Phát triển chuỗi sản phẩm dược liệu tỉnh Quảng Ninh

Quảng Ninh là tỉnh có thảm thực vật phong phú và đa dạng như: Ba kích, Trà hoa vàng, Hồi, Quế, Trầu một lá, Bình vôi, Bá bệnh, Kim ngân  hoa, Nhân trần, Ý dĩ… nhưng việc phát triển sản xuất dược liệu ở Quảng  Ninh còn chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh với nhiều lý do khác  nhau: Việc khai thác tài nguyên cây thuốc còn mang tính tự phát, chưa quan  tâm đến tái sinh, bảo tồn dẫn đến nhiều cây thuốc đứng trước nguy cơ cạn  kiệt; dược liệu chủ yếu chỉ dừng lại ở khâu nguyên liệu tươi, thô, chưa quan  tâm nhiều đến việc sơ chế, chế biến tinh, tạo ra các sản phẩm khác nhau,  nhằm gia tăng giá trị của chúng. Các sản phẩm thuốc, thực phẩm chức năng  sản xuất trên địa bàn tỉnh còn ít, dạng bào chế còn đơn giản, giá trị gia tăng chưa cao và chưa sản xuất được mỹ phẩm có nguồn gốc từ dược liệu, là những sản phẩm được người tiêu dùng ưa chuộng hiện nay. 

Với tiềm năng thế mạnh về điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội, đặc  biệt là điều kiện tự nhiên, Quảng Ninh có thể phát triển cây dược liệu để trở thành một trong những nguồn thu quan trọng, nhằm khai thác thế mạnh về tự nhiên và một số cây dược liệu có tính đặc sản, để phát triển thành một trung  tâm dược liệu lớn của Việt Nam. Đây sẽ là bước đột phá mới, góp phần đẩy  nhanh mục tiêu chuyển đổi phương thức phát triển của tỉnh từ “nâu” sang  “xanh”. Cùng với ngành du lịch, dịch vụ, phát triển sản xuất dược liệu là một  trong những sản phẩm quan trọng thuộc chương trình OCOP (One Commune,  One Product – Mỗi xã phường một sản phẩm) của tỉnh Quảng Ninh từ năm  2013 đến nay. Tuy nhiên, việc hợp tác và liên kết để sản xuất dược liệu theo  chuỗi giá trị để nâng cao GTGT trong quá trình sản xuất còn hạn chế: (i) Mối liên kết dọc là liên hệ giữa các khâu trong chuỗi giá trị ngành hàng từ sản xuất  đến tiêu dùng, thông qua nhiều khâu trung gian làm cho thị trường không ổn  định, thiếu minh bạch và bị ép giá làm thiệt hại cho người sản xuất, nhiều hợp đồng sản xuất, cung cấp nguyên liệu giữa người sản xuất với doanh nghiệp  nhiều khi không được thực hiện do sự tranh mua, tranh bán…(ii) Mối liên kết  ngang là liên kết giữa các hộ nông dân với nhau thành tổ Hợp tác hoặc HTX, hoặc nhóm hộ sản xuất; liên kết giữa các cơ sở chế biến nhỏ để tạo thành  doanh nghiệp có quy mô lớn hơn, hạ giá thành sản phẩm…còn rất hạn chế,  hoặc có nhưng chưa rõ ràng, chưa có những cơ chế ràng buộc. 

Để góp phần thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng  nâng cao GTGT và phát triển bền vững ngành nông nghiệp tỉnh Quảng Ninh,  việc phát triển sản xuất dược liệu theo chuỗi giá trị, nhằm tạo ra những sản phẩm dược liệu hàng hóa tập trung, chất lượng cao, tăng sức cạnh tranh trên  thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho người lao động,  nhất là nông dân có vai trò quan trọng. Với lý do đó, NCS đã chọn nghiên cứu  đề tài luận án: “Phát triển chuỗi giá trị cây dược liệu tỉnh Quảng Ninh” 

MỞ ĐẦU 

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu  

2. Mục tiêu nghiên cứu 

2.1. Mục tiêu tổng quát 

Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển sản xuất dược liệu và chuỗi giá  trị cây dược liệu tỉnh Quảng Ninh, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp phát  triển chuỗi giá trị cây dược liệu của tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025.

2.2. Mục tiêu cụ thể 

– Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển chuỗi giá trị và chuỗi giá trị dược liệu. 

– Đánh giá thực trạng hình thành và phát triển sản xuất dược liệu, nhằm  phát hiện những dược liệu đã sản xuất theo chuỗi giá trị dược liệu trên địa bàn  tỉnh Quảng Ninh. 

– Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển chuỗi giá trị dược liệu tỉnh Quảng Ninh. 

– Xác định quan điểm, mục tiêu và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển  chuỗi giá trị dược liệu tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 

3.1. Đối tượng nghiên cứu 

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các tác nhân tham gia chuỗi giá trị dược liệu (Nông dân, HTX, doanh nghiệp, thương lái), các nhà quản lý và các cơ chế, chính sách liên quan đến sự phát triển chuỗi giá trị cây dược liệu tỉnh  Quảng Ninh. 

3.2. Phạm vi nghiên cứu 

– Về không gian: Đề tài nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, tập  trung khảo sát trên 8 huyện thị, thành phố của tỉnh là các địa phương có trồng  dược liệu và khai thác dược liệu tự nhiên. 

– Về thời gian: Số liệu thứ cấp được thu thập từ năm 2013 – 2017; Số liệu sơ cấp được thu thập năm 2017. 

– Về nội dung: Luận án nghiên cứu thực trạng phát triển chuỗi giá trị dược liệu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Trong đó, tập trung phân tích sâu về hiệu quả chuỗi giá trị dược liệu Trà hoa vàng và Ba kích là 2 loại dược liệu  đã được tỉnh xác định trong danh mục các sản phẩm dược liệu trọng yếu trong vào danh mục sản phẩm thuộc Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” đã được  UBND tỉnh phê duyệt. 

4. Những đóng góp mới của luận án 

Thứ nhất: Luận án đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về chuỗi sản  phẩm, chuỗi giá trị dược liệu, qua đó cung cấp cơ sở lý thuyết và thực tiễn về phát triển sản xuất dược liệu theo chuỗi. 

Thứ hai: Những đánh giá khách quan và khoa học về thực trạng phát  triển chuỗi, cũng như công tác quản lý chuỗi giá trị dược liệu. Cùng với hệ thống các yếu tố ảnh hưởng đến liên kết phát triển chuỗi giá trị cây dược liệu,  NCS sử dụng làm căn cứ cho việc đề xuất các giải pháp khả thi góp phần  quản lý và phát triển chuỗi giá trị dược liệu tỉnh Quảng Ninh

Thứ ba: Phát triển chuỗi giá trị dược liệu, là một trong những vấn đề hiện nay có rất ít các nghiên cứu sâu về chuỗi giá trị dược liệu, NCS hy vọng  có những đóng góp mới trong phương pháp phân tích chuỗi giá trị đối với cây  dược liệu cụ thể, để có thêm tài liệu tham khảo cần thiết cho những nghiên  cứu tiếp theo.  

Thứ tư: Kết quả nghiên cứu của luận án là cơ sở khoa học giúp cho các nhà hoạch định chính sách có cái nhìn toàn diện hơn về quản lý các chương  trình dự án phát triển sản xuất nông nghiệp nói chung và phát triển sản xuất  dược liệu nói riêng theo chuỗi giá trị, góp phần nâng cao thu nhập của người  dân trên địa bàn.  

5. Kết cấu của luận án 

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận án được chia  thành 5 chương: 

Chương 1: Tổng quan các nghiên cứu về chuỗi giá trị và chuỗi giá trị dược liệu 

Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển chuỗi giá trị dược liệu Chương 3: Phương pháp nghiên cứu. 

Chương 4: Thực trạng phát triển chuỗi giá trị cây dược liệu tỉnh Quảng Ninh. Chương 5: Giải pháp phát triển chuỗi giá trị cây dược liệu tỉnh Quảng  Ninh đến năm 2025.

Chương 1 

TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ CHUỖI GIÁ TRỊ VÀ CHUỖI  GIÁ TRỊ DƯỢC LIỆU 

1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu về chuỗi giá trị

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về chuỗi giá trị ở nước ngoài

Đến nay, trên thế giới, đã có nhiều cách tiếp cận phân tích chuỗi giá trị khác nhau, theo Kaplinsky và Morris (2001) thì không có cách tiếp cận nào là  “chuẩn nhất”. Về cơ bản, phương pháp phân tích cụ thể phụ thuộc vào câu hỏi  nghiên cứu và đặc điểm của sản phẩm nghiên cứu. Với cách nhìn đó, NCS  tổng hợp được một số kết quả nghiên cứu về chuỗi giá trị như sau: *) Một số kết quả nghiên cứu mang tính lý luận, cung cấp những kiến  thức cần thiết và kỹ năng trong phân tích chuỗi 

Raphael Kaplinsky & Mike Morris (2006) “Cẩm nang nghiên cứu  chuỗi giá trị”. Cuốn cẩm nang đưa ra các khái niệm cơ bản của chuỗi giá trị;  xác định các vấn đề nghiên cứu mở rộng cho chuỗi giá trị; giới thiệu cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu chuỗi; chỉ dẫn các chính sách  liên quan đến định hướng, đầu tư phát triển chuỗi.[49] 

Hellin J, and M. Meijer, (2006), “Hướng dẫn phân tích chuỗi giá trị”,  FAO, Kaplinsky, R and M, Morris, (2000), “Cẩm nang nghiên cứu chuỗi giá  trị” . Đây được coi là các cẩm nang hướng dẫn phân tích chuỗi giá trị thông  qua phân tích bản đồ thị trường, lấy vùng đất Chiapas (Mexico) làm trường  hợp nghiên cứu điển hình.[63]; [49] Nghiên cứu chỉ ra các mắt xích như:  Chọn vùng đất nghiên cứu, phân phối hạt giống, người nông dân, thương  lái,… và áp dụng nghiên cứu cho cả Bolivia và Ecuador.  

GTZ (2007) xuất bản cuốn “Cẩm nang giá trị, phương pháp luận để thúc đẩy chuỗi giá trị”. Cẩm nang đã đưa ra các thuật ngữ để chỉ việc tập hợp  có hệ thống các phương pháp thực tiễn nhằm theo dõi sự phát triển kinh tế từ quan điểm của chuỗi giá trị. Cẩm nang cung cấp những kiến thức cơ bản về

các cách thức nâng cao cơ hội việc làm và thu nhập từ hoạt động kinh doanh  của các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ và các hộ nông dân thông qua việc thúc  đẩy chuỗi giá trị mà họ đang hoạt động trong chuỗi đó. Đồng thời, nhấn mạnh  thị trường sản phẩm mang lại nhiều cơ hội cho người nghèo.[42] 

Da SLĐva, C and H. De Sousa FLĐho (2007), “Hướng dẫn đánh giá  nhanh thực hiện chuỗi nông sản ở các nước đang phát triển”, nhóm tác giả đã  đưa ra một số thông tin hữu ích: Cung cấp thông tin về các nguyên tắc cơ bản  của phân tích chuỗi, làm nổi bật tầm quan trọng của việc lập kế hoạch và thực  hiện cũng như các kiến nghị; Hỗ trợ lựa chọn các thông tin cần thiết cho việc  phân tích, cũng như các phương pháp thu thập, tổ chức và đánh giá; Định  hướng trong việc xác định các vấn đề ảnh hưởng đến hiệu suất dây chuyền và  khu vực có thể được xem là điểm đòn bẩy cho sự tăng trưởng và phát triển  hơn nữa; Đề xuất một cách tiếp cận chung đối với can thiệp chuỗi nhằm cải  thiện hiệu suất, với việc xác định trách nhiệm các bên liên quan trong quá  trình thực hiện; Đề xuất một cách tiếp cận chung cho các ưu tiên của các can  thiệp chuỗi; Chỉ ra những hạn chế và khó khăn tiềm tàng khi tiến hành phân  tích chuỗi [53]. 

FAO (2007), “Quản lý chuỗi cung ứng nông – công nghiệp: Các khái  niệm và vận dụng”. Công trình này chỉ ra chuỗi cung ứng trong nông nghiệp,  bao gồm các yếu tố đầu vào cần thiết cho hoạt động sản xuất nông nghiệp,  đồng thời, cho biết cách tiếp cận của chuỗi cung ứng đi từ khái niệm đến thực  tiễn ứng dụng. Tuy nhiên, chuỗi cung ứng rất rộng, hàm chứa cả chuỗi giá trị 

bên trong nó và việc xác định chuỗi giá trị cho nông nghiệp chỉ mang tính  chung chung. 

Bernet T, G. Thiele., and T. Zschocke (2006), “Phương pháp cùng  tham gia trong tiếp cận chuỗi thị trường (PMCA) – hướng dẫn sử dụng”.  Trong nghiên cứu này tác giả đề cập đến 4 điểm cơ bản: (i) Các nhà nghiên  cứu và sự phát triển nhân viên để đạt được những hiểu biết và kỹ năng quan trọng cho phép họ thích ứng và sử dụng PMCA trong bối cảnh công việc của  mình; (ii) Các nhà quản lý dự án R&D và các nhà hoạch định chính sách hiểu  kế hoạch và giám sát định hướng nhu cầu nhằm đạt được cho chuỗi thị trường  mục tiêu; (iii) Giáo viên và học sinh để tìm hiểu thêm về phát triển nông thôn,  khả năng cạnh tranh chuỗi thị trường, sự tham gia R&D, và marketing; (iv)  Các khái niệm phát triển khác nhau và các công cụ thực tế được mô tả một  cách hữu ích. 

*) Một số nghiên cứu về chuỗi giá trị nông sản cụ thể 

FAO (2004) cũng có nghiên cứu về “Chuỗi giá trị quả xoài ở Kenya”. Nghiên cứu này cho thấy chuỗi giá trị xoài Kenya gặp các cản trở về cơ cấu  chất lượng sản phẩm: Tỷ lệ quả xoài không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu cao, đặc  biệt sang thị trường khó tính như châu Âu và Mỹ; Kenya cần tập trung cho  chế biến xoài xuất khẩu và tận dụng số xoài không có khả năng xuất khẩu vào  các mục đích khác; về dài hạn, cần phải nâng cao năng lực kỹ thuật của nông  dân để nâng cao chất lượng xoài đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu.  

Gooch và cộng sự (2009), đã sử dụng khung phân tích chuỗi giá trị để đánh giá: “Thị thường và quản lý chất lượng nho tươi, táo tươi và chế biến và  nhiều hoa quả khác của vùng Ontario, Canada”. Hosni and Lancon (2011),  đã tìm hiểu: “Chuỗi giá trị táo của Syris trên thị trường nước ngoài”. Các  công trình nghiên cứu này chỉ ra rằng, để xuất khẩu táo thì Syris cần phải giải  quyết những tồn tại trong chuỗi giá trị táo hiện tại; Các tổ chức khuyến nông  cần phải phát triển và cung cấp nhiều giống táo mới; Đồng thời, cần có các tổ chức xếp loại và đánh giá chất lượng táo độc lập để làm giảm các rủi ro về chất lượng.  

Phương pháp tiếp cận của UNIDO (2009), trong “Phân tích và phát triển  chuỗi giá trị nông nghiệp”, trong cẩm nang làm việc của nhân viên cho thấy, sự phát triển của chuỗi giá trị trong nông nghiệp bằng phân tích các nhân tố ảnh  hưởng đến chuỗi, lập bản đồ chuỗi giá trị nông nghiệp, phân tích dữ liệu của 

chuỗi, các chiến lược nâng cấp chuỗi giá trị. Nghiên cứu này cũng kiến nghị giải  pháp phát triển chuỗi giá trị bằng cách cải thiện môi trường kinh doanh, xây  dựng và thực hiện các chính sách, tăng cường hỗ trợ từ các thể chế, cải thiện môi  trường đầu tư. Nghiên cứu đã đưa ra các minh chứng từ các nghiên cứu trường  hợp, điển hình như ở Nicaragoa, Ethiopia, Ai Cập và Morroco.  

Báo cáo của ADB (2005) và FAO (2008) về “Chuỗi giá trị ngành  khoai tây” và đã đề cập đến vấn đề, làm thế nào để tăng sự bền vững của  chuỗi giá trị khoai tây. Họ đã chỉ ra được một số vấn đề đang gặp phải ở các  nước đang phát triển như: Khoai tây thường được bán phân tán với những  phân đoạn thị trường nhỏ lẻ và ít có sự liên kết, phối hợp và thiếu những  thông tin về thị trường, điều này đang gây ra sự chia rẽ các mối quan hệ trong  chuỗi; giá cả đầu vào tăng cao đang gây ra sự “e dè” trong đầu tư sản xuất  của các hộ nông dân có quy mô sản xuất nhỏ lẻ. Hậu quả là, họ đang bị loại  dần ra khỏi thị trường và không tham gia được vào chuỗi giá trị; vấn đề quan  trọng đặt ra cho chuỗi giá trị ở các nước này là cần một nền sản xuất bền  vững, với chất lượng sản phẩm tốt và sự hỗ trợ về các vật tư đầu vào cùng với  sự phối hợp hành động trong chuỗi. 

Eaton và Shepherd (2001), đã có một nghiên cứu về: “Chuỗi giá trị ngành Chè tại Kenya và Cacao tại Indonesia”. Tác giả tập trung vào vấn đề chuỗi giá trị và giải pháp sinh kế bền vững, chỉ ra được những vấn đề mà  chuỗi giá trị ngành Chè Kenya, chuỗi giá trị ngành Cacao Indonesia gặp phải  và những vấn đề liên quan đến sinh kế của những người sản xuất nhỏ, những  người dễ bị tổn thương. Công trình này cũng cung cấp những nghiên cứu về cấu trúc thị trường, kênh tiêu thụ trong chuỗi giá trị, mối quan hệ tương tác  giữa những kênh tiêu thụ đó. Điều quan tâm của nghiên cứu này là những  “mối quan hệ” giữa các tác nhân, những tác động của mô hình tổ chức sản  xuất đến những người nắm giữ những tư liệu sản xuất nhỏ và những người  làm thuê. Họ chỉ ra rằng, với các nước chậm phát triển như Kenya và Indonesia, chuỗi giá trị hoạt động chưa được tốt, nghĩa là các tác nhân tham  gia vào chuỗi giá trị chưa có những mối quan hệ ràng buộc, GTGT trong  chuỗi còn thấp, đặc biệt người sản xuất là những người hưởng lợi nhuận thấp  nhất. Chính vì chưa có mối quan hệ ràng buộc nên những tác nhân đóng vai  trò chủ đạo trong chuỗi thường là đối tượng hưởng lợi nhuận nhiều nhất và  sẵn sàng rời bỏ chuỗi này để chuyển sang chuỗi mới có lợi nhuận cao hơn. 

*) Một số kết quả nghiên cứu về quản lý chuỗi 

Gereffi G, J. Humphrey and T. Sturrgeon (2005), “Quản lý chuỗi giá  trị toàn cầu”. Dựa trên khung phân tích lý thuyết về chuỗi, các tác giả giải  thích rõ chuỗi giá trị toàn cầu, chỉ ra được 3 dòng luân chuyển trong chi phí  kinh tế là: Mạng lưới sản xuất, khoa học công nghệ và mức độ hiểu biết của  công ty nhằm xác định được 3 vai trò lớn trong việc định rõ sự thay đổi và sự quản lý chuỗi giá trị toàn cầu. Ba vai trò đó là: Sự phức hợp trong giao dịch;  khả năng lập những cam kết trong giao dịch và khả năng trong chuỗi cơ bản.  

Hagelaar, G.J.L.F. and Van der Vorst, J.G.A.J., (2002). “Quản lý chuỗi  cung ứng môi trường: sử dụng đánh giá vòng đời để cấu trúc chuỗi cung  ứng”, các tác giả đã cho biết sự khác biệt giữa các chiến lược chuỗi để bảo vệ môi trường và sự thực thi của chuỗi trong môi trường; sự khác biệt giữa cách  đánh giá các vòng đời cấu trúc chuỗi; giữa quá trình thực hiện và định hướng  thị trường cấu trúc chuỗi. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra rằng, sự tích hợp của  những sự khác biệt về đánh giá vòng đời cấu trúc chuỗi mang lại sự khác biệt  giữa các cấu trúc chuỗi.  

