đăng ký mua tài sản. Mức phí tổn do các bên thoả thuận, nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết.

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Lãi suất quá hạn trong giai đoạn thi hành án đối với các Hợp đồng tín dụng

 

 

Hiện nay Ngân hàng Nhà nước đã quy định lãi suất quá hạn (mức trần) để các ngân hàng thương mại áp dụng chưa? THA cho áp dụng mức lãi suất quá hạn trong giai đoạn thi hành án đối với các HĐTD là căn cứ vào mức lãi thỏa thuận trong hợp đồng vay tín dụng x 150% (cụ thể 1,75 x150%) có đúng không? Trong quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự ngân hàng cho hạn trả là 3 tháng, vậy trong 3 tháng này người phải THA có bị trả lãi nợ quá hạn trên vốn gốc không nếu trong 3 tháng này chưa trả được tiền vay cho ngân hàng?

 

Gửi bởi: Nguyen Thi Hoai

Trả lời có tính chất tham khảo

1. Việc thi hành án dân sự đối với khoản lãi suất chậm thi hành án trong hoạt động thi hành án dân sự phải thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Hiện nay, việc tính lãi suất chậm thi hành án vẫn căn cứ khoản 1 mục III Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính, Công văn số 165/KHXX ngày 18/10/2007 của Tòa án nhân dân tối cao). Tuy nhiên, Thông tư liên tịch này có những nội dung không còn phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật được ban hành sau đó (như: lãi đối với số tiền chậm trả theo “lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố” quy định tại khoản 2 Điều 305 Bộ luật Dân sự năm 2005 thay cho “lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định” theo quy định tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật Dân sự năm 1995). Vì vậy, cách xác định thời điểm và cách tính lãi phát sinh do chậm thi hành án hiện nay căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 305 Bộ luật Dân sự năm 2005, Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997, Công văn số 165/KHXX ngày 18/10/2007 của Tòa án nhân dân tối cao và Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước công bố mức lãi suất cơ bản cho từng thời điểm.

Lãi suất chậm thi hành án được tính theo từng loại việc như sau: Kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp chủ động thi hành) và từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án (trường hợp thi hành theo đơn yêu cầu) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chưa thi hành án. Khi tính lãi chậm thi hành án chỉ tính lãi của số tiền còn phải thi hành án, mà không tính lãi của số tiền chưa trả trong quá trình thi hành án.

Mức lãi suất cơ bản theo Quyết định số 2665/QĐ-NHNN ngày 01/12/2009 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước là 8%/năm.

Như vậy, hiện nay cơ quan thi hành án cho áp dụng mức lãi suất quá hạn trong giai đoạn thi hành án đối với các HĐTD căn cứ vào mức lãi thỏa thuận trong hợp đồng vay tín dụng x 150% (cụ thể 1,75 x150%) là không có cơ sở pháp luật. Nếu bản án, quyết định của Toà án tuyên lãi suất chậm thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn không đúng pháp luật, thì cơ quan thi hành kiến nghị Toà án xem xét lại bản án, quyết định đó cho đúng quy định của pháp luật.

2. Trường hợp trong quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, ngân hàng cho hạn trả là 3 tháng, thì trong thời hạn 3 tháng này người phải chưa có nghĩa vụ thi hành án trả nợ (trừ trường hợp họ tự nguyện thi hành án), nghĩa vụ thi hành án trả nợ bắt đầu tính từ sau thời hạn 3 tháng theo thoả thuận của các đương sự. Thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong quyết định của Toà án, nên theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự thì thời hạn yêu cầu thi hành án là 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn (thời điểm sau thời hạn 3 tháng theo thoả thuận của các đương sự). Do vậy, không có cơ sở để buộc người phải thi hành án phải chịu lãi suất chậm thi hành án trong thời gian nghĩa vụ thi hành án chưa đến hạn đó, trừ trường hợp đương sự có thoả thuận và quyết định của Toà án có tuyên rõ về nội dung này.

