Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015

Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015.

Chế định thừa kế là một trong những chế định pháp luật quan trọng trong lĩnh vực  dân sự. Với tư cách là một hiện tượng xã hội khách quan, thừa kế ra đời như một tất  yếu của lịch sử. Sự tồn tại của con người là hữu hạn, đến một lúc nào đó con người  cũng sẽ phải đối mặt với “cái chết”. Một người chết đi đương nhiên không kéo theo  sự mất đi của những tài sản mà khi còn sống người đó đã nắm giữ, chi phối.

Như là một tất yếu, những tài sản đó sẽ phải được dịch chuyển sang cho những người còn sống để tiếp tục phát huy giá trị kinh tế, tinh thần của tài sản, phục vụ cho cuộc sống  của những người hưởng di sản nói riêng và xã hội loài người nói chung. Sự phát  triển của xã hội ở một mức độ nhất định dẫn đến sự ra đời của nhà nước và pháp  luật. Lúc này, các quan hệ xã hội không còn phát sinh, thay đổi, chấm dứt một cách  “tự phát” nữa mà chịu sự chi phối của các quy định pháp luật. Thừa kế cũng là một  trong những quan hệ xã hội nằm trong sự điều chỉnh đó.  

Có thể nói, chế định thừa kế là một trong những chế định có lịch sử ra đời  khá sớm so với rất nhiều các chế định khác trong lĩnh vực dân sự. BLDS năm 2015  trên cơ sở kế thừa những quy định của chế định thừa kế trong BLDS năm 2005  cũng đã có rất nhiều sửa đổi, bổ sung mới trên tinh thần tạo nên sự phù hợp giữa  quy định pháp luật với thực tiễn khách quan về vấn đề này. Về cơ bản, quy định  pháp luật về thừa kế của Việt Nam cũng như của các quốc gia khác trên thế giới đều  ghi nhận có hai hình thức thừa kế: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.  Nếu thừa kế theo di chúc hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của người để lại di sản  được thể hiện trong di chúc, thì thừa kế theo pháp luật là sự phản ảnh một cách rõ  nét nhất ý chí của nhà nước trong việc điều chỉnh, tác động vào các quan hệ thực  tiễn về việc dịch chuyển tài sản từ người chết sang cho những người còn sống. 

BLDS năm 2015 đã quy định những vấn đề liên quan đến thừa kế theo pháp luật và  thừa kế theo di chúc. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các vụ việc tranh chấp về thừa  kế đã cho thấy: có rất nhiều tranh chấp liên quan đến trường hợp thừa kế theo pháp  luật. Thậm chí, có những trường hợp người để lại di sản có lập di chúc nhưng di chúc lại không phát sinh hiệu lực pháp luật một phần, dẫn đến tranh chấp giữa  những người thừa kế theo di chúc và người thừa kế theo pháp luật. Hoặc có những  trường hợp tranh chấp thừa kế theo pháp luật do tranh chấp về tư cách người thừa  kế, tranh chấp do di sản thừa kế bị xác định sai…

Mặc dù vấn đề về thừa kế theo pháp luật đã có rất nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu, tuy nhiên cùng với  sự phát triển của kinh tế, văn hóa, xã hội cũng ngày một thay đổi, di sản thừa kế  ngày nay đã không chỉ còn là những di sản truyền thống nên các tranh chấp về thừa  kế theo pháp luật cũng thay đổi cả về đối tượng, chủ thể, tính chất, quy mô của vụ  việc. BLDS năm 2015 mới có hiệu lực từ 01/01/2017, tác giả thiết nghĩ việc nghiên  cứu về những cơ sở lý luận cũng như cơ sở thực tiễn của vấn đề thừa kế theo pháp  luật, qua đó đưa ra những đánh giá và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hiện  hành về nội dung này, tạo cơ sở pháp lý vững chắc hơn cho công tác áp dụng pháp  luật của tòa án trong giải quyết các tranh chấp về thừa kế theo pháp luật vẫn luôn là  một việc làm cần thiết và đáng được quan tâm, coi trọng. Tương ứng với sự thay  đổi, phát triển của nền kinh tế xã hội, tranh chấp về thừa kế cũng ngày càng phức  tạp về quy mô và tính chất, nhiều trường hợp dẫn đến mất trật tự an toàn xã hội,  băng hoại đạo đức, phong tục, truyền thống dân tộc.

Do đó luận án nghiên cứu và đề xuất các giải pháp mới nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hơn nữa hiệu quả áp  dụng pháp luật về thừa kế theo pháp luật. Từ những lý do trên, tác giả quyết định  lựa chọn đề tài: “Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã  hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015” làm đề tài nghiên cứu luận án của mình. 

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 

 BLDS Bộ luật Dân sự 

 BLTTDS Bộ luật Tố tụng dân sự 

 TANDTC Tòa án nhân dân tối cao  XHCN Xã hội chủ nghĩa 

 LDN Luật Doanh nghiệp 

 LSHTT Luật Sở hữu trí tuệ 

 TNHH Trách nhiệm hữu hạn 

MỞ ĐẦU 

1. Tính cấp thiết của đề tài

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 

2.1. Mục đích nghiên cứu 

Mục đích nghiên cứu của luận án là nghiên cứu cơ sở lý luận về thừa kế theo  pháp luật, chỉ ra những điểm chưa phù hợp trong quy định của BLDS về vấn đề thừa kế theo pháp luật so với thực tiễn giải quyết những tranh chấp liên quan đến  nội dung này, từ đó nhằm đưa ra những kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về thừa kế theo pháp luật, tạo hành lang pháp lý vững chắc hơn cho việc áp dụng pháp  luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền 

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 

Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án đặt ra nhiệm vụ cần giải quyết  những vấn đề sau: 

Thứ nhất, làm sáng tỏ hơn các vấn đề lý luận về thừa kế theo pháp luật, bao  gồm: khái niệm, đặc điểm của thừa kế theo pháp luật, khái niệm diện thừa kế, ý  nghĩa của quy định về thừa kế theo pháp luật, thừa kế thế vị, xác định di sản thừa  kế. 

Thứ hai, nghiên cứu và phân tích các quy định pháp luật hiện hành về thừa  kế theo pháp luật, có sự so sánh, đối chiếu với quy định pháp luật trước khi BLDS  2015 có hiệu lực và với quy định pháp luật của một số quốc gia trên thế giới. 

Thứ ba, nghiên cứu thực tiễn giải quyết tranh chấp về thừa kế theo pháp luật  trong thời gian gần đây. Từ đó, có những nhìn nhận về tính hợp lý hoặc những điểm  chưa hợp lý trong các quy định pháp luật, dẫn đến khó khăn trong quá trình áp dụng  pháp luật để giải quyết vụ việc trong thực tiễn và đề xuất những kiến nghị hoàn  thiện quy định pháp luật về thừa kế theo pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả của việc  giải quyết các tranh chấp liên quan đến nội dung này. 

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 

3.1. Đối tượng nghiên cứu 

Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là pháp luật về thừa kế theo pháp  luật theo BLDS nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015.  3.2. Phạm vi nghiên cứu 

– Phạm vi về nội dung nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu các quy  định của BLDS nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015 về thừa kế theo pháp luật, tuy nhiên luận án không nghiên cứu thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài. 

– Phạm vi về không gian: Luận án tập trung nghiên cứu về thừa kế theo pháp  luật ở trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam, bên cạnh đó có so sánh với một số quy  định của pháp luật của một số quốc gia trên thế giới. 

– Phạm vi về thời gian:  

Luận án nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực tiễn pháp lý liên quan đến thừa kế theo pháp luật, quy định của BLDS năm 2015 về thừa kế theo pháp luật  và tập trung tìm hiểu thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật từ khi BLDS 2015 có hiệu lực. Trong bối cảnh BLDS năm 2015 mới có hiệu lực  từ ngày 01/01/2017, tác giả vẫn có sự so sánh, đối chiếu các vấn đề về lý luận  và quy định pháp luật trong các BLDS trước đây (BLDS năm 1995 và BLDS  năm 2005), một số văn bản pháp luật trong thời kì cũ.  

4. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận án 

Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,  chủ nghĩa duy vật lịch sử trên cơ sở quan điểm, mục tiêu, đường lối của Đảng,  chính sách pháp luật của Nhà nước. 

Luận án sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau,  trong đó chủ yếu là các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn và  phương pháp nghiên cứu khoa học luật như phân tích, so sánh, tổng hợp cho  từng nội dung cụ thể, nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu và thực hiện được  nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra. Cụ thể: 

Để thực hiện được nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề lý luận tại Chương 2,  luận án sử dụng chủ yếu các phương pháp nghiên cứu: mô tả, phân tích, so sánh  để đưa ra được khái niệm thừa kế theo pháp luật, đặc điểm của thừa kế theo  pháp luật, và một số vấn đề lý luận khác. 

Để thực hiện được nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề về quy định pháp  luật hiện hành về thừa kế theo pháp luật tại Chương 3, luận án đã chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu phân tích, diễn dịch, quy nạp, so sánh đối chiếu  giữa quy định pháp luật của BLDS năm 2015 với quy định pháp luật trong  BLDS năm 2005 và quy định pháp luật trong chế độ cũ. 

Trong chương 4, với nhiệm vụ nghiên cứu thực tiễn giải quyết các tranh  chấp về thừa kế theo pháp luật, đồng thời chỉ ra những điểm bất cập và đưa ra  những kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật, luận án sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như phân tích, bình luận, diễn dịch, quy nạp, và so sánh đối  chiếu. 

5. Những đóng góp mới của Luận án 

Luận án Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa  xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015” đã thể hiện được những điểm mới sau  đây: 

Thứ nhất, luận án đã bổ sung, hoàn thiện thêm một số vấn đề lý luận cơ  bản về thừa kế theo pháp luật như khái niệm thừa kế theo pháp luật, diện thừa  kế theo pháp luật… Bên cạnh đó luận án cũng chỉ ra được bản chất, đặc điểm  của thừa kế theo pháp luật, cũng như ý nghĩa của các quy định về thừa kế theo  pháp luật. 

Thứ hai, luận án đã phân tích lại một cách có hệ thống những quy định  pháp luật trong BLDS năm 2015 về thừa kế theo pháp luật trên cơ sở những  vấn đề lý luận đã được nghiên cứu trong chương về lý luận, so sánh với quy  định pháp luật của một số quốc gia, cùng với việc nghiên cứu các quy định về  thừa kế trong các luật chuyên ngành như Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Sở hữu  trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009), qua đó đưa ra những quan điểm cá nhân  về những điểm hợp lý hoặc hạn chế của những quy định này so với quy định  trước đó.  

Thứ ba, luận án đã có những phân tích, nhận xét về một số bản án tiêu  biểu, một số tình huống trong thực tiễn về các tranh chấp thừa kế theo pháp luật  trong thời gian từ khi BLDS năm 2015 có hiệu lực pháp luật. Từ đó, chỉ ra  được những nguyên nhân và đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp  luật về vấn đề thừa kế theo pháp luật. Ví dụ: kiến nghị bổ sung quy định về  điều kiện để con nuôi được hưởng di sản thừa kế của cha mẹ đẻ của cha mẹ  nuôi mình, về từ chối nhận di sản; về điều kiện hưởng di sản thừa kế theo pháp  luật của cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; bổ  sung quy định về điều kiện của người thừa kế trong trường hợp được sinh ra  theo phương pháp khoa học… 

6. Ý nghĩa của luận án 

6.1. Ý nghĩa khoa học 

Luận án bổ sung và góp phần hoàn thiện thêm lý luận về thừa kế theo pháp  luật trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền để lại di sản và quyền được hưởng di sản  thừa kế của mỗi công dân. 

6.2. Ý nghĩa thực tiễn 

Luận án có thể là một tài liệu tham khảo có giá trị cho các nhà lập pháp  nghiên cứu, tìm hiểu, nhằm dự liệu và xây dựng những quy định pháp luật có giá trị và khả năng thực thi cao trong thực tiễn trên cơ sở những vấn đề lý luận và những  kiến nghị mà luận án đưa ra. Luận án cũng là một nguồn tài liệu tham khảo có giá  trị khoa học nhất định cho các chuyên gia giảng dạy về pháp luật nói chung, cũng  như pháp luật về thừa kế nói riêng. Ngoài ra, luận án có thể trở thành tài liệu tham  khảo có giá trị trong các cơ sở đào tạo luật học nhằm cung cấp những góc nhìn,  cách tiếp cận khác nhau về thừa kế theo pháp luật cho bạn đọc. 

7. Kết cấu của Luận án 

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết  cấu gồm 04 chương: 

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và các vấn đề liên quan đến đề tài 

Chương 2: Một số vấn đề lý luận về thừa kế theo pháp luật 

Chương 3: Thực trạng quy định của pháp luật về thừa kế theo pháp luật Chương 4: Thực tiễn áp dụng pháp luật về thừa kế theo pháp luật và một số kiến nghị 

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ 

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 

1.1.1. Tình hình nghiên cứu 

1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu lý luận về thừa kế theo pháp luật 

Thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng là một vấn đề có lịch sử hình  thành và phát triển lâu đời. Một người lúc còn sống có tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của  mình đều có quyền để lại di sản thừa kế sau khi họ chết cho những người còn sống, không  phụ thuộc vào việc người đó có năng lực hành vi dân sự đầy đủ hay không. Tương tự, một  người hoàn toàn có thể trở thành người nhận di sản thừa kế, khi người đó được chỉ định  trong di chúc, hoặc đáp ứng những điều kiện pháp luật quy định về người thừa kế theo  pháp luật. Đề tài về thừa kế là một trong những đề tài nhận được sự quan tâm của rất nhiều  nhà khoa học, nhất là các nhà khoa học trong lĩnh vực khoa học pháp lý.  

Trên cơ sở nghiên cứu các công trình về thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp  luật nói riêng, qua đó nhìn nhận được những vấn đề đã được nghiên cứu, cũng như các vấn  đề còn bỏ ngỏ về nội dung thừa kế theo pháp luật, nghiên cứu sinh nhận thấy các tài liệu  tham khảo về nội dung này rất đa dạng và phong phú về thể loại như sách, đề tài nghiên  cứu khoa học, các luận văn, luận án, các bài viết trong các tạp chí, hội thảo khoa học… Các  công trình đó đã nghiên cứu về khái niệm thừa kế theo pháp luật, về ý nghĩa của quy định  về thừa kế theo pháp luật, những trường hợp thừa kế theo pháp luật, về hàng thừa kế và  phạm vi người thừa kế theo pháp luật ở nhiều góc độ và cách nhìn khác nhau, mỗi một  công trình có cách nghiên cứu, tiếp cận riêng nhưng nhìn chung đều đã phân tích và phản  ánh được những nét cơ bản nhất về các vấn đề nghiên cứu, cụ thể như sau: 

* Về khái niệm thừa kế theo pháp luật: 

Khái niệm thừa kế theo pháp luật đã được một số tác giả nghiên cứu trong các công  trình như sách “Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay” của  tác giả Phùng Trung Tập, do Nxb Tư pháp xuất bản năm 2004, sách “Pháp luật về thừa  kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp”, Nxb Tư pháp Hà Nội xuất bản năm 2017 của tác  

giả Phạm Văn Tuyết và Lê Kim Giang, tác giả Nguyễn Văn Huy trong cuốn sách “Thừa  kế trong pháp luật dân sự Việt Nam”, Nxb. Tư pháp, Hà Nội 2017, cho thấy có sự thống  nhất cao và đều dựa trên quy định của các BLDS như Điều 677 BLDS 1995, Điều 674  BLDS 2005, Điều 649 BLDS 2015: “Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế,  điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định”.  

* Về đặc điểm thừa kế theo pháp luật 

Trong các công trình nghiên cứu về thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật  nói riêng, có rất ít công trình nghiên cứu có đề cập tới đặc điểm của thừa kế theo pháp luật. Cụ thể: 

Sách: Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp của tác giả Phạm Văn  Tuyết, Lê Kim Giang (2017) [83] là một trong số rất ít cuốn sách đề cập tới đặc điểm của  thừa kế theo pháp luật. Trong cuốn sách này, tác giả đã thông qua việc so sánh thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật để nêu lên những đặc điểm của thừa kế theo pháp  luật như sau: 

Thứ nhất, việc dịch chuyển di sản trong thừa kế theo pháp luật phải được dịch  chuyển theo hàng thừa kế mà pháp luật đã quy định trước. Hay nói cách khác là trong thừa  kế theo di chúc thì di sản được định đoạt dựa theo ý chí của người có tài sản, nhưng trong  thừa kế theo pháp luật thì những ai sẽ được hưởng di sản thừa kế do pháp luật dự liệu trước  trong mọi trường hợp, mọi gia đình là như nhau, tức là được định đoạt theo ý chí của nhà  làm luật [83, tr. 270]. 

Thứ hai, người thừa kế theo pháp luật chỉ được hưởng di sản khi có đủ hai điều  kiện: thứ nhất không thuộc các trường hợp không được hưởng di sản quy định tại Khoản 1,  Điều 643, BLDS 2005 và không bị người để lại di sản truất quyền thừa kế. Trong khi  người thừa kế theo di chúc chỉ cần điều kiện là không thuộc một trong các trường hợp  không được hưởng di sản theo quy định tại Khoản 1, Điều 643, BLDS 2005 vì khi người  để lại di sản đã thể hiện ý chí của mình trong di chúc bằng việc định đoạt cho người được  hưởng di sản đồng nghĩa với việc họ không tước quyền hưởng di sản của người được  hưởng di sản Trường hợp người thừa kế theo di chúc thuộc một trong các trường hợp  

không được hưởng di sản [46, Khoản 1, Điều 643] nhưng người để lại di sản biết mà vẫn  cho họ hưởng di sản thì họ vẫn được hưởng [46, Khoản 2, Điều 643] 

Thứ ba, trong thừa kế theo pháp luật, việc dịch chuyển di sản từ người để lại di sản  sang những người được hưởng di sản phải theo trình tự do pháp luật quy định. Đó là người  ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng di sản khi tất cả những người ở hàng thừa kế trước  không còn ai hoặc không được hưởng, bị tước quyền hưởng hoặc từ chối nhận di sản. Còn  trong thừa kế theo di chúc thì chỉ cần căn cứ vào ý chí của người để lại di sản định đoạt cho  ai thì người đó sẽ được nhận, không cần theo trình tự nào [83, tr. 270 – 271] 

Sách: “Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam” của Trường Đại học Kiểm sát do tác giả Vũ Thị Hồng Vân làm chủ biên (2016) cũng nêu lên đặc điểm của thừa kế theo pháp luật  so với thừa kế theo di chúc là người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân có một  trong ba mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng với người để lại di sản, nhưng  người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức và không cần có mối quan  hệ gì với người để lại di sản. 

Trong Nguyễn Văn Huy (2017), Thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam, Nxb. Tư  pháp, Hà Nội, tác giả Nguyễn Văn Huy nêu ba đặc điểm của thừa kế theo pháp luật là: Một là về dịch chuyển tài sản, đồng quan điểm với tác giả Phạm Văn Tuyết và Lê  Kim Giang (2013) trong Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp, tác giả Nguyễn Văn Huy nêu rõ: “Việc dịch chuyển tài sản theo hàng thừa kế do pháp luật quy  định mà không theo ý chí của người để lại di sản. Việc dịch chuyển tài sản phải theo trình  tự căn cứ vào hàng thừa kế. Người thừa kế ở hàng sau chỉ được hưởng nếu không còn ai ở  hàng thừa kế trước” [23, tr.85] 

Hai là, “căn cứ xác định người thừa kế: Người thừa kế phải thuộc diện thừa kế theo  pháp luật, có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng với người để lại di sản” [23,  tr.85]. Đây là điểm khác biệt rất lớn của thừa kế theo pháp luật so với thừa kế theo di chúc.  Trong thừa kế theo di chúc thì vấn đề này hoàn toàn không được đặt ra. 

Ba là, đối với phần di sản được hưởng thì “những người thừa kế theo pháp luật được  hưởng những kỷ phần bằng nhau” [23, tr.85] nhưng trong thừa kế theo di chúc thì các kỷ  phần có giá trị lớn nhỏ phụ thuộc vào ý chí của người để lại di sản. 

Tóm lại, dù đặc điểm mà các tác giả nêu lên là khác nhau nhưng các tác giả đều xuất  phát từ nguyên nhân dẫn đến việc áp dụng thừa kế theo pháp luật là do người để lại di sản  không thể hiện ý chí của mình đối với khối tài sản mà họ có trước khi chết nên pháp luật  thay cho ý chí của người để lại di sản để định đoạt khối tài sản của họ sau khi họ chết. Pháp  luật phân chia cho những người gần gũi nhất với người để lại di sản dựa trên ba mối quan hệ:  hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng theo những điều kiện và trình tự luật định. 

* Về ý nghĩa của quy định về thừa kế theo pháp luật 

Về ý nghĩa của quy định về thừa kế theo pháp luật, đã có nhiều công trình nghiên  cứu đề cập tới ý nghĩa của quy định về thừa kế như sau: 

Bài viết: “Một số vấn đề về chế định quyền thừa kế trong Luật Dân sự” của tác giả Hà Thị Mai Hiên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5 năm 1995. Trong bài viết này, tác  giả đã đề cập tới ý nghĩa của quy định pháp luật về thừa kế là “thiết lập một trật tự xác định  người nào có thể thay thế người đã chết tham gia vào các quan hệ tài sản và bằng cách đó  bảo đảm sự vận hành bình thường quá trình phát triển kinh tế xã hội” [17, tr.31]. 

Sách: “Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của BLDS”, Viện nghiên cứu  khoa học pháp lý (1997), do tác giả Hoàng Thế Liên làm chủ biên, đã dành toàn bộ chương 5 viết về thừa kế. Tác giả nêu lên ý nghĩa của các quy định về thừa kế có ý nghĩa  “đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi của đời sống trong lĩnh vực này, tạo điều kiện cũng  như khuyến khích mọi cá nhân tích cực lao động sản xuất, tăng thêm của cải vật chất cho  gia đình và xã hội” [93, tr.262]. 

Luận án Tiến sĩ luật học: “Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ 1945  đến nay”, tác giả Phùng Trung Tập (2002), trong Luận án này, tác giả đã đưa ra ý nghĩa  của các quy định về thừa kế là “điều chỉnh kịp thời các quan hệ trong lĩnh vực thừa kế,  cũng như tạo cơ sở pháp lý cơ bản cho việc giải quyết những tranh chấp phát sinh từ quan  hệ thừa kế” [53]. 

Sách: Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay” của  tác giả Phùng Trung Tập (2004). Trong cuốn sách này, tác giả đã bổ sung thêm ý nghĩa của quy định về thừa kế là “theo đó quyền và lợi ích về tài sản của công dân được chú ý  bảo vệ phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước” [55, tr.5]. 

Sách: “Hỏi đáp pháp luật về thừa kế”, của các tác giả Phạm Minh Lương, Tạ Mạnh Tấn (2006). Trong cuốn sách này, tác giả có cách nhìn khác hơn về ý nghĩa của quy  định về thừa kế là nhằm “hạn chế tối đa các tranh chấp” [28, tr.3] về thừa kế từ lâu đã rất  phức tạp và xảy ra ngày càng nhiều trong xã hội. 

