Kính thưa tổng đài tư vấn trực tuyến về luật đất đai! Tôi xin có một vài câu hỏi được giúp đỡ như sau: Tôi có mua thửa đất thuộc dạng sạt lở chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng khi mua bán đã có dấu xác nhận của UBND xã, tôi xin hỏi đất đó tôi có đủ điều kiện để làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không? Và có thể xây nhà kiên cố trên đất đó không?
Kính mong được giúp đỡ! Xin chân thành cảm ơn!

1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 của Quốc hội

Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ : Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai

Nghị định số 75/2000/NĐ-CP của Chính phủ : Về công chứng, chứng thực

Nghị định số 79/2007/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký

2. Luật sư tư vấn:

TH1: Bạn đang sử dụng đất từ trước ngày 01/01/2008:

Căn cứ khoản 1 Điều 82 Nghị định 43/2014/NĐ-CP:

“Điều 82. Thủ tục đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với trường hợp đã chuyển quyền sử dụng đất nhưng chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền theo quy định

1. Trường hợp người đang sử dụng đất do nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trước ngày 01 tháng 01 năm 2008 mà đất đó chưa được cấp Giấy chứng nhận và không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều này thì người nhận chuyển quyền sử dụng đất thực hiện thủ tục đăng ký đất đai, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu theo quy định của Luật Đất đai và quy định tại Nghị định này mà không phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất; cơ quan tiếp nhận hồ sơ không được bắt buộc người nhận chuyển quyền sử dụng đất nộp hợp đồng, văn bản chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.”

Như vậy nếu việc mua bán của bạn từ trước ngày 01/01/2008 và bạn đang sử dụng đất thì bạn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

TH2: Bạn đang sử dụng từ trước ngày 01/07/2014:

Do đây là trường hợp hợp đồng mua bán ký trước ngày 01/07/2014 nên sẽ áp dụng Nghị định 75/2000/NĐ-CP và nghị định 79/2007/NĐ-CP để phân tích việc đóng dấu của UBND xã.

Căn cứ khoản 2 Điều 689 Bộ luật dân sự năm 2005:

“2. Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật.”

Căn cứ khoản 2 Điều 82 Luật đất đai năm 2013:

“2. Trường hợp người đang sử dụng đất do nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 mà bên nhận chuyển quyền sử dụng đất chỉ có Giấy chứng nhận của bên chuyển quyền sử dụng đất hoặc hợp đồng, giấy tờ về chuyển quyền sử dụng đất theo quy định thì thực hiện theo quy định như sau:

a) Người nhận chuyển quyền sử dụng đất nộp đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và các giấy tờ về quyền sử dụng đất hiện có;

b) Văn phòng đăng ký đất đai thông báo bằng văn bản cho bên chuyển quyền và niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất về việc làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho người nhận chuyển quyền. Trường hợp không rõ địa chỉ của người chuyển quyền để thông báo thì phải đăng tin trên phương tiện thông tin đại chúng của địa phương ba số liên tiếp (chi phí đăng tin do người đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trả);

c) Sau thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thông báo hoặc đăng tin lần đầu tiên trên phương tiện thông tin đại chúng của địa phương mà không có đơn đề nghị giải quyết tranh chấp thì Văn phòng đăng ký đất đai lập hồ sơ để trình cơ quan có thẩm quyền quyết định hủy Giấy chứng nhận đã cấp đối với trường hợp không nộp Giấy chứng nhận để làm thủ tục đồng thời cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất mới cho bên nhận chuyển quyền.

Trường hợp có đơn đề nghị giải quyết tranh chấp thì Văn phòng đăng ký đất đai hướng dẫn các bên nộp đơn đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo quy định.”

Căn cứ khoản 1 Điều 17 Nghị định 79/2007/NĐ-CP:

“Điều 17. Thủ tục chứng thực chữ ký

1. Cá nhân yêu cầu chứng thực chữ ký của mình phải xuất trình các giấy tờ sau đây:

a) Chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu hoặc giấy tờ tuỳ thân khác;

b) Giấy tờ, văn bản mà mình sẽ ký vào đó.”

Căn cứ khoản 2 Điều 41 Nghị định 75/2000/NĐ-CP:

“2. Chứng thực là việc Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ theo quy định của Nghị định này.”

Căn cứ khoản 1 Điều 41 Nghị định 75/2000/NĐ-CP:

“1. Người yêu cầu công chứng, chứng thực ghi Phiếu yêu cầu công chứng, chứng thực theo mẫu quy định, xuất trình giấy tờ tuỳ thân và giấy tờ cần thiết để thực hiện việc công chứng, chứng thực. Trong trường hợp hợp đồng liên quan đến tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, thì người yêu cầu công chứng, chứng thực phải có đầy đủ giấy tờ để chứng minh quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 50 của Nghị định này.”

Như vậy theo quy định trên thì có thể thấy giấy tờ mua bán của bạn có xác nhận của UBND xã thì đây là trường hợp bạn đi thực hiện thủ tục xác nhận chữ ký của các bên chứ không phải công chứng hợp đồng mua bán vì theo quy định khi công chứng hợp đồng thì phải có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất nên trường hợp này bạn không được cấp giấy chứng nhận khi dựa vào giấy tờ trên.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Da thưa luật sư, em có vấn đề về đất đai, kính nhờ luật sư giải đáp giùm, em cảm ơn rất nhiều ạ. Chuyện là cha em có mua miếng đất của bà nội, thủ tục thì bằng miệng cũng chưa có sang tên hoặc cắt bằng khoán gì. Bà nội em chết, cô út em tự sang tên hết cho mình không cho cha em hay, giờ còn vay ngân hàng. Hiện giờ cha em muốn làm giấy tách bằng khoán và đứng tên.

Không biết có được không thưa luật sư và giấy tờ như thế nào? Chân thành cảm ơn rất rất nhiều ạ.

1. Cơ sở pháp lý:

Luật đất đai số 45/2013/QH13 của Quốc hội

Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ : Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai

2. Luật sư tư vấn:

Do bạn không nêu rõ hiện nay ai là người sử dụng đất và việc cô bạn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất dựa trên căn cứ và vào thời điểm nào nên:

TH1.Nếu người đang sử dụng đất hiện nay là bố bạn và việc cấp giấy chứng nhận là không đúng quy định của pháp luật:

Căn cứ khoản 2 Điều 106 Luật đất đai năm 2013:

“2. Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trong các trường hợp sau đây:

a) Nhà nước thu hồi toàn bộ diện tích đất trên Giấy chứng nhận đã cấp;

b) Cấp đổi Giấy chứng nhận đã cấp;

c) Người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất mà phải cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;

d) Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai.

3. Việc thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp đối với trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều này do cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định tại Điều 105 của Luật này quyết định sau khi đã có kết luận của cơ quan thanh tra cùng cấp, văn bản có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giải quyết tranh chấp đất đai.”

Căn cứ khoản 1 Điều 82 Nghị định 43/2014/NĐ-CP:

“Điều 82. Thủ tục đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với trường hợp đã chuyển quyền sử dụng đất nhưng chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền theo quy định

1. Trường hợp người đang sử dụng đất do nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trước ngày 01 tháng 01 năm 2008 mà đất đó chưa được cấp Giấy chứng nhận và không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều này thì người nhận chuyển quyền sử dụng đất thực hiện thủ tục đăng ký đất đai, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu theo quy định của Luật Đất đai và quy định tại Nghị định này mà không phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất; cơ quan tiếp nhận hồ sơ không được bắt buộc người nhận chuyển quyền sử dụng đất nộp hợp đồng, văn bản chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.”

Như vậy nếu việc mua bán từ trước 01/01/2008 và bố bạn đang sử dụng đất thì bố bạn làm đơn yêu cầu thu hồi giấy chứng nhận đã cấp và làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu.

TH2:Bố bạn không đang sử dụng đất và việc cấp giấy chứng nhận không đúng thì bố bạn làm gửi đến kiến nghị đến cơ quan có thẩm quyền:

Căn cứ khoản 4 Điều 87 Nghị định 43/2014/NĐ-CP:

“4. Trường hợp thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai tạiĐiểm d Khoản 2 Điều 106 của Luật Đất đai được thực hiện như sau:

a) Trường hợp cơ quan điều tra, cơ quan thanh tra có văn bản kết luận Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật đất đai thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm xem xét, nếu kết luận đó là đúng thì quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp; trường hợp xem xét, xác định Giấy chứng nhận đã cấp là đúng quy định của pháp luật thì phải thông báo lại cho cơ quan điều tra, cơ quan thanh tra;

b) Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất phát hiện Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật đất đai thì thông báo bằng văn bản cho cơ quan thanh tra cùng cấp thẩm tra; nếu kết luận là Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật thì thông báo cho người sử dụng đất biết rõ lý do; sau 30 ngày kể từ ngày gửi thông báo cho người sử dụng đất mà không có đơn khiếu nại thì ra quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp;

c) Trường hợp người sử dụng đất phát hiện Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật đất đai thì gửi kiến nghị, phát hiện đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất có trách nhiệm xem xét, giải quyết theo quy định tại Điểm b Khoản này;

d) Văn phòng đăng ký đất đai thực hiện việc thu hồi và quản lý Giấy chứng nhận đã thu hồi theo quyết định thu hồi Giấy chứng nhận của cơ quan có thẩm quyền;

đ) Trường hợp người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất không đồng ý với việc giải quyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại các Điểm a, b và c Khoản này thì có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại.”

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Chào luật sư công ty Luật Minh Khuê, hiện tại tôi đang muốn mở cửa hàng kinh doanh các loại trái cây có nguồn gốc trong nước và một số các sản phẩm mứt cùng nước ép trái cây.xin tư vấn giúp tôi cần những thủ tục pháp lý nào? Có cần chứng nhận an toàn thực phẩm đối với các sản phẩm mứt, nước ép trái cây và hoa quả sấy hay không? Tôi xin chân thành cảm ơn.

1. Cơ sở pháp lý:

Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp.

Luật an toàn thực phẩm 2010.

2. Luật sư tư vấn:

Chị muốn mở của hàng kinh doanh nước ép trái cây và một số các sản phẩm mứt cùng nước ép trái cây thì đây là ngành nghề kinh doanh liên quan đến thực phẩm là ngành nghề kinh doanh có điều kiện nên chị phải làm thủ tục thành lập hộ kinh doanh cá thể theo quy định tại điều 71 nghị định 78/2015/NĐ-CP :

“Điều 71. Hồ sơ, trình tự, thủ tục đăng ký hộ kinh doanh

1. Cá nhân, nhóm cá nhân hoặc người đại diện hộ gia đình gửi Giấy đề nghị đăng ký hộ kinh doanh đến cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện nơi đặt địa điểm kinh doanh. Nội dung Giấy đề nghị đăng ký hộ kinh doanh gồm:

a) Tên hộ kinh doanh, địa chỉ địa điểm kinh doanh; số điện thoại, số fax, thư điện tử (nếu có);

b) Ngành, nghề kinh doanh;

c) Số vốn kinh doanh;

d) Số lao động;

đ) Họ, tên, chữ ký, địa chỉ nơi cư trú, số và ngày cấp Thẻ căn cước công dân hoặc Chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu còn hiệu lực của các cá nhân thành lập hộ kinh doanh đối với hộ kinh doanh do nhóm cá nhân thành lập, của cá nhân đối với hộ kinh doanh do cá nhân thành lập hoặc đại diện hộ gia đình đối với trường hợp hộ kinh doanh do hộ gia đình thành lập.

Kèm theo Giấy đề nghị đăng ký hộ kinh doanh phải có bản sao hợp lệ Thẻ căn cước công dân hoặc Chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu còn hiệu lực của các cá nhân tham gia hộ kinh doanh hoặc người đại diện hộ gia đình và bản sao hợp lệ biên bản họp nhóm cá nhân về việc thành lập hộ kinh doanh đối với trường hợp hộ kinh doanh do một nhóm cá nhân thành lập.

2. Khi tiếp nhận hồ sơ, cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện trao Giấy biên nhận và cấp Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh cho hộ kinh doanh trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ, nếu có đủ các điều kiện sau đây:

a) Ngành, nghề kinh doanh không thuộc danh mục ngành, nghề cấm kinh doanh;

b) Tên hộ kinh doanh dự định đăng ký phù hợp quy định tại Điều 73 Nghị định này;

c) Nộp đủ lệ phí đăng ký theo quy định.

Trường hợp hồ sơ không hợp lệ, trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ, cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện phải thông báo rõ nội dung cần sửa đổi, bổ sung bằng văn bản cho người thành lập hộ kinh doanh.

3. Nếu sau 03 ngày làm việc, kể từ ngày nộp hồ sơ đăng ký hộ kinh doanh mà không nhận được Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh hoặc không nhận được thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ đăng ký hộ kinh doanh thi người đăng ký hộ kinh doanh có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.

4. Định kỳ vào tuần làm việc đầu tiên hàng tháng, cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện gửi danh sách hộ kinh doanh đã đăng ký tháng trước cho cơ quan thuế cùng cấp, Phòng Đăng ký kinh doanh và cơ quan quản lý chuyên ngành cấp tỉnh”.

Mẫu giấy đề nghị đăng ký kinh doanh hộ cá thể chị có thể tham khảo trong phụ lục III-1 ban hành kèm theo thông tư số 20/2015/TT-BKHĐT về hướng dẫn đăng ký doanh nghiệp.

Chị sẽ nộp lên cơ quan đăng ký kinh doanh thuộc phòng tài chính kế hoạch của ủy ban nhân dân cấp huyện nơi chị dự định đặt địa điểm kinh doanh. Sau 03 ngày làm việc kể từ ngày hồ sơ hợp lệ, chị sẽ được cơ quan đăng ký kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh.

Sau khi có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh chị sẽ làm hồ sơ lên cục an toàn thực phẩm để xin cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm.

Điều kiện để xin cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện sản an toàn thực phẩm theo quy định tại điều 34 luật an toàn thực phẩm 2010:

“Điều 34. Đối tượng, điều kiện cấp, thu hồi Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm

1. Cơ sở được cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Có đủ điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm phù hợp với từng loại hình sản xuất, kinh doanh thực phẩm theo quy định tại Chương IV của Luật này;

b) Có đăng ký ngành, nghề kinh doanh thực phẩm trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”.

Hồ sơ anh sẽ chuẩn bị theo quy định tại điều 36 luật an toàn thực phẩm :

“Điều 36. Hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm

1. Hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm gồm có:

a) Đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm;

b) Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh;

c) Bản thuyết minh về cơ sở vật chất, trang thiết bị, dụng cụ bảo đảm điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm theo quy định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền;

d) Giấy xác nhận đủ sức khoẻ của chủ cơ sở và người trực tiếp sản xuất, kinh doanh thực phẩm do cơ sở y tế cấp huyện trở lên cấp;

đ) Giấy xác nhận đã được tập huấn kiến thức về an toàn vệ sinh thực phẩm của chủ cơ sở và của người trực tiếp sản xuất, kinh doanh thực phẩm theo quy định của Bộ trưởng Bộ quản lý ngành.

2. Trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm được quy định như sau:

a) Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm nộp hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 35 của Luật này;

b) Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra thực tế điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm tại cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm; nếu đủ điều kiện thì phải cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm; trường hợp từ chối thì phải giải đáp bằng văn bản và nêu rõ lý do”.

Trên đây là quy trình để bạn có thể kinh doanh mặt hàng là thực phẩm chức năng. Bên cạnh đấy bạn sẽ phải bổ sung thêm ngành nghề kinh doanh thực phẩm trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh cá thể của doanh nghiệp bạn.

Những điều cần lưu ý: Nếu hộ gia đình bạn thuộc quy định tại điều 12 của nghị định 38/2012/NĐ-CP thì sẽ không phải xin giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm.

“Điều 12. Cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm

1. Việc cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm được thực hiện đối với từng cơ sở sản xuất, kinh doanh; từng nhà máy sản xuất độc lập tại một địa điểm (sau đây gọi tắt là cơ sở), trừ các trường hợp sau:

a) Sản xuất ban đầu nhỏ lẻ;

b) Kinh doanh thực phẩm nhỏ lẻ;

c) Bán hàng rong;

d) Kinh doanh thực phẩm bao gói sẵn không yêu cầu điều kiện bảo quản đặc biệt theo quy định”.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Xác định tài sản riêng của vợ chồng?
Thưa luật sư, Cho tôi xin hỏi. Trước kia ba mẹ tôi chuyển nhương tài sản đất đai cho 1 mình tôi đứng tên, lúc tôi còn độc thân chưa có vợ. Nay tôi đã có vợ và muốn chuyển nhượng lại toàn bộ tài sản đất đai cho cha mẹ tôi thì có cần sự đồng ý các thành viên trong gia đình không. Tôi xin chân thành cảm ơn.

Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật Hôn nhân của Công ty luật Wiki.

>> Luật sư tư vấn luật Hôn nhân trực tuyến

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Công ty Luật Wiki. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

1. Cơ sở pháp lý:

Luật hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 của Quốc hội

2. Luật sư tư vấn:

Căn cứ Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:

“Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng

1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.”

Căn cứ Điều 43 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:

“Điều 43. Tài sản riêng của vợ, chồng

1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.

2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.”

Như vậy tài sản này có trước khi bạn kết hôn vì vậy đó là tài sản riêng của bạn trừ trường hợp bạn có thỏa thuận với vợ về việc nhập khối tài sản riêng vào tài sản chung nên khi cho bố mẹ bạn không cần sự đồng ý của gia đinh (gia đình được hiểu là vợ và con bạn nếu có).

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Có hai mẹ con thì có phải đi nghĩa vụ quân sự không?

Luật sư giải thích giúp em với: Nhà chỉ có em và mẹ !! Mẹ em sinh năm 1969 còn em sinh năm 1998 !! Vậy luật sư cho em hỏi là em có đi nghĩa vụ quân sự không ạ ?? Em có tìm xem trên nhiều diễn đàn nhưng thấy còn mơ hồ lắm !! Luật sư giải thích rõ giúp em nhé !! Em xin cám ơn trước ạ !
Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật dân sự của công ty luật Wiki.Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Công ty Luật Wiki. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

1. Cơ sở pháp lý:

Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015.

2. Luật sư tư vấn:

Thứ nhất, về độ tuổi của bạn. Bạn sinh năm 1998, tính đến năm 2016 bạn đã đủ 18 tuổi. Trong tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự.

Thứ hai, về độ tuổi của mẹ bạn. Mẹ bạn sinh năm 1969, tính đến năm 2016 mẹ bạn 50 tuổi.

Luật Nghĩa vụ quân sự 2015 quy định về các trường hợp tạm hoãn gọi nhập ngũ như sau:

“1. Tạm hoãn gọi nhập ngũ đối với những công dân sau đây:

b) Là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi dưỡng thân nhân không còn khả năng lao động hoặc chưa đến tuổi lao động; trong gia đình bị thiệt hại nặng về người và tài sản do tai nạn, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm gây ra được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận”.

Như vậy, nếu mẹ bạn không còn khả năng lao động (đã được UBND xã/phường xác nhận) và bạn là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi dưỡng mẹ bạn thì bạn sẽ được tạm hoãn nghĩa vụ quân sự.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Khởi kiện chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật ?

Thưa luật sư, Bố mẹ tôi ly dị, 2 chị em chúng tôi ở với mẹ. Bố tôi lấy vợ khác và có 1 con chung. Bố tôi mất. Vợ bố tôi bán nhà, chúng tôi ở xa nên không biết việc bán nhà. Cho tôi hỏi: Chúng tôi có được hưởng tiền bán nhà theo pháp luật không? Tiến hành khởi kiện vợ bố tôi như thế nào? Xin cám ơn!
Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật dân sự của công ty luật Wiki.Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Công ty Luật Wiki. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật dân sự 2005;

Bộ luật tố tụng dân sự 2004 sửa đổi bổ sung 2011;

Luật hôn nhân và gia đình 2014;

2. Luật sư tư vấn:

Thứ nhất, theo như bạn trình bày thì có thể thấy rằng đây là tài sản của bố bạn và vợ hai. Vậy để xác định hành vi bán nhà của vợ hai là đúng hay sai? Bạn cần xác định đây là tài sản riêng, chung của bố bạn và vợ hai trong thời kỳ hôn nhân.

Căn cứ Luật hôn nhân và gia đình 2014:

“Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng

1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”.

“Điều 43. Tài sản riêng của vợ, chồng

1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.

2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này”.

Dựa trên những quy định này bạn có thể xác định là tài sản chung hay riêng của bố bạn và vợ hai. Đặt ra hai trường hợp:

– Đây là tài sản chung của bố bạn và vợ hai: Vậy khi thực hiện bán tài sản này sẽ phải có sự xác nhận của những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định của pháp luật (do bố bạn mất không để lại di chúc).

Căn cứ Bộ luật dân sự 2005:

“Ðiều 676. Người thừa kế theo pháp luật

  1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
    a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

    b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

    c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại”.

Theo đó, bố bạn có quyền đối với 1/2 số tài sản chung này, bạn và những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất có quyền hưởng thừa kế đối với số tài sản này. Nên bạn có quyền khởi kiện chia di sản thừa kế trong trường hợp này.

– Trường hợp đây không phải là tài sản chung của bố bạn và vợ hai, mà là tài sản riêng của vợ hai thì bạn không có quyền khởi kiện chia tài sản này.

Thứ hai, Thủ tục khởi kiện sẽ xác định theo Bộ luật tố tụng dân sự 2004 sửa đổi bổ sung 2011:

“Điều 25. Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án

  1. Tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quốc tịch Việt Nam.
  2. Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản.
  3. Tranh chấp về hợp đồng dân sự.
  4. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 29 của Bộ luật này.
  5. Tranh chấp về thừa kế tài sản.
  6. Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
  7. Tranh chấp về quyền sử dụng đất, về tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
  8. Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định của pháp luật.
  9. Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.
  10. Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
  11. Tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
  12. Các tranh chấp khác về dân sự mà pháp luật có quy định.

Điều 33. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh

  1. Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Tòa án nhân dân cấp huyện) có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:
    a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 25 và Điều 27 của Bộ luật này;

    b) Tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 1 Điều 29 của Bộ luật này;

    c) Tranh chấp về lao động quy định tại khoản 1 Điều 31 của Bộ luật này.

  2. Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết những yêu cầu sau đây:a) Yêu cầu về dân sự quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 6 và 7 Điều 26 của Bộ luật này;

    b) Yêu cầu về hôn nhân và gia đình quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 của Điều 28 của Bộ luật này.

  3. Những tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện.

Điều 35. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ

  1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau:a) Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;

    b) Các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;

    c) Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản.

Dựa trên quy định này, bạn xác định thực hiện khởi kiện tại Tòa án nhân dân cấp quận (huyện, thành phố thuộc tỉnh) nơi có bất động sản.

Mẫu đơn khởi kiện, bạn có thể tham khảo: Tại đây.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hình thức hợp đồng lao động?

Thưa luật sư. Em làm kế toán tại trường THCS công lập từ tháng 9/2010 theo hình thức hợp đồng cho đến nay. Vậy hợp đồng của em là hợp đồng gì? Có phải hợp đồng không xác định thời hạn không? Xin nhờ các anh, chị giải đáp giúp em! Xin cảm ơn!

Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật Wiki.

>> Luật sư tư vấn luật lao động

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Công ty Luật Wiki. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật lao động số 10/2012/QH13

2. Luật sư tư vấn:

Căn cứ theo điều 22 Bộ luật lao động 2012 về loại hợp đồng lao động:

“Điều 22. Loại hợp đồng lao động

1. Hợp đồng lao động phải được giao kết theo một trong các loại sau đây:

a) Hợp đồng lao động không xác định thời hạn;

Hợp đồng lao động không xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng.

b) Hợp đồng lao động xác định thời hạn;

Hợp đồng lao động xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong khoảng thời gian từ đủ 12 tháng đến 36 tháng.

c) Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng.

2. Khi hợp đồng lao động quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này hết hạn mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hợp đồng lao động hết hạn, hai bên phải ký kết hợp đồng lao động mới; nếu không ký kết hợp đồng lao động mới thì hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này trở thành hợp đồng lao động không xác định thời hạn và hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều này trở thành hợp đồng lao động xác định thời hạn với thời hạn là 24 tháng.

Trường hợp hai bên ký kết hợp đồng lao động mới là hợp đồng xác định thời hạn thì cũng chỉ được ký thêm 01 lần, sau đó nếu người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì phải ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn.

3. Không được giao kết hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng để làm những công việc có tính chất thường xuyên từ 12 tháng trở lên, trừ trường hợp phải tạm thời thay thế người lao động đi làm nghĩa vụ quân sự, nghỉ theo chế độ thai sản, ốm đau, tai nạn lao động hoặc nghỉ việc có tính chất tạm thời khác.”

Như vậy, bạn ký hợp đồng lao động từ năm 2012 mà trong hợp đồng hai bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hợp đồng thì đó là hợp đồng không xác định thời hạn.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Xác định hợp đồng làm việc trong trường Công lập?

Thưa luật sư! Em làm kế toán tại trường THCS công lập từ tháng 9/2010 theo hình thức hợp đồng cho đến nay. Vậy hợp đồng của em là hợp đồng gì? Có phải hợp đồng không xác định thời hạn không? Xin nhờ luật sư giải đáp giúp em! Em xin chân thành cảm ơn.
Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật lao động của Công ty luật Wiki.>> Luật sư tư vấn luật lao động trực tuyến

Trả lời:

1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật lao động số 10/2012/QH13

2. Luật sư tư vấn:

Căn cứ theo điều 22 Bộ luật lao động 2012 về loại hợp đồng lao động:

“Điều 22. Loại hợp đồng lao động

1. Hợp đồng lao động phải được giao kết theo một trong các loại sau đây:

a) Hợp đồng lao động không xác định thời hạn;

Hợp đồng lao động không xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng.

b) Hợp đồng lao động xác định thời hạn;

Hợp đồng lao động xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong khoảng thời gian từ đủ 12 tháng đến 36 tháng.

c) Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng.

2. Khi hợp đồng lao động quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này hết hạn mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hợp đồng lao động hết hạn, hai bên phải ký kết hợp đồng lao động mới; nếu không ký kết hợp đồng lao động mới thì hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này trở thành hợp đồng lao động không xác định thời hạn và hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều này trở thành hợp đồng lao động xác định thời hạn với thời hạn là 24 tháng.

Trường hợp hai bên ký kết hợp đồng lao động mới là hợp đồng xác định thời hạn thì cũng chỉ được ký thêm 01 lần, sau đó nếu người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì phải ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn.

3. Không được giao kết hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng để làm những công việc có tính chất thường xuyên từ 12 tháng trở lên, trừ trường hợp phải tạm thời thay thế người lao động đi làm nghĩa vụ quân sự, nghỉ theo chế độ thai sản, ốm đau, tai nạn lao động hoặc nghỉ việc có tính chất tạm thời khác.”

Như vậy, bạn ký hợp đồng lao động từ năm 2012 mà trong hợp đồng hai bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hợp đồng thì đó là hợp đồng không xác định thời hạn.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Cách tính hưởng chế độ thai sản?

Thưa luật sư! Tôi đóng bảo hiểm từ tháng 7/2015 đến tháng 3/2016 là 9 tháng sau đó tôi nghỉ sinh. Vậy tôi được hưởng chế độ thai sản là mấy tháng và cách tính tiền thai sản như thế nào ạ? Vậy, khi sinh em bé 6 tháng sau mới nộp giấy tờ để lãnh tiền thai sản có được không ạ vì nhà tôi ở quê? Tôi xin chân thành cảm ơn!
Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật lao động của Công ty luật Wiki.>> Luật sư tư vấn luật lao động trực tuyến

Trả lời:

Chào bạn! Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Công ty Luật Wiki. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

1. Cơ sở pháp lý:

Luật bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13 của Quốc hội

2. Luật sư tư vấn:

Điều kiện hưởng chế độ thai sản:

Theo quy định tại Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014:

“Điều 31. Điều kiện hưởng chế độ thai sản

1. Người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Lao động nữ mang thai;

b) Lao động nữ sinh con;

c) Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ;

d) Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi;

đ) Lao động nữ đặt vòng tránh thai, người lao động thực hiện biện pháp triệt sản;

e) Lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội có vợ sinh con.

2. Người lao động quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều này phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi.

3. Người lao động quy định tại điểm b khoản 1 Điều này đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 12 tháng trở lên mà khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 03 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con.

4. Người lao động đủ điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này mà chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc trước thời điểm sinh con hoặc nhận con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì vẫn được hưởng chế độ thai sản theo quy định tại các Điều 34, 36, 38 và khoản 1 Điều 39 của Luật này.”

Theo như quy định trên, nếu bạn đóng đủ 06 tháng BHXH trong thời gian 12 tháng trước khi sinh thì bạn được hưởng chế độ thai sản. Trong trường hợp của bạn, bạn tham gia BHXH từ tháng 7/2015, như vậy, đến thời điểm sinh con là tháng 3/2016 thì bạn đã đóng BHXH đủ 9 tháng trong thời gian 12 tháng trước khi sinh. Vì vậy, bạn đủ điều kiện để được hưởng chế độ thai sản.

Mức hưởng chế độ thai sản:

Theo quy định tại Điều 39 Luật Bảo hiểm xã hội:

“Điều 39. Mức hưởng chế độ thai sản

1. Người lao động hưởng chế độ thai sản theo quy định tại các Điều 32, 33, 34, 35, 36 và 37 của Luật này thì mức hưởng chế độ thai sản được tính như sau:

a) Mức hưởng một tháng bằng 100% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của 06 tháng trước khi nghỉ việc hưởng chế độ thai sản. Trường hợp người lao động đóng bảo hiểm xã hội chưa đủ 06 tháng thì mức hưởng chế độ thai sản theo quy định tại Điều 32, Điều 33, các khoản 2, 4, 5 và 6 Điều 34, Điều 37 của Luật này là mức bình quân tiền lương tháng của các tháng đã đóng bảo hiểm xã hội;

b) Mức hưởng một ngày đối với trường hợp quy định tại Điều 32 và khoản 2 Điều 34 của Luật này được tính bằng mức hưởng chế độ thai sản theo tháng chia cho 24 ngày;”

Như vậy, mức hưởng chế độ thai sản của bạn bằng 100% mức tiền lương tháng đóng BHXH của 6 tháng liền kế trước khi bạn nghỉ việc hưởng chế độ thai sản.

Pháp luật không quy định trường hợp sau khi sinh bao lâu thì phải nộp hồ sơ hưởng BHXH, theo đó, nếu bạn đáp ứng đủ các điều kiện tại khoản 1,2, 3 Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội như trên thì bạn đủ điều kiện để được hưởng chế độ thai sản. Nếu bạn chấm dứt HĐLĐ trước khi nghỉ hưởng thai sản, thì bạn có thể nộp hồ sơ đến cơ quan BHXH cấp huyện nơi bạn cư trú để được hưởng chế độ thai sản.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Không có KT3 vẫn được nhập hộ khẩu thành phố Hồ Chí Minh có đúng không?

Nội dung trên được quy định tại Khoản 3 Điều 20 của Luật cư trú 2006 (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Luật cư trú sửa đổi 2013).

Đồng thời tại Khoản 3 Điều 7 Thông tư 35/2014/TT-BCA hướng dẫn cụ thể giấy tờ, tài liệu chứng minh thuộc điều kiện đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc Trung ương đối với trường hợp này như sau:

a) Giấy tờ, tài liệu chứng minh là người đang làm việc tại cơ quan, tổ chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước bao gồm một trong các loại giấy tờ, tài liệu sau:

– Giấy giới thiệu (ký tên, đóng dấu, ghi rõ họ tên) của Thủ trưởng đơn vị quản lý trực tiếp (kể cả Quân đội nhân dân và Công an nhân dân) kèm theo một trong các giấy tờ, tài liệu sau:

+ Quyết định điều động, tuyển dụng người làm việc hưởng lương từ ngân sách nhà nước là cán bộ, công chức, người thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân;

+ Quyết định về nâng lương cán bộ, công chức; nâng lương, phong, thăng cấp bậc hàm; quyết định bổ nhiệm chức vụ thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân;

– Xác nhận (ký tên, đóng dấu) của Thủ trưởng đơn vị quản lý trực tiếp (kể cả Quân đội nhân dân và Công an nhân dân) về việc đang làm việc hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

b) Giấy tờ, tài liệu chứng minh là người đang làm việc theo chế độ hợp đồng không xác định thời hạn tại các cơ quan, tổ chức bao gồm một trong các loại giấy tờ, tài liệu sau:

– Giấy giới thiệu (ký tên, đóng dấu, ghi rõ họ tên) của Thủ trưởng đơn vị trực tiếp (kể cả Quân đội nhân dân và Công an nhân dân) kèm theo một trong các giấy tờ, tài liệu sau:

+ Hợp đồng lao động không xác định thời hạn theo pháp luật lao động (áp dụng cho mọi cơ quan, tổ chức, kể cả các tổ chức thuộc các thành phần kinh tế có sử dụng lao động);

+ Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước theo pháp luật cán bộ, công chức.

– Riêng đối với những người là lãnh đạo thuộc cơ quan, tổ chức thì quyết định của cấp có thẩm quyền về bổ nhiệm, điều động lãnh đạo thuộc cơ quan, tổ chức hoặc giấy tờ chứng minh là người lãnh đạo thuộc cơ quan, tổ chức đó thay cho hợp đồng không xác định thời hạn.

– Xác nhận (ký tên, đóng dấu) của Thủ trưởng cơ quan, tổ chức quản lý trực tiếp (kể cả Quân đội nhân dân và Công an nhân dân) về việc công dân đang làm việc theo chế độ hợp đồng lao động không xác định thời hạn (áp dụng cho mọi cơ quan, tổ chức, kể cả các tổ chức thuộc các thành phần kinh tế có sử dụng lao động) hoặc theo chế độ hợp đồng làm việc không xác định thời hạn.

Thủ trưởng đơn vị quản lý trực tiếp là Thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị lực lượng vũ trang được sử dụng con dấu riêng.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

161/ Quyền và trách nhiệm của công ty mẹ đối với công ty con

– Hợp đồng, giao dịch và quan hệ khác giữa công ty mẹ và công ty con đều phải được thiết lập và thực hiện độc lập, bình đẳng theo điều kiện áp dụng đối với các chủ thể pháp lý độc lập và không có trường hợp ngoại lệ.

(Trước đây, quy định trên được áp dụng nhưng trừ trường hợp loại hình pháp lý của công ty con)

(Căn cứ Điều 190 Luật doanh nghiệp 2014)

162/ Báo cáo tài chính của công ty mẹ, công ty con

– Vào thời điểm kết thúc năm tài chính, ngoài báo cáo và tài liệu theo quy định của pháp luật, công ty mẹ còn phải lập các báo cáo sau:

     + Báo cáo tài chính hợp nhất của công ty mẹ theo quy định của pháp luật về kế toán.

     + Báo cáo tổng hợp kết quả kinh doanh hằng năm của công ty mẹ và công ty con.

     + Báo cáo tổng hợp công tác quản lý, điều hành của công ty mẹ và công ty con.

– Khi có yêu cầu của người đại diện theo pháp luật của công ty mẹ, người đại diện theo pháp luật của công ty con phải cung cấp các báo cáo, tài liệu và thông tin cần thiết như quy định để lập báo cáo tài chính hợp nhất và báo cáo tổng hợp của công ty mẹ và công ty con.

– Người quản lý công ty mẹ sử dụng các báo cáo đó để lập báo cáo tài chính hợp nhất và báo cáo tổng hợp của công ty mẹ và công ty con nếu không có nghi ngờ về việc báo cáo do công ty con lập và đệ trình có thông tin sai lệch, không chính xác hoặc giả mạo.

– Trong trường hợp người quản lý công ty mẹ đã áp dụng các biện pháp cần thiết trong phạm vi thẩm quyền mà vẫn không nhận được báo cáo, tài liệu và thông tin cần thiết như quy định từ công ty con thì người quản lý công ty mẹ vẫn lập và trình báo cáo tài chính hợp nhất, báo cáo tổng hợp của công ty mẹ và công ty con. Báo cáo có thể gồm hoặc không gồm các thông tin từ công ty con đó, nhưng phải có giải trình cần thiết để tránh hiểu nhầm hoặc hiểu sai lệch.

– Các báo cáo, tài liệu quyết toán tài chính hằng năm của công ty mẹ, của công ty con và các báo cáo tài chính hợp nhất, báo cáo tổng hợp của công ty mẹ và công ty con phải được lưu giữ tại trụ sở chính của công ty mẹ. Bản sao của các báo cáo, tài liệu quy định tại khoản này phải có ở các chi nhánh của công ty mẹ trên lãnh thổ Việt Nam.

– Đối với các công ty con, ngoài các báo cáo, tài liệu theo quy định của pháp luật, còn phải lập báo cáo tổng hợp về mua, bán và các giao dịch khác với công ty mẹ.

(Trước đây, yêu cầu phải lập và đệ trình)

(Căn cứ Điều 191 Luật doanh nghiệp 2014)

163/ Cụ thể hóa các quy định về chia doanh nghiệp

– Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có thể chia các cổ đông, thành viên và tài sản công ty để thành lập hai hoặc nhiều công ty mới trong một trong các trường hợp sau:

      + Một phần phần vốn góp, cổ phần của các thành viên, cổ đông cùng với tài sản tương ứng với giá trị phần vốn góp, cổ phần được chia sang cho các công ty mới theo tỷ lệ sở hữu trong công ty bị chia và tương ứng giá trị tài sản được chuyển cho công ty mới.

     + Toàn bộ phần vốn góp, cổ phần của một hoặc một số thành viên, cổ đông cùng với tài sản tương ứng với giá trị cổ phần, phần vốn góp họ được chuyển sang cho các công ty mới.

     + Kết hợp cả hai trường hợp trên.

Thủ tục chia công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần được quy định:

     + Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty hoặc Đại hội đồng cổ đông của công ty bị chia thông qua nghị quyết chia công ty theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty. Nghị quyết chia công ty phải có các nội dung chủ yếu về tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty bị chia; tên các công ty sẽ thành lập; nguyên tắc,cách thức và thủ tục chia tài sản công ty; phương án sử dụng lao động; cách thức phân chia, thời hạn và thủ tục chuyển đổi phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty bị chia sang các công ty mới thành lập; nguyên tắc giải quyết các nghĩa vụ của công ty bị chia; thời hạn thực hiện chia công ty. Nghị quyết chia công ty phải được gửi đến tất cả các chủ nợ và thông báo cho người lao động biết trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thông qua nghị quyết.

     + Thành viên, chủ sở hữu công ty hoặc cổ đông của công ty mới được thành lập thông qua Điều lệ, bầu hoặc bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và tiến hành đăng ký doanh nghiệp theo quy định của Luật này. Trong trường hợp này, hồ sơ đăng ký doanh nghiệp đối với công ty mới phải kèm theo nghị quyết chia công ty theo quy định trên.

– Số lượng thành viên, cổ đông và số lượng, tỷ lệ sở hữu cổ phần, phần vốn góp của thành viên, cổ đông và vốn điều lệ của các công ty mới sẽ được ghi tương ứng với cách thức phân chia, chuyển đổi phần vốn góp, cổ phần của công ty bị chia sang các công ty mới tương ứng với các trường hợp chia doanh nghiệp.

– Công ty bị chia chấm dứt tồn tại sau khi các công ty mới được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Các công ty mới phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị chia hoặc thỏa thuận với chủ nợ, khách hàng và người lao động để một trong số các công ty đó thực hiện các nghĩa vụ này.

– Cơ quan đăng ký kinh doanh cập nhật tình trạng pháp lý của công ty bị chiatrong Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp khi cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho công ty mới.

Trường hợp công ty mới có địa chỉ trụ sở chính ngoài tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi công ty bị chia có trụ sở chính thì Cơ quan đăng ký kinh doanh nơi đặt trụ sở chính công ty mới phải thông báo việc đăng ký doanh nghiệp công ty mới cho Cơ quan đăng ký kinh doanh nơi công ty bị chia đặt trụ sở chính để cập nhật tình trạng pháp lý của công ty bị chia trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.

(Căn cứ Điều 192 Luật doanh nghiệp 2014)

164/ Tách doanh nghiệp

– Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có thể tách bằng cách chuyển một phần tài sản, quyền và nghĩa vụ của công ty hiện có (sau đây gọi là công ty bị tách) để thành lập một hoặc một số công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần mới (sau đây gọi là công ty được tách) mà không chấm dứt tồn tại của công ty bị tách.

– Tách công ty có thể thực hiện theo một trong các phương thức:

     + Một phần phần vốn góp, cổ phần của các thành viên, cổ đông cùng với tài sản tương ứng với giá trị phần vốn góp, cổ phần được chuyển sang cho các công ty mới theo tỷ lệ sở hữu trong công ty bị tách và tương ứng giá trị tài sản được chuyển cho công ty mới.

     + Toàn bộ phần vốn góp, cổ phần của một hoặc một số thành viên, cổ đông cùng với tài sản tương ứng với giá trị cổ phần, phần vốn góp của họ được chuyển sang cho các công ty mới.

     + Kết hợp cả hai trường hợp trên.

– Công ty bị tách phải đăng ký thay đổi vốn điều lệ và số lượng thành viên tương ứng với phần vốn góp, cổ phần và số lượng thành viên giảm xuống đồng thời với đăng ký doanh nghiệp các công ty mới.

Thủ tục tách công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần được quy định:

     + Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty hoặc Đại hội đồng cổ đông của công ty bị tách thông qua nghị quyết tách công ty theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty. Nghị quyết tách công ty phải có các nội dung chủ yếu về tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty bị tách; tên công ty được tách sẽ thành lập; phương án sử dụng lao động; cách thức tách công ty; giá trị tài sản, các quyền và nghĩa vụ được chuyển từ công ty bị tách sang công ty được tách; thời hạn thực hiện tách công ty. Nghị quyết tách công ty phải được gửi đến tất cả các chủ nợ và thông báo cho người lao động biết trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thông quanghị quyết.

     + Các thành viên, chủ sở hữu công ty hoặc các cổ đông của công ty được tách thông qua Điều lệ, bầu hoặc bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và tiến hành đăng ký doanh nghiệp theo quy định của Luật này. Trường hợp này, hồ sơ đăng ký doanh nghiệp phải kèm theo nghị quyết tách công ty theo quy định trên.

– Sau khi đăng ký doanh nghiệp, công ty bị tách và công ty được tách phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị tách, trừ trường hợp công ty bị tách, công ty mới thành lập, chủ nợ, khách hàng và người lao động của công ty bị tách có thỏa thuận khác.

(Căn cứ Điều 193 Luật doanh nghiệp 2014)

165/ Hợp nhất doanh nghiệp

Hai hoặc một số công ty (sau đây gọi là công ty bị hợp nhất) có thể hợp nhất thành một công ty mới (sau đây gọi là công ty hợp nhất), đồng thời chấm dứt tồn tại của các công ty bị hợp nhất.