 

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Thông tư liên tịch 01/TTLT Hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thi hành Quyết định giám đốc thẩm tuyên huỷ bản án đã có hiệu lực pháp luật

 

 

Tôi có đơn khiếu nại hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm lên Tòa án tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Cục THADS Hồ Chí Minh nay vẫn bị Cục THADS mời lên làm thủ tục phát mại với quyết định của bản án sơ thẩm. Vậy tôi có phải chấp hành không, trong khi chờ được Giám đốc thẩm hai bản án nói trên. Nếu được Giám đốc thẩm quyết định hủy hai bản án trên thì tôi đã bị thi hành án phát mại căn nhà nói trên thì giải quyết tình huống này ra sao?

 

Gửi bởi: Lam Thanh Luom

Trả lời có tính chất tham khảo

Vì câu hỏi không nêu rõ nội dung bản án phúc thẩm như thế nào mà Cục Thi hành án dân sự Hồ Chí Minh mời bạn lên làm thủ tục phát mại với quyết định của bản án sơ thẩm, nên chúng tôi không thể khẳng định bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật hay chưa. Do đó, giả sử trong trường hợp của bạn là vụ kiện tranh chấp dân sự, bản án phúc thẩm nêu trên tuyên giữ nguyên (y) quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm (bản án sơ thẩm), thì theo quy định tại Điều 254 và khoản 6 Điều 281 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm có hiệu lực thi hành. Do đó, cơ quan thi hành án phải tổ chức việc thi hành án theo quy định của pháp luật. Việc bạn có đơn khiếu nại hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm lên Tòa án tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao không phải là căn cứ để chưa thi hành hành bản án sơ thẩm, phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật. Vì thế bạn phải chấp hành bản án sơ thẩm, phúc thẩm đó.

Trong trường hợp được Giám đốc thẩm quyết định hủy hai bản án trên mà bạn đã bị thi hành án phát mại căn nhà nói trên thì giải quyết tình huống này theo quy định tại Điều 136 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 như sau:

– Trường hợp quyết định Giám đốc thẩm thẩm tuyên huỷ bản án đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại thì việc thi hành án được thực hiện theo bản án, quyết định sơ thẩm mới có hiệu lực pháp luật hoặc bản án phúc thẩm mới.

– Trường hợp quyết định giám đốc thẩm tuyên hủy bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án đã xét xử vụ án và đình chỉ giải quyết vụ án mà phần tài sản trong bản án, quyết định bị hủy đã thi hành được một phần hoặc đã thi hành xong thìthực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 135 của Luật này:

Đối với phần bản án của Tòa án hủy, sửa bản án của Tòa án cấp dưới mà đã thi hành được một phần hoặc đã thi hành xong thì đương sự có thể thỏa thuận với nhau về việc hoàn trả tài sản, phục hồi lại quyền tài sản.

Trường hợp tài sản thi hành án là động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản còn nguyên trạng thì cưỡng chế trả lại tài sản đó cho chủ sở hữu.

Trường hợp tài sản đã được chuyển dịch hợp pháp cho người thứ ba chiếm hữu ngay tình thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa hoặc tài sản thi hành án đã bị thay đổi hiện trạng thì chủ sở hữu tài sản ban đầu không được lấy lại tài sản nhưng được bồi hoàn giá trị của tài sản.

Trường hợp có yêu cầu về bồi thường thiệt hại thì cơ quan ra bản án, quyết định bị huỷ, sửa giải quyết theo quy định của pháp luật.

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Bộ luật 24/2004/QH11 Tố tụng dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Kiến nghị Toà án tuyên án rõ ràng, bảo đảm tính khả thi của bản án

 

 