Luận án Tiến sĩ luật học“Cơ sở lý luận và thực tiễn của những quy định chung về thừa kế trong BLDS” năm 2007 của tác giả Nguyễn Minh Tuấn đã khẳng định ý nghĩa của  quy định pháp luật về thừa kế nói chung là “đóng vai trò quan trọng, điều chỉnh việc  chuyển dịch di sản của người chết cho những người khác còn sống theo di chúc hoặc theo  quy định của pháp luật” [75, tr.5]

Sách: “Pháp luật dân sự và thực tiễn xét xử”, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2009,  tác giả Tưởng Duy Lượng đã nói về ý nghĩa của quy định về thừa kế là “một trong những  phương tiện pháp lý cần thiết để bảo toàn và gia tăng sự tích lũy của cải xã hội” [32,  tr.139]. Bởi vì tâm lý của đa số cá nhân đều muốn dành tài sản của mình cho những người  mà họ thương yêu kể cả khi họ còn sống hay đã chết. Bản thân họ có thể lao động vất vả,  chi tiêu tiết kiệm trước hết để duy trì cuộc sống, sau đó là dành lại cho những người thân  của mình. Giả sử, pháp luật không công nhận quyền thừa kế của cá nhân mà cá nhân chỉ có quyền sở hữu tài sản của mình tới khi chết thì sẽ dẫn tới những hậu quả rất đáng tiếc,  không thể tránh khỏi. Đó là việc triệt tiêu nguồn động lực khiến họ hăng say lao động, bên  cạnh đó còn triệt tiêu động lực để duy trì khối tài sản mình có. Khi đó họ sẽ tiêu dùng  hoang phí dẫn tới lãng phí nguồn của cải của xã hội, thậm chí do không có tích lũy, có  những người còn trở thành gánh nặng của xã hội khi có những biến cố trong cuộc sống.  Chính vì vậy, ý nghĩa của quy định về thừa kế là rất lớn, giúp cá nhân “không chỉ kích  thích tính tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng mà còn kích thích lòng say mê lao động  sáng tạo, kích thích sự quản lý năng động của mỗi người; tạo ra sự thi đua thầm lặng của  mỗi cá nhân nhằm nâng khối tài sản của mình lên bằng sức lực và khả năng sáng tạo mà  họ có, chỉ khi đó, quyền sở hữu và quyền thừa kế mới trở thành một trong những động lực  quan trọng để phát triển kinh tế xã hội” [32, tr.5]. 

Sách: “Tìm hiểu các quy định của pháp luật về thừa kế” của tác giả Dương Bạch  Long và Nguyễn Xuân Anh (2009). Trong cuốn sách này tác giả đã phát hiện ra ý nghĩa  

của quy định pháp luật về thừa kế:“đáp ứng được những đòi hỏi của đời sống xã hội trong  lĩnh vực này; đồng thời tạo điều kiện cũng như khuyến khích mọi cá nhân tích cực lao  động sản xuất, tăng thêm của cải vật chất cho gia đình và xã hội” và “nhằm bảo vệ tốt hơn  nữa quyền của người để lại di sản, cũng như quyền và nghĩa vụ của những người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật” [3, tr.6]. 

Luận án Tiến sĩ luật học: “Pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất từ thực tiễn xét  xử tại tòa án ở Việt Nam” của tác giả Trần Văn Hà (2017). Trong công trình này, tác giả đã chứng minh ý nghĩa của quy định về thừa kế là “có vai trò, ý nghĩa rất lớn trong việc  điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực thừa kế [15, tr 54]. 

Các công trình nghiên cứu trên đều đề cập tới ý nghĩa của quy định về thừa kế nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu riêng về ý nghĩa của quy định về thừa kế theo  pháp luật. Mỗi công trình đều nêu lên được ý nghĩa của quy định về thừa kế dưới góc nhìn  của tác giả. Mỗi góc nhìn của một tác giả khác nhau lại nêu lên một ý nghĩa khác nhau của  quy định thừa kế. Đối với kinh tế thì quyền và lợi ích về tài sản của công dân được chú ý  bảo vệ phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đối với đời sống xã  hội thì quy định về thừa kế sẽ góp phần bảo toàn, gia tăng tích lũy của cải xã hội, hạn chế tối đa các tranh chấp cũng như tạo cơ sở pháp lý cơ bản cho việc giải quyết các tranh chấp  phát sinh từ quan hệ thừa kế nếu có, khuyến khích cá nhân tích cực tham gia sản xuất, đối  với đời sống. Đối với đời sống tình cảm mỗi cá nhân thì quy định về thừa kế sẽ góp phần  tránh được những mâu thuẫn tình cảm của những người trong gia đình có liên quan đến di  sản. Nhưng dù xét dưới góc độ nào cũng có thể thấy được ý nghĩa và vai trò rất to lớn của  quy định về thừa kế trong việc điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội hiện nay. 

* Về những trường hợp thừa kế theo pháp luật  

Các trường hợp thừa kế theo pháp luật là các giả thiết, các tình huống giả định mà  khi các giả thiết, tình huống này xảy ra thì những quy định của pháp luật về thừa kế theo  pháp luật sẽ được sử dụng để định đoạt tài sản cho người đã chết. 

Các công trình nghiên cứu về những trường hợp thừa kế theo pháp luật, có các  công trình như: 

Sách: “Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của BLDS”, Viện nghiên cứu  khoa học pháp lý (1997) [93], do tác giả Hoàng Thế Liên làm chủ biên đã phân tích rất chi  tiết các trường hợp thừa kế theo pháp luật theo quy định tại Điều 678 BLDS 1995.  

Sách: “Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay” của  tác giả Phùng Trung Tập (2004) [55], trong cuốn sách này, tác giả đã nêu lên và phân tích  các trường hợp thừa kế theo pháp luật ở nước ta trước Cách mạng tháng Tám do chế độ thực dân quy định chỉ có hai trường hợp. Sau năm 1945, Sắc lệnh 97 được ban hành nhưng  các trường hợp thừa kế theo pháp luật không được quy định. Sau đó Thông tư 1742 của Bộ 

Tư pháp được ban hành nhưng cũng chỉ quy định hai trường hợp áp dụng thừa kế theo  pháp luật là: người chết không để lại di chúc và người chết có để lại di chúc nhưng di chúc  không hợp pháp. Tiếp theo tới Thông tư 594 của Tòa án nhân dân tối cao, Thông tư số 81  và kể cả Pháp lệnh thừa kế trước đây đã không có được những dự liệu toàn diện và đầy đủ dẫn tới nhiều bất cập khi áp dụng. Sau khi BLDS 1995 ra đời thì những trường hợp thừa  kế theo pháp luật được quy định tại Điều 678 mới dự liệu được đầy đủ và toàn diện những  trường hợp thừa kế theo pháp luật. Đến khi BLDS 2005 và BLDS 2015 có hiệu lực thi  hành thì những quy định về trường hợp thừa kế theo pháp luật về cơ bản được giữ nguyên  chỉ thay đổi một số câu chữ cho phù hợp hơn mà không làm ảnh hưởng tới nội dung của  các Điều 675 BLDS 2005 và Điều 650 BLDS 2015. 

Sách: “Bình luận khoa học BLDS của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam  năm 2015” (2016) [76], của tác giả Nguyễn Minh Tuấn cùng tập thể tác giả là giảng viên  Bộ môn Luật Dân sự Khoa Pháp luật Dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội biên soạn, đã  dành trọn 100 trang (từ trang 872 tới trang 972) bình luận về phần thứ tư: Thừa kế. Trong  chương XXIII về thừa kế theo pháp luật, các tác giả đã nêu lên các trường hợp thừa kế theo pháp luật theo quy định tại Điều 650 BLDS 2015 và phân tích, bình luận về các  trường hợp này. 

Sách: “Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp” của tác giả Phạm  Văn Tuyết, Lê Kim Giang (2017) [83], trong cuốn sách này, tác giả Phạm Văn Tuyết, Lê  Kim Giang cũng đề cập tới những trường hợp áp dụng thừa kế theo pháp luật. Các tác giả nêu lên các trường hợp áp dụng của thừa kế theo pháp luật trong từng thời kỳ và so sánh  

làm nổi bật sự hoàn thiện, tịnh tiến theo thời gian để độc giả tiếp cận được vấn đề một cách  có hệ thống, thấy được sự hoàn thiện ngày càng cao về kĩ thuật cũng như tư duy lập pháp. Sách: “Luật Dân sự Việt Nam – bình giải và áp dụng, luật thừa kế”, của tác giả Phùng Trung Tập (2017) [63] đã phân tích những nội dung về thừa kế trong BLDS 2015,  bên cạnh đó, tác giả còn đưa ra những bình giải về những quy định của pháp luật về thừa  kế như các trường hợp thừa kế theo pháp luật theo quy định tại Điều 650 BLDS 2015 một  cách khá chi tiết và sâu sắc, như với trường hợp di chúc không hợp pháp, tác giả đã chỉ ra  rất nhiều nguyên nhân dẫn tới việc di chúc bị coi là không hợp pháp như: di chúc được lập  ra trái ý chí của người để lại di sản, di chúc lập cho người không có thực, không xác định  được người đó là ai… 

Các công trình trên đều có sự thống nhất là nêu lên các trường hợp thừa kế theo  pháp luật theo quy định của pháp luật hiện hành tại thời điểm mà công trình đó được công  bố. Riêng cuốn sách “Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến  nay” (2004) [55], tác giả Phùng Trung Tập đã nêu lên và phân tích các trường hợp thừa kế theo pháp luật ở nước ta trước Cách mạng tháng Tám và sau giai đoạn sau Cách mạng  tháng Tám đến năm 2004. Tiếp đó là cuốn sách: “Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải  quyết tranh chấp” của tác giả Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang (2017) [83], trong cuốn  sách này, tác giả Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang cũng đề cập tới những trường hợp áp  dụng thừa kế theo pháp luật trong từng thời kì. Tuy nhiên, mỗi lần BLDS mới được ban  hành thì các trường hợp thừa kế theo pháp luật lại được bổ sung hoàn thiện hơn BLDS  trước đó (trừ quy định về các trường hợp thừa kế theo pháp luật trong BLDS 2015 về cơ  bản được giữ nguyên chỉ thay đổi một số câu chữ cho phù hợp hơn mà không làm ảnh  hưởng tới nội dung của các Điều 675 BLDS 2005 và Điều 650 BLDS 2015) nên các công  trình dù có nêu lên các trường hợp thừa kế theo pháp luật trong từng thời kì nhưng về cơ  bản vẫn dựa trên các trường hợp thừa kế theo pháp luật mà BLDS hiện hành quy định. Vì  vậy, những công trình ra đời sau sẽ đề cập đến quy định về các trường hợp thừa kế theo  pháp luật một cách đầy đủ, hoàn thiện hơn các công trình ra đời trước.  

* Về hàng thừa kế và phạm vi người thừa kế theo pháp luật: 

Trong những năm qua, có rất nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới vấn đề hàng  thừa kế theo pháp luật, 

Sách: “Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của BLDS”, Viện nghiên cứu  khoa học pháp lý (1997) [93], do tác giả Hoàng Thế Liên làm chủ biên cũng đề cập khá chi  tiết những quy định của pháp luật và những bình luận của các tác giả về những vấn đề có  liên quan tới việc một người có được hưởng thừa kế theo pháp luật của người kia hay  không như: cơ sở để vợ chồng được hưởng thừa kế theo pháp luật của nhau, trường hợp vợ chồng xin ly hôn mà chưa được tòa án cho ly hôn bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực  pháp luật, hay trường hợp vợ chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau  đó một người chết… 

Bài viết: “Quyền của trẻ em đối với tài sản và thừa kế tài sản, một số vấn đề lý  luận và thực tiễn”, của tác giả Hà Thị Mai Hiên đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp  luật, số 5 năm 1998 [18], tác giả đã làm rõ bản chất pháp lý và những nguyên tắc chung  về quyền của trẻ em đối với tài sản và thừa kế tài sản, quyền về tài sản của trẻ em,  quyền của trẻ em về thừa kế tài sản. Ngoài việc được hưởng thừa kế tài sản của cha mẹ,  ông bà, các cụ dựa trên quy định về các hàng thừa kế theo pháp luật thì trẻ em còn  được hưởng di sản thừa kế của cha mẹ không phụ thuộc vào nội dung của di chúc,  được hưởng thừa kế thế vị tài sản của ông bà, các cụ và có thể được hưởng thừa kế theo pháp luật của cha dượng, mẹ kế…Từ đó tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm bảo  vệ quyền của trẻ em về tài sản và thừa kế tài sản.  

Sách: “Một số suy nghĩ về thừa kế trong Luật Dân sự Việt Nam”(1999) [11] của tác  giả Nguyễn Ngọc Điện, là một công trình khá chuyên sâu. Trong phần di chuyển di sản,  tác giả đề cập tới quyền hưởng di sản thừa kế theo pháp luật của từng người được hưởng di  sản một cách khá chi tiết như các con đã thành niên, chưa thành niên, con đẻ, con nuôi, con  ngoài giá thú, cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi… với các ví dụ cụ thể về những người không có  quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản… 

Bài viết “Bàn về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng” của tác giả Thái  Công Khanh đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 2/2002. Trong bài viết này tác giả nêu  lên các trường hợp như: con riêng nhỏ tuổi hay lớn tuổi, con riêng có ở chung với bố 

dượng hay không, con riêng đi làm con nuôi một người khác, con riêng có một hoặc có  nhiều bố dượng, con riêng có quan hệ chăm sóc với bố dượng hay không… từ đó tác giả đưa ra những quan điểm, kiến nghị một số nội dung trong BLDS 1995.  

Sách: Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay” của  tác giả Phùng Trung Tập (2004) [55]. Trong cuốn sách này, tác giả đã đề cập tới diện và  hàng thừa kế theo pháp luật dọc theo quá trình phát triển của chế định thừa kế theo pháp  luật ở nước ta từ năm 1945 đến khi cuốn sách được xuất bản (năm 2004) và đưa ra những  phân tích, bình luận của mình về vấn đề này, ví dụ như quy định của Thông tư 594 về quyền hưởng di sản thừa kế của một người khi người đó đã là con nuôi hợp pháp của một  người khác. Tác giả đã chỉ ra những bất cập của các quy định pháp luật về diện và hàng  thừa kế ở các văn bản quy định về thừa kế nói chung cũng như quy định trong Thông tư  594 nói riêng. 

Bài viết: Những hạn chế và bất cập của các quy định về thừa kế trong BLDS 1995,  Tạp chí Tòa án nhân dân số 4/2004 của tác giả Phùng Trung Tập [56] đề cập tới vấn đề thừa kế thế vị, trường hợp đặc biệt của thừa kế theo pháp luật. Sau các phân tích, tác giả kiến nghịsửa đổi Điều 680 BLDS 1995. 

Bài viết: “Vài suy nghĩ về Điều 680 BLDS (thừa kế thế vị)”, tác giả Nguyễn Hải An  đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 4 năm 2004 [1]. Trong bài viết này, tác giả đã nêu  lên một số vấn đề như sau: Điều 680 BLDS 1995 “chưa đề cập đến trường hợp những  người có quyền thừa kế di sản của nhau đều chết trong cùng một thời điểm thì con hoặc  cháu của họ có được thừa kế thế vị hay không?”. Tác giả đưa ra các quan điểm của nhà  nghiên cứu Nguyễn Ngọc Điện, ông Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Tưởng Duy Lượng  về vấn đề này, từ đó, tác giả tổng hợp, nêu lên một số kiến nghị của các nhà nghiên cứu  trên nhằm bổ sung Điểm b, Khoản 1, Điều 679, BLDS 1995 cho cháu được hưởng thừa  kế theo pháp luật của ông bà vào hàng thừa kế thứ hai và chắt được hưởng thừa kế theo  pháp luật của cụ ở hàng thừa kế thứ ba. Tiếp đó tác giả còn nêu một số ý kiến chỉ ra sự bất  cập của Điều 680 vì chưa quy định cụ thể trường hợp cha mẹ của cháu bị truất quyền  hưởng thừa kế của ông bà thì cháu có được hưởng thừa kế thế vị hay không, chắt có được  

hưởng thừa kế thế vị của cụ khi ông bà của chắt bị tước quyền hưởng di sản của cụ hay  vấn đề con nuôi có được hưởng thừa kế thế vị hay không cũng đã được tác giả đặt ra. Sách: “Bình luận khoa học BLDS của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam  năm 2015” của tác giả Nguyễn Minh Tuấn cùng tập thể tác giả là giảng viên Bộ môn Luật  Dân sự, Khoa Pháp luật Dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội biên soạn (2015) [76] đã  trình bày về diện và hàng thừa kế theo quy định tại Điều 651 BLDS 2015 và đưa ra những  giải thích rất chi tiết, cụ thể như cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi là  gì…trường hợp nào họ được hưởng di sản thừa kế của nhau, trường hợp nào không. Sách: “Luật Dân sự Việt Nam bình giải và áp dụng Luật thừa kế (2017) [63], tác  giả Phùng Trung Tập đã đề cập tới diện và hàng thừa kế theo pháp luật một cách khá chi  tiết như trường hợp cần xác định con ngoài giá thú, trường hợp một người đàn ông có  nhiều vợ, hay trường hợp hôn nhân thực tế thì vợ chồng có được hưởng di sản thừa kế của  nhau hay không…  

Sách: “Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp” (2017) của tác giả Phạm Văn Tuyết và Lê Kim Giang đã đề cập tới quy định về diện và hàng thừa kế theo  pháp luật của pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ và pháp luật thừa kế của một số quốc gia  trên thế giới như của Cộng hòa Pháp, của Thái Lan [83]… Theo tác giả, dù theo quy định  của pháp luật Việt Nam hay quy định của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới thì diện và hàng  thừa kế theo pháp luật cũng được quy định dựa vào “ý chí mang tính truyền thống” của  người để lại di sản, có nghĩa là dù không bày tỏ được ý chí cụ thể của mình nhưng thông  thường, người chết sẽ để lại di sản cho những người thân thích nhất của họ. Có thể nói  những ai thuộc diện và hàng thừa kế theo pháp luật cũng chính là dựa vào sự “phỏng đoán  ý chí của người để lại di sản”. 

Tập tài liệu “Promoting and protecting the inheritance rights of women” (Thúc  đẩy và bảo vệ quyền thừa kế của phụ nữ) do Trung tâm về quyền và nhà ở tiến hành khảo  sát về pháp luật và thực tiễn ở vùng cận Sahara châu Phi vào năm 2004 [97]. Tập tài liệu là  kết quả của cuộc khảo sát về quyền thừa kế của phụ nữ ở vùng cận Sahara châu Phi. Đây  là khu vực kém phát triển, quyền và lợi ích của người phụ nữ chưa được chú trọng, trong  đó có quyền thừa kế. Kết quả của cuộc khảo sát chủ yếu phục vụ cho công tác báo cáo,  

đánh giá và đề ra các giải pháp nhằm bảo vệ quyền thừa kế của phụ nữ, làm sao để phụ nữ ở những khu vực kém phát triển trên thế giới có được quyền hưởng di sản thừa kế như  những khu vực phát triển trên thế giới. 

Các công trình trên đều bàn về hàng thừa kế và phạm vi những người được hưởng  di sản thừa kế theo pháp luật. Các công trình đó bàn về sự phù hợp hay chưa phù hợp của  các quy định của pháp luật Việt Nam về những người được hưởng di sản thừa kế theo  pháp luật như cha mẹ, vợ chồng, con, con nuôi, con riêng với cha dượng, mẹ kế, về những  hạn chế của pháp luật Việt Nam khi chưa quy định quyền thừa kế thế vị của các con, cháu  khi bố mẹ, ông bà bị truất quyền hưởng thừa kế từ đó các tác giả đưa ra các giải pháp sửa  đổi bổ sung quy định của pháp luật về thừa kế theo pháp luật. 

1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu thực trạng quy định của pháp luật về thừa kế theo pháp luật 

Trong thời gian qua, nghiên cứu thực trạng quy định của pháp luật về thừa kế theo  pháp luật, có rất nhiều các công trình trong đó có các công trình tiêu biểu như sau: Sách: “Một số suy nghĩ về thừa kế trong Luật Dân sự Việt Nam”của tác giả Nguyễn Ngọc Điện (1999) [11] là một công trình khá chuyên sâu, nhưng tác giả chủ yếu  nghiên cứu về những quy định chung về thừa kế. Trong phần Di chuyển di sản, tác giả đề cập tới quyền hưởng di sản thừa kế theo pháp luật của những người được hưởng di sản  một cách khá chi tiết với cả các ví dụ cụ thể về những người không có quyền hưởng di sản,  bị truất quyền hưởng di sản…  

Sách: “Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay” của  tác giả Phùng Trung Tập (2004) [55], cuốn sách giúp độc giả xác định được tầm quan  trọng của chế định thừa kế theo pháp luật trong hệ thống pháp luật dân sự nước ta. Giá trị lớn của cuốn sách là đã chỉ ra được những quy định chưa phù hợp về thừa kế theo pháp  luật (kể cả các quy định trong BLDS 1995). 

Bài viết: “Di sản thừa kế trong pháp luật dân sự một số nước trên thế giới” của tác  giả Trần Thị Huệ” [19] đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật tháng 10 năm 2006, Số 222, tr.78 – 83 đã nói về di sản trong một số BLDS của một số quốc gia như: Luật Dân sự La Mã, BLDS của nước Cộng hòa Pháp, BLDS và Thương mại Thái Lan, BLDS Nhật  

Bản, BLDS của bang Quebec, Canada. Trong bài viết này, tác giả đưa ra kiến nghị đưa  khái niệm di sản thừa kế vào trong BLDS Việt Nam thì mới có cơ sở lí luận để xem xét và  xác định di sản thừa kế trên bình diện chung nhất. 

Sách: “Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp” của tác giả Phạm  Văn Tuyết, Lê Kim Giang (2017) [83]. Cũng như những cuốn sách viết về thừa kế theo  pháp luật khác, cuốn Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp, tác giả Phạm  Văn Tuyết, Lê Kim Giang cũng viết về những trường hợp áp dụng, những người được  hưởng di sản thừa kế theo pháp luật, thừa kế thế vị. Nhưng đa số các cuốn sách khác đều  đề cập tới những vấn đề trên bằng cách liệt kê. Trong cuốn Pháp luật về thừa kế và thực  tiễn giải quyết tranh chấp, hai tác giả đã dựa vào sự liệt kê các trường hợp thừa kế theo  pháp luật của các văn bản ra đời sau hoàn thiện hơn các văn bản ra đời trước để nêu lên các  trường hợp áp dụng của thừa kế theo pháp luật trong từng thời kỳ và so sánh làm nổi bật sự hoàn thiện, tịnh tiến theo thời gian. Cùng với cách giải quyết vấn đề như vậy, các tác giả đã  viết về những người thừa kế theo pháp luật và thừa kế thế vị làm cho độc giả tiếp cận được  vấn đề nghiên cứu một cách hệ thống. 

Sách: “Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS năm 2015”, của tác giả Đỗ Văn Đại (2016) [10]. Đúng như tên gọi cuốn sách, nội dung trong cuốn sách chỉ bình luận  về những điểm mới của BLDS 2015. Trong nội dung thừa kế, cuốn sách chỉ tập trung bình  luận những điểm mới trong phần những quy định chung, phần thừa kế theo di chúc và  phần thanh toán di sản. Phần thừa kế theo pháp luật, tác giả nhận định không có sự thay  đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 nên cuốn sách này không đề cập tới. 