(Trước đây, quy định chỉ được hợp nhất các công ty cùng loại)

– Sửa đổi một số quy định về thủ tục hợp nhất công ty:

Các thành viên, chủ sở hữu công ty hoặc các cổ đông của các công ty bị hợp nhất thông qua hợp đồng hợp nhất, Điều lệ công ty hợp nhất, bầu hoặc bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty hợp nhất và tiến hành đăng ký doanh nghiệpcông ty hợp nhất theo quy định của Luật này. Hợp đồng hợp nhất phải được gửi đến các chủ nợ và thông báo cho người lao động biết trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thông qua.

– Hồ sơ, trình tự đăng ký doanh nghiệp công ty hợp nhất thực hiện theo các quy định tương ứng của Luật này và phải kèm theo bản sao các giấy tờ:

     + Hợp đồng hợp nhất.

     + Nghị quyết và biên bản họp thông qua hợp đồng hợp nhất của các công ty bị hợp nhất.

– Sau khi đăng ký doanh nghiệp, các công ty bị hợp nhất chấm dứt tồn tại; công ty hợp nhất được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của các công ty bị hợp nhất.

– Cơ quan đăng ký kinh doanh cập nhật tình trạng pháp lý của công ty bị hợp nhất trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp khi cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho công ty hợp nhất.

Trường hợp công ty bị hợp nhất có địa chỉ trụ sở chính ngoài tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi đặt trụ sở chính công ty hợp nhất thì Cơ quan đăng ký kinh doanh nơi công ty hợp nhất phải thông báo việc đăng ký doanh nghiệp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh nơi đặt trụ sở chính công ty bị hợp nhất để cập nhật tình trạng pháp lý của công ty bị hợp nhất trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.

(Căn cứ Điều 194 Luật doanh nghiệp 2014)

166/ Sáp nhập doanh nghiệp

Một hoặc một số công ty (sau đây gọi là công ty bị sáp nhập) có thể sáp nhập vào một công ty khác (sau đây gọi là công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập.

(Trước đây, quy định việc sáp nhập được thực hiện khi đó là một hoặc một số công ty cùng loại)

– Sửa đổi, bổ sung một số quy định về thủ tục sáp nhập công ty:

     + Các công ty liên quan chuẩn bị hợp đồng sáp nhập và dự thảo Điều lệ công ty nhận sáp nhập. Hợp đồng sáp nhập phải có các nội dung chủ yếu về tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty nhận sáp nhập; tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty bị sáp nhập; thủ tục và điều kiện sáp nhập; phương án sử dụng lao động; cách thức, thủ tục, thời hạn và điều kiện chuyển đổi tài sản, chuyển đổi phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty bị sáp nhập thành phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty nhận sáp nhập; thời hạn thực hiện sáp nhập.

     + Các thành viên, chủ sở hữu công ty hoặc các cổ đông của các công ty liên quan thông qua hợp đồng sáp nhập, Điều lệ công ty nhận sáp nhập và tiến hànhđăng ký doanh nghiệp công ty nhận sáp nhập theo quy định của Luật này. Hợp đồng sáp nhập phải được gửi đến tất cả các chủ nợ và thông báo cho người lao động biết trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thông qua.

     + Sau khi đăng ký doanh nghiệp, công ty bị sáp nhập chấm dứt tồn tại; công ty nhận sáp nhập được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị sáp nhập.

– Hồ sơ, trình tự đăng ký doanh nghiệp công ty nhận sáp nhập thực hiện theo các quy định tương ứng của Luật này và phải kèm theo bản sao các giấy tờ:

     + Hợp đồng sáp nhập.

     + Nghị quyết và biên bản họp thông qua hợp đồng sáp nhập của các công ty nhận sáp nhập.

     + Nghị quyết và biên bản họp thông qua hợp đồng sáp nhập của các công ty bị sáp nhập, trừ trường hợp công ty nhận sáp nhập là thành viên, cổ đông sở hữu trên 65% vốn điều lệ hoặc cổ phần có quyền biểu quyết của công ty bị sáp nhập.

Cơ quan đăng ký kinh doanh tiến hành cập nhật tình trạng pháp lý của công ty bị sáp nhập trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp và thực hiện thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp cho công ty nhận sáp nhập.

Trường hợp công ty bị sáp nhập có địa chỉ trụ sở chính ngoài tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi đặt trụ sở chính công ty nhận sáp nhập thì Cơ quan đăng ký kinh doanh nơi công ty nhận sáp nhập thông báo việc đăng ký doanh nghiệp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh nơi đặt trụ sở chính công ty bị sáp nhập để cập nhật tình trạng pháp lý của công ty bị sáp nhập trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.

(Căn cứ Điều 195 Luật doanh nghiệp 2014)

167/ Cụ thể hóa các trường hợp chuyển đổi công ty

Các trường hợp chuyển đổi

Công ty trách nhiệm hữu hạn thành công ty cổ phần

Công ty cổ phần thành công ty trách nhiệm hữu hạnhai thành viên trở lên

Công ty cổ phần thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên

Doanh nghiệp tư nhân thành công ty trách nhiệm hữu hạn

Phương thức chuyển đổi

– Không huy động thêm tổ chức, cá nhân khác cùng góp vốn, không bán phần vốn góp cho tổ chức, cá nhân khác.

– Huy động thêm tổ chức, cá nhân khác góp vốn.

– Bán toàn bộ hoặc một phần phần vốn góp cho một hoặc một số tổ chức, cá nhân khác.

– Kết hợp tất cả các phương thức trên.

– Không huy động thêm hoặc chuyển nhượng cổ phần cho tổ chức, cá nhân khác.

– Huy động thêm tổ chức, cá nhân khác góp vốn.

– Chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần của toàn bộ hoặc một phần cổ phần cho tổ chức, cá nhân khác góp vốn.

– Kết hợp tất cả các phương thức trên.

– Một cổ đông nhận chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp tương ứng của tất cả các cổ đông còn lại.

– Một tổ chức hoặc cá nhân không phải là cổ đông nhận chuyển nhượng toàn bộ số cổ phần của tất cả cổ đông của công ty.

– Công ty chỉ còn lại một cổ đông trong thời gian vượt quá thời hạn yêu cầu số lượng tối thiểu công ty cổ phần theo quy định về công ty cổ phần.

– Công ty phải đăng ký chuyển đổi công ty với Cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hoàn thành việc chuyển đổi. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ chuyển đổi, Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

– Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày hoàn thành việc chuyển nhượng cổ phần theo quy định trên, công ty gửi hoặc nộp hồ sơ chuyển đổi tại Cơ quan đăng ký kinh doanh nơi doanh nghiệp đã đăng ký. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ chuyển đổi, Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ, Cơ quan đăng ký kinh doanh xem xét và cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp nếu có đủ các điều kiện:

– Có đủ các điều kiện được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

– Chủ doanh nghiệp tư nhân phải là chủ sở hữu công ty (đối với trường hợp chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do cá nhân làm chủ sở hữu) hoặc thành viên (đối với trường hợp chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên).

– Chủ doanh nghiệp tư nhân cam kết bằng văn bản chịu trách nhiệm cá nhân bằng toàn bộ tài sản của mình đối với tất cả các khoản nợ chưa thanh toán của doanh nghiệp tư nhân và cam kết thanh toán đủ số nợ khi đến hạn.

– Chủ doanh nghiệp tư nhân có thỏa thuận bằng văn bản với các bên của hợp đồng chưa thanh lý về việc công ty trách nhiệm hữu hạn được chuyển đổi tiếp nhận và thực hiện các hợp đồng đó.

– Chủ doanh nghiệp tư nhân cam kết bằng văn bản hoặc có thỏa thuận bằng văn bản với các thành viên góp vốn khác về việc tiếp nhận và sử dụng lao động hiện có của doanh nghiệp tư nhân.

– Công ty chuyển đổi đương nhiên kế thừa toàn bộ các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ, gồm cả nợ thuế, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ khác của công ty được chuyển đổi.

– Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, Cơ quan đăng ký kinh doanh phải thông báo cho các cơ quan nhà nước có liên quan theo quy định cung cấp thông tin về nội dung đăng ký doanh nghiệp; đồng thời cập nhật tình trạng pháp lý của công ty trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.

Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp quy định trên, Cơ quan đăng ký kinh doanh phải thông báo cho các cơ quan nhà nước có liên quan theo quy định cung cấp thông tin về nội dung đăng ký doanh nghiệp; đồng thời cập nhật tình trạng pháp lý của doanh nghiệp trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.

Ghi chú

Đối với doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ phần thì thực hiện theo quy định của pháp luật về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần.

Việc chuyển nhượng hoặc nhận góp vốn đầu tư bằng cổ phần, phần vốn góp quy trình theo quy định trên phải thực hiện theo giá thị trường, giá được định theo phương pháp tài sản, phương pháp dòng tiền chiết khấu hoặc phương pháp khác.

(Căn cứ Điều 196, 197, 198, 199 Luật doanh nghiệp 2014)

168/ Tạm ngừng kinh doanh

Doanh nghiệp có quyền tạm ngừng kinh doanh nhưng phải thông báo bằng văn bản về thời điểm và thời hạn tạm ngừng hoặc tiếp tục kinh doanh cho Cơ quan đăng ký kinh doanh chậm nhất 15 ngày trước ngày tạm ngừng hoặc tiếp tục kinh doanh. Quy định này áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp tiếp tục kinh doanh trước thời hạn đã thông báo.

(Trước đây quy định phải thông báo cho Cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế)

(Căn cứ Điều 200 Luật doanh nghiệp 2014)

169/ Các trường hợp và điều kiện giải thể doanh nghiệp

– Bổ sung nội dung trường hợp bị giải thể:

Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật này trong thời hạn 06 tháng liên tục mà không làm thủ tục chuyển đổi loại hình doanh nghiệp.

Doanh nghiệp chỉ được giải thể khi bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác và doanh nghiệp không trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc cơ quan trọng tài. Người quản lý có liên quan và doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ của doanh nghiệp.

(Căn cứ Điều 201 Luật doanh nghiệp 2014)

170/ Trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp

Việc giải thể doanh nghiệp trong các trường hợp trên, trừ trường hợp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp được thực hiện theo quy định:

– Thông qua quyết định giải thể doanh nghiệp.

– Chủ doanh nghiệp tư nhân, Hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu công ty, Hội đồng quản trị trực tiếp tổ chức thanh lý tài sản doanh nghiệp, trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định thành lập tổ chức thanh lý riêng.

– Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày thông qua, quyết định giải thể và biên bản họp phải được gửi đến Cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan thuế, người lao động trong doanh nghiệp, đăng quyết định giải thể trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp và phải được niêm yết công khai tại trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp.

Trường hợp doanh nghiệp còn nghĩa vụ tài chính chưa thanh toán thì phải gửi kèm theo quyết định giải thể phương án giải quyết nợ đến các chủ nợ, người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan. Thông báo phải có tên, địa chỉ của chủ nợ; số nợ, thời hạn, địa điểm và phương thức thanh toán số nợ đó; cách thức và thời hạn giải quyết khiếu nại của chủ nợ.

– Cơ quan đăng ký kinh doanh phải thông báo tình trạng doanh nghiệp đang làm thủ tục giải thể trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp ngay sau khi nhận được quyết định giải thể của doanh nghiệp. Kèm theo thông báo phải đăng tải quyết định giải thể và phương án giải quyết nợ (nếu có).

– Các khoản nợ của doanh nghiệp được thanh toán theo thứ tự:

     + Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác của người lao động theo thỏa ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết.

     + Nợ thuế.

     + Các khoản nợ khác.

– Sau khi đã thanh toán hết các khoản nợ và chi phí giải thể doanh nghiệp, phần còn lại chia cho chủ doanh nghiệp tư nhân, các thành viên, cổ đông hoặc chủ sở hữu công ty theo tỷ lệ sở hữu phần vốn góp, cổ phần.

– Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp gửi đề nghị giải thể cho Cơ quan đăng ký kinh doanh trong 05 ngày làm việc kể từ ngày thanh toán hết các khoản nợ của doanh nghiệp.

– Sau thời hạn 180 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải thể theo quy định trên mà không nhận được ý kiến về việc giải thể từ doanh nghiệp hoặc phản đối của bên có liên quan bằng văn bản hoặc trong 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ giải thể, Cơ quan đăng ký kinh doanh cập nhật tình trạng pháp lý của doanh nghiệp trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.

(Căn cứ Điều 202 Luật doanh nghiệp 2014)

171/ Giải thể doanh nghiệp trong trường hợp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc theo quyết định của Tòa án

Việc giải thể doanh nghiệp trong trường hợp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp được thực hiện theo trình tự, thủ tục:

– Cơ quan đăng ký kinh doanh, phải thông báo tình trạng doanh nghiệp đang làm thủ tục giải thể trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp đồng thời với việc ra quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc ngay sau khi nhận được quyết định giải thể của Tòa án đã có hiệu lực thi hành. Kèm theo thông báo phải đăng tải quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc quyết định của Tòa án.

-Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực, doanh nghiệp phải triệu tập họp để quyết định giải thể. Quyết định giải thể và bản sao quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực phải được gửi đến Cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan thuế, người lao động trong doanh nghiệp và phải được niêm yết công khai tại trụ sở chính và chi nhánh của doanh nghiệp. Đối với trường hợp mà pháp luật yêu cầu phải đăng báo thì quyết định giải thể doanh nghiệp phải được đăng ít nhất trên một tờ báo viết hoặc báo điện tử trong 03 số liên tiếp.

Trường hợp doanh nghiệp còn nghĩa vụ tài chính chưa thanh toán thì phải đồng thời gửi kèm theo quyết định giải thể của doanh nghiệp phương án giải quyết nợ đến các chủ nợ, người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan. Thông báo phải có tên, địa chỉ của chủ nợ; số nợ, thời hạn, địa điểm và phương thức thanh toán số nợ đó; cách thức và thời hạn giải quyết khiếu nại của chủ nợ.

– Việc thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp được thực hiện theo thứ tự quy định

– Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp gửi đề nghị giải thể cho Cơ quan đăng ký kinh doanh trong 05 ngày làm việc, kể từ ngày thanh toán hết các khoản nợ của doanh nghiệp.

– Sau thời hạn 180 ngày, kể từ ngày thông báo tình trạng giải thể doanh nghiệp theo quy định trên mà không nhận phản đối của bên có liên quan bằng văn bản hoặc trong 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ giải thể, Cơ quan đăng ký kinh doanh cập nhật tình trạng pháp lý của doanh nghiệp trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.

– Cá nhân người quản lý công ty có liên quan phải chịu trách nhiệm cá nhân về thiệt hại do việc không thực hiện hoặc không thực hiện đúng quy định tại Điều này.

(Căn cứ Điều 203 Luật doanh nghiệp 2014)

172/ Hồ sơ giải thể doanh nghiệp

– Hồ sơ giải thể doanh nghiệp bao gồm giấy tờ:

     + Thông báo về giải thể doanh nghiệp.

     + Báo cáo thanh lý tài sản doanh nghiệp; danh sách chủ nợ và số nợ đã thanh toán, gồm cả thanh toán hết các khoản nợ về thuế và nợ tiền đóng bảo hiểm xã hội, người lao động sau khi quyết định giải thể doanh nghiệp (nếu có).

    + Con dấu và giấy chứng nhận mẫu dấu (nếu có).

    + Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

Thành viên Hội đồng quản trị công ty cổ phần, thành viên Hội đồng thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, chủ sở hữu công ty, chủ doanh nghiệp tư nhân, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, thành viên hợp danh, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của hồ sơ giải thể doanh nghiệp.

– Trường hợp hồ sơ giải thể không chính xác, giả mạo, những người quy định trên phải liên đới chịu trách nhiệm thanh toán số nợ chưa thanh toán, số thuế chưa nộp và quyền lợi của người lao động chưa được giải quyết và chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về những hệ quả phát sinh trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày nộp hồ sơ giải thể doanh nghiệp đến Cơ quan đăng ký kinh doanh.

(Căn cứ Điều 204 Luật doanh nghiệp 2014)

173/ Các hoạt động bị cấm kể từ khi có quyết định giải thể

– Sửa đổi một quy định cấm kể từ khi có quyết định giải thể:

Ký kết hợp đồng mới trừ trường hợp để thực hiện giải thể doanh nghiệp;

– Tùy theo tính chất và mức độ vi phạm, cá nhân có hành vi vi phạm quy định cấm có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.

(Căn cứ Điều 205 Luật doanh nghiệp 2014)

174/ Chấm dứt hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện

– Chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp được chấm dứt hoạt động theo quyết định của chính doanh nghiệp đó hoặc theo quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

– Hồ sơ chấm dứt hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện bao gồm:

     + Quyết định của doanh nghiệp về chấm dứt hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện hoặc quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

    + Danh sách chủ nợ và số nợ chưa thanh toán, gồm cả nợ thuế của chi nhánh và nợ tiền đóng bảo hiểm xã hội.

    + Danh sách người lao động và quyền lợi tương ứng hiện hành của người lao động.

    + Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện.

    + Con dấu của chi nhánh, văn phòng đại diện (nếu có).

Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp và người đứng đầu chi nhánh, văn phòng đại diện bị giải thể liên đới chịu trách nhiệm về tính trung thực và chính xác của hồ sơ chấm dứt hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện.

– Doanh nghiệp có chi nhánh đã chấm dứt hoạt động chịu trách nhiệm thực hiện các hợp đồng, thanh toán các khoản nợ, gồm cả nợ thuế của chi nhánh và tiếp tục sử dụng lao động hoặc giải quyết đủ quyền lợi hợp pháp cho người lao động đã làm việc tại chi nhánh theo quy định pháp luật.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ chấm dứt hoạt động chi nhánh quy định trên, Cơ quan đăng ký kinh doanh cập nhật tình trạng pháp lý của chi nhánh, văn phòng đại diện trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.

(Căn cứ Điều 206 Luật doanh nghiệp 2014)

175/ Trách nhiệm các cơ quan quản lý nhà nước

– Các bộ, cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm trước Chính phủ về việc thực hiện nhiệm vụ được phân công trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.

– Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được phân công, các bộ, cơ quan ngang bộ chỉ đạo các cơ quan chuyên môn định kỳ gửi cho Cơ quan đăng ký kinh doanh nơi doanh nghiệp có trụ sở chính các thông tin:

     + Thông tin về giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, giấy chứng nhận hoặc văn bản chấp thuận về điều kiện kinh doanh đã cấp cho doanh nghiệp và quyết định xử phạt đối với hành vi vi phạm hành chính của doanh nghiệp.

     + Thông tin về tình hình hoạt động và nộp thuế của doanh nghiệp từ báo cáo thuế của doanh nghiệp.

     + Phối hợp, chia sẻ thông tin về tình hình hoạt động doanh nghiệp để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước.

– UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp trong phạm vi địa phương; trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được phân công chịu trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan chuyên môn trực thuộc và UBND cấp huyện định kỳ gửi cho Cơ quan đăng ký kinh doanh nơi doanh nghiệp có trụ sở chính các thông tin theo quy định trên.

(Căn cứ Điều 208 Luật doanh nghiệp 2014)

176/ Cơ quan đăng ký kinh doanh

– Nhiệm vụ, quyền hạn:

     + Giải quyết việc đăng ký doanh nghiệp và cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo quy định pháp luật.

     + Phối hợp xây dựng, quản lý Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp; cung cấp thông tin cho cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân có yêu cầu theo quy định pháp luật.

     + Yêu cầu doanh nghiệp báo cáo về việc tuân thủ các quy định Luật này khi xét thấy cần thiết; đôn đốc việc thực hiện nghĩa vụ báo cáo của doanh nghiệp.

     + Trực tiếp hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra doanh nghiệp theo những nội dung trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp.

     + Chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ đăng ký doanh nghiệp, khôngchịu trách nhiệm về những vi phạm của doanh nghiệp xảy ra trước và sau đăng ký doanh nghiệp.

     + Xử lý vi phạm các quy định về đăng ký doanh nghiệp theo quy định pháp luật; thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và yêu cầu doanh nghiệp làm thủ tục giải thể theo quy định của Luật này.

     + Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.

(Căn cứ Điều 209 Luật doanh nghiệp 2014)

177/ Xử lý vi phạm

– Cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của Luật này thì tùy theo tính chất và mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính, trường hợp gây thiệt hại thì phải bồi thường, cá nhân có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật.

(Căn cứ Điều 210 Luật doanh nghiệp 2014)

178/ Thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp

Doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp trong các trường hợp:

– Nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp là giả mạo.

– Doanh nghiệp do những người bị cấm thành lập doanh nghiệp theo quy định của Luật này thành lập.

– Doanh nghiệp ngừng hoạt động kinh doanh 01 năm mà không thông báo với Cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế.

– Doanh nghiệp không gửi báo cáo khi có yêu cầu đến Cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày hết hạn gửi báo cáo hoặc có yêu cầu bằng văn bản.

– Trường hợp khác theo quyết định của Tòa án.

(Căn cứ Điều 211 Luật doanh nghiệp 2014)

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Để xã hội duy trì được sự ổn định và phát triển, việc thiết lập kỷ luật, trật tự có vai trò quan trọng. Trong khi Nhà nước ban hành hệ thống pháp luật để duy trì trật tự trong xã hội, thì trong doanh nghiệp, người sử dụng lao động (NSDLĐ) cũng thiết lập kỷ luật nhằm đảm bảo ý thức chấp hành của người lao động (NLĐ), từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, đó là kỷ luật lao động. Tuy nhiên, cũng giống như pháp luật thường bị phá vỡ trật tự bởi hành vi vi phạm pháp luật, kỷ luật lao động cũng thường bị phá vỡ bởi hành vi vi phạm kỷ luật. Trước những biểu hiện tiêu cực này, đặt ra yêu cầu NSDLĐ phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm xử lý những hành vi vi phạm để bảo đảm kỷ luật lao động được NLĐ tuân thủ một cách triệt để. Không giống như các hình thức xử lý kỷ luật khác, kỷ luật sa thải là hình thức xử lý ở mức cao nhất mà pháp luật cho phép NSDLĐ được quyền áp dụng đối với NLĐ có hành vi vi phạm kỷ luật lao động. NSDLĐ áp dụng hình thức xử lý kỷ luật lao động sa thải có tác động rất lớn đối với NLĐ bởi nó lấy đi việc làm của họ, đẩy họ vào tình trạng thất nghiệp, chính vì vậy mức độ ảnh hưởng đối với xã hội cũng rất to lớn.

Xuất phát từ những ảnh hưởng to lớn đối với NLĐ và xã hội mà biện pháp xử lý kỷ luật sa thải được pháp luật quy định khá chặt chẽ. Từ khi Bộ luật Lao động năm 1994 ra đời, những quy định về kỷ luật sa thải ngày càng được củng cố và hoàn thiện theo hướng phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đồng thời giải quyết hài hoà mối quan hệ về lợi ích giữa NSDLĐ và NLĐ.

Mặc dù đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung song những quy định của pháp luật về kỷ luật sa thải vẫn không tránh khỏi những hạn chế và bất cập, từ đó đã gây ra không ít khó khăn trong quá trình thực hiện trên thực tế. Ngoài ra, một thực tế đáng buồn vẫn thường xuyên xảy ra trong hoạt động của doanh nghiệp, đó là ý thức chấp hành kỷ luật lao động của NLĐ rất thấp, tác phong công nghiệp chưa cao, dẫn đến số lượng hành vi vi phạm kỷ luật lao động không ngừng tăng lên ở những mức độ khác nhau. Chính từ những hiện tượng tiêu cực này, nên để tự bảo vệ hoạt động của doanh nghiệp theo đúng trật tự, buộc NSDLĐ phải có những biện pháp xử lý nghiêm, trong đó, xử lý kỷ luật sa thải là một biện pháp quan trọng bởi nó ngay lập tức làm chấm dứt hành vi vi phạm và trực tiếp tác động tới ý thức chấp hành kỷ luật của tập thể lao động.

  1. Về căn cứ áp dụng kỷ luật sa thải

Theo quy định của pháp luật hiện hành, NSDLĐ được quyền sa thải NLĐ khi có một trong các căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều 85 Bộ luật Lao động như sau:

– Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ, kinh doanh hoặc có hành vi khác gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp;

– Người lao động bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương, chuyển làm công việc khác mà tái phạm trong thời gian chưa xoá kỷ luật hoặc bị xử lý kỷ luật cách chức mà tái phạm;

– Người lao động tự ý bỏ việc năm ngày cộng dồn trong một tháng hoặc 20 ngày cộng dồn trong một năm mà không có lý do chính đáng.

Có thể thấy, nhìn chung các trường hợp NSDLĐ được quyền sa thải NLĐ được pháp luật quy định tương đối chặt chẽ, hợp lý, bảo đảm được trật tự kỉ cương của doanh nghiệp cũng  như quyền lợi của NLĐ. Chỉ những trường hợp NLĐ phạm lỗi nghiêm trọng mới bị sa thải.

Tuy nhiên, trên thực tế, các trường hợp kỷ luật sa thải vẫn tương đối nhiều. Số lượng các vụ án về kỷ luật sa thải được giải quyết tại Toà án chiếm một tỷ lệ lớn, chỉ đứng sau các vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng và ngày càng có chiều hướng gia tăng.

Qua phân tích, nghiên cứu những căn cứ về kỷ luật sa thải, tuy về cơ bản là phù hợp với thực tế nhưng bên cạnh đó còn có một số vướng mắc, hạn chế sau:

– Thứ nhất, trong một số trường hợp, pháp luật đã cho phép NSDLĐ có thể sa thải NLĐ căn cứ vào hành vi vi phạm (như hành vi trộm cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ kinh doanh) mà không cần căn cứ vào dấu hiệu của sự thiệt hại do các hành vi đó gây nên. Điều đó là hợp lý nhằm đảm bảo tính tôn nghiêm của kỷ luật lao động. Tuy nhiên, thực tế, vẫn còn một số hành vi vi phạm kỷ luật khác nữa mà theo tôi, pháp luật cần cho phép NSDLĐ sa thải NLĐ mà không cần phải xem xét đến mức độ của sự thiệt hại. Chẳng hạn, những trường hợp NLĐ cố ý huỷhoại tài sản của doanh nghiệp hoặc trường hợp NLĐ vi phạm quy định nghiêm ngặt về quy định phòng cháy, chữa cháy như hút thuốc tại kho xăng dầu của doanh nghiệp, mặc dù nội quy đã quy định cấm. Đối với trường hợp này, pháp luật hiện hành vẫn xếp vào loại “hành vi khác” và cần phải có thêm dấu hiệu “gây thiệt hại nghiêm trọng” thì NLĐ mới bị sa thải. Đó là điều không hợp lý, bởi trong trường hợp này, NLĐ đã cố ý huỷ hoại tài sản của doanh nghiệp, cố tình không chấp hành kỷ luật lao động của doanh nghiệp. Hành vi vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy, tuy có thể là vô ý, chưa gây ra thiệt hại trên thực tế nhưng nếu có thì thiệt hại xảy ra sẽ khôn lường, sẽ không chỉ là thiệt hại về tài sản mà còn có thể gây thiệt hại về tính mạng của con người. Vì vậy, thiết nghĩ, hành vi này cũng nên xếp vào hành vi “nguy hiểm”, tương tự như hành vi tham ô, trộm cắp. Điều này sẽ không chỉ bảo đảm được quyền sở hữu tài sản của NSDLĐ mà còn tăng cường trật tự, kỷ cương trong doanh nghiệp, buộc NLĐ phải có ý thức trong việc chấp hành kỷ luật lao động của doanh nghiệp.

– Thứ hai, một vấn đề cũng được đặt ra là “hành vi khác gây nghiêm trọng đến tài sản, lợi ích của doanh nghiệp”. là những hành vi nào thì hiện nay pháp luật cũng chưa có văn bản giải thích cụ thể. Tất nhiên, chúng ta phải hiểu “hành vi khác” ở đây trước hết là hành vi vi phạm kỷ luật lao động. Song không có nghĩa là tất cả những hành vi vi phạm kỷ luật đều bị áp dụng kỷ luật sa thải. Hành vi vi phạm kỷ luật đó chỉ bị sa thải khi nó gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản, lợi ích của doanh nghiệp. Nhưng thiệt hại như thế nào thì được coi là “thiệt hại nghiêm trọng” thì hiện nay pháp luật vẫn chưa giải thích cụ thể. Điều này dẫn đến sự lúng túng, thiếu thống nhất trong việc giải quyết của các cơ quan có thẩm quyền khi quyết định kỷ luật sa thải.

Tại phần III Thông tư số 19/2003/TT-BLĐTBXH ngày 22/9/2003 có quy định: “Người sử dụng lao động căn cứ vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của đơn vị để quy định cụ thể mức giá trị tài sản bị trộm cắp, tham ô hoặc có hành vi khác gây thiệt hại được coi là nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của đơn vị để quyết định sa thải người lao động”, vì vậy đã có quan điểm cho rằng, việc xác định thế nào là thiệt hại nghiêm trọng để sa thải sẽ do NSDLĐ quy định trong nội quy của đơn vị, doanh nghiệp. Quan điểm này đã tạo hướng mở cho các doanh nghiệp, bảo đảm quyền tự chủ trong quản lý NLĐ của NSDLĐ. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp sẽ gây bất lợi cho NLĐ. Chẳng hạn như nội quy của doanh nghiệp quy định mức thiệt hại là 500.000 đồng trong khi lương của NLĐ là 10.000.000 đồng/tháng thì nếu họ gây thiệt hại ở mức 500.000 đồng có đáng bị sa thải hay không? Điều đáng nói ở chỗ, pháp luật tuy không có hướng dẫn về mức thiệt hại nghiêm trọng để sa thải NLĐ (Khoản 1 Điều 85 BLLĐ) nhưng lại có hướng dẫn về mức thiệt hại nghiêm trọng (Điều 89 Bộ luật Lao động) về bồi thường trách nhiệm vật chất trong lao động (mức thiệt hại là từ 5.000.000 đồng trở lên). Vì vậy, thiết nghĩ, khi pháp luật đã có sự hướng dẫn về thiệt hại nghiêm trọng cho trường hợp bồi thường thiệt hại thì cũng có thể áp dụng tương tự cho trường hợp bị sa thải. Điều đó sẽ không chỉ bảo đảm quyền lợi của NLĐ mà còn bảo đảm được tính thống nhất trong việc áp dụng pháp luật. Không thể có tình trạng gây thiệt hại ở điều luật khác nhau thì hiểu khác nhau. Tuy nhiên, nếu nội quy lao động của doanh nghiệp quy định mức thiệt hại nghiêm trọng cao hơn thì khi đó sẽ áp dụng nội quy nhằm bảo đảm bảo nguyên tắc có lợi cho NSDLĐ.

  1. Về thủ tục xử lý kỷ luật sa thải

Ngoài việc phải có các căn cứ luật định, khi sa thải NLĐ, NSDLĐ còn phải tuân thủ những quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật lao động. Theo quy định tại các Điều 86, Điều 87 Bộ luật Lao động, NSDLĐ phải tổ chức phiên họp xử lý kỷ luật lao động có sự tham gia của BCH Công đoàn, của đương sự (trừ trường hợp đã ba lần thông báo bằng văn bản mà NLĐ vẫn không đến). Trước khi ra quyết định sa thải phải tham khảo ý kiến của tổ chức công đoàn. So với quy định trước khi có Bộ luật Lao động, thủ tục xử lý kỷ luật lao động theo quy định của pháp luật hiện hành tuy có đơn giản hơn nhưng vẫn rườm rà trong nhiều trường hợp là không cần thiết. Chẳng hạn như quy định về phiên họp xử lý kỷ luật lao động, mục đích cơ bản của phiên họp này là để NLĐ chứng minh lỗi của mình, trên cơ sở đó, NSDLĐ có thể ra quyết định kỷ luật một cách đúng đắn và hợp lý. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, đây chỉ là thủ tục mang tính hình thức nếu như không muốn nói là lãng phí thời gian của cả hai bên. Chẳng hạn như trường hợp NLĐ có hành vi tham ô, trộm cắp đã có kết luận của cơ quan có thẩm quyền điều tra, theo quy định của pháp luật, NSDLĐ có quyền căn cứ vào đó để xử lý kỷ luật sa thải. Do đó, theo tôi, không nên quy định cần thiết phải tổ chức phiên họp xử lý kỷ luật trong trường hợp này.

Mặt khác, việc pháp luật quy định NSDLĐ phải ba lần thông báo bằng văn bản mà NLĐ không đến mới có quyền xử lý kỷ luật vắng mặt NLĐ cũng không hợp lý. Bởi lẽ, tại các doanh nghiệp hiện nay, NLĐ làm việc không chỉ đơn thuần là lao động tại địa phương mà còn là lao động đến từ các tỉnh khác, thậm chí còn mượn tên tuổi của người địa phương để vào làm việc. Vì vậy, khi có hành vi vi phạm kỷ luật và thấy mình có khả năng không được tiếp tục làm việc thì họ thường bỏ về quê, hoặc làm việc nơi khác mà không chờ đến khi bị xử lý nhằm trốn tránh trách nhiệm. Đối với những trường hợp như vậy, NSDLĐ làm sao có thể tìm được địa chỉ để thông báo bằng văn bản ba lần cho NLĐ được, hoặc nếu có thông báo về quê cho NLĐ thì cũng khó chứng minh được NLĐ đã nhận được thông báo đó khi NLĐ từ chối.

Ngoài ra, việc pháp luật hiện hành quy định trách nhiệm của NSDLĐ phải thông báo bằng văn bản ba lần cho NLĐ mới được xử lý kỷ luật, theo tôi là quá nhiều, gây mất thời gian cho NSDLĐ. Trong tố tụng giải quyết các tranh chấp tại Toà án, Bộ luật Tố tụng dân sự cũng chỉ quy định Toà án phải triệu tập đương sự hợp lệ đến lần thứ hai. Nếu sau khi Toà án đã triệu tập hợp lệ hai lần mà đương sự vẫn không đến thì Toà án sẽ tiến hành đình chỉ giải quyết vụ án nếu đó là nguyên đơn, hoặc tiến hành xét xử vắng mặt nếu đó là bị đơn hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Hơn nữa, trên thực tế, có không ít những trường hợp NLĐ đã lợi dụng quy định này của pháp luật để gây khó dễ cho NSDLĐ khi biết mình bị sa thải. Vì vậy, thiết nghĩ, nếu pháp luật quy định phiên họp cần phải có mặt của đương sự thì cũng chỉ cần triệu tập họ đến lần thứ hai. Nếu sau hai lần triệu tập hợp lệ mà NLĐ vẫn không đến thì NSDLĐ có quyền xử lý kỷ luật lao động họ vắng mặt tương tự quy định của việc giải quyết tranh chấp tại Toà án, không cần thiết phải triệu tập NLĐ đến lần thứ ba như quy định hiện hành.

Pháp luật hầu hết của các quốc gia đều không có quy định về phiên họp xử lý kỷ luật, bởi họ cho rằng, việc xử lý kỷ luật lao động là quyền của NSDLĐ. Bởi vậy, tôi cho rằng, nên chăng, chúng ta cũng cần nên huỷ bỏ quy định về phiên họp xử lý kỷ luật. Trong trường hợp chúng ta vẫn giữ quan điểm truyền thống là phải có phiên họp xử lý kỷ luật lao động thì nên quy định theo hướng đơn giản hoá một số thủ tục như cho phép NSDLĐ được sa thải luôn NLĐ nếu đã có kết luận của cơ quan điều tra về hành vi trộm cắp, tham ô; NSDLĐ có quyền xử lý kỷ luật vắng mặt NLĐ nếu đã thông báo bằng văn bản cho NLĐ đến lần thứ hai mà họ vẫn không có mặt.

  1. Về hậu quả pháp lý của kỷ luật sa thải

Nhìn chung, khi NLĐ bị kỷ luật sa thải sẽ không được trợ cấp thôi việc. Đây là điểm khác biệt về quyền lợi giữa NLĐ bị sa thải với NLĐ bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành, NLĐ bị sa thải theo Điểm c Khoản 1 Điều 85 Bộ luật Lao động vẫn được hưởng trợ cấp thôi việc. Đó là trường hợp NLĐ tự ý nghỉ việc 5 ngày cộng dồn trong một tháng hoặc 20 ngày cộng dồn trong một năm mà không có lý do chính đáng. Điều này là không hợp lý, bởi lẽ, NLĐ bị sa thải là người “phạm lỗi” nghiêm trọng. Việc tự ý nghỉ việc của NLĐ là đã thể hiện sự coi thường nội quy của doanh nghiệp, coi thường NSDLĐ, làm ảnh hưởng đến hoạt động, sản xuất kinh danh của doanh nghiệp một cách cố ý. Do đó, không nên quy định cũng là bị sa thải nhưng có trường hợp được hưởng trợ cấp và có trường hợp không được hưởng trợ cấp. Theo tôi, NLĐ bị sa thải sẽ không được hưởng trợ cấp dù bất cứ lý do gì, nhằm đảm bảo quyền lợi cho NSDLĐ.

Một vấn đề cũng cần đặt ra là, pháp luật hiện hành không có sự phân biệt về hậu quả pháp lý đối với các trường hợp sa thải trái pháp luật. Sa thải trái pháp luật bao gồm các trường hợp trái pháp luật về nội dung (căn cứ áp dụng), tức là vi phạm các quy định tại Khoản 1 Điều 85 Bộ luật Lao động và trái pháp luật về hình thức (thủ tục áp dụng), tức là vi phạm Điều 86, Điều 87 Bộ luật Lao động. Đối với cả hai trường hợp này, pháp luật quy định buộc NSDLĐ đều phải nhận NLĐ trở lại làm việc, bồi thường tiền lương cho NLĐ trong thời gian họ không được làm việc, bồi thường cho NLĐ ít nhất 2 tháng lương và công khai xin lỗi NLĐ (Điều 41, Điều 94 Bộ luật Lao động). Điều này là không hợp lý, vì NSDLĐ sa thải NLĐ đúng về căn cứ (do NLĐ có hành vi trộm cắp, tham ô…) nhưng chỉ vì khi tiến hành các thủ tục xử lý, NSDLĐ lại vi phạm các quy định như chưa thông báo bằng văn bản đủ 3 lần cho NLĐ đã xử lý kỷ luật, chưa tham khảo ý kiến của BCH công đoàn cơ sở…nên vẫn buộc NSDLĐ phải nhận NLĐ trở lại làm việc trong đơn vị, bồi thường tiền lương cho toàn bộ thời gian mà NLĐ không được làm việc, buộc phải tiếp tục sử dụng NLĐ này là không phù hợp. Bởi vì, NSDLĐ sẽ không cảm thấy thoải mái, yên tâm khi sử dụng lại NLĐ này, thiết nghĩ, trong trường hợp này rất khó có thể tồn tại mối quan hệ lao động bền vững giữa hai bên và sẽ tiềm ẩn nguy cơ phát sinh tránh chấp.

Trong thực tiễn xét xử, Toà án cũng đã bước đầu có sự phân biệt giữa hai trường hợp này. Toà án đã đưa ý kiến cho rằng, nếu quyết định kỷ luật sa thải của NSDLĐ là đúng về nội dung, chỉ vi phạm về thủ tục thì Toà án sẽ tuyênhuỷ quyết định sa thải, buộc NSDLĐ khôi phục mọi quyền lợi cho NLĐ và cho phép họ được xử lý kỷ luật lại theo đúng thủ tục nếu họ có yêu cầu. Quyền lợi của NLĐ được tính đến thời điểm xử lý kỷ luật lại.

Vì vậy, việc phân biệt về hậu quả pháp lý giữa sa thải trái pháp luật về căn cứ và trái pháp luật về thủ tục là hết sức cần thiết. Sa thải trái pháp luật về căn cứ, theo tôi phải gánh chịu hậu quả nặng hơn so với trái pháp luật về thủ tục nhưng đúng về căn cứ áp dụng. Vì vậy, nếu NSDLĐ sa thải NLĐ trái pháp luật về căn cứ hoặc vi phạm về thời hiệu xử lý kỷ luật phải chịu hậu quả như quy định của pháp luật hiện hành là hợp lý. Riêng đối với trường hợp NSDLĐ sa thải NLĐ trái pháp luật về thủ tục thì theo tôi, nên quy định hậu quả pháp lý khác. Thiết nghĩ, trong trường hợp này cần phái có sự phân biệt giữa trách nhiệm đối với NLĐ và đối với nhà nước. Đối với NLĐ, căn cứ để NSDLĐ áp dụng trách nhiệm ký luật đối với họ là hành vi vi phạm kỷ luật và lỗi. Vì vậy, nên chăng NSDLĐ chỉ phải chịu trách nhiệm đối với NLĐ nếu họ sa thải NLĐ không có căn cứ. Còn thủ tục xử lý kỷ luật là trình tự mà nhà nước quy định buộc NSDLĐ phải tuân thủ khi xử lý kỷ luật. Do đó, các thủ tục được quy định tại Điều 87 Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành có thể xem như là “thủ tục hành chính” của việc quy định sa thải. NSDLĐ là người quản lý lao động, có quyền xử lý kỷ luật đối với NLĐ và phải tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Do đó, theo tôi, nên coi sự vi phạm về thủ tục trong xử lý kỷ luật của NSDLĐ chỉ là vi phạm pháp luật bị xử phạt hành chính. NSDLĐ chỉ bị xử phạt hành chính (tức là phải chịu trách nhiệm trước nhà nước chứ không phải chịu trách nhiệm trước NLĐ). Cũng cần phải nói rằng, hiện nay, theo Nghị định số 113/2004/NĐ-CP ngày 16/4/2004 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính về hành vi vi phạm pháp luật lao động thì việc xử phạt hành chính cũng chỉ được đặt ra đối với trường hợp NSDLĐ vi phạm quy định về thủ tục xử lý kỷ luật quy định tại Điều 87 Bộ luật Lao động với mức từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng. Nghị định này hoàn toàn không có quy định về việc xử phạt đối với trường hợp NSDLĐ vi phạm căn cứ áp dụng sa thải NLĐ. Điều đó chứng tỏ, chúng ta cũng đã quan niệm rằng sự vi phạm về thủ tục xử lý kỷ luật là vi phạm bị xử phạt hành chính. Tuy nhiên, cũng để tránh tình trạng NSDLĐ thường xuyên vi phạm, theo tôi, nên điều chỉnh tăng mức phạt đối với trường hợp này. Mức xử phạt có thể tăng gấp đôi, thậm chí có thể tăng gấp 3 so với mức hiện hành để buộc NSDLĐ phải thực hiện đúng pháp luật, giữ cho kỷ luật được nghiêm minh và tăng nguồn thu cho Nhà nước.

Kỷ luật lao động là vấn đề hết sức quan trọng, bởi nó không chỉ góp phần bảo đảm trật tự, kỷ cương của doanh nghiệp mà còn tạo cho NLĐ tác phong công nghiệp, là yếu tố thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Bởi vậy, pháp luật về kỷ luật lao động nói chung và pháp luật về kỷ luật sa thải nói riêng cần phải được tiếp tục hoàn thiện. Tuy nhiên, việc hoàn thiện pháp luật kỷ luật lao động phải đảm bảo sự hợp lý giữa quyền quản lý lao động của NSDLĐ và quyền lợi của NLĐ.