Tháng 11/1993, tôi mua của ông A lô đất 100m2, và 2 bên thỏa thuận với nhau là giữ lại 30 triệu đồng để khi ông A làm xong giấy tờ hợp thức hóa lô đất cho tôi thì tôi thanh toán tiếp số tiền còn lại đó. Thời gian trôi qua, không những ông A không làm giấy tờ đầy đủ cho tôi như đã cam kết mà vào cuối 2006 còn kiện tôi ra tòa, yêu cầu tôi phải trả hết tiền cho ông và không nói gì tới việc hợp thức hóa lô đất trên. Kết quả xét xử sơ thẩm và phúc thẩm đều phán quyết: ông A hợp thức hóa lô đất cho tôi đầy đủ, cùng lúc với việc nhận giấy tờ đó, tôi phải trả cho ông A số tiền trên theo giá thị trường. Kể từ ngày bản án có hiệu lực đến nay đã là 15 tháng, nhưng ông A không làm bất cứ việc gì để hợp thức hóa lô đất cho tôi ngoài việc gửi đơn yêu cầu thi hành án. Xin hỏi: Kết quả của bản án dân sự này sẽ giải quyết như thế nào nếu qua 3 năm, 5 năm hay nhiều hơn nữa, ông A không làm gì để hợp thức hóa lô đất trên như Tòa đã phán quyết? Tôi đã gửi đơn đến Cơ quan thi hành án về việc chậm trễ trên nhưng hiện tại vẫn chưa giải quyết được vấn đề này. Xin hỏi để giải quyết vấn đề trên tôi phải làm gì?

 

Gửi bởi: Nguyễn Anh Sơn

Trả lời có tính chất tham khảo

Trong trường hợp ông hỏi, nếu đúng như nội dung ông nêu, bản án tuyên ông A hợp thức hóa lô đất cho ông đầy đủ, cùng lúc với việc nhận giấy tờ đó, ông phải trả cho ông A số tiền trên theo giá thị trường, thì đó là bản án có nội dung không phù hợp với thực tế, bởi lẽ số tiền 30 triệu đồng mà ông phải trả cho ông A không thể tính “theo giá thị trường” được. Vì thế, nếu các ông không thoả thuận được với nhau về việc thi hành án thì việc thi hành bản án không thể thực hiện được.

Để giải quyết triệt để vụ việc của ông, căn cứ Điều 283, 284 và Điều 285 Bộ luật Tố tụng dân sự, ông cần gửi đơn đề nghị Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm để xét xử lại vụ án theo hướng tuyên án rõ ràng, bảo đảm tính khả thi của bản án. Trên cơ sở đó, ông làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án thi hành theo quyết định của Tòa án.

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 24/2004/QH11 Tố tụng dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Tài sản kê biên không bán được và bán đấu giá không thành có giống nhau không?

 

 

Theo điểm c khoản 01 Điều 51 Luật Thi hành án dân sự 2008 tài sản kê biên không bán được mà người được thi hành án không nhận thì trả đơn. Nhưng theo Điều 104 trong trường hợp bán đấu giá không thành mà đương sự không yêu cầu định giá lại thì CHV ra quyết định giảm giá. Như vậy trong hai điều trên thì tài sản kê biên không bán được và bán đấu giá không thành có giống nhau không? Trong trường hợp tài sản kê biên bán đấu giá không thành và người được thi hành án không nhận tài sản thì CHV có được trả đơn không?

 

Gửi bởi: Võ Thành Trí

Trả lời có tính chất tham khảo

Điều 51 Luật Thi hành án dân sự 2008 quy định về trả đơn yêu cầu thi hành án như sau:

“1. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án trong các trường hợp sau đây:

a) Người phải thi hành án không có tài sản để thi hành án hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản chỉ đủ để thanh toán chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc tài sản đó theo quy định của pháp luật không được xử lý để thi hành án;

b) Người phải thi hành án không có thu nhập hoặc mức thu nhập thấp, chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải thi hành án và gia đình;

c) Tài sản kê biên không bán được mà người được thi hành án không nhận để thi hành án;

d) Người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ về trả vật đặc định nhưng vật phải trả không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được mà đương sự không có thoả thuận khác.

2. Khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành thì người được thi hành án có quyền yêu cầu thi hành bản án, quyết định trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 30 của Luậtnày, kể từ ngày phát hiện người phải thi hành án có điều kiện thi hành”.

