Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Án lệ số 18/2018/AL về hành vi giết người đang thi hành công vụ trong tội
“Giết người”

Được Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua
ngày 17 tháng 10 năm 2018 và được công bố theo Quyết
định số 269/QĐ-CA ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao.

Nguồn án lệ:

Bản án phúc thẩm số 331/2018/HS-PT ngày 28-5-2018 của
Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về vụ án “Giết người” đối với bị cáo: Phan Thành H, tên gọi khác: Đ; sinh năm
1995; nơi đăng ký HKTT: Xã C, huyện D, tỉnh Bình Định; chỗ ở hiện nay:
Thôn B, xã C, huyện D, tỉnh Bình Định.


Bị hại: Anh Nguyễn Anh Đ.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 1, 3 phần “Nhận định
của Tòa án”.

Khái quát nội dung của án lệ:

– Tình huống án lệ:

Bị cáo bị cảnh sát giao
thông yêu cầu dừng xe để xử lý vi phạm nhưng không chấp hành mà điều khiển xe
đâm thẳng vào cảnh sát giao thông. Khi cảnh sát giao thông bám
vào cọng gương chiếu hậu của xe, bị cáo tiếp tục điều khiển xe chạy với tốc độ
cao, bất ngờ đánh lái sát giải phân cách nhằm hất cảnh sát giao thông xuống
đường.

Cảnh sát giao thông
rơi khỏi xe, va vào giải phân cách cứng giữa đường, bị đa chấn thương.

– Giải pháp pháp lý:

Trường hợp này, bị cáo
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Giết người” với tình tiết định khung là
“Giết người đang thi hành công vụ”.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

Điểm d khoản 1 Điều 93
Bộ luật Hình sự năm 1999 (tương ứng với khoản d khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự
năm 2015).

Từ khoá của án lệ:

“Tội Giết người”, “Cảnh
sát giao thông” “Giết người đang thi hành công vụ”.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo bản cáo trạng
và bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, nội dung vụ án được tóm tắt
như sau:

1. Về hành vi
giết người:

Thực hiện kế
hoạch của Phòng cảnh sát giao thông đường bộ – đường sắt Công an tỉnh
Hà Tĩnh (PC67), ngày 30-6-2017 Tổ tuần tra kiểm soát gồm các đồng
chí: Võ Hoàng N, Nguyễn Anh Đ, Lê Hồ Việt A và Dương Hoài N (do đồng
chí Võ Hoàng N làm tổ trưởng) thực hiện nhiệm vụ tuần tra kiểm
soát, xử lý vi phạm về an toàn giao thông từ Km468 đến Km517 Quốc lộ
1A. Đồng chí Dương Hoài N được giao nhiệm vụ sử dụng máy kiểm tra
tốc độ phương tiện giao thông số hiệu UX027957 đo tốc độ phương tiện
tại Km11+450 đường tránh thành phố Hà Tĩnh, thuộc xã H, huyện I,
tỉnh Hà Tĩnh. Các đồng chí Võ Hoàng N, Nguyễn Anh Đ và Lê Hồ Việt A
có nhiệm vụ dừng, kiểm tra, kiểm soát và xử lý đối với các phương
tiện vi phạm tại Km488 + 650 Quốc lộ 1A, thuộc địa phận xã K, huyện L,
tỉnh Hà Tĩnh.

Ngày 30-6-2017, Từ
Công T và Phan Thành H điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS: 77C-016.47 kéo theo
Sơmirơmoóc BKS: 77R-001.37 lưu thông từ Nam ra Bắc. Khi đến địa phận tỉnh Quảng
Bình thì xe do Phan Thành H điều khiển, còn Từ Công T nằm ngủ trong buồng lái.
Lúc 15 giờ 28 phút cùng ngày, khi Phan Thành H điều khiển xe đến Km11+450 đường
tránh thành phố Hà Tĩnh thì đồng chí Dương Hoài N dùng máy kiểm tra tốc độ
phương tiện và phát hiện xe ô tô đầu kéo do H điều khiển vi phạm tốc độ
66/60km/h nên đã thông báo và gửi hình ảnh vi phạm bằng tin nhắn qua điện thoại
di động cho Tổ tuần tra làm nhiệm vụ tại Km488 + 700 Quốc lộ 1A biết để xử lý.

Đến 16 giờ 05
phút cùng ngày, khi xe ô tô đầu kéo BKS: 77C-016.47 do Phan Thành H điều khiển
đi đến Km488+650 Quốc lộ 1A thuộc địa phận xã K, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh thì
bị Tổ tuần tra Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Hà Tĩnh ra tín hiệu dừng
phương tiện. Sau khi Phan Thành H cho xe dừng lại, đồng chí Nguyễn Anh Đ đã
thông báo lỗi, cho Phan Thành H xem hình ảnh vi phạm và yêu cầu xuất trình giấy
tờ. Tuy nhiên Phan Thành H cho rằng xe mình không vi phạm tốc độ, nên không xuất
trình giấy tờ rồi tranh cãi với đồng chí Đ và các đồng chí trong Tổ tuần tra
đang làm nhiệm vụ. Đồng thời, Phan Thành H lấy máy điện thoại di động có hiển
thị hình ảnh tốc độ của xe mình để đối chiếu. Tổ tuần tra giải thích nhưng Phan
Thành H vẫn không chấp nhận mà tiếp tục tranh cãi, sau đó lên xe ô tô đóng cửa
lại (xe vẫn đang nổ máy). Lúc này, đồng chí Lê Hồ Việt A đang đứng phía trước
bên phải đầu xe, còn đồng chí Nguyễn Anh Đ đang đứng phía trước bên trái cách đầu
xe ô tô BKS: 77C-016.47 khoảng 01 mét, ra hiệu cho Phan Thành H không được điều
khiển xe di chuyển. Tuy vậy, Phan Thành H không chấp hành hiệu lệnh mà bất ngờ
điều khiển xe lao thẳng vào đồng chí Lê Hồ Việt A và đồng chí Nguyễn Anh Đ đang
đứng phía trước đầu xe để bỏ chạy. Thấy vậy, đồng chí Lê Hồ Việt A nhảy ra lề
đường phía bên phải tránh được, còn đồng chí Nguyễn Anh Đ không kịp tránh nên
buộc phải bám vào cọng gương chiếu hậu phía trước bên trái trên nắp capo của
xe. Mặc dù thấy đồng chí Nguyễn Anh Đ đang bám vào cọng gương chiếu hậu nhưng
Phan Thành H vẫn tiếp tục điều khiển xe tăng tốc. Khi đến Km488 + 250 Quốc lộ
1A (cách vị trí xuất phát khoảng 400 mét), lúc này xe của Phan Thành H điều khiển
đang chạy ở làn đường bên phải, mặc dù phía trước không có chướng ngại vật hoặc
xe cùng chiều nhưng H bất ngờ đánh lái mạnh về phía bên trái, chuyển hướng đầu
xe vào sát dải phân cách cứng giữa đường, mục đích để hất đồng chí Nguyễn Anh Đ
xuống nhằm bỏ chạy. Do lúc này đồng chí Nguyễn Anh Đ chỉ bám hai tay vào cọng
gương chiếu hậu của xe, hai chân không có điểm tựa nên khi xe đánh lái đột ngột
đã bị văng khỏi xe va vào dải phân cách cứng, rồi rơi xuống mặt đường.

Sau khi đánh lái
đột ngột hất đồng chí Nguyễn Anh Đ rơi xuống đường, Phan Thành H vẫn không dừng
lại mà tiếp tục điều khiển xe bỏ chạy, không chấp hành hiệu lệnh dừng xe của Tổ
tuần tra. Đến Km488 Quốc lộ 1A, khi Lực lượng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh
Hà Tĩnh dùng xe chuyên dụng chặn xe lại thì Phan Thành H mới chịu dừng xe nhưng
vẫn không chấp hành mà tiếp tục xuống xe tranh cãi với người thi hành công vụ rồi
lên xe đóng cửa ngồi trên xe không hợp tác, sau đó điều khiển xe chắn ngang đường
gây ách tắc giao thông. Công an huyện L đã phối hợp với Phòng Cảnh sát giao
thông Công an tỉnh Hà Tĩnh buộc Phan Thành H điều khiển xe vào lề đường và đưa
về Trụ sở Công an huyện L giải quyết.

Hậu quả: Đồng chí
Nguyễn Anh Đ bị thương nặng được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa thị xã Hồng
Lĩnh, sau đó chuyển đến điều trị tại Bệnh viện hữu nghị Việt Đức, đến ngày
10-7-2017 được chuyển về điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hà Tĩnh cho đến
ngày 18-7-2017 thì ra viện.

Quá trình Phan
Thành H thực hiện hành vi trên có anh Trần Trung Đ, trú tại số 102 đường M, quận
N, thành phố Hà Nội là hành khách đi trên xe taxi BKS: 37A-304.84 của hãng taxi
Mai Linh dùng máy di động quay lại diễn biến sự việc.

– Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 87 ngày 18-9-2017 của
Trung tâm Pháp y tỉnh Hà Tĩnh đối với thương tích của anh Nguyễn Anh Đ xác định:

+ Chấn thương sọ
não: Đụng dập nhu mô não thùy trán trái, vỡ xương đỉnh phải;

+ Vùng đỉnh đầu sẹo
vết thương kích thước 2,5cm x 0,2cm; vùng thùy thái dương phải sẹo vết thương
1,5cm x 0,2cm;

+ X Quang: Hình ảnh
gãy 1/3 trên xương mác trái đã có can xương.

Kết luận: Tỷ lệ tổn
thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 40%. (BL: 139, 140).

Quá trình điều
tra Phan Thành H trình bày xe ô tô H điều khiển không vi phạm tốc độ, theo thiết
bị giám sát hành trình VTR01 lắp trên xe ô tô đầu kéo BKS: 77C-016.47 phản ánh
trên đoạn đường tránh thành phố Hà Tĩnh xe ô tô đầu kéo BKS: 77C-016.47 chạy tốc
độ dưới 60km/h. Tuy nhiên, thiết bị giám sát hành trình VTR01 lắp đặt trên xe ô
tô đầu kéo BKS: 77C-016.47 đạt quy chuẩn QCVN31:2001/GTVT ban hành theo Thông
tư số 08/2011/TT-BGTVT ngày 08-3-2011 của Bộ Giao thông vận tải có sai số  5km/h và cập nhật tốc độ của xe với thời gian
10 giây/01 lần. Trong khi đó, máy kiểm tra tốc độ phương tiện giao thông với số
hiệu UX027957 được kiểm định theo Giấy chứng nhận kiểm định số V08.KD.525.16
ngày 29-9-2016 của Viện đo lường Việt Nam, có đặc trưng kỹ thuật đo lường: Phạm
vi đo 8 – 320 km/h, cấp chính xác  2km/h và đo trực tiếp tốc độ của phương tiện
đang lưu thông.

Trong vụ việc
này, Phan Thành H phải có trách nhiệm chấp hành hiệu lệnh, xuất trình giấy tờ
theo yêu cầu của người thi hành công vụ, nếu không đồng ý với kết quả xử lý thì
có thể khiếu nại. Tuy nhiên, do lo sợ bị phát hiện việc sử dụng giấy phép lái
xe giả nên Phan Thành H không chấp hành và gây án.

2. Về hành vi làm
giả tài liệu của cơ quan, tổ chức:

Khoảng tháng
10-2016, Phan Thành H (có giấy phép lái xe hạng C) được Từ Công T nhận làm phụ
xe ô tô đầu kéo đi cùng T vận chuyển hàng hóa. Quá trình làm phụ xe, Từ Công T
thấy H có thể điều khiển được xe ô tô đầu kéo, nhưng Phan Thành H chưa đủ tuổi
để được cấp phép lái xe hạng FC. Khoảng tháng 02-2017, Từ Công T lấy ảnh của
Phan Thành H rồi liên hệ với một người không quen ở thành phố Hải Phòng làm 01
giấy phép lái xe hạng FC giả, số: 520144004729 mang tên Lưu Văn C có gắn ảnh của
Phan Thành H với giá 2.500.000 đồng rồi giao cho H sử dụng để đối phó, lừa dối
khi bị các cơ quan chức năng kiểm tra.

Ngày 30-6-2017,
khi làm việc với Cơ quan CSĐT Công an huyện L, Phan Thành H đã xuất trình giấy
phép lái xe giả hạng FC mang tên Lưu Văn C (sinh năm 1991; trú tại thị trấn O,
huyện D, tỉnh Bình Định). Đồng thời, cả Phan Thành H và Từ Công T đều khai tên
của H là Lưu Văn C nhằm lừa dối cơ quan điều tra. Do vậy, Cơ quan CSĐT Công an
huyện L đã ra các quyết định tố tụng đối với Phan Thành H nhưng mang tên giả
Lưu Văn C.