Sách: “Bình luận khoa học BLDS của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam  năm 2015” của tác giả Nguyễn Minh Tuấn cùng tập thể tác giả là giảng viên Bộ môn Luật  Dân sự, Khoa Pháp luật Dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội biên soạn (2015) [76] đã  dành trọn 100 trang (từ trang 872 tới trang 972) bình luận về phần thứ tư: Thừa kế. Trong  chương XXI là những quy định chung về thừa kế, chương XXIII về thừa kế theo pháp  luật, các tác giả đã phân tích, bình luận khá chi tiết và sâu sắc nội dung lần lượt từng điểm,  từng khoản của các điều luật. Bên cạnh đó, các tác giả còn đưa ra những ví dụ cụ thể để phân tích, minh họa giúp cho độc giả hiểu chính xác nhất tinh thần của các điều luật. 

Sách: “Luật Dân sự Việt Nam – bình giải và áp dụng, luật thừa kế”, của tác giả Phùng Trung Tập (2017) [63]. Trong cuốn sách này viết về thừa kế, là một phần nằm trong  bộ sách khoa học “Luật Dân sự Việt Nam – bình giải và áp dụng”, tác giả nêu lên những  điểm mới cơ bản về thừa kế trong BLDS 2015. Bên cạnh đó, tác giả còn đưa ra những  bình giải về những quy định của pháp luật về thừa kế để người đọc hiểu và áp dụng những  quy định đó vào đời sống thực tế. Cuốn sách này là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị cho  độc giả trong việc tìm hiểu, giảng dạy, học tập, áp dụng Luật Dân sự. 

Sách “Inheritance in America from coloninal times to the present” (Thừa kế ở Hoa  Kì từ thời thuộc địa đến hiện tại) (1987) của các tác giả Carole Shammas, Marylyn  Salmon, Michel Dililin, Nxb Rutgers. Cuốn sách là sự tổng hợp các vấn đề có liên quan  đến thừa kế theo quy định của pháp luật Hoa kì từ thời kì thuộc địa, cho thấy cái nhìn toàn  diện về sự thay đổi trong quy định của pháp luật để phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn, nhất  là đối với quốc gia có nhiều bang như Hoa Kì [98]. 

Sách “A survey of Canadian and German Succession Law” (Một cuộc khảo sát về luật thừa kế của Canada và Đức) của Eric P. Polten (2011) tập trung làm rõ những nội  dung liên quan đến thừa kế theo pháp luật của Canada và Đức, trên cơ sở đó có sự đối  chiếu và luận giải một số vấn đề về thừa kế [99] 

Sách “Inheritance Law in Germany and Australia” (Pháp luật về thừa kế ở Đức và  Australia) của tác giả Schuweizei Kobras (2012) [102]. Đây là cuốn sách tương đối mới  nghiên cứu về pháp luật thừa kế của hai quốc gia thuộc hai châu lục khác nhau là Đức và  Australia. Trên cơ sở phân tích những quy định của pháp luật quốc gia về vấn đề thừa kế,  tác giả có sự so sánh, đối chiếu để làm rõ những điểm khác nhau cơ bản trong quy định của  pháp luật về thừa kế ở hai quốc gia này. 

Trong các công trình trên, ngoài việc các tác giả đã nêu lên các trường hợp áp dụng  của thừa kế theo pháp luật, tác giả Phạm Văn Tuyết và Lê Kim Giang đã có sự so sánh làm  nổi bật sự hoàn thiện, tịnh tiến theo thời gian về các trường hợp áp dụng của thừa kế theo  pháp luật [83]. Trong cuốn sách “Luật Dân sự Việt Nam – bình giải và áp dụng, luật thừa  kế” [63] tác giả Phùng Trung Tập còn đưa ra những bình giải về những quy định của pháp  luật về thừa kế để người đọc hiểu và áp dụng những quy định đó vào đời sống thực tế. Các tác giả đã đưa ra những nhận xét của mình về thực trạng quy định của pháp luật về thừa kế theo pháp luật. 

1.1.1.3. Các công trình nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định về thừa kế theo pháp  luật  

Trong những năm gần đây, có rất nhiều các công trình khoa học, các bài viết trong  các báo, tạp chí, hội thảo khoa học chuyên ngành, các sách, tài liệu chuyên khảo bàn về  nghiên cứu về có rất nhiều công trình trên nghiên cứu về thực tiễn áp dụng quy định thừa  kế theo pháp luật, trong đó có các công trình tiêu biểu sau: 

Bài viết: “Quyền của trẻ em đối với tài sản và thừa kế tài sản: một số vấn đề lý luận  và thực tiễn”, của tác giả Hà Thị Mai Hiên đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5  năm 1998 [18], tác giả đã làm rõ bản chất pháp lý và những nguyên tắc chung về quyền  của trẻ em đối với tài sản và thừa kế tài sản, quyền về tài sản của trẻ em, quyền của trẻ em  về thừa kế tài sản. Từ đó tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm bảo vệ quyền của trẻ em về tài sản và thừa kế tài sản.  

Bài viết: Hoàn thiện chế định thừa kế trong BLDS, của tác giả Nguyễn Văn Mạnh,  Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5 năm 2002 [35]. Trong bài viết, tác giả phân tích một  cách chi tiết, cụ thể, đưa ra những nhận định rất sâu sắc và đề xuất hướng hoàn thiện  những quy định trong BLDS 1995 về thừa kế. 

Bài viết: “Vài suy nghĩ về Điều 680 BLDS (thừa kế thế vị)”, tác giả Nguyễn Hải An  đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 4 năm 2004 [1]. Trong bài viết này, tác giả đã nêu  lên một số vấn đề như sau: Điều 680 BLDS 1995 “chưa đề cập đến trường hợp những  người có quyền thừa kế di sản của nhau đều chết trong cùng một thời điểm thì con hoặc  cháu của họ có được thừa kế thế vị hay không?”. Tác giả đưa ra các quan điểm của tác giả Nguyễn Ngọc Điện, ông Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Tưởng Duy Lượng về vấn đề 

này; thứ hai, nêu lên một số ý kiến nghị bổ sung Điểm b, Khoản 1, Điều 679, BLDS 1995  cho cháu được hưởng thừa kế theo pháp luật của ông bà vào hàng thừa kế thứ hai và chắt  được hưởng thừa kế theo pháp luật của cụ ở hàng thừa kế thứ ba. Tiếp đó tác giả còn nêu  một số ý kiến chỉ ra sự bất cập của điều 680 vì chưa quy định cụ thể trường hợp cha mẹ của cháu bị truất quyền hưởng thừa kế của ông bà thì cháu có được hưởng thừa kế thế vị 

hay không, chắt có được hưởng thừa kế thế vị của cụ khi ông bà của chắt bị tước quyền  hưởng di sản của cụ hay vấn đề con nuôi có được hưởng thừa kế thế vị hay không cũng đã  được tác giả đặt ra. 

Bài viết: Những hạn chế và bất cập của các quy định về thừa kế trong BLDS  1995” của tác giả Phùng Trung Tập đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 4 năm 2004 [56]. Trong bài viết này, tác giả cũng nói về vấn đề thừa kế thế vị đồng quan điểm với các  ý kiến có trong Nguyễn Hải An (2004), Vài suy nghĩ về Điều 680 BLDS (thừa kế thế vị), Tạp chí Tòa án nhân dân , số 4. Tác giả còn nêu một cách rất cụ thể nên sửa đổi Điều 680  BLDS 1995 như thế nào.  

Sách: “Pháp luật dân sự và thực tiễn xét xử”, Tưởng Duy Lượng (2009) [32]. Về vấn đề thừa kế, trong cuốn sách này tác giả đề cập tới một số vấn đề về thừa kế, thừa kế quyền sử dụng đất, giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất. Từ đó tác giả nêu lên  một số vấn đề về nâng cao năng lực cho các Thẩm phán, người trực tiếp giải quyết các  tranh chấp, các Thẩm tra viên, các Thư ký Tòa án, các Hội thẩm, các cán bộ Viện kiểm sát  trong hoạt động giải quyết tranh chấp dân sự nói chung và tranh chấp thừa kế theo pháp  luật nói riêng. 

Sách: “Tuyển tập các bản án, quyết định của tòa án Việt Nam về quyền sử dụng  đất”, tác giả Đỗ Văn Đại (2010); Sách “Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận bản  án” (Tập 1, Tập 2), Đỗ Văn Đại (2016), trong các cuốn sách này, tác giả đã tập hợp những  bản án, quyết định giải quyết tiêu biểu của tòa án liên quan đến thừa kế nói chung và thừa  kế theo pháp luật nói riêng và bình luận việc giải quyết đó. 

Bài viết “Chế định thừa kế trong BLDS 2015”, của tác giả Phùng Trung Tập  (2016), Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề triển khai thi hành BLDS 2015 [62].  Trong bài viết này tác giả đã đưa ra những nhận xét, bình luận của mình về thực tiễn áp  dụng quy định BLDS 2015 về thừa kế nói chung, thừa kế theo pháp luật nói riêng như thời  hiệu chia di sản thừa kế quy định tại Điều 623, BLDS 2015 hay người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc được quy định tại Điều 644, BLDS 2015… 

Sách: “Bình luận khoa học BLDS năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa  Việt Nam”, Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (2017). Cuốn sách cũng dành số lượng khá lớn  

(từ trang 923 tới trang 1029) để bình luận về phần Thừa kế của BLDS 2015. Giá trị lớn  nhất của cuốn sách này là tập thể tác giả đã đưa ra những bình luận về các quy định của  BLDS đã phù hợp với thực tiễn, những điều còn hạn chế, chồng chéo, trùng lặp hay các lỗ hổng của Bộ luật, từ đó đưa ra các định hướng hoàn thiện. 

Sách: “Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp” của tác giả Phạm  Văn Tuyết – Lê Kim Giang, xuất bản năm 2017 [83]. Trong cuốn sách này, các tác giả nêu  lên thực trạng tranh chấp thừa kế ngày càng đa dạng và phức tạp. Các tác giả nêu lên các  nguyên nhân thường gặp dẫn đến các tranh chấp về thừa kế như: do tính xác thực của di  chúc, do thiếu tính tự nguyện của người lập di chúc, do người lập di chúc đã định đoạt cả tài sản của người khác, tranh chấp giữa những người thừa kế với nhau vì những người thừa  kế cho rằng có người thừa kế không có quyền hưởng di sản… Mỗi nguyên nhân, các tác  giả đều đưa ra những vụ án điển hình để minh họa. Trong cuốn sách này, các tác giả đã kịp  thời tiếp cận một số quan điểm mới cho phù hợp với những thay đổi của pháp luật. Bên  cạnh đó, tác giả còn chọn lọc và giới thiệu một số vụ tranh chấp điển hình và đưa ra bình  luận của mình về các vụ án đó. Cuốn sách này là nguồn tham khảo quý cho các nhà nghiên  cứu và các nhà hoạt động chuyên môn có thêm kinh nghiệm trong thực tiễn xét xử.  

Sách: “Thời hiệu, thừa kế và thực tiễn xét xử” của tác giả Tưởng Duy Lượng  (2017) [33]. Trong cuốn sách này, tác giả đã từ việc nghiên cứu về lí luận, thực tiễn trên cơ  sở dựa vào những tình huống giả định hoặc có thực để minh họa làm rõ những chủ đề được nêu trong cuốn sách để đưa ra những nhận xét, đề xuất về những nội dung chưa rõ  ràng, cần hướng dẫn hoặc sửa đổi bổ sung luật thừa kế. Cuốn sách là nguồn tài liệu quý  cho các nhà nghiên cứu tham khảo. Nó cũng giúp các nhà chuyên môn ứng dụng để giải  quyết các tranh chấp về thừa kế có liên quan và giúp người dân có thêm kiến thức để bảo  vệ quyền của mình một cách tốt nhất. 

Bên cạnh việc phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về thừa kế theo pháp  luật, các tác giả đã đưa ra những đánh giá, nhận định về tình hình thực thi pháp luật về thừa  kế theo pháp luật diễn ra trong thực tế. Một số tác giả đã chỉ rõ những hạn chế, bất cập của  các quy định pháp luật về thừa kế theo pháp luật hiện hành tại thời điểm các công trình này  được thực hiện. 

Có thể thấy có rất nhiều công trình nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài nghiên  cứu về thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng. Tuy nhiên, chưa có một công  trình nào có sự nghiên cứu đầy đủ, chuyên sâu, toàn diện về thừa kế theo pháp luật theo  BLDS nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015. Các công trình đã công bố  chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một số nội dung nhất định hoặc liên quan đến các BLDS  trước khi có BLDS năm 2015. 

1.1.2. Đánh giá tổng quan các công trình nghiên cứu 

1.1.2.1. Những kết quả đã đạt được 

Về mặt lý luận: trên cơ sở tiếp thu, kế thừa quy định của BLDS, các công trình  nghiên cứu đều đưa ra khái niệm thừa kế theo pháp luật một cách thống nhất, một số công  trình đã có những nghiên cứu về ý nghĩa cũng như đặc điểm của chế định này. Dựa trên  kết quả mà các công trình này đã đạt được, tác giả sử dụng để làm nền tảng cho phần cơ sở  lí luận của luận án.  

Về mặt thực tiễn: Nhiều công trình đã nghiên cứu về thực tiễn thực hiện pháp luật  về thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng. Các công trình này về cơ bản có  những cách tiếp cận và xử lí số liệu phù hợp với diễn biến của thực tiễn qua các thời kì.  Tác giả luận án cũng trên tinh thần kế thừa các phương pháp này để thực hiện việc nghiên  cứu, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của công tác thực hiện pháp luật về thừa kế theo pháp  luật trên thực tiễn. 

Về mặt giải pháp kiến nghị: Phần lớn các công trình hướng đến các giải pháp bảo  đảm việc áp dụng quy định về thừa kế nói chung, thừa kế theo pháp luật nói riêng được  hiệu quả. Tác giả kế thừa tinh thần của các giải pháp nói chung với những nội dung cơ bản  về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ngành Tòa án, ngành Kiểm sát cũng như nâng cao  trình độ hiểu biết pháp luật của người dân và đưa ra một số kiến nghị khác nhằm bảo đảm  việc áp dụng quy định về thừa kế theo pháp luật được hiệu quả. 

1.1.2.2. Những vấn đề liên quan đến đề tài luận án đặt ra cần được tiếp tục nghiên  cứu 

Thứ nhất, tuy đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và bài viết về thừa kế nói chung  nhưng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về thừa kế theo pháp luật nói riêng. Luận  

án Tiến sĩ Luật học “Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ 1945 đến nay” của  tác giả Phùng Trung Tập nhưng đã được bảo vệ thành công cách đây 15 năm. Từ khi  BLDS 2005 và BLDS 2015 được ban hành, đã có nhiều quy định về thừa kế theo pháp  luật được sửa đổi, bổ sung. Một số công trình khác mới chỉ tập trung nghiên cứu một góc  độ nhỏ về thừa kế như di sản, hàng thừa kế hay nghiên cứu về thực tiễn trong một giai  đoạn nhất định. Do đó, luận án sẽ đưa ra cái nhìn toàn diện về thừa kế theo pháp luật, làm  rõ các vấn đề lí luận có liên quan đến vấn đề này. 

Thứ hai, văn hóa, khoa học kỹ thuật thay đổi, kinh tế xã hội ngày càng phát triển, di  sản thừa kế ngày nay đã thay đổi so với di sản truyền thống nên đối tượng của các tranh  chấp cũng thay đổi, đó cũng là một trong những điểm mới mà luận án cần nghiên cứu.  Tương ứng với sự thay đổi, phát triển của nền kinh tế xã hội, tranh chấp về thừa kế cũng  ngày càng phức tạp về số lượng và tính chất vụ việc, do đó luận án nghiên cứu và đề xuất  các giải pháp mới nhằm sửa đổi pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thừa  kế theo pháp luật. 

1.1.3. Dự định nghiên cứu của tác giả 

Trong quá trình triển khai đề tài Luận án, tác giả mong muốn tiếp tục nghiên cứu  những vấn đề sau: 

Thứ nhất, trên cơ sở những vấn đề lý luận về thừa kế theo pháp luật mà các công  trình nghiên cứu trước đó đã làm rõ, tác giả tiếp tục triển khai một số nội dung để làm rõ và  sâu sắc hơn khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quy định thừa kế theo pháp luật, diện thừa  kế, xác định di sản thừa kế, thừa kế thế vị. 

Thứ hai, Luận án tập trung phân tích, đánh giá các quy định của BLDS năm 2015  về thừa kế theo pháp luật, làm rõ những điểm mới của BLDS năm 2015 so với các Bộ luật  trước đó, luận giải nguyên nhân của những sửa đổi, bổ sung đó, so sánh với quy định về  thừa kế theo pháp luật của một số quốc gia trên thế giới, nghiên cứu các quy định về thừa  kế trong các luật chuyên ngành như Luật Doanh nghiệp, Luật Sở hữu trí tuệ để đánh giá sự  phù hợp của các quy định về thừa kế trong BLDS 2015. 

Thứ ba, về phần thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về thừa kế theo pháp luật  cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu nhưng chủ yếu là nghiên cứu về việc áp dụng của  

BLDS các năm 1995, 2005 nên các số liệu này không còn tính thời sự. Trên cơ sở đó, tác  giả tập trung làm rõ các vấn đề phát sinh liên quan đến thực tiễn giải quyết tranh chấp về  thừa kế theo quy định của BLDS năm 2015, tranh chấp di sản thừa kế là sản phẩm sở hữu  trí tuệ, kết hợp các vấn đề còn tồn tại, hạn chế trong quy định của BLDS 2015, tác giả đề  xuất một số ý kiến sửa đổi, bổ sung quy định của BLDS năm 2015 cho phù hợp với tình  hình mới, phù hợp với pháp luật của các quốc gia trên thế giới cũng như các luật chuyên  ngành như Luật Doanh nghiệp, Luật Sở hữu trí tuệ. 

1.2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu  

1.2.1. Cơ sở lý thuyết 

Một số lý thuyết được sử dụng trong luận án gồm: 

Luận án dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, đặc biệt là học thuyết Mác – Lênin về tư hữu, quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về mối quan hệ biện chứng giữa  cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội là căn cứ để tác  giả luận giải nguyên nhân ra đời và biến đổi của giai cấp, phân chia giai cấp, nhà nước,  pháp luật, về thừa kế nói chung, thừa kế theo pháp luật nói riêng như một tất yếu khách  quan trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. 

Ngoài ra, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và  Nhà nước về xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung, pháp luật về thừa kế nói riêng  cũng đã được tác giả sử dụng trong quá trình nghiên cứu để luận giải các vấn đề lý luận về  thừa kế theo pháp luật, pháp luật về thừa kế theo pháp luật, là tiền đề giúp tác giả đưa ra  các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thừa kế theo pháp luật. 

Lý thuyết về tài sản, quyền sở hữu tư nhân về tài sản sẽ được nghiên cứu và vận  dụng để phân tích , nhận xét và đánh giá những quy định về quyền để lại di sản của người  có tài sản. Đồng thời lý thuyết về nguyên tắc bình đẳng cũng là tiền đề để tác giả nghiên  cứu về quyền bình đẳng trong việc để lại di sản, được hưởng di sản ví dụ như bình đẳng  giữa những người cùng hàng thừa kế với nhau, giữa con trai và con gái, giữa con trong giá  thú và con ngoài giá thú, giữa ông bà nội với ông bà ngoại… đánh giá thực trạng các quy  định của pháp luật về thừa kế theo pháp luật, thực tiễn thực hiện pháp luật về những vấn đề  này.  

1.2.2. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu 

1.2.2.1. Câu hỏi nghiên cứu 

Để giải quyết được những vấn đề thuộc phạm vi, đối tượng nghiên cứu của luận án,  các câu hỏi nghiên cứu được đặt ra như sau: 

– Lý luận về thừa kế theo pháp luật bao gồm những nội dung cơ bản nào? Thừa kế  theo pháp luật có đặc điểm gì khác so với thừa kế theo di chúc? Quy định của pháp luật về  thừa kế theo pháp luật có ý nghĩa như thế nào? 

– Thực trạng quy định của pháp luật về thừa kế theo pháp luật như thế nào? Những  hạn chế, bất cập của pháp luật về thừa kế theo pháp luật? Nguyên nhân của những hạn chế,  bất cập đó? 

– Những tranh chấp phát sinh có liên quan đến thừa kế theo pháp luật trong thực  tiễn diễn ra như thế nào? Nguyên nhân dẫn đến các tranh chấp đó? Thực tiễn áp dụng pháp  luật về thừa kế theo pháp luật gặp phải những hạn chế, bất cập gì? Có những giải pháp  hoàn thiện pháp luật về thừa kế theo pháp luật như thế nào? 

1.2.2.2. Giả thuyết nghiên cứu 

– Những vấn đề lí luận về thừa kế theo pháp luật như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa  của các quy định của pháp luật về thừa kế theo pháp luật đã được nhiều công trình nghiên  cứu đề cập tới nhưng chưa được nghiên cứu chuyên sâu về lý luận, cần phải làm sáng tỏ,  sâu sắc hơn  

– Việc điều chỉnh bằng pháp luật về thừa kế theo pháp luật là quy định của Nhà nước  đối với quan hệ thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên còn có những nội dung chưa được pháp  luật điều chỉnh hoặc có những điều chỉnh chưa được phù hợp với tình hình thực tiễn, còn  có những bất cập. Việc điều chỉnh hoạt động thừa kế theo pháp luật là rất cần thiết nhằm  đảm bảo việc duy trì và phát triển khối di sản, bảo vệ quyền sở hữu của người để lại di sản  và người được hưởng di sản, đảm bảo sự phát triển ổn định của đời sống kinh tế, xã hội 

– Những quy định của pháp luật về thừa kế theo pháp luật hiện nay còn có những  bất cập, các nguyên nhân chủ quan, khách quan dẫn đến những hạn chế, bất cập này. Cần  có những giải pháp hoàn thiện pháp luật về thừa kế theo pháp luật, nâng cao hiệu quả thi  hành pháp luật về thừa kế theo pháp luật. 

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 

1. Cho đến thời điểm hiện tại, mặc dù đã có khá nhiều công trình, bài viết nghiên  cứu về thừa kế theo pháp luật nhưng chưa có công trình nào triển khai nghiên cứu một  cách có hệ thống và toàn diện về thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự nước Cộng  hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015. Những công trình nghiên cứu đã công bố chủ  yếu nghiên cứu về quy định của pháp luật trước khi có BLDS năm 2015. Do đó, đề tài luận  án mà tác giả lựa chọn đảm bảo tính mới và cấp thiết. 

2. Để giải quyết được những vấn đề thuộc phạm vi, đối tượng nghiên cứu của luận  án, một số câu hỏi, giả thuyết nghiên cứu đã được tác giả đặt ra và sẽ lần lượt được trả lời  trong các chương sau. 

CHƢƠNG 2 

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT 

2.1. Khái niệm, đặc điểm thừa kế theo pháp luật 

2.1.1. Thừa kế và quyền thừa kế 

Lịch sử xã hội đã chứng minh sự xuất hiện thừa kế là một tất yếu khách quan của  tiến trình phát triển. Muốn tạo ra của cải vật chất và để thỏa mãn nhu cầu của mình, con  người phải lao động, phải tác động vào giới tự nhiên và biến đổi chúng. Của cải dành  được chưa tiêu dùng đến trước khi chết sẽ được để lại cho những người khác và thường  là cho những người thân thích của người chết. 