Điều 104 Luật Thi hành án dân sự 2008 quy định về Xử lý tài sản bán đấu giá không thành có nội dung:Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày bán đấu giá không thành mà đương sự không yêu cầu định giá lại thì Chấp hành viên ra quyết định giảm giá tài sản để tiếp tục bán đấu giá. Mỗi lần giảm giá không quá mười phần trăm giá đã định.

Trường hợp giá tài sản đã giảm thấp hơn chi phí cưỡng chế mà người được thi hành án không nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án thì tài sản được trả lại cho người phải thi hành án”.

Trong hai điều luật nêu trên, cụm từ “tài sản kê biên không bán được” và “bán đấu giá không thành” không giống nhau, bởi lẽ được quy định tại hai điều luật khác nhau và là căn cứ để giải quyết theo hai thủ tục thi hành án khác nhau: trả đơn yêu cầu thi hành án khác với xử lý tài sản bán đấu giá không thành.

Trong trường hợp tài sản kê biên bán đấu giá không thành và người được thi hành án không nhận tài sản thì Chấp hành viên không được trả đơn vì Chấp hành viên không có thẩm quyền này. Chấp hành viên ra quyết định giảm giá tài sản để tiếp tục bán đấu giá. Trường hợp giá tài sản đã giảm thấp hơn chi phí cưỡng chế mà người được thi hành án không nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án (việc nhận tài sản này phải được sự đồng ý của người phải thi hành án và những người có quyền, lợi ích liên quan đến tài sản), thì tài sản được trả lại cho người phải thi hành án. Nếu người phải thi hành án không còn tài sản khác thì Chấp hành viên đề nghị Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 51 nêu trên.

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

 Đương sự có quyền được yêu cầu định giá lại bao nhiêu lần?

 

 

Theo điểm b khoản 1 Điều 99 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 về Định giá lại tài sản kê biên quy định: Đương sự có yêu cầu định giá lại trước khi có thông báo công khai về việc bán đấu giá tài sản. Xin cho hỏi, đương sự có quyền được yêu cầu định giá lại bao nhiêu lần trước khi có thông báo công khai về việc bán đấu giá tài sản kê biên?

 

Gửi bởi: nguyen van lan

Trả lời có tính chất tham khảo

Tại điểm b khoản 1 Điều 99 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 về định giá lại tài sản kê biên quy định đương sự có yêu cầu định giá lại trước khi có thông báo công khai về việc bán đấu giá tài sản. Quy định này có liên quan chặt chẽ với quy định tại Điều 104 Luật Thi hành án dân sự 2008 về xử lý tài sản bán đấu giá không thành: “Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày bán đấu giá không thành mà đương sự không yêu cầu định giá lại thì Chấp hành viên ra quyết định giảm giá tài sản để tiếp tục bán đấu giá. Mỗi lần giảm giá không quá mười phần trăm giá đã định. Trường hợp giá tài sản đã giảm thấp hơn chi phí cưỡng chế mà người được thi hành án không nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án thì tài sản được trả lại cho người phải thi hành án”.

Luật Thi hành án dân sự 2008 không quy định cụ thể đương sự có quyền yêu cầu định giá lại bao nhiêu lần trước khi có thông báo công khai về việc bán đấu giá tài sản kê biên. Tuy nhiên, tại mục 2 Công văn số 2970/TCTHA-NV1 ngày 12/10/2010 của Tổng cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp có hướng dẫn về bảo đảm quyền yêu cầu định giá lại tài sản kê biên, như sau: “Trường hợp đương sự có yêu cầu định giá lại tài sản kê biên trước khi có thông báo công khai việc bán đấu giá tài sản theo điểm b khoản 1 Điều 99 Luật Thi hành án dân sự 2008 (không phân biệt bán đấu giá tài sản lần thứ mấy), thì Chấp hành viên tổ chức định giá lại tài sản kê biên. Chấp hành viên thông báo cho đương sự biết về việc người yêu cầu định giá lại phải chịu chi phí định giá lại tài sản theo quy định của pháp luật”. Do vậy, đương sự có quyền yêu cầu định giá lại bao nhiêu lần trước khi có thông báo công khai về việc bán đấu giá tài sản kê biên xác định theo từng trường hợp cụ thể không hoàn toàn giống nhau.