Trên đây là những phân tích cũng như quan điểm của tôi về vấn đề xử lý kỷ luật sa thải theo quy định của pháp luật hiện hành cũng như thực tiến áp dụng trên thực tế. Rất mong nhận được các ý kiến trao đổi, đóng góp từ phía các đồng nghiệp để pháp luật về kỷ luật lao động nói chung và kỷ luật sa thải nói riêng ngày càng hoàn thiện, hợp lý và khách quan hơn.

Nguồn: Đoàn Thị Mai – TAND tỉnh Khánh Hòa

 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập kinh tế quốc tế, một yêu cầu bức thiết đặt ra là phải xây dựng được một đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Bởi vậy, các doanh nghiệp rất chú trọng đầu tư để đào tạo nguồn nhân lực. Một mong muốn cơ bản và hợp lý của người sử dụng lao động là người lao động phải gắn bó làm việc cho doanh nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định để bù đắp các chi phí đã đầu tư. Trên thực tế, người sử dụng lao động và người lao động thường ký Hợp đồng có điều khoản cam kết trên. Nhưng các quy định của pháp luật lao động hiện hành dường như đang vô hiệu hoá thoả thuận giữa các bên.
Điều 62 Bộ luật lao động 2012 quy định người lao động và người sử dụng lao động “phải ký kết Hợp đồng đào tạo nghề trong trường hợp người lao động được đào tạo nâng cao trình độ, kỹ năng nghề, đào tạo lại ở trong nước hoặc nước ngoài từ kinh phí của người sử dụng lao động, kể cả kinh phí do đối tác tài trợ cho người sử dụng lao động.”
Trong khi đó, điểm k khoản 1 Điều 23 Bộ luật lao động 2012  lại quy định:
1. Hợp đồng lao động phải có những nội dung chủ yếu sau đây:
k) Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề.”
Như vậy, thoả thuận về vấn đề đào tạo trong Hợp đồng đào tạo hay trong Hợp đồng lao động có giá trị pháp lý ràng buộc trách nhiệm các bên khi mà người lao động và người sử dụng lao động không ký Hợp đồng đào tạo nhưng đã thoả thuận về đào tạo trong Hợp đồng lao động.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 43 Bộ luật lao động 2012, người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật có nghĩa vụ phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 62. Như vậy, để không phải thực hiện nghĩa vụ bồi hoàn chi phí đào tạo, người lao động chỉ cần đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đúng pháp luật theo Điều 37 Bộ luật Lao động về quyền đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động của người lao động.
Tiếp nữa, điểm đ khoản 2 Điều 62 Bộ luật lao động 2012  quy định nội dung chủ yếu phải có trong Hợp đồng đào tạo nghề là “Trách nhiệm hoàn trả chi phí đào tạo”. Theo quy định này, các bên có thể thoả thuận trách nhiệm hoàn trả chi phí đào tạo trong trường hợp người lao động không thực hiện đúng cam kết về thời gian làm việc cho người lao động (nếu các thoả thuận không vi phạm quy định cấm của pháp luật). Phải chăng, quy định này mâu thuẫn với quy định tại khoản 3 Điều 43 Bộ luật lao động 2012.
Pháp luật lao động Việt Nam luôn luôn khuyến khích người sử dụng lao động ban hành quy chế quy định hoặc thoả thuận với những điều kiện có lợi hơn cho người lao động so với quy định của Bộ luật lao động. Tuy nhiên, những quy định về bồi thường chi phí đào tạo hiện nay không chỉ gây khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng mà còn tạo ra sự thiếu công bằng, cần phải sớm điều chỉnh để không làm “nản lòng” người sử dụng lao động.
Tác giả bài viết: Bùi Hòa

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

 

Các khoản tính đóng BHXH

Các khoản không tính đóng BHXH

Tiền lương Phụ cấp lương

 

(là các khoản phụ cấp lương để bù đắp yếu tố về điều kiện lao động, tính chất phức tạp công việc, điều kiện sinh hoạt, mức độ thu hút lao động mà mức lương thỏa thuận trong hợp đồng lao động chưa được tính đến hoặc tính chưa đầy đủ)

Khoản chế độ và phúc lợi
  Phụ cấp chức vụ, chức danh Tiền thưởng theo quy định tại Điều 103 của Bộ luật lao động, tiền thưởng sáng kiến.
  Phụ cấp trách nhiệm Tiền ăn giữa ca
  Phụ cấp nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm Các khoản hỗ trợ xăng xe, điện thoại, đi lại, tiền nhà ở, tiền giữ trẻ, nuôi con nhỏ
  Phụ cấp thâm niên Hỗ trợ khi người lao động có thân nhân bị chết, người lao động có người thân kết hôn, sinh nhật của người lao động, trợ cấp cho người lao động gặp hoàn cảnh khó khăn khi bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
  Phụ cấp khu vực Các khoản hỗ trợ, trợ cấp khác
  Phụ cấp lưu động  
  Phụ cấp thu hút  
  Các phụ cấp có tính chất tương tự  

Lưu ý: Nội dung trên được áp dụng từ ngày 01/01/2016 đến hết ngày 31/12/2017.

Tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quy định về bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ trong hợp đồng lao động cần được hướng dẫn

19/02/2016

Vấn đề lao động trong nền kinh tế thị trường, pháp luật luôn tôn trọng nguyên tắc tự do, bình đẳng, thiện chí và trung thực giữa người sử dụng lao động (NSDLĐ) với người lao động (NLĐ) khi ký kết hợp đồng lao động (HĐLĐ) thông qua thị trường sức lao động. Thực tiễn cho thấy, nhiều tổn thất rất nặng nề về do doanh thu bị sụt giảmhoặc nhiều trường hợp nghiêm trọng hơn đẩy doanh nghiệp đến “bờ vực” phá sản mà NSDLĐ phải gánh chịu do NLĐ đã tiết lộ những bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh, bí mật thương mại cho doanh nghiệp cạnh tranh khác, hoặc cho chính bản thân họ sử dụng những “bí quyết” đó để trở thành đối thủ cạnh tranh với chính NSDLĐ trước đây. Do đó, rất cần thiết có sự điều chỉnh của luật về vấn đề này, mà theo đó, đặt ra một giới hạn trong việc thiết lập quan hệ HĐLĐ, hạn chế quyền tự do làm việc của NLĐ, nhằm chống lại việc tiết lộ hoặc sử dụng những “bí mật” của NSDLĐ. Đây cũng là một nội dung quan trọng trong luật lao động hiện đại – Điều khoản quy định về giữ gìn bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh  hay còn gọi là điều khoản bảo mật; điều khoản cấm cạnh tranh hay điều khoản hạn chế cạnh tranh, nhằm hướng tới bảo vệ các quyền và lợi ích  của NSDLĐ trong quan hệ lao động có tính cạnh tranh cao trong nền kinh tế thị trường.

Hiện nay, khi chúng ta chưa có luật riêng điều chỉnh về hợp đồng thì vấn đề giao kết hợp đồng nói chung chịu sự chi phối của luật dân sự, cụ thể là Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS). Bên cạnh pháp luật chung về hợp đồng, việc giao kết và thực hiện HĐLĐ được quy định khá chi tiết trong Bộ luật Lao động năm 2012 (BLLĐ 2012) bằng việc xác định các nguyên tắc trong giao kết hợp đồng. Cụ thể, Điều 17 BLLĐ 2012 quy định về nguyên tắc giao kết HĐLĐ, như sau:

1. Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác và trung thực.

2. Tự do giao kết HĐLĐ nhưng không được trái pháp luật, thỏa ước lao động tập thể và đạo đức xã hội”.

Các nguyên tắc này được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc chung của BLDS, cho phép các bên trong hợp đồng được tự do thỏa thuận và xác định các nội dung trong HĐLĐ. Sự tự do này trên thực tế được sử dụng và khai thác một cách triệt để, đặc biệt về phía NSDLĐ. Tự do hợp đồng cho phép các bên thỏa thuận thêm những nội dung bên ngoài các nội dung cơ bản theo yêu cầu tại Điều 23[1]BLLĐ 2012. Một trong những nội dung thỏa thuận thêm thường được NSDLĐ quan tâm đưa vào HĐLĐ là về nghĩa vụ của NLĐ trong việc giữ gìn bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh cho NSDLĐ.

BLLĐ 2012 đã lần đầu tiên và một cách rõ ràng cho phép các bên ký kết HĐLĐ thỏa thuận một điều khoản giữ gìn bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh, mà theo đó, tại khoản 2 Điều 23 BLLĐ 2012 quy định: “Khi người lao động làm việc có liên quan trực tiếp đến bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ theo quy định của pháp luật, thì người sử dụng lao động có quyền thỏa thuận bằng văn bản với người lao động về nội dung, thời hạn bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, quyền lợi và việc bồi thường trong trường hợp người lao động vi phạm”. Quy định này được xem như một bước tiến quan trọng trong lĩnh vực pháp luật lao động, góp phần đưa pháp luật lao động của Việt Nam tiến gần với pháp luật lao động của các nước có nền pháp lý tương đối phát triển. Đây là điều khoản được xây dựng với mục đích ngăn ngừa, hạn chế sự cạnh tranh không lành mạnh giữa NLĐ đã thôi không làm việc cho NSDLĐ, bảo vệ NSDLĐ và những lợi ích hợp pháp của họ. Tuy nhiên, việc vận dụng quy định trên vào thực tiễn cũng còn không ít vướng mắc và còn nhiều cách hiểu khác nhau, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về sự thỏa thuận “cấm cạnh tranh” được áp dụng cho những loại công việc nhất định nào; giới hạn của điều khoản “cấm cạnh tranh” trong từng loại hợp đồng; thời điểm chấm dứt áp dụng điều khoản hạn chế đó;…nên trong nhiều HĐLĐ điều khoản “hạn chế cạnh tranh” được NSDLĐ triệt để áp dụng theo hướng nghiêng về bảo vệ quyền và lợi ích của chính mình, nhưng lại ảnh hưởng lớn đến quyền và lợp ích hợp pháp của NLĐ.

Nghiên cứu thêm quy định tại Điều thứ 30 của Bộ luật Lao động Việt Nam, ban hành theo Dụ số 15 ngày mồng 8 tháng bảy năm 1952, do Đức Bảo Đại, Quốc trưởng ký có ghi rõ:

“Công-nhân phải hiến trọn cả sự hoạt-động chức nghiệp của mình cho xí-nghiệp dùng mình, trừ ra khi nào trong khế-ước lao động có định khác.

Nhưng ngoài thời-giờ làm việc và ngoài ra khi nào có giao-ước khác hơn, công-nhân tùy-thích hoạt-độgn theo nghề-nghiệp của mình mà không có tính-cách cạnh-tranh với xí-nghiệp đang dùng hay làm tổn-hại đến sự làm đúng đắn công việc mà hai bên đã giao kết.

Điều nào trong khế-ước không cấm công-nhân hoạt động về một nghề-nghiệp gì sau khi mãn hay bãi khế-ước, thì đương nhiên vô hiệu lực, trừ ra khi nào sự hoạt-động bị ngăn cấm có tính-cách để cạnh-tranh với chủ-nhân, nếu thời-hạn ngăn cấm không quá một năm và nếu chỗ cấm hoạt-động không xa chỗ làm việc cũ không quá 50 cây số ngàn.”

Có thể thấy nhà làm luật lúc bấy giờ đã có sự phân chia các giới hạn của tự do giao kết HĐLĐ. Mà theo đó, Giới hạn thứ nhất là, giới hạn do sự tồn tại của một khế ước lao động chưa đoạn tiêu. Nghĩa là NLĐ không thể giao kết HĐLĐ nếu đang duy trì một HĐLĐ khác. Quy định này hoàn toàn khác so với quy định của BLLĐ hiện hành cho phép NLĐ có thể cùng lúc giao kết và thực hiện nhiều HĐLĐ[2]. Giới hạn thứ hai là, giới hạn do một điều khoản cấm cạnh tranh. Theo giới hạn này, NSDLĐ có quyền đòi hỏi NLĐ của mình phải cam kết là sẽ không làm cho một NSDLĐ khác sau khi đã chấm dứt HĐLĐ với mình. Điều này có nghĩa là nếu đã có một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đang có giá trị thì quyền tự do giao kết HĐLĐ mới của NLĐ phải chịu sự giới hạn của thỏa thuận đó.Lý giải cho cơ sở ban hành quy định giới hạn thứ hai là do trong quá trình làm việc cho một NSDLĐ, NLĐ có được nhiều kiến thức chuyên môn hay biết được bí mật sản xuất, kinh doanh; bí mật công nghệ; bí mật thương mại… kể cả sự quen biết với khách hàng. Nếu NLĐ này đi làm việc ở chỗ khác và mang những sự hiểu biết này đến phục vụ cho NSDLĐ khác thì có thể sẽ gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho NSDLĐ đã dùng họ, đặc biệt nếu NSDLĐ khác này lại là một đối thủ cạnh tranh của NSDLĐ ban đầu trong cùng lĩnh vực sản xuất, kinh doanh.

Thực tiễn vận dụng quy định tại khoản 2 Điều 23 BLLĐ 2012, khi ký kết HĐLĐ nhất là NSDLĐ là nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh mà một bên đối tác là nước ngoài, khi thuê mướn lao động yêu cầu NLĐ ký một thỏa thuận không được cạnh tranh. Theo đó, NLĐ không được tiết lộ bí mật công nghệ; bí mật kinh doanh;…kể cả việc lợi dụng sự quen biết khách hàng, hay lợi dụng sự huấn luyện đặc biệt của NSDLĐ trước đó để làm việc cho doanh nghiệp cạnh tranh hoặc chính bản thân họ cạnh tranh với NSDLĐ cũ, hoặc cam kết không làm việc cho doanh nghiệp cạnh tranh trong quá trình thực hiện hợp đồng dưới bất kỳ hình thức nào. Như vậy, sự tồn tại của thỏa thuận này là để yêu cầu NLĐ không được làm việc cho doanh nghiệp cạnh tranh trong khi đang thực hiện HĐLĐ hoặc sau khi chấm dứt HĐLĐ, hoặc chính bản thân NLĐ không được cạnh tranh với doanh nghiệp mà mình đã từng phục vụ. Nghiên cứu điều khoản quy định về giữ gìn bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh của nhiều HĐLĐ cho thấy, điểm giống nhau cơ bản, đó là, luôn được giới hạn trong thời gian, không gian, một số loại công việc nhất định và kể cả trách nhiệm bồi thường trong trường hợp NLĐ vi phạm, nhưng cũng không ít những điểm khác biệt nổi lên, đó là, thời gian, không gian “bảo mật” không tuân theo một giới hạn cố định nào; trách nhiệm bồi thường của NLĐ trong trường hợp vi phạm cam kết cũng không theo khuôn mẫu nào và đặc biệt nghĩa vụ của NSDLĐ phải thực hiện để đổi lấy sự cam kết của NLĐ về nội dung này lại không được đề cập đến!

Quy định giữ gìn bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh với bản chất như đã nêu trên có thể thấy, là một sự bảo vệ rất tốt cho quyền lợi của NSDLĐ. Tuy nhiên, một cách gián tiếp nó gây ra những trở ngại, mất mát cũng rất quan trọng cho quyền được tự do làm việc, lựa chọn việc làm của NLĐ theo quy định của pháp luật hiện đại.

Tại khoản 3 Điều 50 BLLĐ 2012 quy định: “Trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ nội dung của hợp đồng lao động quy định quyền lợi của người lao động thấp hơn quy định trong pháp luật về lao động, nội quy lao động, thoả ước lao động tập thể đang áp dụng hoặc nội dung của hợp đồng lao động hạn chế các quyền khác của người lao động thì một phần hoặc toàn bộ nội dung đó bị vô hiệu.”. Vậy so với quy định tại khoản 2 Điều 23 BLLĐ 2012, hai quy định này có mâu thuẫn nhau không? Theo quan điểm nghiên cứu của tác giả, khoản 2 Điều 23 BLLĐ 2012 là một trường hợp ngoại lệ của khoản 3 Điều 50 BLLĐ 2012. Có nghĩa là nếu có thỏa thuận về trách nhiệm phải bảo vệ bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh của NSDLĐ bằng cách hạn chế một số các quyền của NLĐ thì điều khoản này không thể vô hiệu. Nếu không, quy định mới ở Điều 23 BLLĐ 2012 là quy định không thể áp dụng được. Như vậy, hiểu quy định về khoản 2 Điều 23 BLLĐ 2012 như thế nào cho đúng nhằm dung hòa lợi ích giữa NSDLD với NLĐ khi tham gia ký kết HĐLĐ?

Theo quan điểm của tác giả, quyền lợi và nghĩa vụ trong quan hệ dân sự luôn đi liền với nhau, quyền của bên này đồng thời là nghĩa vụ của bên kia. NSDLĐ khi xây dựng điều khoản trong HĐLĐ để bảo vệ quyền lợi của mình phải theo hướng dung hòa với quyền lợi của NLĐ. Có nghĩa là, để đổi lại với những hạn chế nhất định về việc phải giữ bí mật, NLĐ phải được hưởng những quyền lợi nhất định cụ thể nào đó và cả trách nhiệm bồi thường trong trường hợp không thực hiện được cam kết. Cụ thể,  các bên có thể thỏa thuận về điều khoản “cấm cạnh tranh” như sau:

Về nghĩa vụ của NLĐ: NLĐ cam kết không tiết lộ bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh của NSDLĐ ngay cả sau khi chấm dứt HĐLĐ, cam kết không làm việc cho các doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực, trong giới hạn thời gian và không gian nhất định, cam kết không sử dụng các bí mật công nghệ, kinh doanh để tiến hành các hoạt động nghề nghiệp tự do của mình. Nếu NLĐ vi phạm cam kết phải chịu trách nhiệm bồi thường bằng khoản tiền tương ứng từ 30% đến 50% của 12 tháng tiền lương trước khi NLĐ thôi việc.

Về nghĩa vụ của NSDLĐ: NSDLĐ phải giành cho NLĐ những ưu đãi nhất định, ví dụ trả một khoản tiền ngoài lương cho việc giữ bí mật của NLĐ.

Có thể thấy khoản 2 Điều 23 BLLĐ 2012 là một quy định mở, nó cho phép NLĐ có quyền lựa chọn giữa hai khả năng, một là, tôn trọng cam kết để nhận được những lợi ích nhất định, hai là, phá vỡ cam kết và bồi thường. Trong sự tính toán cân nhắc giữa các lợi ích được và mất, tùy từng bối cảnh cụ thể, NLĐ có thể lựa chọn giải pháp phù hợp cho riêng mình.

Kiến nghị

Từ thực tế trên, để đảm bảo cân bằng lợi ích của các bên trong quan hệ lao động, việc áp dụng quy định giữ gìn bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh phải được thiết lập với những giới hạn nhất định. Các giới hạn này có thể bao gồm:

Thứ nhất, giới hạn về những trường hợp áp dụng quy định giữ gìn bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh. Trên thực tế, áp dụng quy định này sẽ là ràn buộc,  hạn chế nhất định quyền của NLĐ trong cơ hội việc tìm việc làm theo nghề nghiệp của mình sau này. Do đó, chỉ nên áp dụng một cách có giới hạn với những đối tượng NLĐ đặc thù. Cụ thể, chỉ áp dụng đối với những đối tượng NLĐ làm việc trực tiếp trong các lĩnh vực có tiếp xúc với các bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh, như: Nhân viên bán hàng, nhân viên quản lý và điều hành, luật sư, kế toán, nhân viên kỹ thuật, nhân viên y tế, luật sư, ca sĩ, người mẫu thời trang,…Ví dụ: Đối với nhân viên quản lý hay điều hành thì phạm vi thỏa thuận không được cạnh tranh rộng hơn, như: cấm dụ dỗ khách hàng, tiết lộ bí mật thương mại, tham gia quyết định quản lý cho nhà cạnh tranh, quan hệ sở hữu chứng khoán trong công ty cạnh tranh… Nói chung, giám đốc hay những nhà quản lý khác có thâm niên là những người tìm kiếm hoặc bị thu hút bởi những cơ hội hợp tác để cạnh tranh với công ty mà họ đã từng phục vụ; Luật sư hay nhân viên tài chính: thỏa thuận cấm cạnh tranh đối với hai nghề này bị chi phối rất lớn bởi sự tín nhiệm và sự lựa chọn của khách hàng;… Để làm được điều này cần có giới hạn những công việc nào là những công việc có liên quan đến bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh.

Thứ hai, sau khi chấm dứt HĐLĐ, vấn đề thông thường được đặt ra là “cái gì” thuộc về NLĐ và “cái gì” là thuộc về NSDLĐ. Nhưng phức tạp nhất vẫn là những tranh chấp liên quan đến tài sản vô hình, như: i) Thông tin về các quy trình sản xuất hay khách hàng; ii) Ý tưởng sáng tạo của NLĐ được cấp bản quyền hay bằng sáng chế; iii) Sự thần tượng của công chúng biểu hiện ở chỗ tính cách của NLĐ được coi như là một phần của sản phẩm, dịch vụ khi đưa ra thị trường. Nói chung, NSDLĐ cho rằng NLĐ không thể sáng tạo được những tài sản đó nếu không có sự đầu tư về vốn và quản lý của họ. Ngược lại, NLĐ cho rằng đó chính là tài năng và công sức mà họ bỏ ra để duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Chẳng hạn, NLĐ và NSDLĐ thường có tranh chấp liên quan đến việc xác định ai là người có quyền giữ quyền tác giả hoặc quyền sở hữu đối với sản phẩm trí tuệ được tạo nên trong quá trình lao động như: sáng chế, giải pháp hữu ích, mẫu mã hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp hay nhãn hiệu hàng hóa. Về nguyên tắc chung đặt ra là người có quyền giữ quyền tác giả đối với sản phẩm chính là tác giả hay đồng tác giả của sản phẩm đó. Tuy nhiên, sự loại trừ được đặt ra trong trường hợp sản phẩm được tạo nên bởi sự thuê mướn.Tác giả là NLĐ làm việc theo HĐLĐ, hoặc theo hợp đồng nghiên cứu và phát triển nhưng NSDLĐ là người có quyền nộp đơn xin cấp văn bằng bảo hộ hoặc bằng sáng chế đối với sản phẩm đó trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Trong trường hợp này chủ sở hữu và tác giả là khác nhau. Nhưng không phải trong mọi trường hợp đều đơn giản như vậy, việc xác định sản phẩm được tạo nên trên cơ sở thuê mướn lao động yêu cầu tính cách hóa mối quan hệ giữa tác giả và người ủy quyền, đó là mối quan hệ giữa chủ và thợ, ở đó có những yếu tố cần phải được xem xét cụ thể như sau: Mức độ kiểm soát mà NSDLĐ có thể thực hiện đối với chi tiết của tác phẩm; NLĐ có được tham gia vào một công việc rõ ràng hay không; Công việc đó có luôn được hướng dẫn bởi NSDLĐ hay một chuyên gia không; Kỹ năng yêu cầu trong nghề nghiệp; NSDLĐ có cung cấp phương tiện, công cụ, nơi làm việc cho người thực hiện công việc đó không; Thời gian được thuê mướn; Cách thức trả tiền, theo thời gian hay theo công việc; Tác phẩm được tạo nên có là một phần hoạt động thường lệ của NSDLĐ không; Chi phí cho việc tạo nên tác phẩm có nằm trong chi phí sản xuất, kinh doanh hay không. Do đó, để tránh những tranh chấp phát sinh, thiết nghĩ cơ quan nhà nước có thẩm quyền nghiên cứu ban hành hướng dẫn cụ thể nội dung này.

Thứ ba, cần cụ thể hóa nội dung quy định tại khoản 2 Điều 23 BLLĐ 2012 thành những nội dung cụ thể, như:  

– NLĐ tiết lộ bí mật công nghệ, kinh doanh thì có thể bị sa thải;

– NLĐ là lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao tiết lộ bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh thì phải bồi thường theo chế độ trách nhiệm vật chất;

– NLĐ phải có trách nhiệm bồi thường phí đào tạo trong trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng;

– Cấm hành vi lôi kéo, mua chuộc nhân viên hoặc khách hàng của thương nhân khác;…

Thứ tư, giới hạn về thời gian và không gian mà NLĐ chịu sự giới hạn của cam kết. Ưu tiên cho sự thỏa thuận giữa NSDLĐ với NLĐ. Tuy nhiên, nếu trường hợp giữa các bên không thể thỏa thuận được thì pháp luật cũng cần quy định mức giới hạn tối đa áp dụng cho từng nhóm đối tượng. Có như vậy mới vừa  bảo vệ quyền lợi của NSDLĐ đồng thời cũng không làm thiệt thòi quá mức quyền lợi của NLĐ.

Thứ năm, trên cơ sở quy định của luật, khi điều khoản quy định áp dụng giữ gìn bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh có hiệu lực thì NLĐ có nghĩa vụ phải thi hành. Nếu NLĐ vi phạm, người chủ cũ có quyền khởi kiện tại Tòa án và NLĐ bị buộc phải bồi thường thiệt hại hoặc phải trả một khoản tiền mà hai bên đã thỏa thuận trước trong hợp đồng. Trước tính cấp thiết đó, thiết nghĩ pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này cần có quy định tương ứng, cần dự liệu về cơ chế tố tụng để thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của NSDLĐ cũng là một vấn đề cần quan tâm trong việc xây dựng các hướng dẫn thi hành trong lĩnh vực này. Cụ thể, đó là việc kiện yêu cầu bồi thường trong dân sự hay bồi thường trong quan hệ lao động đặc thù hay kết hợp cả hai, vừa sử dụng cơ chế của bồi thường thiệt hại trong dân sự, vừa sử dụng các quy tắc đặc thù trong quan hệ lao động. Sự  minh bạch, rõ ràng sẽ giúp cho các chủ thể, nhất là NSDLĐ có thể thực hiện quyền của mình một cách thuận lợi. Mặt khác, giới hạn cho sự tồn tại của một HĐLĐ chưa hết hiệu lực. Tình trạng này không cho phép NLĐ cùng một lúc có thể ký một hợp đồng thứ hai với NSDLĐ khác. Cho nên, nếu NLĐ tự ý nghỉ việc, đối với hợp đồng xác định thời hạn, mà không viện dẫn được sự kiện bất khả kháng hay lỗi của NSDLĐ thì phải bồi thường trừ hợp đồng không xác định thời hạn. Trách nhiệm liên đới bồi thường cũng được xác định nếu NSDLĐ cũ có chứng cứ chứng minh được rằng: NSDLĐ mới đã tham gia vào việc xúi giục NLĐ nghỉ việc; NSDLĐ mới biết rõ là NLĐ còn bị ràng buộc bởi HĐLĐ đang có hiệu lực mà vẫn thuê mướn, thì trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cũng cần đặt ra đối với NSDLĐ mới, nhất là đối với những khoản chi phí thực tế mà NSDLĐ cũ bỏ ra để đào tạo hoặc huấn luyện đặc biệt cho NLĐ để thực hiện công việc.

Tóm lại, việc ghi nhận và cho phép đưa vào HĐLĐ điều khoản giữ gìn bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ là điểm tiến bộ của pháp luật lao động. Tuy nhiên, đây là một quy định mới chỉ dừng lại ở “khung” nên rất cần sự hướng dẫn cụ thể để có thể áp dụng, phục vụ cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan trong hợp đồng.



Phạm Thị Hồng Đào

Văn phòng luật sư Thạnh Hưng



[1]Điều 23. Nội dung hợp đồng lao động

1. Hợp đồng lao động phải có những nội dung chủ yếu sau đây:

a) Tên và địa chỉ người sử dụng lao động hoặc của người đại diện hợp pháp;

b) Họ tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, địa chỉ nơi cư trú, số chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ hợp pháp khác của người lao động;

c) Công việc và địa điểm làm việc;

d) Thời hạn của hợp đồng lao động;

đ) Mức lương, hình thức trả lương, thời hạn trả lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác;

e) Chế độ nâng bậc, nâng lương;

g) Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi;

h) Trang bị bảo hộ lao động cho người lao động;

i) Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế;

k) Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề.

2. Khi người lao động làm việc có liên quan trực tiếp đến bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ theo quy định của pháp luật, thì người sử dụng lao động có quyền thỏa thuận bằng văn bản với người lao động về nội dung, thời hạn bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, quyền lợi và việc bồi thường trong trường hợp người lao động vi phạm.

3. Đối với người lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp thì tùy theo loại công việc mà hai bên có thể giảm một số nội dung chủ yếu của hợp đồng lao động và thỏa thuận bổ sung nội dung về phương thức giải quyết trong trường hợp thực hiện hợp đồng chịu ảnh hưởng của thiên tai, hoả hoạn, thời tiết.

4. Nội dung của hợp đồng lao động đối với người lao động được thuê làm giám đốc trong doanh nghiệp có vốn của Nhà nước do Chính phủ quy định.

[2]Điều 21. Giao kết hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động

Người lao động có thể giao kết hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động, nhưng phải bảo đảm thực hiện đầy đủ các nội dung đã giao kết.

Trong trường hợp giao kết hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động, việc tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của người lao động được thực hiện theo quy định của Chính phủ.

 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Từ ngày 01/01/2016, Nghị định 115/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật BHXH 2014 về BHXH bắt buộc bắt đầu có hiệu lực thi hành.

Theo đó, hướng dẫn tạm dừng đóng BHXH bắt buộc tại Điều 88 của Luật BHXH 2014 được quy định như sau:

– Các trường hợp tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất:

+ Tạm dừng sản xuất, kinh doanh từ 01 tháng trở lên do gặp khó khăn khi thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc do khủng hoảng, suy thoái kinh tế hoặc thực hiện chính sách của Nhà nước khi tái cơ cấu nền kinh tế hoặc thực hiện cam kết quốc tế.

+ Gặp khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, mất mùa.

– Người sử dụng lao động (NSDLĐ) thuộc một trong các trường hợp nêu trên, được tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất khi có một trong các điều kiện sau:

+ Không bố trí được việc làm cho người lao động (NLĐ), trong đó số lao động thuộc diện tham gia BHXH phải tạm thời nghỉ việc từ 50% tổng số lao động có mặt trước khi tạm dừng sản xuất, kinh doanh trở lên.

+ Bị thiệt hại trên 50% tổng giá trị tài sản do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, mất mùa gây ra (không kể giá trị tài sản là đất).

– Thời gian tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất:

+ Thời gian tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất theo tháng và không quá 12 tháng. Trong thời gian tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất, NSDLĐ vẫn đóng vào quỹ ốm đau và thai sản, quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.

NSDLĐ và NLĐ đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí và tử tuất hoặc chấm dứt hợp đồng lao động thực hiện đóng bù cho thời gian tạm dừng đóng để giải quyết chế độ cho NLĐ trong thời gian tạm dừng đóng.

+ Hết thời hạn tạm dừng đóng quy định tại Điểm a Khoản này, NSDLĐ và NLĐ tiếp tục đóng BHXH và đóng bù cho thời gian tạm dừng đóng, số tiền đóng bù không phải tính lãi chậm đóng theo quy định tại Khoản 3 Điều 122 của Luật BHXH.

– Cơ quan BHXH giải quyết tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất đối với NLĐ và NSDLĐ đảm bảo điều kiện quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều này. Thời điểm tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất tính từ tháng NSDLĐ có văn bản đề nghị.

– Tạm dừng đóng BHXH đối với NLĐ đang tham gia BHXH bắt buộc mà bị tạm giam được thực hiện như sau:

+ NLĐ quy định tại Khoản 1 Điều 2 của Nghị định 115 mà bị tạm giam thì NLĐ và NSDLĐ được tạm dừng đóng BHXH.

+ Sau thời gian tạm giam, nếu được cơ quan có thẩm quyền xác định bị oan, sai thì thực hiện việc đóng bù BHXH cho thời gian bị tạm giam.

Trường hợp NLĐ là cán bộ, công chức, viên chức, công nhân quốc phòng, công nhân công an và người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu thì NLĐ và NSDLĐ thực hiện việc đóng bù BHXH.

Các trường hợp khác thì việc đóng bù thông qua NSDLĐ trên cơ sở tiền đóng BHXH do cơ quan có trách nhiệm bồi thường theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đảm bảo.

+ Số tiền đóng bù không phải tính lãi chậm đóng theo quy định tại Khoản 3 Điều 122 của Luật BHXH 2014.

+ Trường hợp cơ quan có thẩm quyền xác định NLĐ là có tội thì không thực hiện việc đóng bù BHXH cho thời gian bị tạm giam.

– NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Khoản 2 Điều 2 của Nghị định 115, khi tạm thời bị mất việc làm được cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp làm dịch vụ đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài xác nhận thì thời gian này được tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất.

Sau thời gian tạm thời mất việc làm nếu NLĐ trở lại làm việc thì tiếp tục đóng BHXH theo quy định, không thực hiện việc đóng bù BHXH cho thời gian bị mất việc làm tạm thời.

 

 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

(Kiemsat.vn) – Trong khuôn khổ hội nghị toàn ngành Kiểm sát nhân dân tập huấn các đạo luật mới về lĩnh vực tư pháp, ông Tống Anh Hào, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã trực tiếp thuyết trình những nội dung cơ bản của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Sau đây là lược ghi bài giảng của Phó Chánh án Tống Anh Hào, do biên tập viên của Kiemsat.vn thực hiện.

1. Quan điểm chỉ đạo xây dựng BLTTDS năm 2015

– Thể chế hóa quan điểm của Đảng được nêu trong Nghị quyết số 48, 49; kết luận số 72,92 của Bộ Chính trị. BLTTDS mới phải thể hiện tính công khai, minh bạch; xây dựng mô hình tố tụng xét hỏi kết hợp với tranh tụng.

– Cụ thể các quy định của Hiến pháp năm 2013 vào BLTTDS.

– Phải đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với các Bộ luật, đạo luật khác.

– Xây dựng BLTTDS trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành BLTTDS năm 2004.

– Phải đảm bảo tính khả thi, hạn chế việc hướng dẫn.

– Phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập.

2. Những nội dung cơ bản của Bộ luật.

Bộ luật TTDS 2015 gồm 517 điều. Trong đó: sửa đổi là 350 điều, bổ sung 104 điều, bỏ 7 điều so với BLTTDS 2004. Phần chung là phần được sửa đổi, bổ sung nhiều nhất.

2.1. Về nguyên tắc chung: Sửa 4 vấn đề lớn.

– Khoản 2 Điều 4: Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng: Liên quan đến vấn đề này BLDS năm 2015 đã quy định rõ nguyên tắc giải quyết các vụ việc dân sự đó là: Tòa án áp dụng tương tự pháp luật, tập quán, nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự, án lệ và lẽ công bằng.

– Điều 13: Vai trò, nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tố tụng: Đề cao xét xử công khai, nhưng cũng tôn trọng một số trường hợp đặc biệt cần xét xử kín; quy định về trách nhiệm bồi thường nhà nước của người tiến hành tố tụng khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình có hành vi trái pháp luật.

– Bổ sung trường hợp người tham gia tố tụng là người khuyết tật nghe, nói hoặc khuyết tật nhìn có quyền dùng ngôn ngữ, ký hiệu, chữ dành riêng cho người khuyết tật và phải có người biết ngôn ngữ, ký hiệu, chữ dành riêng cho người khuyết tật để dịch lại.

– Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự: Sửa đổi từ tranh luận thành tranh tụng.

+ Tranh tụng từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến khi giải quyết xong vụ án.

+ Quy định rõ hơn trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có quyền thu thập chứng cứ.

+ Chứng cứ phải được công khai

+ Phiên tòa xét xử tranh tụng phải đảm bảo dân chủ, đề cao vai trò của người tham gia tố tụng (vì tranh tụng tập trung nhất là ở phiên tòa) và phán quyết của Tòa án phải dựa trên kết quả của tranh tụng.

2.2. Những nội dung sửa đổi, bổ sung.

– Về thẩm quyền của Tòa án:

+ Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng. (Khoản 2 Điều 4)

+ Tất cả các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại và lao động đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

+ Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết. Tòa án đưa cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền ban hành quyết định cá biệt trái pháp luật tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

+ Điểm mới bổ sung là TAND cấp huyện có Tòa chuyên trách là Tòa gia đình và người chưa thành niên (TAND cấp tỉnh đương nhiên có Tòa chuyên trách này).

– Người tiến hành tố tụng:

+ Bổ sung thêm chức danh tư pháp là Thẩm tra viên và Kiểm tra viên.

+ Bổ sung thêm thẩm quyền của Chánh án là: Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật nếu phát hiện có dấu hiệu trái Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên.

+ Cụ thể hóa quyền của Kiểm sát viên (Điều 58): Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu; kiểm sát việc thụ lý giải quyết vụ việc dân sự; yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ và có quyền thu thập tài liệu chứng cứ theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm; đề nghị Viện trưởng VKS có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật.

– Thủ tục rút gọn: Quy định mới về thủ tục rút gọn là việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn do 01 Thẩm phán thực hiện.

– Người tham gia tố tụng:

+ Đương sự: Bổ sung thêm người yêu cầu giải quyết việc dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự.

+ Quyền và nghĩa vụ của đương sự: Điểm mới là có quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ; có quyền được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình; đương sự có nghĩa vụ gửi bản sao tài liệu, chứng cứ cho các đương sự khác.

+ Sửa đổi quy trình đối với người tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự: Bổ sung thêm đại diện của tổ chức đại diện tập thể người lao động là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động trong vụ việc lao động.

+ Bổ sung thủ tục đề nghị Tòa án làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

+ Người đại diện: Có thể là cá nhân hoặc pháp nhân; đối với tổ chức đại diện tập thể lao động là người đại diện theo pháp luật cho tập thể người lao động khi được người lao động ủy quyền.

– Chứng cứ: Chương 7. Chứng cứ được quy định theo hướng đảm bảo việc tranh tụng.

+ Điều 91: Người khởi kiện phải có nghĩa vụ chứng minh. Tuy nhiên, người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ mà các tổ chức, cá nhân này phải có nghĩa vụ chứng minh; người lao động có quyền yêu cầu Tòa án yêu cầu người sử dụng lao động phải chứng minh trong trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động; một số trường hợp thì bị đơn phải có nghĩa vụ chứng minh để bảo vệ quyền lợi cho người yếu thế.

+ Xác định chứng cứ: Trên cơ sở kế thừa luật cũ thì BLTTDS 2015 ghi nhận thông điệp, dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật; văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng do người có chức năng lập tại chỗ, văn bản công chứng, chứng thực được coi là chứng cứ nếu thu thập, công chứng, chứng thực đúng quy định của pháp luật.

+ Điều 96 – Giao nộp tài liệu, chứng cứ: Được quy định chặt chẽ về thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, nếu không đầy đủ thì Tòa án có quyền yêu cầu đương sự cung cấp thêm, nếu đương sự không cung cấp hoặc cung cấp sau khi vụ án được đưa ra xét xử thì Tòa án chỉ chấp nhận là chứng cứ khi có lý do chính đáng. Đương sự có quyền giao nộp thêm chứng cứ ở tất cả các giai đoạn của quá trình giải quyết thì vẫn được chấp nhận. Khi đương sự giao nộp tài liệu , chứng cứ cho Tòa án thì họ phải sao gửi tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác để đảm bảo chứng cứ công khai.

+ Xác minh, thu thập chứng cứ (Điều 97): Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình thu thập tài liệu, chứng cứ. Trong trường hợp không thu thập được thì yêu cầu Tòa án thu thập thông qua trưng cầu giám định, định giá tài sản… Điều này thể hiện trách nhiệm, vai trò của Tòa án, Thẩm phán trong thu thập tài liệu, chứng cứ.

– Các biện pháp tạm thời: BLTTDS 2015 bổ sung thêm 4 biện pháp tạm thời như sau: Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ; cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình; tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu; bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án.

– Chi phí tố tụng: Bổ sung thêm tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài. Nếu đương sự không nộp chi phí tố tụng thì coi như bỏ yêu cầu của mình.

– Tống đạt văn bản: Bổ sung thêm thủ tục cấp, tống đạt, thông báo bằng phương tiện điện tử.

– Thụ lý, xét xử sơ thẩm:

+ Bổ sung thêm quyền khởi kiện của tổ chức đại diện tập thể lao động trong trường hợp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động hoặc khi được người lao động ủy quyền; tổ chức xã hội tham gia bảo vệ người tiêu dùng; cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.

+ Phương thức gửi đơn: Bổ sung phương thức gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử qua cổng thông tin điện tử của Tòa án.

+ Quy định chặt chẽ hơn thủ tục nhận và xử lý đơn khởi kiện: Khi nhận đơn Tòa án phải có trách nhiệm cấp ngay giấy xác nhận đã nhận đơn cho người khởi kiện; nhận đơn qua đường bưu điện thì trong 2 ngày làm việc phải gửi thông báo nhận đơn của người khởi kiện; nhận đơn bằng gửi trực tuyến thì phải thông báo ngay việc nhận đơn cho người khởi kiện qua cổng thông tin điện tử của Tòa án. Trong thời hạn 3 ngày Tòa án phải phân công Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện, trong thời hạn 5 ngày Thẩm phán phải đưa ra quyết định.

+ Trả đơn khởi kiện: Bổ sung trường hợp nguyên đơn đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện nhưng họ thường xuyên thay đổi địa chỉ mà không thông báo thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.

+ Về khiếu nại, kiến nghị: Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện, người khởi kiện có quyền khiếu nại. Trong thời gian 5 ngày làm việc kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải mở phiên họp xem xét giải quyết và có sự tham gia của Viện kiểm sát. Điểm mới là Viện kiểm sát phải tham gia phát biểu ý kiến về việc trả lại đơn của Tòa, Tòa án phải ra quyết định về vấn đề này.

– Chuẩn bị xét xử sơ thẩm: Sửa đổi một số điều sau:

+ Thời hạn chuẩn bị xét xử: Quy định rõ hơn nhiệm vụ của Thẩm phán trong giai đoạn này; có thời hạn rút ngắn hơn; quy định thời hạn đối với giải quyết vụ án có yếu tố nước ngoài.

+ Phiên họp và hòa giải công khai chứng cứ: Tùy theo từng trường hợp để tách riêng hoặc nhập cả hai nội dung này, mục đích giảm bớt đi thủ tục tố tụng.

+ Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự: Khi lý do tạm đình chỉ không còn thì Thẩm phán phải ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự.

+ Đình chỉ giải quyết vụ án: Bổ sung thêm một số trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án như: Đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, HTX; nguyên đơn không nộp chi phí tố tụng; nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện.

– Phiên tòa sơ thẩm:

+ Về sự vắng mặt: Trước đây chưa quy định rõ, nhưng lần này BLTTDS 2015 quy định rõ, cụ thể về đương sự vắng mặt lần thứ nhất; Kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử, không hoãn phiên tòa.

+ Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm: Trước tiên là trình bày của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích của nguyên đơn trình bày trước, sau đó đến bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích của bị đơn); hỏi đáp tại phiên tòa theo thứ tự: nguyên đơn, bị đơn, người tham gia tố tụng khác, chủ tọa phiên tòa, hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên; tranh luận.

+ Tòa án có vai trò tổ chức, tạo điều kiện cho các đương sự thực hiện tranh tụng, không hạn chế thời gian. Tòa án có quyền dừng lại việc phát biểu những vấn đề không liên quan đến vụ án.