Mỗi cá nhân khi còn sống ít nhiều đều có một số của cải riêng. Khi chết, của cải  ấy sẽ để lại cho thân nhân. Việc chuyển và phân chia của cải của người chết như vậy gọi  là thừa kế. Theo Từ điển Tiếng Việt (2006) của Viện Ngôn ngữ học do Nxb Đà Nẵng và  Trung tâm Từ điển học xuất bản thì “thừa kế là hưởng của người chết để lại cho” [92, tr.  972] và Từ điển Luật học (2006) của Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) do Nxb Từ điển Bách khoa và Nxb Tư pháp xuất bản thì thừa kế là “sự chuyển dịch tài sản của  người chết cho người còn sống” [91, tr.754]. Như vậy, hiểu một cách chung nhất thì thừa  kế là sự dịch chuyển tài sản từ người đã chết sang cho các cá nhân còn sống và các chủ thể khác. 

Con người vốn là tổng hòa của các mối quan hệ trong xã hội, muốn tồn tại và  phát triển con người phải có sự tác động qua lại lẫn nhau và phải dựa trên những cơ sở vật chất nhất định. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, con người duy trì sự sống bằng  săn bắt và hái lượm, đến khi con người tìm ra lửa đã biết nấu chín thức ăn, biết tạo ra các  công cụ lao động sản xuất ban đầu còn thô sơ, dần dần tinh xảo và mang lại năng suất lao  động cao, có sự dư thừa của cải và sự chiếm hữu tư nhân đối với của cải dư thừa ấy. Lúc  này có sự phân chia giai cấp và Nhà nước xuất hiện với vai trò là thiết chế điều hoà mâu  thuẫn giai cấp. Tuy nhiên, ngay cả khi chưa có Nhà nước thì xã hội vẫn phải phải tồn tại  trên một chế độ sở hữu nhất định. 

Ở thời điểm này, mặc dù xã hội chưa có sự xuất hiện của nhà nước, nhưng mầm  mống của việc sở hữu cũng đã được hình thành. C. Mác đã chỉ ra rằng: “Bất cứ nền sản  xuất nào cũng là việc con người chiếm hữu những đối tượng của tự nhiên trong một  phạm vi, một hình thái xã hội nhất định…”; “nơi nào không có một hình thái sở hữu nào  cả thì nơi đó cũng không thể có sản xuất và do đó cũng không có một xã hội nào cả” [6,  tr.247]. Việc sở hữu của con người trong xã hội công xã nguyên thủy chỉ đơn giản là việc  có được những công cụ lao động và những vật phẩm tự nhiên, mà “chưa có sự phân biệt  rõ rệt về khái niệm sở hữu đối với tư liệu sản xuất và sức lao động” [40, tr.19]. 

Trong thời kì đầu của xã hội cộng sản nguyên thủy, chế độ quần hôn đã xuất hiện  dẫn đến sự ra đời của các thị tộc, bộ lạc, tài sản có được thông qua lao động thuộc về thị tộc, bộ lạc đó. Lúc này, người phụ nữ có một vai trò hết sức quan trọng, có thể chi phối,  quyết định mọi vấn đề trong đời sống xã hội. Ph. Ăng ghen khi nghiên cứu về vấn đề này  đã đưa ra nhận xét: “Theo chế độ mẫu quyền, nghĩa là chừng nào mà huyết tộc chỉ kể về bên mẹ và theo tập tục thừa kế nguyên thủy, người trong thị tộc mới được thừa kế những  người trong thị tộc chết. Tài sản phải để lại trong thị tộc, nay trong thực tiễn có lẽ người  ta vẫn trao cho những người cùng huyết tộc với người mẹ” [40, tr.79].  

Như vậy, trong xã hội thị tộc, bộ lạc theo chế độ mẫu hệ đã tồn tại vấn đề thừa kế và đây chính là tiền đề cho sự xuất hiện của thừa kế theo huyết thống.  Theo tiến trình phát triển tự nhiên của xã hội loài người, lực lượng sản xuất ngày  càng phát triển, công cụ lao động ngày càng tinh xảo, con người không còn lo sợ trước  thiên nhiên mà đã có khả năng chế ngự thiên nhiên, cải biến thiên nhiên để phục vụ nhu  cầu của mình. Từ đó, của cải trong xã hội được làm ra nhiều hơn, phục vụ tốt hơn cho sinh hoạt và đời sống của con người trong xã hội đó. Dần dần, lượng của cải làm ra trở nên dồi dào và dư thừa. Trong xã hội bắt đầu xuất hiện một nhóm người đứng lên thâu  tóm những của cải dư thừa, đồng thời chiếm hữu luôn cả những tư liệu sản xuất tạo ra  các của cải dư thừa đó. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự phân hóa trong  xã hội. Nói khác đi, chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đã hình thành. Từ đây, tính chất cộng đồng của thị tộc, bộ lạc đối với tài sản chung cũng mất đi. Theo đó, dù là người  trong cùng một thị tộc, bộ lạc nhưng việc sử dụng tài sản chung, chiếm hữu và định đoạt  

tài sản dần dần chỉ tập trung vào một số chủ thể nhất định. Điều này dẫn đến việc xã hội  phân chia thành các giai cấp thống trị và bị trị, trong đó quyền lực và tài sản tập trung  vào tay giai cấp thống trị, còn giai cấp bị trị không có tài sản riêng, phụ thuộc hoàn toàn  vào giai cấp thống trị. Việc hình thành chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đã tạo ra nhiều  thay đổi lớn đối với các mối quan hệ và trật tự trong xã hội lúc bấy giờ. Khi tài sản không  còn thuộc sở hữu của cộng đồng những người trong thị tộc, bộ lạc mà chỉ tập trung trong  tay một số người thì đến khi họ chết đi, tài sản cũng không là của chung cho cả thị tộc,  bộ lạc đó. Khi việc sở hữu, kế thừa tài sản của người chết để lại không còn thuộc về tất  cả người trong thị tộc, bộ lạc thì tất yếu sẽ dẫn đến một hình thức kế thừa tương thích với  chế độ tư hữu về tài sản. Sự xuất hiện kéo theo này là hoàn toàn phù hợp với sự phát  triển của các quan hệ trong xã hội, tồn tại như một hiện tượng tất yếu phải có trong xã  hội có giai cấp, thể hiện nội dung hoàn toàn mới trong quan hệ tài sản cũng như quan hệ thừa kế. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và các tài sản làm mất đi quyền quyết định  mọi vấn đề của người đứng đầu thị tộc, bộ lạc, nhất là việc định đoạt tài sản chung của  cộng đồng, xóa đi tình trạng “cào bằng”, khẳng định quyền tài sản của cá nhân để làm cơ  sở cho việc hình thành quan hệ thừa kế. 

Trước đây, trong tổ chức thị tộc không có mâu thuẫn nội tại thì trong xã hội mới đã có sự phân chia giai cấp, trong đó các giai cấp có quyền lợi đối lập nhau, “luôn luôn  mâu thuẫn và đấu tranh gay gắt với nhau để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình” [40, tr.16].  Lúc này, “xã hội đó đòi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức để dập tắt cuộc xung đột  công khai giữa các giai cấp ấy, hoặc cùng lắm là để cho cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra  trong lĩnh vực kinh tế, dưới một hình thức gọi là hợp pháp. Tổ chức đó là nhà nước và  nhà nước đã xuất hiện” [40, tr.16]. Khi chưa có nhà nước, thừa kế được dịch chuyển một  cách tự phát và trong nhiều trường hợp người chết được tự do ý chí khi định đoạt tài sản  mà mình có được sau khi chết. Đến khi nhà nước xuất hiện, quá trình dịch chuyển tài sản  từ người đã chết sang cho người còn sống đã có sự điều chỉnh bằng ý chí của nhà nước. Nói cách khác, pháp luật đã ra đời có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh,  thay đổi, chấm dứt phù hợp với ý chí của nhà nước. Từ đây quyền thừa kế xuất hiện. 

Sự ra đời của các văn bản pháp luật với các quy phạm pháp luật điều chỉnh mọi  mặt của đời sống xã hội, theo đó, quyền để lại thừa kế và nhận thừa kế của các chủ thể được quy định, trình tự và các điều kiện dịch chuyển tài sản cũng được điều chỉnh để duy  trì trật tự xã hội, bảo đảm các chủ thể đều bình đẳng về quyền và lợi ích. Tuy nhiên, mỗi  một chế độ xã hội khác nhau sẽ có sự khác nhau trong quy định về quyền thừa kế. Thậm  chí, sự khác nhau này được thể hiện trong từng giai đoạn khác nhau của cùng một chế độ 

xã hội nhất định. Điều này được lý giải bởi lẽ, chế độ thừa kế phụ thuộc vào từng giai  đoạn phát triển kinh tế, xã hội của một nhà nước, đặc biệt là do chế độ sở hữu quyết định  [55, tr.17] 

Từ những nội dung như đã phân tích ở trên có thể thấy, thừa kế và quyền thừa kế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Dưới góc độ lịch sử thì thừa kế có trước, phát sinh  một cách tự nhiên và tất yếu và gắn liền với tiến trình phát triển của xã hội loài người.  Khi một người chết đi và có tài sản để lại cho người còn sống làm phát sinh quan hệ thừa  kế. Dưới góc độ này, việc để lại di sản thừa kế và việc hưởng di sản thừa kế hoàn toàn 

mang tính tự do ý chí cá nhân. Phải đến khi xã hội có nhà nước và thực hiện việc điều  chỉnh xã hội bằng pháp luật thì quyền thừa kế mới được ghi nhận và được điều chỉnh  bằng các quy định của pháp luật. Thật vậy, nhà nước là một tổ chức hết sức đặc biệt,  được hình thành trong xã hội có giai cấp. Nói khác đi, nhà nước được sinh ra trong xã  hội nhưng lại vượt lên trên xã hội, trấn áp mâu thuẫn và điều chỉnh mọi quan hệ xã hội  một cách có trật tự và đúng chuẩn mực. Công cụ hữu hiệu nhất được nhà nước sử dụng  để điều chỉnh các quan hệ xã hội chính là pháp luật. Bằng pháp luật, nhà nước điều chỉnh  việc dịch chuyển tài sản từ người đã chết sang cho người còn sống; ghi nhận quyền để lại  di sản và quyền hưởng di sản của các chủ thể, đồng thời tạo cơ chế để bảo đảm thực hiện  những quyền này. Từ đây, thuật ngữ “quyền thừa kế” được ra đời. Quyền thừa kế là một  phạm trù pháp lý mà nội dung của nó là xác định phạm vi các quyền, nghĩa vụ của các  chủ thể trong lĩnh vực thừa kế [55, tr.23]. 

Sự tác động của pháp luật vào mọi mặt của đời sống xã hội đã mang lại những tác  dụng đặc biệt mà trước đó sự cai quản bằng tập quán không có được. Quyền thừa kế là  chế định rất quan trọng trong hệ thống pháp luật dân sự. Nếu sự xuất hiện của thừa kế là  

tất yếu, là một nhu cầu của xã hội loài người và tồn tại trong mọi hình thái kinh tế – xã  hội thì quyền thừa kế chỉ phát sinh khi xã hội phân chia giai cấp và có nhà nước. Quy  phạm pháp luật về thừa kế phản ánh bản chất giai cấp tồn tại trong mỗi chế độ xã hội  nhất định và có thể thay đổi phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội nhất  định của mỗi quốc gia. Ngay tại Việt Nam, pháp luật về thừa kế cũng có sự thay đổi  đáng kể qua mỗi thời kì lịch sử, tương ứng với sự vận động và phát triển của các quan hệ xã hội trong mỗi thời kì. 

Bất cứ một chế định nào cũng là sự tập hợp của các quy phạm pháp luật điều  chỉnh các mối quan hệ có liên quan đến quan hệ xã hội nhất định. Quyền thừa kế trong  pháp luật dân sự là sự tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước đặt ra hoặc thừa  nhận những cách xử sự trên thực tế để điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong quá  trình dịch chuyển tài sản, quyền sở hữu đối với tài sản từ người chết cho những người  còn sống. Sự kiện thừa kế sẽ chỉ xảy ra khi thỏa mãn hai điều kiện: có cái chết của cá  nhân và cá nhân đó phải có tài sản riêng. Người được hưởng thừa kế được thực hiện  những quyền lợi nhất định nhưng đồng thời pháp luật cũng buộc người đó phải thực hiện  những nghĩa vụ tương ứng. Cách quy định quyền và nghĩa vụ song song như vậy nhằm  bảo đảm sự hài hòa về mặt lợi ích giữa các chủ thể và các quan hệ trong xã hội. Việc  pháp luật dân sự nói chung và chế định thừa kế nói riêng có sự ghi nhận và xác định các  quyền, nghĩa vụ đối với người thừa kế không phải tuyệt đối dựa trên ý chí chủ quan của  giai cấp lãnh đạo xã hội mà còn dựa trên cơ sở tiếp thu những biến đổi của tình hình kinh  tế xã hội, tôn trọng sự tự do ý chí và quyền định đoạt của cá nhân đối với tài sản thuộc sở hữu của mình. Giai cấp lãnh đạo mà cụ thể là nhà nước đã có sự nghiên cứu và ghi nhận  các quyền cũng như xác định các nghĩa vụ trong lĩnh vực thừa kế cho các cá nhân và các  chủ thể khác. Điều này lại một lần nữa khẳng định, mặc dù nhà nước dùng pháp luật để duy trì trật tự xã hội nhưng pháp luật cũng rất phù hợp với các quan hệ trong xã hội, pháp  luật càng chặt chẽ, càng gần với nhu cầu của xã hội thì việc thực thi pháp luật càng hiệu  quả, ngược lại việc tuân thủ pháp luật càng được thực hiện nghiêm minh thì xã hội càng  có kỉ cương và phát triển. 

Trong thời kỳ cộng sản nguyên thủy, xã hội chưa có sự xuất hiện của nhà nước,  

chế độ thị tộc, bộ lạc giúp hình thành các nhóm người có cùng huyết thống, cùng sinh  sống và lao động. Trong chế độ này, người với người có sự hài hòa về mặt lợi ích, chưa  có mâu thuẫn, chưa có tư hữu. Tuy nhiên đó cũng là một trong những nguyên nhân chính  dẫn đến kìm hãm sự phát triển của xã hội, chỉ đến khi xã hội trải qua ba lần phân công  lao động lớn thì nền sản xuất hàng hóa mới hình thành, xã hội xuất hiện mâu thuẫn kéo  theo sự ra đời của nhà nước và pháp luật. Như vậy, pháp luật của bất kỳ nhà nước nào  cũng phải xuất phát từ cơ sở kinh tế, pháp luật phải phù hợp với thực tế khách quan và do  cơ sở kinh tế của xã hội quyết định. Khi chế độ kinh tế thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi  tương ứng trong sự quy định của pháp luật. Quyền thừa kế được ghi nhận là quyền của  cá nhân trong việc để lại di sản thừa kế và nhận di sản thừa kế. Đây là các xử sử mà chủ thể được phép thực hiện dưới sự điều chỉnh của quy phạm pháp luật, bao gồm: cá nhân  được để lại tài sản thừa kế nào, việc lập di chúc phải tuân thủ những yêu cầu gì, ai là  người được nhận di sản thừa kế cũng như những nội dung về hình thức, cách thức thực  hiện việc phân chia tài sản thừa kế.  

Để có được cái nhìn toàn diện về quyền thừa kế, cần tiếp cận khái niệm quyền  thừa kế dưới cả góc độ khách quan và chủ quan. Về mặt khách quan, quyền thừa kế được  hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong  việc chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản của người chết cho người còn sống.  Nếu như thừa kế chỉ được hiểu là sự dịch chuyển tài sản từ người chết sang cho người  còn sống thì quyền thừa kế đã ghi nhận quan hệ này được điều chỉnh bằng quy phạm  pháp luật, tức là đã nâng thừa kế lên một bước nhận thức cao hơn mà ở đó vẫn tồn tại tự do ý chí của con người nhưng đã có sự can thiệp của pháp luật và bảo đảm quan hệ ấy  tồn tại trong quỹ đạo mà pháp luật điều chỉnh. Về mặt chủ quan, quyền thừa kế được  hiểu là quyền dân sự cơ bản của công dân được để lại tài sản của mình cho những người  còn sống và quyền của công dân cũng như các chủ thể khác được nhận di sản theo sự định đoạt của người có tài sản (bằng di chúc) hoặc theo một trình tự và thủ tục pháp luật  nhất định (thừa kế theo pháp luật) [55, tr.25].  

Thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc là hai phương thức dịch chuyển di  sản từ người đã chết sang các chủ thể khác, được ghi nhận về cách thức thực hiện cũng  

như được bảo đảm cơ chế thực hiện theo quy định của pháp luật. Nếu như thừa kế theo  di chúc là thể hiện tự do ý chí, quyền tự định đoạt của cá nhân đối với tài sản của mình  sau khi chết thì thừa kế theo pháp luật dựa trên quy định của pháp luật, nghĩa là theo ý  chí của nhà nước, của nhà cầm quyền. Nhưng ý chí của nhà nước trong trường hợp này  không phải vô căn cứ mà xuất phát từ việc phán đoán ý chí của người để lại di sản. Nó  bảo đảm việc người có tài sản được để lại tài sản của họ sau khi chết đi cho những người  thân thích nhất của mình, lẽ thông thường mà đa số người để lại di sản mong muốn. Nói  cách khác, thừa kế theo pháp luật về bản chất là bảo vệ quyền của những người có quan  hệ huyết thống, hôn nhân hay nuôi dưỡng và chỉ những người có một trong các mối quan hệ này mới được hưởng thừa kế. Việt Nam là quốc gia Á Đông, tâm lý “một giọt máu  đào hơn ao nước lã” đã ăn sâu trong tư tưởng và rất nhiều phong tục tập quán của người  Việt Nam. Chế định thừa kế theo pháp luật bảo vệ quyền thừa kế của những người có  quan hệ huyết thống, hôn nhân hay nuôi dưỡng với người để lại di sản là một điều rất dễ hiểu và phù hợp với tâm lý, văn hóa và truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc. 

2.1.2. Khái niệm thừa kế theo pháp luật 

Xã hội ngày càng phát triển, theo đó pháp luật cũng ngày càng phát triển và hoàn  thiện để có thể điều chỉnh và làm hài hòa các mối quan hệ trong xã hội. Từ khi có sự điều  chỉnh của pháp luật, quan hệ thừa kế đã được duy trì một cách ổn định và có trật tự, pháp  luật thừa kế của Việt Nam cũng như pháp luật thừa kế của các nước trên thế giới đều quy  định hai hình thức thừa kế, đó là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Việc  chuyển dịch di sản cho những người thừa kế theo di chúc là dựa trên cơ sở ý chí định  đoạt của người lập di chúc khi còn sống. Di chúc có thể được pháp luật thừa nhận hoặc không thừa nhận, được thừa nhận toàn bộ hoặc chỉ thừa nhận một phần. Nội dung này  liên quan đến những điều kiện có hiệu lực của di chúc do pháp luật quy định. Ngay từ thời La Mã cổ đại, pháp luật cũng quy định hai hình thức thừa kế theo di chúc và thừa kế 

theo pháp luật. Ở Việt Nam, pháp luật dân sự nói chung và pháp luật về thừa kế nói riêng  đều trải qua các giai đoạn với những dấu mốc đánh dấu sự phát triển cả về kĩ thuật lập  pháp và tư duy lập pháp. Càng về sau, các quy phạm pháp luật về thừa kế theo pháp luật  càng hoàn thiện và có tính dự liệu cao hơn. Trong giai đoạn hiện nay, pháp luật thừa kế 

của Việt Nam cũng như các nước trên thế giới đều quy định và cho phép áp dụng hai  hình thức thừa kế để chia di sản trong trường hợp cụ thể. Thực tế sẽ có những trường hợp  di sản được chia hoàn toàn theo di chúc; được chia hoàn toàn theo pháp luật hoặc di sản  đồng thời được chia theo di chúc và theo pháp luật. Hai trường hợp thừa kế này song  song cùng tồn tại mà không phủ định nhau, cũng không triệt tiêu nhau. Pháp luật tôn  trọng quyền tự do ý chí và tự định đoạt của cá nhân thể hiện qua chế định thừa kế theo di  chúc, nhưng đồng thời cũng điều chỉnh cả những trường hợp không có di chúc, di chúc  không hợp pháp hoặc di chúc không phát sinh hiệu lực pháp luật. Cách quy định như vậy  là hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh thực tế có thể xảy ra trong đời sống xã hội. 

Nghiên cứu lịch sử pháp luật về thừa kế ở Việt Nam qua các thời kì cho thấy dù ở giai đoạn nào, với điều kiện phát triển của nền kinh tế xã hội thế nào đi chăng nữa đều  ghi nhận hai hình thức thừa kế là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Mỗi  hình thức thừa kế đều có điểm đặc thù để có thể nhận diện trên thực tế và áp dụng vào  tình huống xảy ra sao cho phù hợp. Nếu như trong thừa kế theo di chúc, người để lại tài  sản thừa kế thể hiện sự định đoạt của mình bằng di chúc thì trong trường hợp thừa kế 

theo pháp luật, người để lại di sản không thể hiện ý chí của mình đối với tài sản, tức là  không có di chúc hoặc có di chúc nhưng nội dung, hình thức của di chúc không phù hợp  với quy định của pháp luật nên bị coi là vô hiệu, hoặc di chúc hợp pháp nhưng không có  hiệu lực thi hành vì những sự kiện nhất định. Trường hợp này, tài sản do người chết để lại sẽ được định đoạt theo quy định của pháp luật. Một người khi lập di chúc tức là họ 

thực hiện quyền để lại di sản của mình cho bất kì cá nhân, tổ chức nào mà không bị ràng  buộc bởi phạm vi chủ thể hay đòi hỏi giữa người để lại di sản và người hưởng di sản phải  có mối quan hệ nhất định. Nhưng ngược lại, đối với thừa kế theo pháp luật thì chỉ những  người có quan hệ huyết thống, hôn nhân hay nuôi dưỡng với người để lại di sản mới  được quyền hưởng thừa kế. Nếu không thuộc một trong các mối quan hệ này thì họ sẽ không thể trở thành người thừa kế theo pháp luật. Ngoài ra, bởi vì phân chia di sản theo  di chúc là tuân thủ tuyệt đối ý chí cá nhân của người để lại di sản cho nên việc cá nhân  chia tài sản cho ai, với kỉ phần là bao nhiêu là do họ tự định đoạt mà không phụ thuộc  vào mối quan hệ giữa người được hưởng di sản với người để lại di sản (trừ trường hợp 

những người được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc). Còn với  thừa kế theo pháp luật, những người có vị trí như nhau trong mối quan hệ với người để lại di sản thì được xếp cùng một hàng, người cùng hàng với nhau thì được hưởng kỉ phần  di sản như nhau. Việc chia tài sản thừa kế có sự can thiệp của pháp luật luôn đòi hỏi có  sự công bằng, do đó vấn đề hàng thừa kế được pháp luật quy định rất cụ thể và cũng  hoàn toàn phù hợp với thực tiễn. Nội dung này sẽ được phân tích một cách cụ thể hơn tại  chương hai của luận án. 