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thi hành án trong trong hợp người phải thi hành án đã sang tên tài sản của mình cho người khác

 

 

Tôi làm đơn yêu cầu thi hành án nhưng tài sản của người phải thi hành án đã được được sang tên cho người khác nên người phải thi hành án không còn tài sản. Tuy nhiên hiện nay họ vẫn sống trên căn nhà và mảnh đất là tài sản trước khi sang tên đó. Xin hỏi như vậy tôi có lấy lại được tài sản thực ra là thuộc về mình hay không?

 

Gửi bởi: nguyễn xuân anh

Trả lời có tính chất tham khảo

Vấn đề bạn hỏi, cần xác định rõ thời điểm mua bán nhà, đất để gải quyết như sau:

1. Trường hợp người phải thi hành án đã hoàn thành thủ tục mua bán nhà ở, chuyển quyền sử dụng đất cho người khác hợp pháp (hợp đồng mua bán nhà ở đã được công chứng, người mua đã hoàn tất thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất), theo quy định tại Điều 168, Điều 688, Điều 692 Bộ luật Dân sự; Điều 46 Luật Đất đai và khoản 4 Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/11/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai; khoản 5 Điều 93 Luật Nhà ở năm 2005 và Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ, thì quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở đó đã được xác lập cho người nhận chuyển quyền. Vì thế, cơ quan thi hành án dân sự không có quyền kê biên, xử lý tài sản đó để thi hành án.

Tuy nhiên, việc mua bán nhà đất đó nhằm mục đích tẩu tán tán sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, nếu cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Tòa án) xác định và tuyên bố hủy bỏ hợp đồng mua bán, giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng tài sản đó, thì cơ quan thi hành án dân sự được quyền kê biên, xử lý để đảm bảo thi hành án.

2. Trường hợp mua bán nhà đất thực hiện sau khi có bản án, thì bạn đề nghị cơ quan thi hành án giải quyết theo quy định tại Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao như sau:

– Kể từ thời điểm có bản án, quyết định sơ thẩm mà người phải thi hành án bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố tài sản của mình cho người khác, không thừa nhận tài sản là của mình mà không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên để thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu có tranh chấp thì Chấp hành viên hướng dẫn đương sự thực hiện việc khởi kiện tại Toà án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo mà không có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án xử lý tài sản để thi hành án.

– Kể từ thời điểm có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc trong trường hợp đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án mà tài sản bị bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố cho người khác, người phải thi hành án không thừa nhận tài sản là của mình thì bị kê biên, xử lý để thi hành án.

– Thủ tục giải quyết yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự, đương sự về việc xác định quyền sở hữu, phân chia tài sản hoặc giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản phát sinh trong quá trình thi hành án thuộc thẩm quyền của Toà án theo khoản 4 Điều 179 Luật Thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thông báo mà không có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án xử lý tài sản theo quy định của pháp luật, trường hợp có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án chỉ xử lý tài sản khi có bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 24/2004/QH11 Tố tụng dân sự

Luật 13/2003/QH11 Đất đai

Thông tư liên tịch 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự

Nghị định 88/2009/NĐ-CP Về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất

Nghị định 181/2004/NĐ-CP Về thi hành Luật Đất đai

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Luật 56/2005/QH11 Nhà ở

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

 Kế toán nghiệp vụ có được hưởng chế độ phụ cấp thâm niên như Thư ký thi hành án dân sự không?

 

 

Tôi làm công tác kế toán nghiệp vụ thi hành án từ năm 1997 đến nay đã hơn 10 năm. Theo quy định của Chính phủ thì cán bộ làm công tác thi hành án được hưởng phụ cấp thâm niên nghề. Vậy xin hỏi trong bộ máy thi hành án những công việc gì được coi là công tác làm hồ sơ thi hành án? Kế toán nghiệp vụ kiêm kế toán ngân sách có được coi là cán bộ làm công tác thi hành án hay không? Nếu không được hưởng phụ cấp thì đương nhiên được hiểu là không phải cán bộ làm công tác thi hành án. Tuy nhiên trong thủ tục tác nghiệp hồ sơ thi hành án mà không có sự tác động của kế toán thì liệu hồ sơ thi hành án có được coi là xong hay không? Theo quy định tại Thông tư 91/ TT-BTC thì công việc kế toán không hề đơn giản chút, vậy thì kế toán có được hưởng phụ cấp như thư ký hay không? Như tôi và đồng nghiệp của tôi ngoài công việc kế toán hành chính sự nghiệp, còn phải làm công tác thu chi thi hành án đây là công việc không đơn giản để thực hiện.