+ Tạm ngừng phiên tòa: Quy định mới là tạm ngừng trong thời hạn không quá 1 tháng và phải ghi vào biên bản phiên tòa trong trường hợp do tình trạng sức khỏe, do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan… (Khoản 1 Điều 259). Nếu quá thời hạn này thì Tòa tạm đình chỉ giải quyết vụ án.

+ Phát biểu của Kiểm sát viên: Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và của người tham gia tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.

– Phiên tòa phúc thẩm:

+ Giao nộp tài liệu, chứng cứ: Đương sự có quyền bổ sung tài liệu tài liệu, chứng cứ mới thì không cần giải thích lý do; nhưng với tài liệu, chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không giao nộp, thì nay giao nộp phải có lý do chính đáng.

+ Thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự: Vẫn có kháng cáo, kháng nghị xét xử theo các cấp.

– Giám đốc thẩm:

+ Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao xét xử giám đốc thẩm bằng HĐXX gồm 3 Thẩm phán; Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao xét xử giám đốc thẩm bằng HĐXX gồm 5 Thẩm phán.

+ Đối với vụ án có tính chất phức tạp (những vấn đề quy định trong vụ án chưa rõ ràng, chưa được hướng dẫn áp dụng; việc đánh giá chứng cứ còn nhiều ý kiến khác nhau; liên quan đến lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước, quyền con người, quyền công dân) thì phải xét xử tập thể là toàn thể Ủy ban Thẩm phán, Hội đồng Thẩm phán.

+ Điểm mới là khi xét xử giám đốc thẩm khi xét thấy cần thiết, Tòa án triệu tập đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự; người tham gia tố tụng khác có liên quan, nhưng nếu họ vắng mặt thì vẫn tiến hành phiên tòa.

+ BLTTDS năm 2015 cho phép giám đốc thẩm sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật với 2 điều kiện: Tài liệu, chứng cứ đã đầy đủ, rõ ràng, có đủ căn cứ để làm rõ các tình tiết trong vụ án và việc sửa bản án, quyết định bị kháng nghị không làm ảnh hướng đến quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.

– Việc dân sự:

+ Việc nộp đơn, thụ lý như quy định cho vụ án dân sự. Thời hạn giải quyết chung cho các việc dân sự là 01 tháng. Khi mở phiên họp có sự tham gia của Viện kiểm sát, nếu Viện kiểm sát vắng mặt vẫn tiếp tục xem xét giải quyết. Người yêu cầu, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo, VKS có quyền kháng nghị yêu cầu Tòa án trên một cấp trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm (trừ một số trường hợp).

+ Thuận tình ly hôn: Trước đây chưa quy định rõ trình tự, thủ tục thuận tình ly hôn. Chương 20 của BLTTDS 2015 đã quy định trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, theo đó Tòa án vẫn tiến hành hòa giải.

+ Theo BLTTDS năm 2015 thì ly hôn là thủ tục đặc thù có Tòa án chuyên trách riêng. Thẩm phán được phân công tìm hiểu quá trình dẫn đến ly hôn, sau đó hòa giải. Nếu hòa giải thành thì đình chỉ việc dân sự, nếu hòa giải không thành thì giải quyết ly hôn theo tố tụng dân sự.

– Công nhận thỏa thuận ngoài Tòa án:

+ Tòa án khuyến khích thương lượng, thỏa thuận ngoài Tòa án. Tòa án công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án với điều kiện: Các bên tham gia thỏa thuận có đầy đủ năng lực hành vi dân sự; là người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận; một hoặc hai bên có đơn yêu cầu Tòa án công nhận và nội dung thỏa thuận hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Người yêu cầu công nhận kết quả thỏa thuận ngoài Tòa án phải gửi đơn đến Tòa án trong thời hạn 6 tháng.

– Vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài:

+ Thời hạn: Quy định thời hạn dài hơn thủ tục thông thường. Khi gửi thông báo thụ lý vụ án thì Tòa án phải nêu rõ thời gian, địa điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, mở lại phiên họp hòa giải, mở phiên tòa và mở lại phiên tòa cho đương sự ở nước ngoài.

+ Tống đạt giấy tờ ra nước ngoài: Theo Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia; hoặc qua đường ngoại giao; bưu điện. Tống đạt giấy tờ cho công dân Việt Nam ở nước ngoài thì qua đường bưu điện hoặc cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài; đương sự ở nước ngoài nhưng có chi nhánh, văn phòng đại diện ở Việt Nam thì tống đạt qua văn phòng, đại diện đó hoặc qua người đại diện ở trong nước.

+ Các phương thức tống đạt trên không có kết quả thì Tòa án tiến hành niêm yết công khai tại trụ sở cơ quan đại diện của Việt Nam tại nước ngoài, Tòa án đang giải quyết vụ việc hoặc nơi cư trú cuối cùng của đương sự tại Việt Nam trong thời gian 1 tháng và thông báo trên cổng thông tin điện tử của Tòa án, của cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài hoặc có thể thông qua kênh phát thanh hoặc đài truyền hình dành cho người nước ngoài.

– Sự tham gia của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự.

+ Điều 21 BLTTDS 2015 quy định các trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa, phiên họp.

+ Kiểm sát hoạt động tư pháp từ khi Tòa án nhận đơn của đương sự cho đến khi giải quyết xong vụ án. Viện kiểm sát tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc đương sự là người chưa thành niên, người bị mất, hạn chế

+ Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.

+ Tất cả các phiên tòa sơ thẩm phải có Viện kiểm sát tham gia, nếu đại diện Viện kiểm sát vắng mặt thì Tòa vẫn xét xử.

+ Phiên tòa phúc thẩm: Nếu không có kháng nghị, Viện kiểm sát vắng mặt thì Tòa vẫn xử; nếu có kháng nghị thì phải có mặt của Viện kiểm sát thì Tòa mới xử.

+ Tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm: Nếu Viện kiểm sát vắng mặt thì Tòa không xử, hoãn phiên tòa.

– Kiểm sát viên:

+ Phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm: Kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ, yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ.

+ Phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm: Kiểm sát viên thu thập tài liệu, chứng cứ.

3. Nghị quyết hướng dẫn thi hành.

+ Đối với những vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động đã được Tòa án thụ lý trước ngày 01 tháng 7 năm 2016, nhưng kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016 mới giải quyết theo thủ tục sơ thẩm thì áp dụng các quy định của Bộ luật này để giải quyết;

+ Đối với những vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động đã được Tòa án giải quyết theo thủ tục sơ thẩm trước ngày 01 tháng 7 năm 2016, nhưng kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016 mới giải quyết theo thủ tục phúc thẩm thì áp dụng các quy định của Bộ luật này để giải quyết;

+ Đối với những bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động đã có hiệu lực pháp luật mà bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trước ngày 01 tháng 7 năm 2016 nhưng kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016 mới giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì áp dụng các quy định của Bộ luật này để giải quyết;

+ Đối với những bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động đã có hiệu lực pháp luật trước ngày 01 tháng 7 năm 2016 mà kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016 người có thẩm quyền kháng nghị mới kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, thì căn cứ để thực hiện việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và việc giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm được thực hiện theo quy định của Bộ luật này;

+ Đối với những vụ việc hôn nhân và gia đình đã được Tòa án thụ lý giải quyết trước ngày 01 tháng 7 năm 2016 thì Tòa án đã thụ lý tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không chuyển cho Tòa gia đình và người chưa thành niên giải quyết;

+ Khi giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, Tòa án tiếp tục áp dụng quy định của các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về án phí, lệ phí Tòa án, chi phí tố tụng khác cho đến khi có quy định mới của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Đối với vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì áp dụng mức án phí thấp hơn so với mức án phí áp dụng đối với vụ án giải quyết theo thủ tục thông thường./.

Nguyễn Thị Thu Hải (lược ghi)

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Việc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng xuất phát từ nhu cầu cần được bảo vệ của đương sự tại các phiên tòa. Theo quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2010 thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và được Toà án chấp nhận tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Việc được Tòa án chấp nhận ở đây được hiểu là bằng việc họ được cấp Giấy chứng nhận người bào chữa.

 

Tại Điều 61 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp phápcủa đương sự là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; khi có yêu cầu của đương sự và được Tòa án làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được quy định như sau:

“4. Khi đề nghị Tòa án làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người đề nghị phải xuất trình các giấy tờ sau đây:

a) Luật sư phải xuất trình các giấy tờ quy định tại khoản 2 Điều 27 của Luật luật sư;

b) Trợ giúp viên pháp lý hoặc người tham gia trợ giúp pháp lý xuất trình văn bản cử người thực hiện trợ giúp pháp lý của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc thẻ luật sư;

c) Công dân Việt Nam có đủ điều kiện quy định tại điểm c khoản 2 Điều này xuất trình giấy yêu cầu của đương sự và giấy tờ tùy thân.

5. Sau khi kiểm tra giấy tờ và thấy người đề nghị có đủ điều kiện làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều này thì trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề nghị, Tòa án phải vào sổ đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và xác nhận vào giấy yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Trường hợp từ chối đăng ký thì Tòa án phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người đề nghị”.

Thanh Huyền

 
 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

(Kiểm sát) – Cùng với việc kế thừa quy định về 3 biện pháp cưỡng chế đã có, gồm: áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản, BLTTHS năm 2015 bổ sung biện pháp cưỡng chế mới “phong tỏa tài khoản” nhằm mục đích đảm bảo hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Khác với các biện pháp ngăn chặn chỉ áp dụng với cá nhân thì biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản có thể áp dụng với bị can, bị cáo là pháp nhân thương mại để đồng bộ với Bộ luật hình sự 2015.

 

 

– Phong tỏa tài khoản có thể áp dụng đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, về tội mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tiền, tịch thu tài sản hoặc có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại và khi những người này có tài khoản tại tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc Nhà nước.

Ngoài ra, có thể áp dụng phong tỏa tài khoản của người khác nếu có căn cứ cho rằng số tiền trong tài khoản của người đó có liên quan đến hành vi phạm tội của người bị buộc tội

– Chỉ phong tỏa số tiền tương ứng với mức có thể bị tịch thu tài sản, phạt tiền hoặc bồi thường thiệt hại.

– Tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc nhà nước có nghĩa vụ thực hiện ngay việc phong tỏa khi nhận được lệnh phong tỏa tài khoản. Người được giao thực hiện lệnh phong tỏa, quản lý tài khoản bị phong tỏa nếu giải tỏa tài khoản thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.

Cũng như biện pháp kê biên tài sản, biện pháp phong tỏa tài khoản phải được hủy bỏ khi có căn cứ:

+ Đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ vụ án; đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án đối với bị can; bị cáo được Tòa án tuyên không phạm tội; bị cáo không bị phạt tiền, tịch thu tài sản và bồi thường thiệt hại.

+ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án thấy không còn cần thiết tiếp tục phong tỏa tài khoản nữa.

Xem chi tiết quy định tại Điều 129 và Điều 130 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016.

 

Điều 129. Phong tỏa tài khoản

1. Phong tỏa tài khoản chỉ áp dụng đối với người bị buộc tội về tội mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tiền, bị tịch thu tài sản hoặc để bảo đảm bồi thường thiệt hại khi có căn cứ xác định người đó có tài khoản tại tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc Nhà nước. Phong tỏa tài khoản cũng được áp dụng đối với tài khoản của người khác nếu có căn cứ cho rằng số tiền trong tài khoản đó liên quan đến hành vi phạm tội của người bị buộc tội.

2. Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra lệnh phong tỏa tài khoản. Lệnh phong tỏa tài khoản của những người được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải được thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành.

3. Chỉ phong tỏa số tiền trong tài khoản tương ứng với mức có thể bị phạt tiền, bị tịch thu tài sản hoặc bồi thường thiệt hại. Người được giao thực hiện lệnh phong tỏa, quản lý tài khoản bị phong tỏa mà giải tỏa việc phong tỏa tài khoản thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.

4. Khi tiến hành phong tỏa tài khoản, cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền phải giao quyết định phong tỏa tài khoản cho tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc Nhà nước đang quản lý tài khoản của người bị buộc tội hoặc tài khoản của người khác có liên quan đến hành vi phạm tội của người bị buộc tội. Việc giao, nhận lệnh phong tỏa tài khoản phải được lập thành biên bản theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này.

Ngay sau khi nhận được lệnh phong tỏa tài khoản, tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc Nhà nước đang quản lý tài khoản của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc tài khoản của người khác có liên quan đến hành vi phạm tội của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo phải thực hiện ngay việc phong tỏa tài khoản và lập biên bản về việc phong tỏa tài khoản.

Biên bản về việc phong tỏa tài khoản được lập thành năm bản, trong đó một bản được giao ngay cho người bị buộc tội, một bản giao cho người khác có liên quan đến người bị buộc tội, một bản gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, một bản đưa vào hồ sơ vụ án, một bản lưu tại tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc Nhà nước.



Điều 130. Hủy bỏ biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản

1. Biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản đang áp dụng phải được hủy bỏ khi thuộc một trong các trường hợp:

a) Đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án;

b) Đình chỉ điều tra đối với bị can, đình chỉ vụ án đối với bị can;

c) Bị cáo được Tòa án tuyên không có tội;

d) Bị cáo không bị phạt tiền, tịch thu tài sản và bồi thường thiệt hại.

2. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hủy bỏ biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản khi thấy không còn cần thiết.

Đối với biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản trong giai đoạn điều tra, truy tố thì việc hủy bỏ hoặc thay thế phải thông báo cho Viện kiểm sát trước khi quyết định.

N. Nguyễn

 
 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Tính lương làm thêm giờ: Vẫn còn rối

29/04/2014

Bộ luật Lao động (BLLĐ) đã được áp dụng thực hiện 20 năm với nhiều lần sửa đổi, bổ sung. Tuy nhiên, câu chuyện về cơ sở tính lương làm thêm giờ vẫn còn là dấu hỏi của nhiều người lao động. Họ chưa rõ tính lương làm thêm giờ dựa trên mức lương ghi trên hợp đồng lao động (HĐLĐ) hay lương thực trả theo tháng?

Nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, chúng tôi nhận thấy, hai cách tính lương làm thêm giờ nêu trên đều có cơ sở pháp lý để thực hiện.

1. Không sai khi tính lương làm thêm giờ theo mức lương ghi trong HĐLĐ

Theo quy định của luật thì: “Tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động để thực hiện công việc theo thỏa thuận”[1]. Theo đó, người sử dụng lao động có quyền lựa chọn hình thức trả lương cho người lao động theo các hình thức tiền lương theo thời gian (theo giờ, ngày, tuần hoặc theo tháng), sản phẩm hoặc khoán. Hình thức trả lương đã lựa chọn phải được duy trì trong một thời gian nhất định[2] . Mức tiền lương, hình thức trả lương… do hai Bên thỏa thuận sẽ được ghi trong HĐLĐ.

Trên cơ sở kế thừa quy định tại Điều 61, BLLĐ năm 1994 về tiền lương làm thêm giờ theo, BLLĐ năm 2012 quy định tiền lương làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm được trả cho người lao động theo đơn giá tiền lương hoặc công việc đang làm như sau: a) Vào ngày thường, ít nhất bằng 150% đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc đang làm; b) Vào ngày nghỉ hằng tuần, ít nhất bằng 200%; c) Vào ngày nghỉ lễ, ngày nghỉ có hưởng lương, ít nhất bằng 300% chưa kể tiền lương ngày lễ, ngày nghỉ có hưởng lương đối với người lao động hưởng lương ngày… Nếu làm việc vào ban đêm, thì được trả thêm ít nhất bằng 30% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc của ngày làm việc bình thường… ngoài ra, người lao động còn được trả thêm 20% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc làm vào ban ngày[3]

Nghị định số 49/2013/NĐ-CP ngày 14/5/2013 ban hành thay thế Nghị định số 114/2002/NĐ-CP không có quy định chi tiết về tiền lương theo thời gian được trả cho người lao động nhưng trên tinh thần nội dung của văn bản dưới luật mang tính chất hướng dẫn trước đây không trái với quy định của Bộ luật lao động hiện hành vẫn được áp dụng giải quyết. Vì vậy, cách tính đơn giá tiền lương vẫn có thể được áp dụng theo hướng dẫn của Nghị định số 114/2002/NĐ-CP.

Theo quy định tại khoản 1, Điều 7, Nghị định số 114/2002/NĐ-CP ngày 31/12/2002 (NĐ114), quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộluật lao động về tiền lương thì: Tiền lương theo thời gian được trả cho người lao động căn cứ vào thời gian làm việc thực tế, cụ thể là tiền lương giờ được trả cho một giờ làm việc xác định trên cơ sở tiền lương ngày chia cho số giờ tiêu chuẩn (8 giờ theo quy định tại Điều 104, BLLĐ năm 2012). Tiền lương ngày được trả cho một ngày làm việc xác định trên cơ sở tiền lương tháng chia cho số ngày làm việc tiêu chuẩn trong tháng theo quy định của pháp luật mà doanh nghiệp lựa chọn, nhưng tối đa không quá 26 ngày. Mà tiền lương tháng được trả cho một tháng làm việc xác định trên cơ sở hợp đồng lao động, tức là tính trên cơ sở tiền lương ghi trên hợp đồng lao động.

Như vậy, nếu trong điều kiện thời giờ làm việc bình thường (8 giờ/ngày và 48 giờ/tuần) và 26 ngày trong một tháng, đơn giá tiền lương giờ bằng tiền lương ghi trên hợp đồng lao độngchia cho 26 ngày làm việc chia cho 8 giờ tiêu chuẩn.

Thực tiễn cho thấy, rất nhiều doanh nghiệp và người lao động đã thỏa thuận về tiền lương được chia thành hai phần, một phần là một khoản lương được ghi trên HĐLĐ và một phần là những phụ cấp, trợ cấp lương không ghi trên HĐLĐ nhưng được thanh toán và ghi trong bảng lương hàng tháng.

Tuy còn ý kiến về việc người lao động bị ép buộc phải ký HĐLĐ với tiền lương được chia ra như nêu trên, nhưng nếu không có chứng cứ chứng minh sự ép buộc đó để cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuyên bố HĐLĐ vô hiệu (toàn bộ hoặc một phần) thì HĐLĐ đã ký là văn bản có giá trị pháp lý ràng buộc quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia. Do đó, trên cơ sở thỏa thuận này, doanh nghiệp không có gì sai khi áp dụng cách tính lương tăng ca trên cơ sở mức lương ghi trên HĐLĐ.

2. Hoàn toàn đúng khi yêu cầu tính lương làm theo giờ theo lương thực trả của tháng

Hiện nay, Thông tư số 13/2003/TT-BLĐTBXH (TT13) và Thông tư số 14/2003/TT-BLĐTBXH (TT14) cùng ban hành ngày 30/05/2003 đang có hiệu lực thi hành hướng dẫn thực hiện về tiền lương đối với người lao động làm việc trong doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc quốc tế tại Việt Nam. Theo đó, đối với lao động trả lương theo thời gian, nếu làm thêm ngoài giờ tiêu chuẩn thì doanh nghiệp phải trả lương làm thêm giờ theo cách tính sau:

Tiền lương làm thêm giờ = Tiền lương giờ thực trả x 150% (200%, 300%) x Số giờ làm thêm.

Trong đó, tiền lương giờ thực trả được xác định trên cơ sở tiền lương thực trả của tháng mà người lao động làm thêm giờ (điểm a, tiết 2, Mục V, Thông tư số 13/2003/TT-BLĐTBXH và điểm a, tiết 2, Mục V, Thông tư số 14/2003/TT-BLĐTBXH).

Như vậy, theo quy định tại các Thông tư này, không phụ thuộc vào mức lương ghi trên HĐLĐ, người lao động được tính lương tăng ca trên cơ sở tiền lương thực trả cho họ, tức là bao gồm khoản lương ghi trên HĐLĐ và tất cả phụ cấp, trợ cấp lương không ghi trên HĐLĐ nhưng được thanh toán và ghi trong bảng lương hàng tháng.

Do đó, trên những quy định này, người lao động hoàn toàn đúng khi yêu cầu tính lương tăng ca theo lương thực trả cho họ.

3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật lao động

Sẽ trở nên rối rắm khi phát sinh tranh chấp về lợi ích (tiền lương tăng ca) vì bên nào cũng cho rằng mình tuân thủ quy định của pháp luật. Xu hướng yêu cầu áp dụng cách tính lương tăng ca theo lương thực trả cho người lao động đang tăng lên bởi Thông tư hướng dẫn cách tính này đang có hiệu lực, còn cách tính lương tăng ca trên cơ sở mức lương ghi trên HĐLĐ chỉ được áp dụng trên tinh thần của Nghị định đã hết hiệu lực.

Tuy vậy, trong giới luật sư và doanh nghiệp, còn nhiều ý kiến không đồng tình với quy định tại Thông tư số 13/2003/TT-BLĐTBXH và Thông tư số 14/2003/TT-BLĐTBXH bởi những lý do sau: (i) Các Thông tư này đã đưa ra những quy phạm pháp luật mới (tiền lương thực trả của tháng), hoàn toàn không được quy định trong BLLĐ năm 2012 (tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc đang làm); (ii) Tinh thần nội dung của Nghị định số 114/2002/NĐ-CP ngày 31/12/2002 mang tính chất hướng dẫn không trái với quy định của BLLĐ hiện hành nên vẫn được áp dụng giải quyết. Mà theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 “trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn”[4], tức là buộc phải áp dụng các quy định của Nghị định. Vì vậy, các bên vẫn phải áp dụng cách tính lương tăng ca trên cơ sở mức lương ghi trên HĐLĐ. Nếu người lao động muốn được tính lương tăng ca theo lương thực trả thì họ phải thỏa thuận với doanh nghiệp ghi đầy đủ tiền lương trên HĐLĐ.

Thiết nghĩ, việc thỏa thuận với doanh nghiệp ghi đầy đủ tiền lương trên HĐLĐ là một việc khó bởi người lao động luôn là bên có vị thế yếu trong quan hệ lao động. Vì vậy, Chính phủ cần ban hành một Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 49/2013/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết về tiền lương trên tinh thần áp dụng cách tính lương tăng ca theo lương thực trả cho người lao động đang được quy định trong Thông tư số 13/2003/TT-BLĐTBXH và Thông tư số 14/2003/TT-BLĐTBXH./.

Nguyễn Bình An



[1]Khoản 1, Điều 90, Bộ luật lao động năm 2012

[2]Điều 94, Điều 95, Bộ luật lao động năm 2012

[3]Điều 97 Bộ luật lao động năm 2012

[4]Khoản 2, Điều 83, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Nhận diện về lao động cưỡng bức trong pháp luật lao động Việt Nam hiện hành

06/01/2015

Từ những nỗ lực không mệt mỏi trong cuộc chiến đấu loại bỏ lao động cưỡng bức (LĐCB), ngày 28/6/1930, Hội nghị Lao động Quốc tế đã thông qua Công ước số 29 về lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc (Công ước số 29) và Việt Nam đã là thành viên của Công ước này, đồng thời đang trong lộ trình xem xét để gia nhập Công ước số 105 về xóa bỏ LĐCB. Điều đó đặt ra yêu cầu “nội luật hóa” một cách đầy đủ nội dung của các công ước như là nghĩa vụ bắt buộc của một quốc gia thành viên. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đến vấn đề bảo vệ quyền con người, đặc biệt là quyền cơ bản của người lao động tại nơi làm việc. Chính vì vậy, nguyên tắc hiến định đã được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013: “Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc” và “nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động” . Tuy nhiên cho đến nay, sự nhận diện về LĐCB trong pháp luật Việt Nam để đảm bảo thực hiện nguyên tắc hiến định này vẫn là vấn đề cần được tiếp tục quan tâm trong lĩnh vực lập pháp. Trên phương diện pháp lý, LĐCB được nhận diện từ nhiều góc độ khác nhau, bằng các quy phạm pháp luật trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau tùy vào tính chất công việc mà người lao động phải thực hiện như: Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Phòng chống ma túy, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Lao động… Trong khuôn khổ bài viết, nhận diện LĐCB chỉ được đề cập trong phạm vi của pháp luật lao động.

1. Một số khái niệm

Lao động cưỡng bức trước đó đã được đề cập trong hệ thống pháp luật lao động Việt Nam. Bộ luật Lao động năm 1994 mặc dù quy định quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động làm việc theo hợp đồng có thời hạn, hợp đồng theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới mười hai tháng trong trường hợp bị cưỡng bức lao động, tuy nhiên, lại không đề cập đến khái niệm LĐCB. Tại khoản 1 Điều 11 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 09/5/2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động có quy định: “… Bị ngược đãi, cưỡng bức lao động là trường hợp người lao động bị đánh đập, nhục mạ hoặc ép buộc làm những công việc không phù hợp với giới tính, ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người lao động”. Theo đó, hai cụm từ “ngược đãi” và “cưỡng bức lao động” được giải thích ở đây theo hướng đồng nghĩa và sự giải thích này được đặt trong phạm vi giao kết và thực hiện hợp đồng lao động hơn là một định nghĩa.

So với khái niệm LĐCB được nêu trong Công ước số 29 về LĐCB hoặc bắt buộc của ILO[1] thì cách hiểu về LĐCB như vậy có nội hàm hẹp hơn rất nhiều. Về phạm vi, khái niệm LĐCB mà Công ước số 29 đưa ra không bó hẹp dưới dạng các hành động cụ thể là “đánh đập, nhục mạ hoặc bị ép buộc”, mà nó thể hiện dưới dạng cả đe dọa và cả hành động liên quan tới bạo lực hay hạn chế thân thể hoặc tước đoạt quyền tự do và các đặc quyền khác của người lao động. Về đối tượng của đe dọa hay áp dụng các hình phạt nhằm ép buộc người lao động phải làm những công việc mà bản thân họ không tự nguyện theo Công ước số 29 không chỉ đối với người lao động mà có thể đối với cả thân nhân họ.

Về công việc sử dụng LĐCB theo khái niệm của Công ước số 29 không chỉ bó hẹp là những việc làm hợp pháp trong hợp đồng lao động mà có thể là công việc bất hợp pháp và có thể không liên quan đến quan hệ lao động.

Lần đầu tiên, khái niệm cưỡng bức lao động được quy định tại Bộ luật Lao động năm 2012, theo đó “cưỡng bức lao động là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác nhằm buộc người khác lao động trái ý muốn của họ”[2]. Khái niệm này được xây dựng trên cơ sở khái niệm LĐCB hoặc bắt buộc theo Công ước số 29, tuy nhiên, vẫn có những điểm khác biệt và bất cập:

+ Nội hàm khái niệm hẹp hơn khi nhấn mạnh chủ yếu yếu tố không tự nguyện ở đây là do việc dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, trong khi thực tế có rất nhiều những dạng ép buộc, cưỡng bức khác.

+ Các “thủ đoạn khác” đã không được giải thích một cách rõ ràng nên rất khó xác định.

+ Công ước số 29 dùng thuật ngữ “một người phải thực hiện một công việc hoặc dịch vụ” bao gồm được cả trường hợp công việc hay dịch vụ đó có thể là hợp pháp hoặc có thể là bất hợp pháp. LĐCB do đó không được định nghĩa bằng tính chất của công việc (có thể hợp pháp hoặc không hợp pháp theo luật quốc gia) mà bằng tính chất của mối quan hệ giữa người thực hiện công việc và người hưởng lợi từ công việc. Khái niệm trong Bộ luật Lao động năm 2012 sử dụng thuật ngữ “lao động” thì hoạt động lao động của con người chỉ bao hàm những hoạt động tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội và thường đó là những hoạt động không bị pháp luật cấm. Với thuật ngữ này dễ dẫn đến cách hiểu LĐCB chỉ xảy ra khi một người phải thực hiện những công việc hợp pháp trái với ý muốn của họ, còn những công việc bất hợp pháp một người phải thực hiện ngoài ý muốn của họ không nằm trong nội hàm khái niệm LĐCB.

2. Ngoại lệ và những hình thức lao động cưỡng bức bị cấm

Các ngoại lệ và các hình thức LĐCB bị cấm trong pháp luật lao động Việt Nam chưa được quy định một cách hệ thống, rõ ràng, đầy đủ và đặc biệt không gắn với việc xác định nội hàm khái niệm chung về LĐCB được đề cập tại khoản 3 Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2012. Tuy nhiên, có thể thấy, rải rác trong các chế định và các văn bản quy định chi tiết thi hành Bộ luật này có chứa đựng các quy định liên quan đến việc xác định các hành vi thuộc ngoại lệ LĐCB được thực hiện và các hình thức LĐCB bị cấm trong quan hệ lao động. Cụ thể:

Các ngoại lệ LĐCB được phép tiến hành trong quan hệ lao động được đề cập tới như người sử dụng lao động có quyền yêu cầu người lao động làm thêm giờ vào bất kỳ ngày nào và người lao động không được từ chối trong các trường hợp thực hiện lệnh động viên, huy động bảo đảm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, an ninh theo quy định của pháp luật, thực hiện các công việc nhằm bảo vệ tính mạng con người, tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng ngừa và khắc phục hậu quả thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh và thảm họa; tham gia cấp cứu người lao động bị tai nạn lao động khi có yêu cầu của người sử dụng lao động; người lao động phải ngừng đình công, trở lại làm việc khi có quyết định hoãn hoặc ngừng đình công của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Về các hình thức LĐCB bị cấm, chúng tồn tại dưới dạng là những hành vi bị cấm một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, như cấm cản trở người lao động tự do lựa chọn việc làm, tự do chấm dứt việc làm theo quy định của pháp luật (chẳng hạn thông qua việc quy định các nguyên tắc giao kết hợp đồng, quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động, cấm giữ bản chính giấy tờ tùy thân, văn bằng, chứng chỉ của người lao động; cấm yêu cầu người lao động phải thực hiện biện pháp đảm bảo bằng tiền hoặc tài sản khác cho việc thực hiện hợp đồng lao động…); cấm ép buộc người lao động làm việc nhằm bóc lột vì lợi ích của người sử dụng (thông qua việc cấm bớt xén tiền lương, buộc người lao động phải lèm thêm giờ, làm việc trong tình trạng có nguy cơ xảy ra tai nạn lao động đe dọa đến sức khỏe, tính mạng của người lao động, giam giữ, đánh đập hoặc cưỡng bức…); cấm bắt buộc người lao động làm việc như một hình thức xử lý kỷ luật, như một biện pháp trừng phạt vì lý do đình công, như một biện pháp phân biệt đối xử; cấm LĐCB đối với trẻ em và đối với người lao động trong quan hệ cho thuê lại lao động)…

Về cơ bản, các ngoại lệ của LĐCB và các hình thức LĐCB bị cấm trong pháp luật lao động Việt Nam bảo đảm tính tương thích với pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, do chúng không được xây dựng gắn với khái niệm chung nên việc xác định những hành vi bị cấm hay những ngoại lệ được miễn trừ không có tính hệ thống, chưa thực sự đầy đủ, rõ ràng, đồng thời dẫn đến sự bất cập trong việc sử dụng mập mờ giữa các thuật ngữ “lao động cưỡng bức” và “lao động bắt buộc”, “cưỡng bức lao động” và “bắt buộc lao động”. Các quy định về điều kiện, đặc biệt là quyền lợi của người lao động khi bị áp dụng LĐCB trong các trường hợp được là hoàn toàn thiếu vắng. Các hành vi bị cấm gắn liền với việc điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội trong từng chế định của Bộ luật Lao động mà không nhằm mục đích xác định nội hàm khái niệm LĐCB, nên để nhận diện rõ ràng chúng về cả cơ sở pháp lý và thực tiễn là hết sức khó khăn và cần phải xem xét thêm những yếu tố khác nữa.

So với pháp luật của nhiều nước trên thế giới, điểm tiến bộ trong pháp luật Việt Nam dễ nhận thấy là cấm LĐCB đã được ghi nhận là một nguyên tắc hiến định. Điều đó thể hiện mức độ quan tâm và sự quyết tâm trong xóa bỏ các hình thức LĐCB bị cấm của Việt Nam. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện nguyên tắc hiến định này chưa được đầy đủ, bắt đầu từ việc nhận diện về LĐCB. So với pháp luật nhiều nước, pháp luật Việt Nam đã xây dựng khái niệm về LĐCB, song nội hàm khái niệm hẹp hơn và điều quan trọng nhất là không bao quát được đầy đủ bản chất của các hành vi CBLĐ khi mà thực tế ở Việt Nam các hành vi này có thể tồn tại ở dạng một người lao động phải thực hiện một công việc bất hợp pháp ngoài ý muốn của họ. Các ngoại lệ cũng như các hình thức LĐCB bị cấm cũng không được quy định một cách rõ ràng, gắn với khái niệm chung, vì vậy, việc nhận diện về LĐCB trong pháp luật Việt Nam chưa thực sự hiệu quả.

3. Một số kiến nghị

Trên cơ sở luật pháp quốc tế, tham khảo kinh nghiệm thực tiễn của các quốc gia thì việc nhận diện về LĐCB, bên cạnh một khái niệm chung cũng cần thiết quy định cụ thể các ngoại lệ và những hình thức LĐCB bị cấm gắn với việc xác định nội hàm khái niệm chung đó.

– Về khái niệm, cả hai Công ước quốc tế của ILO đã nhằm mục đích thiết lập một định nghĩa đủ rộng để bao quát tất cả các hoạt động lao động cưỡng bức hiện diện trong các vùng lãnh thổ khác nhau của thế giới, với các hình thức đặc thù khác nhau. Tuy nhiên, mỗi một quốc gia, vùng lãnh thổ lại có những hình thức lao động cưỡng bức khác nhau, xuất phát từ yếu tố lịch sử, truyền thống, kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau. Điều đó dẫn đến Công ước số 29 cho phép các quốc gia thực hiện sự điều chỉnh của luật pháp quốc gia, từ khái niệm cho đến các hình thức nhận diện phù hợp với thực trạng cưỡng bức lao động hiện có trên lãnh thổ của họ. Pháp luật quốc gia cần phân loại các hình thức LĐCB thực tế, có tính đến kinh tế, đặc điểm xã hội và văn hóa của bối cảnh dẫn đến hành vi này. Chỉ có điểm chung trong nghĩa vụ của các quốc gia là mục đích đảm bảo rằng thực tế LĐCB bị trừng phạt như một hành vi phạm tội, phù hợp với Điều 25 của Công ước số 29. Chính vì vậy, nếu luật pháp quốc gia sử dụng khái niệm LĐCB hoặc bắt buộc theo Công ước số 29 sẽ quá rộng và dẫn đến việc nhận diện về LĐCB hoặc bắt buộc khó khăn.

Pháp luật lao động Việt Nam có cần phân định giữa lao động cưỡng bức với lao động bắt buộc hay không? “Cưỡng bức” được hiểu là “dùng vũ lực hoặc thủ đoạn dồn người khác vào thế bắt buộc phải làm, dù không muốn cũng không được”[3] trong khi “bắt buộc” được hiểu là “buộc phải làm, phải chấp nhận”[4]. Như vậy, cưỡng bức và bắt buộc nếu xét về ý nghĩa ngôn từ có điểm chung là một người phải thực hiện công việc hoặc dịch dụ trong điều kiện họ không tự nguyện và mong muốn thực hiện nó. Tuy nhiên, cưỡng bức gắn với việc dùng vũ lực, đe dọa dung vũ lực hoặc các thủ đoạn một cách trực tiếp của con người dồn người khác vào thế phải làm, dù không muốn cũng không được. Nhưng bắt buộc thì thường áp lực là gián tiếp do ngoại cảnh, chẳng hạn một người bắt buộc phải thực hiện một công việc do điều kiện hoàn cảnh kinh tế – xã hội tại địa phương hay do khả năng và điều kiện của bản thân mà không thể có công việc khác hoặc không có sự lựa chọn nào khác tốt hơn dẫn đến họ phải thực hiện công việc. Và tại Văn kiện của Hội Quốc Liên, Điều B và C và tại Điều 5 của Công ước năm 1926 về chế độ nô lệcũng như được đề cập trong Công ước số 29 thì thuật ngữ “lao động cưỡng bức” thường gợi đến lao động bị cưỡng chế bởi các nhà chức trách hoặc tư nhântrong khi thuật ngữ “lao động bắt buộc” thường được dành riêng cho các dịch vụ có tính tập quán phục vụ mục đích công cộng địa phương nhiều hơn. Xét về thực tiễn ở Việt Nam, LĐCB không gắn với lao động gán nợ như ở Ấn Độ, không do Quân đội áp đặt như ở Myama, lao động công ích như một tập quán của cộng đồng, làng xã cũng đã được bãi bỏ. Hành vi cưỡng bức lao động ở đây chủ yếu là được thực hiện trực tiếp như trói buộc người lao động bằng các khoản nợ do người sử dụng lao động tạo ra lợi dụng hoàn cảnh đói nghèo hay sự thiếu hiểu biết của người lao động tương đồng với lao động bị cưỡng bức ở Pakistan hay ở Mỹ, hoặc là gắn với việc giam cầm, dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, hay đe dọa kỷ luật lao động, giữ lương, bản gốc văn bằng, chứng chỉ hoặc yêu cầu người lao động đặt cọc một khoản tiền hoặc các tài sản khác để đẩy người lao động vào hoàn cảnh không thể có cơ hội rời bỏ việc làm tương đồng với LĐCB phổ biến ở Nigeria. Và nếu trong quan hệ lao động, trường hợp một người buộc phải thực hiện một công việc do điều kiện hoàn cảnh kinh tế, xã hội tại địa phương hoặc do điều kiện bản thân của người lao động mà người lao động không thể có một sự lựa chọn nào khác thì không được coi là LĐCB.

Do vậy, trong điều kiện hoàn cảnh và thực tiễn của Việt Nam, thì việc dùng cụm từ “lao động cưỡng bức” mà không đi liền với “cụm từ lao động bắt buộc” là phù hợp. Tuy nhiên, cần thay cụm từ “lao động” trong khái niệm LĐCB được nêu tại khoản 10 Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2012 thành cụm từ “công việc”. Vẫn có thể giữ nguyên cụm từ “những thủ đoạn khác”, nhưng cụm từ này cần được làm rõ trong Nghị định quy định hướng dẫn thi hành bằng việc xác định cụ thể những hành vi được coi là biểu hiện của các hình thức LĐCB bị cấm.

– Về các ngoại lệ và hình thức lao động cưỡng bức bị cấm, bên cạnh việc xây dựng khái niệm LĐCB, đòi hỏi pháp luật lao động còn phải chỉ ra giới hạn của lao động cưỡng bức và các hình thức cưỡng bức lao động bị cấm. Bộ luật Lao động Việt Nam năm 2012 ngoài khái niệm về LĐCB ra cùng với một số quy định nhằm nội luật hóa Công ước số 29 và Công ước số 25, thì hầu như thiếu vắng quy định về các hình thức LĐCB bị cấm để nhận diện về hành vi này. Thực tế các hành vi bị cấm đối với người sử dụng lao động trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng lao động chính là các hình thức cưỡng bức hoặc bắt buộc lao động. Về lâu dài, cần có sự sửa đổi, bổ sung thêm các hình thức LĐCB hoặc bắt buộc khác có thể xảy ra trong quan hệ lao động tại Việt Nam.

LĐCB ở Việt Nam tuy không phổ biến như một số quốc gia có tính chất điển hình trên thế giới như Ấn Độ, Nepan, Pakistan, Nigeria, Mỹ, Brazil, Myamar… nhưng lại có xu hướng gia tăng và một số vụ việc xảy ra với hậu quả nghiêm trọng. Mặc dầu chưa có một điều tra tổng thể về LĐCB ở Việt Nam, tuy nhiên từ một số các vụ việc liên quan được phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng, có thể thấy, do chưa nhận diện đầy đủ về LĐCB, nên trong quan hệ lao động, các vụ việc về LĐCB rất ít khi được phát hiện, mà chủ yếu là những vụ việc nghiêm trọng trong hình sự và được xét xử dưới góc độ tội danh bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật[5]. Nguyên nhân cơ bản có thể là sự nhận diện của pháp luật nói chung, pháp luật lao động nói riêng đối với LĐCB, đặc biệt là những hành vi cụ thể được coi là thuộc các hình thức LĐCB bị cấm chưa được quy định rõ ràng. Để có đầy đủ cơ sở thực tiễn, bên cạnh cơ sở pháp lý quốc tế và các quy định của Hiến pháp, Việt Nam cần có một cuộc điều tra tổng thể về thực trạng LĐCB, đặc biệt là trong các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam để làm căn cứ xác định các hình thức cưỡng bức lao động đặc thù bị cấm trong thực tiễn quan hệ lao động ở Việt Nam, đồng thời, việc ban hành Nghị định quy định chi tiết thi hành Bộ luật Lao động năm 2012 về vấn đề này là có tính cấp thiết hiện nay./.

ThS. Phan Thị Thanh Huyền

Khoa Luật – Đại học Công đoàn



[1] Tại khoản 2, Điều 2, Công ước số 29 của ILO về LĐCB hoặc bắt buộc, LĐCB hay bắt buộc được hiểu là “tất cả các công việc hay dịch vụ mà một người bị ép buộc phải làm dưới sự đe doạ của một hình phạt nào đó mà người này không tự nguyện thực hiện”.

[2] Khoản 10, Điều 3, Bộ luật Lao động Việt Nam năm 2012.

[3] Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển học, NXB Đà Nẵng, 2009, trang 315.

[4] Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển học, NXB Đà Nẵng, 2009, trang 63.

[5] Điều 123 Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999, sửa đổi năm 2009.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bất cập trong thực hiện tuyển dụng không qua thi tuyển đối với công chức, viên chức

09/03/2015

Tuyển dụng là một yêu cầu cấp thiết và bắt buộc trong công tác quản lý, sử dụng công chức, viên chức. Để có được một đội ngũ công chức, viên chức đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới thì vai trò của công tác tuyển dụng và các cơ quan liên quan trong công tác tuyển dụng là rất quan trọng. Thời gian qua, Chính phủ đã ban hành rất nhiều văn bản pháp quy hướng dẫn thi hành Luật Cán bộ, công chức năm 2008, và Luật Viên chức năm 2010 nhằm cụ thể hóa các quy định của Luật, trong đó, đáng quan tâm nhất là Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức và Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng các Nghị định này và các văn bản có liên quan đã nảy sinh một số vướng mắc, bất cập cần được các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn, sửa đổi cho phù hợp, đặc biệt là trong việc áp dụng thực hiện tuyển dụng không qua thi tuyển đối với công chức, viên chức.