Chopra SunLĐ và Pter Meindl (2001), “ Quản lý chuỗi cung ứng:  Chiến lược, kế hoạch và vận hành”. Nghiên cứu này tập trung vào quản lý  chuỗi giá trị bao gồm: Chiến lược, kế hoạch và vận hành. Tác giả đã đề cập  tới sự thay đổi nhanh chóng diễn ra bên trong chuỗi cung ứng và môi trường  của nó. Cách tiếp cận này có nhiều lợi ích: Cho phép người nghiên cứu tìm  hiểu tầm quan trọng chiến lược của việc thiết kế chuỗi cung ứng tốt, quy hoạch và hoạt động cho mỗi công ty; giải thích cách làm thế nào quá trình  điều khiển có thể được sử dụng trên mức độ khái niệm và thực tiễn trong quá  trình cung cấp thiết kế dây chuyền, lập kế hoạch và hoạt động để cải thiện  hiệu suất; cung cấp sự hiểu biết về các yêu cầu cho các phương pháp phân  tích chuỗi cung ứng 

*) Một số cách tiếp cận nghiên cứu khác về chuỗi 

Phương pháp tiếp cận của GTZ (2009), trong “Phát triển chuỗi giá trị,  công cụ gia tăng giá trị cho sản xuất nông nghiệp” đã đưa ra các chỉ dẫn  trong điều kiện cụ thể để triển khai các chuỗi giá trị hàng hoá, chú ý đến phân  tích các thiếu sót mà các tác nhân trong chuỗi không thể tự giải quyết. Đồng  thời tài liệu này còn giới thiệu một số trường hợp điển hình áp dụng cho phát  triển, hoặc cho nâng cấp chuỗi giá trị ngành hàng tại một số địa phương của  Việt Nam.[43] 

Phương pháp tiếp cận của M4P (2008), dự án “Làm cho giá trị lao  động của của người nghèo tốt hơn”. Công trình này nghiên cứu chuỗi giá trị dành cho người nghèo ở Lào và Campuchia. Chuỗi giá trị này nhằm mục tiêu  gia tăng thu nhập cho người dân nghèo bằng cách tìm ra GTGT trong mỗi mắt  xích của chuỗi. Sự tham gia của chính phủ, các cơ quan quản lý trong ngành  nông nghiệp, các chính sách đổi mới nhằm củng cố vị thế cho người nghèo.  Nghiên cứu này đề cập tới các công cụ phân tích chuỗi giá trị; lập hình chuỗi  giá trị thông qua 11 bước; đề cập tới công cụ đo lường chất lượng cho chuỗi  bằng cách quản lý phối hợp, quy định và điều khiển các tác nhân; phân tích  giá trị lợi ích của các bên tham gia vào chuỗi giá trị.[45] 

Gudmundsson, E.; Asche, F.; Nielsen, M. (2006), “ Phân phối doanh  thu thông qua chuỗi giá trị hải sản”, các tác giả xác định chuỗi giá trị bao  gồm các loại dịch vụ cần thiết để có thể mang sản phẩm từ ý tưởng đến người  tiêu dùng cuối cùng. Đặc biệt, đối với sản phẩm hải sản, chuỗi giá trị bao gồm  đầu vào, chế biến, phân phối và marketing. Theo phân tích chuỗi giá trị, GTGT ở mỗi khâu của chuỗi phải được giải thích và có phương pháp triển  khai. Các tác giả cũng ứng dụng để nghiên cứu bốn trường hợp đối với hải  sản ở hai nước phát triển và hai nước đang phát triển. Các nhà nghiên cứu ở các nước đang phát triển được khuyến khích áp dụng các phương pháp phát  

triển đối với nghề cá để tạo ra một lượng lớn thông tin bổ sung. 

1.1.2. Tổng quan công trình nghiên cứu về chuỗi giá trị ở trong nước

Tại Việt Nam, có nhiều tác giả đã nghiên cứu về chuỗi giá trị, mỗi tác  giả đều có cách tiếp cận khác nhau và giải quyết các vấn đề về chuỗi giá trị ở các phương diện khác nhau. Kết quả nghiên cứu của một số tác giả tiêu biểu: *) Một số kết quả nghiên cứu chuỗi giá trị mang tính vĩ mô: Phạm Xuân Thành (2016), “Nghiên cứu đánh giá tác động của các  hiệp định thương mại tự do (FTA) tiêu chuẩn cao đến việc phát triển chuỗi  giá trị hàng nông sản xuất khẩu tại vùng kinh tế trọng điểm Đông Nam Bộ”.  Nghiên cứu đã tổng hợp các Hiệp định tiêu chuẩn cao và tiến trình thực hiện  các cam kết của các FTA như Hiệp định thương mại tự do giữa việt nam và  Liên minh Châu âu (EVFTA) và Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương  (TPP). Phân tích khái quát những cam kết và tiến trình thực hiện cam kết tự do hoá thương mại nông sản của các FTAs tiêu chuẩn cao. Đánh giá những  tác động của việc thực hiện các FTAs tiêu chuẩn cao tới xuất khẩu nông sản  của Việt Nam nói chung và các tác động đến việc phát triển chuỗi giá trị hàng  nông sản xuất khẩu tại vùng kinh tế trọng điểm Đông Nam Bộ; Đề xuất giải  pháp chính sách hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của việc thực hiện các FTAs tiêu  chuẩn cao tới việc xuất khẩu nông sản của Việt Nam nói chung và các tác  động đến việc phát triển chuỗi giá trị hàng nông sản xuất khẩu tại vùng kinh  tế trọng điểm Đông Nam Bộ. [38] 

Nguyễn Văn Huân (2011), “Liên kết chuỗi từ sản xuất đến chế biến  hàng nông sản của Việt Nam”. Tác giả đã khẳng định: Hiện nay, Việt Nam có  một số mặt hàng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu như lúa, cà phê, cao su, hạt tiêu, thủy sản (tôm đông lạnh, cá Basa); Ngành công nghiệp chế biến hàng  nông sản đã có những đóng góp đáng kể trong việc xúc tiến xuất khẩu các  chuỗi giá trị hàng nông sản ở Việt Nam. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa sản  xuất và chế biến dựa trên nguyên tắc chuỗi giá trị còn nhiều bất cập trước yêu  cầu phát triển nền nông nghiệp chất lượng cao. Tác giả bài viết cũng nêu lên  một số quan điểm về mối quan hệ liên kết chuỗi giữa sản xuất nông nghiệp và  ngành công nghiệp chế biến hàng nông sản ở Việt Nam. 

Nguyễn Thị Nhiễu (2010), “Chuỗi giá trị toàn cầu mặt hàng điện tử và  khả năng tham gia của Việt Nam”. Kết quả nghiên cứu tập trung vào một số nội dung: Giới thiệu cơ sở khoa học về sự hình thành và phát triển chuỗi giá  trị toàn cầu hàng điện tử; Trình bày thực trạng hàng điện tử Việt Nam tham  gia chuỗi giá trị toàn cầu; Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường sự tham  gia của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu hàng điện tử. 

Đinh Văn Thành (2010), “Tăng cường năng lực tham gia của hàng  nông sản vào chuỗi giá trị toàn cầu trong điều kiện hiện nay của Việt Nam”.  Tác giả đã đề cập không chỉ đến lý thuyết chuỗi giá trị nông sản mà còn sử dụng lý thuyết này để phân tích, làm rõ năng lực của một số sản phẩm nông  nghiệp của nước ta trong chuỗi giá trị toàn cầu. 

Hoàng Thị Vân Anh (2009), “Chuỗi giá trị toàn cầu mặt hàng cà phê  và khả năng tham gia của Việt Nam”. Tác giả đã trình bày tổng quan về chuỗi  giá trị toàn cầu mặt hàng cà phê. Thực trạng mặt hàng cà phê Việt Nam tham  gia chuỗi giá trị toàn cầu; Đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường sự tham gia của cà phê Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu. 

Chu Tiến Quang (2008), “Một số vấn đề về Chuỗi giá trị nông sản toàn  cầu”. Công trình đã chỉ rõ: Quá trình phát triển kinh tế của loài người hiện nay  đã đạt tới sự liên kết, quan hệ vượt qua phạm vi biên giới quốc gia, để hình  thành các công ty đa quốc gia trong một khu vực và tới nhiều khu vực khác  trên thế giới, đó là xu thế toàn cầu hóa về kinh tế. Trong quá trình này, các chuỗi giá trị của các sản phẩm được hình thành trước đó trong một quốc gia đã  từng bước mở rộng ra khỏi biên giới quốc gia đó, thâm nhập vào các quốc gia  khác, tạo ra chuỗi giá trị của các sản phẩm dài hơn, mang lại giá trị cao hơn hay  nói cách khác là quy mô lớn hơn, có nhiều tác nhân tham gia hơn. 

Trần Tiến Khải (2013), “Phân tích chuỗi giá trị và ngành hàng nông  nghiệp”. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Một trong những xu hướng liên quan  đến toàn cầu hóa hiện nay là sự hình thành và phát triển mạnh mẽ của các thị trường hiện đại; Các thị trường hàng hóa này liên kết chặt chẽ với các hệ thống siêu thị bán sỉ, bán lẻ quy mô lớn, các thị trường này đòi hỏi khối lượng  hàng hóa lớn và các sản phẩm giá thấp và phải đáp ứng các tiêu chuẩn chất  lượng, vệ sinh và an toàn thực phẩm; Hệ thống thu mua hàng hóa của các thị trường này thường được hợp nhất theo chiều dọc, tầm hoạt động mang tính  toàn cầu và có độ phức tạp cao; Các thị trường kiểu này có tính năng động rất  lớn, đáp ứng nhanh chóng với biến động giá, nhu cầu của người tiêu dùng và  các cơ hội công nghệ mới; Quy mô doanh thu của các hệ thống thị trường  hiện đại này rất lớn, và kết hợp với chi phí thấp, dẫn đến lợi nhuận chung là  con số khổng lồ. Sự tập trung của các thị trường là rất lớn, chỉ một vài tập  đoàn bán lẻ đã có thể khống chế hầu hết doanh số. 

*) Một số kết quả nghiên cứu chuỗi về một ngành hàng cụ thể Trần Công Thắng (2015), “Nghiên cứu chính sách và giải pháp nâng  cao hiệu quả chuỗi giá trị trong ngành lúa gạo và thịt lợn”. Tác giả đã chỉ ra  cơ sở lý luận thực tiễn về chính sách và giải pháp nâng cao hiệu quả chuỗi giá  trị lúa gạo và thịt lợn. Hiện trạng hiệu quả chuỗi giá trị lúa gạo và chính sách  đối với chuỗi giá trị lúa gạo tại đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu  Long. Hiện trạng hiệu quả chuỗi giá thịt lợn và chính sách đối với chuỗi giá  trị thịt lợn. Phân tích hiệu quả và yếu tố ảnh hưởng tới chuỗi giá trị lúa gạo và  chuỗi giá trị thịt lợn. Đề xuất chính sách nâng cao hiệu quả chuỗi giá trị thịt  lợn và chuỗi giá trị lúa gạo.

Phạm Quốc Trị (2015), “Điều tra thực trạng doanh nghiệp nhỏ và vừa  trong chuỗi GTGT các mặt hàng nông nghiệp chủ lực và đề xuất giải pháp  phát triển”. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Điều tra, xây dựng cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp nhỏ và vừa trong chuỗi GTGT các mặt hàng: Lúa gạo, tôm, cá  tra và chè; Đánh giá thực trạng và vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong  chuỗi GTGT các mặt hàng: Lúa gạo, tôm, cá tra và chè; Đề xuất các giải pháp  hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong chuỗi GTGT các mặt hàng:  Lúa gạo, tôm, cá tra và chè. 

Phạm Thị Thùy Linh (2015), “Nghiên cứu chuỗi giá trị của cá cơm  khai thác ở vùng biển Tây Nam Bộ”. Tác giả đã chỉ rõ cơ sở khoa học về chuỗi giá trị trong khai thác, chế biến và tiêu thụ cá Cơm khai thác ở vùng  biển Tây Nam Bộ; Tổng quan về sản xuất, chế biến, tiêu thụ cá Cơm khai thác  ở vùng biển Tây Nam Bộ; Thực trạng hình thành và phát triển các chuỗi giá  trị cá Cơm khai thác ở vùng biển Tây Nam Bộ; Đánh giá các nhân tố ảnh  hưởng đến sự hình thành và phát triển chuỗi giá trị cá Cơm khai thác ở vùng  biển Tây Nam Bộ; Những vấn đề đặt ra để tiếp tục phát triển chuỗi giá trị cá  Cơm khai thác ở vùng biển Tây Nam Bộ; Xây dựng mô hình liên kết chuỗi  giá trị cá Cơm khai thác ở vùng biển Tây Nam Bộ. 

Phạm Văn Vinh (2014), “Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình tham gia chuỗi ngành hàng Bò tại Cao Bằng”. Tác giả đã tổng hợp  khung lý thuyết về phân tích chuỗi; chỉ ra được lợi ích của các tác nhân tham  gia chuỗi giá trị chăn nuôi bò, trong đó lợi ích của hộ gia đình là 62%. Tác giả cũng phát hiện ra một số nguyên tắc để làm tăng thu nhập cho hộ gia đình;  Khẳng định hộ gia đình muốn tăng thu nhập khi tham gia vào chuỗi giá trị,  phải mạnh dạn đầu tư theo chiều sâu và cần biết tính toán hiệu quả trước khi  quyết định tăng hay giảm chi phí cho việc chăn nuôi.[21] 

Tạ Quốc Tuấn (2013),“Nghiên cứu chuỗi giá trị trong chế biến, sản xuất,  tiêu thụ điều và hồ tiêu ở tỉnh Bình Phước”. Công trình nghiên cứu này đề cập đến những vấn đề sau: thị trường và chính sách về ngành hàng điều, hồ tiêu  trong nước và thế giới; thực trạng chuỗi giá trị trong sản xuất điều và hồ tiêu;  nâng cấp chuỗi và thúc đẩy các hình thức liên kết trong hai chuỗi này tại tỉnh  Bình Phước; đánh giá hiện trạng tồn tại và nguyên nhân hạn chế của các hình  thức liên kết trong chuỗi; nghiên cứu điển hình về mô hình liên kết trong chuỗi  ngành hàng điều và tiêu từ đó đề xuất các mô hình liên kết hiệu quả, các giải  pháp khuyến khích phát triển liên kết đối với hai chuỗi này tại tỉnh Bình Phước. 

Lê Thanh Loan, Đặng Hải Phương và Võ Hùng (2006), “Chuỗi cung  ứng hạt điều: Nghiên cứu trường hợp tại Đắk Nông và Bình Phước, Việt  Nam”. Nhóm tác giả đã chỉ ra vấn đề, làm thế nào tăng sinh kế của hộ gia  đình đồng bào dân tộc thiểu số ở Bình Phước và Đắk Nông. Đồng thời, cũng  chỉ ra rằng, nông dân trồng điều quy mô nhỏ, đặc biệt là người dân tộc, nhận  được giá thấp cho sản phẩm của mình và chịu nhiều rủi ro, do biến động của  giá hạt điều. Nhóm nghiên cứu cũng đề cập đến một loạt các vấn đề liên quan  đến chuỗi thị trường các sản phẩm nông lâm kết hợp, kiến nghị sự thay đổi  xuất phát chủ yếu từ tập tục canh tác của người dân. Bên cạnh đó, họ cũng chỉ ra sự cần thiết trong thiết lập chính sách và can thiệp của địa phương ảnh  hưởng đến giá hạt điều.  

Trần Công Thắng và cộng sự (2004), “Sự tham gia của người nghèo  trong chuỗi giá trị nông nghiệp: Nghiên cứu đối với ngành chè”. Nhóm  nghiên cứu đã xây dựng một bản đồ toàn diện về chuỗi giá trị ngành chè và  chức năng của nó, bên cạnh việc đánh giá ảnh hưởng của nó đối với người  nghèo tham gia sản xuất chè và lao động làm thuê. Để thấy rõ hơn vai trò của  ngành nông nghiệp/ sản xuất chè trong lĩnh vực an sinh xã hội, về giải quyết  việc làm và rút ngắn khoảng cách phát triển giữa nông thôn và thành thị. Báo  cáo thực hiện ở vùng nghiên cứu Thái Nguyên và Phú Thọ có đối chứng với  một số vùng trồng chè khác. Báo cáo tập chung đánh giá về mặt xã hội của chuỗi ngành chè, ngành được cho là có ưu thế tạo được nhiều việc làm đặc  biệt cho các tỉnh trung du và miền núi. 

Hoàng Văn Việt (2014), “Phân tích lợi ích tài chính của chuỗi bưởi Da  xanh Bến Tre”. Nghiên cứu sử dụng lý thuyết liên kết chuỗi giá trị của GTZ,  kết hợp khung phân tích chuỗi giá trị vì người nghèo của M4P và khung phân  tích tài chính chuỗi giá trị của FAO để phân tích mối quan hệ giữa các tác  nhân, phân tích chi phí và lợi nhuận, GTGT và đóng góp của chuỗi giá trị. Kết  quả phân tích cho thấy chuỗi giá trị bưởi Da xanh Bến Tre mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao và thu nhập cho các tác nhân tốt, đặc biệt là người nông  dân, và phân bổ lợi nhuận giữa các tác nhân công bằng và hợp lý. Tuy nhiên,  khó khăn nhất hiện nay là vấn đề sâu bệnh và giống chất lượng không cao. 

1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu về cây dược liệu và chuỗi giá  trị dược liệu 

1.2.1. Tổng quan các nghiên cứu về cây dược liệu ở nước ngoài

Việc sử dụng các loài cây dược liệu làm thuốc nhằm phòng chống và  điều trị bệnh đã được áp dụng từ lâu trong lịch sử loài người (Niharika Sahoo  và cộng sự, 2010). Bắt đầu từ thời cổ đại (Bensky và Gamble, 1993), trong  nền văn hóa cổ xưa, con người tổng hợp những thông tin về cây dược liệu dựa  trên các bài thuốc được lưu truyền trong dân gian, qua đó phát triển thành các  cuốn dược điển về cây dược liệu. Những minh chứng sớm nhất cho những  hiểu biết của con người được ghi chép lại về dược liệu được ghi nhận tại Ấn  Độ, Trung Quốc, Ai Cập, Hi Lạp, La Mã và Xy-ri khoảng 5000 năm trước. Ví  dụ như những thông tin cổ xưa nhất về cây dược liệu của người Ai Cập được  tổng hợp trong 2 cuốn sách là Charak Samhita và Sushruta Samhita (Nazma  Inamdar và cộng sự, 2008). 

Theo WHO, uớc tính có khoảng 25% các loại thuốc được sử dụng hiện  nay trên thế giới có nguồn gốc từ thực vật và có khoảng 121 hợp chất có hoạt  tính đang được sử dụng. Trong tổng số 252 loại thuốc thiết yếu mà WHO đã liệt kê thì có tới 11% có nguồn gốc từ thực vật (Rates S.M.K, 2001). Gần như 80%  dân số Châu Phi và Châu Á phụ thuộc vào các loại thuốc cổ truyền để chăm sóc  sức khỏe (Mukherjee PK. (2006); Suhhanshu Tiwari, 2008, WHO, 2007). 

Tính đến nay, trên thế giới hiện vẫn còn nhiều người ưa dùng các sản  phẩm có nguồn gốc từ thiên nhiên để điều trị một số loại bệnh tật (Nazma và  cộng sự, 2010). Các sản phẩm được chế biến từ cây dược liệu thường được sử dụng ở các bệnh nhân mắc một số bệnh mãn tính, bao gồm ung thư vú (12%;  Burstein, 1999), các bệnh về phổi (21%; Strader, 2002), virut gây suy giảm  miễn dịch ở người có HIV (22%; Kassler, 1991), bệnh hen suyễn (24%;  Blanc, 2001) và rối loạn thấp khớp (26%; Rao, 1999). 

Tanya Chhabra (2018) Nghiên cứu định lượng về cây thuốc được sử dụng bởi cộng đồng dân cư vùng dãy Koh-e-Safaid Range, biên giới phía bắc  Pakistani và Afghan. Nghiên cứu chỉ ra rằng, kiến thức dân gian về các loài  cây thuốc thuộc dãy Koh-e-Safaid chưa được khám phá. Lần đầu tiên, thực  hiện nghiên cứu định lượng này trong khu vực để ghi nhận việc sử dụng cây  thuốc, để bảo tồn kiến thức truyền thống về hệ thực vật. Việc sử dụng rộng rãi  các cây thuốc cho thấy tầm quan trọng của các chế phẩm thảo dược truyền  thống của người dân bộ lạc trong khu vực đối với việc chăm sóc sức khỏe của  họ. Kiến thức về việc sử dụng cây thuốc đang bị mất dần trong khu vực, vì  một thế hệ mới không sẵn sàng quan tâm đến việc sử dụng cây thuốc, và  những người hiểu biết giữ bí mật kiến thức của họ. Do đó, việc sử dụng thực  vật bản địa cần có chiến lược bảo tồn và điều tra thêm để sử dụng tốt hơn các  nguồn tài nguyên thiên nhiên. 