Trong quá trình
điều tra còn xác định: Vào hồi 16 giờ 50 phút             ngày 22-4-2017, tại Km1060 + 400
QL1A thuộc địa phận tỉnh Quảng Ngãi, Phan Thành H điều khiển xe ô tô đầu kéo
BKS: 77C-103.69 kéo theo Sơmirơmoóc 77R-014.65 vi phạm lỗi “Chuyển hướng không
có tín hiệu rẽ” và đã sử dụng giấy phép lái xe giả số 520144004728, mang tên
Lưu Văn C để lừa dối Tổ tuần tra kiểm soát Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh
Quảng Ngãi.

– Tại bản kết luận giám định số 10 ngày 05-7-2017 của Phòng Kỹ thuật hình
sự Công an Hà Tĩnh xác định:
Giấy phép lái xe số
520144004729 mang tên Lưu Văn C, sinh ngày 10-6-1991, nơi cư trú: Thị trấn O,
huyện D, tỉnh Bình Định cấp ngày 18-11-2015 là Giấy phép lái xe giả (BL: 91).

Vật chứng thu giữ
gồm
:

01 (một) xe ô tô đầu kéo nhãn hiệu FREIGHTLINER, BKS: 77C-016.47, số loại: CL 120064S, sơn màu đỏ, số máy: 0933U0841843, số
khung: 6CV36LX06844 cùng các giấy tờ liên quan đến xe;

– 01 (một) giấy
phép lái xe (thẻ nhựa) số: 520144004729, hạng FC giả mang tên Lưu Văn C;

– 01 (một) giấy
phép lái xe (thẻ nhựa) số: 5201600087, hạng C mang tên Phan Thành H do Sở GTVT
tỉnh Bình Định cấp;

– 01 (một) giấy
chứng minh nhân dân số: 215341305, mang tên Phan Thành H do Công an tỉnh Bình Định
cấp;

– 01 (một) chiếc
điện thoại di động hiệu ARBUTUS màu vàng, màn hình cảm ứng, số IMEI: 355052654004631,
355052654004649, máy đã qua sử dụng;

– 01 (một) USB
nhãn hiệu Kingston, dung lượng 8GB, trên bề mặt có chữ DT101 G2 có lưu trữ tập
tin Video: IMG-1245.MOV thời lượng 00 phút 37 giây.

– 01 (một) USB
nhãn hiệu Apacer dung lượng 8GB lưu trữ 02 tập tin Video: IMG-0507.MOV thời lượng
02 phút 58 giây và Video: IMG-0509.MOV thời lượng 03 phút 04 giây.

– 01 (một) USB
nhãn hiệu Kingston, dung lượng 8GB, trên bề mặt có chữ DT101.G2 có lưu trữ tập
tin Video: IMG-1689.MOV thời lượng 05 phút 10 giây.

Cơ quan CSĐT Công
an tỉnh Hà Tĩnh đã trả lại chiếc xe ô tô đầu kéo BKS: 77C-016.47 và các giấy tờ
liên quan cho chủ sở hữu là Công ty TNHH vận tải và Thương mại tổng hợp T; 03
(ba) chiếc USB đang được lưu giữ theo hồ sơ vụ án, còn các vật chứng khác được
chuyển đến Cục thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh để quản lý.

Với hành vi trên,
tại Bản cáo trạng số 35/CTr – KSĐT, ngày 13-10-2017, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Hà Tĩnh đã truy tố Phan Thành H về tội “Giết người” theo điểm d khoản 1 Điều
93 Bộ luật Hình sự và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo
điểm b khoản 2 Điều 267 của Bộ luật Hình sự. Truy tố Từ Công T về
tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo điểm b khoản 2 Điều
267 của Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ
thẩm số 39/2017/HSST ngày 26-12-2017, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã quyết định:

1. Tuyên bố bị cáo Phan
Thành H phạm tội: “Giết người” và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ
chức”, bị cáo Từ Công T phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ
chức”.

– Áp dụng điểm d khoản 1
Điều 93; khoản 3 Điều 52; điểm b khoản 2 Điều 267; điểm b, p khoản 1,
khoản 2 Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 1999:

Xử phạt bị cáo Phan
Thành H 08 (tám) năm tù về tội “Giết người” và 02 (hai) năm tù về tội
“Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

Áp
dụng khoản 1 Điều 50 Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt của 02 tội buộc
Phan Thành H phải chịu hình phạt chung là 10 (mười) năm tù. Thời gian chấp
hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam (ngày
30-6-2017).

– Áp dụng điểm b
khoản 2 Điều 267, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt bị
cáo Từ Công T 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính
từ ngày bị cáo thi hành án.

Ngoài ra Tòa án sơ thẩm
còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm, thông báo quyền
kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 03-01-2018, bị
cáo Phan Thành H kháng cáo xin được giảm hình phạt; bị cáo Từ Công T kháng cáo
xin giảm hình phạt và đề nghị được hưởng án treo.

Tại phiên tòa, bị
cáo Phan Thành H đã khai nhận toàn bộ hành vi giết người và hành vi làm giả tài
liệu của cơ quan, tổ chức như đã được nêu trên. Bị
cáo trình bày, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt quá nặng, đề nghị Hội đồng xét xử xem
xét giảm hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Từ Công T đã
khai nhận toàn bộ hành vi làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức như đã được nêu
trên, bị cáo trình bày, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít
nghiêm trọng, đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bồi thường thiệt hại, gia
đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo
được cải tạo tại địa phương.

Đại diện Viện kiểm sát
nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như
sau: Có đủ chứng cứ để kết luận bị cáo Phan Thành H đã phạm tội “Giết
người” và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” được quy định tại điểm d
khoản 1 Điều 93; điểm b khoản 2 Điều 267 Bộ luật Hình sự.

Đối với bị cáo Từ Công
T: Đã phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” được quy định tại điểm b khoản 2
Điều 267 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Sau khi đánh giá tính
chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội của
các bị cáo; xem xét nhân thân; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
các bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị Hội đồng
xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Thành H, giữ nguyên quyết định
của bản án sơ thẩm; chấp nhận kháng cáo của bị cáo Từ Công T, giữ nguyên hình
phạt và cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách theo quy định của pháp
luật.

Luật sư bào chữa
cho bị cáo Phan Thành H phát biểu ý kiến: Không tham gia tranh luận về tội danh
và khung hình phạt, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo
điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 1999 và giảm
hình phạt cho bị cáo Phan Thành H.

Trong phần tranh luận,
đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Luật sư và các bị cáo vẫn giữ
nguyên ý kiến của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Lời khai nhận tội
của bị cáo Phan Thành H và Từ Công T phù hợp với lời khai của người bị hại, lời
khai của người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có
trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 16 giờ 05 phút ngày
30-6-2017, bị cáo Phan Thành H điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS: 77C-016.47 kéo
theo sơmirơmoóc BKS: 77R-001.37, khi đi đến km 488 + 650 quốc lộ 1A thuộc địa
phận xã K, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh thì bị tổ tuần tra Phòng cảnh sát giao thông
Công an tỉnh Hà Tĩnh dừng xe vì đã vi phạm về tốc độ (66/60km/giờ). Bị cáo Phan
Thành H đã không chấp hành vì cho rằng mình không vi phạm tốc độ, nên đã tranh
cãi và điều khiển xe đâm thẳng vào ông Nguyễn Anh Đ và ông Lê Hồ Việt A là cảnh
sát giao thông đang làm nhiệm vụ, khi những người này đang đứng trước đầu xe ô
tô. Ông Lê Hồ Việt A nhảy sang lề đường tránh được, còn ông Nguyễn Anh Đ buộc
phải bám vào cọng gương chiếu hậu phía trước bên trái đầu xe. Phan Thành H tiếp
tục điều khiển xe chạy với tốc độ cao, rồi bất ngờ đánh lái mạnh về phía bên
trái vào sát giải phân cách giữa đường nhằm hất ông Nguyễn Anh Đ xuống đường để
bỏ trốn. Hậu quả là ông Nguyễn Anh Đ bị rơi khỏi xe va vào giải phân cách cứng
giữa đường, rồi rơi xuống đường. Phan Thành H bỏ mặc cho hậu quả xảy ra rồi tiếp
tục điều khiển xe chạy trốn. Ông Nguyễn Anh Đ đã bị chấn thương sọ não, gãy
chân, tổn hại sức khỏe 40%.

[2] Phan Thành H và Từ
Công T còn có hành vi phạm tội như sau: Bị cáo Từ Công T
biết rõ bị cáo Phan Thành H chưa có giấy phép lái xe hạng FC và chưa đủ tuổi để
được cấp giấy phép lái xe hạng FC, nhưng Từ Công T đã thuê một người ở Hải Phòng (T
không biết rõ họ tên và địa chỉ) làm giấy phép lái xe hạng FC giả, số
520144004729 có ảnh của Phan Thành H, nhưng mang tên Lưu Văn C đưa cho Phan
Thành H sử dụng nhằm lừa dối cơ quan chức năng khi điều khiển xe trên đường. Khi có giấy
phép lái xe giả do Từ Công T cung cấp, Phan Thành H đã hai lần sử dụng giấy
phép lái xe giả để lừa dối cảnh sát giao thông tỉnh Quảng Ngãi và Công an huyện
L, tỉnh Hà Tĩnh. Hành vi sử dụng giấy phép lái xe giả lừa dối
cơ quan chức năng nêu trên của Phan Thành H, thì Từ Công T đều biết.

[3] Do có hành vi phạm tội nêu
trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Phan Thành H về tội “Giết người” và tội
“Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” tội phạm và hình phạt được quy định tại
điểm d khoản 1 Điều 93 và điểm b khoản 2 Điều 267 Bộ luật Hình sự năm 1999 là có
căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Bị cáo Từ Công T bị
xét xử về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” tội phạm và hình phạt được
quy định tại điểm b khoản 2 Điều 267 Bộ luật Hình sự năm 1999 là có
căn cứ, đúng pháp luật.

[5] Xét kháng cáo của
các bị cáo Phan Thành H và Từ Công T, Hội đồng xét xử, xét thấy: Hành vi giết
người do bị cáo Phan Thành H thực hiện là nguy hiểm, đã trực tiếp xâm phạm tính
mạng của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn giao thông công cộng.

[6] Hành vi làm giả
tài liệu của cơ quan, tổ chức do các bị cáo Từ Công T và Phan Thành H thực hiện
đã trực tiếp xâm phạm trật tự quản lý hành chính, do đó, cần được xử lý nghiêm
minh trước pháp luật.

[7] Bị cáo Phan Thành
H là người có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự; quá trình điều tra
và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường
cho người bị hại để khắc phục hậu quả, người bị hại có đề nghị giảm hình phạt
cho bị cáo; bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, thuộc hộ nghèo của địa phương; hành vi
phạm tội do bị cáo thực hiện thuộc trường hợp “phạm tội chưa đạt”;
ngoài ra, bị cáo còn có ông ngoại có công với cách mạng được hưởng chế độ như
thương binh. Như vậy, bị cáo Phan Thành H được hưởng các tình tiết giảm nhẹ
theo điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 18 Bộ luật Hình sự năm 1999. Do đó
có căn cứ để giảm một phần hình phạt cho bị cáo về tội “Giết người”, giữ nguyên
hình phạt về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

[8] Đối với bị cáo Từ
Công T: Là người có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Quá trình khai báo
thành khẩn, tỏ thái độ ăn ăn hối cải; bị cáo đã cùng gia đình bị cáo Phan Thành
H bồi thường cho người bị hại để khắc phục hậu quả; bị cáo có hoàn cảnh khó
khăn là lao động chính trong gia đình; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng. Xét thấy
không cần thiết bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù, cho bị cáo được cải tạo
tại địa phương cũng đủ điều kiện để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Do đó,
có đủ căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo Từ Công T.

[9] Các quyết
định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật
kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[10] Các bị cáo Phan
Thành H và Từ Công T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

Căn cứ điểm b khoản 1;
Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

QUYẾT ĐỊNH:

1. Chấp nhận một phần
kháng cáo của bị cáo Phan Thành H, sửa bản án sơ thẩm.

Áp dụng điểm d khoản 1
Điều 93; điểm b khoản 2 Điều 267; Điều 18; khoản 3 Điều 52 (tội Giết người); điểm
b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; khoản 1 Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 1999: Xử phạt
bị cáo Phan Thành H 07 (bảy) năm tù về tội “Giết người”; 02 (hai) năm tù về tội
“Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt chung của hai tội
là 09 (chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày
30-6-2017.

2. Chấp nhận kháng cáo
của bị cáo Từ Công T, sửa bản án sơ thẩm.

Áp dụng điểm b khoản 2
Điều 267; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 60 Bộ luật Hình sự năm 1999: Xử phạt
bị cáo Từ Công T 02 (hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Làm giả tài liệu
của cơ quan, tổ chức”, thời gian thử thách là 04 (bốn) năm kể từ ngày tuyên án
phúc thẩm. Giao bị cáo Từ Công T cho Ủy ban nhân dân thị trấn
O (huyện D, tỉnh Bình Định) để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được
hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69
của Luật Thi hành án hình sự.