Thứ nhất, việc áp dụng các Nghị định số 29/2012/NĐ-CP, Nghị định số 24/2010/NĐ-CP bị “vướng” bởi các quy định tại Nghị định số 158/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 của Chính phủ quy định danh mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức và Nghị định số 150/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 158/2007/NĐ-CP. Theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 14 Nghị định số 29/2012/NĐ-CP về xét tuyển đặc cách đối với viên chức thì “người có kinh nghiệm công tác trong ngành, lĩnh vực cần tuyển dụng từ 03 năm trở lên, đáp ứng được ngay yêu cầu vị trí việc làm cần tuyển dụng”. Tuy nhiên, theo quy định tại Nghị định số 158/2007/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung) thì “thời hạn chuyển đổi vị trí công tác là 03 năm (đủ 36 tháng) đối với cán bộ, công chức, viên chức chuyên môn, nghiệp vụ có liên quan đến việc quản lý ngân sách, tài sản của Nhà nước, trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân“.Như vậy, một viên chức đã làm một công việc đủ 03 năm (đối với các vị trí thuộc danh mục phải chuyển đổi vị trí công tác) không thể có cơ hội để được tham gia xét tuyển đặc cách theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 14 Nghị định số 29/2012/NĐ-CP vì đã phải chuyển đổi vị trí công tác khác và như thế sẽ không đảm bảo yêu cầu về “kinh nghiệm” trong ngành, lĩnh vực cần tuyển dụng.

Tương tự như vậy, tại điểm c, khoản 1 điều 19 Nghị định số 24/2010/NĐ-CP hướng dẫn về trường hợp đặc biệt trong tuyển dụng quy định: “người có trình độ đào tạo từ đại học trở lên, có kinh nghiệm công tác trong ngành, lĩnh vực cần tuyển dụng từ 05 năm trở lên, đáp ứng được ngay yêu cầu vị trí việc làm cần tuyển dụng” thì sẽ được cơ quan có thẩm quyền xem xét tiếp nhận không qua thi tuyển đối với công chức. Như trên đã phân tích, trong trường hợp một công chức phải đảm nhận nhiệm vụ thuộc danh mục vị trí phải chuyển đổi vị trí công tác theo định kỳ thì khi chưa đủ thời gian 05 năm đã phải thực hiện việc chuyển đổi sang vị trí công tác mới và như vậy sẽ không thể đảm bảo yêu cầu về thời gian kinh nghiệm trong lĩnh vực công tác để được xem xét tuyển dụng, tiếp nhận không qua thi tuyển (sau 03 năm đã phải chuyển đổi vị trí công tác và phải thực hiện nhiệm vụ tại vị trí công tác mới). Việc quy định tại các văn bản như trên còn bất hợp lý, hạn chế trong quá trình áp dụng đối với một số trường hợp cụ thể như làm công tác kế toán, thanh tra…, hạn chế quyền lợi thiết thực của các đối tượng được thụ hưởng.

Theo chúng tôi, các cơ quan có thẩm quyền cần sớm nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan theo hướng “mở” đối với các đối tượng phải thực hiện chuyển đổi vị trí công tác. Theo đó, nên quy định “cộng dồn” và “bảo lưu” thời gian mà trước đây công chức, viên chức đã thực hiện nhiệm vụ tại các vị trí trước khi thực hiện việc chuyển đổi vị trí công tác để làm cơ sở cho việc xem xét tuyển dụng không qua thi tuyển đối với các trường hợp này. Như vậy, sẽ đảm bảo quyền lợi và chế độ, sự công bằng trong việc xét tuyển dụng giữa các trường hợp có liên quan. Cùng với đó, các cơ quan có thẩm quyền cũng nên quy định việc xem xét tuyển dụng không qua thi tuyển đối với công chức, viên chức chỉ áp dụng đối với trường hợp vì lý do đặc biệt mà các ngành, địa phương chưa tổ chức thi tuyển trong thời gian từ 03 năm trở lên, như vậy mới hợp lý và tránh được những hạn chế không đáng có trong công tác tuyển dụng công chức, viên chức.

Thứ hai, việc áp dụng các Nghị định số 29/2012/NĐ-CP, Nghị định số 24/2010/NĐ-CP có thể sẽ tạo ra “cục bộ” trong công tác tuyển dụng công chức, viên chức. Như đã nêu ở trên, một công chức, viên chức để được xem xét tuyển dụng không qua thi tuyển sẽ phải đáp ứng yêu cầu “03 năm kinh nghiệm … tại một vị trí đối với viên chức” và “05 năm kinh nghiệm … tại một vị trí đối với công chức”. Cùng với đó, theo quy định và tinh thần của các Nghị định về tuyển dung, quản lý, sử dụng công chức, viên chức thì việc tuyển dụng phải căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế của cơ quan sử dụng, cơ quan sử dụng có trách nhiệm xác định, mô tả vị trí việc làm, báo cáo cơ quan quản lý phê duyệt để làm căn cứ tuyển dụng. Như vậy, việc đăng ký nhu cầu tuyển dụng công chức, viên chức theo định kỳ hàng năm là phụ thuộc vào “ý chí chủ quan” của cơ quan sử dụng công chức, viên chức. Vấn đề đặt ra ở đây là, nếu các cơ quan sử dụng công chức, viên chức không xây dựng kế hoạch tuyển dụng hàng năm trình cơ quan có thẩm quyền để tiến hành tuyển dụng (trong khi đó chỉ tiêu biên chế vẫn còn và đang thực hiện chế độ hợp đồng lao động đối với một số trường hợp) thì giải quyết như thế nào???

Theo quy định hiện hành thì việc này là “phụ thuộc” vào cơ quan sử dụng công chức, viên chức. Điều này phù hợp với quy định trong việc thực hiện quyền tự chủ về kinh phí, biên chế… trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao. Và cứ như thế, các cơ quan sử dụng công chức, viên chức “đợi” cho các trường hợp đang thực hiện chế độ hợp đồng lao động đủ thời gian 03 năm đối với viên chức, 05 năm đối với công chức để đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, tuyển dụng không qua thi tuyển đối với các trường hợp này. Đây là vấn đề đã và đang nảy sinh trên thực tế, làm ảnh hưởng đến việc cạnh tranh và cơ hội để được tuyển dụng đối với các trường hợp khác (đặc biệt là đối với các sinh viên mới ra trường, các trường hợp chưa đủ điều kiện về thời gian kinh nghiệm trong lĩnh vực công tác). Từ đó, cơ hội để được cống hiến, cơ hội tìm việc làm trong các cơ quan nhà nước đối với các trường hợp sinh viên mới tốt nghiệp là rất thấp và khó khăn. Thiết nghĩ, các cơ quan chức năng có thẩm quyền sớm quan tâm xem xét, hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Cần phải có chế tài, cơ chế phù hợp để hạn chế “cục bộ” trong công tác tuyển dụng công chức, viên chức. Bắt buộc các cơ quan sử dụng công chức, viên chức phải thực hiện việc đăng ký nhu cầu tuyển dụng (nếu còn chỉ tiêu biên chế), nếu không thực hiện sẽ tiến hành giảm chỉ tiêu biên chế do chưa có nhu cầu và để chuyển chỉ tiêu biên chế sang cho cơ quan, đơn vị khác. Có như vậy, mới hạn chế được những bất cập trong công tác tuyển dụng, tạo cơ sở cho việc công khai, minh bạch trong công tác tuyển dụng công chức, viên chức và tăng cơ hội được tuyển dụng cho các trường hợp sinh viên mới tốt nghiệp.

Nguyễn Xuân Viễn

Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Vai trò của Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự trong công tác thi hành án dân sự tại khu vực phía Nam

20/11/2015

1. Cơ sở pháp lý của việc hình thành Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự

Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa IX ngày 6/10/1992 về việc bàn giao công tác thi hành án dân sự (THADS) từ Tòa án nhân dân sang Chính phủ, năm 1993, các địa phương đã thành lập Ban Chỉ đạo THADS (BCĐTHADS) để chỉ đạo việc bàn giao và chỉ đạo hoạt động THADS ở địa phương.

THADS là một công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi cấp ủy và chính quyền địa phương phải có nhận thức đúng đắn về vai trò, trách nhiệm của mình, sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất đối với công tác THADS. Tại Chỉ thị số 20/2001/CT-TTg ngày 11/9/2001 về việc “Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác THADS”, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo: “Để tăng cường hơn nữa hiệu quả công tác THADS, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện, do Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp làm Trưởng ban để chỉ đạo công tác THADS tại địa phương”.

Với vai trò là cơ quan quản lý công tác THADS, ngày 22/3/2002, tại Quyết định số 96/2002/QĐ-BTP, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành “Quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động của BCĐTHADS cấp tỉnh, huyện”. Trong đó, quy định BCĐTHADS có chức năng “tham mưu và giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp trong việc chỉ đạo công tác THADS; tổ chức phối hợp các cơ quan, đơn vị hữu quan với cơ quan thi hành án tại địa phương”.

Ngày 01/7/2008, tại Chỉ thị số 21/2008/CT-TTg về việc “Tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác THADS”, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục chỉ đạo: “BCĐTHADS các cấp làm tốt công tác tham mưu giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp và cấp trên tăng cường sự chỉ đạo phối hợp trong công tác THADS”.

Ngày 09/9/2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 74/2009/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS về cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS và công chức làm công tác THADS. Nghị định này cũng quy định Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Toà án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn hoạt động của BCĐTHADS.

Ngày 11/7/2011, Thông tư liên tịch số 14/2011/TTLT-BTP-BCA-BTC-TANDTC-VKSNDTC giữa Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã quy định và hướng dẫn chi tiết hoạt động của BCĐTHADS.

Điều 175 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định:“Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phối hợp với chấp hành viên và cơ quan THADS trong việc thông báo thi hành án, xác minh điều kiện thi hành án, áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án và các nhiệm vụ khác về THADS trên địa bàn”.

Như vậy, có thể nói, BCĐTHADS đã được thành lập từ năm 1993, song song đó, một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ra đời, liên tục sửa đổi, bổ sung nhằm đảm bảo hoạt động hiệu quả của BCĐTHADS các cấp. Ở địa phương, BCĐTHADS thường xuyên được kiện toàn ở hai cấp là tỉnh và huyện, đã phát huy vai trò tích cực trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác THADS, đặc biệt đối với các vụ án khó tại cơ sở. Điều này đã góp phần quan trọng vào kết quả thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan THADS.

2. Thực tiễn công tác thi hành án dân sự tại khu vực phía Nam và vai trò của Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự

Khu vực phía Nam (Khu vực) bao gồm 25 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung tương từ Phú Yên trở vào đến Cà Mau[1] là một địa bàn trọng điểm, năng động – nơi tập trung một khối lượng án lớn, có tính chất phức tạp, giá trị thi hành cao, lượng án thụ lý đầu vào tăng nhanh hàng năm và đặc biệt có liên quan đến các án về kinh tế, tranh chấp bất động sản, vay nợ ngân hàng…[2]. Do vậy, vị trí và vai trò của BCĐTHADS càng trở nên quan trọng và có ý nghĩa đối với công tác THADS nói riêng và đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của địa phương nói chung.

Cùng với sự phát triển của cơ quan THADS, BCĐTHADS hai cấp ở các địa phương trong Khu vực luôn được quan tâm kiện toàn. Đến nay, trong Khu vực, 25/25 tỉnh, thành phố, BCĐTHADS cấp tỉnh được thành lập và hoạt động khá hiệu quả,góp phần quan trọng vào kết quả công tác THADS trong thời gian qua. Về nhân sự, trưởng ban và các thành viên của BCĐTHADS được cơ cấu theo đúng quy định. Đối với cấp tỉnh, Chủ tịch hoặc 01 Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân làm Trưởng ban. Ở nhiều địa phương, Trưởng ban do Chủ tịch đảm nhiệm, thể hiện sự quan tâm của địa phương đối với công tác này[3]; Cục trưởng Cục THADS làm Phó Trưởng ban. Các thành viên gồm: Đại diện lãnh đạo Sở Tư pháp, Sở Tài chính, Sở Tài nguyên và Môi trường, Công an tỉnh. BCĐTHADS cấp huyện do Chủ tịch hoặc 01 Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện làm Trưởng ban. Chi cục trưởng Chi cục THADS làm Phó Trưởng ban. Các ủy viên gồm: Đại diện lãnh đạo Phòng Tư pháp, Phòng Tài chính, Phòng Tài nguyên và Môi trường, Công an huyện và một số cơ quan tổ chức có liên quan ở cấp tương đương làm ủy viên BCĐTHADS trong một số trường hợp cần thiết.

Cùng với việc kiện toàn và sửa đổi quy chế làm việc cho phù hợp với tình hình thực tế, hầu hết BCĐTHADS các địa phương đã tham mưu cho Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành công văn, chỉ thị về tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác THADS theo nội dung tinh thần Công văn số 156 – CV/BCS ngày 25/12/2014 của Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp về việc đề nghị phối hợp lãnh đạo, chỉ đạo công tác Thi hành án dân sự.

Tại Khu vực, các BCĐTHADS hoạt động tương đối năng động và hiệu quả. Hoạt động phối hợp giữa BCĐTHADS với các cơ quan, tổ chức hữu quan khác tại mỗi tỉnh, thành phố cũng có sự gắn kết mạnh mẽ, giúp công tác THADS tiếp tục đạt được nhiều thành công. Mặc dù các thành viên phải làm việc kiêm nhiệm, BCĐTHADS không thường xuyên hoạt động, nhưng sự chỉ đạo và sức ảnh hưởng đến công tác THADS tại địa phương rất lớn, kết luận mang tính quyết định trong giải quyết các vụ việc phức tạp, khó thi hành và có ảnh hưởng tới an ninh trật tự, kinh tế, chính trị, xã hội ở địa phương. BCĐTHADS trong phạm vi chức năng và nhiệm vụ, quyền hạn của mình đã phát huy tối đa vai trò phối hợp của các cấp, các ngành trong hoạt động chỉ đạo công tác THADS và tôn trọng hoạt động nghiệp vụ của cơ quan THADS theo quy định của pháp luật. Trong những tháng đầu năm 2015, tại một số tỉnh trong Khu vực, BCĐTHADS đã tiến hành họp đột xuất, trực tiếp cho ý kiến giải quyết nhiều vụ việc khó khăn, phức tạp, khó thi hành[4].

Tùy vào tình hình thực tế của địa phương, BCĐTHADS có những cách chỉ đạo, phối hợp khác nhau đem lại hiệu quả thiết thực cho công tác THADS. Long An và TP. Hồ Chí Minh là những địa phương có cách làm hay, được xem là “điểm sáng” về công tác tham mưu và hoạt động của BCĐTHADS. Cụ thể:

– Tại TP. Hồ Chí Minh:Hoạt động của BCĐTHADS rất đa dạng, không chỉ dừng lại ở việc chỉ đạo phối hợp, chỉ đạo các vụ việc cưỡng chế mà còn thực hiện với vai trò là một bộ phận tham mưu, giúp cho Lãnh đạo Ủy ban nhân dân thành phố trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác THADS tại địa phương. Theo đó, các hoạt động trong công tác THADS như: Kiện toàn bộ máy và tổ chức cán bộ, bố trí mặt bằng xây dựng trụ sở, kho vật chứng, tài chính… đều được Lãnh đạo Ủy ban nhân dân thành phố chỉ đạo triển khai thực hiện bằng các đề án. Hàng năm, bên cạnh việc cấp kinh phí cho hoạt động của BCĐTHADS theo quy định của pháp luật, Ủy ban nhân dân thành phố còn cấp thêm kinh phí để chi trả cho phụ cấp kiêm nhiệm của các thành viên BCĐTHADS hai cấp. Điều này tạo thêm động lực không nhỏ cho hoạt động của BCĐTHADS. Bên cạnh đó, để giải quyết một lượng án lớn có hiệu quả, BCĐTHADS cũng đã có ý kiến đề nghị Ủy ban nhân dân thành phố về đề án của Cục THADS thành phố trong việc cho phép tuyển và chi trả lương cho một số hợp đồng lao động ngoài biên chế của Tổng Cục THADS giao.

– Tại Long An: Hoạt động chỉ đạo, điều hành đối với công tác THADS của BCĐTHADS có thể xem là mô hình mới, hiệu quả trong Khu vực. Cấp ủy, chính quyền địa phương xác định công tác THADS là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị từ tỉnh xuống cơ sở (xã, ấp).

Tại cấp tỉnh, kết quả công tác THADS hàng năm được xem là một trong những những tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các cấp ủy và chính quyền cấp huyện. Mỗi thành viên trong BCĐTHADS tỉnh đều được phân công phụ trách từng địa bàn huyện.

Tại cấp huyện, hàng năm, cấp ủy, Ủy ban nhân dân cấp huyện khi giao chỉ tiêu nhiệm vụ cho cấp xã đều có chỉ tiêu về kết quả công tác THADS. BCĐTHADS có sự phân công cụ thể từng thành viên phụ trách địa bàn cấp xã. Trưởng BCĐTHADS cấp huyện có thông báo lịch cố định hàng tuần gửi đến cấp xã trong việc phối hợp giữa chấp hành viên với Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc xác minh, giải quyết án và trực tiếp cùng Lãnh đạo Cục THADS kiểm tra công tác THADS ở một số xã trong huyện. Hàng tuần, thành viên BCĐTHADS dành một ngày để xuống địa bàn (kết hợp cùng Chi Cục trưởng) để chỉ đạo vận động và giải quyết việc thi hành án. Vụ việc nào khó khăn, vướng mắc thì chỉ đạo trực tiếp giải quyết tại chỗ. Hàng tháng, Ủy ban nhân dân huyện họp mở rộng đều có báo cáo kết quả về công tác THADS, Chủ tịch UBND huyện sẽ chỉ đạo trực tiếp cho thủ trưởng các ngành liên quan để phối hợp giải quyết ngay những vụ việc có khó khăn, vướng mắc.

Tại cấp xã, Đảng ủy xã đưa chỉ tiêu công tác THADS vào Nghị quyết của Đảng ủy để tập trung chỉ đạo. Ủy ban nhân dân cấp xã thành lập Tổ vận động giải quyết THADS do Chủ tịch xã làm tổ trưởng, các thành viên gồm có đại diện Mặt trận Tổ quốc, công an, địa chính, tư pháp xã. Hàng tuần, chấp hành viên lên lịch phối hợp với Tổ để làm việc và giải quyết trực tiếp với đương sự, danh sách án trên địa bàn được Chi cục THADS thường xuyên cập nhật gửi cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã biết để chủ động phối hợp. Ủy ban nhân dân xã giao cho Trưởng ấp tham gia phối hợp hỗ trợ chấp hành viên xác minh, động viên người phải thi hành án trên địa bàn. Trường hợp vận động, thuyết phục lần đầu chưa đạt kết quả, Tổ vận động vẫn sẽ tiếp tục vận động, thuyết phục dù không có chấp hành viên cùng tham gia nhưng vẫn đem lại kết quả, đặc biệt là những vụ việc có giá trị thi hành thấp thì ở nhiều địa phương cấp xã, kết quả thi hành xong đạt 100%. Công tác vận động, thuyết phục trong thi hành án đã được chú trọng và tổ chức thực hiện đến ấp, khu phố, tiếp cận giải thích pháp luật, phân tích thiệt hơn trong việc tự nguyện hay bị cưỡng chế, dùng tình cảm phân tích “tình làng, nghĩa xóm”, phân tích động viên hai bên đương sự thỏa thuận theo hướng đôi bên cùng có lợi…

Mô hình hoạt động của BCĐTHADS tỉnh Long An đã đem lại hiệu quả thiết thực đối với công tác THADS tại địa phương. Từ thực tiễn mô hình này, có thể rút ra một số bài học như sau:

Một là,để đảm bảo hiệu quả bền vững, công tác THADS phải được xác định là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị từ cấp tỉnh đến cơ sở.

Hai là, áp dụng mô hình này, chấp hành viên không phải đơn độc khi thực hiện nhiệm vụ tại địa bàn. Việc tổ chức thi hành án được công khai minh bạch, Chủ tịch cấp xã, Trưởng ấp và các tổ chức chính trị tại địa phương nắm rõ nội dung vụ việc cùng phối hợp với chấp hành viên tổ chức thi hành.

Ba là, việc phân loại án chính xác hơn do địa phương nắm được cụ thể những vụ việc nào có điều kiện thi hành. Từ đó, THADS cũng đạt được kết quả như mong muốn, hạn chế lượng án tồn đọng.

Bốn là, nắm bắt kịp thời tâm tư,nguyện vọng của người được thi hành án người phải thi hành án để thuyết phục, vận động tự nguyện thi hành, làm giảm đi mức độ phức tạp, phải sử dụng đến việc cưỡng chế ở địa phương.

Hiệu quả mô hình phối hợp của BCĐTHADS tỉnh Long An được phản ánh rõ nét qua kết quả thi hành về việc cũng như về giá trị khá bền vững. Hàng năm, số vụ việc phải thi hành của Cục THADS tỉnh Long An gần 30.000 việc nhưng tỷ lệ giải quyết đạt được tương đối cao[5]; số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo giảm đáng kể[6]. Riêng trong 09 tháng năm 2015, toàn tỉnh chỉ thụ lý 18 việc khiếu nại và 02 việc tố cáo, tất cả đều được xem xét, giải quyết kịp thời.

3. Một số hạn chế, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của BCĐTHADS trong Khu vực vẫn còn tồn tại một số hạn chế, khó khăn cần khắc phục như sau:

Một là, nhận thức vai trò của cấp ủy, chính quyền về công tác THADS ở một số địa phương còn chưa đầy đủ, chưa xác định công tác THADS là nhiệm vụ chung của các ngành, các cấp ở địa phương. Nhiều địa phương, cơ quan THADS chưa làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy, Ủy ban nhân dân và BCĐTHADS cùng cấp, chưa thực sự chủ động trong công tác phối hợp với các cơ quan trong khối nội chính, đặc biệt là các cơ quan thường xuyên phối hợp như: Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, công an; chất lượng tham mưu còn hạn chế.

Hai là, thành viên của BCĐTHADS giữ những vị trí lãnh đạo chủ chốt quan trọng, nhiều công việc, hoạt động với chế độ kiêm nhiệm nên không có nhiều thời gian dành cho công tác THADS. Do vậy, nhiều nơi, BCĐTHADS hoạt động chưa thật sự có hiệu quả.

Ba là, kinh phí hoạt động của BCĐTHADS chủ yếu được trích từ ngân sách địa phương, không có nguồn nào khác bổ sung. Việc chi trả phụ cấp kiêm nhiệm và chế độ bồi dưỡng cưỡng chế THADS khi tham gia cưỡng chế THADS cho các thành viên BCĐTHADS do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định theo quy định của pháp luật. Vì vậy, các địa phương vùng xa thu ngân sách còn hạn hẹp, nên việc cấp kinh phí hoạt động cho BCĐTHADS chỉ thực hiện ở cấp tỉnh và một số thị xã, thành phố trung tâm trực thuộc tỉnh, còn lại về cơ bản vẫn khó khăn.

Với vai trò tích cực của BCĐTHADS trong công tác THADS như đã phân tích, ở địa phương nào BCĐTHADS hoạt động tốt thì hiệu quả công tác THADS ở địa phương đó đạt cao, việc thực thi pháp luật được đảm bảo thực hiện, các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, các tổ chức và công dân được bảo vệ, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; ngược lại, nơi nào cấp ủy, chính quyền chưa thực sự quan tâm thì kết quả thi hành án có hạn chế. Vì vậy, có thể coi việc tiếp tục kiện toàn hoạt động của BCĐTHADS là một trong những giải pháp căn cơ, có tính bền vững để đưa công tác THADS phát triển, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình hiện tại và những năm tiếp theo. Để làm được điều này, các địa phương cần phải:

Thứ nhất,về nhận thức, cần xác định công tác THADS là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị từ cấp tỉnh đến cơ sở. Đồng thời, giữa các Cục THADS, các BCĐTHADS trong Khu vực nên có sự trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm để nhân rộng những cách làm hay trong hoạt động của BCĐTHADS để vận dụng vào điều kiện thực tiễn tại địa phương mình.

Thứ hai,Bộ Tư pháp và Tổng Cục Thi hành án dân sự cần nghiên cứu, xem xét có thể trích từ nguồn thu phí hàng năm của cơ quan thi hành án để chi trả phụ cấp kiêm nhiệm cho thành viên BCĐTHADS, hỗ trợ hoạt động của BCĐTHADS nhất là các địa phương còn khó khăn. Từ đó, đặt ra quy chế giữa Bộ Tư pháp và Tổng Cục THADS với BCĐTHADS cấp tỉnh nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động của BCĐTHADS tại các địa phương.

ThS. Mai Thị Thuỳ Dung

Cục Công tác phía Nam, Bộ Tư pháp



[1]Theo Quyết định số 1684/QĐ-BTP ngày 05/7/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Công tác phía Nam.

[2]Trong 03 năm (2012, 2013 và 2014) số lượng thụ lý vụ việc luôn tăng theo hàng năm. Cụ thể: Năm 2012 (379.397 vụ), năm 2013 (438.551 vụ),năm 2014 (473.368 vụ); về giá trị: Năm 2012 (34.356.878.373 đồng), năm 2013 (51.131.309.212 đồng), năm 2014 (66.609.047.248 đồng). Trong 09 tháng đầu năm 2015, tổng số việc và giá trị phải thi hành của Khu vực chiếm 61.67% về việc và 70.44% về giá trị trên tổng số phải thi hành của cả nước.

[3]Một số tỉnh trong Khu vực, Trưởng BCĐTHADS do Chủ tịch tỉnh đảm nhiệm: Sóc Trăng, Vĩnh Long, Phú Yên, Tiền Giang, Đồng Nai.

[4](i) Lãnh đạo Ủy ban nhân dân Bà Rịa – Vũng Tàuvà BCĐTHADS đã có buổi làm việc về công tác THA, nắm bắt tình hình chỉ đạo hoạt động nhằm giải quyết một số vụ việc khó khăn của các đơn vị trên địa bàn tỉnh. (ii) BCĐTHADS tỉnh Lâm Đồng họp 02 lần chỉ đạo giải quyết vụ bà Hồng và Công ty Phương Trang. (iii) BCĐTHADS tỉnh Hậu Giang tổ chức họp 03 lần xử lý 12 vụ việc có khó khăn, vướng mắc; BCĐTHADS tỉnh Sóc Trăng tiến hành 19 cuộc họp và đưa ra ý kiến chỉ đạo giải quyết 18 vụ việc; Cà Mau, Cần Thơ… sau khi họp BCĐTHADS có thông báo kết luận cho ý kiến giải quyết các vụ việc bằng văn bản.

[5]Tỷ lệ giải quyết xong so với chỉ tiêu được giao của tỉnh Long An qua các năm: Năm 2012: Về việc (đạt 85,96%/88% được giao); về giá trị (đạt 75,34%/77% được giao). Năm 2013: Về việc (đạt 83,82%/88% được giao), về giá trị (đạt 76,81%/ 77% được giao). Năm 2014: Về việc (đạt 88,20%/88% được giao), về giá trị (đạt 79,90%/83% được giao).

[6] Năm 2012: 79 việc, năm 2013: 50 việc (43 việc khiếu nại và 07 việc tố cáo), năm 2014: 42 việc (36 việc khiếu nại và 06 việc tố cáo).

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bàn về khái niệm “Luật có mối quan hệ mật thiết nhất” trong quan hệ hợp đồng

13/08/2015

Xác định luật áp dụng điều chỉnh quan hệ hợp đồng có tính chất quốc tế (hợp đồng có yếu tố nước ngoài) là một vấn đề pháp lý khá phức tạp không chỉ dưới góc độ pháp lý mà cả trong trong thực tiễn. Một trong những nguyên tắc cơ bản để xác định luật áp dụng đối với hợp đồng được quy định trong Tư pháp quốc tế các nước hiện nay là nguyên tắc “Luật có mối quan hệ mật thiết nhất” với hợp đồng áp dụng trong trong trường hợp các bên không thỏa thuận chọn luật áp dụng.

Đây là một nguyên tắc phổ biến trong hệ thống pháp luật các nước và pháp luật quốc tế , nhưng chưa từng được quy định trong pháp luật Việt Nam. Cho đến bản Dự thảo Bộ Luật Dân sự (sửa đổi) để lấy ý kiến nhân dân năm 2015 , tại Phần thứ V về áp dụng pháp luật đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, khoản 1 Điều 702 về hợp đồng, Dự thảo lần đầu tiên đã quy định nguyên tắc này như sau: “Các bên trong quan hệ hợp đồng được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng đối với hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này. Trường hợp các bên không có thỏa thuận về pháp luật áp dụng, pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng đó được áp dụng”.

Nguyên tắc “luật có mối liên hệ mật thiết nhất” là một hệ thuộc khá đặc thù và trừu tượng trong tư pháp quốc tế, việc giải thích và áp dụng hệ thuộc luật này ở các nước cũng khá phức tạp, đặc biệt tại Việt Nam do chưa được nghiên cứu về lý luận cũng như áp dụng trong thực tiễn. Vì vậy, bài viết này sẽ nghiên cứu tìm hiểu khái niệm luật có mối quan hệ mật thiết nhất theo các quy định của luật pháp quốc tế, trên cơ sở tìm hiểu thực tiễn giải thích và áp dụng hệ thuộc luật này ở các nước nhằm đóng góp kinh nghiệm cho việc giải thích áp dụng quy định này tại Việt Nam trong tương lai.

1. Đặt vấn đề

Dưới góc độ lý luận của Tư pháp quốc tế, việc xác định luật áp dụng điều chỉnh các quan hệ pháp luật có xung đột (các quan hệ có liên quan đến nhiều hệ thống pháp luật khác nhau) luôn dựa trên nguyên tắc là áp dụng hệ thống pháp luật có mối liên hệ mật thiết nhất với quan hệ pháp luật đó (most closely). Nguyên tắc này được áp dụng trước hết xuất phát từ chính đặc trưng của Tư pháp quốc tế là ngành luật luôn mang tính khách quan, trung lập trong việc xây dựng các quy phạm chọn luật áp dụng (quy phạm xung đột) điều chỉnh các quan hệ của Tư pháp quốc tế[1].

Đặc biệt, các quan hệ hợp đồng có tính chất quốc tế (còn gọi là hợp đồng có yếu tố nước ngoài) là loại quan hệ khá phức tạp do liên quan đến nhiều bên ở các nước khác nhau. Khác với các hợp đồng nội địa (chỉ chịu sự điều chỉnh của một hệ thống pháp luật trong nước), các hợp đồng có tính chất quốc tế có thể được điều chỉnh bởi hai hoặc nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, không chỉ bao gồm hệ thống pháp luật quốc gia mà cả hệ thống pháp luật quốc tế). Do vậy, trong trường hợp các bên không thỏa thuận, việc xác định luật áp dụng đối với hợp đồng quốc tế được đặt ra.

Để hiểu về khái niệm Luật có mối liên hệ mật thiết nhất trong quan hệ hợp đồng có thể xem xét tình huống Tranh chấp Hợp đồng phân phân phối dầu nhớt nêu dưới đây:

Công ty X (Việt Nam) ký kết một hợp đồng làm đại lý phân phối dầu nhớt với công ty Y (Singapore) là bên phân phối độc quyền. Dầu nhớt được sản xuất tại Italia bởi nhà sản xuất (công ty M). Theo thỏa thuận trong hợp đồng, bên Việt Nam (công ty X) được phân phối dầu nhớt tại Việt Nam trong thời hạn 3 năm và có trách nhiệm xây dựng hệ thống khách hàng tại Việt Nam.

Tuy nhiên, sau 02 năm, công ty (Y) có hành vi cung ứng các mẫu mã hàng mới (có thay đổi về kiểu dáng vỏ hộp), khiến khách hàng tại thị trường Việt Nam không tiếp tục sử dụng loại sản phẩm mới này gây thiệt hại cho việc kinh doanh của X tại Việt Nam. Giả sử tranh chấp được đưa ra cơ quan tài phán Việt Nam, theo đó bên công ty X (Việt Nam) yêu cầu bên phân phối phải bồi thường thiệt hại.

Trong hợp đồng, các bên cũng không có thỏa thuận vấn đề chọn luật áp dụng giải quyết tranh chấp. Vấn đề pháp lý đặt ra đối với cơ quan tài phán là luật nào sẽ là luật được áp dụng để giải quyết tranh chấp hợp đồng? Luật nào được coi là luật có mối liên hệ mật thiết nhất với hợp đồng này?

Như vậy, đối với các hợp đồng có tính chất quốc tế, việc xác định luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng có ý nghĩa hết sức cần thiết bởi đây là cơ sở đảm bảo cho các cam kết, thỏa thuận của các bên được tôn trọng thực hiện, trong trường hợp hợp đồng quy định thiếu, không đầy đủ hoặc không rõ ràng… luật điều chỉnh hợp đồng cũng có ý nghĩa hoàn thiện hợp đồng. Đặc biệt, xác định luật áp dụng đối với hợp đồng có ý nghĩa quan trọng là cơ sở giải quyết các tranh chấp hợp đồng như trong các tình huống trên.

2. Hệ thuộc luật có mối quan hệ mật thiết nhất trong pháp luật và thực tiễn quốc tế

Dưới góc độ của luật pháp quốc tế, mô hình xác định luật áp dụng điều chỉnh quan hệ hợp đồng là luật có mối liên hệ mật thiết nhấtlần đầu xuất hiện tại Công ước Rome năm 1980 về Luật áp dụng đối với quan hệ nghĩa vụ hợp đồng của Hội đồng châu Âu[2] (Công ước Rome năm 1980). Tại Điều 4.1 Công ước Rome năm 1980 quy định về luật áp dụng đối với hợp đồng trong trường hợp các bên không thỏa thuận, theo đó: “Trong trường hợp các bên không thỏa thuận chọn luật áp dụng theo Điều 3 của công ước thì hợp đồng được điều chỉnh bởi luật có mối quan hệ gắn bó nhất với hợp đồng”.

Để xác định luật có mối liên hệ mật thiết nhất, Điều 4 Công ước Rome năm 1980 đã quy định các trường hợp xác định luật áp dụng đối với các hợp đồng cụ thể – các giả định (presumtion) theo đó đối với các hợp đồng cung ứng dịch vụ hoặc hợp đồng mua bán là “luật nơi cư trú của bên thực hiện nghĩa vụ đặc trưng” (khoản 2 Điều 4); đối với hợp đồng sử dụng bất động sản và quyền sở hữu đối với bất động sản“là luật nơi có bất động sản”(khoản 3 Điều 4); đối với hợp đồng vận tải là “luật nơi có trụ sở chính của bên vận chuyển”nếu đó cũng đồng thời là nước nơi bốc, xếp hàng và là nơi có trụ sở của bên giao hàng trong các hợp đồng vận tải (khoản 4 Điều 4). Tuy nhiên, tại khoản 5 Điều 4 lại đưa ra một trường hợp ngoại lệ không áp dụng các khoản 2, 3, 4 Điều 4 nói trên: “Nếu mọi yếu tố xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể cho thấy hợp đồng có mối liên hệ mật thiết với một hệ thống pháp luật khác”.

Thực tiễn áp dụng Công ước Rome năm 1980 đã gây ra nhiều tranh cãi khi Tòa án giải thích khái niệm luật có mối liên hệ mật thiết nhất với hợp đồng. Có thể xem xét thực tiễn án lệ áp dụng giải thích việc xác định luật có mối liên hệ mật thiết nhất ở các nước trong hai vụ việc sau:

Một là,vụ tranh chấp hợp đồng mua bán

Tranh chấp trong một hợp đồng mua bán hàng hóa được ký giữa một công ty X (Phần Lan) bên bán và công ty Y bên mua tại Pháp. Theo hợp đồng, công ty X mua bảo hiểm cho việc vận chuyển lô hàng của công ty Tapiola (công ty Đức). Tapiola chỉ định công ty Westra (Đức) có trách nhiệm giao hàng cho công ty vận tải (Danzas) của Pháp để giao cho người mua tại Pháp. Tuy nhiên, tranh chấp phát sinh khi lô hàng bị mất. Tapiola phải trả một khoản tiền bảo hiểm trị giá 68.360 USD cho người mua bảo hiểm nên đã khởi kiện 2 công ty Westra và Danzas vì việc mất hàng.

Tranh chấp được giải quyết tại Tòa án Pháp, các bên không có thỏa thuận về chọn luật áp dụng nên thẩm phán tòa Tối cao Pháp đã căn cứ vào khoản 1 Điều 4 Công ước Rome 1980 quy định rằng: “…hợp đồng được điều chỉnh bởi luật có mối quan hệ gắn bó nhất với hợp đồng”. Để xác định luật được coi là có mối liên hệ mật thiết nhất với hợp đồng này, thẩm phán đã áp dụng phối hợp khoản 2 Điều 4 và khoản 5 Điều 4 Công ước Rome 1980 để so sánh các yếu tố được coi là có mối liên hệ mật thiết nhất với hợp đồng. Thẩm phán cho rằng, hàng hóa được vận chuyển đến Pháp bởi công ty vận tải (Danzas) của Pháp, việc giao hàng cũng thực hiện tại Pháp, nên áp dụng khoản 5 Điều 4 Công ước Rome năm 1980 và luật được coi là có mối liên hệ mật thiết nhất là luật của Pháp[3].

Hai là,tranh chấp hợp đồng tư vấn giữa Ennstone Building Products Limited và Stanger Limited (Stanger Limited)

Trong vụ kiện hợp đồng được ký năm 1995, giữa công ty Ennstone Building Products Limited là một công ty của Anh (Nguyên đơn) và công ty Stanger Limited (Bị đơn) – công ty của Anh nhưng có trụ sở tại Scottland, liên quan đến cung ứng đá xây dựng giữa nguyên đơn là bên cung cấp đá cho các công trình xây dựng, bị đơn là bên cung cấp các dịch vụ về kiểm định chất lượng và tư vấn xây dựng.

Tranh chấp phát sinh khi nguyên đơn cung cấp đá cho công trình xây dựng tòa nhà the Standard Life building ở Edinburgh không đạt chất lượng yêu cầu. Tranh chấp được đưa ra Tòa án Anh. Một trong những vấn đề đặt ra với Tòa án là xác định pháp luật áp dụng đối với hợp đồng giữa các bên.

Kết luận cuối cùng thẩm phán đã chấp nhận áp dụng luật Anh là luật có mối liên hệ mật thiết nhất với hợp đồng, với lập luận rằng:

Hợp đồng có nhiều mối liên hệ với cả luật Scotland và luật của Anh… Mặc dù hợp đồng được soạn thảo, thông qua tại Scottland, nơi thực hiện một phần hợp đồng là nơi thanh toán các khoản phí dịch vụ tại Scotland, nhưng việc tư vấn về chất lượng đá xây dựng và các báo cáo đều được gửi về trụ sở chính của công ty tại Anh nên luật Anh được coi là có mối liên hệ gắn bó[4].

Do vậy luật được coi là có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng phải là luật Anh theo Điều 4, 5 Công ước Rome năm 1980.

Điều 4 của Công ước Rome năm 1980 đã gây nhiều tranh cãi trong lý luận cũng như thực tiễn giải quyết tranh chấp về luật áp dụng đối với hợp đồng trong trường hợp các bên không thỏa thuận chọn luật. Đặc biệt, quy định này đã gây khó khăn cho việc xác định luật có mối quan hệ gắn bó nhất đối với hợp đồng trong thực tiễn, vì mặc dù Công ước đã đưa ra các giả định xác định luật có mối quan hệ gắn bó trong các loại hợp đồng cụ thể tại khoản 2, 3, 4 nhưng các giả định này sẽ không được áp dụng nếu cơ quan tài phán chứng minh được một hệ thống pháp luật khác được coi là có mối quan hệ mật thiết hơn trong hợp đồng.

Quy định của khoản 5 Điều 4 Công ước Rome năm 1980 đã tạo ra cho thẩm phán một khoảng quyền hạn khá rộng trong việc xét các yếu tố được coi là có mối liên hệ mật thiết nhất với một hợp đồng cụ thể. Thẩm phán có thể không áp dụng các trường hợp giả định đã quy định đối với các hợp đồng cụ thể như hợp đồng mua bán, hợp đồng vận tải hay hợp đồng liên quan đến bất động sản theo các khoản 2, 3, 4 Điều 4 Công ước.

Như vậy, khái niệm luật nơi hợp đồng được coi là có mối liên hệ mật thiết nhất trong pháp luật và thực tiễn quốc tế về cơ bản được giải thích là nước nơi thường trú hoặc nơi có trụ sở của bên thực hiện nghĩa vụ đặc trưng[5] vào thời điểm giao kết hợp đồng. Việc xác định nơi thực hiện nghĩa vụ đặc trưng sẽ tùy thuộc vào từng loại hợp đồng cụ thể như hợp đồng mua bán sẽ áp dụng luật của bên bán, hợp đồng phân phối áp dụng luật của bên phân phối, hợp đồng vận tải áp dụng luật của bên vận tải…[6]

Để khắc phục điểm hạn chế của Công ước Rome năm 1980, ngày 17/6/2008 Hội đồng và Nghị viện EU đã ban hành Quy tắc (EC) số 593/2008, còn gọi là Quy tắc Rome I về luật áp dụng đối với nghĩa vụ hợp đồng[7] thay thế Công ước Rome năm 1980.

Một trong những điểm thay đổi của Quy tắc Rome I so với Công ước Rome 1980 trước đây là Quy tắc Rome I đã xây dựng các quy định để xác định luật có mối liên hệ mật thiết nhất trong quan hệ hợp đồng rõ ràng, hiệu quả hơn, nâng cao tính chắc chắn, ổn định của quy định này, trên cơ sở xác định lần lượt thứ tự ưu tiên của luật được coi có mối quan hệ mật thiết nhất với hợp đồng.

Cụ thể, khoản 1 Điều 4 Quy tắc Rome I quy định luật áp dụng đối với hợp đồng trong trường hợp các bên không thỏa thuận thông qua một hệ thống các quy tắc chọn luật áp dụng chặt chẽ và rõ ràng cho 8 loại hợp đồng cụ thể tại với tính chất đây là các hệ thống pháp luật được coi là có mối quan hệ gắn bó nhất[8]. Chỉ trong trường hợp, hợp đồng không thuộc 8 loại hợp đồng quy định tại khoản 1 hoặc trong trường hợp các yếu tố của hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi nhiều hơn một điểm (a) đến (h) của khoản 1 thì luật áp dụng mới được xác định theo khoản 2 Điều 4 dựa trên tiêu chí là luật nước nơi thực hiện nghĩa vụ đặc trưng. Như vậy, nếu đã xác định hợp đồng thuộc khoản 1 thì không được giải thích tùy nghi luật nơi thực hiện nghĩa vụ đặc trưng theo khoản 2 nữa.

Trường hợp rõ ràng từ tất cả các tình tiết của hợp đồng được coi là có quan hệ chặt chẽ hơn với một quốc gia khác theo quy định tại khoản 1 hoặc 2 Điều 4 pháp luật của nước khác đó sẽ được áp dụng.

Tóm lại, quy định của Điều 4 Quy tắc Rome I đã lần lượt xác định thứ tự ưu tiên của các luật được coi là có mối quan hệ mật thiết nhất với hợp đồng, Quy tắc Rome I đã loại trừ điều khoản cho phép xác định tùy nghi luật có mối liên hệ mật thiết nhất[9] như mô hình của Công ước Rome 1980 trước đây.