Zabta K. Shinwari (2009); Nghiên cứu cây dược liệu ở Pakistan, Tác  giả chỉ ra rằng: Phần lớn người dân ở Pakistan dựa vào cây thuốc để tìm cách  điều trị cho trẻ vị thành niên, thậm chí trong một số trường hợp bệnh chính.  Một số thực vật hoang dã hiện đang được sử dụng phổ biến, ví dụ: Ephedra,  Artimisia, St. John Hay wort, Hippophae, bên cạnh một số loài đã được thuần hóa: Tỏi, nhân sâm và thì là v.v. Có một hệ thống thị trường địa phương  (Pansara) đặc biệt liên quan đến kinh doanh cây dược liệu ở Pakistan và một  số cây được xuất khẩu. Thực vật có thành phần hoạt tính được sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau ở cả người và động vật. Do khai thác quá mức,  một số loài đã tuyệt chủng ở khu vực Hindukush-Himalaya. Những người  khai thác địa phương, nhà cung cấp, người bán thuốc thảo dược, họ là những  người đe dọa hệ thực vật của Pakistan đóng góp (dù vô tình) đến sự tuyệt  chủng của một số loài và đưa những loài khác đến bờ vực tuyệt chủng. Mặc  dù cây thuốc từ tự nhiên là nguồn thu nhập quan trọng cho cộng đồng địa  phương, nhưng nếu không được quản lý đúng cách, điều này có thể dẫn đến  phá hủy môi trường sống và tuyệt chủng loài. Do đó, cần phải tìm cách thu  hái cây dược liệu bền vững từ tự nhiên, đào tạo người thu gom địa phương (về kỹ thuật thu hái thích hợp), đào tạo người dân trồng cây dược liệu và loại bỏ 

một số trung gian khỏi chuỗi thương mại.[78] 

1.2.2. Tổng quan các nghiên cứu về cây dược liệu ở trong nước

Nguyễn Mạnh Hùng (2010), với công trình nghiên cứu “Bảo tồn và  phát triển một số cây dược liệu có giá trị trên địa bàn tỉnh Bắc Giang”. Nghiên cứu đã xây dựng mô hình vườn các loại dược liệu để bảo tồn nguồn  gen cây dược liệu có giá trị, góp phần đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường  sinh thái và tạo ra nguồn dược liệu tại địa phương. 

Nguyễn Đức Thắng (2010) với công trình nghiên cứu “Sưu tập và bảo  tồn cây dược liệu quý vùng Bảy Núi tỉnh An Giang”. Kết quả cho biết: Sưu  tập được tổng số 80 loài tương đương và 800 cây dược liệu quý vùng Bảy  Núi. Đồng thời, triển khai bảo tồn được cây dược liệu quý vùng Bảy Núi, góp  phần giữ gìn nguồn gene quý, bổ sung sự đa dạng sinh học, ngăn chặn sự tuyệt chủng loài dược liệu quý. Xây dựng vườn cây dược liệu quý trở thành  địa điểm cung cấp giống (hạt, hom giống) chất lượng cao, là nơi nghiên cứu,  thực tập, tham quan, du lịch sinh thái. Tác giả đã khảo sát thu thập thông tin thổ nhưỡng, khí hậu vùng Bảy Núi và khu vực vườn, đánh giá đặc điểm tự nhiên và xã hội khu vực xây dựng vườn sưu tập. Quá trình nghiên cứu đã xác  định loài, định danh, lấy mẫu vật, tiêu bản: Quy tụ 893 cá thể 103 loài. Tổng  hợp thông tin nhu cầu, thu hái dược liệu tự nhiên vùng Bảy Núi. Công tác quy hoạch thiết kế: Tổng diện tích vườn là: 42.000m2(4,2ha). Công tác triển khai  các nội dung thực hiện trồng cây dược liệu là 893 cá thể cây dược liệu quý,  chiếm 76,01% diện tích. Xây dựng quy trình kỹ thuật trồng, chăm sóc, thu  hoạch dược liệu, tập huấn chuyển giao kỹ thuật. 

Vũ Tuấn Minh (2009), với công trình nghiên cứu “Cây dược liệu là  những loài thực vật có tác dụng dùng để chữa bệnh hoặc bồi bổ cơ thể khi  con người sử dụng”. Nghiên cứu, tác giả chỉ ra việc dùng thuốc trong nhân  dân ta đã có từ lâu đời. Hiện nay, theo thống kê trên thế giới về cây dược liệu  ở Châu Âu có tới 1482 cây chữa bệnh, Á nhiệt đới và Nhiệt đới có 3650 cây  chữa bệnh với nhiều nhóm công dụng khác nhau. Hiện có khoảng 30% tổng  giá trị thuốc chữa bệnh do cây dược liệu cung cấp được khai thác từ trong tự nhiên và được trồng trọt. 

Nguyễn Thị Phương Mai (2005), với công trình nghiên cứu “Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với tri thức truyền thống – trường hợp cây dược  liệu”. Kết quả nghiên cứu, nêu rõ khái niệm, đặc điểm của tri thức truyền  thống (TTTT), giới thiệu kinh nghiệm quốc tế về bảo hộ TTTT; đánh giá thực  trạng bảo hộ TTTT ở Việt Nam. 

Nguyễn Bá Hoạt (2003), với công trình nghiên cứu “Điều tra tiềm năng  dược liệu một số huyện điểm ở tỉnh Quảng Nam”. Tác giả đề xuất giải pháp  bảo tồn và phát triển; đánh giá tổng quát về tiềm năng và hiện trạng cây thuốc  trên các mặt: Giá trị sử dụng, triển vọng khai thác một số cây thuốc để chiết  xuất hoạt chất, các cây thuốc có giá trị xuất khẩu, cảnh báo dấu hiệu và nguyên  nhân suy giảm tài nguyên. Xác định được 8 vùng rừng tập trung nhiều cây  thuốc làm cơ sở cho việc khoanh nuôi vùng nguyên liệu phục vụ chế biến, xuất khẩu. Về thực vật làm thuốc, đã phát hiện và thống kê được 832 loài thuộc 593  chi, 190 họ thực vật làm thuốc (so với kết quả điều tra 1978-1983 là 735 loài).  Đã thu mẫu và xác định được 4 loài cây thuốc hoàn toàn mới, chưa có tên trong  hệ thực vật Việt Nam cũng như danh lục cây thuốc Việt Nam. Đó là: Dù dẻ nhỏ 

(Mitrella touranensis Ban, họ Annonaceae), Khế đất (Oxalis barrelieri L., họ Oxalidaceae), Gờ rồng (Didissandra clemensiae Pell., họ Gesneriaceae), Ba  chạc lá to (Euodia calophylla GuLĐl., họ Rutaceae). Ngoài ra còn phát hiện  cây Ba kích (Morinda officinalis How, họ Rubiaceae), là cây thuốc quý lần đầu  tiên ghi nhận được ở các tỉnh phía Nam. Về động vật làm thuốc, đã ghi nhận  được 142 loài thuộc 98 họ trong đó có 15 loài quý hiếm cần bảo vệ. Về những  cây thuốc có giá trị sử dụng phổ biến có khả năng tiếp tục khai thác, đã xác  định được 43 loài và nhóm loài thuộc 31 họ. Đánh giá trữ lượng một số loài  còn có khả năng khai thác đồng thời cảnh báo và đánh giá nguyên nhân suy  giảm một số loài như Đẳng sâm, Vàng đắng, Ngũ gia bì… Đề xuất các giải  pháp bảo tồn, khai thác hợp lý, phát triển tài nguyên dược liệu và các cơ chế chính sách, đầu tư, chiến lược phát triển ngành dược Quảng Nam. Lập danh  mục cây con làm thuốc; cây thuốc có giá trị sử dụng phổ biến có khả năng tiếp  tục khai thác; cây con làm thuốc thuộc diện quý hiếm có tên trong Sách đỏ Việt  Nam cần chú ý bảo tồn cho từng huyện và cho toàn Tỉnh. 

Nguyễn Gia Chấn (2000), “Nghiên cứu biện pháp chiến lược phát triển  và sử dụng có hiệu quả nguồn dược liệu trong nước, biện pháp xây dựng nền  tảng cho ngành công nghiệp cây thuốc và nâng cao chất lượng ngành công  nghiệp bào chế thuốc” (Quyển 2). Tổng quan tình hình nghiên cứu và sử dụng  các chất kích thích miễn dịch (KTMD). Danh sách các cây dược liệu và nấm  cần nghiên cứu, sơ đồ phương pháp nghiên cứu. Các bảng số liệu kết quả nghiên cứu chiết xuất Polysaccharid (P.) từ dược liệu thử độc tính cấp và bán  mãn của P. Nghiên cứu tác dụng của P. trên hệ miễn dịch; Nghiên cứu dạng  bào chế và phương pháp sản xuất thử thuốc KTMD; Nghiên cứu xây dựng 

tiêu chuẩn và theo dõi tuổi thọ của KTMD; Thử tác dụng KTMD trên lâm  sàng. Thăm dò tác dụng hỗ trợ miễn dịch của thuốc Angala trên bệnh nhân  (BN) viêm gan mạn hoạt động HbsAg (+); BN ung thư vú điều trị tia xạ, hóa  chất đối với tế bào máu ngoại vi ở BN dùng đa hóa trị liệu. 

Hoàng Thị Lệ (1999), Công trình nghiên cứu “Ứng dụng công nghệ cấy  mô cây dược liệu quý hiếm tại tỉnh Cao Bằng”, tìm hiểu đặc tính sinh vật học,  đặc tính sinh trưởng phát triển, vùng sinh thái thích hợp của cây kim tuyến;  Tiến hành cấy mô trong ống nghiệm; trồng thử trên khay chậu. Tìm hiểu  thành phần hoá học của lá chè đắng. 

Nguyễn Huy Văn “Một số giải pháp phát triển Dược liệu và sản phẩm từ Dược liệu ở Việt Nam”. Tác giả đã làm rõ sự cần thiết phát triển dược liệu  và sản phẩm từ dược liệu ở Việt Nam; Phân tích thực trạng phát triển dược  liệu và sản phẩm từ dược liệu, tác giả chỉ rõ: Khai thác tràn lan, không trú  trọng đến tái tạo bảo tồn, sử dụng dược liệu dược tính mạnh và độc tính cao,  dược liệu mốc, kém chất lượng và dư phẩm kim loại nặng và thuốc trừ sâu  trong dược liệu, chế biến bảo quản dược liệu chưa đúng quy trình, bất cập  trong quản lý dược liệu và các sản phẩm từ dược liệu. Từ những phân tích  thực trạng, tác giả nêu những giải pháp để phát triển dược liệu và sản phẩm có  nguồn gốc từ dược liệu, trong đó có giải pháp mà Traphaco đã và đang triển  khai thành công là xây dựng mô hình liên kết 4 nhà: Nhà nước – Nhà khoa  học – Nhà Doanh nghiệp – Nhà nông, trong 4 khâu của công nghiệp dược  (Nghiên cứu – Phát triển – Sản xuất – Thị trường). 

1.2.3. Tổng quan nghiên cứu về chuỗi giá trị dược liệu ở nước ngoài

Mebrahtu Hishe, Zemede Asfaw, Mirutse Giday (2016) với công trình Review on value chain analysis of medicinal plants and the associated  challenges (Đánh giá phân tích chuỗi giá trị của cây thuốc thực vật và các  thách thức) đã chỉ ra rằng, chuỗi giá trị cây thuốc ở vùng nghiên cứu là không  chính thức. Các liên kết chủ yếu là dọc, không có mối liên kết ngang giữa các 

tác nhân trong chuỗi. Mục tiêu của nghiên cứu là đưa ra các thông tin cần  thiết về chuỗi giá trị cây thuốc giúp các tác nhân đưa ra quyết định và kế hoạch can thiệp vào ngành công nghiệp sản xuất dược phẩm và cạnh tranh  toàn cầu phụ thuộc vào công tác quản lý bền vững các nguồn tài nguyên thiên  nhiên khan hiếm có lợi cho người dân địa phương. Gia tăng mức sống cho  người nghèo ở các quốc gia đang phát triển.[77] 

Imami, D., Ibraliu, A., Fasllia, N. et al. Gesunde Pflanzen (2015) với  công trình Analysis of the Medicinal and Aromatic Plants Value Chain in  Albania (Phân tích chuỗi giá trị dược liệu và cây thơm ở Albania) đã phân  tích các khu vực trồng cây dược liệu ở Albania dựa trên các cuộc phỏng vấn  chuyên gia và nghiên cứu tài liệu; phân tích cấu trúc chuỗi giá trị, mô tả các  tác nhân trong chuỗi giá trị. Việc xuất khẩu, chủ yếu sang thị trường EU và  Hoa Kỳ, đã gia tăng trong những năm qua. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu  nguồn cung cấp dược liệu đầu vào bị suy giảm do nguồn lao động giảm ở khu  vực miền núi của Albani và người dân đã canh tác và trồng các dược liệu  khác. Mặc dù tăng trưởng và tiềm năng, lĩnh vực này đang đối mặt với một số thách thức. Một số trong những thách thức liên quan đến công nghệ sản xuất  và sau thu hoạch và thực hành trên các trang trại, an toàn và tiêu chuẩn chất  lượng và truy xuất nguồn gốc. Giải quyết những vấn đề cần được ưu tiên hàng  đầu cho các nhà hoạch định chính sách và các tác nhân khu vực tư  nhân/doanh nghiệp/nhà máy, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và tính bền  vững của ngành dược phẩm. 

Monish Jose, K.B. Umesh (2010) với công trình Value Chain Analysis  of Medicinal Plant Market in Kerala (Phân tích chuỗi giá trị của thị trường  thuốc thực vật ở Kerala) tập trung nghiên cứu vai trò của các trung gian khác  nhau, phương pháp thu mua, chi phí sản xuất và giá cả của cây thuốc thực vật,  nhằm làm tăng nguồn cung cấp cây thuốc cho ngành công nghiệp dược phẩm.  Độ co giãn về cầu nguyên liệu dược liệu làm cho giá bán sản phẩm ra thị trường rất phân biệt. Kết quả nghiên cứu cho biết mức giá thu mua dược liệu  không có mức giá chung, khuyến khích mức giá theo hợp đồng giữa người  thu mua và nhà máy/doanh nghiệp sản xuất dược phẩm nhằm giảm khoảng  cách cung-cầu trên thị trường. 

Alam, G. and J. Belt (2009) với công trình nghiên cứu Developing a  medicinal plant value chain: Lessons from an initiative to cultivate Kutki  (Picrorhiza kurrooa) in Northern India (Phát triển chuỗi giá trị cây thuốc:  Những bài học kinh nghiệm từ một sáng kiến trong canh tác Kutki (Picrorhiza  kurrooa) ở miền Bắc Ấn Độ) đã chỉ ra một lượng lớn các nhà máy chưa sàng  lọc được các chất tốt của cây dược liệu, cho thấy tầm quan trọng của cây  thuốc giúp cho ngành công nghiệp dược phẩm có khả năng tăng thêm về giá  trị. Có hai cách chính để bảo tồn các loài bị đe dọa của cây thuốc: Hạn chế về khai thác và thương mại và canh tác bền vững trên một quy mô lớn. Bài viết  này chủ yếu liên quan đến việc trồng cây thuốc. Ngoài việc đóng góp vào bảo  tồn, trồng cây thuốc cũng có thể cung cấp thêm thu nhập cho nông dân các  quốc gia phát triển. 

Mebrahtu Hishe, Zemede Asfaw, Mirutse Giday (2016), Review on  value chain analysis of medicinal plants and the associated challeng (Đánh  giá về phân tích chuỗi giá trị thảo dược và những thách thức liên quan), Các  tác giả cho biết, chuỗi giá trị cây dược liệu hiện tại đặc trưng bởi tính không  chính thức của cơ sở thượng nguồn (nhà sản xuất, người hái lượm và người  thu gom) và các tác nhân được tổ chức tốt hơn và có cấu trúc chính thức hơn  (nhà chế biến và bán buôn / bán lẻ). Nhìn chung, chuỗi giá trị hoạt động với ít  tích hợp dọc và hầu như không có sự cộng tác theo chiều ngang. Việc thu hái  và tiêu thụ các cây thuốc từ tự nhiên là nguồn sinh kế quan trọng của nhiều  người nghèo ở các nước đang phát triển. Tăng cường chuỗi giá trị là một công  cụ mạnh mẽ tiềm năng để thúc đẩy các mục tiêu phát triển liên quan đến  NHWP (Tự nhiên, Sức khỏe, Giàu có và Quyền lực) liên quan đến mục tiêu phát triển, nhưng cần có sự can thiệp có chỉ đạo để tạo cơ hội cho người  nghèo ở nông thôn. Cây thuốc có thể được thu hái từ các khu vực hoang dã và  trồng trọt. Chuỗi cung ứng thường rất dài với sáu hoặc bảy giai đoạn tiếp thị liên quan đến người thu gom và sản xuất chính, nhà thầu địa phương, chợ bán  buôn khu vực, chợ bán buôn lớn và sự chuyên môn hóa Chuỗi cung ứng cây  dược liệu có các yêu cầu khác nhau đối với việc trồng trọt, quản lý tài nguyên  trong tự nhiên, thu hoạch, chế biến và quan trọng là tiếp thị. Để trở nên cạnh  tranh trong thị trường dược liệu toàn cầu, chuỗi giá trị phải trở nên linh hoạt,  sáng tạo và hiệu quả hơn, để có thể đưa ra thị trường các sản phẩm mới một  cách kịp thời. 

Tanya Chhabra (2018) Value Chain Analysis for Medicinal Plant based  products in India: Case Study of Uttarakhand (Phân tích chuỗi giá trị cho các  sản phẩm dược liệu ở Ấn Độ: Nghiên cứu trường hợp của Uttarakhand). Tác  giả phân tích, Chuỗi giá trị là một mô tả về phạm vi hoạt động liên quan đến  các quá trình sản xuất, giao hàng và xử lý cuối cùng của sản phẩm sau khi sử dụng. Phân tích chuỗi giá trị liên quan đến việc nghiên cứu cấu trúc, tác nhân  và động cơ của chuỗi giá trị kết nối nông sản và lâm sản. Những người tham  gia, liên kết, cấu trúc của chi phí và lợi ích và động cơ của chuỗi giá trị được  nghiên cứu. Việc tiêu chuẩn hóa các quy trình sản xuất trong trường hợp  ngành dược liệu là rất quan trọng để phát triển tính đồng nhất và khả năng  chấp nhận ở tất cả các nơi trên thế giới. Các quy trình khác nhau của chuỗi giá  trị, ví dụ như trồng trọt, bảo tồn, thu hoạch, chế biến, bảo quản, đóng gói của  ngành dược liệu và cây thơm phải được chuẩn hóa để đáp ứng các tiêu chí  chứng nhận cũng như đánh giá các chỉ tiêu chất lượng và an toàn của sản  phẩm và chiết xuất do đó sản xuất. Giấy chứng nhận và tiêu chuẩn hóa xác  định sự an toàn và chất lượng của sản phẩm là điều cần thiết trên thị trường  quốc tế cho các mặt hàng được tiêu thụ ở nước ngoài. Phân tích thảo luận vềkịch bản hiện tại của chuỗi giá trị của ngành công nghiệp dược liệu và cách  tiêu chuẩn hóa GTGT đóng góp trong thương mại cây dược liệu và cây thơm.

1.2.4. Tổng quan nghiên cứu về chuỗi giá trị dược liệu ở trong nước 

Ở Việt Nam, công trình nghiên cứu về lĩnh vực dược liệu chưa nhiều.  Một số công trình nghiên cứu cụ thể là:  

Ngô Văn Nam (2010) với đề tài: “Nghiên cứu chuỗi giá trị của sản  phẩm cây dược liệu làm thuốc tắm tại huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai”, luận văn  thạc sĩ kinh tế. Tác giả nghiên cứu chuỗi giá trị của sản phẩm cây dược liệu  làm thuốc tắm tại huyện Sa Pa, tác giả đưa ra các khuyến cáo làm tăng giá trị 

sản phẩm cây dược liệu làm thuốc tắm. Mục tiêu của nghiên cứu này là giúp  người nghèo, cộng đồng dân cư xóa đói giảm nghèo bền vững, tạo công ăn  việc làm cho người dân, phát triển sinh kế thông qua phát triển hợp lý và hiệu  quả các nguồn lực dược liệu sẵn có nơi người dân sinh sống.  