3. Các quyết định khác
của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ
ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“[1] Lời khai nhận tội của bị cáo Phan Thành H và Từ Công T phù hợp với lời
khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định và các
tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận: Vào
khoảng 16 giờ 05 phút ngày 30-6-2017, bị cáo Phan Thành H điều khiển xe ô tô đầu
kéo BKS: 77C-016.47 kéo theo sơmirơmoóc BKS: 77R-001.37, khi đi đến km 488 +
650 quốc lộ 1A thuộc địa phận xã K, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh thì bị tổ tuần tra
Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Hà Tĩnh dừng xe vì đã vi phạm về tốc độ
(66/60km/giờ). Bị cáo Phan Thành H đã không chấp hành vì cho rằng mình không vi
phạm tốc độ, nên đã tranh cãi và điều khiển xe đâm thẳng vào ông Nguyễn Anh Đ
và ông Lê Hồ Việt A là cảnh sát giao thông đang làm nhiệm vụ, khi những người
này đang đứng trước đầu xe ô tô. Ông Lê Hồ Việt A nhảy sang lề đường tránh được,
còn ông Nguyễn Anh Đ buộc phải bám vào cọng gương chiếu hậu phía trước bên trái
đầu xe. Phan Thành H tiếp tục điều khiển xe chạy với tốc độ cao, rồi bất ngờ
đánh lái mạnh về phía bên trái vào sát giải phân cách giữa đường nhằm hất ông
Nguyễn Anh Đ xuống đường để bỏ trốn. Hậu quả là ông Nguyễn Anh Đ bị rơi khỏi xe
va vào giải phân cách cứng giữa đường, rồi rơi xuống đường. Phan Thành H bỏ mặc
cho hậu quả xảy ra rồi tiếp tục điều khiển xe chạy trốn. Ông Nguyễn Anh Đ đã bị
chấn thương sọ não, gãy chân, tổn hại sức khỏe 40%.

[3] Do có hành vi phạm tội nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo
Phan Thành H về tội “Giết người” và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”
tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 93 và điểm b khoản
2 Điều 267
Bộ luật Hình sự năm 1999 là có căn cứ, đúng pháp luật.”

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Án lệ số 19/2018/AL về xác định giá trị tài sản
bị chiếm đoạt trong tội “Tham ô tài sản”

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao thông qua
ngày 17 tháng 10
năm 2018 và được công bố theo Quyết định số 269/QĐ-CA ngày 06 tháng 11 năm 2018
của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm
số 09/2015/HS-GĐT ngày 23-4-2015 của Tòa Hình sự Tòa án nhân dân tối cao về vụ
án “Tham ô tài sản” đối với bị cáo: Võ Thị Ánh N, sinh năm 1981; trú tại số 17,
đường A, phường B, thành phố C, tỉnh Bình Định.

Ngoài ra, trong vụ án còn
có Phan Thị Q bị kết án về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”; Võ
Thị Kim T bị kết án về tội “Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến
tài sản của Nhà nước”.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 3 phần “Nhận định của
Tòa án”.

Khái quát nội dung án lệ:

– Tình huống án lệ:

Bị cáo lợi dụng sơ hở
trong quản lý của ngân hàng, nhiều lần trực tiếp làm thủ tục rút và chi tiền tiết
kiệm từ quỹ của chi nhánh ngân hàng do bị cáo quản lý nhưng thực tế không chi
trả cho bất kỳ ai mà bị cáo đã sử dụng số tiền này.

Quá trình điều tra bị cáo
đã khắc phục được một phần số tiền mà bị cáo đã chiếm đoạt.

– Giải pháp pháp lý:

Trường hợp này, bị cáo phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội “Tham ô tài sản”.

Giá trị tài sản mà bị cáo
chiếm đoạt phải xác định là toàn bộ số tiền mà bị cáo đã làm thủ tục rút và chi
tiền tiết kiệm khống từ quỹ của chi nhánh ngân hàng (bao gồm cả số tiền bị cáo
đã khắc phục trong quá trình điều tra).

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

Điểm b, p khoản 1, khoản
2 Điều 46; Điều 47; Điều 60; điểm c khoản 2 Điều 278 Bộ luật Hình sự năm 1999
(tương ứng với điểm b, s Điều 51; Điều 54; Điều 65, điểm c khoản 2 Điều 353 Bộ
luật Hình sự năm 2015);

Từ khóa của án lệ:

“Tội tham ô tài sản”;
“Giá trị tài sản chiếm đoạt”; “Khắc phục một phần hậu quả”, “Các tội xâm phạm sở hữu”.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Phòng giao dịch D là đơn
vị trực thuộc Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố
C, được thành lập theo Quyết định số 1667/QĐ/NHNN-TCCB ngày 02-03-2007 của Tổng
Giám đốc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, có nhiệm vụ
huy động tiền gửi tiết kiệm của dân cư.

Thời gian từ tháng 5-2008
đến tháng 4-2010, Phòng giao dịch D là một quầy giao dịch làm việc chung văn
phòng với phòng kế toán Ngân quỹ của Ngân hàng nông nghiệp C. Phòng giao dịch D
có 02 nhân viên là:

– Phan Thị Q là kế toán
có nhiệm vụ giao dịch với khách hàng, lập các chứng từ thu, chi tiền, mở sổ
theo dõi nhật ký quỹ tiền mặt, hạch toán các khoản thu chi vào chương trình
giao dịch trên máy vi tính, in phát hành sổ tiết kiệm và lập thẻ lưu tiết kiệm.

– Võ Thị Kim T là thủ quỹ
có nhiệm vụ quản lý sổ tiết kiệm trắng chưa phát hành cho khách hàng; quản lý
việc thu, chi tiền mặt.

Còn Võ Thị Ánh N là giao
dịch viên của phòng Kế toán – Ngân quỹ Ngân hàng nông nghiệp C, có nhiệm vụ quản
lý các khoản chi trả chuyển tiền đến cho khách hàng vãng lai, chuyển tiền đi và
đến, các nghiệp vụ huy động vốn, hạch toán các khoản thu nợ, thu lãi bằng tiền
mặt.

Ngày 12-4-2010, Giám đốc
chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố C, phát hiện
sai phạm của giao dịch viên đang làm việc tại chi nhánh nên báo cáo lên Chi
nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh Bình Định. Ngày 07-6-2010, Giám đốc Chi nhánh
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Bình Định có Công văn số
486/NHNNBĐ-HCNS đề nghị Cơ quan điều tra làm rõ việc chi tiền tiết kiệm tại
Phòng giao dịch D cho 02 sổ tiết kiệm NA 222040 tên Đặng Thị Bích D và sổ tiết
kiệm NA 1297720 tên Ngô Thanh V, làm thiệt hại cho Ngân hàng với tổng số tiền
774.403.300 đồng. Quá trình điều tra xác định:

– Đối với Phan Thị Q và
Võ Thị Kim T đã trực tiếp chi tiền từ quỹ của phòng giao dịch cho sổ tiết kiệm
NA 222040 mang tên Đặng Thị Bích D là 200.100.000 đồng và sổ tiết kiệm NA
1297720 mang tên Ngô Thanh V là 102.870.600 đồng; tổng cộng là 302.970.600 đồng
(200.100.000 + 102.870.600 = 302.970.600 đồng) mà không kiểm tra chứng minh thư
nhân dân của khách hàng để đối chiếu, dẫn đến thiệt hại cho Ngân hàng số tiền
trên.

– Đối với Võ Thị Ánh N đã
trực tiếp làm các thủ tục và chi tiền từ quỹ của chi nhánh Ngân hàng do Võ Thị
Ánh N quản lý cho sổ tiết kiệm NA 1297720 mang tên Ngô Thanh V, tổng số tiền
471.432.700 đồng, gồm các lần sau:

Ngày 31-7-2009, Võ Thị
Ánh N chi 23.124.400 đồng bao gồm 20.000.000 đồng tiền gốc và 3.124.400 đồng tiền
lãi.

Ngày 03-11-2009, Võ Thị Ánh
N chi 448.308.300 đồng bao gồm 375.000.000 đồng tiền gốc và 73.308.300 đồng tiền
lãi.

Riêng đối với lần chi
ngày 03-11-2009, Cơ quan điều tra đã xác định Võ Thị Ánh N đã chuyển
251.000.000 đồng vào tài khoản ATM mang tên Võ Thị T (thẻ này do Võ Thị Ánh N
quản lý, sử dụng và giao dịch nhiều lần). Sau đó, Võ Thị Ánh N đã rút
251.000.000 đồng từ tài khoản ATM của bà Võ Thị T nhiều lần để chiếm đoạt.

Số tiền còn lại từ việc
chi trả cho sổ tiết kiệm bậc thang NA 1297720 mang tên Ngô Thanh V nhưng Võ Thị
Ánh N không chứng minh được người nhận tiền nên đã gây thiệt hại cho Ngân hàng
220.432.700 đồng. Do trong quá trình điều tra, bị cáo Võ Thị Ánh N đã khắc phục
xong số tiền này nên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định không truy tố bị cáo
về hành vi này.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm
số 106/2013/HSST ngày 14-8-2013, Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Bình Định đã
áp dụng điểm c khoản 2 Điều 278; các điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều
47 Bộ luật Hình sự xử phạt Võ Thị Ánh N 03 năm tù về tội “Tham ô tài sản”.

Ngày 27-8-2013, Võ Thị
Ánh N có đơn kháng cáo xin hưởng án treo.

Tại Bản án hình sự phúc
thẩm số 30/2014/HSPT ngày 24-02-2014, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định căn cứ vào
điểm b khoản 2 Điều 248; điểm đ khoản 2 Điều 249 Bộ luật Tố tụng hình sự chấp
nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Võ Thị Ánh N, áp dụng điểm c khoản
2 Điều 278, các điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46, Điều 47 và Điều 60 Bộ luật Hình sự
xử phạt Võ Thị Ánh N 03 năm tù về tội “Tham ô tài sản” nhưng cho hưởng án treo,
thời gian thử thách là 05 năm.

Tại Kháng nghị giám đốc
thẩm số 02/2015/KN-HS ngày 09-02-2015, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị
Hội đồng giám đốc thẩm Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao hủy Bản án hình sự
phúc thẩm số 30/2014/HSPT ngày 24-02-2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định và
Bản án hình sự sơ thẩm số 106/2013/HSST ngày 14-8-2013 của Tòa án nhân dân
thành phố C, tỉnh Bình Định đối với Võ Thị Ánh N để điều tra
lại
theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm,
đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng giám đốc thẩm chấp nhận
Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

NHẬN ĐỊNH
CỦA TÒA ÁN:

[1] Võ Thị Ánh N không được lãnh đạo Ngân hàng nông nghiệp C giao nhiệm vụ
chi tiền tiết kiệm nhưng lợi dụng sự sơ hở trong quá trình quản
lý của Ngân hàng, Võ Thị Ánh N đã nhiều lần trực tiếp làm các thủ tục và chi tiền
tiết kiệm từ quỹ của chi nhánh ngân hàng do Võ Thị Ánh N quản lý cho sổ tiết kiệm
NA 1297720 mang tên Ngô Thanh V với tổng số tiền là 471.432.700 đồng. Trong quá
trình điều tra, Cơ quan điều tra đã xác định không có khách hàng nào tên Ngô
Thanh V và bản thân Võ Thị Ánh N cũng không chứng minh được ai là người đến nhận
số tiền này.

[2] Sau khi làm thủ tục
chi tiền cho khách hàng Ngô Thanh V, Võ Thị Ánh N đã chuyển 251.000.000 đồng là
tiền trong quỹ của ngân hàng do Võ Thị Ánh N quản lý vào tài khoản ATM mang tên
Võ Thị T do Võ Thị Ánh N là người trực tiếp mở thẻ, quản lý và sử dụng; sau đó
nhiều lần rút số tiền này để chiếm đoạt của Ngân hàng nông nghiệp C. Tòa án cấp
sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã kết án Võ Thị Ánh N về tội “Tham ô tài sản”
đối với số tiền 251.000.000 đồng là có căn cứ và đúng pháp luật. Tuy nhiên, số
tiền mà Võ Thị Ánh N chiếm đoạt của Ngân hàng là 251.000.000 đồng nên hành vi
phạm tội của Võ Thị Ánh N thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 3 Điều 278
Bộ luật Hình sự “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới
năm trăm triệu đồng”
có khung hình phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi
năm. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ áp dụng khoản 2 Điều 278 Bộ luật Hình sự xử phạt bị
cáo Võ Thị Ánh N 03 năm tù là quá nhẹ,
không đúng với quy định của pháp luật. Khi xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm
không phát hiện ra sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm, vẫn giữ nguyên mức hình phạt
và cho bị cáo hưởng án treo là sai lầm nghiêm trọng, không đánh giá đúng tính
chất nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra.

[3] Đối với số tiền còn lại
220.432.700 đồng (471.432.700 – 251.000.000 = 220.432.700 đồng) mà Võ Thị Ánh N
đã chi trả cho sổ tiết kiệm bậc thang NA 1297720 mang tên Ngô Thanh V, Võ Thị
Ánh N đã khắc phục xong hậu quả, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
thành phố C đã thu hồi được toàn bộ số tiền bị mất. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Bình Định cho rằng bị cáo đã khắc phục hậu quả nên không truy tố về hành vi này
là bỏ lọt tội phạm.

Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 2 Điều 279;
khoản 3 Điều 285, Điều 287 Bộ luật Tố tụng hình sự,

QUYẾT ĐỊNH:

1. Hủy Bản án hình sự
phúc thẩm số 30/2014/HSPT ngày 24-02-2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định và
Bản án hình sự sơ thẩm số 106/2013/HSST ngày 14-8-2013 của Tòa án nhân dân
thành phố C, tỉnh Bình Định đối với Võ Thị Ánh N để điều tra lại theo đúng quy định
của pháp luật.

2. Chuyển hồ sơ vụ án cho
Viện kiểm sát nhân dân tối cao giải quyết theo thẩm quyền.

Các quyết định khác của bản
án hình sự phúc thẩm và sơ thẩm nêu trên không bị kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm tiếp tục có hiệu lực pháp luật.

 

 

NỘI DUNG ÁN LỆ

“[3] Đối với số tiền còn lại 220.432.700 đồng
(471.432.700 – 251.000.000 = 220.432.700 đồng) mà Võ Thị Ánh N đã chi trả cho sổ
tiết kiệm bậc thang NA 1297720 mang tên Ngô Thanh V, Võ Thị Ánh N đã khắc phục
xong hậu quả, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố C đã thu
hồi được toàn bộ số tiền bị mất. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định cho rằng
bị cáo đã khắc phục hậu quả nên không truy tố về hành vi này là bỏ lọt tội phạm.”

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Án lệ số 15/2017/AL về công nhận thỏa thuận miệng của các đương sự trong việc chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 14 tháng 12 năm 2017 và được công bố theo Quyết định số 299/QĐ-CA ngày 28 tháng 12 năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm số 394/2012/DS-GĐT ngày 23-8-2012 của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp hợp đồng đổi đất” tại thành phố Hà Nội giữa nguyên đơn là bà Trịnh Thị C với bị đơn là ông Nguyễn Minh T; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm bà Vũ Thị P, anh Nguyễn Minh Tr, chị Bùi Thanh H, chị Trương Thị X, anh Trương Sỹ K, chị Trương Hồng T, chị Trương Thị H1, anh Trương Anh T, chị Trương Thuý N, anh Trương Quang K, bà Trương Thị H2.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 1, 2 phần “Nhận định của Toà án”.

Khái quát nội dung của
án lệ:

– Tình huống án lệ:

Các đương sự tự nguyện thỏa thuận miệng với nhau về việc chuyển đổi quyền
sử dụng đất nông nghiệp trước ngày 15-10-1993 (ngày Luật Đất đai năm 1993 có hiệu
lực thi hành); đã đăng ký, kê khai diện tích đất đã đổi và được ghi nhận tại Sổ
địa chính; đã trực tiếp canh tác, sử dụng ổn định, liên tục, lâu dài.

– Giải pháp pháp lý:

Trường hợp này, Tòa ánphải công nhận thỏa thuận miệng của các
đương sự về việc chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp đó để xác định các
đương sự có quyền sử dụng diện tích đất đã đổi.

Quy định của pháp luật
có liên quan đến án lệ:

– Khoản 2 Điều 16 Luật Đất đai năm 1987.

– Khoản 2 Điều 170 Bộ luật Dân sự năm 2005.

Từ
khóa của án lệ:

“Chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp”;“Chuyển đổi quyền sử dụng đất thực tế”; “Công nhận quyền sử dụng đất”.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo đơn khởi kiện đề ngày 02-5-2006 và các lời khai khác trong quá trình
giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Trịnh Thị C trình bày:

Năm 1962, gia đình bà Trịnh Thị C được chia 517m2 thuộc thửa số 28 tờ
bản đồ số 4 tại khu vực K là loại đất 5% để canh tác. Mảnh đất này cạnh nhà ông
Nguyễn Minh T (bị đơn). Theo bản đồ năm 1987, mảnh đất này thuộc 02 thửa 158 và
159. Đầu năm 1992, gia đình ông Nguyễn Minh T có đề nghị bà Trịnh Thị C tạm thời đổi mảnh đất
5% lấy mảnh đất được chia theo khoán 10 có diện tích 540m2 tại khu vực
cánh đồng B của gia đình ông Nguyễn Minh T để tiện việc canh tác. Hai bên thỏa thuận miệng,
không lập giấy tờ, đổi tạm thời khi nào cần thì báo trước 1 tuần sẽ đổi lại. Đến
năm 1994, do nhu cầu sản xuất gia đình bà Trịnh Thị C yêu cầu đổi trả lại đất
nhưng gia đình ông Nguyễn Minh T không đồng ý. Bà Trịnh Thị C có khiếu nại xã và
huyện nhưng không được giải quyết dứt điểm. Do đó, bà Trịnh Thị C đề nghị Tòa
án buộc gia đình ông Nguyễn Minh T phải trả lại đất cho gia đình bà theo đúng quy
định của pháp luật.

Bị đơn là ông Nguyễn Minh T trình bày:

Theo chính sách khoán 10, HTX Đ triển khai giao đất cho các hộ gia đình
vào đầu năm 1991. Quá trình thực hiện chủ trương này, HTX có hướng dẫn để các hộ
gia đình đổi đất cho nhau. Khoảng tháng 2 năm 1992, gia đình ông Nguyễn Minh T và gia đình bà Trịnh Thị C thỏa thuận miệng với
nhau đổi đất như trình bày của nguyên đơn. Sau khi đổi đất, ông Nguyễn Minh T đã cải tạo thành ao và có chuyển hơn 10 ngôi mộ
về nghĩa trang của thôn. Tháng 5-1994, có chủ trương kê khai đất canh tác của từng
hộ gia đình theo Luật Đất đai năm 1993 để vào Sổ địa bộ thuế của từng gia đình.
Lúc đó, bà Trịnh Thị C đã kê khai đất được đổi tại khu B, ông Nguyễn Minh T đã kê khai đất đổi của gia đình bà Trịnh Thị C
cùng với diện tích gia đình ông Nguyễn Minh T đang sử dụng. Cuối năm 1994, HTX Đ có văn bản
giao đất cho các hộ, văn bản giao đất ghi gia đình ông Nguyễn Minh T và bà Trịnh Thị C đổi đất cho nhau. Gia đình
ông Nguyễn Minh T đã trực tiếp canh tác từ năm 1992 cho đến nay.
Vì vậy, ông Nguyễn Minh T không chấp nhận yêu cầu đòi đổi lại đất của
nguyên đơn.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trương Thị H2 trình bày: Nguồn
gốc đất tại khu vực K là của bố mẹ bà được cấp từ 1962. Sau khi bố mất thì đất
này đứng tên anh là ông A. Năm 1990, 1991 có chia tách cho bà 100m2.
Việc bà Trịnh Thị C đổi toàn bộ đất cho ông Nguyễn Minh T là không đúng, nay bà yêu cầu đòi lại.

Tại Bản án sơ thẩm số 17/2008/DSST ngày 20-8-2008, Tòa án nhân dân quận
Hoàng Mai quyết định:

“1. Tuyên bố giao dịch dân sự đổi đất sản xuất nông nghiệp miệng giữa đất
5% và đất khoán 10 được xác lập giữa hộ gia đình bà Trịnh Thị C và hộ gia đình
ông Nguyễn Minh T tháng 2 năm 1992 là vô hiệu.

Buộc hộ gia đình ông Nguyễn Minh T phải trả lại cho hộ gia đình bà Trịnh
Thị C đất 5% có diện tích 517m2 thửa số 28 tờ bản đồ số 4, bản đồ địa
chính năm 1990 tại khu K nay là tổ 33 phường L, quận M, Hà Nội.

Buộc hộ gia đình bà Trịnh Thị C phải trả lại cho hộ gia đình ông Nguyễn
Minh T đất khoán 10, diện tích 540m2 là một phần của thửa số 80 tờ bản
đồ số 42-A2 (gọi tắt là tờ số 2) bản đồ địa chính lập năm 1994 tại khu B, phường L, quận M, thành phố Hà Nội.

2. Buộc bà Trịnh Thị C phải thanh toán tiền công tôn tạo đất bao gồm đào
ao, tôn nền, cây trồng trên đất, tiền chuyển mồ mả tổng cộng là 112.817.000 đồng
(một trăm mười hai triệu tám trăm mười bảy nghìn đồng) trả cho ông Nguyễn Minh
T.

3. Buộc anh Nguyễn Minh Tr, chị Bùi Thanh H phải dỡ bỏ toàn bộ diện tích
nhà cấp 4 xây thô là 75,28m2 xây trên diện tích đất 517m2
thuộc thửa đất số 28 tờ bản đồ số 4, bản đồ địa chính năm 1990 để trả lại đất
cho hộ gia đình bà Trịnh Thị C. Anh Nguyễn Minh Tr, chị Bùi Thanh H không được
đền bù diện tích nhà bị dỡ bỏ.”

Ông Nguyễn Minh T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại Bản án phúc thẩm số 111/2008/DSPT ngày 27-11-2008, Toà án nhân dân
thành phố Hà Nội quyết định: giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Nguyễn Minh T có đơn khiếu nại đối với bản
án dân sự phúc thẩm nêu trên.

Tại Quyết định số 482/2011/KN-DS ngày 02-8-2011, Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao kháng nghị đối với bản án dân sự phúc thẩm nêu trên; đề nghị Tòa Dân sự
Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm và hủy
bản án dân sự sơ thẩm; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai xét
xử lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với
nội dung kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và sau khi thảo luận, Hội đồng xét xử
Tòa Dân sự nhất trí với nội dung kháng nghị nêu: có cơ sở để xác định việc đổi
đất giữa các bên là trên cơ sở tự nguyện, xuất phát từ nhu cầu sử dụng canh tác
của các bên. Sau khi đổi đất, hai bên đã đăng ký, kê khai, được ghi nhận tại Sổ
địa chính đối với diện tích đất đổi và trực tiếp canh tác, sử dụng ổn định,
liên tục từ năm 1992 cho đến nay, quá trình sử dụng đất ông Nguyễn Minh T đã di chuyển các ngôi mộ trên đất, cải tạo một
phần thành ao cá.

[2] Trong thực tế việc đổi đất có từ khoảng tháng 2-1992, tuy nhiên các
chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện các bên tiến hành làm thủ tục đăng ký, kê khai
các diện tích đất đã đổi tại chính quyền địa phương từ năm 1994, các thủ tục
khác như giao giấy tờ đất, kê khai tính thuế cũng từ năm 1994. Trong trường hợp
này, lẽ ra phải công nhận việc đổi đất là thực tế để công nhận các đương sự có
quyền sử dụng diện tích đất đã đổi mới đúng và phù hợp với thực tế. Tòa án cấp
sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào lời khai của bà Trịnh Thị C để xác định
các đương sự đổi đất tạm thời, từ đó xác định việc đổi đất là trái pháp luật để
hủy giao dịch đổi đất buộc các bên dỡ nhà giao trả đất cho nhau là không chính
xác, gây xáo trộn không cần thiết việc sử dụng đất của các đương sự.

Bởi các lẽ trên;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và Điều 299 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH:

Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 111/2008/DSPT ngày 27-11-2008 của
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và huỷ Bản án dân sự sơ thẩm số 17/2008/DSST
ngày 20-8-2008 của Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội về vụ án
“Tranh chấp hợp đồng đổi đất” giữa nguyên đơn là bà Trịnh Thị C với bị đơn là
ông Nguyễn Minh T.

Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xét
xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“[1] … Việc đổi đất giữa các bên là trên cơ sở tự nguyện,
xuất phát từ nhu cầu sử dụng canh tác của các bên. Sau khi đổi đất, hai bên đã
đăng ký, kê khai, được ghi nhận tại Sổ địa chính đối với diện tích đất đổi và
trực tiếp canh tác, sử dụng ổn định, liên tục từ năm 1992 cho đến nay, quá
trình sử dụng đất ông
Nguyễn Minh T đã di chuyển các ngôi
mộ trên đất, cải tạo một phần thành ao cá.

[2] Trong thực tế việc đổi
đất có từ khoảng tháng 2-1992, tuy nhiên các chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện
các bên tiến hành làm thủ tục đăng ký, kê khai các diện tích đất đã đổi tại
chính quyền địa phương từ năm 1994, các thủ tục khác như giao giấy tờ đất, kê
khai tính thuế cũng từ năm 1994. Trong trường hợp này, lẽ ra phải công nhận việc
đổi đất là thực tế để công nhận các đương sự có quyền sử dụng diện tích đất đã
đổi mới đúng và phù hợp với thực tế. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm
căn cứ vào lời khai của bà Trịnh Thị C để xác định các đương sự đổi đất tạm thời,
từ đó xác định việc đổi đất là trái pháp luật để hủy giao dịch đổi đất buộc các
bên dỡ nhà giao trả đất cho nhau là không chính xác, gây xáo trộn không cần thiết
việc sử dụng đất của các đương sự.”