Từ những phân tích trên có thể thấy người được thừa kế theo di chúc có thể là bất  kỳ cá nhân, tổ chức nào được đề cập trong di chúc. Hơn nữa, người được thừa kế theo di  chúc không bị giới hạn bởi bất kì mối quan hệ nào. Trái lại, người thừa kế theo pháp luật  chỉ có thể là cá nhân thuộc diện thừa kế mà pháp luật quy định, những người thừa kế 

theo pháp luật trong cùng một hàng thừa kế, thì được hưởng các phần di sản bằng nhau.  Đồng thời, cũng theo quy định của pháp luật, trường hợp thừa kế theo di chúc thì người  lập di chúc có quyền định đoạt một phần di sản để di tặng cho người khác và phần di sản  dùng vào việc thờ cúng còn quyền thừa hưởng phần tài sản di tặng và quyền quản lý  phần tài sản dùng vào việc thờ cúng lại không phát sinh trên cơ sở thừa kế theo pháp luật.  Sự khác nhau về nội dung của hai trường hợp thừa kế này đã một lần nữa khẳng định  tính đặc thù của các quan hệ trong xã hội được pháp luật điều chỉnh. Như vậy, dù là  trường hợp thừa kế theo di chúc hay thừa kế theo pháp luật đều bao gồm các quy phạm  pháp luật điều chỉnh việc để lại di sản của người đã chết cho người còn sống, mỗi hình  thức ấy đều có điều kiện phát sinh, đặc điểm và hậu quả pháp lý khác nhau.  

Theo đó có thể thấy pháp luật đã dành sự ưu tiên cho hình thức thừa kế theo di  chúc, nếu người chết để lại tài sản mà có di chúc thì tài sản sẽ được phân chia như trong  di chúc đã định đoạt. Giữa hình thức thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật có  mối quan hệ mật thiết với nhau, hình thức thừa kế này (theo di chúc) trong một số trường  hợp nhất định làm nảy sinh hình thức thừa kế kia (theo pháp luật). Cụ thể, nếu người để lại di sản không lập di chúc, di chúc không hợp pháp hay không có hiệu lực thi hành tức  là tài sản chưa được định đoạt theo di chúc thì sẽ làm nảy sinh trường hợp thừa kế theo  pháp luật, thậm chí tồn tại hình thức thừa kế theo di chúc song song với thừa kế theo  

pháp luật. Nếu như thừa kế theo di chúc là sự dịch chuyển tài sản của một người theo ý  chí của người đó khi còn sống thông qua di chúc thì người thừa kế theo pháp luật chỉ có  thể là cá nhân và cá nhân đó phải có mối quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc  quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản. Những người thuộc diện thừa kế theo pháp  luật được pháp luật chỉ định hưởng di sản theo một trật tự ưu tiên là theo hàng thừa kế.  Hưởng di sản theo trật tự hàng thừa kế tuân theo nguyên tắc pháp luật, hàng trước loại  trừ hàng sau trong việc hưởng di sản. Nói cách khác, mọi người thuộc các hàng thừa kế đều có quyền hưởng di sản nhưng quyền đó được xác định theo thứ tự trước sau căn cứ vào hàng thừa kế.  

Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về thừa kế theo pháp luật như  sau: Thừa kế theo pháp luật là phương thức dịch chuyển di sản của người chết cho  những người còn sống mà giữa họ với người để lại di sản có một trong ba mối quan hệ (hoặc hôn nhân, hoặc nuôi dưỡng hoặc huyết thống) theo điều kiện thừa kế, hàng thừa  kế và trình tự thừa kế mà pháp luật đã quy định. 

Chế định thừa kế theo pháp luật đã bảo vệ được quyền để lại di sản của một người  đồng thời cũng bảo vệ quyền được hưởng di sản của những người có quan hệ thân thuộc  với người đã chết. 

2.1.3. Đặc điểm thừa kế theo pháp luật 

2.1.3.1. Người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân 

Đối với thừa kế theo di chúc, người thừa kế có thể là cá nhân hoặc không phải là  cá nhân, nhưng người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân. Khi để lại di chúc,  người để lại di sản có thể để lại cho bất kì ai kể cả không phải là cá nhân (trừ những  trường hợp hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc). Những quy định  của pháp luật về thừa kế theo di chúc đều hướng tới việc bảo vệ tối đa quyền định đoạt  tài sản của người có di sản. Nhưng đối với thừa kế theo pháp luật, khi người để lại di sản  không để lại di chúc thì pháp luật dự liệu một số người có quan hệ hôn nhân, huyết thống  hoặc nuôi dưỡng với người để lại di sản thuộc diện được hưởng di sản. Pháp luật quy  định chung cho mọi người để lại di sản, mọi hoàn cảnh, mọi trường hợp người để lại di  sản không định đoạt tài sản bằng di chúc thì di sản sẽ được chia cho những người có một  

trong ba mối quan hệ trên với người để lại di sản. Những người đó là những người có  quan hệ gần gũi nhất với người để lại di sản: vợ chồng, cha mẹ, các con, ông bà, anh chị em, các cháu nội ngoại, các cụ nội, cụ ngoại, cô dì chú bác cậu ruột, các chắt của người  chết. Chính vì vậy, người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân. Pháp luật quy định  hàng thừa kế từ quan hệ gần đến xa theo sự phán đoán ý chí của người để lại di sản. Vì  vậy, trừ trường hợp đặc biệt, còn lại phán đoán của pháp luật đa số phù hợp với ý chí của  người để lại di sản. 

2.1.3.2. Người thừa kế theo pháp luật chỉ được hưởng di sản theo điều kiện luật  định 

Nếu như người được hưởng di sản thừa kế theo di chúc chỉ phụ thuộc vào ý chí  của người để lại di sản thì để trở thành người thừa kế theo pháp luật đòi hỏi những điều  kiện tương đối chặt chẽ.  

Trước hết người thừa kế theo pháp luật đương nhiên cần thỏa mãn điều kiện của  người thừa kế nói chung là phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế (thời điểm người để lại di sản chết thì người được hưởng di sản vẫn còn sống) 

Điều kiện thứ hai là phải thành thai trước thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và  còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước thời điểm người để lại di  sản chết. Ngoài ra, có trường hợp người con được thành thai sau khi người cha, mẹ (người để lại di sản) chết nhưng người con đó được sinh ra (có thể do người mẹ trực tiếp  sinh ra hoặc do mang thai hộ) và còn sống vẫn có thể được hưởng di sản của người cha,  mẹ đó nếu người con đó được sinh ra bởi vật liệu di truyền của người chết ví dụ: các mẫu  tinh trùng hoặc trứng của người để lại di sản trước khi chết được lưu trữ) và có văn bản  đồng ý về việc sử dụng các vật liệu di truyền [105, Điều 294.5]. Tuy nhiên Luật  California giới hạn trong vòng hai năm kể từ thời điểm chết của người để lại di sản.  

Bên cạnh điều kiện để một người được hưởng thừa kế theo pháp luật như trên còn  có điều kiện khác là người đó không thuộc một trong các trường hợp bị tước quyền  hưởng di sản. Những trường hợp này có thể là những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm  trọng của người được hưởng di sản đối với người để lại di sản như hành vi cố ý xâm  phạm tính mạng của người để lại di sản hoặc hành vi cố ý xâm phạm tính mạng của  

những người cùng được hưởng thừa kế với mình nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di  sản hay hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di  chúc, giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một  phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản… Hành vi cố ý tước đoạt  tính mạng người để lại di sản một cách trái pháp luật tức là muốn gây ra cái chết cho  người để lại di sản vì bất kì mục đích gì. Hành vi cố ý giết người thừa kế khác với mục  đích chiếm đoạt di sản của người thừa kế đó có quyền hưởng, thì bị tước quyền thừa kế nhưng một người chỉ bị kết án về hành vi cố ý giết người thừa kế khác, mà không nhằm  mục đích chiếm đoạt phần di sản của người thừa kế đó được hưởng thì không bị tước  quyền thừa kế. Bên cạnh đó, nếu người có hành vi phạm tội chỉ bị kết án về hành vi “vô  ý” xâm phạm tính mạng của người thừa kế khác thì cũng không thuộc trường hợp theo  quy định của điều luật trên. Nói cách khác, người có hành vi vô ý xâm phạm tính mạng  người thừa kế khác vẫn có thể được hưởng di sản thừa kế của người để lại di sản. Bên  cạnh đó, người nào có hành vi ngăn cản việc lập di chúc của người khác là ngăn cản  quyền định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản của họ, đồng thời đây bị coi là hành vi trái  pháp luật. Việc cá nhân định đoạt tài sản của mình theo di chúc được pháp luật quy định  và bảo hộ, di chúc đã lập phải được tôn trọng, bảo vệ. Người nào có hành vi giả mạo, sửa  chữa di chúc, hủy di chúc của người để lại di sản nhằm mục đích hưởng một phần hoặc  toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản tức là họ đã làm mất đi tính khách  quan, trung thực của di chúc, không thể hiện đúng ý chí, nguyện vọng của người để lại di  chúc nên người đó không xứng đáng được hưởng thừa kế. 

Một điều kiện nữa của người hưởng di sản thừa kế theo pháp luật là không bị người để lại truất quyền hưởng di sản. Đối với thừa kế theo di chúc, việc người để lại di  sản chỉ định trong di chúc cho người nào đó được hưởng di sản người đó sẽ được hưởng  đồng nghĩa với việc truất quyền hưởng di sản của người thừa kế theo di chúc sẽ không  được đặt ra. Nhưng trong thừa kế theo pháp luật, người thuộc diện, thuộc hàng thừa kế 

theo quy định của pháp luật vẫn không được hưởng di sản nếu bị người để lại di sản truất  quyền hưởng di sản. 

Đối với thừa kế theo di chúc thì các điều kiện trên không được đặt ra. Thừa kế theo di chúc hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của người để lại di sản nếu ý chí đó không  trái pháp luật và đạo đức xã hội. Pháp luật tôn trọng tối đa quyền định đoạt của người để lại di sản đối với tài sản của họ.  

Như đã phân tích ở trên, thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật là hai hình  thức thừa kế mà pháp luật quy định căn cứ trên ý chí, trình tự, thủ tục phân chia di sản,  và hoàn toàn không triệt tiêu lẫn nhau. Do đó, trên thực tế hoàn toàn có thể xảy ra trường  hợp: di sản thừa kế vừa được phân chia theo di chúc, và vừa được phân chia theo pháp  luật. Trong tình huống này, người thừa kế theo pháp luật cần thỏa mãn thêm một điều  kiện nữa: không thuộc diện bị người lập di chúc truất quyền hưởng di sản (trừ trường  hợp những người được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc). Thật  vậy, di chúc là sự thể hiện ý chí của người để lại di sản về việc dịch chuyển tài sản cho  những người còn sống. Do đó, người lập di chúc có toàn quyền trong việc lựa chọn và  chỉ định trong di chúc những người thừa kế theo di chúc cũng như phần di sản mà những  người thừa kế được nhận. Nếu người lập di chúc truất quyền hưởng di sản của một chủ thể nhất định, điều này có nghĩa là người để lại di sản không muốn cho chủ thể này nhận  di sản thừa kế của mình. Do đó, dựa trên nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của  người để lại di sản, pháp luật cần tôn trọng quyền này của người để lại di sản. Điều này  có nghĩa, khi phân chia di sản thừa kế theo pháp luật, chủ thể bị truất quyền hưởng di sản  không được xác định là người thừa kế theo pháp luật nữa. 

Ở Việt Nam, trước Cách mạng Tháng Tám, các Bộ luật như Dân luật Bắc kỳ,  Dân luật Trung kỳ đều quy định những trường hợp người thừa kế không có quyền hưởng  di sản, đó là người đã bị người lập di chúc tuyên bố không xứng đáng được hưởng di sản  của người lập di chúc; người có hành vi xâm phạm đến tính mạng người để lại di sản  hoặc với danh nghĩa chính phạm hoặc đồng phạm hoặc tòng phạm; người đã trưởng  thành biết được hành vi cố ý giết người mà không tố giác với tòa án, nhưng nếu kẻ sát  nhân là cha, mẹ, anh, em, vợ, chồng hoặc thân thuộc gần với người thừa kế thì không bị coi là có lỗi vì đã không tố giác; người có hành vi vu khống người để lại di sản hoặc vu  khống ông, bà, cha, mẹ của người đó và người bị vu khống đã bị phạt về trọng tội hay  

thường tội. Hoặc theo án lệ ở miền Nam Việt Nam trước năm 1945, thì người vợ góa sẽ không được thừa kế nếu không để tang chồng, sống thiếu đạo đức và đã công khai gây  tai tiếng cho gia đình nhà chồng; đã có tình nhân hoặc đã lạm dụng quyền hưởng di sản  mà không có biên bản kê khai. Sau Cách mạng Tháng Tám, các quy định về điều kiện để được hưởng thừa kế theo pháp luật đã có từ thời kì đầu thành lập nước Việt Nam Dân  chủ Cộng hòa, chính quyền lúc đó còn non trẻ, kĩ thuật lập pháp chưa hoàn thiện nhưng  đều đã có những tiêu chuẩn rất chặt chẽ để được hưởng thừa kế. Mặc dù pháp luật không  quy định trực tiếp nhưng lại có những quy định thể hiện một cách gián tiếp những chủ thể nào không được hưởng thừa kế. Sau đó, những người thừa kế không có quyền hưởng  di sản được Pháp lệnh thừa kế ghi nhận, sau đó quy được giữ nguyên và thể hiện tại các  BLDS sau đó. 

Tóm lại, những người thuộc hàng thừa kế theo pháp luật sẽ được hưởng di sản  thừa kế theo pháp luật khi thỏa mãn các điều kiện sau: còn sống vào thời điểm người để lại di sản chết (hoặc sinh ra còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước  thời điểm người để lại di sản chết); không thuộc trường hợp không có quyền hưởng di  sản; không từ chối nhận di sản; không bị truất quyền hưởng di sản. 

2.1.3.3. Trong thừa kế theo pháp luật, di sản thừa kế phải được dịch chuyển theo  hàng thừa kế và trình tự thừa kế 

Diện thừa kế theo pháp luật là phạm vi những người có thể được hưởng di sản  thừa kế theo pháp luật của người chết nếu giữa họ và người chết tồn tại mối quan hệ hôn  nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng tùy thuộc vào quy định của từng quốc gia. Con của  người để lại di sản bao giờ cũng là những người đầu tiên được hưởng di sản thừa kế theo  pháp luật của cha mẹ. Có quốc gia (như Việt Nam) quy định không phân biệt con đẻ và  con nuôi trong việc hưởng di sản thừa kế của cha mẹ nhưng cũng có những quốc gia  (như nước Nhật) chỉ công nhận quyền hưởng di sản của con đẻ, quyền của con nuôi đối  với di sản của cha mẹ không được đề cập tới. Về quyền hưởng di sản thừa kế của nhau  giữa vợ và chồng, một số nước trên thế giới như Nhật Bản, Thái Lan… quy định trong  những trường hợp khác nhau thì vợ (chồng) được hưởng phần di sản khác nhau, nhưng  đối với pháp luật Việt Nam thì người vợ (chồng) thuộc diện thừa kế và sẽ được hưởng  

một suất thừa kế theo pháp luật của nhau bằng với những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất khác (là cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết).  Hàng thừa kế được hiểu là một nhóm người có quan hệ cùng mức độ gần gũi với  người để lại di sản. Các quốc gia trên thế giới đều quy định những người thuộc diện được  hưởng di sản thừa kế thành các hàng thừa kế khác nhau. Có quốc gia quy định có ba  hàng thừa kế (như ở Việt Nam). Có những quốc gia quy định có bốn hàng thừa kế (như ở  nước Pháp). Có những quốc gia lại quy định có tới sáu hàng thừa kế như ở Thái Lan [39,  Điều 1629]. Về thứ tự được hưởng di sản thừa kế thì đa số quốc gia đều quy định những  người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng di sản thừa kế khi không còn ai ở hàng thừa kế  trước còn sống hoặc tất cả những người ở hàng thừa kế trước đều không có quyền hưởng  di sản hoặc từ chối hưởng di sản. Tất cả các quốc gia đều quy định những người trong  cùng một hàng thừa kế thì được hưởng kỉ phần bằng nhau. Pháp luật của các quốc gia  trên thế giới đều quy định con thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cha mẹ. Ở một số quốc  gia (Việt Nam, Pháp…) quy định con thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cha mẹ thì ngược  lại, cha mẹ cũng thuộc hàng thừa kế thứ nhất của con, nhưng một số quốc gia khác (Nhật  Bản, Thái Lan…) lại quy định con thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cha mẹ nhưng cha mẹ  chỉ thuộc hàng thừa kế thứ hai của con.  

Về diện và hàng thừa kế, pháp luật Việt Nam quy định những người được hưởng  di sản thừa kế theo pháp luật chia thành ba hàng. Không phải ngẫu nhiên mà pháp luật  Việt Nam quy định có ba hàng thừa kế. Theo lẽ thông thường, mong muốn của người có  di sản là sẽ dành cho những người có quan hệ thân thích với mình. Vì vậy, pháp luật quy  định những người thuộc hàng thừa kế dựa trên sự phán đoán ý chí, mong muốn của  người để lại di sản. Tất cả những người thừa kế trong ba hàng thừa kế này đều được xác  định là những người có mối quan hệ gần gũi, thân thích nhất với người để lại di sản.  

Việc quy định dừng lại ở hàng thừa kế thứ ba với mối quan hệ bốn đời của cụ và  chắt cũng có những lý lẽ riêng. Một là, xuất phát từ quan niệm về truyền thống gia đình  “tứ đại đồng đường”, với bốn thế hệ cùng chung sống trong một ngôi nhà đã được xem  là nét đẹp văn hóa của những gia đình Việt Nam thời xưa. Hai là, việc quy định về ba  hàng thừa kế cũng được nghiên cứu và xây dựng căn cứ trên cơ sở tuổi thọ trung bình  

của người Việt Nam qua từng giai đoạn. Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới, tuổi  thọ của người Việt Nam trong những thập kỷ qua liên tục tăng. Nếu năm 1960 tuổi đời  của người Việt trung bình chỉ đạt 40 năm (thế giới là 48 năm) thì đến nay tuổi thọ của  người Việt đã tăng lên 73,2 (tỷ lệ người trên 65 tuổi chiếm gần 7% dân số), vượt tuổi thọ  trung bình của thế giới (trung bình thế giới là 69 tuổi). Dự báo, đến năm 2050, tuổi thọ  trung bình của người Việt sẽ tăng lên 80,4tuổi [94]. Nếu đưa ra một con số về khoảng  cách giữa mỗi thế hệ là 20 tuổi thì việc quy định đến thế hệ thứ tư (thế hệ của cụ so với  chắt) là một quy định hợp lý, theo quan điểm của riêng tác giả.  

Nội dung của việc hưởng di sản thừa kế theo hàng được hiểu theo hướng: những  người ở cùng một hàng sẽ được hưởng di sản cùng một lúc và được hưởng phần di sản  có giá trị bằng nhau. 

Việc phân chia di sản thừa kế theo pháp luật còn phải theo một trình tự nhất định về thứ tự phân chia lần lượt từ hàng thừa kế đầu tiên đến hàng thừa kế tiếp theo, dựa trên  mức độ gần gũi của những người thừa kế với người để lại di sản. Nói cách khác, người  thừa kế ở hàng thừa kế sau chỉ được quyền hưởng di sản thừa kế khi những người ở hàng  thừa kế trước không còn hoặc không đảm bảo được điều kiện nhất định về người thừa kế  theo pháp luật. Như vậy, trong thừa kế theo pháp luật, di sản thừa kế phải được chia cho  những người cùng hàng thừa kế lần lượt cho những người có quan hệ thừa kế theo một  trình tự từ gần tới xa.  

Thật vậy, giữa thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật có sự khác biệt rất  lớn về mặt nội dung cũng như hình thức, mỗi trường hợp này đều có ý nghĩa quan trọng  trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội nảy sinh trong lĩnh vực thừa kế. Thừa kế theo  pháp luật vừa bảo đảm quyền đương nhiên của người có tài sản, được để lại tài sản của  họ khi họ chết, vừa bảo vệ quyền của những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống,  quan hệ nuôi dưỡng với người có tài sản để lại. Hình thức thừa kế theo pháp luật là hình  thức thừa kế truyền thống được ghi nhận và duy trì trong suốt chiều dài quá trình phát  triển của xã hội loài người cũng như lịch sử lập pháp. Hình thức thừa kế này giúp củng  cố nền tảng bền vững cho các mối quan hệ trong gia đình. Trong thừa kế theo pháp luật,  mặc dù đây là trường hợp hưởng thừa kế cũng như phân chia di sản thừa kế hoàn toàn  

tuân thủ quy định của pháp luật nhưng xét dưới một góc độ nào đó, pháp luật sinh ra là  để phục vụ nhu cầu của đời sống xã hội. Do đó mặc dù là thừa kế theo pháp luật nhưng  lại vẫn có một phần nào đó thể hiện quan điểm mang tính cá nhân của người để lại di  sản. Hiểu một cách đơn giản, nếu người để lại di sản không lập di chúc, hoặc có lập di  chúc nhưng việc phân chia di sản theo di chúc đó không thể thực hiện được do vi phạm  các điều kiện luật quy định, thì những tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người có tài sản  trước khi chết vẫn sẽ được chuyển giao sang cho những người có quan hệ thân thiết và  gần gũi nhất đối với người này. Thiết nghĩ, đây cũng là nguyện vọng của người có tài sản  sau khi họ chết đi mà chưa kịp lập di chúc, đồng thời, quy định này cũng tạo cơ chế khích lệ, động viên các cá nhân khi còn sống tạo ra được thật nhiều tài sản để phát triển  nguồn thu nhập của bản thân cũng như phát triển kinh tế xã hội, bởi lẽ nếu họ chết đi mà  không có di chúc thì những tài sản này vẫn sẽ thuộc về những người thân có mối quan hệ gần gũi nhất đối với họ. Nếu như thừa kế theo di chúc thì những người thừa kế được chỉ định trong di chúc có thể được hưởng những phần di sản khác nhau, hoàn toàn phụ thuộc  vào ý chí của người để lại di sản, thì thừa kế theo pháp luật thể hiện ý chí của nhà nước.  Những người thừa kế cùng một hàng thừa kế sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau. Nói  khác đi, khi xác định được di sản thừa kế và những người thừa kế ở cùng một hàng (theo  thứ tự từ hàng thứ nhất đến hàng thứ hai, hàng thứ ba) thì phần di sản sẽ được chia đều  cho tất cả những người thừa kế. Nội dung này thể hiện nguyên tắc của pháp luật nói  chung cũng như pháp luật dân sự nói riêng, đó là: các chủ thể đều bình đẳng trước pháp  luật về quyền và lợi ích hợp pháp. 