Huỳnh Bảo Tuân, Hồ Phượng Hoàng, Trần Thị Cảm, Nguyễn Ngọc  Kiều Chinh (2013) với đề tài: “Nghiên cứu chuỗi giá trị dược liệu – cây Diệp  Hạ Châu”, Nghiên cứu này tính toán chuỗi giá trị cây dược liệu tiêu biểu nằm  trong danh mục cây thuốc quốc gia – cây Diệp Hạ Châu. Phương pháp phân  tích kinh tế chuỗi giá trị thực hiện theo phương pháp nghiên cứu của  Eschborn GTZ (2007), Raphael Kaplinsky và Mike Morris (2001) và chương  trình M4P (2007) đối với cây Diệp Hạ Châu tại tỉnh Phú Yên. Kết quả nghiên  cứu nêu lên sơ đồ chuỗi giá trị với các tác nhân tham gia chuỗi giá trị Diệp Hạ Châu, các liên kết, mối quan hệ, mức độ trao đổi thông tin và cuối cùng là tỷ 

trọng lợi nhuận của các tác nhân. Nghiên cứu cũng đề xuất các giải pháp  nhằm cải thiện chuỗi gồm: Tập trung phát triển R&D và công nghiệp hóa  nông nghiệp trồng trọt dược liệu tại Việt Nam. Nghiên cứu còn là nền tảng  cho các nghiên cứu sâu hơn về nâng cao và cải thiện kinh tế cho các thành  phần có GTGT thấp trong chuỗi.

Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu về chuỗi giá trị khác.  Tuy nhiên, quá trình nghiên cứu và phát triển chuỗi giá trị, đặc biệt nghiên  cứu trên một sản phẩm dược liệu cụ thể và nghiên cứu ở một địa phương cụ thể, cho đến nay chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống.  1.3. Đánh giá chung về các công trình nghiên cứu về chuỗi giá trị, dược  liệu và chuỗi giá trị dược liệu 

1.3.1. Đối với các công trình nghiên cứu về chuỗi giá trị 

Nhìn chung các công trình nghiên cứu về chuỗi giá trị mà nghiên cứu  sinh trình bày ở trên thể hiện trên một số khía cạnh và lĩnh vực cụ thể sau đây: Thứ nhất, một số nghiên cứu về chuỗi mang tính lý thuyết, nhằm cung cấp  cho NCS khung lý thuyết cơ bản về chuỗi như: Nghiên cứu của Kaplinsky và  Morris (2001); Chopra SunLĐ và Pter Meindl (2001), Gereffi G, J. Humphrey  and T. Sturrgeon (2005), Hellin J, and M. Meijer, (2006), Guidelines for Value  Chain Analysis, FAO, Kaplinsky, R and M, Morris (2006) hoặc nghiên cứu của  

GTZ (2007), M4P (2008)…từ đó, giúp NCS có được kiến kiến thức cơ bản về chuỗi giá trị để vận dụng cho nghiên cứu của mình. 

Thứ hai, một số nghiên cứu tập trung vào nghiên cứu chuỗi giá trị tổng  thể về một ngành hàng nào đó: Nông nghiệp, công nghiệp, dược liệu… Các  nghiên cứu này thường tập trung phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chuỗi,  lập bản đồ chuỗi giá trị, phân tích dữ liệu của chuỗi, các chiến lược nâng cấp  chuỗi giá trị. Với những nghiên cứu này tác giả có cái nhìn tổng quan về chuỗi giá trị của một ngành hàng lớn.  

Thứ ba, một số nghiên cứu đi sâu phân tích chuỗi giá trị ngành hàng cụ thể: Lúa gạo, cà phê, khoai tây, thủy sản,…Các nghiên cứu này tập trung phân  tích các mối liên kết trong chuỗi giá giá trị ngành hàng, duy trì và phát triển  các liên kết đối với các tác nhân tham gia chuỗi giá trị ngành hàng cụ thể. 

Thứ tư, một số nghiên cứu phân tích chuỗi giá trị cho những cây trồng  vật nuôi cụ thể: chuỗi giá trị táo, xoài, chè, bưởi, cá cơm, bò,… Các nghiên 

cứu này chỉ ra rằng để phát triển sản xuất các mặt hàng cụ thể theo chuỗi giá  trị cần tập trung nhiều trong khâu kỹ thuật, khuyến nông, tạo ra được những  sản phẩm có giá trị cao, nâng cao được GTGT cho sản phẩm.

1.3.2. Đối với các công trình nghiên cứu về cây dược liệu  

Các nghiên cứu về cây dược liệu ở nước ngoài hầu hết đề cập tới công  dụng và xu thế sử dụng cây dược liệu làm thuốc chữa bệnh. Đồng thời, nêu ra  những thách thức trong việc khai thác và nguy cơ tuyệt chủng với một số dược liệu địa phương và cần phải có sự tham gia của các cấp chính quyền  cũng như tăng cường đào tạo cho người dân trong việc trồng và khai thác  nguồn dược liệu để đảm bảo cho sự phát triển bền vứng. 

Các nghiên cứu về cây dược liệu ở trong nước tập trung nhiều vào việc  điều tra khảo sát và bảo tồn các dược liệu quý, nghiên cứu để bảo tồn nguồn  gen và công dụng của dược liệu trong điều trị và sản xuất thuốc chữa bệnh,  các nghiên cứu đều đề xuất giải pháp để phát triển sản xuất cây dược liệu làm  nguyên liệu để sản xuất thuốc chữa bệnh và thực phẩm chức năng. 

1.3.3. Đối với các công trình nghiên cứu về chuỗi giá trị dược liệu

Nghiên cứu về chuỗi giá trị dược liệu ở nước ngoài, các tác giả tập  trung phân tích cấu trúc chuỗi giá trị, mô tả các tác nhân trong chuỗi giá trị; vai trò của các trung gian khác nhau, phương pháp thu mua, chi phí sản xuất  và giá cả của cây thuốc thực vật, nhằm làm tăng nguồn cung cấp cây thuốc  cho ngành công nghiệp dược phẩm, nghiên cứu đề xuất các giải pháp bảo vệ nguồn gen. 

Nghiên cứu về chuỗi giá trị dược liệu ở trong nước chưa nhiều, NCS tổng hợp được kết quả hai nghiên cứu, một nghiên cứu về chuỗi cây dược liệu  làm thuốc tắm tại huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai; và một nghiên cứu về chuỗi  dược liệu diệp hạ châu của nhóm tác giả thuộc đại học công nghệ thành phố Hồ Chí Minh, các nghiên cứu này cũng chỉ dừng lại ở việc mô tả các hoạt động của chuỗi giá trị, chưa nghiên cứu đánh giá sâu sắc về hiệu quả cũng  như các nhân tố tác động đến sự vận hành và phát triển của chuỗi.

1.4. Xác định khoảng trống trong nghiên cứu 

Các nghiên cứu ở ngoài nước ngoài chủ yếu tập trung vào việc phân  tích cấu trúc chuỗi giá trị dược liệu, phương pháp thu mua, chi phí và giá cả của cây thuốc thực vật (thảo dược). 

Nghiên cứu về chuỗi giá trị dược liệu ở trong nước còn quá ít, chưa bao  quát được hết các loại dược liệu, đồng thời cũng chưa đi sâu phân tích hiệu  quả của các tác nhân tham gia chuỗi cũng như việc phân tích đánh giá sâu đến  các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển chuỗi giá trị dược liệu và mức độ tác  động của các nhân tố đó đến hoạt động của chuỗi giá trị dược liệu cụ thể. 

NCS nhận thấy, các nghiên cứu trong và ngoài nước, nhất là các nghiên  cứu trong nước còn quá ít những nghiên cứu phân tích về chuỗi giá trị dược  liệu cụ thể cũng như phân tích chuỗi giá trị ngành dược liệu. Hầu hết các  nghiên cứu mà NCS tổng hợp được đều tập trung nghiên cứu chuỗi giá trị giá  trị nông sản hoặc chuỗi ngành hàng nông sản nói chung, chưa có nghiên cứu  nào về chuỗi giá trị sản phẩm dược liệu tại Quảng Ninh. 

Xuất phát từ điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội của tỉnh Quảng Ninh có  nhiều lợi thế cho phát triển sản xuất cây dược liệu, lãnh đạo tỉnh rất quan tâm  đến việc phát triển các sản phẩm theo chuỗi giá trị, nhằm khai thác hết tiềm  năng thế mạnh của địa phương, bằng việc tiên phong đi đầu trong cả nước về 

xây dựng Chương trình “Mỗi xã/phường một sản phẩm”. Theo đó, dược liệu  cũng là một trong những sản phẩm quan trọng của các địa phương trong Tỉnh  tham gia Chương trình, trong đó, Ba kích và Trà hoa vàng là 2 loại dược liệu  được tỉnh xác định là sản phẩm chủ lực, với những lý do đó, NCS chọn vấn đề 

nghiên cứu là phát triển chuỗi giá trị dược liệu và tập trung phân tích kinh tế chuỗi giá trị của hai loại dược liệu trọng yếu là Ba kích và Trà hoa vàng.

Tóm tắt chương 1 

Chương 1 đã tổng hợp được các nghiên cứu về chuỗi giá trị trên thế giới và trong nước làm cơ sở lý thuyết cho quá trình nghiên cứu luận án.  Cùng với đó, NCS cũng đã tóm lược một số công trình nghiên cứu về dược  liệu trên thế giới để thấy được tầm quan trọng của dược liệu trong việc chữa  bệnh và vấn đề khai thác, bảo tồn dược liệu. Trên cơ sở đó, NCS tổng hợp  những công trình nghiên cứu về chuỗi giá trị dược liệu ở trong nước và ngoài  nước để nắm được những vấn đề liên quan đến chuỗi giá trị dược liệu đã được  các tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu. Với từng công trình NCS đã chắt  lọc các nội dung đã được nghiên cứu một cách chi tiết về kết quả nghiên cứu  chính, làm cơ sở để tìm ra khoảng trống để lựa chọn nội dung nghiên cứu phù  hợp cho luận án, tìm ra những điểm mới, có giá trị đóng góp cả về lý luận và  thực tiễn.

Chương 2 

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 

VỀ PHÁT TRIỂN CHUỖI GIÁ TRỊ DƯỢC LIỆU 

2.1. Một số vấn đề lý luận về phát triển chuỗi giá trị dược liệu

2.1.1. Lý luận về dược liệu 

2.1.1.1. Khái niệm về dược liệu 

Khái niệm dược liệu đã được quy định tại điều 2 mục 5, Luật dược  105/2016/QH13, công báo số 343+344 ngày 20 tháng 05 năm 2016 của Chính  phủ. Theo đó, dược liệu được hiểu là những nguyên liệu làm thuốc có nguồn  gốc tự nhiên từ thực vật, động vật, khoáng vật và đạt tiêu chuẩn làm thuốc

Như vậy, dược liệu có các đặc điểm sau đây: (i) Là nguyên liệu để làm  thuốc; (ii) Có nguồn gốc tự nhiên từ thực vật, động vật, khoáng vật; (iii) Phải  đáp ứng tiêu chuẩn làm thuốc. Trong nghiên cứu này NCS tập trung vào loại  dược liệu có nguồn gốc từ thực vật. 

Cây dược liệu là những loài thực vật có tác dụng dùng để chữa bệnh  hoặc bồi bổ cơ thể khi con người sử dụng. Việc dùng thuốc trong nhân dân  đã có từ lâu đời, từ thời nguyên thủy, tổ tiên chúng ta trong lúc tìm kiếm thức  ăn, có khi ăn phải chất độc phát sinh nôn mửa hoặc rối loạn tiêu hóa, hoặc  hôn mê có khi chết người, do đó, cần có nhận thức phân biệt được loại nào ăn  được, loại nào có độc không ăn được. 

2.1.1.2. Vai trò của dược liệu trong lĩnh vực y học 

Từ cổ xưa, con người đã biết sử dụng các dược liệu thảo mộc và động  vật để làm thuốc chữa bệnh và phòng bệnh. Cùng với sự tồn tại và phát triển  của lịch sử loài người, những kinh nghiệm nghiên cứu, sử dụng dược liệu để làm thuốc phòng chữa bệnh cũng ngày một phát triển.  

Dược liệu là một trong những yếu tố có vai trò quyết định đến sự tồn  tại và phát triển của ngành Y, đặc biệt là nền y học cổ truyền – nền y học vận  dụng các loại thuốc từ thiên nhiên. Tuy đã có các loại thuốc tổng hợp từ hóa dược trong nền y học hiện đại, nhưng thực tế vẫn cho thấy thuốc thiên nhiên  an toàn hơn và có tác dụng điều trị cho một số loại bệnh nan y mà thuốc tổng  hợp không thể điều trị như ung thư và một vài bệnh mãn tính khác. Nhiều hoạt chất quan trọng như quinin, morphin, emetin… không thể tạo ra từ các  chất hóa học mà phải chiết xuất từ dược liệu. Kết hợp dược liệu với hóa dược  cũng khiến cho hiệu quả của thuốc tăng lên rất nhiều. 

Ngày nay, loài người đang sống trong thời đại khoa học công nghệ hiện  đại. Nhiều thuốc mới đã được nghiên cứu, sản xuất bằng kỹ thuật hiện đại và  đưa vào sử dụng trong phòng chữa bệnh. Nhưng dược liệu và thuốc có nguồn  gốc thực vật và động vật (thuốc cổ truyền) vẫn giữ nguyên ý nghĩa và tầm  quan trọng của nó. Dược liệu ngày càng được coi trọng trong sự nghiệp y tế 

của nhân loại, bởi những ưu điểm nổi bật trong công tác phòng bệnh và chữa  bệnh, bảo vệ sức khỏe cũng như phát triển kinh tế. Đó là: 

– Thuốc làm từ dược liệu chiếm tỷ trọng cao trong ngành dược. – Nhiều hoạt chất dùng sản xuất dược phẩm hiện đại, hiện nay vẫn phải  chiết xuất từ dược liệu như: Strychnin, Morphin, Berberin, Artemisinin… – Dùng thuốc cổ truyền làm từ dược liệu rất ít độc hại, rẻ tiền, dễ kiếm  mà hiệu quả cao, sử dụng đơn giản, ít tai biến. 

Nhiều dược liệu quý ngoài tác dụng qua trọng trong chữa bệnh, còn mang  lại giá trị kinh tế cao; nhiều dược liệu làm nguyên liệu xuất khẩu thu nhiều ngoại  tệ như: Quế, Nhân sâm, Tam thất, Đại hồi, Long nhãn, Mật ong,… 

Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm có thực vật và động vật  làm thuốc rất phong phú và đa dạng. Đây là một kho tài nguyên thiên nhiên  hết sức quý giá. Vì vậy, việc bảo tồn, khai thác sử dụng và phát triển nguồn  tài nguyên dược liệu là một trong những nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài,  không chỉ là trách nhiệm của ngành y tế mà là trách nhiệm của Đảng, Nhà  nước và nhân dân. Điều đó sẽ góp phần thực hiện chiến lược phát triển ngành dược liệu nói riêng và bảo vệ môi trường sinh thái nói chung; đảm bảo cho  đất nước phát triển bền vững. 

2.1.2. Lý luận về chuỗi và phát triển chuỗi 

2.1.2.1. Khái niệm về chuỗi 

Chuỗi giá trị và phân tích chuỗi là một hướng nghiên cứu mang tính  tổng hợp chú trọng tính liên kết các hoạt động đã được chuyên môn hóa ở trình độ cao vào một trục chính là tạo ra và phân chia GTGT cho các tác nhân  tham gia chuỗi cũng như ảnh hưởng của chuỗi đến tăng trưởng và phát triển. 

Thuật ngữ “chuỗi giá trị” “phương pháp phân tích chuỗi giá trị” được các học giả của Pháp đề cập lần đầu trong lý thuyết về phương pháp  chuỗi (filière) vào những năm 50 của thế kỷ trước. Theo họ, chuỗi là một loạt  các hoạt động liên quan đến việc tạo ra sản phẩm cuối cùng. Về cơ bản khái  niệm chuỗi do các học giả này quan niệm không khác biệt nhiều đối với  những khái niệm về chuỗi giá trị sau này. Tuy nhiên, khi sử dụng phương  pháp filière, các học giả quan tâm chủ yếu đến việc đo lường đầu vào, đầu ra  và GTGT được tạo ra trong các công đoạn của quá trình sản xuất, ít chú ý đến  các mối liên kết cũng như nội dung quản trị chuỗi. Phương pháp filière nhấn  mạnh hai khía cạnh sau đây:  

Thứ nhất, coi trọng đánh giá chuỗi về mặt kinh tế và tài chính theo cách  tạo ra thu nhập và phân phối thu nhập trong chuỗi hàng hóa, phân tích các chi  phí và thu nhập giữa các thành phần tham gia chuỗi nội địa.  

Thứ hai, nhấn mạnh chiến lược của các chủ thể tham gia chuỗi. Theo  họ, việc phân tích chuỗi giúp các cá nhân và bộ phận trong chuỗi xây dựng  được chiến lược hoạt động hiệu quả căn cứ vào GTGT tạo ra trong phần hoạt  động của các cá nhân hay bộ phận đó.  

Ngoài ra, phương pháp filière chỉ áp dụng cho chuỗi giá trị nội địa.  Mặc dù thế, đây là phương pháp đã mang lại lợi ích cho những tổ chức sử dụng lý thuyết này để quản lý các hoạt động sản xuất nông nghiệp trong một  thời gian khá dài. 

Chuỗi là một hoạt động kinh doanh có quan hệ với nhau, từ việc cung  cấp các đầu vào cho một sản phẩm, đến sơ chế, vận chuyển, tiếp thị đến việc  cuối cùng là bán sản phẩm đó cho người tiêu dùng và có hàm ý như sau: 

– Một chuỗi các quá trình sản xuất (các chức năng) từ cung cấp các đầu vào  cho một sản phẩm cụ thể tới sản xuất, chế biến, tiếp thị và tiêu thụ cuối cùng. – Sự sắp xếp có tổ chức, kết nối và điều phối người sản xuất, người chế biến, thương gia và nhà phân phối liên quan đến một sản phẩm cụ thể. – Mô hình kinh tế trong đó kết nối việc lựa chọn sản phẩm và công nghệ thích hợp với cách thức tổ chức các đối tượng liên quan để tiếp cận thị trường. 

Đầu vào  

cụ thể 

Cung cấp 

-Thiết bị 

– Đầu vào  …….. 

 Sản  

 xuất 

Trồng trọt,  chăn nuôi, chế biến, thu  

hoạch… 

 Chuyển  đổi 

Phân loại 

Chế biến 

Đóng gói 

 Tiếp  thị 

Vận chuyển Phân phối Bán hàng 

 Tiêu   dùng 

Tiêu dùng

Hình 2.1. Phân đoạn chuỗi đối với một sản phẩm cụ thể 

Nguồn [52] 

Nói đến chuỗi, thường hình thành hai khái niệm: Chuỗi giá trị và chuỗi  cung ứng, chúng ta cần phân biệt rõ hai khái niệm này như sau: – Chuỗi cung ứng (Supply Chain) là một hệ thống bao gồm các tổ chức, con người và các hoạt động, các nguồn lực liên quan đến việc vận  chuyển sản phẩm (hoặc dịch vụ) từ tay người cung cấp (hoặc nhà sản xuất),  đến khách hàng (người tiêu dùng). 

Chuỗi giá trị (Value Chain) là chuỗi của các hoạt động để tạo ra một  sản phẩm cụ thể. Sản phẩm đi qua tất cả các hoạt động của chuỗi theo thứ tự và tại mỗi hoạt động sản phẩm thu được một số giá trị nào đó gọi là GTGT.  

Chuỗi các hoạt động cung cấp cho các sản phẩm nhiều GTGT của tất cả các  hoạt động cộng lại. 

Trong nghiên cứu này, NCS tập trung hướng nghiên cứu vào phát triển  chuỗi giá trị. 

Chuỗi giá trị, hay còn được biết đến là chuỗi giá trị phân tích, là một  khái niệm từ quản lý kinh doanh đã được Micheal Porter mô tả và phổ cập lần  đầu tiên vào năm 1985 trong một cuốn sách về phân tích lợi thế cạnh tranh  của ông: “Chuỗi giá trị là chuỗi của các hoạt động của một công ty hoạt động  trong một ngành cụ thể. Sản phẩm đi qua tất cả các hoạt động của một công ty  hoạt động một ngành nghề cụ thể. Sản phẩm đi qua tất cả các hoạt động của  chuỗi theo thứ tự và tại mỗi hoạt động sản xuất thu được một số giá trị nào  đó”. Chuỗi các hoạt động mang lại sản phẩm nhiều giá trị gia tăng hơn tổng  giá trị gia tăng của các hoạt động cộng lại. 