3. Kinh nghiệm đối với Việt Nam

Tiếp thu kinh nghiệm của pháp luật quốc tế, trong Dự thảo Bộ Luật Dân sự (sửa đổi) quy định về hợp đồng tại Điều 702,theo đó khoản 1 chỉ rõ: “Trường hợp các bên không có thỏa thuận về pháp luật áp dụng, pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng đó được áp dụng”. Cách quy định này có thể gây lúng túng cơ quan tài phán ngay khi phải xác định luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng khi đưa vị trí ưu tiên áp dụng luật có mối liên hệ mật thiết nhất lên khoản 1, vì quy định này đã đưa một nguyên tắc trừu tượng, chưa có tiền lệ tại Việt Nam. Do đó, cơ quan tài phán có thể bỏ qua khoản 1 và dựa vào khoản 2 Điều 702 Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) để tìm cách giải thíchvề luật được coi là có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng lần lượt trong 5 loại hợp đồng cụ thể là:

– Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa là pháp luật của bên bán;

– Đối với hợp đồng dịch vụ là pháp luật của bên cung cấp dịch vụ;

– Đối với hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ là pháp luật của bên nhận quyền;

– Đối với hợp đồng lao động là pháp luật nước nơi thực hiện công việc hoặc luật nước nơi người sử dụng lao động thường trú;

– Đối với hợp đồng tiêu dùng là pháp luật nước nơi người tiêu dùng thường trú;

Tuy nhiên, khoản 3 Điều 702 Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) lại quy định các trường hợp loại trừ không áp dụng khoản 2 trên đây trong 3 trường hợp sau:

Thứ nhất, trường hợp một hợp đồng thuộc nhiều loại được nêu từ điểm a đến điểm đ khoản 2 Điều này dẫn đến nhiều hệ thống pháp luật khác nhau có thể được áp dụng. Ví dụ nếu luật của bên bán là nước có nhiều hệ thống có thể được áp dụng như trong vụ việc áp dụng luật Anh hay Scotland nói trên thì lại phải xác định luật có mối liên hệ mật thiết nhất trong hai hệ thống này.

Thứ hai, hợp đồng không thuộc 5 loại hợp đồng nêu tại Khoản 2 thì thẩm phán sẽ chủ động xác định thế nào là luật có mối quan hệ mật thiết nhất trong tình huống cụ thể.

Thứ ba, nếu trong một vụ việc cụ thể, Tòa án chứng minh được pháp luật của nước khác với pháp luật được nêu tại khoản 2 Điều này có mối liên hệ gắn bó hơn với hợp đồng đó thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nướccó mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng đó.

Như vậy, khoản 3 Điều 702 của Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) đã theo hướng tiếp tục mở rộng thẩm quyền cho cơ quan tài phán trong việc giải thích và áp dụng nguyên tắc “Luật có mối liên hệ mật thiết nhất” theo mô hình của Công ước Rome 1980 hiện đã thay thế bởi Quy tắc Rome I năm 2008 nói trên.

Qua phân tích nội dung quy định của Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi), có thể trở lại ví dụ tình huống tranh chấp hợp đồng phân phối dầu nhớt của doanh nghiệp Việt Nam nói trên để minh chứng cho việc áp dụng quy định này như sau:

Trong vụ việc này, Tòa án Việt Nam nếu áp dụng khoản 2 Điều 702 thì luật áp dụng trong tranh chấp hợp đồng là luật của bên phân phối (Distributer). Trong tình huống này bên phân phối gồm hai công ty: công ty Y (Singapore) là bên phân phối độc quyền của nhà sản xuất (công ty M), công ty Italia. Trên thực tế, việc sản xuất dầu nhớt là tại Italia, nhưng việc thay đổi mẫu mã, sản phẩm lại được thực hiện bởi Đại lý (nhà phân phối Singapore). Nói cách khác công ty Singapore có hành vi trà trộn sản phẩm không chính hãng vào bán tại thị trường Việt Nam, gây thiệt hại cho doanh nghiệp Việt Nam.

Do vậy, Tòa án phải xác định luật có mối liên hệ mật thiết nhất với hợp đồng theo Khoản 3 điều 702 Dự thảo mà không phải là khoản 2. Điều này sẽ gây khó khăn cho Tòa án trong việc giải thích Khoản 3 trong tình huống này, trên cơ sở phân tích các yếu tố có mối liên hệ mật thiết nhất. Thực tiễn các nước có thể sử dụng nguồn án lệ để giải thích vấn đề này, tuy nhiên, tại Việt Nam sẽ gặp khó khăn cho cơ quan tài phán trong việc xác định luật áp dụng trong các tình huống cụ thể.

Tóm lại, việc xác định luật có mối liên hệ mật thiết nhất đối với hợp đồng trong thực tiễn sẽ tùy thuộc vào cách áp dụng và giải thích pháp luật của cơ quan tài phán, một mặt quy định của Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) sẽ mở rộng thẩm quyền cho thẩm phán nhưng đồng thời cũng gặp những khó khăn. Do vậy, tác giả tiếp tục đề xuất Ban Soạn thảo tiếp tục hoàn thiện quy định này theo hướng như sau:

Thứ nhất, nên sửa đổi cho phù hợp với Quy tắc Rome I, cụ thể rõ ràng hơn, theo thứ tự ưu tiên các luật được coi là có mối liên hệ mật thiết nhất, theo đó đưa khoản 2 Điều 702 thành khoản 1 Điều này.

Thứ hai, do Việt Nam chưa có nguồn án lệ về vấn đề này, nên Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) bổ sung một số tiêu chí để xác định luật có mối liên hệ mật thiết nhất. Cụ thể, quy định việc xác định luật của nước nơi có quan hệ gắn bó nhất được xác định trên cơ sở đánh giá mối liên hệ giữa toàn bộ các yếu tố của quan hệ cụ thể, bao gồm yếu tố các bên, đối tượng hợp đồng, nơi giao kết, thực hiện nghĩa vụ đặc trưng trong hợp đồng, nơi phát sinh tranh chấp (nơi có hành vi vi phạm hợp đồng) và các yếu tố khác có liên quan.

Việc đánh giá mối liên hệ này phải tính đến sự hài hòa về lợi ích, luật pháp của các nước có liên quan, nhưng cốt lõi là bảo vệ sự công bằng giữa các bên tham gia quan hệ, bảo vệ lợi ích của bên bị thiệt hại (trừ trường hợp do lỗi của bên đó), bảo vệ được lợi ích của bên “yếu hơn” trong hợp đồng. Các yếu tố sự thuận lợi trong việc xác định pháp luật áp dụng và việc áp dụng pháp luật đó cũng có thể tính tới nhưng đóng vai trò thứ yếu.

Thứ ba, cần sớm công nhận các án lệ trọng tài, án lệ quốc tế và khuyến khích công tác nâng cao nghiệp vụ, chất lượng xét xử cho Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Tiếp tục hoàn thiện các luật có liên quan như Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2011, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và các luật chuyên ngành khác, thống nhất về các nguyên tắc xác định luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng có yếu tố nước ngoài.

Bùi Thị Thu

Khoa Pháp luật quốc tế, Đại học Luật Hà Nội



[1]Xem Điều 2 Luật về áp dụng luật với các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài của Trung Quốc;Điều 1186Xác định pháp luật điều chỉnh quan hệ pháp luật dân sự của Nga; Điều 2 Bộ luật Tư pháp quốc tế Bungari về nguyên tắc quan hệ mật thiết nhất; Điều 17 Luật Tư pháp quốc tế Bỉ; Điều 15 Luật Tư pháp quốc tế Thụy sỹ…

[2]Công ước Rome số 80/934/ECC về luật áp dụng với các nghĩa vụ hợp đồng ngày 19/6/1980 (Convention on the law applicable to contractual obligations), có hiệu lực ngày 1/4/1991 (còn gọi là Công ước Rome năm 1980).

[3]Danzas et Westra c. Tapiola (Com. 19 décembre 2006), La Cour de Cassation, Chambre commerciale, financière et économique, 24 juin 2003, pourvoi n° 01-12.839.

[4] Royal Courts of Justice Strand, London, WC2A 2LL 28 June 2002, Case No: A1/2002/0023 England and Wales Court of Appeal (Civil Division) Decisionshttp://www.bailii.org/ew/cases/EWCA/Civ/2002/916.html

[5] Nguyên bản:The law of the country where the party required to effect the characteristic performance of the contract has his habitual residence”.

[6]Nicky Richardson – “The Concept of Characteristic Performance and the Proper Law Doctrine” Bond Law Review: Vol. 1: Iss. 2, Article 9 (1989) p 284-288.

[7] Regulation (EC) no 593/2008 of the European Parliament and of the Council of 17/6/2008 on the law applicable to contractual obligations (Rome I). Theo quy định tại Điều 29 của Quy định Rome I thì quy định này sẽ có hiệu lực và được áp dụng từ ngày 17/12/2009. Quy định Rome I sẽ ràng buộc toàn bộ và trực tiếp áp dụng tại các quốc gia thành viên (trừ Đan Mạch).

[8] Khoản 1 Điều 4 Quy tắc Rome I quy định về luật áp dụng trong trường hợp không có sự lựa chọn:

“1. Trong phạm vi mà luật áp dụng cho hợp đồng đã không được lựa chọn phù hợp với Điều 3 và không ảnh hưởng đến các Điều 5-8, luật điều chỉnh hợp đồng được xác định như sau:

(a) Một hợp đồng mua bán hàng hoá được điều chỉnh bởi pháp luật của nước mà người bán có nơi thường trú;

(b) Một hợp đồng cung cấp dịch vụ sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật của nước nơi mà các nhà cung cấp dịch vụ có nơi thường trú;

(c) Hợp đồng liên quan đến vật quyền vớibất động sản hoặc thuê bất động sản sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật nước nơi có tài sản;

(d)Hợp đồng thuêbất động sản cho sử dụng riêng tạm thời trong thời gian không quá sáu tháng liên tục sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật của nước nơi chủ bất động sản thường trú,

(f) Hợp đồng phân phối sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật của nước nơi mà các nhà phân phối có nơi thường trú;

(g) Hợp đồng mua bán hàng đấu giá sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật của nước nơi cuộc đấu giá diễn ra, nếu một nơi như vậy có thể được xác định;

(h) Hợp đồng mua, bán quyền lợi tài chính, theo quy định của Điều 4 (1), điểm (17) của Chỉ thị 2004/39/EC, phù hợp với quy định không tùy nghi và chi phối bởi một luật duy nhất, sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật đó”.

[9] Khoản 2, 3, 4 Điều 4 Quy tắc Rome I quy định:

“2. Trường hợp hợp đồng không thuộc khoản 1 hoặc trong trường hợp các yếu tố của hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi nhiều hơn một điểm (a) đến (h) của khoản 1, hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật của nước nơi bên được yêu cầu thực hiện hoạt động đặc trưng của hợp đồng có nơi thường trú.

3. Trường hợp rõ ràng từ tất cả các tình tiết của hợp đồng được coi là có quan hệ chặt chẽ hơn với một quốc gia khác với chỉ dẫn ghi trong đoạn 1 hoặc 2, pháp luật của nước khác đó sẽ được áp dụng.

4. Trường hợp pháp luật không thể được xác định theo khoản 1 hoặc 2, hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật của nước mà nó có quan hệ chặt chẽ nhất.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Giải quyết tranh chấp lao động ở Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

01/10/2015

Với lịch sử phát triển của Luật Lao động Hoa Kỳ cho thấy, những quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp lao động bao gồm cả cơ chế giải quyết tranh chấp lao động của Nhà nước và tư nhân, trong đó khuyến khích cơ chế giải quyết tư nhân, đồng thời cũng đảm bảo hài hòa giữa tính bắt buộc và tính tự nguyện trong giải quyết tranh chấp lao động. Đây là những yếu tố có thể tham khảo trong việc thiết lập các cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

1. Cơ chế giải quyết tranh chấp lao động ở Hoa Kỳ

1.1. Những đặc trưng cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tại Hoa Kỳ

Thứ nhất, cơ chế giải quyết tranh chấp tư nhân được ưu tiên hơn cơ chế giải quyết tranh chấp nhà nước

Phần lớn các nước trên thế giới hiện nay có xu hướng vừa duy trì các cơ chế giải quyết tranh chấp lao động của Nhà nước, vừa thừa nhận và khuyến khích các cơ chế giải quyết tranh chấp lao động do các bên tranh chấp tự thiết lập[1]. Ở Hoa Kỳ, cơ chế giải quyết tranh chấp tư nhân đóng vai trò quan trọng hơn so với cơ chế giải quyết tranh chấp của Nhà nước. Cơ chế giải quyết tranh chấp do các bên tự thiết lập được khuyến khích vì những lý do sau:

– So với cơ chế giải quyết tranh chấp do Nhà nước thiết lập, các cơ chế do các bên thỏa thuận tỏ ra phù hợp với hoàn cảnh thực tế và yêu cầu của các bên tranh chấp;

– Cơ chế giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận có ưu điểm đó là được tự do lựa chọn người giải quyết tranh chấp có kiến thức, kinh nghiệm trên cơ sở sự tin tưởng của cả hai bên;

– Các cơ chế giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận góp phần ngăn ngừa và hạn chế các “hành động công nghiệp” (được hiểu là các hành động của 01 trong 02 bên nhằm gây sức ép với bên còn lại như đình công, bế xưởng của bên người lao động hay việc cho thôi việc hàng loạt, cấm tăng ca của bên người sử dụng lao động). Với ý nghĩa đó, cơ chế giải quyết tranh chấp này vừa tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, vừa giúp giảm bớt gánh nặng của Nhà nước trong việc hỗ trợ, can thiệp giải quyết các “hành động công nghiệp”.

Nhiều nước trên thế giới đã có những biện pháp khác nhau để khuyến khích cơ chế giải quyết tranh chấp lao động có tính tư nhân. Những biện pháp là ghi nhận cơ chế trong pháp luật lao động; quy định bắt buộc các bên phải thỏa thuận về cơ chế giải quyết tranh chấp trong thỏa ước lao động tập thể (có nước yêu cầu thỏa ước tập thể phải quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp nói chung, nhưng có nước chỉ đòi hỏi thỏa ước lao động tập thể có quy định về giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng thỏa ước hoặc các tranh chấp về lợi ích[2]); sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý lao động. Tại Hoa Kỳ, do coi trọng cơ chế giải quyết tranh chấp tư nhân, cơ quan trung gian và hòa giải liên bang (Federal Mediation and Conciliation Service) đã thực hiện nhiều chương trình hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho các cơ chế giải quyết tranh chấp lao động mang tính tư nhân.

Thứ hai, tính tự nguyện của cơ chế giải quyết tranh chấp lao động được đề cao.

Trong cơ chế giải quyết tranh chấp lao động, yếu tố bắt buộc và tự nguyện phụ thuộc vào quan điểm của Nhà nước. Nhà nước càng tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên và khuyến khích việc giải quyết tranh chấp thông qua thỏa thuận, yếu tố tự nguyện càng được đề cao. Trái lại, nếu Nhà nước càng nhấn mạnh mục tiêu ngăn ngừa các hành động công nghiệp thì yếu tố bắt buộc càng biểu hiện rõ nét[3]. Điều cần chú ý là, cơ chế giải quyết tranh chấp của Nhà nước không nhất thiết phải là cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc. Ở Hoa Kỳ, thủ tục hòa giải và trọng tài do các cơ quan giải quyết tranh chấp của Nhà nước tiến hành có tính tự nguyện rất cao[4]. Trong khi đó, thủ tục giải quyết tranh chấp bằng cơ quan giải quyết tranh chấp do các bên thiết lập cũng có thể hàm chứa yếu tố bắt buộc. Bởi như đã nêu trên, pháp luật nhiều nước đòi hỏi các bên phải thỏa thuận về phương thức giải quyết tranh chấp lao động khi ký kết thỏa ước lao động tập thể hoặc phải thiết lập cơ quan giải quyết tranh chấp trong doanh nghiệp.

Đối với hòa giải bắt buộc, là trường hợp các bên tranh chấp không có quyền lựa chọn việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp và không được thỏa thuận về cách thức tiến hành hòa giải. Còn trường hợp các bên tranh chấp có quyền định đoạt việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp hoặc có thể thỏa thuận về cách thức tiến hành hòa giải, đó là hòa giải tự nguyện.

1.2. Nhận định một số đặc điểm trong cơ chế giải quyết tranh chấp lao động ở Hoa Kỳ

Nghiên cứu những đặc trưng của cơ chế giải quyết tranh chấp lao động của Hoa Kỳ cho thấy:

Thứ nhất, cơ chế giải quyết tranh chấp lao động ở Hoa Kỳ dựa trên sự phân biệt hai loại tranh chấp: Tranh chấp về quyền và tranh chấp về lợi ích. Phương thức chủ yếu để giải quyết tranh chấp về lợi ích là thương lượng tập thể. Nếu không giải quyết được tranh chấp qua thương lượng, thông thường các phương thức có tính hỗ trợ như trung gian hay hòa giải sẽ được sử dụng. Trong khi đó, tranh chấp lao động về quyền chủ yếu được giải quyết thông qua thủ tục giải quyết khiếu nại (grievances) hoặc trọng tài và đôi khi được đưa đến Tòa án để giải quyết[5].

Thứ hai, cơ chế giải quyết tranh chấp lao động ở Hoa Kỳ có tính tự nguyện cao. Ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt khi tranh chấp lao động xảy ra trong khu vực nhà nước, các bên tranh chấp có toàn quyền trong việc lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp, phương thức giải quyết tranh chấp, cũng như trình tự, thủ tục tiến hành giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, cơ chế giải quyết tranh chấp ở Hoa Kỳ cũng hàm chứa một số yếu tố có tính bắt buộc.

Theo Luật Quan hệ lao động quốc gia năm 1935 (NLRA), thương lượng tập thể là trách nhiệm của người sử dụng lao động và đại diện của tập thể lao động. NLRA cũng có những quy định về các nội dung bắt buộc của thương lượng tập thể (mục 158 (d)). Tuy vậy, tính tự nguyện vẫn là yếu tố nổi trội, bởi lẽ các bên tranh chấp hoàn toàn tự do trong việc quyết định trình tự và cách thức tiến hành thương lượng tập thể, và điều quan trọng là Nhà nước hiếm khi can thiệp vào nội dung của thương lượng tập thể. Khi thương lượng tập thể bất thành, ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt, người lao động và người sử dụng lao động được toàn quyền lựa chọn phương thức để giải quyết dứt điểm tranh chấp lao động. Hơn nữa, pháp luật Hoa Kỳ cũng không đòi hỏi các bên phải tìm ra được giải pháp cuối cùng cho những vấn đề thương lượng.

Thứ ba, cơ chế giải quyết tranh chấp lao động của Hoa Kỳ dựa trên việc sử dụng đa dạng nhiều phương thức giải quyết tranh chấp. Tranh chấp lao động tập thể về quyền có thể được giải quyết thông qua thủ tục khiếu nại, trọng tài hay Tòa án. Trong khi đó, tranh chấp lao động tập thể về lợi ích thường được giải quyết bằng thương lượng, trung gian hay hòa giải. Đối với tranh chấp lao động tập thể xảy ra trong khu vực nhà nước, trọng tài bắt buộc hoặc điều tra sự việc cũng có thể được áp dụng. Trong những thập niên gần đây, phương thức trọng tài tự nguyện với phán quyết có tính khuyến nghị hay bắt buộc cũng bắt đầu được sử dụng rộng rãi để giải quyết các tranh chấp lao động tập thể về lợi ích trong khu vực tư nhân. Tính đa dạng còn thể hiện ở chỗ, pháp luật không đặt ra một trình tự giải quyết tranh chấp lao động tập thể chung, thống nhất mà để cho các bên tranh chấp tự thỏa thuận và quyết định vấn đề này (thường là trong thỏa ước lao động tập thể). Chính vì vậy, cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tập thể của các doanh nghiệp, các ngành kinh tế – kỹ thuật khác nhau cũng rất khác nhau.

Thứ tư, tuy có vai trò nhất định trong cơ chế tranh chấp lao động tập thể, song mức độ can thiệp của Nhà nước vào quá trình giải quyết tranh chấp lao động là không nhiều. Về cơ bản, Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào quá trình giải quyết tranh chấp lao động, mà chỉ thiết lập hành lang pháp lý cho quá trình đó (chẳng hạn như thông qua các quy định về trách nhiệm thương lượng tập thể, đại diện của các bên trong thương lượng, nội dung thương lượng…). Theo NLRA, Ủy ban quan hệ lao động quốc gia có nhiệm vụ ngăn ngừa các thông lệ lao động không công bằng trong thương lượng tập thể. Trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình, cơ quan này cũng hầu như không can thiệp vào nội dung của quá trình thương lượng tập thể. Ngay cả Tòa án cũng rất hiếm khi giải quyết các tranh chấp lao động tập thể về quyền. Trên thực tế, Cơ quan trung gian và hòa giải Liên bang (FMCS) cũng tham gia giải quyết khá nhiều tranh chấp lao động tập thể, song trong những trường hợp như vậy, cơ quan này thường đóng vai trò như là một cơ quan giải quyết tranh chấp tư nhân do các bên lựa chọn, chứ không phải là một cơ quan nhà nước.

Thứ năm, cơ chế giải quyết tranh chấp lao động ở Hoa Kỳ dựa trên các quy định khá đơn giản và linh hoạt về đại diện của người lao động và người sử dụng lao động. Khác với nhiều nước trên thế giới, pháp luật Hoa Kỳ không đòi hỏi đại diện của tập thể lao động phải là một tổ chức công đoàn có đăng ký. Điều quan trọng là đại diện đó phải là người được tập thể lao động bầu chọn (mục 157 và 159 NLRA). Pháp luật Mỹ cũng không đòi hỏi các tổ chức của người sử dụng lao động phải tiến hành một thủ tục riêng biệt nào đó (chẳng hạn như đăng ký) để được thừa nhận là đại diện của người sử dụng lao động.

2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc xây dựng quan hệ lao động lành mạnh đảm bảo quyền lợi của người sử dụng lao động và người lao động đòi hỏi việc giải quyết các tranh chấp lao động cần phải được hội nhập với quốc tế và học hỏi những quốc gia có lịch sử phát triển quan hệ lao động lâu đời. Phân tích cơ chế giải quyết tranh chấp lao động của Hoa Kỳ, liên hệ với tình hình Việt Nam hiện nay, có thể đưa ra một số khuyến nghị:

Thứ nhất, cần có một cơ quan hòa giải cấp quốc gia

Trước yêu cầu thực tế của Việt Nam, cần xây dựng một cơ quan hòa giải quốc gia (CQHGQG) là cơ quan thống nhất toàn quốctrong việc xử lý và quản lý hòa giải các tranh chấp lao động. CQHGQG không phải là cơ quan xây dựng hay thực thi pháp luật, vì vậy, hòa giải viên ở cơ quan này không có vai trò thực thi luật lao động, thanh tra các vấn đề lao động hay hướng dẫn thực hiện luật lao động như các cán bộ Sở Lao động, Thương binh và Xã hội. Thay vào đó, họ được coi là các cán bộ trung gian, làm việc với công đoàn và doanh nghiệp khi được các bên yêu cầu. Những hòa giải viên chuyên trách của CQHGQG trước hết là các chuyên gia có kinh nghiệm thực tế về quan hệ lao động là tiêu chí quan trọng nhất.

CQHGQG đóng vai trò như là một cơ quan giải quyết tranh chấp tư nhân do các bên lựa chọn. Là cơ quan độc lập cung cấp dịch vụ hòa giải và giải quyết các xung đột khác, cơ quan này có thể chịu sự quản lý của các cơ quan hành chính nhưng hoạt động độc lập và được thiết kế nhằm giúp đỡ các bên trong quá trình hòa giải. Các dịch vụ của CQHGQG có thể được sử dụng bởi bất kỳ bên nào liên quan đến tranh chấp lao động. CQHGQG cũng cung cấp các hòa giải viên trong trường hợp tranh chấp khẩn cấp mang tính quốc gia theo quy định pháp luật hoặc nếu các bên có mong muốn.

Thứ hai, làm rõ 2 cơ chế giải quyết tranh chấp lao động (cơ chế nhà nước và cơ chế tư nhân), trong đó cần có biện pháp hữu hiệu khuyến khích cơ chế tư nhân

Theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2012, có thể hiểu cơ chế giải quyết tranh chấp lao động của Nhà nước được thể hiện bởi cơ chế giải quyết tranh chấp lao động của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân; cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tư nhân có thể được hiểu là cơ chế giải quyết tranh chấp lao động thông qua hòa giải viên lao động hoặc trọng tài lao động. Tuy nhiên, việc xác định hoặc thiết lập những ranh giới hay mục tiêu của từng cơ chế giải quyết tranh chấp chưa được thể hiện rõ ràng. Vì vậy, cần có các quy định ghi nhận các cơ chế như vậy trong pháp luật lao động; quy định bắt buộc các bên phải thỏa thuận về cơ chế giải quyết tranh chấp trong thỏa ước lao động tập thể.

Bên cạnh việc xây dựng CQHGQG, việc thành lập các trung tâm hòa giải tranh chấp lao động mang tính tư nhân cần phải được tính đến những đặc điểm sau:

– Là cơ quan dịch vụ mang tính nghề nghiệp được thành lập hợp pháp theo các quy định của pháp luật và có tư cách pháp nhân. Cơ quan này chịu sự quản lý về nghề nghiệp của CQHGQG.

– Hòa giải viên tư nhân (người làm việc tại trung tâm hòa giải tư nhân) là người có trình độ, tiêu chuẩn hòa giải viên, được cấp giấy chứng nhận hòa giải viên do CQHGQG cấp. Giấy chứng nhận này như một chứng chỉ nghề nghiệp chỉ được cấp cho người đạt đủ những tiêu chuẩn mà Nhà nước quy định.

– Tại đây, có một hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý về thỏa ước lao động tập thể mà trung tâm hòa giải có thể sử dụng và các hòa giải viên có thể tiếp cận. Những hòa giải viên thuộc cơ quan hòa giải tư nhân nằm trong khu vực địa giới hành chính nào có quyền tiếp cận với cơ sở dữ liệu về thỏa ước tập thể tại nơi đó để có thể chủ động liên lạc hay giới thiệu về dịch vụ hòa giải của mình.

– Trung tâm hòa giải và hòa giải viên tư nhân có đầy đủ chức năng, nhiệm vụ hòa giải tranh chấp lao động theo quy định của pháp luật, dựa theo những trình tự tối thiểu, có thể lập những trình tự hòa giải mang đặc trưng riêng và có hiệu quả trong hoạt động hòa giải.

– Chi phí cho hoạt động của cơ quan hòa giải theo cơ chế tự quản, có thể xây dựng theo mô hình doanh nghiệp. Chi phí cho việc hòa giải có thể do người sử dụng lao động, người lao động là người yêu cầu hòa giải hoặc do 02 bên cùng nhau chi trả theo thỏa thuận của mỗi bên.

Thứ ba, xây dựng mô hình hòa giải đảm bảo cả hòa giải chủ động và hòa giải bị động phụ thuộc vào yếu tố bắt buộc hay tự nguyện trong cơ chế giải quyết tranh chấp

Hệ thống hòa giải của Việt Nam hiện hành chỉ thực hiện hòa giải khi có yêu cầu. Đây là cơ chế hòa giải bị động. Mặc dù tại Điều 72 của Bộ luật Lao động năm 2012 có quy định về vai trò của cơ quan nhà nước trong việc hỗ trợ thương lượng tập thể, và điều này có thể coi hoạt động hòa giải được thực hiện bởi hòa giải viên một cách chủ động khi phát hiện quan hệ lao động có thể dẫn đến tranh chấp, tuy nhiên, chưa có quy định cụ thể. Nghị định số 46/2013/NĐ-CP ngày 10/05/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về tranh chấp lao động cũng không cụ thể hóa được tinh thần này. Vì vậy, về cơ bản, cần có các quy định cụ thể, đầy đủ thể hiện tinh thần đảm bảo về một cơ chế hòa giải có cả “bị động” và “chủ động”. Để có được cơ chế hòa giải chủ động, theo chúng tôi, cần giải quyết một số vấn đề sau:

(i) Cơ quan hòa giải có nhiệm vụ hòa giải các nội dung trong thỏa ước lao động tập thể và giải quyết các vụ việc gây mâu thuẫn. Nhiệm vụ này thể hiện tính “bị động” trong việc thực hiện hòa giải. Ở Việt Nam hiện nay, người lao động, tập thể người lao động và người sử dụng lao động khi gặp bế tắc trong quá trình thương lượng để đạt đến một thỏa thuận, thỏa ước lao động tập thể hoặc trước khi có cuộc đình công, hòa giải viên thường không được mời đến bởi bất kỳ bên nào trong tranh chấp. Ngay cả trong trường hợp các bên có sự vi phạm hoặc hiểu sai các nội dung trong hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, người sử dụng lao động và người lao động thường chọn các giải pháp đơn phương, và trong trường hợp nghiêm trọng hơn, bên người lao động thường tổ chức đình công một cách tự phát mà không có sự lãnh đạo của công đoàn, còn bên người sử dụng lao động thường dùng các “hành động công nghiệp” như bế xưởng hay đình chỉ công việc hoặc cắt giảm nhân công … điều này dẫn đến quan hệ lao động càng trở nên xấu đi. Vì vậy, việc cơ quan hòa giải được mời đến ngay cả trước khi có tranh chấp hay khi tranh chấp có khả năng xảy ra sẽ giúp giải quyết tranh chấp lao động chủ động hơn.

(ii) Tạo ra nhiệm vụ “hòa giải phòng ngừa”[6] là một trong các biện pháp thể hiện sự “chủ động” của hòa giải. Theo đó, Cơ quan hòa giải khuyến khích công đoàn và doanh nghiệp tham gia các khóa đào tạo miễn phí hoặc có phí được tiêu chuẩn hóa và tăng cường năng lực của các bên trong thương lượng, đối thoại và giải quyết các vấn đề tại nơi làm việc. Các khóa đào tạo có thể được thiết kế theo nhiều chủ đề nhằm xử lý các vấn đề khác nhau có thể xảy ra tại nơi làm việc và những vấn đề khác liên quan trực tiếp đến quan hệ giữa các bên trong quá trình lao động.

(iii) Bên cạnh “hòa giải phòng ngừa”, một nhiệm vụ thể hiện tính “chủ động” của mô hình hòa giải là trao cho cơ quan hòa giải hay hòa giải viên nhiệm vụ truyền thông và đào tạo cho cộng đồng. Một cơ quan hòa giải được thiết lập ra nhưng chỉ ở một nơi và chỉ thực hiện hòa giải khi có yêu cầu của một bên là một cơ quan thiếu tính chủ động. Cơ quan hòa giải phải giao nhiệm vụ cho các hòa giải viên đến thăm các đối tác để phổ biến các thông tin về các dịch vụ hòa giải, xây dựng quan hệ với các đối tác là doanh nghiệp (nơi mà họ có thể đã thực hiện các nhiệm vụ hòa giải trong quá khứ và có thể sẽ thực hiện trong tương lai) các cơ quan quản lý nhà nước, công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên. Việc thực hiện nhiệm vụ này, giúp cho hòa giải viên (và cơ quan hòa giải) nắm được thông tin có thể có đang diễn ra tại doanh nghiệp, thông tin từ công đoàn, thông tin chính sách từ cơ quan quản lý, bên cạnh đó cũng tạo ra sự tin cậy cho họ mỗi khi có nhu cầu về tư vấn hay giải quyết tranh chấp lao động.

ThS. Đào Xuân Hội

Khoa Luật, Đại học Lao động – Xã hội



[1]International Labour Office, Conciliation and Arbitration Procedures in Labour Disputes: A Comparative Study, 1980, tr.16.

[2]Xem thêm: TS. Trần Hoàng Hải (chủ biên), Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể – Kinh nghiệm của một số nước đối với Việt Nam (Sách chuyên khảo), Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 92 – 93.

[3]Malaysia và Singapore là những ví dụ điển hình.

[4]T. Hanami & R. Blanpain (1989), Industrial Conflict Resolution in Market Economies: A Study of Australia, the Federal Republic of Germany, Italy, Japan and the USA, tr. 267, 273.

[5]T. Hanami & R. Blanpain (1989), Industrial Conflict Resolution in Market Economies: A Study of Australia, the Federal Republic of Germany, Italy, Japan and the USA, tr. 256-273.

[6] Jan Jung-Min Sunoo, Phân tích các nhân tố chính là nên một hệ thống giải quyết tranh chấp lao động thành công: câu chuyện của Cơ quan Hòa giải Liên bang Hoa Kỳ, Dự án Siir/USAID, Hà Nội, 2013.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Cần bổ sung khái niệm nhầm lẫn và nhầm lẫn về chủ thể vào dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)

07/10/2015

Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 127 Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) (Dự thảo) quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn. Tuy nhiên, ở cả hai quy định này đều còn thiếu khái niệm nhầm lẫn và nhầm lẫn về chủ thể. Bài viết này sẽ tập trung nghiên cứu thực tiễn xét xử của Tòa án về giao dịch vô hiệu do nhầm lẫn, so sánh với pháp luật nước ngoài để từ đó kiến nghị bổ sung khái niệm nhầm lẫn và nhầm lẫn về chủ thể vào Dự thảo.

1. Cách hiểu về khái niệm nhầm lẫn

Khi có khiếm khuyết của sự tự nguyện là nhầm lẫn trong hợp đồng thì hợp đồng sẽ bị vô hiệu. Đối với hai khiếm khuyết lừa dối và đe dọa thì từ Điều 142 Bộ luật Dân sự năm 1995 cho đến Điều 132 Bộ luật Dân sự năm 2005 đều có các khái niệm này. Còn nhầm lẫn, mặc dù cũng được quy định là khiếm khuyết của sự ưng thuận nhưng lại chưa có một văn bản luật nào định nghĩa về khái niệm đó.

Chính vì luật không có khái niệm nhầm lẫn và không có tiêu chí rõ ràng khi đánh giá mức độ nghiêm trọng của nhầm lẫn, nên trong thực tiễn, Tòa án gặp nhiều khó khăn khi giải quyết, việc xác định yếu tố nhầm lẫn có thể là đúng hoặc sai hay không hợp lý. Cụ thể:

– Trường hợp Tòa án xác định đúng yếu tố nhầm lẫn trong hợp đồng

Vụ việc trong thực tiễn: Tháng 10/2009, biết vợ chồng bà H bán hai cái sạp liền kề tại chợ Tân Bình (TP. Hồ Chí Minh) là sạp X và X./1, bà L đến mua một cái với giá 1,5 tỷ đồng, đặt cọc trước 100 triệu đồng. Sau khi hợp đồng được giao kết, bà L phát hiện trước cửa sạp có nắp cống thường xuyên bốc mùi hôi thối. Do vậy, bà khởi kiện đòi lại tiền đặt cọc vì cho rằng người bán lừa dối khi giao kết hợp đồng. Tại phiên xét xử sơ thẩm, Tòa án nhân dân quận Tân Bình nhận định nắp cống khá lớn và cao hơn so với mặt đường, ở phía trước cống còn có nước chảy nên người bán không thể che kín bưng. Hơn nữa, trước khi thỏa thuận và đặt cọc tiền thì bên mua nhiều lần đến xem xét thực tế vị trí sạp cho nên Tòa án đã không chấp nhận có hành vi gian dối trong giao dịch và bên mua không chịu nhận sạp theo như giao kết là có lỗi nên bị mất tiền đặt cọc là đúng. Không đồng ý với quyết định trên trong bản án của tòa sơ thẩm, bà L đã tiếp tục kháng cáo lên Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh. Tại phiên xét xử phúc thẩm, hội đồng xét xử đã nhận định, trong hợp đồng ghi rõ chủ thể mua bán là sạp X nhưng tài sản mà các bên tranh chấp trên thực tế lại là sạp X./1. Xét về mặt pháp lý thì hợp đồng không đúng về đối tượng, xét về mặt thực tế thì không đúng về chủ thể nên hợp đồng không phát sinh hiệu lực. Vì lẽ đó, Tòa tuyên hợp đồng mua bán sạp vô hiệu và yêu cầu bên bán hoàn trả lại 100 triệu đồng mà bên mua đã đặt cọc[1].

Như vậy, giữa các bên trong hợp đồng đã có sự nhầm lẫn về đối tượng của hợp đồng. Cụ thể hai bên mua bán sạp X (trong ý chí của bên mua và bên bán là sạp X) nhưng thực tế lại tiến hành giao nhận sạp X./1. Nghĩa là cả hai bên đều không có sự thỏa thuận thống nhất trong nhận thức và có sự khác nhau với thực tế, không xuất phát từ ý chí tự nguyện của các bên nên việc tuyên hợp đồng mua bán trên vô hiệu do nhầm lẫn là có cơ sở hợp lý.

– Trường hợp Tòa án xác định sai khi cho rằng có yếu tố nhầm lẫn trong hợp đồng

Vụ việc: Ngày 22/9/2005, ông T và ông H ký kết hợp đồng thuê căn nhà 4A6 cư xá 307, giá thuê mỗi tháng là 5.000.000 đồng, tiền thuê nhà thanh toán 3 tháng một lần và đặt cọc 3 tháng tiền thuê để bảo đảm thực hiện hợp đồng. Trước khi ký và giao kết hợp đồng, ông H đều nói rõ với ông T về tình trạng căn nhà hiện tại vẫn do cha mẹ ông đứng tên chủ sở hữu nhưng cha mẹ ông đã chết nên không thể ra công chứng được. Ông T đồng ý thuê nhà và đã đặt cọc 100USD, hẹn đến ngày 22/9/2005 tiến hành lập hợp đồng. Đúng hẹn, ngày 22/9/2005, ông T đến ký hợp đồng với ông H, ông H có nhắc lại một lần nữa về tình trạng không thể đem ra công chứng, nhưng ông T trả lời không sao, chỉ cần ông H cung cấp giấy tờ nhà cho ông T thì ông T ra công chứng được. Ông H đã cung cấp đủ giấy tờ nhà và giao chìa khóa nhà cho ông T. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, hai bên xảy ra tranh chấp. Tại phiên tòa phúc thẩm, Tòa án đã xét rằng, khi ông H ký kết hợp đồng với ông T để cho thuê căn nhà và ký nhận đặt cọc thuê nhà mà ông H chưa có sự ủy quyền của bà Tr và bà A (hai người thừa kế ngôi nhà), nên giao dịch giữa ông T và ông H là giao dịch vô hiệu do nhầm lẫn, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm xác lập dựa vào Điều 141 và khoản 2 Điều 146 Bộ luật Dân sự năm 1995[2].

Ở vụ việc này, nếu ông H là một trong những người thừa kế ngôi nhà do bố mẹ chết không để lại di chúc, nhưng khi chưa có sự đồng ý của hai người thừa kế còn lại mà ông H tự tiện cho thuê ngôi nhà và cũng không nói cho ông T biết về hiện trạng ngôi nhà, thì điều này làm cho ông T bị nhầm lẫn. Nhưng với lời khai của ông H cho thấy, mặc dù ông T biết là ngôi nhà không thuộc sở hữu của ông H và đồng nghĩa với việc khó có thể đi công chứng được, nhưng ông T vẫn đồng ý thuê. Như vậy, trong nhận thức của ông T không có sự nhầm lẫn, bởi lẽ nhận thức của ông đã biết về hiện trạng của ngôi nhà, đã không có sự khác nhau giữa nhận thức của ông với thực tế ngôi nhà, cho nên đây không thể coi là có sự nhầm lẫn được. Việc Tòa án áp dụng điều luật về nhầm lẫn là không có cơ sở.

– Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm cho rằng có yếu tố nhầm lẫn nhưng đến khi tiến hành theo thủ tục giám đốc thẩm thì lại khẳng định chắc chắn rằng việc xác định có yếu tố nhầm lẫn ở đây là chưa có đủ căn cứ vững chắc

Vụ việc: Ngày 06/01/1993, Công ty xây dựng và kinh doanh nhà, nay là Công ty cổ phần địa ốc Sài Gòn (sau đây viết tắt là Công ty) và ông N có ký kết hợp đồng liên doanh xây dựng nhà số 02/93, theo đó, ông N giao toàn bộ khu đất với diện tích là 552m2 cho Công ty đầu tư xây dựng 12 căn nhà. Đến cuối năm 1993, Công ty đã đầu tư xây dựng hoàn chỉnh khu nhà nhưng không đưa vào kinh doanh được vì Công ty phát hiện ông N đã gian dối khi sửa chữa Quyết định số 02 ngày 10/11/1986 của Lữ đoàn thông tin 596 (về việc giao đất cho ông N) từ diện tích đất là 342m2 thành 942m2 và sử dụng phần diện tích đất lấn chiếm trái phép này để góp vốn kinh doanh với Công ty. Do việc Bộ Tư lệnh thông tin ra Quyết định số 206G3/QĐ ngày 18/6/1997 thu hồi phần đất do ông N lấn chiếm, sử dụng trái phép là 666m2, nên một số căn nhà mà Công ty đã đầu tư xây dựng bị hoang phế, vốn đầu tư bị tồn đọng. Đến ngày 10/3/2000, Bộ Quốc phòng cùng Bộ Tư lệnh thông tin mới có Biên bản bàn giao nhà, đất số 507/BB-TTLL bàn giao 619,6m2 đất và 11 căn hộ cho Công ty, trong khi đó, ông N không có trách nhiệm cùng Công ty giải quyết hậu quả. Vì vậy, Công ty đã khởi kiện ra Tòa án. Tòa án các cấp sơ thẩm, phúc thẩm đều nhận định hợp đồng ký kết giữa ông N và Công ty là vô hiệu do nhầm lẫn. Khi được xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm thì nhận định, việc Tòa án các cấp sơ thẩm, phúc thẩm tuyên hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn là chưa có đủ căn cứ vững chắc[3].

Có thể thấy rằng, việc Tòa án các cấp sơ thẩm, phúc thẩm tuyên hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn là chưa đủ căn cứ, vì vẫn chưa có sự xác định trong diện tích đất mà ông N dùng để góp vốn đầu tư xây dựng, diện tích đất lấn chiếm của Nhà nước thì Công ty có biết hay không? Khi nào thì Công ty biết việc này? Những vấn đề đó vẫn chưa được làm rõ mà đã kết luận hợp đồng trên là vô hiệu do nhầm lẫn và ông N vô ý làm cho Công ty hiểu nhầm là chưa hợp lý.

– Trường hợp, Tòa cấp sơ thẩm, phúc thẩm xác định không có nhầm lẫn nhưng đến khi tiến hành theo thủ tục giám đốc thẩm thì mới phát hiện có yếu tố nhầm lẫn

Vụ việc: Ngày 03/01/2002, ông L đã nhận chuyển nhượng của bà P quyền sử dụng một nền đất có diện tích 64m2 (kích thước 4m ngang, 16m dài) thuộc khu dân cư Rạch Miễu, quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh mang số 16 lô C1, có mặt tiền là đường Phan Xích Long với giá 16.500.000 đồng/m2, thành tiền là 1.056.000.000 đồng. Bà P nói với ông L là bà mua nền đất này của Công ty Sài Gòn Viễn Đông (Công ty SG). Ông L đã trả cho bà P tổng cộng 983.040.000 đồng. Ngày 27/01/2002, ông H (chồng bà P) dẫn ông L đến trụ sở Công ty SG để nhận hợp đồng sang tên. Khi nhận bản hợp đồng, ông L không thấy có tờ họa đồ vị trí nền đất, nhưng vì đã biết vị trí nền đất qua bản vẽ ngày 27/3/2001 của Văn phòng Kiến trúc sư trưởng thành phố nên ông không thắc mắc. Công ty SG đã chuyển tên chủ hợp đồng từ tên bà P sang tên ông L. Tháng 3/2002, Công ty SG mời ông L lên nhận đất nhưng lại giao cho ông nền đất số 25 lô C1 có mặt tiền ở đường Hoa Cúc. Ông L đồng ý nhận nền đất có mặt tiền ở đường Hoa Cúc, nhưng yêu cầu Tòa án buộc Công ty SG và bà P phải bồi hoàn giá trị chênh lệch giữa nền đất mặt tiền đường Phan Xích Long và nền đất mặt tiền đường Hoa Cúc[4]. Tòa án cấp sơ thẩm buộc Công ty SG phải bồi thường thiệt hại cho ông L; đến Tòa án cấp phúc thẩm thì bác hoàn toàn yêu cầu đòi bồi thường của ông L đối với Công ty SG và quyết định người phải bồi thường thiệt hại cho ông L là bà P.