2.2. Ý nghĩa của quy định về thừa kế theo pháp luật 

“Sinh – lão – bệnh – tử” là quy luật tất yếu của đời người. Con người được sinh ra  rồi cũng đến khi phải chết, tài sản mà người đó có khi còn sống được để lại cho những  người thân cũng là lẽ đương nhiên. Vấn đề thừa kế được pháp luật dân sự nước ta điều  chỉnh từ rất sớm bởi đây là quan hệ xuất hiện ngay từ khi có con người, quy luật sinh tử 

đã làm nảy sinh quan hệ thừa kế. Thừa kế chính là sự dịch chuyển sở hữu tài sản từ người chết sang cho người còn sống (chính là người thừa kế). Người thừa kế sẽ xác lập  

quyền sở hữu đối với tài sản đó, có toàn quyền sử dụng, định đoạt và đến khi người này  chết đi, tài sản đó (nếu còn tồn tại) cũng lại trở thành di sản thừa kế.  Việc pháp luật dân sự quy định về thừa kế theo pháp luật có những ý nghĩa đặc  biệt quan trọng sau: 

Một là, bảo đảm di sản của người thừa kế luôn được định đoạt. Trong lĩnh vực  dân sự nói chung và thừa kế nói riêng, ý chí của cá nhân luôn được pháp luật thừa nhận  vào bảo đảm. Một người khi còn sống có quyền lập di chúc, tức là thể hiện ý kiến đối với  tài sản thuộc sở hữu của mình cho người khác sau khi chết. Nhiều trường hợp trước khi  chết họ lâm bệnh nặng, phải chữa trị một khoảng thời gian dài, khi ấy họ có điều kiện về thời gian để lập một bản di chúc thể hiện ý chí của mình. Nhưng cũng có những người  chết rất đột ngột không kịp lập di chúc. Bên cạnh đó là quan niệm truyền thống của  người Á Đông cũng khiến cho số người có di chúc trước khi chết là không phổ biến.  Hoặc có trường hợp khi còn sống họ lập di chúc nhưng di chúc lại không hợp pháp; di  chúc hợp pháp nhưng những chủ thể được hưởng thừa kế không còn sống, không còn  tồn tại vào thời điểm mở thừa kế, người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc  nhưng không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Cũng có trường hợp  người chết để lại di chúc nhưng di chúc lại không định đoạt hết mà chỉ định đoạt một  phần di sản, di chúc có một phần vô hiệu nên phần di sản đó cũng phải định đoạt lại.  “Trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không  có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa  vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc về nhà nước” [52, Điều 622], hay  nói cách khác là được định đoạt cho nhà nước… Do đó, việc điều chỉnh của pháp luật  đối với việc phân định tài sản trong các trường hợp này là hết sức cần thiết. 

Hai là, bảo đảm quyền được hưởng thừa kế của những người thân thích trong gia  đình. Cái nôi của văn hóa Việt Nam là nền văn minh lúa nước. Quan niệm “một giọt máu  đào hơn ao nước lã” đã hình thành tư tưởng luôn coi trọng quan hệ huyết thống, anh em  họ hàng. Nếu một người chết đi mà không để lại di chúc (hoặc thuộc các trường hợp đã  trình bày ở trên) thì pháp luật cho phép những người sau được hưởng thừa kế: vợ, chồng,  cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; ông nội, bà nội, ông  

ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà  người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác  ruột, chú ruôt, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà  người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà  người chết là cụ nội, cụ ngoại [9]. Những người mà pháp luật quy định được hưởng thừa  kế đều là những người có cùng huyết thống với người đã chết, họ đã có công sinh thành,  dưỡng dục, phụng dưỡng và yêu thương; hoặc là người có quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng  với người để lại di sản, nên việc những người này được hưởng thừa kế là phù hợp với lối  sống cũng như văn hóa lâu đời của người dân Việt Nam. Biết rằng pháp luật tôn trọng tối  đa quyền định đoạt của người có tài sản,có nghĩa là người để lại di sản có quyền để lại di  sản cho bất kỳ ai theo mong muốn của họ. Theo lẽ thông thường thì người để lại di sản sẽ để lại cho những người thân thiết nhất có quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng  với mình. Tuy nhiên, vì một lí do nào đó mà người để lại di sản không để lại cho những  người đó thì pháp luật đã có những quy định ràng buộc người để lại di sản. Pháp luật quy  định về một số trường hợp người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.  Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người  thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không  được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần  ba suất đó: con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con thành niên mà không có khả  năng lao động [52, Điều 644, Khoản1]. Vì những người trên là những người thân thiết  nhất với người để lại di sản nên pháp luật quy định như vậy là hợp tình, hợp lý, phù hợp  với truyền thống của dân tộc. 

Ba là, góp phần bảo đảm duy trì trật tự xã hội. Trong xã hội có giai cấp, nền sản  xuất hàng hóa và chế độ tư hữu ngày càng được củng cố, việc tích trữ của cải dư thừa là  tất yếu. Thừa kế và sau đó là quyền thừa kế xuất hiện càng củng cố hơn nữa hiện tượng  khách quan này. Vì vậy, quyền thừa kế có quan hệ mật thiết với quyền sở hữu và phải  chăng quyền sở hữu có trước kéo theo sự xuất hiện của quyền thừa kế, hai quyền năng  này cùng song song tồn tại trong xã hội và cùng mang bản chất giai cấp sâu sắc. Pháp  luật sinh ra trong điều kiện kinh tế – xã hội với hình thái xã hội thế nào thì sẽ mang tính  

đặc thù cho hình thái xã hội ấy và thể hiện rõ nét ý chí của giai cấp cầm quyền. Trong  thời kì nguyên thủy, khi xã hội chưa có giai cấp, việc thừa kế đơn giản chỉ là để lại tài sản  cho người còn sống trong cùng thị tộc, bộ lạc. Trong chế độ phong kiến, giai cấp bóc lột  đã chiếm hữu gần như toàn bộ tư liệu sản xuất và tài sản trong xã hội, đến khi thế lực này  chết đi thì tài sản và quyền lực lại được chuyển sang cho con cháu của họ để duy trì sự áp  bức, bóc lột của giai cấp này với dân cày nghèo. Chẳng phải tự nhiên trong dân gian có  câu ca “con vua thì lại làm vua” mà chính là xuất phát từ một hiện tượng tồn tại trong xã  hội lúc bấy giờ.  

Xã hội ngày càng phát triển thì pháp luật cũng ngày càng hoàn thiện, cho đến  ngày nay cả xã hội đang đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật, coi pháp luật là nền tảng  để duy trì và bảo vệ mọi quan hệ trong đời sống xã hội. Việc pháp luật bảo vệ lợi ích của  nhà nước, lợi ích chung của toàn xã hội, xóa bỏ tàn tích của chế độ phong kiến trong hệ 

thống pháp luật nói chung và trong chế định thừa kế theo pháp luật nói riêng góp phần  xây dựng lòng tin của nhân dân vào nhà nước để họ yên tâm lao động và cống hiến, tạo  ra nhiều giá trị thặng dư góp phần cải biến xã hội.  

Gia đình là tế bào của xã hội, từng tế bào tốt thì mới tạo nên một cộng đồng xã  hội tốt. Việc ghi nhận và bảo đảm quyền thừa kế góp phần bảo vệ, gìn giữ trật tự xã hội,  mọi mâu thuẫn phát sinh trong vấn đề thừa kế đều được pháp luật điều chỉnh sẽ tạo điều  kiện cho mọi thành viên phát huy sáng tạo, nâng cao trách nhiệm với bản thân, gia đình  và cộng đồng. 

2.3. Một số vấn đề có liên quan đến thừa kế theo pháp luật 

2.3.1. Di sản và cách xác định di sản 

2.3.1.1. Định nghĩa di sản 

Di sản thừa kế là toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của cá nhân mà họ để lại sau khi  chết. Từ định nghĩa trên về mặt lý luận thì di sản trước hết phải là tài sản thuộc sở hữu  của một người mà họ để lại sau khi chết. Khi họ chết di, khối tài sản của cá nhân đó trở thành di sản. Di sản đó sẽ được đưa vào quy trình để dịch chuyển từ người chết (người  để lại di sản) sang cho những người còn sống (người thừa kế).  

Di sản thừa kế bao gồm những loại tài sản sau thuộc sở hữu hợp pháp của người  để lại di sản 

Thứ nhất, di sản thừa kế gồm vật hữu hình như các phương tiện đi lại, vật dụng cá  nhân, vật dụng sinh hoạt hàng ngày như ô tô, máy vi tính…  

Thứ hai, di sản thừa kế còn bao gồm tiền. Tiền thuộc quyền sở hữu hợp pháp của  cá nhân người để lại di sản cũng được coi là di sản khi người đó chết. Thứ ba, di sản thừa kế còn bao gồm giấy tờ có giá. Trước đây, theo quan điểm  của Việt Nam, di sản rất đơn giản thường chỉ gồm những tài sản hữu hình. Nhưng do sự  phát triển kinh tế trong nước cùng hội nhập kinh tế quốc tế nên di sản không chỉ dừng lại  ở tài sản hữu hình như di sản truyền thống mà di sản còn bao gồm cả các di sản phi  truyền thống như cổ phần mà các cá nhân đã đầu tư vào các doanh nghiệp… nên di sản  được phân loại theo tinh thần mới gồm cả giấy tờ có giá như cổ phiếu…  Thứ tư, quyền tài sản cũng được xác định là một loại di sản thừa kế. Quyền tài sản  là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí  tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác như quyền đòi nợ (các khoản nợ chưa  được trả), quyền được hưởng bồi thường thiệt hại (những khoản bồi thường mà bên phải  bồi thường thiệt hại chưa thực hiện dù đã đến hạn thực hiện)… Quyền tài sản được xác  định là một loại tài sản vô hình có thể thuộc sở hữu hợp pháp của một cá nhân. Nếu cá  nhân đó chết đi để lại các quyền tài sản thì quyền tài sản đó trở thành di sản thừa kế.  “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng  quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác” [52, Điều 115]. Như  vậy, quyền sở hữu trí tuệ cũng được xác định là tài sản và đồng thời là di sản thừa kế của  người chết. Không phải ngay từ khi tài sản trí tuệ xuất hiện, pháp luật đã công nhận tài  sản trí tuệ là di sản thừa kế. Trong Pháp lệnh thừa kế năm 1990, tại Điều 4, Khoản 1 quy  định: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong  khối tài sản chung với người khác, quyền về tài sản do người chết để lại. Tài sản gồm có  tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, các thu nhập hợp pháp”. Như vậy trước năm 1990,  quyền sở hữu trí tuệ chưa được công nhận là di sản thừa kế. Đến Bộ Luật Dân sự 1995  quy định về các loại tài sản tại Điều 172 bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được  

bằng tiền và các quyền tài sản. Trong đó quyền sở hữu trí tuệ lần đầu tiên đã được công  nhận là tài sản và trở thành di sản của người chết [45, Điều 188]. Vấn đề đặt ra là có phải  mọi loại quyền sở hữu trí tuệ đều có thể trở thành di sản thừa kế hay không. Quyền sở hữu trí tuệ bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công  nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, quyền  tài sản đối với mọi đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ đều là di sản của người chết. Cụ 

thể, quyền tài sản của tác giả, của chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm được xác  định là một loại tài sản [52, Điều 105], nó tồn tại dưới dạng quyền nên khi họ chết, quyền  này cũng là một loại di sản thừa kế và được dịch chuyển cho người thừa kế của tác giả,  của chủ sở hữu các quyền tác giả đó theo quy định của pháp luật về thừa kế. Các quyền  đối với tác phẩm của tác giả đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả được dịch chuyển cho  người thừa kế bao gồm quyền nhân thân có thể dịch chuyển (quyền công bố tác phẩm  hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm) và tất cả các quyền tài sản đã được Luật  SHTT quy định tại Điều 19, 20. Quyền sở hữu đối với đối tượng sở hữu công nghiệp và  giống cây trồng cũng được coi là một loại tài sản tồn tại dưới dạng quyền trong khối tài  sản thuộc sở hữu của cá nhân. Vì thế, khi chủ sở hữu đối với quyền tài sản chết mà quyền  sở hữu đối với đối tượng sở hữu công nghiệp và giống cây trồng vẫn đang còn trong thời  hạn bảo hộ thì chủ sở hữu nó cũng được định đoạt để lại thừa kế cho những người còn  sống theo quy định của pháp luật giống như các loại tài sản khác. Tuy nhiên, không phải  quyền tài sản đối với đối tượng nào của quyền sở hữu công nghiệp cũng trở thành di sản  để thừa kế. Chẳng hạn, chỉ dẫn địa lý là đối tượng không được quyền chuyển giao, chủ sở hữu của đối tượng này là Nhà nước đã được quy định tại Khoản 2, Điều 139, Luật  SHTT. Vì vậy, quyền đối với chỉ dẫn địa lý không thể được coi là di sản. Một số đối  tượng như quyền đối với tên thương mại, nhãn hiệu khi chuyển giao cần phải thỏa mãn  các điều kiện cụ thể: Khoản 3 Điều 139 Luật SHTT quy định (i) Đối với tên thương mại:  quyền đối với tên thương mại chỉ được chuyển giao cùng với việc chuyển nhượng toàn  bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó; (ii). Đối với nhãn  hiệu, việc chuyển giao quyền sở hữu đối với nhãn hiệu không được gây nên sự nhầm lẫn  về đặc tính hoặc nguồn gốc của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu. Đối với những  

trường hợp doanh nghiệp có nhãn hiệu trùng với tên thương mại của mình thì việc  chuyển giao riêng nhãn hiệu có thể bị từ chối đăng ký, bởi lẽ việc chuyển giao riêng đó  có thể khiến cho người tiêu dùng bị nhầm lẫn về nguồn gốc, xuất xứ của sản phẩm mang  nhãn hiệu. Việc chuyển giao quyền sở hữu nhãn hiệu liên kết chỉ được thực hiện đồng  thời với tất cả các nhãn hiệu liên kết. Việc chuyển giao quyền sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng  phải bảo đảm duy trì uy tín của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng đó. Luật  pháp một số quốc gia chỉ cho phép chuyển giao nhãn hiệu cùng với việc chuyển giao cả danh tiếng và cơ sở sản xuất, kinh doanh gắn với nhãn hiệu đó với lập luận rằng nếu chỉ 

chuyển giao nhãn hiệu thì sẽ gây nhầm lẫn hoặc lừa dối người tiêu dùng. Tuy nhiên xu  hướng phổ biến là cho phép tự do chuyển giao nhãn hiệu, miễn là bên được chuyển giao  vẫn bảo đảm chất lượng ổn định của sản phẩm hoặc dịch vụ sử dụng nhãn hiệu. 2.3.1.2. Cách xác định di sản 

Một cá nhân có thể là chủ sở hữu tài sản theo các hình thức sở hữu khác nhau: tài  sản thuộc sở hữu riêng của người chết, tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất giữa người  chết với vơ, chồng của họ, tài sản thuộc sở hữu chung theo phần với người khác. Vì vậy,  di sản được xác định theo các phần tài sản sau đây: 

Thứ nhất, tài sản riêng của người chết 

Khi nói đến tài sản riêng là để phân biệt với khối tài sản chung của vợ chồng hình  thành trong hôn nhân. Theo đó, tài sản riêng của vợ, chồng sẽ bao gồm: Một là tài sản riêng của vợ, chồng có trước khi kết hôn. Trước khi kết hôn một  người có thể đã có tài sản riêng. Khối tài sản của một người có trước hôn nhân vẫn thuộc  sở hữu riêng của người đó, không phụ thuộc vào việc họ trở thành vợ (chồng) hợp pháp  của người kia nếu người chủ tài sản không tự nguyện nhập tài sản riêng đó vào khối tài  sản chung của vợ (chồng). Đến khi chết đi, tài sản riêng của vợ, chồng cũng được coi là  di sản thừa kế của riêng người đó.  

Hai là tài sản vợ, chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ  hôn nhân. Không phải tất cả tài sản hình thành trong thời kì hôn nhân đều là tài sản  chung của vợ chồng mà vẫn có trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng. Pháp luật điều  chỉnh vấn đề này là nhằm tôn trọng quyền định đoạt của chủ sở hữu tài sản bởi có nhiều  

trường hợp con, cháu đã kết hôn nhưng ông bà, bố mẹ, những người thân khác chỉ muốn  tặng tài sản cho con gái, con trai hoặc cháu gái, cháu trai của mình. Điều này thể hiện  giữa những người có cùng huyết thống bao giờ cũng có sự gắn kết chặt chẽ hơn và cũng  để phòng trường hợp sau này người con (cháu) đó có ly hôn thì tài sản đó vẫn sẽ thuộc về con (cháu) của mình. Thực tế có rất nhiều trường hợp như vậy. Trường hợp được thừa kế 

riêng cũng tương tự. 

Ba là tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo trường hợp chia tài sản chung  trong thời kì hôn nhân. Trong thời kì hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một  phần hoặc toàn bộ tài sản chung. Trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần  tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài  sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng. Có những trường hợp do nhu cầu công việc  hoặc muốn kinh doanh nhưng không có sự thống nhất, vợ, chồng đã tiến hành chia tài  sản chung. Khi đã chia tài sản chung thì tài sản đó cũng trở thành tài sản riêng của mỗi  người.  

Bốn là tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo  quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng. Tài sản này gồm đồ dùng, tư trang cá nhân như đồ trang sức, các trang thiết bị phục vụ nhu cầu học tập, lao động… 

Như vậy, phạm vi tài sản riêng của vợ, chồng cũng tương đối rộng, thể hiện mặc  dù hai người đã là vợ chồng nhưng pháp luật vẫn tôn trọng việc họ có tài sản riêng để bảo đảm sinh hoạt, công việc hàng ngày. 

Trường hợp tài sản của vợ, chồng được đã được đưa vào thành lập doanh nghiệp  tư nhân được xác định như sau: 

Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách  nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Theo đó mỗi  doanh nghiệp tư nhân sẽ do một cá nhân làm chủ và cá nhân đó sẽ tự chịu trách nhiệm  đối với mọi hoạt động của doanh nghiệp bằng tất cả tài sản của mình. Bản thân doanh  nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp tư  nhân gắn liền với quyền và nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh nghiệp tư  nhân chính là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Vì thế, khi chủ doanh nghiệp  

chết đi những nghĩa vụ tài sản và các khoản nợ mà doanh nghiệp chưa thực hiện sẽ được  đảm bảo bằng tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân. Khi chủ doanh nghiệp tư nhân chết  đi sẽ có quyền để lại tài sản thừa kế là doanh nghiệp tư nhân này. Khi đó, doanh nghiệp  tư nhân này trở thành di sản mà người chủ doanh nghiệp để lại cho người thừa kế. Chủ  doanh nghiệp mới cần làm thủ tục thay đổi chủ sở hữu doanh nghiệp tại phòng đăng ký  kinh doanh nơi doanh nghiệp có trụ sở chính để tiếp tục hoạt động. 

Thứ hai, một phần hai số tài sản trong khối tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất  của người chết với vợ (chồng) của họ. Sau khi kết hôn, vợ chồng về sinh sống chung một  nhà, cùng chăm lo cho cuộc sống gia đình nên sẽ có khối tài sản chung vừa thể hiện tình  cảm, vừa thể hiện trách nhiệm của mỗi bên trong việc xây dựng hành phúc. Tài sản  chung của vợ chồng bao gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt  động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp  khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần tài  sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản  chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Phần  tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng, tài sản mà vợ chồng được  thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận nhập  vào khối tài sản chung cũng được coi là tài sản chung. Để xác định tài sản chung của vợ  chồng trong thời kì hôn nhân phải dựa vào nguồn gốc của tài sản, căn cứ làm hình thành  tài sản. Dưới góc độ tình cảm và pháp luật, khi đã là vợ chồng thì mọi tài sản dù do  chồng hay vợ làm ra trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung. Chế độ tài sản chung sẽ  được duy trì trong suốt thời kì hôn nhân, trừ khi vợ chồng đã chia tài sản chung trong  thời kì hôn nhân. Đối với khối tài sản chung của vợ chồng, tuy có trường hợp cần xem  xét đến công lao đóng góp của từng người nhưng về cơ bản, công sức đóng góp của mỗi  người được coi là như nhau nên khi có một người chết trước thì tài sản chung được chia  đôi, phần di sản để chia thừa kế chính là một nửa trong khối tài sản chung hợp nhất của  vợ chồng. 

Thứ ba, phần tài sản của người chết trong khối tài sản thuộc sở hữu chung theo  phần với người khác. Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền  

sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung. Trên thực tế, có những  trường hợp những người là bạn bè của nhau hay vợ chồng sử dụng tài sản riêng của mình  cùng góp vốn để làm một việc gì đó. Ví dụ A và B là hai người là bạn của nhau cùng góp  vốn mua một chiếc ô tô trị giá hai tỷ đồng để cho thuê. Sau bốn năm, A chết. Lúc này sẽ  phải xác định lại giá trị của chiếc xe là tài sản chung của A và B. Giả sử giá trị chiếc xe  đó còn lại là một tỷ đồng. Lúc này A và B mỗi người được chia năm trăm triệu đồng.  Nếu nguồn gốc số tiền khi A góp vốn là tài sản riêng của A thì năm trăm triệu được chia  sẽ là di sản thừa kế của A. Nếu số tiền lúc góp vốn thuộc sở hữu chung của vợ chồng A  thì A chỉ được sở hữu một nửa số tiền được chia (hai trăm năm mươi triệu đồng), còn  một nửa sẽ thuộc quyền sở hữu của vợ A. Lúc này, hai trăm năm mươi triệu đồng thuộc  sở hữu của A sẽ là di sản thừa kế của A.  

Thứ tư, tài sản của người chết do khi còn sống họ đã góp vốn vào các loại hình  doanh nghiệp như công ty trách nhiệm hữu hạn, mua cổ phần của công ty cổ phần thì họ  cũng có một phần tài sản trong khối tài sản của công ty mà họ là thành viên. Trong bối  cảnh mở cửa thị trường hội nhập kinh tế như hiện nay, các loại hình doanh nghiệp ngày  càng phát triển và là nhân tố chính dẫn đến thay đổi diện mạo đất nước. Sự ra đời của các  doanh nghiệp thúc đẩy quá trình sản xuất, trao đổi hàng hóa, tạo ra thị trường lao động.  Thực tế, mỗi doanh nghiệp trong quá trình hoạt động đều có bí quyết kinh doanh, chiến  lược riêng, có bí mật về kĩ thuật công nghệ nên muốn bảo mật, không mốn bị thất truyền  hay truyền cho người ngoài. Do đó, việc pháp luật quy định về các trường hợp thừa kế doanh nghiệp bằng cách trở thành chủ sở hữu hay thành viên của doanh nghiệp khi có  thành viên của doanh nghiệp chết là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn, phù hợp với truyền  thống dân tộc. Khi người thừa kế đã trở thành chủ sở hữu hoặc thành viên của doanh  nghiệp, họ sẽ tiếp tục điều hành doanh nghiệp thực hiện các hoạt động sản xuất kinh  doanh để sinh lợi nhuận. Pháp luật quy định cụ thể về cách xử lý di sản thừa kế là các  phần vốn góp trong một số loại hình doanh nghiệp như sau:  

Một là, đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên “Trường hợp  thành viên là cá nhân chết thì người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của thành  viên đó là thành viên của công ty”[49, Điều 54]. Thành viên của công ty TNHH hai  

thành viên trở lên có thể là tổ chức hoặc cá nhân nhưng trong phạm vi luận án nghiên  cứu, chỉ hướng đến thành viên là cá nhân vì có gắn liền với việc để lại di sản thừa kế.  Thành viên công ty phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản trong  phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp và trong trường hợp thành viên là cá nhân chết  thì người thừa kế của cá nhân đó sẽ trở thành thành viên của công ty. Đây là một quy  định theo hướng mở, coi việc trở thành thành viên công ty là một loại tài sản hết sức đặc  biệt và có thể chuyển lại cho người thừa kế. Điều này tạo điều kiện cho người thừa kế có cơ hội tiếp quản vị trí mà thành viên công ty đang đảm nhiệm, tránh những gián đoạn  trong quá trình hoạt động của công ty.  