Tiếp đó, nhà nghiên cứu Kaplins Rapheal đã đưa ra khái niệm về chuỗi  giá trị trong phân tích toàn cầu hóa: “Chuỗi giá trị là hàng loạt những hoạt  động cần thiết để biến một sản phẩm hoặc một dịch vụ từ lúc còn là khái  niệm, thông qua các giai đoạn sản xuất khác nhau (bao gồm một kết hợp giữa  sự biến đổi vật chất và đầu vào các dịch vụ sản xuất khác nhau), đến khi phân  phối đến tay người tiêu dùng cuối cùng và vứt bỏ sau khi đã sử dụng”. Và một  chuỗi giá trị tồn tại khi tất cả những người tham gia trong chuỗi hoạt động để tạo ra tối đa giá trị cho chuỗi. 

Như vậy, ta có thể giải thích định nghĩa về chuỗi giá trị theo nghĩa hẹp  hoặc nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, một chuỗi giá trị bao gồm một loạt các hoạt  động thực hiện trong một công ty để sản xuất ra một sản phẩm nhất định. Tất  cả các hoạt động từ thiết kế, quá trình mang vật tư đầu vào, sản xuất, phân  phối, marketing bán hàng, thực hiện các dịch vụ hậu mãi đã tạo thành một  chuỗi kết nối người sản xuất với người tiêu dùng. Hơn nữa, mỗi hoạt động lại  bổ sung giá trị cho thành phẩm cuối cùng. Ví dụ như khả năng cung cấp dịch vụ hỗ trợ hậu mãi cho khách hàng thông qua việc gắn vào các sản phẩm của  mình số điện thoại gọi miễn phí để khách hàng có thể sử dụng để khiếu nại,  hỏi thông tin hay góp ý kiến đối với công ty cũng làm tăng giá trị chung của  sản phẩm. Tuy nhiên, trong thực tế, các chuỗi giá trị thường phức tạp hơn  nhiều so với chuỗi giá trị trên. 

Chuỗi giá trị theo nghĩa rộng là một phức hợp những hoạt động do  nhiều người tham gia khác nhau thực hiện (người sản xuất sơ cấp, người chế biến, thương nhân, người cung cấp dịch vụ…) để biến một nguyên liệu thô và  chuyển dịch theo các mối liên kết với các doanh nghiệp khác trong kinh  doanh, lắp ráp, chế biến,… Các tiếp cận theo nghĩa rộng không xem xét đến  các hoạt động do một doanh nghiệp duy nhất tiến hành, mà nó xem xét cả các  mối liên kết ngược xuôi cho đến khi nguyên liệu thô được sản xuất và kết nối  với người tiêu dùng cuối cùng. 

Khái niệm chuỗi giá trị dược liệu: Từ các khái niệm trên, NCS đưa ra  khái niệm về chuỗi giá trị dược liệu theo nghĩa rộng là một chuỗi các hoạt  động khép kín từ sản xuất, thu mua, chế biến đến tiêu thụ dược liệu và các sản  phẩm từ dược liệu. Như vậy, chuỗi giá trị dược liệu gồm nhiều người tham  gia khác nhau cùng thực hiện: Người sản xuất, người thu mua, người chế biến  và người tiêu thụ. 

Khái niệm phát triển chuỗi giá trị dược liệu 

Để nêu ra được khái niệm phát triển chuỗi giá trị dược liệu, NCS dựa  vào lý thuyết phát triển. Theo đó, khái niệm phát triển được hiểu là: – Khái niệm phát triển trong phép biện chứng duy vật dùng để chỉ quá  trình vận động theo chiều hướng đi lên của sự vật từ trình độ thấp lên trình độ cao hơn.  

– Khái niệm phát triển trong lý thuyết phát triển kinh tế là một quá trình  lớn lên về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, trong đó bao 

gồm sự tăng thêm về qui mô sản xuất (biến đổi về lượng) và sự tiến bộ về cơ  cấu kinh tế xã hội (biến đổi về chất).  

Dựa vào cách tiếp cận trên, Phát triển chuỗi giá trị dược liệu được hiểu  là một quá trình làm thay đổi cả về số lượng và chất lượng các hoạt động liên  quan đến phát triển sản xuất dược liệu theo chuỗi giá trị. Trong đó, sự tăng  thêm về qui mô được coi là việc hình thành những chuỗi giá trị mới (chuỗi giá  trị cây Quế, cây Hồi, cây Sả, cây Cà gai leo, cây Thìa canh…), sự biến đổi về chất của phát triển là việc nâng cấp chuỗi giá trị hiện có (chuỗi giá trị cây Ba  kích, cây Trà hoa vàng). 

2.1.1.2. Sơ đồ chuỗi giá trị 

Một sơ đồ chuỗi thể hiện được các hoạt động sản xuất/kinh doanh (các  khâu), các tác nhân chính trong chuỗi và những mối liên kết của họ. Lập sơ  đồ chuỗi là việc vẽ ra một sơ đồ về hiện trạng của hệ thống chuỗi bao gồm  các khâu và trong mỗi khâu có những hoạt động cụ thể. 

Đầu vào Sản xuất Thu gom Chế biến Tiếp thị Tiêu dùng 

Hoạt  độngGiống Phân bón Thuốc BVTV Lao độngLàm đất Gieo  trồng Chăm sóc Thu hoạchThu  gom Vận  chuyểnLàm sạch Đóng gói Tem mác Bao bìBán sỉ Bán lẻ
Tác  nhânCác nhà cung  cấp đầu vàoNông dân Tổ hợp  tác Hợp tác  xãNgười  thu gomNhà sơ  chế, chế biếnNgười bán sỉ Người bán lẻ

Trong  

nước 

Xuất  

khẩu 

Chính quyền địa phương, Sở ban ngành liên quan, dự án, Ngân hàng Các trường, viện, học viện…

Hình 2.2. Sơ đồ chuỗi giá trị ngành trồng trọt Nguồn: [19] 

2.1.2.3. Các tác nhân trong chuỗi giá trị 

Tác nhân là một tế bào sơ cấp với các hoạt động kinh tế, là trung tâm  hoạt động độc lập và tự quyết định hành vi của mình. Ta có thể hiểu tác nhân trong chuỗi là những hộ, những doanh nghiệp, HTX, Thương lái. Các tác  nhân này tham gia trong chuỗi ngành hàng thông qua hoạt động kinh tế của  họ. Tác nhân được phân làm hai loại: Tác nhân có thể là người thực hiện (hộ nông dân, hộ kinh doanh, người tiêu thụ,…) và các tác nhân tinh thần có tính  tượng trưng (các doanh nghiệp, HTX, nhà máy,…), theo nghĩa rộng, người ta  dùng các tác nhân để nói một tập hợp các đơn vị có cùng một hoạt động như: 

– Tác nhân “Người sản xuất” để chỉ tập hợp tất cả những người tham  gia vào các hoạt động sản xuất là hoạt động đầu tiên trong chuỗi giá trị sản  phẩm, có thể là hộ gia đình, HTX, tổ hợp tác hay doanh nghiệp. 

– Tác nhân “Người thu gom” để chỉ tập hợp tất cả những người thu mua  sản phẩm của người sản xuất tạo ra. 

– Tác nhân “Người chế biến” để chỉ tất cả những cá nhân, HTX hay  doanh nghiệp tham gia vào hoạt động chế biến trong chuỗi giá trị. Nguyên  liệu được cung cấp bởi người thu gom hoặc có thể trực tiếp từ người sản xuất. 

– Tác nhân “Người tiêu thụ” để chỉ tập hợp những người tham gia vào  khâu tiêu thụ sản phẩm, gồm người bán buôn và bán lẻ (thị trường). Với các hoạt động kinh tế riêng của mình, các tác nhân này thực hiện  từng nội dung chuyển dịch trong các chuỗi khác nhau. 

2.1.2.4. Ý nghĩa và lợi ích của phân tích chuỗi giá trị 

Việc phân tích chuỗi giá trị mang lại lợi ích to lớn cho các cá nhân và  các tổ chức, trên phương diện tìm kiếm cơ hội tham gia chuỗi giá trị hoặc cải  tiến chuỗi giá trị. Dưới đây mô tả những lợi ích đó: 

* Phân tích chuỗi giá trị giúp nhận dạng lợi thế cạnh tranh: Phân tích  chuỗi giá trị giúp những người sản xuất, các doanh nghiệp xác định và hiểu  chi tiết hơn các công đoạn trong chuỗi giá trị của sản phẩm, từ đó doanh 

nghiệp có thể xác định được lợi thế cạnh tranh đang nằm ở công đoạn nào để có chiến lược phát triển sản phẩm dựa trên lợi thế cạnh tranh sẵn có. * Phân tích chuỗi giá trị nhằm cải tiến hoạt động của các tác nhân  tham gia: Việc hiểu rõ chuỗi giá trị giúp các tác nhân hoàn thiện hay nâng cấp  những hoạt động. Trên cơ sở hiểu rõ những điểm mạnh, điểm yếu của các yếu  tố có liên quan đến chuỗi giá trị bao gồm doanh thu, chi phí, lợi nhuận, công  nghệ, kiến thức, lao động,… cũng như hiểu rõ về hiệu quả của quá trình cung  cấp sản phẩm hay dịch vụ, doanh nghiệp sẽ có những điều chỉnh đối với  những yếu tố này nhằm tạo ra hiệu quả hoạt động cao hơn. 

* Phân tích chuỗi giá trị tạo cơ hội đánh giá lại năng lực của các tác  nhân tham gia: Phân tích chuỗi giá trị là cơ hội đánh giá lại năng lực của các  tác nhân tham gia chuỗi. Như đã trình bày trong nội dung phân tích chuỗi giá  trị, thông qua việc phân tích các yếu tố liên quan bao gồm chi phí, lợi nhuận,  công nghệ, kiến thức, lao động,… Việc phân tích chuỗi giá trị là thực sự cần  thiết bởi nó giúp tác nhân tham gia nhận rõ đặc điểm của từng công đoạn  trong chuỗi giá trị cũng như hiệu quả hay GTGT được tạo ra trong công đoạn  đó. Kết quả là các tác nhân sẽ có những đánh giá cả chủ quan và khách quan  về hiệu quả của việc thực hiện những công đoạn này, qua đó tạo cơ sở cho  việc xây dựng chiến lược hoạt động phù hợp.  

* Phân tích chuỗi giá trị tạo sự phân phối thu nhập hợp lý: Phân tích  chuỗi giá trị tạo điều kiện thực hiện việc phân phối thu nhập hợp lý. Bằng  cách lập sơ đồ những hoạt động trong chuỗi, qua đó phân tích tổng thu nhập  của một chuỗi giá trị thành những khoản mà các tác nhân khác nhau trong  chuỗi giá trị nhận được. Để có được những đánh giá khách quan về sự đóng  góp của các đối tượng tham gia vào chuỗi giá trị, việc phân tích chuỗi giá trị là cách duy nhất để có được những thông tin đó.

2.1.3. Nội dung phát triển chuỗi giá trị  

2.1.3.1. Lập bản đồ chuỗi giá trị  

Lập bản đồ chuỗi giá trị có nghĩa là xây dựng một sơ đồ có thể quan sát  bằng mắt thường về hệ thống chuỗi. Các bản đồ này có nhiệm vụ định dạng  các hoạt động kinh doanh (chức năng), các nhà vận hành chuỗi và những mối  liên kết của họ, cũng như các nhà hỗ trợ chuỗi nằm trong chuỗi giá trị này.  Các bản đồ chuỗi là cốt lõi của phân tích chuỗi sản phẩm và vì thế chúng là  yếu tố không thể thiếu trong phân tích chuỗi. 

Lập bản đồ chuỗi giá trị là một phương pháp lưu đồ thị để minh họa,  phân tích và cải tiến các bước cần thiết để sản xuất và phân phối sản phẩm  hoặc dịch vụ. Một phần quan trọng của phương pháp đo lường chuỗi giá trị là  lập bản đồ chuỗi nhằm đánh giá dòng chảy của các bước tiến trình và thông  tin từ nguồn gốc đến việc phân phối sản phẩm cho khách hàng. Cũng giống  như các loại sơ đồ khác, nó sử dụng một hệ thống các ký hiệu để miêu tả các  hoạt động làm việc và luồng thông tin khác nhau. Cần lưu ý rằng khách hàng,  dù là bên ngoài hay nội bộ, quan tâm đến giá trị của sản phẩm hoặc dịch vụ cho họ, chứ không phải là những nỗ lực để sản xuất ra sản phẩm, hoặc giá trị có thể cung cấp cho khách hàng khác… 

2.1.3.2. Lượng hoá và mô tả chi tiết các chuỗi giá trị  

Lượng hoá và mô tả chi tiết chuỗi sản phẩm bao gồm những tác nhân  tham gia sản xuất, phân phối, tiếp thị, và bán một hay các sản phẩm cụ thể.  Việc lập sơ đồ này đánh giá các đặc điểm của các tác nhân tham gia, cơ cấu  lợi nhuận và chi phí, GTGT trong suốt chuỗi, các đặc điểm của việc làm, địa  chỉ tiêu thụ và khối lượng bán hàng trong và ngoài nước [62]. Những chi tiết  như thế có thể được tập hợp từ việc phối hợp khảo sát cơ bản, phỏng vấn  nhóm (Rapid Rural Appraisal – PRA), các phỏng vấn không chính thức, và dữ liệu thứ cấp; các con số kèm theo bản đồ chuỗi cơ sở, ví dụ như: Số lượng chủ thể, lượng sản xuất hay thị phần của các phân đoạn cụ thể trong chuỗi. Tuỳ thuộc vào từng mối quan tâm cụ thể mà các phân tích chuỗi tập trung vào bất  kỳ khía cạnh nào có liên quan, ví dụ như các đặc tính của chủ thể, các dịch vụ hay các điều kiện khung về chính trị, luật pháp và thể chế có tác dụng ngăn  cản hoặc khuyến khích phát triển chuỗi. 

2.1.3.3. Phân tích kinh tế đối với chuỗi giá trị  

Phân tích kinh tế đối với chuỗi giá trị sản phẩm là đánh giá năng lực hiệu  suất kinh tế của chuỗi. Nó bao gồm việc xác định GTGT tại các giai đoạn trong  chuỗi giá trị, chi phí sản xuất và thu nhập của các nhà vận hành (trong phạm vi  có thể). Phân tích kinh tế chuỗi giá trị bao gồm: Phân tích chênh lệch giá và lợi  nhuận trong chuỗi, xác định ai được lợi từ việc tham gia chuỗi, những tác nhân  nào có thể hưởng lợi từ việc hỗ trợ hay tổ chức lại sản xuất. Điều này có ý  nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh của các nước đang phát triển. Một  khía cạnh khác là chi phí giao dịch, chính là chi phí triển khai công việc kinh  doanh, chi phí thu thập thông tin và thực hiện hợp đồng. Năng lực kinh tế của  một chuỗi giá trị có thể được “so sánh đối chuẩn”, ví dụ như giá trị của các  tham số quan trọng có thể được so sánh với các tham số này ở các chuỗi cạnh  tranh tại các quốc gia khác hoặc của các ngành tương đồng. 

2.1.3.4. Nâng cấp chuỗi giá trị  

Nâng cấp chuỗi giá trị bao gồm cải tiến trong chất lượng và thiết kế sản  phẩm giúp các nhà sản xuất thu được giá trị cao hơn hoặc qua việc đa dạng  hóa các dòng sản phẩm cung cấp. Đánh giá lợi nhuận của những người tham  gia trong chuỗi cũng như thông tin về những ràng buộc hiện diện mới xuất  hiện.Vấn đề về quản trị, cấu trúc các quy định, rào cản gia nhập ngành, rào cản thương mại, và các tiêu chuẩn.  

Để nâng cấp chuỗi thành công, các tác nhân trong chuỗi đóng vai trò  chủ đạo thực hiện nhiệm vụ nâng cấp và các nhà hỗ trợ đóng vai trò hỗ trợ các  tác nhân trong quá trình nâng cấp. Xác định tầm nhìn sẽ giúp chúng ta tập  trung vào cơ hội, định hướng rõ ràng viễn cảnh trong tương lai để đặt ưu tiên 

các hoạt động, giúp cho các tác nhân thống nhất ý kiến trong việc nâng cấp  chuỗi. Có bốn chiến lược cơ bản để nâng cấp chuỗi giá trị: (1) Chiến lược cắt  giảm chi phí, (2) Chiến lược nâng cao chất lượng, (3) Chiến lược đầu tư vào  công nghệ, (4) Chiến lược tái đầu tư [47]. Tùy theo từng chuỗi sản phẩm được  phân tích cụ thể mà chúng ta có thể sử dụng từng chiến lược riêng lẻ hay kết  hợp các chiến lược với nhau để đạt được tầm nhìn chiến lược. 

2.2. Cơ sở thực tiễn về phát triển chuỗi giá trị dược liệu 

2.2.1. Kinh nghiệm phát triển dược liệu theo chuỗi giá trị của một số địa  phương trong nước. 

Thực hiện Quyết định 1976/QĐ-TTg, ngày 30-10-2013, của Thủ tướng  Chính phủ “Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển dược liệu đến năm 2020  và định hướng đến năm 2030” và Quyết định 206/QĐ-BYT, ngày 22-1-2015,  Bộ Y tế ban hành danh mục 54 cây dược liệu ưu tiên phát triển, giai đoạn  2015 – 2020. Theo đó, các địa phương trong cả nước đã tập trung chỉ đạo khai  thác và phát triển sản xuất dược liệu, đưa ngành sản xuất dược liệu thành một  trong những ngành quan trọng trong phát triển kinh tế của địa phương.  

(1) Kinh nghiệm phát triển dược liệu ở Yên Bái: Yên Bái là tỉnh có  nguồn dược liệu và cây thuốc tự nhiên phong phú, đa dạng về chủng loại. Đất  đai, khí hậu phù hợp với nhiều loài cây, trong đó có nhiều loài cây thuốc quý  xuất xứ từ các nguồn khác nhau. Tỉnh có 2 khu bảo tồn thiên nhiên là xã Nà  Hẩu của huyện Văn Yên và xã Chế Tạo (Mù Cang Chải) – nơi có thảm thực  vật phong phú, khí hậu thổ nhưỡng cực kì thích hợp với các loại cây thuốc,  cái loài dược liệu quý hiếm. Yên Bái còn được đánh giá là “thủ phủ” của một  số loài cây thuốc nam quý hiếm nhóm IA,IIA và một số cây thảo dược quý  khác như: Hoàng liên Chân Gà, cây Lan kim tuyến, Hoàng Thảo, Thạch Hộc,  Tam Thất Vũ Diệp, Tiết Trúc Sâm, Cốt Toái Bổ, Thất Diệp Nhất Chi Hoa,  Hoàng Tinh, Kê Huyết Đằng, Bình Vôi, Hà Thủ Ô, Thổ Phục Linh, Trà Hoa  Vàng, Khôi Tía, Hoàng Bá, Sa Nhân, Thảo Quả, Quế Chi …. Ở huyện Mù 

Cang Chải, Trạm Tấu, Văn Chấn, Văn Yên, Lục Yên. Mặc dù, đã có sự quan  tâm của các cấp chính quyền, nhân dân trong tỉnh đã có kinh nghiệm, tập  quán sản xuất một số loại cây dược liệu từ khâu trồng, chăm sóc, bảo vệ, khai  thác và tiêu thụ sản phẩm, nhưng trong phát triển cây dược liệu trên địa bàn  gặp phải không ít khó khăn. Cụ thể, ở Yên Bái hiện tại vẫn đang sản xuất ở mức nhỏ lẻ là chủ yếu, việc khai thác cây dược liệu có quy mô lớn hầu như  chưa có. Ngoài quế, Sơn tra, Thảo quả, người dân chủ yếu khai thác cây thuốc  theo cách tự nhiên. Bên cạnh đó, tình trạng khai thác dược liệu bừa bãi, thiếu  quy hoạch quản lý bảo tồn, khiến nguồn dược liệu quý hiếm cạn kiệt. Hơn  nữa, việc nuôi trồng nguồn dược liệu quý của người dân chủ yếu tự phát,  manh mún, còn với những doanh nghiệp thì thiếu những mô hình, quy hoạch,  định hướng phát triển, cũng như liên kết phát triển thành chuỗi giá trị dược  liệu để khai thác hết tiềm năng thế mạnh. Việc liên kết sản xuất dược liệu  thành chuỗi giá trị với quy mô lớn là chưa rõ nét. 