Ở đây, việc giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm là không đúng vì chưa phát hiện có sự nhầm lẫn. Đến khi giám đốc thẩm đã nhận định có yếu tố nhầm lẫn bởi bà P làm cho ông L nhầm lẫn về đối tượng nên mới ký hợp đồng với Công ty SG, còn Công ty SG không có lỗi trong việc ông L bị nhầm lẫn.

Vậy, pháp luật nước ngoài quy định thế nào là nhầm lẫn?

Trong Luật La Mã, “nhầm lẫn được hiểu như một quan niệm chưa đúng về những hoàn cảnh thực tế, điều đã làm cho người ký hợp đồng bị nhầm lẫn khi thể hiện ý chí. Và khẳng định, nhầm lẫn là sự xác định sai về sự việc”[5].

Bộ nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế và Bộ nguyên tắc Luật hợp đồng châu Âu đã có quy định rất rõ về sự nhầm lẫn trong giao kết hợp đồng. Tại Điều 3.4: “Nhầm lẫn là một giả thiết sai lầm liên quan đến sự việc hoặc luật lệ tồn tại vào thời điểm giao kết hợp đồng”[6]. Điều 4:104 cũng quy định nhầm lẫn là một giả thiết sai lầm liên quan đến sự việc hoặc luật lệ tồn tại vào thời điểm giao kết hợp đồng.

Các luật gia thuộc hệ thống thông luật (Common Law) coi nhầm lẫn “là sự nhận thức không đúng của một hoặc nhiều bên của hợp đồng và có thể được sử dụng làm căn cứ để vô hiệu hóa hợp đồng”[7].

Dân luật Pháp có quan niệm về nhầm lẫn như là trường hợp nhầm lẫn về bản chất của vật hoặc công việc và trường hợp chủ thể đánh giá sai về thực tế khách quan trong giao kết hợp đồng, tuy nhiên không phải tình huống nào cũng dẫn tới việc hủy bỏ hợp đồng (Điều 1110 Bộ luật Dân sự Pháp).

Theo Bộ luật Dân sự Nhật Bản thì nhầm lẫn “là sự không trùng hợp giữa ý chí được thể thiện với mong muốn thật sự của người thể hiện ý chí”[8].

Hiện nay, Điều 127 Dự thảo quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn nhưng không quy định thế nào là nhầm lẫn, do đó cần phải được bổ sung khái niệm này. Trên cơ sở kinh nghiệm thực tế và các định nghĩa đã được nghiên cứu cùng với việc tham khảo Bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế và Bộ nguyên tắc Luật hợp đồng châu Âu, theo đó, Điều 127 Dự thảo cần bổ sung như sau: “Nhầm lẫn là một giả thiết sai lầm liên quan đến sự việc hay hệ thống pháp luật khác nhau tại thời điểm giao kết hợp đồng”.

2. Nhầm lẫn về chủ thể

Nhầm lẫn về chủ thể của hợp đồng là sự nhầm lẫn của một hoặc hai bên chủ thể tham gia hợp đồng về chủ thể tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng. Trong quá trình xác lập hợp đồng thì việc xác lập đúng chủ thể trong hợp đồng là hết sức cần thiết, không những giúp dễ thực hiện hợp đồng mà còn xác định quan hệ tranh chấp phát sinh (nếu có) sau này.

Theo pháp luật dân sự hiện hành, nhầm lẫn được xem là yếu tố dẫn đến vô hiệu hợp đồng cũng chỉ giới hạn ở sự nhầm lẫn về nội dung mà không quy định nhầm lẫn về chủ thể.

Trong thực tiễn, có một số vụ việc có nhầm lẫn nhưng không phải nhầm lẫn về nội dung của hợp đồng mà là nhầm lẫn về chủ thể, như:

Vụ việc thứ nhất: Ngày 21/4/2006, giữa ông T và bà K có ký hợp đồng thỏa thuận hợp tác thành lập Công ty cổ phần đầu tư thẩm mỹ Xuân Trường (Công ty), địa chỉ tại số 139 AB Nguyễn Trãi, quận 1, TP. Hồ Chí Minh với các điều khoản như sau: Bà K góp vốn bằng căn nhà số 139 AB nguyễn trãi, quận 1, TP. Hồ Chí Minh, còn ông T góp vốn bằng tiền sửa chữa mặt bằng, đầu tư trang thiết bị và đầu tư thành lập công ty. Công ty đi vào hoạt động được khoảng 2 tháng, thì đầu tháng 7/2006, bà K tự ý đóng cửa Công ty, ngưng hợp đồng với ông T trước thời hạn, tự ý cất giấu toàn bộ hồ sơ giấy phép, dấu mộc của công ty và khoá cửa không cho nhân viên của nguyên đơn vào làm việc. Nay do bà K vi phạm hợp đồng gây thiệt hại đến quyền lợi của ông T, nên ông T khởi kiện ra Tòa án yêu cầu đồi bồi thường thiệt hại phát sinh. Sau khi xem xét vụ việc, Tòa án cấp phúc thẩm đã tuyên hợp đồng hợp tác giữa ông T và bà K là vô hiệu do nhầm lẫn do ông Trường không phải là bác sĩ nên bị nhầm lẫn y ngoại tổng quát với phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ ngay từ khi xác lập hợp đồng thỏa thuận hợp tác[9].

Từ vụ việc cho thấy, bà K trong nhận thức của mình đã tưởng rằng ông T là bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ nên mới giao kết hợp đồng, còn nếu ông T không phải là bác sỹ phẫu thuật thẩm mỹ thì sẽ không giao kết hợp đồng trên, tức là có sự khác nhau giữa nhận thức với thực tế và đây là sự nhầm lẫn về chủ thể chứ không thể như nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm khẳng định là có yếu tố nhầm lẫn nhưng lại là nhầm lẫn về nội dung giao dịch: “Có cơ sở để xác định hợp đồng hợp tác ngày 21/4/2006 bị vô hiệu toàn bộ do bị nhầm lẫn ngay từ thời điểm xác lập vì nguyên đơn đã cố ý làm cho bị đơn nhầm lẫn về nội dung giao dịch mà xác lập việc giao dịch trên với nguyên đơn”.

Vụ việc thứ hai: Ngày 18/01/2003, bà A cho vợ chồng ông D, bà H vay 30 lượng vàng SJC không tính lãi suất, hạn trả vào tháng 4/2003. Ông D xin khất nợ và cam kết trả lãi 0,5%/tháng. Tuy nhiên, đến nay ông D và bà H chưa trả nợ. Bà A yêu cầu hai người phải trả ngay cho bà 30 lượng vàng SJC và lãi tính từ ngày 01/6/2003 đến ngày 01/6/2005 là 3,6 lượng vàng, tổng cộng là 33,6 lượng vàng SJC.

Ở vụ việc này, trong nhận thức của bà A thì bà cho cả hai vợ chồng ông D và bà H vay nên nên mới đồng ý, còn nếu như không phải là cả hai vợ chồng thì chắc chắn bà sẽ không cho vay. Nhưng trên thực tế, ông D và bà H đã ly hôn, khi ông D vay tiền thì vẫn có chữ ký của bà H, điều này dẫn đến việc bà A bị nhầm lẫn về người cho vay, đúng như Tòa án đã nhận định: “Bà A nêu bà chỉ đồng ý cho hai vợ chồng vay chứ không cho ông D vay, vì ông D và bà H muốn giấu tình trạng hôn nhân giữa hai người nên bà H dù không vay nợ nhưng vẫn ký thì bà cũng có một phần lỗi làm bà A nhầm tường mà cho vay nên đây là giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn và phải tuyên bố giao dịch này vô hiệu, bà H phải có một phần trách nhiệm”[10].

Cả 2 vụ việc trên, Tòa án đều vận dụng Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2005 để giải quyết. Điều luật này mới chỉ quy định nhầm lẫn về nội dung của giao dịch, trong khi cả 2 vụ việc trên đều nhầm lẫn về chủ thể. Cho nên việc áp dụng này cho thấy sự thiếu sót của luật cũng như của cơ quan xét xử.

Pháp luật một số nước đã có quy định hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn về chủ thể nhưng chỉ trong trường hợp nhất định, khi yếu tố chủ thể đóng vai trò quyết định đến việc giao kết hợp đồng.

Một số nước theo hệ thống thông luật có một quy tắc chung liên quan tới nhầm lẫn là “một người bị ràng buộc bởi hợp đồng mà trong đó có yếu tố nhầm lẫn, trừ khi người đó có thể chứng minh được rằng sự nhầm lẫn đó thuộc một trong các loại nhầm lẫn mà hợp đồng có thể bị tiêu hủy”[11]. Còn theo quy định tại Điều 119(2) Bộ luật Dân sự Đức thì “sự nhầm lẫn về tư cách chủ thể hoặc sự việc chỉ là căn cứ tuyên bố giao dịch vô hiệu nếu như mang tính quyết định trong giao lưu dân sự”. Điều 120 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan cũng quy định đến năng lực của chủ thể tham gia giao dịch: “Một tuyên bố ý định có thể bị vô hiệu nếu tuyên bố đó được làm do có nhầm lẫn về năng lực của người hay phẩm chất của vật mà năng lực hay phẩm chất đó được coi là quan trọng trong những giao dịch bình thường”.

Theo Luật La Mã, “nhầm lẫn về người là một tì ố của sự ưng thuận, theo đó chủ thể giao kết với người này mà lại tưởng giao kết với người khác và được xem là một nguyên nhân làm cho hợp đồng vô hiệu bởi không có sự phù hợp giữa ý chí và thể hiện ý chí của chủ thể”[12].

Theo Bộ luật Dân sự Pháp, không phải sự nhầm lẫn nào về người nào cũng gây ra việc vô hiệu của hợp đồng như Luật La Mã, mà chỉ cho phép tuyên bố hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn về chủ thể nếu đó là nhầm lẫn về những yếu tố quan trọng của đối tác và khi nhân thân của đối tác có vai trň quan trọng đối với quyết định của giao kết hợp đồng. Các giải thích về điều luật này và án lệ của Pháp cho thấy có những loại hợp đồng có thể bị vô hiệu bởi nhầm lẫn về người như hợp đồng không có đền bù, hợp đồng ủy quyền có thù lao, hợp đồng lao động, hợp đồng bán hàng trả chậm…

“Ở Bỉ, Luxembourg, Áo, Tây Ban Nha, Anh… nhầm lẫn về chủ thể tham gia giao kết hợp đồng cũng là một lý do làm cho hợp đồng vô hiệu khi nhân thân của chủ thể có ảnh hưởng tới quyết định giao kết hợp đồng”[13].

Như vậy, nhiều nước trên thế giới đã có quy định về chủ thể của sự nhầm lẫn, cụ thể coi các yếu tố tư cách, phẩm chất của chủ thể là yếu tố quyết định quan trọng cho việc giao kết hợp đồng.

Điều 127 Dự thảo quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn nhưng không quy định nhầm lẫn về chủ thể. Vì vậy, tác giả kiến nghị Điều 127 Dự thảo cần bổ sung như sau: “Một bên hoặc các bên có quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn về chủ thể khi yếu tố nhân thân của chủ thể là quan trọng trong việc giao kết hợp đồng”.

3.Kết luận

Nhầm lẫn là một trong những khiếm khuyết của sự ưng thuận khi giao kết hợp đồng. Vì vậy, Việc tiến hành rà soát, hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành, nâng cao nhận thức về lý luận và thực tiễn sẽ tạo hành lang pháp lý về giao dịch vô hiệu do nhầm lẫn được hoàn thiện hơn, phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế thế giới.

Phạm Thị Hồng Mỵ

Trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang



[1]Dương Hằng, Cái cống hôi trước cửa sạp, http: vietbao.vn, truy cập ngày 10/8/2014.

[2] Bản án số 97/2007/DS-PT ngày 19/01/2007 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh.

[3]Quyết định giám đốc thẩm số 10/2009/KDTM-GĐT ngày 03/9/2009 của Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp về hợp đồng liên doanh xây dựng nhà”.

[4] Quyết định giám đốc thẩm số 03/2009/DS-GĐT ngày 11/02/2009 về vụ án “Tranh chấp hợp đồng liên kết đầu tư xây dựng”.

[5] Lê Nết, Luật La Mã, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, năm 1999.

[6] Lê Nết, Những nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, năm 1999.

[7] Ngô Huy Cương, Về yếu tố ưng thuận của hợp đồng, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7, tr. 23 – 28, 39.

[8] Bộ Tư pháp, Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1995.

[9] Bản án số 2007/KDTM-ST ngày 18/10/2007 về việc tranh chấp giữa thành viên công ty về hợp đồng góp vốn.

[10] Bản án số 18/2007/DSPT ngày 04/01/2007 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh.

[11]R. Keith Yorston and Edward E. Fortescue, Australian Mercantile Law, The Law Book Co. of Australia PTY LTD, Sydney, Melbourne, Brisbane, 1943, p. 31.

[12]Vũ Tam Tư, Luật Rôma: Khế ước & Nghĩa vụ, Trường Đại học tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, tr. 52 – 53.

[13] Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2013, tr. 437.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Sự hình thành tư tưởng hợp đồng hành chính và vai trò của hợp đồng hành chính trong quản lý nhà nước

30/10/2015

1. Sự hình thành hợp đồng hành chính

Lịch sử hợp đồng hành chính gắn liền với lịch sử phát triển của Nhà nước, tùy vào sự phát triển, mức độ đáp ứng các dịch vụ công của Nhà nước qua các giai đoạn lịch sử, tùy thuộc vào bản chất, thái độ, bổn phận của Nhà nước đối với xã hội, sự phát triển của các quá trình kinh tế – xã hội. Ngày nay, khi bàn tới bản chất của nhà nước thường được các nhà khoa học xem xét nó ở cả hai phương diện khác nhau: (i) Nhà nước là một tổ chức quyền lực công thực hiện chức năng giai cấp; (ii) Nhà nước là một thiết chế của xã hội. Ở mặt thứ hai này, Nhà nước cung ứng cho xã hội những dịch vụ, mà cá nhân hay tổ chức của cá nhân không muốn thực hiện vì khó tìm kiếm lợi nhuận, hay chưa có khả năng thực hiện được.

Để bảo đảm cho hoạt động của mình, Nhà nước vì lợi ích chung của xã hội, cộng đồng dân cư có thể sử dụng các dịch vụ do cá nhân, tổ chức cung ứng, hay trực tiếp cung ứng, hoặc tổ chức việc cung ứng dịch vụ công thông qua các tổ chức của Nhà nước, cá nhân ngoài Nhà nước. Thực hiện những điều đó, Nhà nước có thể bằng việc ra những quyết định hành chính đơn phương giao cho những tổ chức nhà nước thực hiện, hay ký kết hợp đồng với cá nhân, tổ chức, tùy từng trường hợp cụ thể.

Trong Nhà nước chủ nô, phong kiến, Nhà nước chủ yếu thực hiện chức năng cai trị, còn chức năng xã hội của Nhà nước rất ít được quan tâm, khi đó khó có thể nói tới việc Nhà nước cung ứng các dịch vụ công. Tuy vậy, trong điều kiện Nhà nước phong kiến vẫn có những trường hợp Nhà nước, thông qua các cơ quan của nó ký kết các hợp đồng đối với cá nhân, tổ chức ngoài Nhà nước để các cá nhân đó cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho Nhà nước, hay Nhà nước cho cá nhân, tổ chức đó đấu thầu tài sản của Nhà nước, đấu thầu các “công vụ” Nhà nước, tuy còn rất hạn chế. Trong Nhà nước phong kiến Việt Nam cũng đã xuất hiện những trường hợp, hay tình huống Nhà nước (nhà vua), hay công xã cho cá nhân thầu đất công điền để sản xuất, mà người trúng thầu phải tuân theo những yêu cầu, điều kiện do nhà cầm quyền, hay công xã đặt ra, mà bên khác trong hợp đồng phải thực hiện, hay khi Nhà nước “ký kết những hợp đồng” để cá nhân, tổ chức cung ứng các dịch vụ cho Nhà nước (vận chuyển quân lương, cung cấp lương thảo cho binh sỹ, hay đấu thầu các bến, bãi vì mục đích công cộng…). Ở đây có sự “bất bình đẳng” giữa công quyền với cá nhân trong quan hệ hợp đồng, ưu thế thuộc về công quyền trong quá trình xác lập hợp đồng, thực hiện hợp đồng, giải quyết tranh chấp khi xảy ra. Mặt khác, trong hợp đồng đó còn bị ràng buộc bởi những chế tài do Nhà nước đặt ra đối với bên khác trong hợp đồng. Ngày nay, các học giả nước ngoài gọi những hợp đồng loại này là hợp đồng hành chính.

Như vậy, hợp đồng hành chính có mầm mống hình thành từ rất sớm, ngay trong thời kỳ Nhà nước phong kiến.

Nhà nước tư sản ra đời thì việc ký kết hợp đồng giữa Nhà nước với cá nhân, tổ chức để cá nhân, tổ chức đó cung ứng các dịch vụ công cho Nhà nước, xã hội càng phát triển nhiều. Vào thế kỷ thứ XIX, khi xuất hiện tư tưởng Nhà nước pháp quyền, Nhà nước quản lý xã hội bằng luật, Nhà nước dần hạn chế sự can thiệp của mình vào hoạt động của các cá nhân, tổ chức. Trong cơ chế ấy, Nhà nước giữ lại cho mình những công việc mà cá nhân không đảm nhiệm được như: Bảo đảm trật tự, trị an, an toàn xã hội, vệ sinh công cộng hay thực hiện các dịch vụ công khác thuộc bổn phận của Nhà nước, còn công việc sản xuất khinh doanh là thuộc về các cá nhân hay doanh nghiệp. Song song với quá trình này ngay từ thế kỷ thứ XIX Nhà nước chuyển dần những công việc vốn do Nhà nước đảm nhiệm cho các pháp nhân thuộc mọi thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân) thực hiện thông qua việc ký kết hợp đồng hành chính. Tuy vậy, xu hướng này bị gián đoạn, mờ nhạt đi trong thời kỳ diễn ra hai cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất (1913- 1917) và đại chiến thế giới lần thứ hai (1940- 1945).

Sau đại chiến thế giới lần thứ hai, đặc biệt khoảng hơn ba mươi năm gần đây hình thức Nhà nước chuyển các công việc vốn do mình đảm nhiệm cho các pháp nhân công, tư thực hiện, hay Nhà nước mua các dịch vụ do các pháp nhân này cung ứng rất phát triển dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú.

Ngày nay ở những quốc gia có nền kinh tế, hành chính phát triển thường gặp những trường hợp, khu vực tư cung ứng các dịch vụ công dưới các hình thức khác nhau, quá trình này diễn ra được gọi là quá trình “tư nhân hóa” hay “xã hội hóa”. Quá trình chuyển giao dịch vụ công cho tư nhân đảm nhiệm ngày càng được mở rộng cả về quy mô, phạm vi, tính chất của nó. Hầu hết các quốc gia đều áp dụng nguyên tắc, hay tư tưởng: Những gì mà tư nhân thực hiện tốt thì Nhà nước không tham gia, mà chỉ kiểm soát, điều tiết, bảo hộ, còn nhưng công việc gì mà tư nhân không thể, hay không muốn thực hiện vì khó tìm kiếm lợi nhuận thì Nhà nước phải thực hiện vì lợi ích chung của xã hội. Chính sự phát triển của hình thức này mà ở một số quốc gia xuất hiện cả việc Nhà nước giao quản lý các trại giam, nhà tù cho tư nhân thực hiện thông qua hình thức ký kết hợp đồng hành chính.

Như vậy, sự xuất hiện, phát triên của dịch vụ công như là tiền đề cho sự xuất hiện các hợp đồng hành chính. Trong điều kiện khi xã hội càng phát triển, nhu cầu về dịch vụ công ngày càng tăng, quy mô, phạm vi quản lý xã hội của Nhà nước ngày càng phức tạp, càng lớn, chi phí của Nhà nước cho việc cung ứng các dịch vu công cũng càng lớn, Nhà nước dần phải thay đổi phương thức cung ứng dịch vụ công của mình. Điều này diễn ra như một quy luật tất yếu của lịch sử phát triển của Nhà nước bằng cách chuyển dần những dịch vụ công vốn do Nhà nước đảm nhiệm cho cá nhân, tổ chức thực hiện bằng phương thức ký kết các hợp đồng với cá nhân, tổ chức.

Nhìn lại lịch sử của các nhà nước xã hội chủ nghĩa với quan niệm tuyệt đối hóa chế độ sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, hầu hết việc cung ứng các dịch vụ công đều do Nhà nước, hay tổ chức thuộc thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cung ứng. Từ đó dẫn đến tính trạng không giải phóng được năng lực sản xuất xã hội, chi phí cho dịch vụ công ngày một tăng, một số dịch vụ công càng ngày càng trở nên kém chất lượng, sản xuất kém phát triển, hệ quả dẫn đến những khủng hoảng kinh tế – xã hội, khủng hoảng chính trị vào cuối những năm tám mươi đầu những năm chín mươi thế kỷ XX, làm sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên xô.

Ở Việt Nam, từ năm 1945 tới nay, cũng diễn ra xu hướng dịch chuyển của dịch vụ công như sau: Khi mới giành độc lập, với những văn bản pháp luật đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã chính thức thừa nhận hình thức “thầu công vụ” [1]. Có nghĩa Nhà nước chuyển giao “công vụ” hay công việc của Nhà nước cho cá nhân thực hiện thông qua hình thức đấu thầu, bên cạnh đó hình thức tư nhân cung ứng các dịch vụ công cho xã hội cũng hình thành và phát triển ở những mức độ nhất định tuy còn ở trình độ thấp, đó là sự tồn tại và phát triển của các trường tư thục trong lĩnh vực giáo dục. Sau năm 1954, hình thức các trường tư thục vẫn tồn tại, hình thức công ty hợp danh cũng tồn tại trong một thời gian khá dài ở Miền Bắc để cung ứng các dịch vụ công, hay sản phẩm theo chế độ tem phiếu. Trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, hình thức này chuyển dần sang hình thức hợp tác xã, hay công ty của Nhà nước và dần dần phương thức tư nhân cung ứng các dịch vụ công cho xã hội không còn tồn tại. Hoạt động cung ứng các dịch vụ công cho xã hội do Nhà nước đảm nhiệm.

Sau năm 1975 do hậu quả chiến tranh để lại và do những nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau cộng với cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp trong thời kỳ chiến tranh vẫn được duy trì trong thời bình, năng lực sản xuất xã hội không được giải phóng làm cho đời sống của nhân dân càng trở nên khó khăn, dẫn đến sự khủng hoảng kinh tế vào những năm tám mươi thế kỷ XX. Xuất phát từ thực tiễn đó đòi hỏi đất nước phải đổi mới, dưới dự lãnh đạo của Đảng, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới kinh tế, từ đổi mới kinh tế dẫn đến đổi mới hành chính. Nhìn lại thấy được sự yếu kém, kém hiệu quả của khu vực công trong việc cung ứng các dịch vụ công và ưu thế của việc xã hội hóa dịch vụ công. Trong lĩnh vực công nghiệp xuất hiện quan điểm “ba lợi ích” “nhà nước và nhân dân cùng làm”, cùng với chủ trương chuyển sang nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa vào đầu những năm chín mươi thế kỷ XX, Nhà nước đã tiến hành xã hội hóa việc cung ứng một số dịch vụ công. Việc xã hội hóa ở đây không đơn thuần là việc chuyển dịch vụ công cho tư nhân thực hiện, mà còn nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất xã hội, giảm bớt gánh nặng tài chính cho Nhà nước và là bước ngoặt đánh dấu một sự thay đổi nhận thức của toàn xã hội khỏi những giáo điều chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy mà nhiều tổ chức thực hiện dịch vụ công xuất hiện và cũng xuất hiện nhiều loại hợp dồng như hợp đồng như: Hợp đồng giao thầu công chính (còn gọi là hợp đồng thầu khoán); hợp đồng cung ứng vật tư kỹ thuật và dịch vụ; hợp đồng đặc nhượng dịch vụ công; hợp đồng hợp tác; hợp đồng tuyển dụng công chức ngoại ngạch, hay hợp đồng hợp tác công tư.

Như vậy, việc chuyển dịch việc thực hiện dịch vụ công cho các cá nhân, tổ chức ngoài Nhà nước thực hiện như một tất yếu khách quan đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về dịch vụ công của xã hội. Nhìn từ góc độ kinh tế, xã hội, pháp lý có thể thấy dịch vụ công là những hoạt động vì lợi ích chung của xã hội, vì lợi ích công cộng. Dịch vụ công có thể do Nhà nước, hay các pháp nhân tư, cá nhân cung ứng, nhưng cá nhân, pháp nhân tư chỉ có thể thực hiện việc cung ứng dịch vụ công khi được Nhà nước ủy quyền, hoặc chấp thuận bằng một hợp đồng hoặc bằng một quyết định hành chính đơn phương. Hoạt động cung ứng dich vụ công được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật hành chính, do các cơ quan hành chính nhà nước quy định, không theo quy định của pháp luật dân sự, hay kinh tế. Điều đó có nghĩa là việc ký kết các hợp đồng cung ứng dịch vụ công được điểu chỉnh bởi luật hành chính, không theo luật thường – dân luật. Tất cả những yếu tố này tạo thànhyếu tố vật chất của hợp đồng hành chính.

Nhà nước nói chung, cơ quan nhà nước nói riêng với tư cách là pháp nhân cũng giống như các pháp nhân khác, có thể tham gia vào quan hệ bình đẳng với các bên khác trong quan hệ dân sự, kinh tế vì mục đích tiêu dùng, nhưng Nhà nước có thể tham gia vào các quan hệ với tư cách là pháp nhân công quyền khi Nhà nước ký kết các hợp đồng với cá nhân, pháp nhân tư để thực hiện các dịch vụ công. Vì vậy, về mặt pháp lý cần có sự phân biệt những hợp đồng được điều chỉnh bằng pháp luật dân sự, kinh tế, hay lao động và những hợp đồng được ký kết trên cơ sở của những quy phạm pháp luật hành chính. Việc phân biệt rõ những quan hệ nào, những lĩnh vực nào được điều chỉnh bởi luật công được coi là khuôn mẫu của sự công bằng và yêu cầu đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền. Điều này tạo nên động lực cho sự phát triển xã hội, mặt khác bảo đảm vị thế quyền uy của công quyền khi đáp ứng các lợi ích chung của xã hội. Sự lẫn lộn giữa luật công và luật tư là nguyên nhân làm suy yếu quyền lực của các pháp nhân công quyền. Vì vậy, cần phải phân biệt những quan hệ hợp đồng mà cơ quan nhà nước tham gia, có quan hệ được điều chỉnh bởi luật tư, có quan hệ được điều chỉnh bằng luật công và những tranh chấp phát sinh do luật tư điều chỉnh được giải quyết bằng cơ quan tài phán tư pháp, còn những tranh chấp do luật công điều chỉnh phải được giải quyết bằng tài phán hành chính.

2. Sự hình thành nhận thức về hợp đồng hành chính ở Việt Nam

Có thể nói trong điều kiện hiện nay ở nước ta, hợp đồng hành chính trong thực tiễn khá phát triển, nhưng về mặt khoa học thì việc nghiên cứu về hợp đồng hành chính còn rất khiêm tốn.

Đối với các chuyên gia pháp luật được đào tạo theo trường pháp pháp luật Xô viết – pháp luật xã hội chủ nghĩa, thường cũng chỉ quan tâm tới những hợp đồng truyền thống trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, thương mại, lao động, đó là những hợp đồng mà các bên trong quan hệ hoàn toàn tự do ý chí trong khuôn khổ pháp luật để ký kết các hợp đồng; các bên trong quan hệ hợp đồng hoàn toàn bình đẳng với nhau, không bên nào có ưu thế hơn bên khác trong quan hệ. Mà chưa có những nghiên cứu một cách căn bản về hợp đồng hành chính. Điều này xuất phát từ nguyên nhân khách quan là trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp, việc cung ứng các dịch vụ công cho xã hội do Nhà nước, các doanh nghiệp, hay tổ chức nhà nước cung ứng, Nhà nước bằng quyết định hành chính giao cho các tổ chức của Nhà nước thực hiện. Mọi hoạt động sản xuất kinh tế, cung ứng các dịch vụ công đều do Nhà nước, các tổ chức, hay doanh nghiệp do Nhà nước thành lập đảm nhiệm. Cơ quan hành chính là người tối cao quyết định mọi hoạt động của các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp. Trong điều kiện như vậy, khó có có mảnh đất cho những tư duy về hợp đồng hành chính, cho tư duy chuyển những công việc của Nhà nước cho cá nhân, hay pháp nhân phi quốc doanh thực hiện. Vì vậy, mà nhiều thế hệ các chuyên gia pháp luật Việt Nam cũng không quen với thuật ngữ hợp đồng hành chính.

Tuy vậy, cũng phải nhìn nhận một cách khách quan là do sự thay đổi của Hiến pháp, chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta qua các giai đoạn lịch sử. Thời kỳ đầu mới lập nước, sau cách mạng tháng Tám thành công, việc cung ứng một số dịch vụ công có thể do thành phần kinh tế phi nhà nước đảm nhiệm, đó là sự xuất hiện, tồn tại của những trường tư thục – trường dân lập để thực hiện chương trình giáo dục mầm non, mẫu giáo, thậm chí là những năm đầu của giáo dục tiểu học (dạy vỡ lòng, lớp 1, lớp 2)… Về sau thì những thiết chế này không còn tồn tại nữa. Điều đặc biệt là trong pháp luật, Sắc lệnh số 63/SL ngày 22/11/1945 và Sắc lệnh số 77 ngày 21/12/1945 đã sử dụng thuật ngữ “cho thầu công vụ”, phải chăng là những công việc của Nhà nước được đưa ra đấu thầu. Như vậy, về mặt pháp lý, Nhà nước có thể chuyển những công vụ nhà nước cho cá nhân, tổ chức ngoài Nhà nước thực hiện thông qua cơ chế đấu thầu, cơ chế giao kết một hợp đồng. Rất tiếc là những vấn đề này cũng không được ai nghiên cứu tiếp theo và chắc chắn nó ít được áp dụng trong thực tiễn.

Vào những năm chín mươi thế kỷ qua trong các giáo trình Luật hành chính ở các cơ sở đào tạo, các chuyên gia pháp luật, chuyên gia hành chính ở Miến Bắc khi đề cập tới hợp đồng hành chính cũng chỉ rất ngắn gọn, đơn giản coi thỏa thuậnhành chính là một phương pháp của luật hành chính, điều chỉnh quan hệ phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước khi giữa hai cơ quan hành chính cùng cấp ban hành thông tư liên tịch, hay giữa các cơ quan chính quyền địa phương cùng nhau thỏa thuận “ban hành” một văn bản với tên gọi “thỏa thuận” hay “nghị quyết” để cùng nhau giải quyết một vấn đề chung nào đó thuộc trách nhiệm của hai địa phương. Tuy vậy, cũng không có bất kỳ một sự ràng buộc nào giữa các bên ký kết thỏa thuận. Hay giữa một bên là chính quyền cùng với tập thể lao động ký kết “thỏa ước tập thể”, hay “thỏa ước lao động”, nhưng cũng không có bất kỳ một sự ràng buộc nào về mặt pháp lý, thường được ký kết rất long trọng, nhưng lại không được bảo đảm về mặt pháp lý, có nghĩa chưa có cơ sở pháp lý để bảo đảm cho nó được thực hiện. Mặt khác, trong các giáo trình cũng chỉ đề cập tới phương pháp thỏa thuận trong hành chính như là một phương pháp của quản lý nhà nước mới xuất hiện bên cạnh biện pháp truyền thống trong hành chính là phương pháp: Mệnh lệnh, quyền lực – phục tùng, mà chưa hề có bất kỳ một định nghĩa, giải thích nào về hợp đồng hành chính.

Trong khi đó ở miền Nam trước năm 1975 tiếp thu các tri thức của phương Tây, Anh – Mỹ và cũng do thực tiễn kinh tế – xã hội ở miền Nam phát triển hơn ở Miến Bắc trong nhiều lĩnh vực, kể cả lĩnh vực cung ứng dịch vụ công, do đó trong một số giáo trình Luật hành chính trước và sau năm 1975 ở miền Nam cũng đã đề cấp tới hợp đồng hành chính ở những nét khá cơ bản. Ví dụ: Trong cuốn Luật hành chánh do Nguyễn Độ biên soạn (loại sách Hồng – Đức) Sài Gòn năm 1969 cũng đã đề cập tới khế ước hành chính. Trong đó đề cập đến quan niệm của các chuyên gia luật tư và luật công về khế ước hành chính. Theo tác giả sự ra đời của hợp đồng hành chính là do “nhu cầu kỹ thuật cho một sự hợp tác đặc biệt về công vụ giữa một cơ quan hành chính và một tư nhân…”[2], đồng thời cũng đã bước đầu chỉ ra một số đặc điểm của hợp đồng hành chính, tuy vậy cũng không đưa ra định nghĩa khoa học về hợp đồng hành chính và tất cả những vấn đề trong giáo trình này cũng còn rất sơ khai chỉ có một vài trang.

Trong giáo trình Luật hành chính do Cẩn Chi soạn thảo năm 1992, phục vụ cho đào tạo các chuyên gia pháp luật ở miền Nam cũng giành một phần viết về khế ước hành chính, trong đó phân biệt hợp đồng hành chính với hợp đồng quản trị, đồng thời cũng đã bước đầu xác định một số loại hợp đồng hành chính ở nước ta và đưa ra một số tiêu chí để phân biệt hợp đồng hành chính với hợp đồng dân sự, con đường giải quyết tranh chấp hợp đồng hành chính bằng Tòa án hành chính. Tuy rằng, ở Việt Nam khi đó chưa trao cho Tòa án chức năng xét xử các vụ án hành chính, vì vậy những vấn đề lý luận đưa ra cũng chủ yếu dựa vào tri thức của nước ngoài, mà chưa có cơ sở pháp lý, vì pháp luật Việt Nam cho đến tận bây giờ cũng chưa sử dụng thuật ngữ “hợp đồng hành chính”.

Các nhà kinh tế học Việt Nam vào đầu những năm chín mươi cũng đã quan tâm tới “hợp đồng hành chính” và việc sử dụng chúng trong quản lý nhà nước. Trong “Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính” do GS. Mai Hữu Khuê chủ biên [3] cũng đã bước đầu đưa ra định nghĩa về hợp đồng hành chính, tuy còn rất sơ khai, đơn giản.

Đề tài khoa học cấp Bộ về “Hợp đồng hành chính và việc áp dụng vào quản lý nhà nước về kinh tế” do ThS. Đào Đăng Kiên làm chủ nhiệm đề tài, Học viện Hành chính Quốc gia năm 2002, lần đầu tiên đã đưa ra quan niệm về hợp đồng hành chính, nhưng còn mới chỉ là sự mô tả, chưa mang tính khái quát khoa học cao. Đồng thời tác giả cũng đưa ra các tiêu chí về hợp đồng hành chính, chỉ ra một số đặc trưng của hợp đồng hành chính, phân biệt hợp đồng hành chính với hợp đồng kinh tế, dân sự và cũng đã đề cập tới một số loại hợp đồng hành chính ở Việt Nam. Tuy vậy, những khía cạnh pháp lý của các loại hợp đồng ít được tác giả quan tâm làm rõ. Mặt khác, nhiều vấn đề nghiên cứu cũng chủ yếu dựa vào tài liệu của các học giả nước ngoài, nên có những ý kiến đưa ra mang tính chất chủ quan, chưa có cơ sở thực tiễn ở Việt Nam. Ngay chính trong đề tài này cũng không xem xét phân tích một cách cụ thể, xác đáng về một loại hợp đồng hành chính nào đó đã được sử dụng ở Việt Nam và được gọi là hợp đồng hành chính, mặc dù trong công trình này có đưa ra một số ví dụ cụ thể để minh họa về hợp đồng hành chính.

Giáo trình Luật hành chính Việt Nam – Khoa luật năm 2010 do PGS.TS. Nguyễn Cửu Việt biên soạn đã giành một mục viết về hợp đồng hành chính [4], bước đầu đưa ra quan niệm về hợp đồng hành chính, đặc điểm của hợp đồng hành chính và xác định, phân loại một số loại hợp đồng được gọi là hợp đồng hành chính, mà theo tác giả là theo tư duy pháp lý của các học giả nước ngoài, thì những hợp đồng được nêu ra là hợp đồng hành chính. Đây có thể được coi là những nghiên cứu cơ bản, đầu tiên về hợp đồng chính ở nước ta.

Năm 2006, PGS.TS. Phạm Hồng Thái công bố bài viết “Thầu công vụ – tư tưởng có tính thời đại” đăng Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, cũng năm đó viết bài “Từ thầu công vụ đến thầu chức vụ” đăng Tạp chí Dân chủ và Pháp luật. Trong đó, tác giả tập trung luận bàn về tư tưởng “thầu công vụ” trong Sắc lệnh số 63/SL và Sắc lệnh số 77/SL năm 1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời và quan niệm việc tuyển dụng cán bộ, công chức và bổ nhiệm các chức danh trong bộ máy nhà nước trên cơ sở thi tuyển cạnh tranh thực chất cũng là “thầu các chức vụ”. Cơ quan tuyển dụng, bổ nhiệm và người được tuyển dụng, bổ nhiệm, hay được bầu thực chất đã ký kết hợp đồng hành chính để đảm nhiệm công vụ nhà nước. Bài viết đăng tạp chí Luật học tháng 6 năm 2012 của GS.TS. Phạm Hồng Thái với tiêu đề: “Hợp đồng hành chính – một số vấn đề lý luận” cũng dừng lại nghiên cứu một số vấn đề lý luận về hợp đồng hành chính. Trên cơ sở phân tích các quan điểm của các học giả trong và ngoài nước khác nhau về hợp đồng hành chính, tiếp thu các quan điểm khoa học và bằng tư duy pháp lý, tác giả đưa ra quan niệm khoa học của mình về hợp đồng hành chính, chỉ ra được một số đặc điểm của hợp đồng hành chính, trên cơ sở phân biệt với các hợp đồng pháp lý khác, các loại hợp đồng hành chính đã được áp dụng ở Việt Nam và nêu ý kiến về việc cần phải thừa nhận hợp đồng hành chính trong pháp luật Việt Nam, không nên xếp chúng vào hợp đồng kinh tế, hay hợp đồng lao động. Ví dụ hợp đồng trong nghiên cứu khoa học, hợp đồng với công chức ngoại ngạch.

Như vậy, cho tới nay ở Việt Nam, chưa có những công trình nghiên cứu chuyên sâu về hợp đồng hành chính từ góc nhìn luật học. Có thể nói là khoa học luật học chưa phát triển theo kịp sự vận động phát triển của các quan hệ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khi mà các quan hệ trong lĩnh vực công, tư luôn thay đổi, vận động không ngừng. Nhà nước bắt đầu sử dụng những hình thức và phương pháp mới trong quản lý nhà nước để đáp ứng các yêu cầu của đời sống xã hội, đáp ứng việc cung ứng các dịch vụ công cho cá nhân, tổ chức, hoặc Nhà nước đứng ra “mua các dịch vụ” do cá nhân, tổ chức ngoài Nhà nước cung ứng và Nhà nước tiếp tục cung ứng cho các cá nhân, tổ chức nhằm đáp ứng yêu cầu thiết yếu của cá nhân, hay tổ chức với một mức giá nhất định, thấp hơn giá mà cá nhân, tổ chức bán dịch vụ cho Nhà nước.

Đây là những nghiên cứu bước đầu về hợp đồng hành chính ở Việt Nam, nhưng những công trình nêu trên, dù ở mức độ ít nhiều đã góp phần mở ra một xu hướng nghiên cứu mới cho sự phát triển của khoa học luật học Việt Nam về hợp đồng hành chính cả về lý luận và thực tiễn, đặc biệt là đặt ra những yêu cầu tiếp tục nghiên cứu phân biệt các loại hợp đồng mà các pháp nhân công quyền có thể sử dụng trong thực tiễn để đáp ứng yêu cầu của nền hành chính trong quản trị đất nước và cung cấp các dịch vụ công cho công dân.

3. Vai trò của hợp đồng hành chính

Ngày nay trong xu hướng cải cách hành chính chuyển từ hành chính điều hành sang hành chính phát triển, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi cơ quan hành chính phải thay đổi phương thức quản lý nhà nước bằng hình thức ký kết các hợp đồng hành chính. Hợp đồng hành chính thực chất là văn bản pháp lý được ký kết giữa các bên tham gia, việc ký kết hợp đồng là hình thức hoạt động của cá nhân, tổ chức, cơ quan, bởi vì thông qua việc ký kết các hợp đồng mà các chủ thể hợp đồng tham gia vào những quan hệ xã hội nhất định.

Trong lĩnh vực hành chính để đạt được mục tiêu, mục đích của quản lý, các cơ quan hành chính nhà nước (cả những cơ quan khác khi thực hiện hoạt động hành chính nhà nước) sử dụng chủ yếu phương pháp: Mệnh lệnh, quyền lực – phục tùng thông qua hoạt động mang tính pháp lý – ban hành các quyết định hành chính. Nhưng trong một số trường hợp để đạt được mục tiêu, mục đích của quản lý, đáp ứng những nhu cầu cần thiết cho cộng đồng, cơ quan hành chính nhà nước ký kết các hợp đồng khác nhau. Trong một số trường hợp, khi giao kết hợp đồng với các chủ thể khác, cơ quan nhà nước đại diện cho công quyền – với tư cách là một pháp nhân công pháp, hay đại diện cho một pháp nhân công pháp để ký kết, chính vì lẽ đó mà hợp đồng hành chính như là cái gạch nối giữa quan hệ dân sự, lao động, kinh tế với quan hệ hành chính. Bằng việc ký kết hợp đồng hành chính, các pháp nhân công pháp đáp ứng được các nhu cầu cho hoạt động của mình hoặc vì lợi ích cộng đồng, xã hội, công dân. Chính vì lẽ này hợp đồng hành chính được xem xét là hình thức của hoạt động hành chính nhà nước [5], hình thức của quản lý nhà nước.