 

Gửi bởi: Nguyễn Viết Phương

Trả lời có tính chất tham khảo

Về nội dung “trong cơ quan thi hành án những công việc gì được coi là công tác làm hồ sơ thi hành án” hiện nay không có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định. Cụm từ “công tác làm hồ sơ thi hành án” là lối nói nôm na, chỉ đến những hoạt động nghiệp vụ thi hành án của Chấp hành viên, Chuyên viên pháp lý trong việc tiến hành các tác nghiệp để thi hành việc thi hành án dân sự.

Cụm từ “cán bộ làm công tác thi hành án” là cụm từ dùng để chỉ tất cả những người công tác thi hành án, bao gồm cả thi hành án hình sự, thi hành án dân sự và thi hành án hành chính. Trong từng lĩnh vực thi hành án nêu trên lại có nhiều với nhiều vị trí công tác, nghiệp vụ khác nhau, chức danh khác nhau, với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau như: Giám thị trại giam, Quản giáo, Thủ trưởng cơ quan thi hành án, Chấp hành viên, Thẩm tra viên, kế toán, văn thư, lái xe, bảo vệ cơ quan thi hành án v.v., với tiêu chuẩn về trình độ nghiệp vụ khác nhau (đại học luật, đại học tài chính kế toán, trung cấp văn thư v.v.). Kế toán nghiệp vụ kiêm kế toán ngân sách của cơ quan thi hành án cũng được coi là cán bộ làm công tác thi hành án, nhưng chức danh, mã ngạch, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn không giống Chấp hành viên, Thẩm tra viên hoặc Thư ký thi hành án dân sự.

Về chế độ phụ cấp thâm niên đối với cán bộ, công chức của các cơ quan thi hành án dân sự, theo quy định tại Nghị định số 76/2009/NĐ-CP ngày 15/9/2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ “về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang” và Thông tư liên tịch số 04/2009/TTLT-BNV-BTC ngày 24/12/2009 Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính “hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên đối với cán bộ, công chức đã được xếp lương theo ngạch hoặc chức danh chuyên ngành tòa án, kiểm sát, kiểm toán, thanh tra, thi hành án dân sự và kiểm lâm” phải là người đã đã được xếp lương theo ngạch hoặc chức danh chuyên ngành thi hành án dân sự

Chế độ phụ cấp thâm niên nghề áp dụng đối với cán bộ, công chức trong biên chế xếp lương theo các ngạch hoặc các chức danh chuyên ngành thi hành án dân sự theo hướng dẫn tại Công văn số 566/BTP-TCTHA ngày 09/3/2010 của Bộ Tư pháp, bao gồm:

– Các ngạch Chấp hành viên của các cơ quan thi hành án dân sự địa phương;

– Thẩm tra viên, Thẩm tra viên chính, Thẩm tra viên cao cấp thi hành án thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự và các cơ quan thi hành án dân sự địa phương;

– Thư ký thi hành án dân sự.

Hiện nay không có văn bản nào quy định kế toán nghiệp vụ được hưởng chế độ phụ cấp thâm niên như Thư ký thi hành án dân sự.

Các văn bản liên quan:

Thông tư liên tịch 04/2009/TTLT-BNV-BTC Hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên nghề đối với cán bộ, công chức đã được xếp lương theo các ngạch hoặc chức danh chuyên ngành tòa án, kiểm sát, kiểm toán, thanh tra, thi hành án dân sự và kiểm lâm

Nghị định 76/2009/NĐ-CP Về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang

Nghị định 204/2004/NĐ-CP Về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức,viên chức và lực lượng vũ trang

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

 Uỷ thác thi hành án ngược trở lại có đúng không?