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Án lệ số 13/2017/AL vềhiệu lực thanh toán của thư tín dụng (L/C) trong trường hợp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là cơ sở của L/C bị huỷ bỏ

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 14 tháng 12 năm 2017 và được công bố theo Quyết định số 299/QĐ-CA ngày 28 tháng 12 năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm số 17/2016/KDTM-GĐT ngày 10-11-2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” tại Thành phố Hồ Chí Minh giữa nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên A (do ông Nguyễn Duy T làm đại diện theo ủy quyền) với bị đơn Công ty B; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm Ngân hàng thương mại cổ phần E (do ông Hứa Anh K làm đại diện theo ủy quyền) và Ngân hàng N (do bà Nguyễn Thị V làm đại diện theo ủy quyền).

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 34 và Đoạn 36
phần “Nhận định của Toà án”.

Khái quát nội dung của án lệ:

– Tình
huống án lệ:

Hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế có thỏa thuận phương thức thanh toán bằng thư tín dụng (L/C),
thỏa thuận thực hiện L/C theo tập quán thương mại quốc tế (Quy tắc thực hành thống
nhất về tín dụng chứng từ lần thứ 6 năm 2007 (UCP 600) của Phòng Thương mại Quốc
tế) và phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam. Hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế là cơ sở của L/C bị hủy bỏ.

– Giải
pháp pháp lý:

Trường hợp này, Tòa án phải xác định thư tín dụng (L/C) không bị mất hiệu
lực thanh toán vì lý do hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tếlà cơ sở của
thư tín dụng (L/C) bị hủy bỏ.

Quy định của pháp luật có liên quan đến án lệ:

– Điều 3 Bộ luật
Dân sự năm 2005 (tương ứng với Điều 5 Bộ luật Dân sự năm 2015);

– Quyết định số
226/2002/QĐ-NHNN ngày 26-3-2002 của Ngân hàng Nhà nước về “Quy chế hoạt động
thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán”;

– Bản sửa đổi về
quy tắc thực hành thống nhất tín dụng chứng từ lần thứ 6 năm 2007 (UCP 600) của
Phòng Thương mại Quốc tế.

Từ khóa của án lệ:

“Thư tín dụng”; “L/C”; “UCP 600”; “Tập quán thương mại quốc tế”; “Hợp đồng
mua bán hàng hóa”; “Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế”; “Hợp đồng bị huỷ bỏ”.

NỘI
DUNG VỤ ÁN:

Tại đơn khởi kiện đề ngày 15-9-2011, đơn khởi kiện sửa đổi bổ sung ngày
22-9-2011 và quá trình tố tụng, nguyên đơn do bà Mai Thị Tuyết N – người đại diện
hợp pháp của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên A trình bày:

Ngày 07-6-2011,
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên A (gọi tắt là Bên mua, Công ty A) và
Công ty B (gọi tắt là Bên bán) có ký hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế số
FARCOM/RCN/IVC/036/2011 ngày 07-6-2011 (gọi tắt là Hợp đồng mua bán ngày
07-6-2011). Theo nội dung Hợp đồng mua bán ngày 07-6-2011, Bên mua mua hạt điều
thô nguồn gốc lvory Coast, số lượng là 1000 tấn x 1.385,50 USD/tấn theo phương
thức thanh toán 98% L/C trả chậm trong vòng 90 ngày kể từ ngày giao hàng dựa
trên vận tải đơn (B/L) theo tiêu chuẩn chất lượng như sau:

– Thu hồi 47
lbs/80kg và có quyền từ chối nhận hàng khi thu hồi dưới 45 lbs/80kg.

– Hạt: số hạt tối
đa là 205/kg. Từ chối là 220 hạt/kg.

– Độ ẩm tối đa là
10%. Từ chối độ ẩm là trên 12%.

Hàng hóa sẽ được
Vinacontrol giám định chất lượng và khối lượng tại thời điểm giao hàng tại Cảng
đến là Thành phố Hồ Chí Minh.

Phương thức thanh
toán tín dụng chứng từ (L/C) trả chậm trong vòng 90 ngày, nên ngày 07-7-2011,
Bên mua đã yêu cầu Ngân hàng Thương mại Cổ phần E chi nhánh Đ mở L/C trả chậm số
1801ILUEIB110002 (sau đây gọi tắt là L/C số 1801) để Bên mua hoàn thiện thủ tục
mua lô hàng từ Bên bán.

Sau khi nhận hàng,
theo Điều 8 của Hợp đồng, Bên mua đã kiểm tra lại chất lượng và khối lượng lô
hàng tại Cảng dỡ hàng là Cảng Cát Lái Thành phố Hồ Chí Minh với sự giám sát của
Vinacontrol thì phát hiện hàng hóa của Bên bán không đảm bảo chất lượng. Cụ thể
theo hai chứng thư của Vinacontrol số 11G04HN05957-01 và số 11G04HN05939-01
ngày 31-8-2011 giám định về khối lượng, phẩm chất và tình trạng hàng hóa thì kết
quả giám định thể hiện tỷ lệ bình quân nhân thu hồi hạt điều cho hai lần cắt mẫu
hạt điều là 37,615 1bs/80kg (tỷ lệ này quá thấp so với điều kiện để từ chối gần
10 1bs). Trước sự việc gian lận thương mại đó, Bên mua đã nhiều lần cố gắng
liên lạc với Bên bán để giải quyết vấn đề phát sinh về chất lượng lô hàng hạt
điều nhập khẩu nhưng không nhận được bất cứ phản hồi nào từ phía Bên bán.

Do đó, ngày
15-9-2011 Bên mua nộp đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
yêu cầu Tòa án buộc Bên bán nhận lại lô hàng hạt điều 1.000 tấn vì chất lượng nhân
thu hồi nằm trong điều kiện từ chối nhận hàng của Hợp đồng là dưới 45 lbs,
không đồng ý thanh toán tiền mua hàng, đồng thời yêu cầu Tòa án áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời buộc Ngân hàng Thương mại Cổ phần E tạm ngưng thanh toán
cho Bên bán số tiền 1.313.308,85 USD của L/C số 1801 theo cam kết thanh toán của
Bên mua cho đến khi có quyết định khác của Tòa án.

Ngày 12-8-2013 Bên
mua đã đóng tiền tạm ứng án phí cho yêu cầu khởi kiện bổ sung là yêu cầu hủy bỏ
Hợp đồng mua bán ngày 07-6-2011, đồng thời yêu cầu hủy bỏ L/C số 1801.

Tại phiên tòa sơ thẩm
nguyên đơn đề nghị:

1. Hủy bỏ Hợp đồng
mua bán ngày 07-6-2011.

2. Buộc Bên bán phải
đến kho Bên mua tại địa chỉ ấp C2, quốc lộ 1A, xã C, huyện L, tỉnh Đồng Nai
ngay khi án có hiệu lực pháp luật để nhận lại toàn bộ lô hàng theo Hợp đồng đã
giao. Sau 30 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, nếu Bên bán không đến
kho của Bên mua để nhận lại lô hàng thì Thi hành án có quyền bán lô hàng trên,
để trả lại mặt bằng kho cho Bên mua.

3. Hủy nghĩa vụ
thanh toán của Bên mua đối với L/C số 1801 và yêu cầu Ngân hàng Thương mại Cổ
phần E hoàn trả ngay số tiền ký quỹ để bảo đảm thanh toán L/C là 1.313.308,85
USD cho nguyên đơn.

4. Yêu cầu Tòa án
tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 101/2011/QĐ-BPKCTT
ngày 23-9-2011 cho đến khi bản án phát sinh hiệu lực. Đồng thời cho Bên mua nhận
lại số tiền 1.500.000.000 đồng mà Bên mua đã thực hiện đảm bảo theo Quyết định
của Tòa tại Ngân hàng T chi nhánh P khi bản án phát sinh hiệu lực.

Bị đơn là Công ty B (Bên bán) có trụ sở ở nước
ngoài và đã được Tòa án tống đạt hợp lệ cho Bên bán thông qua Bộ Tư pháp Việt
Nam theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tương trợ tư pháp 2007
và Thông tư liên tịch số 15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 15-9-2011 nhưng Bên
bán vẫn vắng mặt, không có ý kiến phản hồi.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ngân hàng Thương mại Cổ phần E
trình bày:

Theo yêu cầu của
Bên mua, ngày 07-7-2011, Ngân hàng Thương mại Cổ phần E chi nhánh Đ đã phát
hành L/C số 1801 với nội dung như sau:

– Giá trị L/C
1.357.790 USD

– Mục đích nhập khẩu
1.000 tấn hạt điều thô từ Bờ Biển Ngà;

– Ngân hàng thụ hưởng:
Ngân hàng N, Singapore.

– Người thụ hưởng:
Công ty B.

– L/C trả chậm mở
theo UCP 600; với điều khoản có thể xác nhận.

– Biện pháp bảo đảm:
bảo lãnh của bên thứ ba, TSBĐ; thẻ tiết kiệm.

– Ngày đến hạn
thanh toán: ngày 29-9-2011 (961.813,66 USD) và ngày 17-10-2011 (351.495,19USD).

Sau khi nhận được bộ
chứng từ hợp lệ, Bên mua đã ký nhận thanh toán đủ giá trị và đúng hạn đối với
L/C. Căn cứ xác nhận của Bên mua, Ngân hàng Thương mại Cổ phần E chi nhánh Đ đã
ký chấp nhận hối phiếu.

Trên cơ sở đã xác
nhận L/C, căn cứ vào tình trạng bộ chứng từ, Ngân hàng N đã chiết khấu miễn
truy đòi cho Bên bán đối với 03 bộ chứng từ trị giá 1.313.308,85 USD vào ngày
25-7, 28-7 và ngày 08-8-2011.

Theo nội dung L/C
đã phát hành thì L/C được chi phối và áp dụng theo “Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ” phiên bản mới nhất
(hiện nay là UCP 600). Theo quy định của UCP 600, Ngân hàng Thương mại Cổ phần
E với tư cách là Ngân hàng phát hành cam kết thanh toán dựa trên bộ chứng từ và
cam kết thanh toán, đồng nghĩa với việc Bên mua đã thanh toán cho Bên bán. Căn
cứ bộ chứng từ hợp lệ và chấp nhận thanh toán của Bên mua, Ngân hàng Thương mại
Cổ phần E đã ký chấp nhận hối phiếu. Ngân hàng N đã chiết khấu miễn truy đòi
Bên bán đối với 03 bộ chứng từ của L/C nêu trên.

Ngân hàng Thương mại
Cổ phần E không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu Tòa án hủy bỏ
L/C số 1801 và yêu cầu buộc Ngân hàng Thương mại Cổ phần E hoàn trả ngay số tiền
ký quỹ là 1.313.308,85 USD cho nguyên đơn. Ngân hàng Thương mại Cổ phần E đề
nghị Tòa án hủy bỏ ngay Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số
101/2011/QĐ-BPKCTT ngày 23-9-2011 để Ngân hàng Thương mại Cổ phần E thanh toán
cho Ngân hàng N theo đúng thỏa thuận tại L/C.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ngân hàng N trình bày:

Căn cứ Hợp đồng mua
bán ngày 07-6-2011 và L/C số 1801 thì Ngân hàng N (chi nhánh tại Singapore) là
Ngân hàng chỉ định của Bên bán để thực hiện thư tín dụng đảm bảo thanh toán do
Ngân hàng Thương mại Cổ phần E phát hành.

Phù hợp với nội
dung của Quy tắc UCP 600, Ngân hàng N đã chiết khấu bộ chứng từ hợp lệ được xuất
trình bởi Bên bán và đã thanh toán giá trị của thư tín dụng cho Bên bán vào
ngày 25-7-2011, ngày 28-7-2011 và ngày 08-8-2011. Như vậy, Ngân hàng N đã mua
L/C số 1801 cùng các chứng từ có liên quan một cách hợp pháp và trở thành người
thụ hưởng trực tiếp toàn bộ và bất cứ khoản thanh toán nào của thư tín dụng
này. Sau khi bộ chứng từ được xuất trình theo đúng quy định của thư tín dụng
nên trên, Ngân hàng Thương mại Cổ phần E đã xác nhận chấp nhận bộ chứng từ và
cam kết sẽ thanh toán cho Ngân hàng N vào ngày 29-9-2011 và 17-10-2011 nhưng việc
thanh toán đã không được tiến hành do Bên mua đề nghị và Tòa án đã ban hành Quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 101/2011/QĐ-BPKCTT ngày 23-9-2011.