(2) Kinh nghiệm phát triển dược liệu của Hà Giang: Tỉnh Hà Giang đã  thu hút được các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, chế biến dược  liệu, như Công ty Cổ phần thương mại Phát triển nông – lâm nghiệp Bình  Minh 3; Công ty Nam Dược, Tập đoàn GFS liên kết với Công ty TNHH MTV  Dược khoa – Trường Đại học Dược Hà Nội;… Các doanh nghiệp này đã sản  xuất được một số sản phẩm tiêu thụ trên thị trường, như chè Atiso, cao lọc  Atiso, Bạch chỉ, Đương quy, Rượu ngâm thuốc,… bước đầu đã cho thấy hiệu  quả trong kinh doanh dược liệu tại tỉnh Hà Giang. Thu hái dược liệu chủ yếu  dựa vào kinh nghiệm của các hộ gia đình, quy mô nhỏ, chưa đúng quy trình  kỹ thuật. Chất lượng sản phẩm chưa được kiểm soát, thị trường tiêu thụ bấp  bênh, chủ yếu thông qua thương lái, khiến thị trường dược liệu luôn xảy ra  hiện tượng “tranh mua, tranh bán”. Kết cấu hạ tầng của tỉnh còn thiếu và  chưa đồng bộ; cán bộ khoa học – kỹ thuật chuyên ngành dược liệu còn thiếu  và yếu cũng là những trở ngại không nhỏ trong quá trình phát triển. Thêm vào đó, điều kiện kinh tế của người dân còn khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao, trên  80% lao động nông nghiệp chưa qua đào tạo, tư duy theo nếp sản xuất cũ, lạc  hậu mà chưa tiếp cận linh hoạt với kinh tế thị trường.  

Hà Giang hình thành vùng trồng 41 loài cây dược liệu với tổng diện  tích 5.580 ha theo tiêu chí GACP (Thực hành tốt trồng trọt dược liệu) và thu  hái từ tự nhiên 17 loài cây dược liệu theo tiêu chí GCP (Thực hành tốt thu hái  cây thuốc hoang dã); Duy trì và củng cố 7.400 ha hiện có; Tạo vùng sản xuất  dược liệu của Hà Giang tầm cỡ quốc gia, tham gia thị trường dược liệu trong  nước và khu vực. Hình thành hệ thống chuỗi giá trị dược liệu với sự tham gia  của các chủ thể, gồm khoảng trên 15.000 hộ gia đình, các doanh nghiệp, hợp  tác xã, các cơ quan quản lý nhà nước, dịch vụ công, các nhà khoa học và các  nhà cung ứng đầu vào. Chú trọng nghiên cứu và ứng dụng các chuỗi công  nghệ thích hợp, từ đó tạo các sản phẩm có chất lượng cao và ổn định, có khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên, đến nay, việc phát triển sản xuất dược liệu theo  chuỗi giá trị với quy mô lớn còn hạn chế, chưa hiệu quả. 

(3) Kinh nghiệm phát triển dược liệu của Lào Cai: Cuối năm 2016,  UBND tỉnh đã phê duyệt Quy hoạch phát triển dược liệu tỉnh Lào Cai đến  năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Theo đó, đến năm 2020, tỉnh sẽ ưu tiên  quy hoạch phát triển 10 chủng loại cây dược liệu đầu vị thuốc bắc có thế 

mạnh về thị trường tiêu thụ, trên cơ sở khai thác các điều kiện của các tiểu  vùng khí hậu á nhiệt đới và rừng tự nhiên, với tổng diện tích là 1.200 ha. Đến  năm 2030, mở rộng diện tích và chủng loại dược liệu hàng hóa có ưu thế trên  địa bàn tỉnh lên 22 chủng loại chính, với diện tích là 3.799 ha, 100% diện tích  và sản lượng cây dược liệu của vùng quy hoạch đảm bảo tiêu chuẩn thực hành  tốt trồng trọt và thu hái cây thuốc của Tổ chức Y tế thế giới (GACP – WHO).  Đến năm 2030 sẽ có 12 cơ sở thu gom, sơ chế và bảo quản dược liệu, với diện  tích từ 500 đến 1.000 m2/khu sơ chế, 3 cơ sở chế biến sản phẩm dược liệu tại  huyện Sa Pa, Bắc Hà và thành phố Lào Cai; sản lượng cây dược liệu hàng hóa đạt từ 4.500 tấn đến 5.000 tấn sản phẩm (năm 2020) và từ 11.000 tấn đến  11.500 tấn sản phẩm (năm 2030). Bên cạnh việc quy hoạch phát triển ngành  dược liệu, tỉnh Lào Cai cũng ban hành một số chính sách khuyến khích doanh  nghiệp, tập thể, cá nhân đầu tư vào sản xuất dược liệu như miễn giảm, hỗ trợ tiền thuê đất và hỗ trợ kinh phí cải tạo đồng ruộng, hỗ trợ đào tạo. Còn về đầu ra, hiện đã có 06 doanh nghiệp đứng ra tiêu thụ toàn bộ dược liệu (Công ty cổ phần Traphaco Sa Pa, Công ty cổ phần dược liệu Việt Nam, Công ty Nam  Dược, Công ty TNHH Tài Nguyên Xanh, Công ty TNHH Tâm Phát Green,  Cổ phần Dược liệu xuyên Việt). Các doanh nghiệp đều cam kết được ghi rõ  trong hợp đồng với điều kiện thu mua lâu dài.  

Hiện nay, với phương châm “Doanh nghiệp phát tài, Lào Cai phát  triển”, Lào Cai có các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất và kinh doanh dược  liệu, theo các chuỗi sản xuất từ bước gieo trồng chăm sóc đến thu hoạch, bảo  quản, chế biến thành sản phẩm hàng hóa ra thị trường, từng bước khẳng định  thương hiệu dược liệu Lào Cai, góp phần tăng thu nhập, tạo vùng sản xuất  hàng hóa, chủ động tích cực trong quá trình hội nhập quốc tế.  

(4) Kinh nghiệm phát triển dược liệu của Đà Lạt: Mục tiêu là phải phát  triển trồng cây dược liệu thành ngành sản xuất hàng hóa song song với rau,  hoa, trên cơ sở ứng dụng công nghệ cao, nhằm tạo ra các sản phẩm có chất  lượng cao, nhất là những dược liệu lâu nay phải nhập khẩu từ các nước mà  tỉnh Lâm Đồng có thể trồng được. Đồng thời, phải quản lý khai thác, bảo tồn  và giữ gìn những nguồn gen dược liệu quý có giá trị tại địa phương; sử dụng  bền vững nguồn tài nguyên dược liệu phục vụ cho mục tiêu phát triển y tế và  kinh tế của tỉnh. 

Về quy hoạch trồng các cây dược liệu: Tùy theo địa hình, khí hậu, thổ nhưỡng các vùng trong tỉnh Lâm Đồng nên chọn: Tại TP Đà Lạt, các huyện  Lạc Dương, Đơn Dương, nơi những vùng có khí hậu mát mẻ, độ cao từ 1.000m  trở lên, nên trồng những cây di thực, hiện đang có nhu cầu trên thị trường và có giá trị kinh tế cao, không những trồng để lấy sản phẩm mà còn sản xuất giống  như: Actisô, Bạch chỉ, Bạc hà, Bạch truật, Bảy lá một hoa, Cỏ ngọt, Dương  cam cúc, Đảng sâm, Đương quy, Hà thủ ô đỏ, Huyền sâm, Ngưu tất, Hoài sơn,  Lan gấm, Sâm ngọc linh, Dinh địa, Tam thất, Thông đỏ, Xuyên khung, Vân  mộc hương. Tại các huyện và TP Bảo Lộc trở lên phía Đà Lạt, trồng: Đinh  lăng, Đương quy, Bạch chỉ, Huyền sâm, Sinh địa, Chè dây, Sa nhân tím, Sả hương chanh, Hương nhu trắng, Diệp hạ châu, Ý dĩ. Tại ba huyện Đạ Tẻh, Đạ 

Huoai và Cát Tiên trồng các cây Bạc hà, Diệp hạ châu, Sả… UBND tỉnh giao TP Đà Lạt và các huyện nghiên cứu xây dựng các dự án quy hoạch trồng một số cây dược liệu và giải quyết một số khó khăn cho  nông dân, hướng dẫn tổ chức liên kết giữa doanh nghiệp và người trồng dược  liệu nhằm bao tiêu sản phẩm; cần phát triển trồng cây dược liệu theo quy mô  hộ gia đình, hợp tác xã, doanh nghiệp; tăng cường mối liên kết hợp tác “bốn  nhà” (Nhà nước – Nhà khoa học – Nhà doanh nghiệp – Nhà nông), và trước  tiên phải liên kết giữa nhà doanh nghiệp và nhà nông; Nghiên cứu đề ra một  số chính sách ưu đãi đối với việc trồng dược liệu, như hỗ trợ vay vốn, cho  thuê đất, miễn giảm thuế, chính sách bao tiêu sản phẩm… Việc thành lập một  Trung tâm thu mua, buôn bán và nghiên cứu trồng trọt, chế biến dược liệu cũng là vấn đề đặt ra với tỉnh, Trung tâm này không những làm nhiệm vụ kinh  doanh, mà còn nghiên cứu trồng một số cây di thực có giá trị cao về mặt kinh  tế và chữa bệnh; Đồng thời cần đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến kiến thức sử dụng, khai thác, bảo tồn, trồng trọt dược liệu cho nhân dân. 

2.2.2. Bài học vận dụng cho phát triển chuỗi giá trị dược liệu tỉnh Quảng Ninh

Từ kinh nghiệm phát triển dược liệu của các địa phương, NCS thấy  rằng, mỗi địa phương đều quan tâm đến phát triển dược liệu theo những cách  khác nhau để thực hiện cho được Quyết định 1976/QĐ-TTg, ngày 30-10- 2013, của Thủ tướng Chính phủ, đồng thời thực hiện Thông báo số 220/TB VPCP ngày 12-5-2017 về Quyết định Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyên Xuân Phúc tại Hội nghị toàn quốc về phát triển dược liệu Việt Nam. Theo đó, các địa phương đều cụ thể hóa bằng các Nghị quyết của cấp ủy  Đảng và Quyết định của cấp Chính quyền để thực hiện thực hóa. Điểm chung  nhất là các địa phương đều định hướng phát triển dược liệu theo chuỗi giá trị,  nhưng thực tế, NCS nhận thấy, Hà Giang đã thu hút được 10 Nhà doanh  nghiệp đầu tư vào khai thác và chế biến dược liệu trên địa bàn tỉnh, các địa  phương khác còn khá hạn chế, việc thực hiện phát triển dược liệu theo chuỗi  giá trị còn rất khiêm tốn, hầu hết mới chỉ là bước đầu triển khai, chưa tổng kết  đánh giá rút kinh nghiệm về những mặt thành công, hạn chế trong phát triển  sản xuất dược liệu theo chuỗi tại các địa phương này. Tuy nhiên, những kinh  nghiệm chỉ đạo, định hướng phát triển của các địa phương cũng là những bài học quý giá để các địa phương khác tham khảo và học tập. 

Qua tìm hiểu việc phát triển dược liệu tại một số địa phương, NCS  nhận thấy, hầu hết các địa phương đã có định hướng phát triển dược liệu theo  chuỗi giá trị, một số doanh nghiệp đã chủ động đến với địa phương và người  dân để hợp đồng sản xuất, điều này cho thấy được lợi ích của việc phát triển  dược liệu theo chuỗi giá trị là to lớn, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu  nhập cho người dân. Việc phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị đòi hỏi tuân  thủ quy trình kỹ thuật của doanh nghiệp để nâng cao chất lượng sản phẩm,  góp phần bảo vệ môi trường và sức khỏe cho người sản xuất, bài học này  cũng cần được nhân rộng tới những địa phương có nhiều cây dược liệu trong  cả nước. Từ đó NCS rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Quảng Ninh là: 

Một là, xác định rõ được những loại dược liệu trọng yếu trong hàng  nghìn loại dược liệu khác nhau ở các địa phương trong tỉnh, mỗi địa phương chỉ rõ loại dược liệu nào cần được tập trung đầu tư thành vùng nguyên liệu để thu hút các doanh nghiệp liên doanh, liên kết trong sản xuất (Quảng Ninh đã  xác định được 6 loại dược liệu chủ yếu). Đồng thời, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất để tạo ra nguồn nguyên liệu có chất lượng cao, ổn định, cung  cấp cho các cơ sở chế biến dược liệu. 

Hai là, muốn phát triển sản xuất dược liệu theo chuỗi giá trị nhất thiết  phải liên doanh, liên kết trực tiếp với các doanh nghiệp để giải quyết vấn đề chế biến nguyên liệu, mở rộng quy mô sản xuất, tạo việc làm cho người lao  động, nhất là người nông dân là mắt xích đầu tiên trong chuỗi giá trị, tạo ra  nguồn nguyên liệu thô để cung cấp cho các tác nhân trong chuỗi, nếu không  giải quyết được nguồn nguyên liệu thô, thì khó có thể mở rộng quy mô sản  xuất, khuyến khích người dân tham gia vào chuỗi giá trị dược liệu. 

Ba là, Chính quyền địa phương các cấp chủ động ban hành những cơ  chế chính sách để thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp vào chuỗi giá trị dược liệu, cũng như tăng cường quảng cáo về tiềm năng sẵn có đối với các  loại dược liệu tại địa phương để thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp, các  nhà đầu tư vào lĩnh vực phát triển dược liệu của tỉnh. 

Bốn là, chú trọng phát triển cây dược liệu thành hàng hóa, gắn với phát  triển du lịch, vừa khai thác được thế mạnh về nông nghiệp vừa khai thác được  tiềm năng du dịch hiện có của tỉnh, vừa giới thiệu được sản phẩm đến nhiều  thị trường trong nước và quốc tế, vì Quảng Ninh rất có thể mạnh lớn về du  lịch (du lịch biển, đảo; du lịch tâm linh). 

Năm là: liên kết và ứng dụng các chuỗi công nghệ thích hợp trong sản  xuất và chế biến để tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, đồng thời liên  kết vùng với các tỉnh giáp danh (Lạng Sơn, Thái Bình) để tạo thành vùng liên  kết sản xuất dược liệu trọng điểm cho vùng Đông Bắc, tạo lợi thế cạnh tranh  trong nước và quốc tế. 

Thứ sáu, tăng cường liên kết “Bốn nhà” (Nhà nước – Nhà khoa học – Nhà doanh nghiệp – Nhà nông) và “nhiều nhà”, trước tiên cần xây dựng mối  liên kết giữa nhà doanh nghiệp và nhà nông để doanh nghiệp có thể hỗ trợ trực tiếp người dân trong khâu sản xuất nguyên liệu (vốn, giống, kỹ thuật…); 

Nhà nước cần nghiên cứu đề ra một số chính sách ưu đãi đối với việc trồng  dược liệu như hỗ trợ vay vốn, cho thuê đất, miễn giảm thuế, chính sách bao  tiêu sản phẩm…Nhà khoa học, cần nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới vào  sản xuất và chế biến sản phẩm để nâng cao GTGT. 

Tóm tắt chương 2 

Phát triển chuỗi giá trị dược liệu đóng vai trò quan trọng trong việc  trồng, khai thác và chế biến dược liệu, là sự gia tăng số lượng và chất lượng  các tác nhân tham gia chuỗi giá trị dược liệu theo cả chiều rộng và chiều sâu.  Nội dung chương 2, NCS làm rõ được những lý luận về dược liệu và phát  triển chuỗi giá trị dược liệu, cụ thể: 

– Nêu rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò của dược liệu. 

– Khái niệm chuỗi và phân biệt chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng để từ đó  xác định rõ được hướng phân tích của luận án tập trung vào chuỗi giá trị. Làm rõ được những nhân tố ảnh hướng đến sự phát triển của chuỗi giá  trị dược liệu gồm cả các nhân tố bên trong (chủ quan) và các nhân tố bên  ngoài (khách quan). Từ việc phân tích đó, NCS xác định được những nhân tố đó ảnh hưởng thế nào đến chuỗi giá trị dược liệu tại địa bàn nghiên cứu. – Làm rõ những lợi ích của việc phân tích chuỗi giá trị. 

– Làm rõ những nội dung phân tích chuỗi giá trị dược liệu: Bản đồ chuỗi; Lượng hóa và mô tả chi tiết các tác nhân trong chuỗi; Phân tích kinh tế chuỗi; Nâng cấp chuỗi. 

– Kinh nghiệm phát triển dược liệu của một số địa phương: Lào Cai,  Yên Bái, Hà Giang và Đà Lạt, từ đó rút ra sáu bài học kinh nghiệm cho phát  triển chuỗi giá trị dược liệu tại Quảng Ninh.

Chương 3 

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 

3.1. Câu hỏi nghiên cứu 

Việc đặt câu hỏi nghiên cứu là rất quan trọng cho mọi nghiên cứu, vì  đây chính là những nội dung cần giải quyết trong nghiên cứu. Đề tài nghiên  cứu phát triển chuỗi giá trị dược liệu tỉnh Quảng Ninh cần trả lời được các câu  hỏi sau đây: 

(1) Cơ sở lý luận về phát triển chuỗi giá trị sản phẩm, các nghiên cứu  về chuỗi giá trị dược liệu trước đây đã giải quyết những vấn đề gì, những bài  học kinh nghiệm và vấn đề rút ra đối với nghiên cứu đề tài luận án là gì? 

(2) Thực trạng phát triển chuỗi giá trị dược liệu tỉnh Quảng Ninh như  thế nào? 

(3) Những nhân tố nào tác động tới sự phát triển chuỗi giá trị dược liệu  tỉnh Quảng Ninh? 

(4) Chính sách, giải pháp nào để phát triển chuỗi giá trị dược liệu tỉnh  Quảng Ninh đến năm 2025? 

3.2. Quy trình nghiên cứu của luận án 

Quy trình nghiên cứu được thiết kế nhằm trả lời các câu hỏi tương ứng  đã đặt ra ở mục 3.1. Thông thường, việc giải quyết mỗi câu hỏi hoặc nhóm  câu hỏi có cùng chủ đề sẽ được thể hiện trong một chương. Có thể khái quát  toàn bộ quy trình nghiên cứu của luận án (xem phụ lục 1) 

3.3. Phương pháp tiếp cận và khung phân tích 

3.3.1. Phương pháp tiếp cận 

– Tiếp cận có sự tham gia: Phương pháp tiếp cận có sự tham gia được  sử dụng nhiều trong các nghiên cứu gần đây. Sự tham gia, vừa được coi là  mục đích vừa được coi là phương tiện, vì nó xây dựng kỹ năng và nâng cao  năng lực hành động của người dân trong việc giải quyết các vấn đề và cải  thiện cuộc sống của họ, đóng góp cho các chính sách và các dự án phát triển tốt hơn. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Phát triển chuỗi sản phẩm, mà ở đó chủ thể là cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn, các cơ quan tổ chức  chuyên môn, sự tham gia của người dân, doanh nghiệp trong quá trình phát  triển chuỗi dược liệu tỉnh Quảng Ninh. Với cách tiếp cận này, tác giả mong  muốn có được sự tham gia của các tác nhân tham gia chuỗi giá trị trong quá  trình nghiên cứu, nhất là sự tham gia của người dân, của các cấp chính quyền  địa phương, để biết được những khó khăn, vướng mắc của họ khi tham gia  vào chuỗi giá trị dược liệu tại địa phương. 

– Tiếp cận hệ thống: Tiếp cận hệ thống được hiểu là cách nhìn nhận thế giới qua cấu trúc hệ thống, thứ bậc và động lực của chúng; Đó là một tiếp cận  toàn diện và động. Tiếp cận này là cách xử lý biện chứng nhất đối với các vấn  đề về kinh tế và phát triển. Tiếp cận hệ thống là những phương pháp, công cụ,  cụ thể được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu gần đây. Trong quá trình  nghiên cứu, NCS sử dụng cách tiếp cận các chính sách quản lý nhà nước về 

phát triển chuỗi giá trị, mối liên kết “4 nhà” trong chuỗi giá trị dược liệu (Nhà  nước, Nhà doanh nhiệp, Nhà khoa học và Nhà nông); Sự liên quan của các  chủ thể đối với nhà nước và các tổ chức phát triển nông nghiệp. 

Cách tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu chuỗi giá trị cây dược liệu tại  Quảng Ninh, NCS muốn phân tích làm rõ các tác nhân trong chuỗi để chỉ ra  được mối quan hệ giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị cây dược liệu, mỗi tác  nhân cần biết được vị trí, vai trò cũng như lợi ích của họ trong chuỗi giá trị, từ 

đó có những đề xuất giải pháp tăng cường vai trò của mỗi tác nhân trong  chuỗi, nhằm nâng cao GTGT của cây dược liệu và các sản phẩm từ dược liệu  trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. 