 


Bản án số 85/DSST ngày 18/06/2010 của Toà án nhân dân quận C, thành phố Đ tuyên bà A, hộ khẩu thường trú tại phường T, quận C, thành phố Đ phải thi hành nộp 1.500.000đ tiền án phí DSST và nộp trả cho ông B số tiền 60.000.000 đồng tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất ở thuộc sở hữu của bà A có tại huyện H, thành phố Đ được xử lý để thu hồi nợ vay cho ông B. Cơ quan thi hành án quận C, thành phố Đ tiến hành xác minh nơi bà A đăng ký nhân khẩu, tại đây bà A chỉ đăng ký nhân khẩu vào hộ gia đình mẹ ruột, thực tế bà A không sinh sống và không có tài sản tại quận C. Cơ quan Thi hành án quận C đã uỷ thác khoản thu án phí đến cơ quan thi hành án huyện H, thành phố Đ nơi bà A có tài sản là quyền sử dụng đất ở đã thế chấp cho ông B để thi hành khoản án phí. Cơ quan Thi hành án huyện H, thành phố Đ tiến hành xác minh tài sản là quyền sử dụng đất ở của bà A, kết quả xác minh bà A đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở có trong Bản án vào ngày 24/06/2010 và tự thanh toán tiền cho ông B (các bên không yêu cầu thi hành án ). Từ kết quả xác minh, xác định bà A không còn tài sản tại huyện H, nên cơ quan Thi hành án huyện H uỷ thác ngược trở lại cho cơ quan thi hành án quận C nơi bà A đăng ký nhân khẩu để cơ quan Thi hành án quận C thi hành. Việc Cơ quan huyện H uỷ thác ngược trở lại hồ sơ cho cơ quan thi hành án quận C như trên có đúng không ?

 

Gửi bởi: Dư Diễm

Trả lời có tính chất tham khảo

 

Căn cứ quy định tại các Điều 54, 55 và 56 Luật Thi hành án dân sự 2008, cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự 2008 hiện hành, thì không có quy định nào cấm hoặc không cho phép cơ quan thi hành án dân sự đã nhận uỷ thác thi hành án được uỷ thác trở lại cho cơ quan thi hành án đã uỷ thác thi hành án.

Trong trường hợp bạn nêu, do nhiều tình tiết chưa cụ thể nên không thể trả lời đúng, sai, hợp lý hay không hợp lý.

Tuy nhiên, chúng tôi đưa ra xem xét một vài ý kiến như sau: Dường như cả hai cơ quan thi hành án (cơ quan thi hành án quận C và cơ quan thi hành án huyện H, thành phố Đ), nhất là cơ quan thi hành án quận C chưa làm tốt công việc của mình, chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong giải quyết vụ việc trên. Lẽ ra, cơ quan thi hành án quận C, trước khi uỷ thác thi hành án cho cơ quan thi hành án huyện H phải xác minh đầy đủ, toàn diện hơn về điều kiện thi hành án của bà A. Cơ quan thi hành án quận C, thành phố Đ tiến hành xác minh nơi bà A đăng ký nhân khẩu, xác định tại đây bà A chỉ đăng ký nhân khẩu vào hộ gia đình mẹ ruột, thực tế bà A không sinh sống và không có tài sản tại quận C, thì phải xác minh thực tế thời điểm đó bà A đang cư trú ở đâu, tài sản ở nơi cư trú thực tế có hay không? Tài sản bà A thế chấp cho ông B có còn hay không, có thuộc diện được kê biên, xử lý để thi hành án hay không? Kết quả xác minh phải thông tin đầy đủ cho cơ quan thi hành án huyện H.