Ngân hàng N yêu cầu
Tòa án hủy bỏ ngay Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số
101/2011/QĐ-BPKCTT ngày 23-9-2011 và yêu cầu Bên mua phải bồi thường thiệt hại
gây ra cho Ngân hàng N từ hành vi yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
trái pháp luật khiến Ngân hàng N không nhận được thanh toán giá trị thư tín dụng
nêu trên từ Ngân hàng Thương mại Cổ phần E. Khoản tiền Ngân hàng N yêu cầu bồi
thường thiệt hại là khoản tiền lãi vay mà Ngân hàng N hiện đang phải trả dựa
trên tổng số tiền phải thanh toán theo 03 bộ chứng từ xuất trình phù hợp cho
Ngân hàng Thương mại Cổ phần E tương ứng với thời gian chậm thanh toán được
tính từ ngày đến hạn thanh toán theo cam kết của Ngân hàng Thương mại Cổ phần E
(ngày 29-9-2011) đến ngày Ngân hàng N nộp Đơn yêu cầu tham gia tố tụng trong vụ
kiện và dựa trên lãi suất vay Đôla Mỹ không kỳ hạn của liên ngân hàng tại thời
điểm nộp đơn (3,8%/12 tháng). Tổng số tiền thiệt hại mà Ngân hàng N yêu cầu Bên
mua bồi thường là 33.270,49 USD tương đương 694.188.774 VNĐ.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 356/2014/KDTM-ST ngày
07-4-2014, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minhquyết định:

“1. Hủy bỏ Hợp đồng mua bán số FARCOM/RCN/IVC/036/2011 ngày 07-6-2011
giữa Bên bán là Công ty B và Bên mua là Công ty TNHH một thành viên A.

Buộc Công ty B nhận
lại toàn bộ lô hàng hạt điều thô lvory Coast số lượng là 1.000 tấn đã giao theo
Hợp đồng mua bán số FARCOM/RCN/IVC/036/2011 để tại địa chỉ: kho Công ty TNHH một
thành viên A ấp C2, quốc lộ 1A, xã C, huyện L, tỉnh Đồng Nai. Sau 30 ngày kể từ
ngày bản án có hiệu lực pháp luật, nếu Công ty B không đến nhận lại lô hàng
trên thì cơ quan Thi hành án có quyền bán phát mãi lô hàng theo quy định của
pháp luật trả lại mặt bằng kho cho Công ty TNHH một thành viên A.

2. L/C trả chậm số
1801ILUEIB110002 do Ngân hàng Thương mại Cổ phần E chi nhánh Đ phát hành ngày
07-7-2011 không còn hiệu lực thanh toán. Ngân hàng Thương mại Cổ phần E không
có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng N theo L/C trả chậm số
1801ILUEIB110002  do Ngân hàng Thương mại
Cổ phần E chi nhánh Đ phát hành ngày 07-7-2011.

Buộc Ngân hàng
Thương mại Cổ phần E phải hoàn trả cho Công ty TNHH một thành viên A tài sản bảo
đảm cho việc thanh toán L/C là số tiền ký quỹ 1.313.308,85 USD.

3. Tiếp tục duy trì
biện pháp khẩn cấp tạm thời áp dụng tại Quyết định số 101/2011/QĐ-BPKCTT ngày
23-9-2011 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và biện pháp bảo đảm áp dụng
tại Quyết định số 100/2011/QĐ-BPĐB ngày 23-9-2011 của Tòa án nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh cho đến khi bản án có hiệu lực pháp luật. Công ty TNHH một thành
viên A được nhận lại toàn bộ số tiền 1.500.000.000đ (một tỉ năm trăm triệu đồng)
ký quỹ trong tài khoản phong tỏa số 1022130.3441.012 tại Ngân hàng T chi nhánh
P mà Công ty TNHH một thành viên A đã thực hiện gửi tài sản đảm bảo theo Quyết
định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm số 100/2011/QĐ-BPĐB ngày 23-9-2011 của
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh khi bản án có hiệu lực pháp luật.

4. Không chấp nhận
yêu cầu của Ngân hàng N đòi Công ty TNHH một thành viên A phải bồi thường thiệt
hại với số tiền là 33.270,49 USD tương đương với 694.188.774 VNĐ”.

Ngoài ra, bản án
còn tuyên về án phí, lãi suất trả chậm và thời hạn kháng cáo.

Ngày 21-4-2014, Ngân hàng Thương mại Cổ phần E có đơn
kháng cáo toàn bộ nội dung Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm nêu trên.

Tại Quyết định đình
chỉ xét xử phúc thẩm số 29/2015/QĐPT-KDTM ngày 26-8-2015, Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

1. Đình chỉ xét xử
phúc thẩm vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 40/2014/TLKDTM-PT ngày
18-8-2014 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”.

 2. Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số
356/2014/KDTM-ST ngày 07-4-2014 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có hiệu
lực pháp luật kể từ ngày 26-8-2015.

Ngoài ra, Tòa án
còn quyết định về án phí.

Ngày 10-9-2015,
Ngân hàng Thương mại Cổ phần E có đơn đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
xem xét Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm và Quyết định đình chỉ xét xử phúc
thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Quyết định số
11/2016/KN-KDTM ngày 07-3-2016, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Quyết
định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án kinh doanh thương mại số 29/2015/QĐPT-KDTM
ngày 26-8-2015 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Quyết định đình
chỉ xét xử phúc thẩm số 29/2015/QĐPT-KDTM ngày 26-8-2015 của Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và hủy Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 356/2014/KDTM-ST ngày 07-4-2014 của
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm đúng quy định của
pháp luật.

Tại phiên toà giám
đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

 [1]Ngày
07-6-2011, Công ty TNHH một thành viên A (Bên mua) và Công ty B (Bên bán) có ký
Hợp đồng mua bán ngày 07-6-2011 với nội dung: Bên mua mua 1.000 tấn hạt điều với
phương thức thanh toán 98% L/C trả chậm trong vòng 90 ngày, kể từ ngày giao
hàng dựa trên vận đơn.

[2] Thực hiện hợp đồng
nêu trên, Công ty A đã yêu cầu và nộp số tiền ký quỹ là 1.313.308,85 USD để
Ngân hàng Thương mại Cổ phần E phát hành L/C số 1801.

[3] Khi hàng về đến
cảng Thành phố Hồ Chí Minh, Bên mua đã yêu cầu Vinacontrol Thành phố Hồ Chí
Minh giám định phẩm chất và chất lượng hàng hóa theo Điều 8, Điều 11 của hợp đồng.

[4] Theo Chứng thư
giám định về khối lượng, phẩm chất và tình trạng hàng hóa ngày 31-8-2011 của
Vinacontrol xác định: Tỷ lệ nhân hạt điều thu hồi cho 2 lần cắt mẫu: Lần 1 là
38,2 lbs/80kg; Lần 2 là 37,03 lbs/80kg.

[5] Do tỷ lệ nhân hạt
điều thu hồi thấp hơn so với thỏa thuận của Hợp đồng, nên Bên mua đã khiếu nại
bằng hình thức mail cho Bên bán nhưng Bên bán không hợp tác. Vì vậy, Bên mua khởi
kiện yêu cầu hủy Hợp đồng mua bán ngày 07-6-2011, trả lại toàn bộ lô hàng cho
Bên bán và hủy bỏ nghĩa vụ thanh toán theo L/C số 1801 do Ngân hàng Thương mại
Cổ phần E  phát hành ngày 07-7-2011 và
yêu cầu Ngân hàng Thương mại Cổ phần E hoàn trả lại số tiền ký quỹ là
1.313.308,85 USD để đảm bảo thanh toán L/C số 1801 ngày 07-7-2011.

[6] Căn cứ vào các
tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, thấy rằng: Hình thức và nội dung của Hợp
đồng mua bán ngày 07-6-2011 không vi phạm quy định của pháp luật, phù hợp với
các quy định tại các Điều, Khoản, Mục 2 về quyền, nghĩa vụ của các bên trong hợp
đồng mua bán hàng hóa của Luật Thương mại năm 2005; tại Điều 15 của hợp đồng,
hai bên thỏa thuận khi có tranh chấp áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết.

[7] Quá trình giải
quyết, Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng thủ tục ủy thác tư pháp trong việc
triệu tập bị đơn (Bên bán), thông báo cho bị đơn biết yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn; đồng thời, yêu cầu bị đơn gửi văn bản cho biết ý kiến của bị đơn về
yêu cầu khởi kiện; mặc dù bị đơn đã nhận được các văn bản triệu tập và thông
báo này nhưng bị đơn không có ý kiến phản đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn.

[8] Căn cứ vào 02
Chứng thư giám định của Vinacontrol do Bên mua xuất trình, có cơ sở để xác định
bên bán đã có lỗi giao hàng không phù hợp với Hợp đồng mua bán ngày 07-6-2011,
nên theo Điều 39 Luật Thương mại, Bên mua có quyền từ chối nhận hàng. Mặt khác,
sau khi có chứng thư giám định của Vinacontrol, Bên mua đã khiếu nại về chất lượng
hàng hóa nhưng Bên bán không hợp tác. Do Bên bán giao hàng không đúng chất lượng
như đã thỏa thuận trong Hợp đồng làm cho Bên mua không đạt được mục đích của việc
giao kết Hợp đồng, nên có cơ sở xác định Bên bán đã vi phạm cơ bản nghĩa vụ của
Hợp đồng. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên hủy bỏ Hợp đồng là có căn cứ đúng
quy định tại khoản 13 Điều 3, Điều 312 Luật Thương mại. Tuy nhiên, khi giải quyết
hậu quả pháp lý của việc hủy bỏ hợp đồng, Tòa án cấp sơ thẩm chưa giải quyết việc
buộc Bên bán phải trả lại tiền đã nhận (nếu có) và bồi thường thiệt hại cho Bên
mua là chưa giải quyết đúng vụ án.

[9] Đối với việc giải
quyết về yêu cầu hủy bỏ L/C số 1801:

 [10] Căn cứ theo đề nghị mở L/C trả chậm của
Bên mua, Ngân hàng Thương mại Cổ phần E Chi nhánh Đ đã mở L/C số 1801 ngày
07-7-2011, cụ thể:

[11] – Giá trị L/C:
1.357.790 USD;

[12] – Hình thức của
chứng từ: Không hủy ngang;

[13] – Mục đích:
mua 1.000 tấn hạt điều thô từ Bờ Biển Ngà;

[14] – Ngân hàng thụ
hưởng: Ngân hàng N, Singapore;

[15] – Người thụ hưởng:
Công ty B;

[16] – Người yêu cầu:
Công ty A;

[17] – Quy tắc áp dụng:
UCP phiên bản mới nhất.

[18] Sau đó, Ngân
hàng Thương mại Cổ phần E đã nhận được 03 bộ chứng từ đòi tiền từ Ngân hàng N,
với tổng giá trị 1.313.308,85 USD, cụ thể:

[19] Ngày
25-7-2011: Bộ chứng từ 961.813,66 USD, đáo hạn ngày 29-9-2011;

[20] Ngày
29-7-2011: Bộ chứng từ 312.517,11 USD, đáo hạn ngày 17-10-2011;  

[21] Ngày
09-8-2011: Bộ chứng từ 38.978,08 USD, đáo hạn ngày 17-10-2011.

[22] Sau khi nhận
được các bộ chứng từ phù hợp với điều kiện L/C, Ngân hàng Thương mại Cổ phần E
đã gửi Công văn và các bộ chứng từ cho Bên mua và được Bên mua xác nhận “Đã nhận
đủ chứng từ và cam kết thanh toán đủ trị giá, đúng hạn như trên; trên cơ sở đó,
Ngân hàng Thương mại Cổ phần E đã điện báo chấp nhận thanh toán hối phiếu vào
ngày đáo hạn của 03 bộ chứng từ nêu trên cho Ngân hàng N.

[23] Theo quy định
pháp luật Việt Nam về thanh toán chứng từ, thì:

[24] Tại khoản 4 Điều
3 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, quy định: “Tổ chức, cá nhân tham gia hoạt
động ngân hàng được quyền thỏa thuận áp dụng tập quán thương mại, bao gồm: Tập
quán thương mại quốc tế do Phòng Thương mại Quốc tế ban hành; tập quán thương mại
khác không trái với pháp luật Việt Nam”.

[25] Tại khoản 1 Điều
16 Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26-3-2002 của Ngân hàng Nhà nước về “Quy
chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung cứng dịch vụ thanh toán” quy định:
“Thư tín dụng là một văn bản cam kết có điều kiện được Ngân hàng mở theo yêu cầu
của người sử dụng dịch vụ thanh toán (người xin mở thư tín dụng) để:

[26] Trả tiền hoặc ủy
quyền cho ngân hàng khác trả tiền ngay theo lệnh của người thụ hưởng khi nhận
được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện của thư tín dụng; hoặc chấp
nhận sẽ trả tiền hoặc ủy quyền cho ngân hàng khác trả tiền theo lệnh của người
thụ hưởng vào một thời điểm nhất định trong tương lai khi nhận được bộ chứng từ
xuất trình phù hợp với các điều kiện thanh toán của thư tín dụng”.

[27] Tại khoản 1 Điều
19 của Quyết định 226 nêu trên quy định: “Thanh toán bằng thư tín dụng: Việc mở,
phát hành, sửa đổi, thông báo, xác nhận, kiểm tra chứng từ, thanh toán và quyền,
nghĩa vụ của các bên liên quan trong thanh toán thư tín dụng thực hiện theo quy
tắc chung về tín dụng chứng từ do Phòng Thương mại Quốc tế ICC ban hành, do các
bên tham gia thỏa thuận và theo quy định của pháp luật Việt Nam”.