Tuy nhiên, thực tế vẫn có những trường hợp hết sức đặc biệt để xem xét chủ thể  nào sẽ là người thay thế vị trí của thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên đã bị  chết. Ví dụ trường hợp: X, Y, Z cùng nhau thành lập công ty TNHH Hoa Ngọc Lan. Ông  X đang là giám đốc của công ty nhưng bị chết do bị tai nạn, người thừa kế chỉ có vợ  (đang giữ chức vụ Phó giám đốc Sở Y tế thành phố) và con gái 10 tuổi thì phần vốn góp  của ông X sẽ được xử lý như thế nào và ai sẽ trở thành thành viên công ty thay vào vị trí  của ông X. Với trường hợp này, theo quy định của Điều 54 Luật Doanh nghiệp năm  2014 [49], vợ con gái của ông X sẽ trở thành thành viên của công ty. Tuy nhiên, vợ ông  X đang là Phó giám đốc Sở Y tế thành phố, nên không được thành lập và quản lý doanh  nghiệp. Do vậy chỉ có con gái của ông X đủ điều kiện để trở thành thành viên công ty.  Tuy nhiên cháu mới 10 tuổi, do vậy, các giao dịch sẽ được thực hiện thông qua người đại  diện theo pháp luật là người mẹ. 

Phần di sản thừa kế vợ ông X được hưởng được xử lý theo điều 52, 53 Luật  Doanh nghiệp 2014 [49]: yêu cầu công ty mua lại, nếu công ty không mua lại có thể  chuyển nhượng phần vốn góp cho người khác không phải là thành viên nếu sau ba mươi ngày công ty không mua hết hoặc không mua. Với phần di sản thừa kế do con gái ông X  được hưởng, người mẹ là đại diện theo pháp luật có thể xác lập các giao dịch vì lợi ích  của con, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Như vậy, mặc dù là đối tượng thuộc  trường hợp cấm tham gia quản lý doanh nghiệp, tuy nhiên, với tư cách là người đại diện  theo pháp luật của con, người mẹ có quyền đại diện cho con quản lý phần vốn góp là di  

sản thừa kế của ông X, xác lập các giao dịch vì lợi ích của con cho đến khi người con đủ  năng lực hành vi dân sự để tham gia quản lý doanh nghiệp. Như vậy, việc thừa kế phần  vốn góp trong công ty TNHH cần được người kế thừa và hội đồng thành viên công ty  bàn bạc và đưa ra quyết định để tránh những rắc rối phát sinh trong nội bộ cũng như  pháp luật làm ảnh hưởng đến hoạt động của công ty sau này. 

Hai là, đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên 

“Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức  hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu; chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty” [49, Điều  73]. Trường hợp chủ sở hữu công ty là cá nhân chết thì người thừa kế theo di chúc hoặc  theo pháp luật là chủ sở hữu hoặc thành viên của công ty. Công ty phải tổ chức hoạt động  theo loại hình doanh nghiệp tương ứng và đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh  nghiệp trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày kết thúc việc giải quyết thừa kế. Cụ thể, 

Khoản 4, Điều 46, Nghị định 78/2015/NĐ/CP quy định về thay đổi người sở hữu công ty  TNHH một thành viên như sau: “Trường hợp có nhiều hơn một cá nhân hoặc nhiều hơn  một tổ chức được thừa kế phần vốn của chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một  thành viên, công ty đăng ký chuyển đổi sang loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn hai  thành viên trở lên”. Như vậy, nếu chủ sở hữu công ty là cá nhân chết mà chỉ có một  người thừa kế thì người đó sẽ trở thành chủ sở hữu hoặc thành viên của công ty, nếu có  từ hai người thừa kế trở lên thì phải chuyển đổi thành công ty TNHH hai thành viên trở  lên và tiến hành các thủ tục để thay đổi nội dung đăng kí kinh doanh. Còn trường hợp cá  nhân chết mà không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận thừa kế hoặc bị truất  quyền thừa kế thì phần vốn góp của chủ sở hữu được giải quyết theo quy định của pháp  luật về dân sự. 

Ba là, đối với công ty hợp danh. Ở đa số các nước trên thế giới, công ty hợp danh  được pháp luật ghi nhận là một loại hình đặc trưng của công ty đối nhân, trong đó có ít  nhất hai thành viên cùng tiến hành hoạt động thương mại dưới một hãng chung và cùng  liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty. Quan niệm về công ty  hợp danh ở nước ta hiện nay có một số điểm khác với cách hiểu truyền thống về công ty  

hợp danh. Theo đó công ty hợp danh được định nghĩa là một loại hình doanh nghiệp phải  có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty cùng nhau kinh doanh dưới  một tên chung; ngoài các thành viên hợp danh, có thể có thành viên góp vốn. Trong đó  thành viên hợp danh phải là cá nhân chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình về các nghĩa  vụ của công ty. Còn thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công  ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Như vậy, trong công ty hợp danh có hai loại  thành viên với địa vị pháp lý khác nhau ở trong công ty, dẫn đến quyền và nghĩa vụ của  họ trong công ty là khác nhau. Tuy nhiên, cả hai loại thành viên này đều được quyền để thừa kế phần vốn góp của mình cho người khác. Đối với thành viên hợp danh, trường  hợp thành viên hợp danh chết thì người thừa kế của thành viên được hưởng phần giá trị tài sản tại công ty sau khi đã trừ đi phần nợ thuộc trách nhiệm của thành viên đó, người  thừa kế có thể trở thành thành viên hợp danh nếu được hội đồng thành viên chấp thuận.  Đối với thành viên góp vốn, họ cũng được định đoạt phần vốn góp của mình bằng cách  để lại thừa kế và người thừa kế được phép thay thế người chết, trở thành thành viên góp  vốn của công ty. Như vậy, người thừa kế của thành viên góp vốn đương nhiên có quyền  trở thành thành viên của công ty mà không cần sự đồng ý của Hội đồng thành viên, còn  người thừa kế của thành viên hợp danh chỉ được trở thành thành viên hợp danh khi được  sự chấp thuận của Hội đồng thành viên. Điều này dễ được lý giải bởi tính chất liên đới  chịu trách nhiệm vô hạn, cho nên các thành viên phải thật sự hiểu biết, tin tưởng vào uy  tín của nhau, nên pháp luật cho phép các thành viên hợp danh còn lại trong công ty được  quyền quyết định có cho phép người thừa kế trở thành thành viên hợp danh của công ty  hay không. 

Bốn là, đối với công ty cổ phần. Công ty cổ phần là loại hình đặc trưng của công  ty đối vốn, vốn của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Người  sở hữu cổ phần gọi là cổ đông. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công  ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu. 

Cũng như các loại hình doanh nghiệp khác, cổ đông trong công ty cổ phần có thể để thừa  kế số cổ phần của mình cho người khác. Người đó sẽ đương nhiên trở thành cổ đông  trong công ty. Trường hợp, người thừa kế không muốn tham gia vào công ty với tư cách  

là cổ đông của công ty, họ có thể chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác theo  quy định của pháp luật và điều lệ công ty. Đối với trường hợp người để lại di sản là cổ đông sáng lập, người thừa kế cổ phần có quyền lựa chọn có hoặc không trở thành cổ đông sáng lập của công ty. Việc người thừa kế trở thành cổ đông sáng lập của công ty thì  theo quy định tại Điều 51 Nghị định 78/2015/NĐ-CP, công ty phải gửi thông báo đến  Phòng đăng ký kinh doanh nơi công ty đã đăng ký. 

Một vấn đề tiếp theo liên quan đến di sản hiện nay còn gây tranh cãi đó là di sản  thừa kế có bao gồm nghĩa vụ của người để lại di sản hay không. BLDS của một số nước  trên thế giới nói chung và BLDS Việt Nam nói riêng chỉ đưa ra quy định mang tính liệt  kê như di sản thừa kế bao gồm những tài sản nào mà chưa đưa ra một khái niệm cụ thể nào về di sản thừa kế. Như “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản  của người chết trong tài sản chung với người khác” [52, Điều 612]. Như vậy, di sản thừa  kế có bao gồm nghĩa vụ của người để lại di sản hay không?  

Do văn hóa, truyền thống, nhận thức và quan niệm về đạo đức, nghĩa vụ của  người để lại di sản với người hưởng di sản ở mỗi thời kỳ khác nhau là khác nhau nên  quan niệm nghĩa vụ tài sản của người chết có là di sản thừa kế của người đó hay không là  vấn đề còn tồn tại những quan điểm khác nhau.  

Quan điểm thứ nhất cho rằng di sản thừa kế bao gồm cả tài sản và cả nghĩa vụ tài  sản của người để lại di sản [20, tr.49]. Quan điểm này có nghĩa là trước khi chết, bên  cạnh những tài sản mà người để lại di sản có thì họ có thể còn có các nghĩa vụ về tài sản.  Khi họ chết đi, cùng với việc được hưởng những tài sản do người chết để lại thì những  nghĩa vụ về tài sản phải được chuyển sang cho những người được hưởng di sản thực  hiện. Nghĩa vụ tài sản dù có lớn hơn với phần di sản được hưởng thì người thừa kế vẫn  phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với những nghĩa vụ tài sản đó (người được hưởng di  sản phải chịu trách nhiệm bằng cả tài sản riêng của mình) 

Quan điểm thứ hai cho rằng, di sản thừa kế bao gồm tài sản và nghĩa vụ tài sản  trong phạm vi di sản của người chết để lại [20, tr.52]. Quan điểm này giống với quan  điểm thứ nhất là di sản thừa kế gồm cả nghĩa vụ tài sản của người đã chết. Tuy nhiên  quan điểm này khác quan điểm thứ nhất là người được hưởng di sản chỉ phải chịu trách  

nhiệm đối với các nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản khi các nghĩa vụ tối đa cũng  chỉ bằng với các quyền mà người đó được hưởng. Phần nghĩa vụ vượt quá so với phần  tài sản mà người thừa kế được hưởng thì người thừa kế đó sẽ không phải chịu trách  nhiệm. 

Quan điểm thứ ba cho rằng di sản thừa kế chỉ bao gồm các tài sản mà người chết  để lại, có nghĩa là các nghĩa vụ tài sản của người chết sẽ không coi là di sản thừa kế [20,  tr.52]. Tác giả ủng hộ quan điểm này bởi lẽ:  

Một là, về ngữ nghĩa thì thừa kế là thừa hưởng gia tài của người đi trước một cách  kế tục. Theo nghĩa này, Từ điển Tiếng Việt đã định nghĩa: “Thừa kế là hưởng của người  chết để lại cho” (như thừa kế tài sản của cha mẹ để lại), mà “thừa hưởng” trong “Pháp  luật danh từ giải nghĩa” được hiểu là “được ăn dùng, được tiêu thụ, được hưởng lợi, được  giữ, được dùng làm của mình”. Với ý nghĩa này thì không thể tư duy theo hướng người  thừa kế, người hưởng di sản “được hưởng nghĩa vụ tài sản” hay “hưởng tài sản nợ của  ông bà, cha mẹ để lại, nếu di sản chỉ có nghĩa vụ tài sản” [20, tr.53] 

Hai là, về phương diện kinh tế và pháp luật, trong các quy định của pháp luật dân  sự đều quy định nguyên tắc tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mỗi chủ thể.  Ba là, về mặt văn hóa, truyền thống và đạo đức của người Việt, là cha mẹ sinh ra  con phải có nghĩa vụ nuôi con và ngược lại, con cái phải có bổn phận kính yêu, phụng  dưỡng cha mẹ lúc cha mẹ già yếu thì việc một người “ra đi” để lại một nghĩa vụ tài sản  cho người thân yêu của mình phải gánh trả cũng không phù hợp với văn hóa, truyền  thống và đạo đức. 

Như vậy, di sản thừa kế không bao gồm nghĩa vụ tài sản của người chết mà chỉ bao gồm tài sản, các quyền tài sản được xác lập dựa trên các căn cứ hợp pháp mà người  chết để lại cho những người thừa kế. Hiểu một cách tổng quan nhất, thì di sản thừa kế là  toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết để lại cho những người có quyền  hưởng thừa kế và các nguồn lợi có được từ di sản sau khi người để lại di sản chết bao  gồm hoa lợi do di sản sinh ra, tiền thuê di sản… mà không bao gồm các nghĩa vụ tài sản  của người đó [20, tr.57] 

2.3.2. Diện thừa kế theo pháp luật 

Nếu như thừa kế theo di chúc thì người lập di chúc có quyền lựa chọn người  hưởng di sản theo ý chí của họ và họ cũng có quyền tự quyết định việc phân chia di sản,  và chủ yếu phụ thuộc vào yếu tố tình cảm, đạo đức. Nói cách khác là những người thừa  kế theo di chúc hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của người để lại di sản, mà không tuân  theo một nguyên tắc hay một mối quan hệ cụ thể nào. Tuy nhiên, đối với trường hợp  thừa kế theo pháp luật thì lại hoàn toàn khác về mặt bản chất. Như đã trình bày ở trên,  thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng và theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định.  Chính bởi lẽ đó, pháp luật cần dựa trên những nguyên tắc nhất định để quy định các vấn  đề về người nhận di sản, cách thức phân chia di sản… Việc nghiên cứu để đưa ra phạm  vi những người thừa kế được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật là một trong những nội  dung hết sức quan trọng. Dưới góc độ pháp lý, phạm vi những người thừa kế này được  hiểu là diện thừa kế theo pháp luật.  

Cơ sở để xác định diện thừa kế căn cứ trước tiên vào các mối quan hệ được xem  là gần gũi, thân thuộc nhất với người để lại di sản, đồng thời phụ thuộc vào các yếu tố kinh tế, xã hội, cũng như chế độ sở hữu tồn tại trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.  Diện thừa kế thường căn cứ vào mối quan hệ thân thuộc giữa người chết và những người  có quyền nhận di sản. Pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều xếp những  người có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng với người để lại di sản như vợ 

(chồng), cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi và các con… vào diện thừa kế. 

Ở Việt Nam trước đây, trong thời kì phong kiến, bao trùm lên hệ tư tưởng trong  toàn xã hội là tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, do đó quy định của pháp luật về thừa kế cũng ít nhiều bị ảnh hưởng. Trong mối quan hệ gia đình, mối quan hệ về bên nội bao giờ cũng được coi trọng, đề cao, còn quan hệ bên ngoại, hôn nhân chỉ xếp hàng thứ yếu. Vì  vậy, diện thừa kế theo pháp luật gồm: con đẻ, con nuôi, cháu, cha, mẹ, ông, bà nội, các  cụ nội, anh, chị, em ruột của người để lại di sản. Chỉ trong trường hợp bên nội không còn  ai để hưởng di sản thì lúc này di sản mới thuộc về bên ngoại.  

Sau khi nước ta giành độc lập, trong những năm đầu, chính quyền còn non trẻ nên  pháp luật của chế độ cũ vẫn được áp dụng khá phổ biến. Sự ra đời của bản Hiến pháp  

năm 1946 đã đánh dấu bước tiến hết sức đáng kể về tư duy lập pháp. Lúc này, phụ nữ mới được công nhận có các quyền bình đẳng với nam giới. Một trong những quyền này  là quyền bình đẳng trong việc để lại di sản cũng như quyền hưởng di sản giữa nam và nữ,  quan hệ hôn nhân cũng được chú trọng trong việc xác định diện thừa kế. Sau đó, rất  nhiều các văn bản dưới luật ra đời dù mỗi văn bản quy định phạm vi những người thuộc  diện thừa kế có khác nhau nhưng đều khẳng định hôn nhân chính là căn cứ để xác định  một người thuộc diện thừa kế của người chồng hoặc vợ của họ. 

Đến thời kì mới, khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 ra đời thì một vấn đề khá bất cập nảy sinh liên quan đến sự không thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp  luật là quan hệ giữa anh chị em nuôi với nhau không được xác định là quan hệ gia đình  (nhưng anh chị em nuôi lại được xác định thuộc diện thừa kế theo pháp luật). Ngoài ra,  trong thời kỳ này, ông bà và cháu cũng thuộc diện thừa kế di sản của nhau, tuy nhiên  quan hệ này chỉ mang tính một chiều: ông, bà thuộc diện thừa kế di sản của cháu khi  cháu chết; nhưng cháu lại không được xác định thuộc diện thừa kế nếu ông, bà chết. 

Sau đó, diện thừa kế cũng được xác định một cách cụ thể dựa trên quan hệ hôn  nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng. Cụ thể diện thừa kế giai đoạn này  được xác định gồm: vợ góa (vợ cả góa, vợ lẽ góa) hoặc chồng góa; các con đẻ và con  nuôi; bố đẻ, mẹ đẻ hoặc bố nuôi, mẹ nuôi; ông nội, bà nội và ông ngoại, bà ngoại; anh,  chị, em ruột; anh, chị, em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha; anh, chị, em nuôi.  Tiếp theo đó, con riêng của vợ hoặc chồng cũng thuộc diện được hưởng di sản. Đặc biệt  có thêm trường hợp “người thừa tự” thì coi như con nuôi và cũng thuộc diện thừa kế theo  pháp luật. Đến khi cụ nội, cụ ngoại, chú, bác, cô, dì, cậu ruột của người để lại di sản và  những người mà người để lại di sản là chú, bác, cô dì, cậu ruột cũng thuộc diện được  hưởng di sản thừa kế thì diện thừa kế theo pháp luật được hoàn thiện như hiện nay. Việc  mở rộng phạm vi những người thuộc diện thừa kế như hiện nay là hoàn toàn phù hợp  truyền thống của dân tộc ta là luôn coi trọng yếu tố gia đình. 

Nhìn chung, diện thừa kế được ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật  sau này về cơ bản không có sự thay đổi, vẫn dựa trên các mối quan hệ hôn nhân, huyết  thống và quan hệ nuôi dưỡng. Đến năm 2005 đã có sự bổ sung với trường hợp: cháu vừa  

là người thừa kế theo pháp luật của ông, bà ở hàng thừa kế thứ hai, vừa là người thừa kế thế vị của bố (mẹ), ông (bà) khi ở thời điểm mở thừa kế thì bố (mẹ), ông (bà) của cháu  không còn sống. 

Có thể kết luận lại, căn cứ xác định diện thừa kế theo pháp luật được dựa trên mối  quan hệ giữa người để lại di sản và người nhận di sản, theo đó, giữa người để lại di sản  và người nhận di sản có thể tồn tại một trong ba mối quan hệ: quan hệ huyết thống, quan  hệ hôn nhân hoặc quan hệ nuôi dưỡng. Trong đó, quan hệ huyết thống cần được nhìn  nhận theo hướng như sau: những người thừa kế có mối quan hệ huyết thống với người để lại di sản được xác định theo hai chiều: chiều dọc và chiều ngang. Chiều dọc được xác  định từ đời các cụ cho đến đời các chắt (phạm vi trực hệ bốn đời). Chiều ngang được xác  định giữa anh, chị, em với nhau, theo đó, nếu anh hoặc chị chết thì em là người thừa kế,  nếu em chết thì anh hoặc chị là người thừa kế di sản của em…. (huyết thống bàng hệ trong phạm vi hai đời). Như vậy, những người có mối quan hệ hôn nhân, hoặc huyết  thống (bốn đời trực hệ và hai đời bàng hệ), hoặc nuôi dưỡng với người để lại di sản đều  có thể ở trong diện thừa kế di sản của người đó nhưng không phải tất cả những người  thuộc diện thừa kế đều được hưởng di sản mà còn phụ thuộc vào thứ tự ưu tiên giữa  những người cùng thuộc diện thừa kế nhưng ở những hàng thừa kế khác nhau. Ví dụ như  cha mẹ đẻ, con đẻ, anh chị em ruột là những người cùng huyết thống với người để lại di  sản nên cùng thuộc diện được hưởng thừa kế, nhưng cha mẹ đẻ, con đẻ sẽ được ưu tiên  nhận di sản trước anh, chị, em ruột của người để lại di sản vì cha mẹ đẻ, con đẻ có mối  quan hệ trực hệ gần gũi với người để lại di sản hơn anh chị, em ruột của người để lại di  sản do họ chỉ có mối quan hệ bàng hệ với người để lại di sản.  

Như vậy, diện thừa kế là phạm vi những người có thể được hưởng di sản thừa kế được xác định dựa trên các mối quan hệ thân thích giữa người để lại di sản thừa kế với  người thừa kế. Diện thừa kế được chia thành các hàng khác nhau và hàng sau chỉ được  hưởng di sản thừa kế khi hàng trước không có ai được hưởng. 

2.3.3. Một số vấn đề chung về thừa kế thế vị 

Theo nghĩa Hán – Việt thì từ “thế” có nghĩa là “thay vào”, từ “vị” có nghĩa là  “ngôi thứ”, “ngôi vị”, “vị trí”. Trong “Từ điển giải thích thuật ngữ luật học” của Trường  

Đại học Luật Hà Nội do NXB Công an Nhân dân xuất bản năm 1999 định nghĩa: “Thừa  kế thế vị là thừa kế bằng việc thay thế vị trí để hưởng thừa kế” [88, tr .323]. BLDS 2015  không đưa ra định nghĩa thế nào là thừa kế thế vị mà chỉ liệt kê các trường hợp thừa kế thế vị như sau: trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời  điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu  được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người  để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu  còn sống [52, Điều 652]. Do đó, ta có thể hiểu thừa kế thế vị là việc con thay thế vị trí  của cha hoặc mẹ để hưởng thừa kế của ông nội, bà nội hoặc ông ngoại, bà ngoại đối với  phần di sản mà cha, mẹ được hưởng nếu còn sống nhưng cha đã chết trước hoặc chết  cùng thời điểm với ông nội, bà nội hoặc mẹ đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm với  ông ngoại, bà ngoại, đồng thời cũng là việc con thay thế vị trí của cha hoặc mẹ để hưởng  thừa kế của cụ đối với phần di sản mà cha mẹ được hưởng nhưng cha, mẹ đã chết trước  hoặc cùng một thời điểm với cụ [83; tr 324].  

Qua đó, có thể rút ra khái niệm: Thừa kế thế vị là việc pháp luật quy định khi cha  hoặc mẹ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ông nội, bà nội hoặc ông ngoại, bà  ngoại thì con được thay thế vị trí của cha hoặc mẹ để hưởng phần di sản mà lẽ ra cha  hoặc mẹ còn sống sẽ được hưởng của ông nội, bà nội hoặc ông ngoại, bà ngoại, đồng  thời cũng là việc khi cha hoặc mẹ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với cụ thì con  được thay thế vị trí của cha hoặc mẹ để hưởng phần di sản mà lẽ ra cha hoặc mẹ còn  sống sẽ được hưởng của cụ.  

Theo quy định của pháp luật người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào  thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành  thai trước khi người để lại di sản chết. Nhưng thực tế có những trường hợp người thừa kế chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản, tức là tại thời điểm mở thừa  kế, người được hưởng di sản không còn sống. Để đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể trong trường hợp này, vấn đề về thừa kế thế vị đã được đặt ra. 

Như vậy, mối quan hệ thừa kế thế vị bao giờ cũng là mối quan hệ xuôi chiều, có  nghĩa là con được hưởng thế vị vị trí của cha mẹ mà không có chiều ngược lại là cha mẹ được hưởng thừa kế thế vị của con. Thừa kế thế vị chỉ được đặt ra khi người được hưởng  di sản chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản. Vì vậy con của người được  hưởng di sản sẽ hưởng thay phần di sản mà lẽ ra người được hưởng di sản còn sống sẽ được hưởng. Thừa kế thế vị chỉ được áp dụng đối với phần di sản được chia theo pháp  luật. 

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 

Đây là chương đề cập đến những vấn đề lý luận về thừa kế nói chung cũng như  thừa kế theo pháp luật nói riêng, theo quy định của pháp luật dân sự. Từ những phân tích,  nghiên cứu trên có thể rút ra một số kết luận sau: 

1. Thừa kế xuất hiện là một tất yếu của lịch sử phát triển trong xã hội loài người,  mỗi chế độ xã hội khác nhau thì thừa kế lại mang những đặc điểm khác nhau và phản  ánh bản chất giai cấp của xã hội đó. 