Cơ quan thi hành án huyện H sau khi tiến hành xác minh tài sản là quyền sử dụng đất ở của bà A, kết quả xác minh bà A đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở có trong Bản án vào ngày 24/06/2010, thì cũng phải xem xét việc chuyển nhượng đó có đúng pháp luật không, nếu không đúng thì phải kiến nghị cơ quan có thẩm quyền huỷ bỏ hợp đồng chuyển nhượng đó theo quy định tại Thông tư liên tịch số 12/2001/TTLT/BTP-VKSTC ngày 26 tháng 2 năm 2001 của Bộ Tư pháp, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện một số quy định pháp luật thi hành án dân sự (nay là Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSTC ngày 26 tháng 7 năm 2010 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sựvà phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự).

Nếu như việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên hợp pháp, có căn cứ khẳng định bà A không còn tài sản ở huyện H, thì cùng với căn cứ chứng minh bà A không cư trú thực tế, không có tài sản tại quận C, thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án huyện H ủy thác đến nơi cư trú thực tế của bà A (ví dụ ở quận B), thành phố Đ để thi hành khoản tiền án phí đó.

Các văn bản liên quan:

Thông tư liên tịch 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Thông tư liên tịch 12/2001/TTLT/BTP-VKSTC Hướng dẫn thực hiện một số quy định pháp luật về thi hành án dân sự.

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

 Cưỡng chế giao tài sản cho người được thi hành án nhận tài sản để trừ tiền thi hành án?

 

 

Bản án tuyên: Buộc ông A trả cho ông B 200 triệu đồng. Chấp hành viên đã kê biên, bán đấu giá QSDĐ nhưng không có khách hàng đăng ký mua. Ông B đồng ý nhận tài sản với giá đã định là số tiền 200 triệu đồng, nhưng ông A không đồng ý giao tài sản. Vậy, trường hợp này Chấp hành viên tiến hành cưỡng chế giao tài sản được không? Có trái với quy định tại Điều 100, 104 Luật Thi hành án dân sự 2008 hay không?

 

Gửi bởi: Nguyễn Văn Tâm

Trả lời có tính chất tham khảo

Điều 100 Luật Thi hành án dân sự 2008 về giao tài sản để thi hành án quy định: Trường hợp đương sự thoả thuận để người được thi hành án nhận tài sản đã kê biên để trừ vào số tiền được thi hành án thì Chấp hành viên lập biên bản về việc thoả thuận. Trường hợp có nhiều người được thi hành án thì người nhận tài sản phải được sự đồng ý của những người được thi hành án khác và phải thanh toán lại cho những người được thi hành án khác số tiền tương ứng tỷ lệ giá trị mà họ được hưởng. Việc giao tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án được thực hiện trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày có thoả thuận”.

Điều 104 Luật Thi hành án dân sự về xử lý tài sản bán đấu giá không thành quy định: Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày bán đấu giá không thành mà đương sự không yêu cầu định giá lại thì Chấp hành viên ra quyết định giảm giá tài sản để tiếp tục bán đấu giá. Mỗi lần giảm giá không quá 10% giá đã định. Trường hợp giá tài sản đã giảm thấp hơn chi phí cưỡng chế mà người được thi hành án không nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án thì tài sản được trả lại cho người phải thi hành án.

Luật Thi hành án dân sự lại không quy định rõ là cần có thỏa thuận của các bên đương sự không hay chỉ cần người được thi hành án đồng ý là Chấp hành viên thực hiện việc giao tài sản cho người đó để trừ vào số tiền được thi hành án; hiện nay các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật này cũng không quy định cụ thể thêm vấn đề này. Do vậy, trường hợp giá tài sản đã giảm thấp hơn chi phí cưỡng chế mà người được thi hành án đồng ý nhận tài sản bán đấu giá không thành, nhưng người phải thi hành án không đồng ý giao, thì chưa có có sở pháp lý để giao tài sản đó cho người được thi hành án. Vì thế, ông B đồng ý nhận tài sản với giá đã định là số tiền 200 triệu đồng, nhưng ông A không đồng ý giao tài sản, thì Chấp hành viên không tiến hành cưỡng chế giao tài sản cho ông B, mà phải thực hiện việc xử lý tài sản bán đấu giá không thành theo quy định tại Điều 104 của Luật Thi hành án dân sự.

Các văn bản liên quan:

Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com