[28] Mặt khác, tại
thư đề nghị mở L/C của Bên mua có thỏa thuận: Quy tắc áp dụng là UCP phiên bản
mới nhất. Theo Bản sửa đổi về quy tắc thực hành thống nhất tín dụng chứng từ lần
thứ 6 năm 2007 của Phòng Thương mại Quốc tế (UCP 600) thì:

[29] “Tín dụng thư
là một sự thỏa thuận, dù cho được mô tả hoặc đặt tên thế nào, là không thể hủy
bỏ và theo đó là một sự cam kết chắc chắn của Ngân hàng phát hành để thanh toán
khi xuất trình chứng từ phù hợp” (Điều 2).

[30] “Về bản chất,
tín dụng là một giao dịch riêng biệt với Hợp đồng mua bán và các hợp đồng khác
là cơ sở của tín dụng. Các Ngân hàng không liên quan đến hoặc ràng buộc bởi các
hợp đồng như thế, thậm chí ngay cả khi tín dụng có dẫn chiếu đến các hợp đồng
như thế. Vì vậy, sự cam kết của một Ngân hàng để thanh toán hoặc thương lượng
thanh toán,… không phụ thuộc vào khiếu nại hoặc biện hộ của người yêu cầu phát
hành tín dụng phát sinh từ các quan hệ của họ với Ngân hàng phát hành hoặc người
thụ hưởng” (Điều 4).

[31] “Ngân hàng
giao dịch với chứng từ chứ không phải bằng hàng hóa, dịch vụ hoặc các thực hiện
khác mà các chứng từ có liên quan” (Điều 5).

[32] “Ngân hàng
phát hành bị ràng buộc không thể hủy bỏ đối với việc thanh toán từ thời điểm
Ngân hàng phát hành L/C” (Điều 7).

[33] “Khi ngân hàng
phát hành xác định việc xuất trình là phù hợp, thì nó phải thanh toán” (Điều
15a).

[34] Như vậy, theo
đơn đề nghị mở L/C của Bên mua và nội dung L/C đã phát hành thì L/C số 1801 là
một giao dịch riêng biệt đối với Hợp đồng mua bán hàng hóa ngày 07-6-2011; được
chi phối và áp dụng theo UCP 600. Theo quy định của UCP 600, Ngân hàng Thương mại
Cổ phần E với tư cách là Ngân hàng phát hành phải thanh toán khi xác định bộ chứng
từ xuất trình là phù hợp tại Ngân hàng.

[35] Về bộ chứng từ
của L/C nêu trên quy định: Bộ chứng từ bao gồm Giấy chứng nhận trọng lượng và
chất lượng được giám định viên độc lập cấp (không quy định hàng hóa phải được
kiểm định lại tại cảng đến bởi một cơ quan kiểm định nào). Trong bộ chứng từ xuất
trình đã có Giấy chứng nhận trọng lượng và chất lượng được giám định viên độc lập
nước ngoài cấp là phù hợp với quy định L/C; đồng thời, Bên mua đã ký chấp nhận
bộ chứng từ và cam kết thanh toán đủ giá trị, đúng hạn, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm
lại căn cứ vào kết luận giám định của Vinacontrol Thành phố Hồ Chí Minh (tại cảng
đến) để kết luận bộ chứng từ không hợp lệ là không đúng với quy định tại L/C và
cam kết của Bên mua.

[36] Quá trình giải
quyết vụ án, Ngân hàng N cho rằng đã chiết khấu bộ chứng từ hợp lệ và thanh
toán cho Bên bán vào ngày 25-7-2011, ngày 28-7-2011 và ngày 08-8-2011, đồng thời
xuất trình các thông báo chiết khấu hóa đơn xuất khẩu để minh chứng cho việc đã
thanh toán tiền cho Bên bán. Tuy nhiên, ngoài tài liệu này, Ngân hàng N không
xuất trình được bất kỳ tài liệu, giấy tờ nào khác thể hiện việc đã thanh toán
tiền cho Bên bán. Do đó, trong trường hợp này, lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm phải
thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định Ngân hàng N đã trả tiền cho Bên
bán hay chưa? Nếu đã trả tiền thì số lượng tiền trả là bao nhiêu? Trường hợp nếu
Ngân hàng N đã trả tiền cho Bên bán theo L/C số 1801 thì Ngân hàng Thương mại Cổ
phần E phải giải quyết theo yêu cầu của Ngân hàng N. Do những vấn đề nêu trên
chưa được làm rõ, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại cho rằng phương thức thanh toán
bằng L/C số 1801 là một phần không thể tách rời của Hợp đồng mua bán hàng hóa
ngày 07-6-2011; do vậy, khi hợp đồng này bị hủy toàn bộ thì các bên không phải
tiếp tục thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng; từ đó quyết định L/C
số 1801 không còn hiệu lực thanh toán và Ngân hàng Thương mại Cổ phần E không
có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng N theo L/C nêu trên; đồng thời buộc Ngân
hàng Thương mại Cổ phần E phải trả cho bên mua số tiền ký quỹ là 1.313.308,85
USD là chưa đủ cơ sở và chưa đúng với các quy định tại UCP 600.

[37] Sau khi xét xử
sơ thẩm, Ngân hàng Thương mại Cổ phần E kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm nêu
trên. Tòa án cấp phúc thẩm đã ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử và tống đạt Giấy
triệu tập đương sự tham gia phiên tòa vào các ngày 25-9-2014, ngày 27-10-2014,
ngày 31-10-2014, ngày 16-4-2015 nhưng các phiên tòa này đều hoãn vì các lý do
khác nhau như: Vắng mặt đương sự, vắng mặt đại diện Viện kiểm sát, cần thời
gian thực hiện ủy thác tư pháp,…

[38] Tại Quyết định
số 09/2015/QĐPT-KDTM ngày 29-5-2015, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm để tiến hành thủ
tục ủy thác tư pháp trong việc triệu tập Công ty B tham gia phiên tòa phúc thẩm.

[39] Tại Quyết định
không số ngày 10-8-2015, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết
định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm vào ngày 26-8-2015.

[40] Ngày
19-8-2015, Ngân hàng Thương mại Cổ phần E nhận được Giấy triệu tập tham dự
phiên tòa nêu trên; ngày 24-8-2015 Ngân hàng Thương mại Cổ phần E có đơn xin hoãn
phiên tòa với lý do người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng Thương mại Cổ phần
E là ông Hứa Anh K đang đi công tác. Tại phiên tòa ngày 26-8-2015, Tòa án cấp
phúc thẩm không chấp nhận đơn xin hoãn phiên tòa của ông K mà cho rằng Ngân
hàng Thương mại Cổ phần E (người kháng cáo) đã được triệu tập hợp lệ lần thứ
hai nhưng vẫn vắng mặt, từ đó ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.

[41] Việc Tòa án
nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định đình chỉ xét xử phúc
thẩm nêu trên là không đúng quy định của pháp luật, vì tại khoản 2 Điều 13 Nghị
quyết số 06/2012/NQ-HĐTP ngày 03-12-2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao quy định: “Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án
dân sự, thì thời hạn chuẩn bị xét xử kết thúc vào ngày ra quyết định tạm đình
chỉ. Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm bắt đầu tính lại kể từ ngày Tòa án cấp
phúc thẩm tiếp tục xét xử phúc thẩm vụ án khi lý do tạm đình chỉ không còn nữa”.
Như vậy, do có Quyết định tạm đình chỉ vụ án trên, nên khi Tòa án cấp phúc thẩm
tiếp tục xét xử phúc thẩm vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm bắt đầu
được tính lại kể từ ngày Tòa cấp phúc thẩm ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử (tức
là ngày 10-8-2015). Do đó, phiên tòa phúc thẩm ngày 26-8-2015 mà người kháng
cáo (Ngân hàng Thương mại Cổ phần E) vắng mặt thì đây được coi là người kháng
cáo được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà vắng mặt thì dù có lý do chính
đáng hay không có lý do chính đáng,Tòa án phải hoãn phiên tòa theo quy
định tại Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 và Điều 16
Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP ngày 03-12-2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao. Tuy nhiên,Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng đại diện của
Ngân hàng Thương mại Cổ phần E đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng
mặt không vì lý do bất khả kháng, từ đó ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm
là không đúng; việc Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm
là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự.

Bởi các lẽ trên,
căn cứ khoản 2 Điều 337, khoản 3 Điều 343, Điều 345 Bộ luật Tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH:

1- Chấp nhận Quyết
định kháng nghị số 11/2016/KN-KDTM ngày 07-3-2016 của Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao.

2- Hủy Quyết định
đình chỉ xét xử phúc thẩm số 29/2015/QĐPT-KDTM ngày 26-8-2015 của Tòa án nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 356/2014/KDTM-ST ngày 07-4-2014 của
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

3- Giao hồ sơ vụ án
cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm đúng
quy định của pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“[34] Như vậy, theo đơn đề nghị mở L/C của Bên mua và nội dung L/C đã
phát hành thì L/C số 1801 là một giao dịch riêng biệt đối với Hợp đồng mua bán
hàng hóa ngày 07-6-2011; được chi phối và áp dụng theo UCP 600. Theo quy định của
UCP 600, Ngân hàng Thương mại Cổ phần E với tư cách là Ngân hàng phát hành phải
thanh toán khi xác định bộ chứng từ xuất trình là phù hợp tại Ngân hàng…

[36]…Tòa án cấp sơ thẩm lại cho rằng phương thức thanh toán bằng L/C số
1801 là một phần không thể tách rời của Hợp đồng mua bán hàng hóa ngày
07-6-2011; do vậy, khi hợp đồng này bị hủy toàn bộ thì các bên không phải tiếp
tục thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng; từ đó quyết định L/C số
1801 không còn hiệu lực thanh toán và Ngân hàng Thương mại Cổ phần E không có
nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng N theo L/C nêu trên; đồng thời buộc Ngân hàng
Thương mại Cổ phần E phải trả cho bên mua số tiền ký quỹ là 1.313.308,85 USD là
chưa đủ cơ sở và chưa đúng với các quy định tại UCP 600”.

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Án lệ số 14/2017/AL về công nhận điều kiện của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất mà điều kiện đó không được ghi trong hợp đồng

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 14 tháng 12 năm 2017 và được công bố theo Quyết định số 299/QĐ-CA ngày 28 tháng 12 năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm số 02/2011/DS-GĐT ngày 17-01-2011 của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” tại tỉnh Điện Biên giữa nguyên đơn là ông Quàng Văn P1 với bị đơn là anh Quàng Văn P2, chị Phan Thị V.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 10, 11 và 12
phần “Nhận định của Toà án”.

Khái quát nội dung của án lệ:

– Tình
huống án lệ:

Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất không ghi điều kiện tặng cho nhưng tại
các văn bản, tài liệu khác có liên quan thể hiện các bên đã có thỏa thuận, thống
nhất về điều kiện tặng cho và điều kiện tặng cho là hợp pháp.

– Giải
pháp pháp lý:

Trường hợp này, Tòa
án phải công nhận điều kiện của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và xác định hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đó
là hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện.

Quy định của pháp luật có liên quan đến án lệ:

Điều 125, Điều 126
và Điều 470 Bộ luật Dân sự năm 2005 (tương ứng với Điều 120, Điều 121 và Điều
462 Bộ luật Dân sự năm 2015).

Từ khóa của án lệ:

“Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất”; “Giao dịch dân sự có điều kiện”; “Tặng cho tài sản có điều kiện”.

NỘI
DUNG VỤ ÁN:

Tại đơn khởi kiện đề ngày 27-12-2006, ngày 10-01-2007 và trong quá trình
giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông Quàng Văn P1 và chị Quàng Thị N trình bày:

Năm 2003, Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên cấp cho ông 72m2 đất mặt đường quốc lộ 279 (theo Quyết định số 1487 ngày 25-9-2003). Ngày
24-12-2003, ông lập thủ tục chuyển quyền sử dụng đất cho vợ chồng anh Quàng Văn P2 (là con trai của ông) và chị Phan Thị V (là con dâu của ông) diện tích đất nêu trên.
Ngày 06-12-2003, ông lại lập hợp đồng chuyển quyền sở hữu đất nhà ở cho anh Quàng Văn P2, chị Phan Thị V diện tích đất nêu trên, có xác nhận của Ủy ban
nhân dân phường T, thành phố P, tỉnh Điện Biên.

Năm 2005, giữa ông và chị Quàng Thị N (là con gái của ông) có tranh chấp diện tích đất này
nên tại Bản án dân sự phúc thẩm số 08/DSPT ngày 24-8-2005, Tòa án nhân dân tỉnh
Điện Biên đã buộc chị Quàng Thị N phải trả cho ông diện tích đất nêu trên.