– Tiếp cận thể chế – chính sách: Đề tài đứng ở góc nhìn thể chế, đi từ thể chế chính trị đến thể chế pháp luật chính sách của Việt Nam để xem xét  giải quyết vấn đề quản lý nhà nước về phát triển chuỗi giá trị dược liệu tỉnh  Quảng Ninh. Đồng thời, tác giả cũng nghiên cứu các quy định, chính sách của tỉnh trong việc phát triển cây dược liệu và các sản phẩm từ dược liệu trong  thời gian qua. Trên cơ sở đó có những đề xuất về cơ chế chính sách nhằm  thức đẩy phát triển dược liệu và các sản phẩm từ dược liệu theo chuỗi giá trị để nâng cao hiệu quả, cải thiện đời sống, nhất là đối với các hộ nông dân sản  xuất dược liệu.  

Tiếp cận phân tích kinh tế: Nhằm tìm hiểu về chức năng và động lực  của thị trường dược liệu và các sản phẩm từ dược liệu, mối quan hệ cung – cầu dược liệu và các sản phẩm từ dược liệu, đặc điệt là những dược liệu  truyền thống của địa phương. Thị trường dược liệu hoạt động thông qua sự tương tác giữa người sản xuất nguyên liệu, người chế biên và người tiêu dùng.  Thông qua quan hệ tương tác này, có thể nhận biết được lợi ích của các thành  phần tham gia thị trường dược liệu. 

Tiếp cận phát triển: Cách tiếp cận này cho thấy, Sản xuất theo chuỗi  giá trị là một hệ thống gồm nhiều tác nhân, có mối liên kết chặt chẽ với nhau  trong sản xuất để tạo ra sản phẩm. Trong đó, mỗi tác nhân cần thực hiện hàng  loạt các hoạt động khác nhau để tạo ra sản phẩm của mình. Sản phẩm của tác  nhân này là nguyên liệu đầu vào của tác nhân tiếp theo và các tác nhân không  thể tách rời nhau trong hệ thống đó. Tiếp cận phát triển là cách tiếp cận nhằm  tạo động lực để mỗi tác nhân khai thác hết được những tiềm năng thế mạnh  của mình trong sản xuất để tạo nhiều giá trị gia tăng cho mình và cho toàn  chuỗi. Hoặc, tiếp cận phát triển còn tạo điều kiện để các cá nhân liên kết lại  với nhau tạo thành sức mạnh để phát triển. Theo đó, trong chuỗi giá trị mở rộng, tiếp cận phát triển là tạo cơ hội để cá nhân liên kết với nhau tạo ra quy  mô sản xuất lớn hơn: Các hộ có thể liên kết với nhau thành tổ hợp tác hoặc HTX, các cơ sở chế biến có thể liên kết lại thành Doanh nghiệp hoặc Công ty  lớn hơn….

3.3.2. Khung phân tích đề tài 

Phân tích  SWOT phát  triển chuỗi 

Xác định tác  nhân tham gia  chuỗi 

Cơ sở lý thuyết  về phát triển  

chuỗi 

PTcác nhân tố 

ảnh hưởng đến  

phát triển chuỗi 

Phát triển chuỗi  

giá trị dược liệu 

Đề xuất Giải pháp

Phân tích HQKT  của các tác nhân trong chuỗi 

Đánh giá kết 

quả 

Hình 3.1. Khung phân tích của luận án 

(Nguồn: Tác giả xây dựng) 

3.4. Phương pháp thu thập thông tin 

3.4.1. Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp 

– Một số chính sách của ngành dược liệu Việt Nam và tỉnh Quảng  Ninh; Các Quy định, Quyết định, Nghị định, Thông tư, Văn bản của Chính  phủ liên quan đến phát triển chuỗi giá trị dược liệu.  

– Các bài báo, bài báo khoa học, các công trình nghiên cứu, tạp chí, các  tài liệu khác của các tác giả về chuỗi giá trị sản phẩm cụ thể và chuỗi giá trị dược liệu. Các báo cáo của Ban Xây dựng nông thôn mới tỉnh Quảng Ninh,  Hội Nông dân tỉnh Quảng Ninh, HTX, doanh nghiệp sản xuất và chế biến  dược liệu. 

– Tài liệu thu thập từ các cơ quan nhà nước của Tỉnh về tình hình phát  triển kinh tế – xã hội; Đời sống dân cư, thu nhập, lao động và việc làm tại:  

Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Phòng Kinh tế, Phòng Công  thương của các huyện, thị xã, thành phố đến khảo sát, Cục thống kê; Sở Lao  động & Thương binh xã hội; Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ninh.

3.4.2. Phương pháp thu thập thông tin sơ cấp 

– Phương pháp điều tra thực địa: NCS khảo sát, nghiên cứu thực tế tại  8 huyện, thị, thành phố: Đông Triều, Uông Bí, Hoành Bồ, Tiên Yên, Đầm Hà,  Ba Chẽ, Bình Liêu và TP Cẩm Phả, để có được bức tranh tổng quan về sản  xuất và tiêu thụ dược liệu, cũng như việc đánh giá tiềm năng thế mạnh của  mỗi địa phương về sản xuất, chế biến và tiêu thụ dược liệu, sự tham gia của  các tác nhân trong chuỗi giá trị dược liệu của tỉnh. 

– Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: NCS đã xác định rõ đối tượng  điều tra, quy mô và địa điểm điều tra cụ thể: 

+ Đối tượng điều tra: Các tác nhân tham gia vào chuỗi giá trị dược  liệu: Người sản xuất (hộ nông dân, HTX và doanh nghiệp); Người thu gom  (cá thể, HTX, doanh nghiệp); Người chế biến (Cá thể, HTX, doanh nghiệp);  Người tiêu thụ (cá nhân, HTX, doanh nghiệp) 

+ Số lượng mẫu điều tra: Thống kê về các tổ chức, cá nhân tham gia  sản xuất kinh doanh dược liệu tại 8 địa điểm nghiên cứu là 720, NCS không  điều tra toàn bộ mà chỉ điều tra chọn mẫu trong tổng thể đó. Sử dụng công  thức chọn mẫu của Slovin: 

n = N/( 1+N.e2

Trong đó: n: Số mẫu cần điều tra;  

N: Tổng thể chung là 720; 

e: Sai số cho phép (chọn e=5%) 

Đối với nghiên cứu này, số lượng mẫu được chọn điều tra là 257 mẫu  gồm cả hộ nông dân và doanh nghiệp, trong đó hộ nông dân là chủ yếu, mỗi  điểm chọn 30 hộ (có 240 hộ) và 17 doanh nghiệp và HTX do số lượng doanh 

nghiệp sản xuất kinh doanh dược liệu còn ít, tại các điểm khảo sát, NCS điều  tra toàn bộ các doanh nghiệp và HTX có trên địa bàn.  

Ngoài ra, NCS còn khảo sát và phỏng vấn Công ty Dược và dụng cụ y  tế Quảng Ninh, không thuộc các điểm khảo sát dự kiến, đồng thời, phỏng vấn  riêng với một số đại diện được lựa chọn ngẫu nhiên tại mỗi mắt xích trong  chuỗi để thu thập thông tin nắm thêm về đặc trưng của tác nhân đó, về quan  hệ giữa tác nhân đó với các tác nhân khác trong chuỗi. 

+ Địa điểm điều tra: Tiến hành khảo sát vùng trồng dược liệu của tỉnh  gồm: Đông Triều, Uông Bí, Hoành Bồ, Tiên Yên, Đầm Hà, Ba Chẽ, Bình  Liêu và TP Cẩm Phả. 

+ Nội dung phiếu điều tra (bảng hỏi) gồm hai phần: 

Phần I: Thông tin chung về đối tượng điều tra. 

Phần II: Nội dung khảo sát về sản xuất dược liệu, phiếu được thiết kế theo các đối tượng (nhà nông, doanh nghiệp); Khảo sát về chi phí sản xuất,  giá bán sản phẩm, sự hỗ trợ của doanh nghiệp, của nhà nước… 

Ngoài các phương pháp nghiên cứu định lượng, để có thêm thông tin,  NCS còn sử dụng kết hợp một số phương pháp định tính để tiến hành phỏng vấn  sâu các chuyên gia, các chủ doanh nhiệp và tổ chức thảo luận nhóm đối với hộ nông dân, doanh nghiệp, HTX và các tổ chức,cơ quan quản lý Nhà nước.  3.5. Phương pháp xử lý và phân tích thông tin 

3.5.1. Phương pháp xử lý thông tin 

Đối với thông tin thứ cấp: NCS tiến hành phân loại, tổng hợp và sắp  xếp các thông tin thu thập được theo từng nhóm cụ thể, phù hợp với nội dung  và thời gian nghiên cứu 

Đối với thông tin sơ cấp: NCS sử dụng phần mềm Excel để tổng hợp,  xử lý số liệu. Các kết quả thu được là các giá trị bình quân, tỷ lệ phần trăm và  các thông số thống kê cần thiết khác phục vụ cho phân tích của luận án.

3.5.2. Phương pháp phân tích thông tin 

– Phương pháp số tuyệt đối: Phương pháp này dùng để so sánh sự thay đổi giữa số liệu của kỳ tính toán với số liệu của kỳ gốc để biết được sự thay  đổi theo thời gian, từ đó phân tích nguyên nhân của sự thay đổi đó, rút ra các  nhận xét, đánh giá.– Phương pháp số tương đối:. Phương pháp chỉ rõ mức độ chiếm giữ của các chỉ tiêu thành phần trong tổng số, mức độ quan trọng của  chỉ tiêu tổng thể. Kết hợp với các phương pháp khác để quan sát và phân tích  được tầm quan trọng và sự thay đổi của số liệu, nhằm đưa ra các biện pháp  quản lý, điều chỉnh kịp thời. 

– Phương pháp số bình quân: Phương pháp này dùng để tính các trị số trung bình: Chi phí, năng suất, giá bán… Số bình quân gia quyền được sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu. 

Kết hợp giữa phương pháp số tương đối và số tuyệt đối, số bình quân để tính toán chi phí, lợi nhuận và hiệu quả kinh tế của các tác nhân tham gia  chuỗi giá trị dược liệu được đề xuất ở bảng 3.1 

Bảng 3.1. Phương pháp tính chi phí, lợi nhuận trong chuỗi giá trị cho 01  đơn vị sản phẩm cụ thể 

Tác  nhânChi phí Doanh  thu Lợi nhuận GTGT
Chi phí đơn vịChi phí tăng thêm%Chi phí  tăng thêmGiá  bánLợi nhuận % Lợi nhuận GTGT % Giá trị  gia tăng
Sản xuất – A/F G-A (G-A)/(K-F) G/K
Thu gom G+B B/F H-B-G (H-B-G)/(K-F) H-G (H-G)/K
Chế biến H+C C/F I-C-H (I-C-H)/(K-F) I-H (I-H)/K
Buôn bán I+D D/F J-D-I (J-D-I)/(K-F) J-I (J-I)/K
Bán lẻ J+E E/F K-E-J (K-E-J)/(K-F) K-J (K-J)/K
Tổng F=A+  B+C+D+E 100 K-F 100 100

Nguồn: [43] 

– Phương pháp phân tích SWOT: NCS tiến hành phân tích điểm mạnh,  điểm yếu, cơ hội, thách thức trong phát triển chuỗi giá trị dược liệu tỉnh Quảng 

Ninh. Kết quả nghiên cứu thu được các hệ giải pháp từ điểm mạnh vượt qua  các điểm yếu; Phát huy điểm mạnh để tận dụng cơ hội; tận dụng cơ hội để vượt  qua thách thức; Khắc phục điểm yếu để vượt qua được thách thức. Bảng 3.2. Mô hình phân tích ma trận SWOT 

Cơ hội (O) Thách thức (T)
Điểm mạnh  (S)SO: Giải pháp công kích  (tận dụng điểm mạnh để đeo  đuổi cơ hội)ST: Giải pháp thích ứng (tận dụng  điểm mạnh để hạn chế những đe dọa  có thể xảy ra)
Điểm yếu  (W)WO: Giải pháp điều chỉnh  (tận dụng cơ hội để khắc  phục điểm yếu)WT: Giải pháp phòng thủ (khắc  phục điểm yếu và hạn chế những rủi  ro có thể xảy ra)

3.6. Chỉ tiêu phân tích 

3.6.1. Chỉ tiêu phản ánh kết quả của các tác nhân tham gia chuỗi giá trị  dược liệu 

Giá trị sản xuất (GO) của từng tác nhân được tính bằng lượng sản  phẩm nhân với đơn giá. Trong nghiên cứu, NCS tính toán cho 02 sản phẩm  trọng yếu là Ba kích và Trà hoa vàng. GO cũng chính là doanh thu đối với  người sản xuất. 

GO = Qi* Pi 

Trong đó: Qi là khối lượng sản phẩm loại i. 

 Pi là giá bán bình quân sản phẩm loại i. 

Chi phí trung gian (IC): là toàn bộ các khoản chi phí vật chất và dịch vụ thường xuyên được sử dụng trong quá trình sản xuất, tạo ra sản phẩm trong  chuỗi giá trị. 

IC = Cj 

Trong đó: Cj là các khoản chi phí thứ j trong một mắt xích của chuỗi. Giá trị tăng thêm (VA): Là giá trị mới tạo ra của sản phẩm khi đi qua  mỗi mắt xích trong chuỗi giá trị hay chính là phần giá trị mỗi tác nhân tạo ra  trong một chu kỳ của hoạt động kinh tế do họ đảm trách, nó là hiệu số giữa tổng giá trị sản xuất tạo ra của mỗi đơn vị của tác nhân trong chuỗi giá trị và  chi phí vật chất bỏ ra để sản xuất mỗi đơn vị sản phẩm của mỗi tác nhân trong  chuỗi giá trị 

VA = GO – IC 

Chi phí lao động (LĐ): Là chi phí lao động mà các tác nhân phải thuê,  đơn giá lao động được tính theo giá ngày công thực tế tại địa bàn nghiên cứu  năm 2017. Đơn giá một ngày công lao động giản đơn bình quân là 200.000 đồng/ngày-người. 

Tổng chi phí TC: là toàn bộ chi phí vật chất và chi phí lao động mà  người sản xuất dược liệu phải bỏ ra (IC + LĐ) 

3.6.2. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất của các tác nhân tham gia chuỗi Phân tích hiệu quả sản xuất để thấy được tính hiệu quả của mỗi tác  nhân tham gia trong chuỗi, trên cơ sở phân tích nhằm đề xuất giải pháp nhằm  hài hòa lợi ích giữa các tác nhân. Một số chỉ tiêu được sử dụng để phân tích  hiệu quả chuỗi giá trị dược liệu được sử dụng trong nghiên cứu luận án:  – Tỷ suất tổng giá trị sản xuất theo tổng Chi chí sản xuất (GO/TC): Chỉ tiêu này nhằm đánh giá xem mỗi đồng chi phí bỏ ra tạo ra được bao nhiêu giá  trị mang lại kể cả chi phí về lao động. 

– Tỷ suất giá trị gia tăng theo tổng chi phí (VA/TC): Chỉ tiêu này nhằm  biết được một đồng chi phí sản xuất tạo ra được bao nhiêu GTGT. – Tỷ suất tổng giá trị sản xuất theo chi phí ngày công lao động  (GO/LĐ): Chỉ tiêu này cho biết giá trị một ngày công lao động tạo ra được  bao nhiêu giá trị sản xuất. 

– Tỷ suất giá trị gia tăng theo chi phí lao động (VA/LĐ): Chỉ tiêu này  cho biết giá trị một ngày công lao động tạo ra được bao nhiêu GTGT. – Tỷ suất giá trị gia tăng theo chi phí trung gian (VA/IC): Chỉ tiêu này  cho biết mỗi đồng chi phí vật chất bỏ ra thu được bao nhiêu GTGT.

3.6.3. Chỉ tiêu phản ánh sự phát triển chuỗi 

– Chỉ tiêu phản ánh sự phát triển chuỗi theo chiều rộng: Phát triển theo  chiều rộng tức là mở rộng chuỗi giá trị về quy mô: Qui mô diện tích đối với  người sản xuất, quy mô nhà máy đối với chế biến, quy mô thị trường đối với  tác nhân tiêu thụ…Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, ngoài hai chuỗi giá trị sản  phẩm trọng yếu là Ba kích và Trà hoa vàng. NCS nghiên cứu phát triển chuỗi  theo chiều rộng bằng cách xây dựng thêm một số chuỗi giá trị dược liệu mới:  Quế, hồi, thìa canh, cà gai leo…. 

– Chỉ tiêu phát triển chuỗi theo chiều sâu: Phát triển chuỗi giá trị cây  dược liệu hiện tại với việc gia tăng giá trị của sản phẩm, hoặc sản xuất ra  nhiều sản phẩm trong chuỗi giá trị bằng việc đầu tư thêm về khoa học công  nghệ. Với quan điểm đó, NCS nghiên cứu phát triển chuỗi theo chiều sâu  bằng các giải pháp nâng cấp chuỗi giá trị dược liệu hiện có đối với cây Ba  kích và Trà hoa vàng. 

Tóm tắt chương 3 

Chương 3 đã đưa ra được câu hỏi nghiên cứu mà luận án cần phải giải  quyết. Bằng cách tiếp cận khoa học, lựa chọn phương pháp nghiên cứu phù  hợp, logic để giải quyết vấn đề nghiên cứu, các mục tiêu cụ thể của luận án sẽ được giải quyết ở các chương tiếp theo. Các chỉ tiêu nghiên cứu cụ thể, được  nêu ra ở chương này sẽ được tính toán cụ thể ở chương 4 đối với các chỉ tiêu  định lượng và và đề xuất giải pháp ở chương 5 đối với các chỉ tiêu định tính,  từ đó giúp NCS thấy được hiệu quả của các tác nhân tham gia vào chuỗi giá  trị cây dược liệu ở mức độ nào, để có những kiến nghị phù hợp đối với các tác  nhân trong chuỗi giá trị cây dược liệu. 

Chương 4 

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CHUỖI GIÁ TRỊ CÂY DƯỢC LIỆU  TỈNH QUẢNG NINH 

4.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế – xã hội tỉnh Quảng Ninh 4.1.1. Đặc điểm tự nhiên 

4.1.1.1. Địa hình, khí hậu 

Về địa hình: Quảng Ninh là tỉnh miền núi, trung du nằm ở vùng duyên  hải, với hơn 80% đất đai là đồi núi. Trong đó, có hơn 2.000 hòn đảo núi đá  vôi nổi trên mặt biển, phần lớn chưa được đặt tên. Địa hình của tỉnh có thể chia thành 3 vùng: 

– Vùng núi: Chia hai miền bao gồm: (1) Vùng núi miền Đông từ Tiên  Yên qua Bình Liêu, Hải Hà, Đầm Hà đến Móng Cái. (2) Vùng núi miền Tây  từ Tiên Yên qua Ba Chẽ, Hoành Bồ, phía Bắc TP Uông Bí và thấp dần xuống  ở phía Bắc thị xã Đông Triều với đỉnh Yên Tử (1.068 m) trên đất Uông Bí và  đỉnh Am Váp (1.094 m) trên đất Hoành Bồ. 

– Vùng trung du và đồng bằng ven biển: Gồm những dải đồi thấp bị phong hoá và xâm thực tạo nên những cánh đồng từ các chân núi thấp dần  xuống các triền sông và bờ biển, bao gồm vùng Đông Triều, Uông Bí, bắc  Quảng Yên, nam Tiên Yên, Đầm Hà, Hải Hà và một phần Móng Cái.  

– Vùng biển và hải đảo: Có địa hình độc đáo với hơn hai nghìn hòn đảo,  chiếm hơn 2/3 số đảo cả nước, trải dài theo đường ven biển hơn 250 km. Có  hai huyện hoàn toàn là đảo là huyện Vân Đồn và huyện Cô Tô và 2 vịnh lớn  gồm vịnh Hạ Long và Bái Tử Long. 

Về Khí hậu: Quảng Ninh nằm vùng Khí hậu cận nhiệt đới ẩm đặc trưng  cho các tỉnh miền bắc vừa có nét riêng của một tỉnh vùng núi ven biển có  một mùa hạ nóng ẩm mưa nhiều, một mùa đông lạnh khô và ít mưa. Các quần  đảo ở Cô Tô, Vân Đồn… có đặc trưng của khí hậu đại dương. Do ảnh hưởng  bởi hoàn lưu gió mùa Đông Nam Á nên khí hậu bị phân hoá thành hai mùa 

gồm có mùa hạ thì nóng ẩm với mùa mưa, còn mùa đông thì lạnh với mùa  khô. Nhiệt độ trung bình trong năm từ 21 – 23oC, lượng mưa trung bình hàng  năm 1.995 m, độ ẩm trung bình 82 – 85%. Mùa lạnh thường bắt đầu từ hạ  tuần tháng 11 và kết thúc vào cuối tháng 3 năm sau, mùa nóng bắt đầu  từ tháng 5 và kết thúc vào đầu tháng 11. Mùa ít mưa bắt đầu từ tháng 11 cho  đến tháng 4 năm sau, mùa mưa nhiều bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào  đầu tháng 10.  