Mặt khác, hợp đồng hành chính trở thành chuẩn mực điều chỉnh quan hệ giữa pháp nhân công pháp – một bên ký kết hợp đồng với bên khác trong quan hệ là cá nhân, tổ chức, cơ quan công quyền khác để thực hiện những dịch vụ công, công vụ nhà nước, hay những công việc thuộc nhiệm vụ của nhiều cơ quan cùng phải thực hiện.

Trong công cuộc cải cách hành chính nhà nước, việc chuyển từ hành chính truyền thống sang nền hành chính công mới, từ nền hành chính công mới sang quản lý công mới, hình thức và phương pháp hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung, cơ quan hành chính nhà nước nói riêng có nhiều những thay đổi, hợp đồng hành chính ngày càng có ý nghĩa, vai trò quan trọng trong đời sống nhà nước và xã hội, đặc biệt trong hoạt động hành chính nhà nước, được thể hiện ở những điểm sau đây:

Thứ nhất, sự ra đời của hợp đồng hành chính góp phần làm thay đổi phương thức, hình thức hoạt động của các cơ quan công quyền, đặc biệt là cơ quan hành chính nhà nước. Phương pháp mệnh lệnh hành chính (quyết định đơn phương của cơ quan hành chính nhà nước) được thay dần bằng hợp đồng hành chính trong mộtsố trường hơp, qua đó mà quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức, nhà nước được bảo đảm.

Thứ hai, sự ra đời của hợp đồng hành chính tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển dịch vụ công, tách hoạt động cung ứng dịch vụ công ra khỏi hoạt động công quyền nhằm giảm những chi phí không cần thiết cho ngân sách nhà nước, giảm biên chế trong bộ máy nhà nước, bảo đảm tính công khai, minh bạch của hoạt động công quyền và hoạt động cung ứng dịch vụ công.

Thứ ba, với việc sử dụng hợp đồng hành chính trong hoạt động hành chính nhà nước làm cho công quyền xích lại gần với xã hội dân sự, tạo điều kiện cho xã hội dân sự phát triển, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan công quyền với cá nhân, tổ chức, tạo mối quan hệ trách nhiệm qua lại giữa nhà nước và công dân.

Thứ tư, khi một số hợp đồng dân sự, lao động, hay quyết định hành chính được “chuyển hóa” thành hợp đồng hành chính sẽ làm cho hợp đồng được thực thi một cách nghiêm minh hơn, bởi tính công quyền của pháp nhân công pháp với tư cách là một bên trong quan hệ hợp đồng.

Thứ năm, việc giải quyết tranh chấp trong thực hiện hợp đồng hành chính sẽ bớt gây tổn hại về kinh tế, tài chính của Nhà nước, cá nhân, tổ chức như trong giải quyết tranh chấp dân sự, kinh tế.

Với quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tôn trọng và bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân và cải cách hành chính ở nước ta hiện nay, phù hợp với xu hướng hội nhập, mở cửa, theo chúng tôi điều quan trọng hiện nay ở nước ta là cần phải:

– Đổi mới tư duy pháp lý, trước hết là của giới học thuật để có những nhận thức theo kịp với xu hướng phát triển của khoa học pháp lý chung trên thế giới, đặc biệt là những nhận thức trong lĩnh vực hợp đồng hành chính. Không nên chia cắt pháp luật vốn là một thể thống nhất thành các mảng có tính chuyên biệt để xem xét, không nên tuyệt đối hóa những nhận thức có tính truyền thống về hợp đồng, về hành chính nhà nước. Hành chính nhà nước cũng chỉ là một thiết chế cũng giống như những thiết chế khác trong xã hội, có trách nhiệm, nghĩa vụ phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân.

– Trong khoa học pháp lý Việt Nam, cần có những nghiên cứu để phân biệt hợp đồng hành chính với các hợp đồng truyền thống (dân sự, lao động, kinh tế, thương mại). Các nhà khoa học Việt Nam, trước hết là các chuyên gia pháp luật cần phải tập trung nghiên cứu một cách xác đáng về hợp đồng hành chính cả ở phương diện lý luận và thực tiễn, coi đây là một định hướng của nghiên cứu khoa học Luật hành chính.

– Những kết quả nghiên cứu khoa học của các nhà khoa học về hợp đồng hành chính sẽ lan tỏa, dần tác động đến nhận thức của các nhà lập pháp, các nhà hành chính và cả các quan tòa, làm cho hoạt động hành chính nhà nước ngày một năng động, sáng tạo, tăng tính trách nhiệm của bộ máy hành chính trong quan hệ với cá nhân, tổ chức, xã hội.

– Để đưa hợp đồng hành chính vào đời sống nhà nước và xã hội, điều đặc biệt quan trọng là phải hoàn thiện hệ thống pháp luật cả pháp luật dân sự, pháp luật lao động, kinh doanh, thương mại, pháp luật hành chính. Cần phải tách những hợp đồng được xếp vào loại hợp đồng hành chính ra khỏi những văn bản quy phạm pháp luật quy định về hợp đồng dân sự, hợp đồng lao động, hợp đồng kinh tế, thương mại và đặt tên cho những hợp đồng loại này là hợp đồng hành chính. Việc này có thể được thực hiện bằng cách công nhận những hợp đồng nào đó là hợp đồng hành chính bằng văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hoặc bằng quyết định của Tòa án qua hoạt động xét xử để khẳng định một hợp đồng nào đó là hợp đồng hành chính.

GS. TS. Phạm Hồng Thái

Tài liệu tham khảo:

[1]. Xem khoản 4 Điều 85 Sắc lệnh số 63/Sl ngày 22/11/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời và khoản 4 Điều 18 Sắc lệnh số 77 /Sl ngày 21/12/ 1945 ngày của Chủ tịch lâm thời.

[2]. Nguyễn Độ, Luật hành chánh, loại sách Hồng- Đức, Sài Gòn năm 1969, tr. 107.

[3]. Mai Hữu Khuê chủ biên, Từ Điển giải thích thuật ngữ, Nxb. Lao động Hà Nội năm 2002, tr. 335 và 336.

[4]. Khoa luật, Luật hành chính Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010, tr. 411- 417.

[5]. Xem Luật hành chính Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010, tr. 407.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Cần quy định thống nhất về độ tuổi trẻ em trong hệ thống pháp luật Việt Nam

28/12/2015

1. Quy định của pháp luật quốc tế về độ tuổi của trẻ em

Trong các văn bản quốc tế và các chương trình của Liên Hợp quốc sử dụng đồng thời cả hai khái niệm trẻ em và người chưa thành niên. Điều 1 Công ước của Liên Hợp quốc về Quyền trẻ em (United Nations Convention on the rights of the child – CRC) có quy định như sau: Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn. Và tại Điều 2 trong Công ước số 182 – Công ước Nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xoá bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, năm 1999 có quy định: Trong Công ước này, thuật ngữ “trẻ em” sẽ áp dụng cho tất cả những người dưới 18 tuổi.

2. Quy định của pháp luật Việt Nam về độ tuổi của trẻ em

Về khái niệm “trẻ em” và độ tuổi của trẻ em ở Việt Nam hiện nay được quy định trong nhiều văn bản luật và dưới luật, nhưng không có sự thống nhất, rõ ràng, thậm chí còn chồng chéo nhau khi định nghĩa về độ tuổi của trẻ em, đến khi nào thì không còn là trẻ em? Điều này cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, cụ thể:

– Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Việt Nam năm 2004 quy định thì: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” [1]. Như vậy, quy định về tuổi trẻ em trong Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em của Việt Nam đã có độ vênh tới 2 tuổi so với Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em.

– Theo Luật Thanh niên năm 2005 quy định thì: “Thanh niên quy định trong Luật này là công dân Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi” [2].

– Theo Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định thì: Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây: Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên. Trong khi đó, tại Điều 18 của Bộ luật dân sự hiện hành thì: Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Như vậy, với nữ thì chỉ cần đủ 18 tuổi trở lên là có quyền được kết hôn, nhưng nam thì phải đợi đến đủ 20 tuổi mới được thực hiện quyền được kết hôn của mình? Vậy phải chăng đối với nam thì đến 20 tuổi mới hết là trẻ em? Chỉ riêng quy định này cũng đã cho chúng ta thấy, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, tuy mới ban hành, nhưng đã bộc lộ bất cập, không thống nhất với Bộ luật Dân sự [3].

– Bộ luật Dân sự quy định [4]: Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên. Với quy định này, có thể hiểu rằng, người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa trưởng thành, tức cũng có nghĩa là người chưa đủ 18 tuổi vẫn còn là trẻ em.

– Luật Lao động năm 2012 quy định về người lao động như sau: Người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động” [5]. Theo quy định trên thì người lao động có thể là người chưa thành niên, nói cách khác là có thể vẫn còn là trẻ em.

– Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 cũng xác định đối tượng xử phạt hành chính phải từ đủ 14 tuổi trở lên, cụ thể là: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính” [6], quy định này đồng nghĩa với việc coi trẻ em là 14 thay vì 16 như quy định chung.

Cách đây hơn 25 năm, vào ngày 20/02/1990, Việt Nam đã chính thức trở thành nước đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước Quốc tế về Quyền Trẻ em, Việt Nam cũng là một trong số ít quốc gia trên thế giới đã ban hành Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Tuy nhiên, đến nay, Việt Nam lại là nước còn lại duy nhất trong khối ASEAN; thứ 4 ở châu Á và thứ 11 trên thế giới chưa nâng độ tuổi pháp lý của trẻ em lên 18.

Việc quy định không thống nhất, không rõ ràng về độ tuổi trẻ em như trên đã gây ra không ít khó khăn, bất cập trong công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

3. Cần quy định thống nhất về trẻ em và độ tuổi của trẻ em trong hệ thống pháp luật Việt Nam phù hợp với Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em và Hiến pháp năm 2013

Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15/6/2004 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2005. Qua hơn 10 năm đi vào cuộc sống, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 đã bộc lộ nhiều hạn chế, nhiều quy định đã không phát huy được hiệu lực, hiệu quả và nhiệm vụ trong việc bảo vệ trẻ em, chưa phù hợp với Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em, trong khi đó, đời sống hiện nay đã nảy sinh nhiều vấn đề liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Trong những năm qua, thực tế đã phản ánh, vẫn còn có rất nhiều trẻ em phải bỏ học, phải lang thang, vất vả lao động kiếm sống, mặc dù chưa đến tuổi lao động, nhiều trẻ em bị bạo lực, bóc lột xâm hại tình dục “… Theo thống kê của Cục Bảo vệ chăm sóc trẻ em (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội), số trẻ bị xâm hại tình dục nhiều lần chiếm 28,2% và số trẻ em bỏ học, sống lang thang, bị xâm hại tình dục chiếm 11,6%. Bên cạnh đó, theo báo cáo của 63 tỉnh, thành phố cho thấy, trung bình mỗi năm, cả nước xảy ra 1.000 vụ xâm hại tình dục, năm sau thường cao hơn năm trước. Trong đó, số trẻ em bị hiếp dâm chiếm đến 65%. Năm 2014, cả nước đã xảy ra 839 vụ xâm hại tình dục đối với người vị thành niên (tăng 1,2% so với năm 2013 và chiếm 60% số vụ xâm hại trẻ em)… Đáng lo ngại tình trạng loạn luân (bố đẻ hiếp dâm con gái; bố dượng hiếp dâm con gái riêng của vợ; anh trai hiếp dâm em gái) hay tình trạng hiếp dâm tập thể, hiếp dâm trẻ em dưới 5 tuổi, hiếp dâm rồi giết trẻ em, thầy giáo xâm hại học sinh… đang có chiều hướng gia tăng” [7]..

Như đã phân tích ở trên, việc quy định không thống nhất, rõ ràng về độ tuổi trẻ em giữa một số luật, văn bản luật đã gây rất nhiều khó khăn trong công tác quản lý nhà nước và xác định một trong những chủ thể cần được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục là trẻ em khi tham gia các quan hệ của đời sống, xã hội.

Trước thực tế này, thời gian qua, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã tiến hành lấy ý kiến các cơ quan chức năng và trẻ em về việc sửa đổi Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII vừa qua Dự thảo Luật Bảo vệ và chăm sóc, giáo dục trẻ em đã được trình Quốc hội thảo luận và xem xét, dự kiến sẽ được thông qua tại kỳ thứ 11, Quốc hội khóa XIII. Dự thảo Luật lần này có nhiều quy định mới được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện dựa trên những quan điểm đem lại lợi ích tốt nhất cho trẻ em. Một trong những chế định được đề xuất sửa đổi đó là quy định nâng độ tuổi của trẻ em Việt Nam từ 16 tuổi lên 18 tuổi.

Theo Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em quy định thì trẻ em là người dưới 18 tuổi. Qua khảo sát của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp quốc tại Việt Nam cho thấy: ở châu Á chỉ có Việt Nam, Myanmar, Singapore còn quy định tuổi của trẻ em thấp hơn 18. Campuchia và Lào đã quy định tuổi trẻ em dưới 18 tuổi. Myanmar đang sửa đổi Luật Trẻ em theo hướng nâng độ tuổi trẻ em lên 18 tuổi… Tuy nhiên, hiện nay, bên cạnh một số luật, văn bản luật chưa có sự thống nhất về độ tuổi trẻ em cần được chăm sóc, bảo vệ, giáo dục, thì cũng có một số luật đã quy định ngưỡng thành niên và chưa thành niên là 18 tuổi như: Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Bầu cử Quốc hội, Luật Bầu cử Hội đồng nhân dân và đặc biệt là những quy định của Hiến pháp năm 2013, như quy định về việc: Công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử, công dân từ đủ 18 tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân [8]… Như vậy, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013, nếu quy định tuổi trẻ em là dưới 18 tuổi và công dân từ đủ 18 tuổi là người thành niên và có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực dân sự, sẽ bảo đảm và củng cố tính thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam về ngưỡng tuổi trưởng thành đầy đủ, tức là tuổi thành niên và chưa thành niên.

Theo kết quả nghiên cứu về “Nâng độ tuổi pháp lý của trẻ em lên dưới 18 trong bối cảnh Việt Nam hiện nay – lợi ích, tác động và một số giải pháp” do Hội Bảo vệ Quyền trẻ em Việt Nam phối hợp cùng Tổ chức Plan tại Việt Nam thực hiện đã chỉ rõ, về cơ sở khoa học, tâm sinh lý của trẻ em từ 16 – 18 tuổi còn non nớt, chưa hoàn thiện, có những thay đổi lớn trong giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ em lên người trưởng thành với nhận thức xã hội, hành vi chưa chín chắn. Do vậy, trẻ em trong lứa tuổi này thường dễ bị tổn thương, dễ bị lợi dụng và lệch lạc về hành vi, thái độ, nhận thức; đồng nghĩa với việc dễ bị vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp cũng như có nguy cơ thực hiện các hành vi trái pháp luật khá cao [9].

Việc Dự thảo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (sửa đổi) đã mở rộng khái niệm “trẻ em” cả về độ tuổi và phạm vi, cụ thể: Điều 1 Dự thảo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (sửa đổi) quy định: Trẻ em là người dưới 18 tuổi, mà không giới hạn phải là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi như quy định tại Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 [10]. Quy định này nhằm bảo đảm phù hợp hơn với Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em, phù hợp với quy định về quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Theo đó, ngoài việc bảo đảm quyền của trẻ em là công dân Việt Nam, Việt Nam còn ghi nhận các quyền trẻ em đồng thời là quyền con người của mọi trẻ em, không phân biệt quốc tịch và đang sinh sống tại Việt Nam. Khi tăng độ tuổi trẻ em lên 18 tuổi thì trẻ em sẽ là người được hưởng lợi rất nhiều. Đơn cử như 18 tuổi vẫn là trẻ em thì các em sẽ được hưởng lợi từ các chính sách ưu đãi dành cho người chưa thành niên trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, phúc lợi xã hội. Đặc biệt, trong lĩnh vực y tế, trẻ em sẽ được bảo đảm việc cung ứng các loại thuốc thiết yếu chữa bệnh cho trẻ em; bảo đảm điều kiện và chất lượng khám bệnh, chữa bệnh, được tiêm chủng phòng bệnh, phòng dịch… Đồng thời, việc nâng độ tuổi của trẻ em cũng sẽ mở rộng phạm vi áp dụng quyền trẻ em đối với người chưa thành niên trong độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, tạo điều kiện cho các em phát triển đầy đủ cả về thể chất và tinh thần, tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước trong tương lai.

Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước. Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong điều kiện tốt nhất là nhiệm vụ của toàn xã hội, và là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong việc đảm bảo an sinh xã hội, vì mục tiêu phát triển ổn định và lâu dài của đất nước. Bởi vậy, việc “Tạo dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh mà ở đó tất cả trẻ em đều được bảo vệ. Chủ động phòng ngừa, giảm thiểu, loại bỏ các nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em, giảm thiểu tình trạng trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt và trẻ em bị xâm hại, trẻ em bị bạo lực. Trợ giúp, phục hồi kịp thời cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và trẻ em bị xâm hại, bị bạo lực, tạo cơ hội để các em được tái hòa nhập cộng đồng và bình đẳng về cơ hội phát triển” [11] là một trong những mục tiêu quan trọng, là mối quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước ta, của toàn xã hội và của mỗi gia đình. Việc nâng độ tuổi pháp lý của trẻ em lên 18 tuổi cũng không vi phạm quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; ngược lại, đây là cách Việt Nam thể hiện cam kết của Nhà nước trong việc bảo đảm và thực hiện quyền trẻ em; đồng thời khẳng định vai trò tích cực, chủ động của Việt Nam trong quá trình hội nhập các thể chế khu vực và quốc tế nhằm xây dựng, hoàn thiện cơ chế thúc đẩy quyền con người trong đó có quyền trẻ em.

Cùng với việc phát triển kinh tế, trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, văn bản pháp luật trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến bảo vệ các quyền trẻ em. Từ các bản Hiến pháp, các Bộ luật, các Luật, đến các văn bản dưới luật đã tạo thành một hệ thống pháp luật bảo vệ trẻ em phù hợp với các Công ước Quốc tế về Quyền con người và truyền thống văn hoá của dân tộc. Hiến pháp năm 2013 là thành tựu của gần 30 năm đổi mới đất nước, đã thể hiện rõ hơn trách nhiệm của Nhà nước ta trong việc đảm bảo thực hiện quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung nhiều quy định về quyền con người trong Chương II là một bước tiến đáng kể về tư duy Nhà nước pháp quyền và thực hiện quyền con người ở Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên quy định quyền sống; quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa, nghiên cứu và thụ hưởng các kết quả khoa học; quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp; quyền được sống trong môi trường trong lành… phù hợp với các Công ước Quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.

Hiến pháp năm 2013 đã có hiệu lực thi hành được gần 02 năm, theo đó nhiều đạo luật đã được xây dựng mới, sửa đổi, bổ sung và đang được triển khai thực hiện [12], nhiều đạo luật mới mang tính “rường cột” cụ thể hóa tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân đã được thông qua và sẽ có hiệu lực thi hành trong năm 2016 [13] và những năm tiếp theo [14]. Theo chúng tôi, việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 là cần thiết, trong đó, cần ghi nhận quy định nâng độ tuổi trẻ em lên 18 tuổi [15] phù hợp với nội dung và quy định của Hiến pháp năm 2013 về đảm bảo quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền của trẻ em. Bên cạnh đó, hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam cũng cần thống nhất định nghĩa về “trẻ em” và độ tuổi của trẻ em.

Vũ Hải Việt, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật

Nguyễn Thị Thanh Bình, Học Viện hành chính quốc gia



[1]Điều 1 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004.

[2] Điều 1 Luật Thanh niên năm 2005.

[3] Điểm a khoản 1 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2014.

[4] Điều 18 Bộ Luật Dân sự năm 2005 và Điều 20, Điều 21, Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2017.

[5]Khoản 1 Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2012.

[6] Điểm a khoản 1 Điều 5 Luật Xử lý vi phạmhành chính năm 2012.

[7]Xem: Ngô Xuân Tính – Nguyễn Thị Ngọc Dung: “Tình trạng trẻ em bị xâm hại tình dục– Những vấn đề cần quan tâm”-http://csnd.vn/Home/Print/1104/Tinh-trang-tre-em-bi-xam-hai-tinh-duc-Nhung-van-de-can-quan-tam

[8] Điều 27, Điều 29 Hiến pháp năm 2013.

[9] Việt Hà – TTXVN: Xem xét nâng độ tuổi pháp lý của trẻ em Việt Nam lên dưới 18 tuổi

http://news.go.vn/phap-luat/tin-1434514/xem-xet-nang-do-tuoi-phap-ly-cua-tre-em-viet-nam-len-duoi-18-tuoi.htm

[10] Điều 1 – Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004

[11]Tiết a mục 1 Điều 1 Quyết định số 67/QĐ-TTg, ngày 22/2/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011 –2015.

[12] Hiến pháp năm 2013; Luật Nhà ở; Luật Kinh doanh bất động sản; Luật Doanh nghiệp; Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp; Luật Đầu tư; Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự; Luật Giáo dục nghề nghiệp; Luật Công an Nhân dân; Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam; Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam.

[13] Bộ Luật Hình sự năm 2015; Luật Căn cước công dân; Luật Hộ tịch; Luật Bảo hiểm xã hội…

[14] Bộ luật Dân sự năm 2015, có hiệu lực thi hành 01/01/2017.

[15] Điều 1 Dự thảo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (sửa đổi)

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Các nguyên tắc giám định tư pháp là những quan điểm, tư tưởng chủ đạo mà hoạt động giám định tư pháp phải tuân theo. Các nguyên tắc thực hiện giám định tư pháp thể hiện các đặc điểm, bản chất của hoạt động giám định. Các nguyên tắc giám định tư pháp được ghi nhận tại Điều 3 Pháp lệnh giám định tư pháp. Hoạt động giám định phải tuân thủ các nguyên tắc sau: Nguyên tắc tuân thủ pháp luật, tuân theo các quy chuẩn chuyên môn; nguyên tắc trung thực, chính xác, khách quan; nguyên tắc chỉ kết luận về chuyên môn những vấn đề liên quan đến vụ án trong phạm vi được yêu cầu giám định và nguyên tắc chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật.

 



 

1. Nguyên tắc tuân thủ pháp luật, tuân theo các quy chuẩn chuyên môn



 

Giám định tư pháp là việc sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn các vấn đề có liên quan đến vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự do người giám định thực hiện theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nhằm phục vụ cho việc giải quyết các vụ án, vụ việc đó.



 

Giám định tư pháp phải tuân thủ pháp luật bắt nguồn từ nguyên tắc bảo đảm pháp chế trong tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành chính. Thông qua các kết luận chuyên môn, giám định cung cấp những chứng cứ khách quan, khoa học, có ý nghĩa rất quan trọng, đôi khi có còn có tính quyết định đến việc giải quyết đúng đắn vụ án, vụ việc. Vì vậy, hoạt động giám định phải tuân thủ pháp luật.



 

Nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động giám định tư pháp phải được quy định chặt chẽ, cụ thể, khả thi trong Bộ luật Tố tụng Hình sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, Pháp lệnh Giám định tư pháp và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan và các quy định của pháp luật về giám định tư pháp phải được tuân thủ một cách nghiêm chỉnh, thống nhất.



 

Nguyên tắc này đòi hỏi Nhà nước phải quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn, địa vị pháp lý của người giám định, trình tự, thủ tục trưng cầu giám định, thực hiện giám định. Điều đó có nghĩa rằng tiêu chuẩn, địa vị pháp lý của người giám định, trình tự, thủ tục trưng cầu giám định, thực hiện giám định phải được pháp luật quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan.



 

Ở khía cạnh áp dụng pháp luật, nguyên tắc này đòi hỏi những người giám định, các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng khác phải tuân thủ triệt để, nghiêm chỉnh và thống nhất chế định giám định tư pháp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, hành chính và vụ việc dân sự. Trong trường hợp việc giám định tư pháp có vi phạm pháp luật thì các cơ quan có trách nhiệm phải áp dụng các biện pháp để khắc phục vi phạm đó. Điều 60 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định: Người giám định từ chối kết luận giám định mà không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của Bộ luật Hình sự. Người giám định kết luận gian dối thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 307 của Bộ luật Hình sự.



 

Để đảm bảo cho nguyên tắc này, khoản 2 Điều 23 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định: Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này.



 

Tại khoản 1 Điều 21 Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định:Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.



 

Tại Điều 10 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính quy định: Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hành chính theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và của Pháp lệnh này.



 

Bản chất của giám định là sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến vụ án hình sự, hành chính và vụ việc dân sự. Hoạt động giám định mang tính khoa học và chuyên môn chuyên sâu. Các hoạt động chuyên môn rất đa dạng và phong phú, do đó chuyên môn của các tổ chức giám định cũng rất đa dạng. Trong một số lĩnh vực, tổ chức giám định phát triển trở thành hệ thống từ Trung ương xuống địa phương như: Lĩnh vực kỹ thuật hình sự, lĩnh vực pháp y, lĩnh vực pháp y tâm thần. Để giám định mang tính khoa học, đảm bảo chính xác, khách quan, thống nhất, hoạt động giám định phải tuân theo các quy chuẩn chuyên môn. Quy chuẩn chuyên môn về giám định tư pháp là yêu cầu về quy trình kỹ thuật, phương pháp kỹ thuật và phương tiện kỹ thuật phải tuân thủ trong quá trình thực hiện giám định nhằm đảm bảo kết luận giám định được chính xác, khách quan. Tuân thủ quy chuẩn chuyên môn đòi hỏi, các bộ, ngành cần xây dựng những quy chuẩn chuyên môn giám định tư pháp, đồng thời khi tiến hành giám định, người giám định thuộc chuyên ngành nào phải tuân theo quy chuẩn chuyên môn của chuyên ngành đó. Quy chuẩn chuyên môn do các Bộ, ngành ban hành bắt buộc những người giám định thuộc lĩnh vực đó phải tuân theo. Giám định phải được tiến hành theo một trình tự nhất định, không chủ quan, võ đoán, hay bỏ qua một bước, một khâu nào trong quá trình giám định.



 

Tuân theo quy chuẩn chuyên môn là cơ sở để đánh giá kết luận giám định, đảm bảo tính đúng đắn, khách quan để làm căn cứ giải quyết vụ án.



 

2. Nguyên tắc trung thực, chính xác, khách quan



 

Trung thực là một phẩm chất tốt đẹp của con người. Trung thực có thể hiểu là ngay thẳng, thật thà, nói đúng sự thật, không sai lệch sự thật, chân lý, lẽ phải. Giám định cung cấp cho các cơ quan tiến hành tố tụng những chứng cứ mang tính khoa học. Nhiều trường hợp, kết luận giám định có ý nghĩa quyết định đối với vụ án, vụ việc. Nếu hoạt động giám định không trung thực, hoạt động tố tụng có thể sẽ đi chệch hướng. Do đó, trung thực là đòi hỏi khách quan trong quá trình giám định.



 

Trung thực đòi hỏi người giám định có nghĩa vụ thực hiện giám định theo đúng trưng cầu. Người giám định từ chối kết luận giám định mà không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội từ chối kết luận giám định. Nếu người giám định kết luận gian dối thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cung cấp tài liệu sai sự thật.



 

Trung thực cũng đòi hỏi người giám định phải từ chối giám định nếu đã là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến vụ án; là người đại diện hợp pháp, người thân thích của những người đó hoặc của bị can, bị cáo; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc đã tiến hành tố tụng với tư cách là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên toà hoặc đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người phiên dịch trong vụ án đó; có người thân thích đã tham gia tố tụng cùng một vụ án hành chính ở cấp xét xử khác; hoặc có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.



 

Trung thực đòi hỏi người giám định phải kết luận đúng với những gì hiện có, không thêm bớt, võ đoán. Khi thực hiện giám định phải ghi nhận kịp thời, đầy đủ và trung thực toàn bộ quá trình thực hiện giám định bằng văn bản. Văn bản ghi nhận quá trình thực hiện giám định phải được lưu trong hồ sơ giám định. Hồ sơ giám định phải được xuất trình theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đang giải quyết vụ án.



 

Kết luận giám định phần lớn dựa trên các phương pháp, phương tiện khoa học. Chính xác vừa là bản chất vừa là đòi hỏi của kết luận giám định. Nếu kết luận giám định không chính xác, thì kết luận đó không có giá trị.



 

Chính xác đòi hỏi khi tiến hành giám định, người giám định phải sử dụng những phương pháp chính xác, hoàn hảo đã được khoa học và pháp luật thừa nhận. Khi cần thiết, người giám định phải tiến hành thực nghiệm để đối chiếu kết quả giám định.



 

Khách quan đòi hỏi hoạt động giám định phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng sự thật khách quan, thái độ khách quan của người giám định khi thực hiện giám định. Khách quan cũng là thể hiện nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của người tham gia tố tụng trong hoạt động tố tụng hình sự. Sự công tâm, vô tư của người giám định có ý nghĩa rất quan trọng. Điều 14 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định: Người giám định không được tham gia tố tụng, nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình. Nếu không vô tư thì họ phải từ chối hoặc bị thay đổi.



 

Để đảm bảo sự vô tư của người giám định trong hoạt động giám định lại, Điều 159 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 quy định: Giám định lại phải do người giám định khác tiến hành.



 

3. Nguyên tắc chỉ kết luận về chuyên môn những vấn đề liên quan đến vụ án trong phạm vi được yêu cầu giám định



 

Trong tố tụng hình sự, trách nhiệm xác định sự thật khách quan của vụ án hình sự thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Trong tố tụng dân sự, đánh giá chứng cứ thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Còn trong tố tụng hành chính, trách nhiệm thu thập, đánh giá chứng cứ cũng thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Mặt khác, kết luận giám định chỉ là kết luận về chuyên môn những vấn đề liên quan đến vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự. Do đó, khi kết luận giám định, người giám định chỉ kết luận về chuyên môn những vấn đề liên quan đến vụ án trong phạm vi được yêu cầu giám định, không kết luận về mặt pháp lý đối với những vấn đề được trưng cầu giám định, không kết luận hành vi phạm tội và người phạm tội, lỗi của các bên đương sự.



 

Khi trình bày, giải thích kết luận giám định, người giám định chỉ trình bày, giải thích vấn đề chuyên môn được trưng cầu, không trình bày, giải thích thêm các vấn đề khác, hoặc kết luận về hành vi phạm tội và người phạm tội, lỗi của các bên đương sự. Nếu phát sinh những vấn đề khác thuộc chuyên môn của mình, thì phải tiến hành giám định theo thủ tục giám định bổ sung.



 

Nguyên tắc chỉ kết luận về chuyên môn những vấn đề liên quan đến vụ án, vụ việc trong phạm vi được trưng cầu còn thể hiện trong giám định tập thể thuộc nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau thì mỗi người giám định thực hiện phần việc giám định và kết luận vấn đề thuộc chuyên môn của mình.



 

Giám định là hoạt động hỗ trợ tư pháp, do đó người giám định không thể làm thay cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Nguyên tắc này cũng đòi hỏi, cơ quan trưng cầu giám định không trưng cầu giám định những vấn đề pháp lý, hay đặt những câu hỏi mang tính định tội hoặc gỡ tội, xác định lỗi trong quyết định trưng cầu giám định đối với người giám định.



 

4. Nguyên tắc chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về kết luận giám định



 

Giám định là các hoạt động chuyên môn đặc thù mang tính độc lập. Mặt khác, kết luận giám định là nguồn chứng cứ khách quan, đôi khi rất quan trọng có tính quyết định đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án, vụ việc. Nếu kết luận không đúng sự thật, có thể làm cho các hoạt động tố tụng đi chệch hướng, dẫn đến để lọt tội phạm, hoặc làm oan người vô tội, gây thiệt hại quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Chính vì vậy, khi tham gia tố tụng, người giám định phải chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về kết luận giám định. Nguyên tắc trách nhiệm cá nhân đề cao trách nhiệm của người giám định khi tham gia tố tụng.



 

Nguyên tắc chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về kết luận giám định thể hiện việc người giám định có quyền độc lập đưa ra kết luận của mình. Đối với trường hợp giám định cá nhân, thì người giám định phải chịu trách nhiệm trước kết luận giám định của mình. Trong trường hợp kết luận tập thể về một lĩnh vực chuyên môn thì những người giám định cùng chịu trách nhiệm về kết luận đó. Trong trường hợp có ý kiến khác nhau, thì mỗi người giám định ghi riêng ý kiến của mình vào bản kết luận giám định chung và chịu trách nhiệm về các ý kiến đó.



 

Trong trường hợp giám định tập thể thuộc nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau thì mỗi người thực hiện giám định phần việc thuộc lĩnh vực chuyên môn của mình và chịu trách nhiệm về kết luận giám định của mình.



 

Nếu người giám định cố ý đưa ra kết luận giám định sai sự thật gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức liên quan, thì người giám định phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra và phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cung cấp tài liệu sai sự thật theo Điều 307 của Bộ luật Hình sự.

Hải Nam

 
 
 
 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com


Qua nghiên cứu Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh số 336 ra ngày 10/12/2010 có nêu trường hợp bà Phạm Thị H., ngụ tại quận 10 (TP. Hồ Chí Minh) lỡ mua phải căn nhà của bà C là người phải thi hành án, tại Bà Rịa – Vũng Tàu. Trong thời gian thông báo tự nguyện thi hành án, người phải thi hành án đã bán nhà (hoặc tài sản cho người khác) và hoàn tất thủ tục, được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà. Đây là trường hợp có thể xảy ra nhiều trong thực tiễn, nếu không có quy định thống nhất thì sẽ làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên mua. Tôi xin nêu một số bất cập trong giải quyết các giao dịch liên quan đến tài sản của người phải thi hành án để độc giả cùng tham khảo.



Thông tư Liên tịch số 12/TTLT-BTP-VKSNDTC ngày 26/12/2001; và tại khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thủ tục thi hành án dân sự quy định về kê biên, xử lý tài sản để thi hành án như sau: “Kể từ thời điểm có bản án, quyết định sơ thẩm mà người phải thi hành án bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố tài sản của mình cho người khác, không thừa nhận tài sản là của mình mà không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên để thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu có tranh chấp thì Chấp hành viên hướng dẫn đương sự thực hiện việc khởi kiện tại Toà án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo mà không có người khởi kiện thì Cơ quan thi hành án xử lý tài sản để thi hành án.



Kể từ thời điểm có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc trong trường hợp đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án mà tài sản bị bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố cho người khác, người phải thi hành án không thừa nhận tài sản là của mình thì bị kê biên, xử lý để thi hành án”.



1. Tài sản giao dịch của người phải thi hành án là bất động sản



Tài sản giao dịch của người phải thi hành án là nhà ở. Chẳng hạn, trường hợp bà Minh bị Toà án thành phố H. tuyên phải bồi thường 80 triệu đồng cho bà Sơn (bản án sơ thẩm số 17/DSST có hiệu lực pháp luật từ ngày 15/9/2010). Trong quá trình Toà án đang giải quyết vụ án bồi thường thiệt hại bà Minh rao bán nhà nên vợ chồng ông Hùng đã đặt cọc 50 triệu đồng. Hợp đồng mua bán nhà ở được công chứng vào ngày 22/9/2010, các bên đã giao nhà ở, giấy tờ nhà và giao đủ tiền cho nhau. Như vậy, ông Hùng đã mua phải căn nhà của người phải thi hành án nên cơ quan có thẩm quyền áp dụng Thông tư liên tịch để giải quyết? Các quy định của pháp luật về vấn đề này như thế nào?



Theo quy định tại khoản 1 Điều 91 Luật nhà ở năm 2005 về điều kiện của nhà ở tham gia giao dịch: “Trong các giao dịch về mua bán, tặng cho, đổi, thừa kế, thế chấp, cho mượn, cho ở nhờ, uỷ quyền quản lý nhà ở thì nhà ở phải có các điều kiện sau đây: a) Có giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với nhà ở theo quy định của pháp luật; b) Không có tranh chấp về quyền sở hữu; c) Không bị kê biên để thi hành án hoặc để chấp hành quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Như vậy, tính từ thời điểm “có quyết định kê biên của Cơ quan thi hành án, chấp hành quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự” thì mới không được phép giao dịch về nhà ở. Thông tư Liên tịch số 14 quy định mở rộng hơn “kể từ thời điểm có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật” mặc dù trong Thông tư có thuật ngữ “trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” nhưng cũng rất dễ bị lạm dụng nếu không hiểu biết pháp luật. Theo quy định của Thông tư liên tịch thì mọi người dân khi tham gia giao dịch về tài sản với một chủ thể nào đó thay vì phải tìm hiểu xem “tài sản đó có đủ điều kiện để giao dịch hay không” thì phải tìm hiểu chủ sở hữu có bị Toà án nào kết án bằng bản án có hiệu lực mà chưa thi hành không? Nếu không lỡ mua phải nhà của người đang phải thi hành án thì hết sức phiền toái. Đây là điều mà khó có thể thực hiện được trong thực tế bởi lẽ khi mua ngôi nhà ở này ông Hùngkhông bắt buộc phải có nghĩa vụ tìm hiểu bà Minh đang phải chấp hành bản án liên quan đến tài sản nào hay không (trừ khi có quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định kê biên… gửi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để họ ngăn chặn giao dịch đó).



Tài sản giao dịch của người phải thi hành án là quyền sử dụng đất, tài sản trên đất. Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005, thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với bất động sản kể từ thời điểm đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền. Chẳng hạn, trường hợp bà Hoàchuyển nhượng cho bà Bình diện tích đất 500 m2 với giá 2 tỷ đồng, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được công chứng ngày 15/8/2010. Theo thoả thuận trong hợp đồng, bà Bình có nghĩa vụ làm thủ tục đăng ký và thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật. Toàn bộ hồ sơ hợp lệ về đăng ký quyền sử dụng đất đã được được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất nhận, tuy nhiên sau đó Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất đã thông báo không thể đăng ký được do bà Hoà là người phải thi hành bản án dân sự có hiệu lực ngày 20/8/2010 phải trả nợ cho một số người là 1,2 tỷ đồng. Trong suốt quá trình chuyển nhượng các cơ quan có thẩm quyền đều xác định đất không có tranh chấp, thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà Hoà và đủ điều kiện chuyển nhượng. Theo hướng dẫn, bà Bình khởi kiện ra Toà án thì Toà án xác định quyền sử dụng đất hợp pháp thuộc quyền sử dụng của bà Hoà (chưa được đăng ký quyền sử dụng). Trong thực tế, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc tài sản trên đất đã có hiệu lực pháp luật nhưng thời điểm đó bên chuyển nhượng lại bị bản án buộc phải thực hiện nghĩa vụ tài sản (chưa có hiệu lực pháp luật), bên nhận chuyển nhượng hoàn toàn ngay tình nhưng các cơ quan có thẩm quyền lại căn cứ vào Thông tư liên tịch từ chối làm thủ tục đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc từ chối thu lệ phí trước bạ là đúng hay sai? Theo chúng tôi, cơ quan có thẩm quyền khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ phải tiến hành các thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với bất động sản để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia giao dịch ngay tình. Trường hợp tài sản bị kê biên bán đấu giá thì dù người ngay tình có được giải quyết quyền lợi cũng chỉ là trên giấy vì người phải thi hành án không còn tài sản. Bà Hoà có thể khởi kiện về hành vi hành chính (không thực hiện của cơ quan hành chính trong khi làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất của mình làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp).



2. Mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự và tổ chức hành nghề công chứng



Trước đây về tổ chức của phòng công chứng và cơ quan thi hành án đều thuộc sở tư pháp và điều hành các hoạt động giống như cơ quan nhà nước nên bị ràng buộc bởinguyên tắc mệnh lệnh, phục tùng. Hiện nay, tổ chức hành nghề công chứng đã được xã hội hoá, cạnh tranh và hoạt động khá độc lập theo quy định của Luật công chứng nên Công chứng viên khi thực hiện phải căn cứ vào luật (cho phép hay không cho phép). Cơ quan thi hành án dân sự và tổ chức hành nghề công chứng hoạt động chỉ tuân theo pháp luật. Chẳng hạn, trường hợp đã có bản án của Toà án huyện P, tỉnh H. có hiệu lực pháp luật buộc bà Chanh phải trả 500 triệu đồng theo hợp đồng vay tài sản, Chấp hành viên ra thông báo tự nguyện thi hành án và gửi Phòng công chứng nơi có bất động sản. Công chứng viên thuộc Văn phòng Công chứng Hà Thành vẫn công chứng hợp đồng mua bán nhà ở với lý do tài sản bán là nhà ở đủ điều kiện theo quy định của Luật nhà ở và văn bản thông báo của cơ quan thi hành án (không phải quyết định kê biên), Toà án không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Khi hợp đồng đã được công chứng thì thời điểm chuyển quyền sở hữu căn cứ theo Luật nhà ở và Nghị định số 71/2010/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật nhà ở (thay thế Nghị định 90) về thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở đối với các giao dịch về mua bán, tặng cho, đổi, thuê mua, thừa kế nhà ở “Thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở đối với trường hợp mua bán nhà ở được tính từ ngày hợp đồng mua bán nhà ở được công chứng hoặc chứng thực. Trường hợp mua bán nhà ở mà bên bán là doanh nghiệp có chức năng kinh doanh bất động sản thì thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở là thời điểm bên bán bàn giao nhà ở cho bên mua theo thỏa thuận trong hợp đồng”.



Trường hợp người phải thi hành án đã chuyển dịch tài sản hợp pháp cho chủ thể khác (nhà ở đã chuyển dịch bằng hợp đồng có công chứng), tài sản khác đã đăng ký quyền sở hữu nhưng Chấp hành viên vẫn kê biên tài sản đó. Vậy, hoặc là tranh chấp quyền sở hữu sẽ phát sinh để xác định tài sản đó thuộc sở hữu của chủ thể nào để xác định kê biên đúng hay sai, hoặc là tranh chấp về hợp đồng để xem xét hợp đồng đó có tuân thủ đầy đủ các điều kiện pháp luật quy định hay không. Theo chúng tôi, một người bị Toà án xử bằng bản án có hiệu lực về tài sản hoặc đang phải thi hành án (chưa có quyết định nào của cơ quan có thẩm quyền về tài sản của người đó) thì việc giao dịch tài sản của họ không vi phạm điều cấm của pháp luật nên Toà án khó có thể viện dẫn căn cứ để tuyên bố hợp đồng đó vô hiệu. Theo chúng tôi, mục đích của Thông tư nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án. Tuy nhiên, giải pháp này thì việc bảo vệ quyền lợi của người này lại xâm phạm quyền, lợi ích chính đáng của chủ thể khác. Do đó, các chủ thể khi khởi kiện tại Toà án cần cân nhắc yêu cầu áp dụng những biện pháp ngăn chặn để không những bảo vệ quyền tài sản của chính mình mà ngăn chặn những giao dịch làm ảnh hưởng đến người thứ ba.



Đoàn Đức Lương

___________________

Tài liệu tham khảo

1. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2005), Bộ luật Dân sự, NXB. Chính trị Quốc gia Hà Nội.

2. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2006), Luật Công chứng,NXB. Chính trị Quốc gia Hà Nội.

3. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2005), Luật Nhà ở, NXB. Chính trị Quốc gia Hà Nội.

4. Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT – BTP- TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thủ tục thi hành án dân sự.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com