2. Quyền thừa kế chỉ xuất hiện và được ghi nhận khi Nhà nước ra đời và thiết lập  trật tự xã hội, quản lý xã hội bằng pháp luật. Khi các quan hệ trong xã hội thay đổi, nhất  là cơ sở kinh tế thay đổi tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi nhận thức về thừa kế cũng như  thừa kế theo pháp luật. 

3. Pháp luật Việt Nam qua các thời kì đều dành sự quan tâm tương xứng với quan  hệ thừa kế thể hiện ở việc luôn có quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh  trong lĩnh vực thừa kế. 

4. Đến thời điểm hiện tại, các quan điểm khoa học đều ghi nhận thừa kế là một  hiện tượng tất yếu và tính lịch sử, thừa kế được hiểu là sự dịch chuyển tài sản từ người đã  chết sang cho người còn sống.  

5. Thừa kế theo pháp luật là sự dịch chuyển di sản của người chết sang cho người  còn sống trên cơ sở quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng giữa  người để lại di sản và người được hưởng di sản và tuân theo một trình tự, thủ tục nhất  định do pháp luật quy định. 

6. Ý nghĩa của quy định về thừa kế theo pháp luật là bảo đảm di sản của người  thừa kế luôn được định đoạt, bảo đảm quyền được hưởng thừa kế của những người thân  thích trong gia đình, khuyến khích công dân lao động sản xuất ra nhiều của cải cho xã  hội và góp phần bảo đảm duy trì trật tự xã hội 

7. Thừa kế theo pháp luật có những điểm đặc thù, các trường hợp phát sinh quan  hệ thừa kế theo pháp luật khác với trường hợp thừa kế theo di chúc. Để được hưởng di  sản thừa kế theo pháp luật đòi hỏi cá nhân phải có quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản và không thuộc trường hợp không  được hưởng di sản; từ chối nhận di sản, truất quyền hưởng di sản. Đồng thời, cá nhân  nhận di sản phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế (hoặc sinh ra còn sống sau thời  điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước thời điểm người để lại di sản chết). 

8. Việc pháp luật quy định những người thuộc hàng thừa kế không mang tính  ngẫu nhiên mà có sự phỏng đoán ý chí của đa số người để lại di sản, để bảo đảm quyền,  lợi ích cho những người có các mối quan hệ nhất định với người để lại di sản, để củng cố và duy trì tình thân nếu người có tài sản qua đời. 

9. Pháp luật bảo vệ quyền của người để lại di sản, nhưng đồng thời cũng bảo vệ quyền của người nhận di sản bằng những quy định pháp luật nhất định. 10. Hiện nay, cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, quyền để lại di sản  thừa kế không những bao gồm quyền đối với những tài sản hữu hình như nhà cửa, máy  móc, đất đai… mà còn có quyền tài sản đối với những tài sản vô hình như tài sản trí tuệ.  Nhưng không phải quyền tài sản đối với đối tượng nào của quyền sở hữu công nghiệp  cũng trở thành di sản để thừa kế. Chẳng hạn, chỉ dẫn địa lý là đối tượng không được  quyền chuyển giao, chủ sở hữu của đối tượng này là Nhà nước.  

CHƢƠNG 3 

THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT 

Thừa kế là sự dịch chuyển tài sản của một người đã chết sang cho người còn sống.  Dựa trên nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của người để lại di sản, trước hết pháp  luật thừa kế quy định về hình thức thừa kế theo di chúc. Theo đó, những chủ thể nhất định  đáp ứng được các điều kiện theo quy định của pháp luật sẽ có quyền lập di chúc để định  đoạt tài sản của mình. Người được nhận di sản thừa kế trong trường hợp này có thể là cá  nhân, hoặc không phải là cá nhân, mà không cần đáp ứng điều kiện phải có mối quan hệ nhất định với người để lại di sản. Bên cạnh hình thức thừa kế theo di chúc, pháp luật dự liệu đến trường hợp người để lại di sản không có di chúc, hoặc di chúc của họ không phát  sinh hiệu lực trên thực tế (bằng việc quy định về hình thức thừa kế theo pháp luật). Nếu  thừa kế theo di chúc dựa trên ý chí của người để lại di sản, thì thừa kế theo pháp luật dựa  trên ý chí của nhà nước. Tất nhiên ý chí của nhà nước được thể hiện trong thừa kế theo  pháp luật không phải được quy định một cách thiếu căn cứ mà ý chí đó được dựa trên sự phỏng đoán ý chí của đa số người để lại di sản. Pháp luật về thừa kế trong trường hợp này  quy định các trình tự, thủ tục nhất định để tiến hành phân chia di sản cho những người thừa  kế.  

Tại thời điểm mở thừa kế, nếu không có di chúc hoặc có di chúc nhưng việc phân  chia di sản thừa kế không thể thực hiện được vì những lý do nhất định thì di sản của người  chết sẽ được chia cho những người trong hàng thừa kế mà pháp luật đã quy định trước. 

3.1. Những nguyên tắc của pháp luật Việt Nam về thừa kế theo pháp  luật 

Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập  hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong  doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ”. Trên cơ sở đó, BLDS năm 2015 đã có nhiều quy định thể hiện các nguyên tắc về thừa kế nói chung, thừa kế theo pháp luật nói riêng, coi đó là kim chỉ nam, là  định hướng để giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến thừa kế. 

Thứ nhất, mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền thừa kế theo pháp luật “Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền  hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật” [52, Điều 610]. Theo đó, mọi cá nhân  không phân biệt giới tính, độ tuổi, tôn giáo, quốc tịch đều có quyền như nhau trong việc để lại di sản và hưởng di sản. Bởi quyền thừa thừa kế bao gồm quyền để lại thừa kế và quyền  nhận thừa kế nên quyền bình đẳng về thừa kế được xét theo cả hai phương diện. 

Với phương diện bình đẳng về việc để lại di sản thì quyền để lại di sản thừa kế được pháp nhận ghi nhận bình đẳng giữa tất cả các cá nhân. Với thừa kế theo di chúc thì  bất kì ai đều có quyền thể hiện ý chí của mình để định đoạt tài sản của mình cho người  khác bằng di chúc, không phân biệt giới tính, địa vị xã hội, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng. Đối với thừa kế theo pháp luật, tuy người để lại di sản không trực tiếp thể hiện ý chí của  mình như trong thừa kế theo di chúc, nhưng pháp luật “thay mặt” người để lại di sản có  những “phỏng đoán” ý chí của họ. Những sự “phỏng đoán” ấy thể hiện quyền để lại di sản  thừa kế được pháp nhận ghi nhận bình đẳng giữa tất cả các cá nhân. 

Với phương diện bình đẳng về quyền được hưởng di sản thừa kế thì mọi cá nhân  đều bình đẳng về quyền hưởng di sản theo pháp luật. Những người trong cùng một hàng  được hưởng kỉ phần như nhau mà không có sự phân biệt. Bình đẳng về quyền nhận di sản  được thể hiện thông qua các nội dung: i) vợ, chồng đều có quyền ngang nhau trong việc  hưởng di sản của con để lại; ii) cha mẹ có quyền ngang nhau trong việc hưởng di sản của  con để lại, iii) các con đều có quyền ngang nhau trong việc hưởng di sản của bố mẹ để lại,  không phân biệt con trai hay con gái, con nuôi hay con đẻ, con trong giá thú hay con ngoài  giá thú; iv) những người thân thích khác của người để lại di sản đều có quyền ngang nhau  trong việc hưởng di sản thừa kế mà không phân biệt ông bà nội, ông bà ngoại; cụ nội, cụ ngoại; cháu trai hay cháu gái, cháu nội hay cháu ngoại, chắt nội hay chắt ngoại, người thân  thích bên nội hay bên ngoại… 

Thứ hai, tôn trọng ý chí của các chủ thể trong quan hệ thừa kế theo pháp luật Điều 3 BLDS năm 2015 quy định các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự,  

trong đó khoản 2 ghi nhận: “Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa  vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa  thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện  đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng”. Đồng thời “Cá nhân có quyền …để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản …theo pháp luật” [52,  Điều 609]. Như vậy, Điều 609 đồng thời ghi nhận quyền của người để lại di sản cũng như  quyền của người được hưởng di sản.  

Như đã nói ở trên, đối với thừa kế theo pháp luật, tuy người để lại di sản không trực  tiếp thể hiện ý chí của mình như trong thừa kế theo di chúc, nhưng pháp luật “thay mặt”  người để lại di sản có những “phỏng đoán” ý chí của họ trong việc để lại di chúc cho ai sao  cho có lý, có tình, phù hợp với thuần phong mỹ tục của từng dân tộc, phù hợp với mong  muốn của đại đa số những người để lại di sản mà vì một lý do nào đó họ không trực tiếp  thể hiện ý chí của mình (bằng di chúc) được. Đối với di sản là tài sản vô hình, là đối tượng  của quyền sở hữu trí tuệ, quyền để lại di sản của người để lại di sản được pháp luật quy  định có một số quy định riêng như sau:  

Một là, về quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, có các quyền tài sản  mà người để lại di sản có quyền để lại thừa kế như sau: làm tác phẩm phái sinh; biểu diễn  tác phẩm trước công chúng; sao chép tác phẩm; phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản  sao tác phẩm; truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến,  mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác; cho thuê bản gốc hoặc  bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính (Điều 20 Luật SHTT). Các quyền tài  sản nói trên sẽ là di sản thừa kế do người chết để lại và được chia thừa kế. Ngoài ra với  mục đích để tác phẩm đến được với công chúng và thể hiện giá trị của tác phẩm, nội dung:  “Công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm” trong quyền nhân thân thuộc  quyền tác giả cũng được chuyển giao và được coi là quyền được thừa kế (Khoản 2 Điều 45  LSHTT).  

Hai là, về quyền đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp. Quyền tác giả chỉ phát  sinh đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp có tính sáng tạo như sáng chế, giải pháp  hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn. Việc ghi nhận các quyền của tác giả nhằm khuyến khích hoạt động sáng tạo khoa học kỹ thuật, phục vụ lợi  ích chung của xã hội. Các đối tượng sở hữu công nghiệp còn lại như nhãn hiệu, tên thương  mại, chỉ dẫn địa lý là các dấu hiệu để chỉ dẫn cho người tiêu dùng trong việc lựa chọn hàng  hóa sản phẩm nên tính sáng tạo chứa đựng trong các đối tượng này hầu như không có hoặc  rất ít, vì vây, pháp luật không đặt ra việc ghi nhận tác giả cho các đối tượng này. Đối với  các thông tin được coi là bí mật kinh doanh, mặc dù có thể mang tính sáng tạo, nhưng do  đặc trưng cơ bản của đối tượng này là tính bí mật, nên quyền lợi của người tạo ra bí mật  kinh doanh thường được thỏa thuận và ghi nhận trong hợp đồng thuê nghiên cứu hoặc hợp  đồng lao động của họ với chủ sở hữu bí mật kinh doanh. Pháp luật ghi nhận tác giả các đối  tượng sở hữu công nghiệp có hai nhóm quyền năng cơ bản: 

Nhóm 1: quyền nhân thân, là những quyền chỉ thuộc về tác giả như quyền được ghi  tên tác giả trong văn bằng bảo hộ; được nêu tên là tác giả trong các tài liệu công bố, giới  thiệu về các đối tượng sở hữu công nghiệp. Những quyền này không thể chuyển giao cho  bất kỳ ai, dưới bất kỳ hình thức nào. Ngay cả trong trường hợp tác giả của đối tượng sở hữu công nghiệp đó chết, quyền đó vẫn gắn liền với tác giả, không thể chuyển giao cho  những người được hưởng di sản.  

Nhóm 2: quyền tài sản, là quyền được hưởng những lợi ích vật chất phát sinh từ đối  tượng sở hữu công nghiệp của tác giả. Quyền tài sản được pháp luật ghi nhận cho tác giả đối tượng sở hữu công nghiệp là quyền được nhận thù lao từ chủ sở hữu theo thỏa thuận  hoặc theo quy định của pháp luật. Bản chất của tiền thù lao là để trả công cho lao động trí  tuệ của tác giả, bù đắp cho những nỗ lực sáng tạo của họ cũng như những chi phí mà tác  giả đã bỏ ra trong suốt quá trình nghiên cứu trong trường hợp tác giả sáng tạo ra đối tượng  sở hữu công nghiệp một cách độc lập bằng kinh phí và phương tiện vật chất của mình.  Mức thù lao cho tác giả được xác định theo thỏa thuận với chủ sở hữu hoặc xác định theo  quy định của pháp luật (Điều 135 Luật SHTT). Trong trường hợp tác giả chết, những lợi  ích vật chất phát sinh từ đối tượng sở hữu công nghiệp của tác giả sẽ được để lại cho người  được hưởng di sản của tác giả. Nếu chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp chết thì chủ sở hữu đó có thể để lại thừa kế quyền sở hữu công nghiệp cho người khác. 

Đối với cá nhân có quyền nhận di sản thừa kế, pháp luật thừa kế của nước ta thể 

hiện việc tôn trọng ý chí của người nhận di sản bằng cách quy định về quyền đồng ý hoặc  từ chối nhận di sản. Người thừa kế được quyền thể hiện ý chí của mình về việc có nhận di  sản thừa kế hay không cho đến trước thời điểm phân chia di sản thừa kế mà người chết để lại. Thực tế có những trường hợp khi người để lại di sản còn sống thì giữa họ và người có  quyền hưởng thừa kế có mâu thuẫn, do đó khi người để lại di sản chết, người có quyền  hưởng di sản có thể từ chối quyền nhận di sản vì không muốn liên quan đến người mà  trước đó mình có mâu thuẫn. Hoặc cũng có những trường hợp người được hưởng di sản đã  có điều kiện vật chất tốt nên không muốn nhận phần di sản mà nhường lại phần di sản để chia cho những người khác khó khăn hơn. Có trường hợp định cư ở nước ngoài, họ không  có thời gian và điều kiện đi lại để phân chia di sản thừa kế nên họ từ chối nhận di sản…  Việc ghi nhận quyền năng này của người hưởng di sản là hết sức tiến bộ. Điều đó thể hiện  trong xã hội hiện đại, cá nhân phải chịu trách nhiệm về chính hành vi của mình. Quy định  đó cũng tránh được những vấn đề phức tạp có thể xảy ra trong đời sống xã hội và phù hợp  theo lẽ tự nhiên của đời sống xã hội. Về quyền của người được hưởng di sản đối với các tài  sản vô hình, đối tượng của sở hữu trí tuệ, pháp luật có quy định riêng như sau:  

Một là, do quyền sở hữu trí tuệ bị giới hạn bởi thời gian (liên quan đến thời hạn bảo  hộ) nên đối với các quyền sở hữu trí tuệ có thời hạn bảo hộ hữu hạn, người nhận thừa kế chỉ được hưởng quyền trong thời hạn bảo hộ. 

Hai là, do quyền sở hữu trí tuệ bị giới hạn về không gian nên người nhận thừa kế chỉ được hưởng quyền của mình trong phạm vi không gian được bảo hộ. Với mỗi đối  tượng khác nhau, pháp luật sở hữu trí tuệ đề cập cụ thể đến các quyền mà người thừa kế được hưởng là khác nhau. 

Thứ ba, đảm bảo quyền hưởng di sản của một số người thừa kế theo pháp luật Tuy tôn trọng quyền để lại di sản thừa kế của người trước khi chết có tài sản để lại,  pháp luật Việt Nam còn bảo vệ quyền lợi cho một số người thừa kế theo pháp luật. Vì vậy  trong một số trường hợp đặc biệt, pháp luật có những quy định hạn chế quyền của người  để lại di sản khiến cho quyền của họ không phải là quyền tuyệt đối. Có nghĩa là pháp luật  có những quy định đảm bảo quyền hưởng di sản của một số người thừa kế theo pháp luật. Nếu tại thời điểm mở thừa kế, người để lại di sản còn có những người thân thiết như cha, mẹ, vợ, chồng, con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao  động nhưng người để lại di sản lại không cho hoặc cho họ hưởng phần di sản ít hơn 2/3  suất thừa kế theo luật thì pháp luật có quy định bắt buộc người để lại di sản phải để lại cho  những người trên ít nhất bằng 2/3 suất thừa kế theo pháp luật [52, Điều 644]. Quyền của  người để lại di sản chỉ không bị hạn chế khi họ không có những người thân thiết rơi vào  các trường hợp trên.  

3.2. Những trƣờng hợp thừa kế theo pháp luật 

Trên tinh thần quy định của Điều 650 BLDS năm 2015, có thể chia các trường hợp  thừa kế theo pháp luật thành hai nhóm sau: 

Nhóm thứ nhất: toàn bộ di sản thừa kế mà người chết để lại được chia theo pháp  luật, gồm các trường hợp: không có di chúc; di chúc không hợp pháp; tất cả những người  thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ  chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế; tất cả những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc đều không có quyền hưởng di  sản hoặc từ chối nhận di sản. 

Nhóm thứ hai: một phần di sản thừa kế được chia theo di chúc, một phần được chia  theo pháp luật, gồm các trường hợp: phần di sản không được định đoạt trong di chúc; phần  di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật; phần di sản có liên  quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối  nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ  quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở  thừa kế. 

Như vậy, thừa kế theo pháp luật bao gồm các trường hợp sau: 

3.2.1. Không có di chúc 

Trong thừa kế, trước tiên di sản phải được dịch chuyển theo ý chí của người để lại  di sản được thể hiện trong di chúc. Trường hợp không có di chúc di sản thừa kế của một  người có thể được phân chia cho những người thừa kế theo quy định của pháp luật. Việc  xác định các trường hợp được coi là không có di chúc có ý nghĩa rất quan trọng để kết luận  một trường hợp trên thực tế có áp dụng phân chia di sản thừa kế theo pháp luật hay không. 

Thông thường nhất, di sản thừa kế sẽ được phân chia theo pháp luật do người có di  sản không lập di chúc. Ngoài ra, người để lại di sản có lập di chúc nhưng vẫn được coi là  không có di chúc nếu rơi vào một trong những trường hợp sau đây: 

Một là người có di sản lập di chúc nhưng sau đó lại tự hủy bỏ di chúc đó. Việc hủy  bỏ di chúc được quy định là một quyền của người lập di chúc. Với quy định về thời điểm  có hiệu lực của di chúc là: di chúc phát sinh hiệu lực từ thời điểm người lập di chúc chết.  Do đó, hoàn toàn có thể xảy ra khả năng người lập di chúc tự hủy bỏ di chúc mà mình đã  lập vì muốn định đoạt tài sản của mình theo những phương thức khác, hoặc muốn lập một  di chúc có nội dung khác với di chúc ban đầu, nhưng chưa kịp lập một di chúc thay thế thì  đã qua đời. 

Hai là người có di sản lập di chúc nhưng tại thời điểm phân chia di sản thì di chúc  bị thất lạc, do đó không có cơ sở để thực hiện ý nguyện của người để lại di sản trước khi họ chết. Nếu di chúc không còn do bị thất lạc vào thời điểm phân chia di sản thì rõ ràng không  thể có căn cứ để thực hiện việc phân chia. Lúc này, di sản thừa kế buộc phải được chia cho  những người thừa kế theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong thời hiệu yêu cầu chia  di sản, trường hợp di sản đã chia mà tìm thấy di chúc thì phải chia lại theo di chúc nếu 

người thừa kế theo di chúc yêu cầu [52, Điều 642, Khoản 3] 

Ba là người để lại di sản có lập di chúc nhưng di chúc đã bị hư hỏng đến mức  không thể đọc được, và do đó không thể xác định được một cách chính xác ý nguyện mà  người chết để lại trong việc dịch chuyển tài sản.  

Bốn là nội dung được thể hiện trong di chúc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau,  thì bản di chúc đó bắt buộc phải được những người thừa kế theo di chúc cùng nhau giải  thích lại nội dung di chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của người chết (có xem  xét đến mối quan hệ của người chết với người thừa kế theo di chúc). Trong trường hợp  những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì có quyền yêu cầu Tòa án  giải quyết. Đây cũng có thể được xem xét là một trong những trường hợp không có di chúc và giải quyết phân chia di sản thừa kế theo pháp luật. Cần xác định chỉ được coi là không  có di chúc khi toàn bộ nội dung không đạt được cách hiểu thống nhất. Khi chỉ có một  phần nội dung của di chúc không đạt được cách hiểu thống nhất thì chỉ phần di sản liên quan tới phần di chúc có nội dung chưa được hiểu thống nhất của di chúc mới được chia  theo pháp luật, còn phần di sản liên quan tới phần di chúc có nội dung đã được hiểu thống  nhất của di chúc vẫn được chia theo di chúc. 

3.2.2. Di chúc không hợp pháp 

Để di chúc phát sinh hiệu lực pháp luật trên thực tế thì điều kiện đầu tiên mà di  chúc đó cần phải đáp ứng đó là di chúc phải hợp pháp. Các điều kiện để di chúc được coi  là hợp pháp bao gồm: người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; người  lập di chúc không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong việc lập di chúc; nội dung của di chúc  không vi phạm điều cấm của luật; không trái đạo đức xã hội; hình thức của di chúc không  trái quy định của luật [52, Điều 630]. Theo đó, nhìn chung, những quy định về di chúc hợp  pháp cũng trùng khớp với quy định về những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự.  Điều này là hợp lý, bởi hành vi lập di chúc chính là một giao dịch dân sự được thể hiện  dưới dạng một hành vi pháp lý đơn phương. Nhưng có những trường hợp di chúc dù đảm  bảo được tính hợp pháp theo quy định của pháp luật nhưng hoàn toàn có thể rơi vào những  trường hợp không thể phân chia di sản thừa kế theo di chúc đó. Cụ thể: người được chỉ  định trong di chúc không còn sống vào thời điểm mở thừa kế; hoặc di sản được chỉ định  trong di chúc không còn tồn tại vào thời điểm di chúc phát sinh hiệu lực (thời điểm người  lập di chúc chết hoặc bị tuyên bố là đã chết). Di chúc phát sinh hiệu lực trên thực tế thì điều  kiện đầu tiên là di chúc phải hợp pháp. Nhưng ngược lại, di chúc hợp pháp chưa chắc đã  phát sinh hiệu lực pháp luật. Khi di chúc vi phạm một trong các điều kiện để được coi là  hợp pháp, thì di chúc có thể bị coi là vô hiệu [52, Điều 630]. Tùy thuộc vào sự vi phạm  điều kiện nào mà di chúc có thể vô hiệu toàn bộ hoặc vô hiệu một phần. 

Theo Điều 606, BLDS Italia di chúc sẽ bị vô hiệu nếu không được viết tay hoặc  nếu chữ ký bị thiếu, có thể là thiếu chữ ký của người lập di chúc hoặc công chứng viên.  Trong trường hợp các di chúc được công chứng, người lập di chúc không có khả năng ký,  sẽ bị vô hiệu nếu không tuyên bố cho biết lý do vì sao người đó lại không ký vào bản di  chúc. Theo pháp luật dân sự của Hà Lan, ý chí và di chúc cuối cùng chỉ có thể được thực  hiện bởi công chứng viên với các yêu cầu sau: người lập di chúc đã thể hiện ý chí của mình một cách rõ ràng, việc lập di chúc phải được thực hiện với sự hiện diện của người công.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com