4.1.1.2. Điều kiện thủy văn 

Quảng Ninh có khoảng 30 sông, suối có chiều dài trên 10 km. Diện  tích lưu vực thông thường không quá 300 km2, trong đó có 8 con sông chính  chảy trên địa bàn tỉnh đó là: Sông Bạch Đằng, sông Đá Bạc, sông Diễn Vọng,  sông Hà Cối, sông Ba Chẽ, sông Phố Cũ, sông Tiên Yên và sông Đầm Hà…  Mùa lũ từ tháng 5 đến tháng 10. Mùa cạn bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4,  lượng nước chảy trên sông, suối chủ yếu dựa vào nguồn nước ngầm là chính.  Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh hiện có 23 hồ chứa lớn nhỏ có dung tích gần 250  triệu m3. Các hồ chứa điển hình như hồ Khe Dược liệu, hồ Yên Lập, hồ Đầm  Hà Động, hồ Trúc Bài Sơn, hồ Tràng Vinh… Hệ thống hồ đập này có vai trò  to lớn trong việc cung cấp nước để phát triển sản xuất cây trồng lâm – nông  nghiệp nói chung, là điều kiện thuận lợi để khai thác và phát triển cây dược  liệu nói riêng. 

4.1.1.3. Điều kiện đất đai thổ nhưỡng (xem Phụ lục 2) 

Tại Phụ lục 2, Quảng Ninh có 6 loại đất phù hợp phát triển sản xuất cây  dược liệu đó là:  

– Đất nâu tím (NT): Đặc điểm của nhóm đất là có hàm lượng chất hữu  cơ ở tầng mặt giầu và nghèo ở các tầng dưới, thành phần cơ giới thịt nặng đến  sét, tỷ lệ dao động khoảng 30 – 40%. Phân bố chủ yếu ở một số xã vùng núi  huyện Vân Đồn, Tiên Yên, Đầm Hà, Hải Hà, Bình Liêu, Móng Cái. Diện tích  của nhóm đất này là 16.719,07 ha, chiếm 2,83% tổng diện tích tự nhiên. 

– Đất vàng đỏ (AC): Đây là nhóm đất có tầng B tích sét (Argic), hàm  lượng hữu cơ tầng mặt đạt từ khá đến giàu (2,47 – 3,08%), xuống sâu thì hàm  lượng mùn giảm dần. Trên các khu vực đất đồi chưa sử dụng (đất trống đồi núi  trọc) và đất canh tác nương rẫy du canh, quá trình xói mòn mặt, rửa trôi và  thoái hóa đất diễn ra mạnh. Nhóm này có diện tích lớn nhất là 378.526,84ha và  phân bố ở hầu hết các huyện; thị xã; thành phố trên địa bàn tỉnh. 

– Đất vàng đỏ trên núi (ACu): Đất mùn vàng đỏ trên núi hình thành ở độ cao tuyệt đối > 700m, khí hậu lạnh và ẩm hơn vùng đồi núi thấp. Trên địa  bàn tỉnh loại đất này hình thành trên các đỉnh núi thuộc cánh cung Đông Triều  – Nam Mẫu – Bình Liêu. Đặc điểm của nhóm đất này là đất mùn vàng đỏ trên  núi có thành phần cơ giới từ nhẹ đến trung bình, hàm lượng hữu cơ tầng mặt  giầu và giảm nhanh ở các tầng dưới. Nhóm đất này có diện tích 17.727,1 ha  chiếm 3,0% tổng diện tích tự nhiên. 

– Đất tầng mỏng (LP): Đất tầng mỏng được hình thành trong điều kiện  địa hình chia cắt mạnh, độ dốc lớn, thảm thực vật che phủ mặt đất đã bị chặt  phá nặng nề và do hậu quả của nhiều năm canh tác không chú trọng đến việc  bảo vệ đất. Nhóm đất này phân bố rải rác ở thị xã Đông Triều và thành phố 

Móng Cái. Đặc điểm của nhóm đất này là đất tầng mỏng là nhóm “đất có vấn  đề” trong đó tầng đất mịn rất mỏng < 30cm. Đất bị rửa trôi, xói mòn mặt  mạnh nên tầng đất cứng, chặt, đất nghèo chất dinh dưỡng, nhất là chất dễ tiêu.  Đất hình thành trên đá sa phiến thạch thường có phản ứng chua. Nhóm này có  diện tích là 299,34 ha, chiếm 0,05% tổng diện tích đất tự nhiên. 

– Đất nhân tác (AT): Là nhóm đất được hình thành do tác động của con  người. Tầng đất bị xáo trộn mạnh bởi các hoạt động của con người như hoạt  động san ủi làm ruộng bậc thang, hoặc các hoạt động của công nghiệp khai  thác mỏ, tầng đất bị xáo trộn dày trên 50 cm. Đặc điểm của loại đất phụ thuộc  nhiều vào nguồn gốc đất được khai thác để canh tác. Đất có sự thay đổi mạnh  về nhiệt độ, chế độ không khí, chế độ nước, chế độ dinh dưỡng và một loạt đặc tính sinh học khác so với các nhóm đất tự nhiên. Nên trong sản xuất kinh  doanh cần quan tâm đầu tư thâm canh nhằm tăng giá trị sử dụng của đất. – Đất mặn sú vẹt, đước (Mm): Loại đất này thường có tầng mặt ở dạng  bùn lỏng, cát, sét… nhiều chất hữu cơ, glây mạnh. Đặc điểm của nhóm này là  thảm thực vật rừng ngập mặn thường gặp rừng Sú, Vẹt, Đước, Bần chua,  Mắm, Trang… cần được bảo vệ tốt nhằm nâng cao hiệu quả phòng hộ môi  trường, tính đa dạng sinh học cùng nguồn lợi thủy sản. Diện tích 30.074,22  ha, chiếm 4,9% tổng diện tích tự nhiên, phân bố ở các bãi ngoại đê thuộc TP.  Hạ Long, TP.Cẩm Phả, TP. Uông Bí, TP. Móng Cái, TX. Quảng Yên, huyện  Đầm Hà, huyện Hải Hà, huyện Vân Đồn, huyện Hoành Bồ.  

4.1.2. Đặc điểm kinh tế – xã hội 

4.1.2.1. Đặc điểm kinh tế 

GDP toàn tỉnh (theo giá cố định 2010) năm 2013 đạt 58.565 tỷ đồng, năm  2014 đạt 61.370 tỷ đồng, năm 2015 đạt 62.515 tỷ đồng, năm 2016 đạt 70.720 tỷ đồng và năm 2017 đạt 78.324 tỷ đồng. Sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh thể hiện ở cả 3 lĩnh vực trong sản xuất (nông, lâm nghiệp, thủy sản – Công nghiệp và xây  dựng – dịch vụ), trong đó khu vực dịch vụ có mức tăng trưởng cao nhất, khu vực  nông lâm nghiệp thủy sản có tốc độ tăng trưởng thấp nhất. 

Bảng 4.1. Tình hình phát triển kinh tế tỉnh Quảng Ninh (2013-2017) ĐVT: Tỷ đồng 

NămNông, lâm  nghiệp, thủy sảnCông nghiệp,  xây dựngDịch vụ Tổng cộng
Giá trị Giá trị Giá trị Giá trị %
2013 4.560 7,78 35.458 60,54 18.547 31,66 58.565 100
2014 4.738 7,72 37.085 60,42 19.547 31,85 61.370 100
2015 5.280 7,97 38.815 63,24 22.145 33,43 66.240 100
2016 5.420 7,66 41.500 58,68 23.800 33,65 70.720 100
2017 5.391 6,89 45.323 58,86 27.61035,25 78.324 100

 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ninh- Tính theo giá cố định năm 2010)

Kinh tế tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2013 -2017 tương đối phát triển. Cơ  cấu kinh tế giữa các ngành hợp lý, phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế,  và chuyển dịch theo hướng tích cực, cơ cấu ngành nông lâm thủy sản thấp, ngành dịch vụ, công nghiệp và xây dựng có xu hướng tăng nhanh. Cụ thể, đối  với ngành nông, lâm thủy sản, năm 2013 chiếm 7,78%, năm 2014 chiếm  7,72%, năm 2015 chiếm 7,97%, năm 2016 giảm còn 7,66% và năm 2017 còn  6,89%. Đối với ngành công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất,  nhưng có xu thế giảm, năm 2013 chiếm 60,54%, năm 2014 chiếm 60,43%,  năm 2015 chiếm 63,24%, năm 2016 chiếm 58,68% và năm 2017 chiếm  58,86%. Đối với ngành dịch vụ, cơ cấu có xu hướng tăng lên, năm 2013  chiếm 31,66%, năm 2014 chiếm 31,85%, năm 2015 chiếm 33,43%, năm 2016  chiếm 33,65% và năm 2017 chiếm 35,25%. 

Như vậy, cơ cấu ngành nông lâm nghiệp giảm một cách tương đối,  nhưng giá trị tuyệt đối vẫn tăng, cơ cấu ngành công nghiệp và dịch vụ tăng  tương đối, tuy nhiên, tốc độ tăng còn chậm, nhất là ngành dịch vụ, nhưng  cũng là những dấu hiệu trong chuyển dịch cơ cấu một cách hợp lý. 

4.2.1.2. Đặc điểm giao thông – thủy lợi 

– Đường bộ: Toàn tỉnh có 2.283 km đường giao thông, trong đó có 5  tuyến quốc lộ, 10 tuyến tỉnh lộ tiêu chuẩn cấp V, VI; 60 tuyến giao thông  huyện lộ 100% đã được cứng hóa. Các xã có đường ô tô đến trung tâm xã đạt  100%. Các tuyến liên xã, thôn, xóm tỷ lệ cứng hóa đạt 24%. Nhiều tuyến  đường quan trọng đã được xây dựng hoặc nâng cấp như: Đường cao tốc Hạ Long-Hải Phòng, Hạ Long-Vân Đông, Cẩm Hải-Vân Đông, Cầu Bạch Đằng,  đường dẫn và nút giao cuối tuyến, cải tạo và nâng cấp quốc lộ 18A đoạn Hạ 

Long – Mông Dương, cảng Hàng không Vân Đồn, dự án nối cao tốc Hạ Long Hải Phòng với khu công nghiệp – Nam Tiền Phong; Nút giao thông Loong  Toòng… là điều kiện thuận lợi cho giao thương buôn bán, thúc đẩy sản xuất.

– Đường thủy: Chiều dài bờ biển hơn 250 km, đường giao thông thủy là  501 km, tổng chiều dài các tuyến sông chính là hơn 288 km nối liền Hải  Phòng và hệ thống sông Thái Bình. Có 121 cảng biển, dẫn đầu là cụm cảng  Hòn Gai (đại diện tiêu biểu là cảng Cái Lân) và cụm cảng Cẩm Phả (đại diện  là cảng Cửa Ông), đây là hai cụm cảng có lượng hàng hóa lưu thông nhiều  nhất của tỉnh Quảng Ninh. Ngoài ra, Quảng Ninh có 2 bến hành khách lớn,  mang tầm cỡ quốc gia là bến Tuần Châu và Bến tàu khách quốc tế Hòn Gai,  đây là địa điểm cập bến của các tàu khách du lịch, thông quan với Hải Phòng  và các cảng nội địa khác.  

– Giao thông công cộng: Hiện tại tỉnh Quảng Ninh có 9 tuyến xe buýt  (trong đó: Có 3 tuyến nội thị, 5 tuyến nội tỉnh, 1 tuyến liền kề), Nối các vùng  trong tỉnh (Hạ Long, Hoành Bồ, Cẩm Phả, Uông Bí, Đông Triều, Vân Đồn,  Móng Cái) và có 1 tuyến nối với Hải Dương, Tuy hệ thống này phục vụ rất  hiệu quả nhưng cần nâng cấp chất lượng phục vụ hơn nữa. 

– Thuỷ lợi: Lượng nước trữ ở 23 hồ đập 18,4m3 nước, so với cùng kỳ giảm 5,8 triệu m3; nguồn nước đảm bảo cho phục vụ sản xuất và sinh hoạt  của nhân dân trên địa bàn tinh. Tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước đạt  vệ sinh là 96%, dân số thành thị được cung cấp nước sạch đạt 93%. 4.2.1.3. Dân số và lao động 

– Về dân và lao động: Năm 2017 dân số tỉnh Quảng Ninh là 1,313 triệu  người, trong đó dân số thành thị là chiếm 67,4% dân số toàn tỉnh. Bình quân  số người trong hộ gia đình là 3,67 người/hộ. Tỷ lệ tăng tự nhiên hàng năm  khoảng 1,24%. Mật độ dân số toàn tỉnh là 198 người/km2. Mật độ dân số cao  nhất với 894 người/km2(TP.Hạ Long), thấp nhất là 43 người/km2(huyện Ba  Chẽ). Cơ cấu dân số Quảng Ninh tương đối trẻ: Gần 30% có độ tuổi từ 15 đến  29; 25% có độ tuổi từ 30 đến 39; 24% có độ tuổi từ 40 đến 49 và 22% trên 50  tuổi. Toàn tỉnh có 22 dân tộc đang sinh sống trong đó dân tộc Kinh chiếm đa số là 86,6%, dân tộc Dao (5,5%), Tày (2,98%), Sán Dìu (1,58%), Sán Chay  (1,2%) và dân tộc Hoa (0,46%)…  

– Về thu nhập của người dân: Cùng với sự chuyển biến cơ cấu kinh tế các ngành làm cho thu nhập người dân tăng đáng kể. Năm 2013 thu nhập bình  quân đầu người trong toàn tỉnh là 2.958 USD và năm 2017 đạt tới 4.258 USD,  có thể nói trong 5 năm thu nhập bình quân đầu người đã tăng lên 43,94% là  một tỷ lệ tăng khá nhanh so với các tỉnh khác trong cả nước. Tuy nhiên, nếu  khai thác tốt những tiềm năng thế mạnh của tỉnh thì còn có khả năng tăng cao  hơn nữa. Năm 2017, tốc độ tăng trưởng (GRDP) của Quảng Ninh đạt 10,2%  thuộc nhóm tăng cao so với cả nước (6,7%), qui mô nền kinh tế đạt 122.576  tỷ đồng (tăng 10,8%). 

Về Lao động: Số người trong độ tuổi lao động của tỉnh năm 2013 chiếm  53,5%, năm 2014 chiếm 53,9%, năm 2015 chiếm 54,7% dân số của tỉnh, năm  2016 chiếm 54,8% dân số của tỉnh và năm 2017 chiếm 57,5% dân số của tỉnh.  Số lao động được tạo việc làm là 43,8 nghìn người, tỷ lệ lao động qua đào tạo  chiếm 34,2%. 

ĐVT: % Hình 4.1. Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm so với dân số tại  Quảng Ninh giai đoạn 2013-2017 

(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ninh)

– Về giáo dục đào tạo: Chất lượng giáo dục đào tạo chuyển biến mạnh  mẽ và tích cực, tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia ở các cấp học đạt 78,32%  (502/641 trường), tỷ lệ phòng học kiên cố hóa đạt 88,1%; Có 55 trường được  đầu tư phương tiện, trang thiết bị, máy móc hiện đại, tiên tiến; Tỷ lệ giáo viên  đạt chuẩn trình độ đào tạo là 99,1% (trong đó 45,8% đạt trên chuẩn). Kết quả phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục trung học được duy  trì, giữ vững và nâng cao chất lượng, tỷ lệ tốt nghiệp THPT quốc gia đạt  98,86%, tại kỳ thi học sinh giỏi quốc gia đứng 11/63 tỉnh thành cả nước. 

– Về hạ tầng y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân: Tiếp tục củng cố mạng  lưới y tế, trong đó đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng mới các công trình y tế;  Sắp xếp và quản lý các trung tâm y tế tuyến huyện, trạm y tế cấp xã, tổ chức lại  Trung tâm Dân số – Kế hoạch hóa gia đình trực thuộc UBND cấp huyện. Hoạt  động khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân, dân số, kế hoạch hóa gia  đình đạt kết quả quan trọng. Thực hiện triển khai mô hình quản lý sức khỏe nhân  dân, đến nay tỉnh thiết lập hồ sơ ban đầu cho 1,229 triệu người (93,6% dân số),  trong đó có 207,7 nghìn người (16,7%) được cập nhật thông tin hồ sơ sức khỏe.  Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế toàn tỉnh đạt 92,9%. 

4.2. Vị trí, vai trò ngành sản xuất dược liệu trong sự phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Quảng Ninh 

4.2.1. Vị trí của ngành sản xuất dược liệu trong sự phát triển kinh tế – xã  hội tỉnh Quảng Ninh 

Quảng Ninh là một trong những tỉnh có nguồn dược liệu đa dạng và  phong phú, có nhiều loại cây thuốc quý như: Lược vàng, Ba kích, Tam thất,  Hoàng đằng, Cẩu tích, Bổ cốt toái… phân bố tại hầu hết các địa phương.  Đứng trước thực trạng nguồn dược liệu tự nhiên ngày càng cạn kiệt trong khi  nhu cầu sử dụng trong nước và trên thế giới ngày càng lớn, đồng thời thực  hiện mục tiêu chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh”, trên  địa bàn tỉnh hiện đã xuất hiện nhiều mô hình trồng cây dược liệu, là những hạt 

nhân quan trọng để hình thành những vùng dược liệu quy mô lớn: Vùng trồng  dược liệu của Công ty CP Công nghệ xanh Đông Sơn (Hoành Bồ); Vùng  trồng ba kích của Hợp tác xã Toàn Dân (huyện Ba Chẽ); Hợp tác xã Nông  trang Quảng La (huyện Hoành Bồ) trồng nấm Lim, nấm Linh chi; Công ty CP  Tùng Lâm đã phối hợp với Công ty Dkpharma, ĐH Dược Hà Nội xây dựng  Vườn cây thuốc Yên Tử,… 

Trong giai đoạn 2011-2016, tỉnh Quảng Ninh đã triển khai 20 nhiệm vụ nghiên cứu về dược liệu (12 nhiệm vụ cấp tỉnh và 8 nhiệm vụ cấp cơ sở). Tiêu  biểu như các đề tài ứng dụng công nghệ nano trong sản xuất sản phẩm từ Ba  kích tím; Nghiên cứu cơ sở khoa học và phát triển sản phẩm từ cây Trà hoa  vàng… Thông qua việc nghiên cứu, tỉnh đã quan tâm triển khai ứng dụng kết  quả các công trình nghiên cứu để đưa vào sản xuất hình thành các vùng sản  xuất dược liệu tập trung. Quảng Ninh cũng đang xây dựng khu nông nghiệp  ứng dụng công nghệ cao tại thị xã Đông Triều và từ năm 2016 tỉnh đã thành  lập Trung tâm ươm tạo công nghệ và doanh nghiệp Khoa học công nghệ 

Dược Quảng Ninh nhằm tăng cường công tác nghiên cứu, khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức, doanh nghiệp ứng dụng khoa học công nghệ trong phát triển  dược liệu. Đáng chú ý, từ năm 2013 tỉnh Quảng Ninh triển khai thực hiện Đề án “Mỗi xã phường một sản phẩm” (chương trình OCOP), trong đó việc phát  triển dược liệu được thực hiện thông qua chương trình này. Đến nay đã củng  cố các vùng sản xuất dược liệu tập trung như: Vùng trồng cây Hồi (diện tích  4.600 ha); Vùng trồng cây Quế (diện tích 2.997 ha); Các vùng trồng mới cây  Ba kích (322 ha); Cây Trà hoa vàng (120 ha) và bước đầu hình thành vùng  trồng các loại cây Kim ngân, Đinh lăng, Địa liền, Cà gai leo, Kim tiền thảo,  Xuyên tâm, Diệp hạ châu, Dây thìa canh… (với diện tích 192,2 ha). Đến cuối  năm 2016, chương trình OCOP đã có 180 doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở, hộ sản xuất tham gia sản xuất các sản phẩm, trong đó, có 20 tổ chức tham gia  vào chương trình sản xuất thảo dược. Các đơn vị này sản xuất 70 sản phẩm 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com