Ngày 12-6-2006, Ủy
ban nhân dân thành phố P, tỉnh Điện Biên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho ông.

Ngày 27-10-2006,
ông làm hợp đồng tặng cho anh Quàng Văn P2 (là con trai của ông) với điều kiện
anh Quàng Văn P2 phải xây nhà cho ông ở.

Khi ông hoàn tất thủ
tục sang tên theo hợp đồng tặng cho, anh Quàng Văn P2 đã không thực hiện việc
xây nhà như đã hứa mà còn yêu cầu ông ra thị trấn M, huyện G ở nên yêu cầu hủy
hợp đồng tặng cho đất vì anh Quàng Văn P2, chị Phan Thị V không thực hiện điều
kiện đã cam kết.

Bị đơn là anh Quàng
Văn P2 và chị Phan Thị V trình bày: Ông Quàng Văn P1 (là bố của anh) đã tặng
cho vợ chồng anh diện tích đất nêu trên từ khi ông Quàng Văn P1 còn minh mẫn, tỉnh
táo. Nay ông Quàng Văn P1 không còn minh mẫn thì chị Quàng Thị N (là chị gái của
anh) ép ông Quàng Văn P1
làm đơn hủy hợp đồng tặng cho. Việc bố cho anh đất không có điều kiện và cam kết
gì nên không chấp nhận theo yêu cầu của nguyên đơn.

Tại Bản án dân sự
sơ thẩm số 03/2007/DSST ngày 30-6-2007, Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ,
tỉnh Điện Biên quyết định:

Không chấp nhận yêu
cầu của ông Quàng Văn P1 về việc hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
82 ngày 06-10-2006, giữa bên chuyển nhượng là ông Quàng Văn P1, bên nhận chuyển
nhượng anh Quàng Văn P2, chị Phan Thị V.

Ngoài ra, Tòa án cấp
sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự.

Tại Bản án dân sự
phúc thẩm số 14/2007/DSPT ngày 28-8-2007, Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên quyết
định: Sửa Bản án sơ thẩm số 03/2007/DSST ngày 30-6-2007 của Tòa án nhân dân
Thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.

Chấp nhận đơn kháng
cáo của ông Quàng Văn P1. Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 82
ngày 06-10-2006 giữa người chuyển nhượng ông Quàng Văn P1 với người nhận chuyển
nhượng anh Quàng Văn P2 đối với mảnh đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số AĐ 762/197 thửa đất 2A, tờ bản đồ 289 IV-D-d tổ dân phố 8, phường T, thành
phố P, tỉnh Điện Biên.

Kiến nghị với Phòng Tài nguyên và Môi trường của thành phố P, tỉnh Điện Biên phải đính chính khôi
phục lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với người đứng tên sử dụng đất ông Quàng Văn P1 số AÐ 762/197 thửa đất 2A, tờ bản đồ 289 IV-D-d tổ dân phố 8, phường T, thành phố P, tỉnh Điện Biên.

Kiến nghị với Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố P, tỉnh Điện Biên thu hồi giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với người đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với
anh Quàng Văn P2 số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
H 06445/QSDĐ. Quyết định cấp sổ: 822/2006/QĐ-UBND ngày 27-10-2006 đối với thửa
đất số 2A tờ bản đồ số 289-IV-D-d tại tổ dân phố 8, phường T, thành phố P, tỉnh Điện Biên.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, anh Quàng Văn P2 có đơn khiếu nại đề nghị xem xét theo thủ tục
giám đốc thẩm đối với bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.

Tại Quyết định số 579/2010/KN-DS ngày 26-8-2010, Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao đã kháng nghị đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 14/2007/DSPT ngày
28-8-2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên, đề nghị Toà dân sự Toà án nhân
dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và huỷ Bản án dân
sự sơ thẩm số 03/2007/DSST ngày 30-6-2007 của Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên, giao hồ
sơ vụ án cho Toà án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ
thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật với nhận định:

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì nguồn gốc 72m2 đất thửa 2A, tờ bản đồ 289 IV-D-d tổ dân phố 8, phường T, thành phố P, tỉnh Điện Biên là của ông Quàng Văn P1 được chính quуền địa phương cấp để làm nhà ở theo giấy cấp đất
số 1487 ngày 25-9-2003.

Ngày 06-12-2003, ông Quàng Văn P1 lập giấy chuyển quyền sở hữu lô đất cho
vợ chồng anh Quàng Văn P2, có chữ ký của ông Quàng Văn P1, vợ chồng anh Quàng
Văn P2, nhân chứng là Bí thư Chi bộ, Khối trưởng và xác nhận của Ủy ban
nhân dân phường.

Ngày 24-12-2003, ông Quàng Văn P1 lại có “Đơn xin chuyển quyền sử dụng
đất” vẫn có nội dung chuyển quyền sử dụng diện tích đất cho vợ chồng anh Quàng
Văn P2, có chữ ký của ông Quàng Văn P1 và xác nhận của trưởng phố.

Tuy nhiên, diện tích đất trên giữa ông Quàng Văn P1 với chị Quàng Thị N
đang có tranh chấp. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 08/DSPT ngày 24-8-2005,
Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên mới buộc chị Quàng Thị N trả diện tích đất cho
ông Quàng Văn P1 và tại “Biên bản giải quyết việc thi hành án” ngày 22-3-2006 thì chị Quàng
Thị N mới trả đất cho ông Quàng Văn P1.

Như vậy có cơ sở để xác định tuy từ năm 2003 ông Quàng Văn P1 lập giấy
cho vợ chồng anh Quàng Văn P2, nhưng ở tại thời điểm này chị Quàng Thị N vẫn là
người quản lý và sử dụng đất; đến ngày 24-8-2005 ông Quàng Văn P1 mới được xác
định là người có quyền sử dụng hợp pháp diện tích đất trên (theo quyết định có
hiệu lực của Tòa án) và đến ngày 22-3-2006 ông Quàng Văn P1 mới thực tế nhận đất.
Do đó, việc ông Quàng Văn P1 làm giấy tặng cho anh Quàng Văn P2 trước đó là
không có giá trị pháp lý, hơn nữa vợ chồng anh Quàng Văn P2 cũng chưa làm được thủ
tục sang tên, chưa nhận đất.

Sau khi nhận đất, ngày 25-3-2006 ông Quàng Văn P1 mới ủy quyền cho anh
Quàng Văn P2 xin giấy phép xây dựng, giải phóng mặt bằng, xây nhà cho ông Quàng
Văn P1 ở và chăm sóc cụ K (cha của ông Quàng Văn P1). Ngày 12-6-2006 ông
Quàng Văn P1 mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

 Ngày 03-6-2006, tại thành phố Hà Nội
ông Quàng Văn P1 lại ủy quyền cho anh Nguyễn Viết H làm thủ tục để ông Quàng Văn P1 tặng cho vợ chồng
anh Quàng Văn P2 diện tích đất nêu trên.

Tại Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 82/HĐ-UBND (không ghi
ngày tháng) tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố P, tỉnh Điện Biên thể hiện ông Quàng Văn P1 cho
anh Quàng Văn P2 diện tích đất trên. Hợp đồng trên có chữ ký đề tên ông Quàng
Văn P1, anh Quàng Văn P2, người được ủy quyền là anh Nguyễn Viết H. Nhưng Ủy
ban nhân dân phường lại có xác nhận vào hồi 8h ngày 06-10-2006. Trên cơ sở hợp đồng trên anh Quàng Văn
P2 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Trong thực tế từ ngày 17-02-2003, ông Quàng Văn P1 bị bệnh phải điều trị
tại thành phố Hà Nội (tai biến mạch máu não, liệt nửa người bên trái, liệt
thần kinh trung ương…).

Như vậy, trong năm 2006 ông Quàng Văn P1 đã ký nhiều văn bản để định đoạt
72m2 đất mà ngày 12-6-2006 ông được cấp giấy chứng nhận.
Tuy nhiên, ông Quàng Văn P1 đang ở thành phố Hà Nội đang bị liệt thần kinh
trung ương, liệt nửa người và ông Quàng Văn P1 cũng chưa hề sử dụng đất.

Lẽ ra, phải làm rõ, xác định ý chí của ông Quàng Văn P1 về việc định đoạt
72 m2 đất này, xem xét đánh giá ông Quàng Văn P1 có ý
chí cho anh Quàng Văn P2 hay ông Quàng Văn P1 chỉ giao cho anh Quàng Văn P2 xây
cất nhà để ở. Đồng thời làm rõ ông Quàng Văn P1 ký hợp đồng khi nào? ở đâu? giá
trị pháp lý của hợp đồng này, lý do ông Quàng Văn P1 ký hợp đồng nay lại xin hủy
hợp đồng. Nếu ông Quàng Văn P1 chỉ giao cho anh Quàng Văn P2 xây cất nhà để ông ở và
ông Quàng Văn P1 có nhu cầu sử dụng đất thì phải hủy hợp đồng trên, công nhận
ông Quàng Văn P1 có quyền sử dụng đất, nhưng ông Quàng Văn P1 phải thanh
toán các chi phí hợp lý trong việc làm thủ tục sang tên đất nếu anh Quàng Văn
P2 có yêu cầu.

Trong trường hợp ông Quàng Văn P1 không có nhu cầu sử dụng và thể hiện ý
chí đã cho anh Quàng Văn P2 thì phải bác yêu cầu của ông Quàng Văn P1.

Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa xác minh làm rõ các vấn đề
nêu trên, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào các văn bản do ông Quàng Văn P1
ký và việc anh Quàng Văn P2 được công nhận có quyền sử dụng đất để bác yêu cầu
của ông Quàng Văn P1, còn Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng ông Quàng Văn P1 bị bệnh
không nhận thức được hành vi khi ký kết các văn bản và thủ tục tặng cho không
tuân thủ các quy định của pháp luật, từ đó, hủy hợp đồng chuyển nhượng, công nhận
ông Quàng Văn P1 có quyền sử dụng đất đều chưa đủ căn cứ.

Ngoài ra, Ủy ban nhân dân mới là cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm lại kiến nghị Phòng Tài nguyên và
Môi trường thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh Quàng Văn P2 là
không chính xác.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho
rằng quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là cần thiết vì
năm 2003 ông Quàng Văn P1 có lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ
chồng anh Quàng Văn P2 và năm 2006 lập giấy ủy quyền tặng cho đất cho vợ chồng
anh Quàng Văn P2, tuy giấy tờ ghi chuyển nhượng quyền sử dụng, nhưng đều thể hiện
nội dung là ông Quàng Văn P1 tặng cho vợ chồng anh Quàng Văn P2. Vì vậy, cần
làm rõ việc tặng cho của ông Quàng Văn P1 có điều kiện hay không để giải quyết
theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Khi khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ
án, ông Quàng Văn P1 cho rằng ngày 25-9-2003 Ủy ban nhân dân tỉnh Điện
Biên cấp cho ông 72m2 đất tại thửa 2A, tờ bản đồ 289 IV-D-d tổ dân phố
8, phường T, thành phố P, tỉnh Điện Biên theo Quyết định số 1487.

[2] Ngày 06-12-2003, ông Quàng Văn P1 lập giấy chuyển
quyền sở hữu lô đất cho vợ chồng anh Quàng Văn P2, chị Phan Thị V có Bí thư Chi bộ, Khối trưởng chứng kiến và có
xác nhận của Ủy ban nhân dân phường T.

[3] Ngày 24-12-2003, ông Quàng Văn P1 lại có “Đơn xin
chuyển quyền sử dụng đất” chuyển quyền sử dụng đất cho vợ chồng anh Quàng Văn
P2, chị Phan Thị V, có xác nhận của trưởng phố.

[4] Tuy nhiên, diện tích đất nêu trên chị Quàng Thị N
(là con gái của ông Quàng Văn P1) đang quản lý, sử dụng. Năm 2005 ông Quàng Văn
P1 đã khởi kiện yêu cầu chị Quàng Thị N phải trả cho ông diện tích đất nêu
trên. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 08/DSPT ngày 24-8-2005,
Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên đã buộc chị Quàng Thị N trả lại đất cho ông
Quàng Văn P1.

[5] Ngày 12-6-2006, Ủy ban nhân dân thành phố P, tỉnh Điện Biên đã cấp giấy chứng nhận cho ông
Quàng Văn P1 được quyền sử dụng 72m2 đất nêu trên.

[6] Ngày 15-9-2006, ông Quàng Văn P1 có đơn xin xác
nhận việc ông ủy quyền cho anh Quàng Văn P2, chị Phan Thị V được toàn quyền “Sở
hữu và sử dụng đất”.

[7] Ngày 03-10-2006, ông Quàng Văn P1 lập hợp đồng ủy
quyền cho anh Nguyễn Viết H làm thủ tục tặng cho anh Quàng Văn P2 diện tích
đất nêu trên, có chứng thực của Phòng Công chứng Nhà nước số 3, thành phố Hà Nội.

[8] Ngày 06-10-2006, ông Quàng Văn P1 lại lập hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho anh Quàng Văn P2, chị Phan Thị V, mục giá
trị chuyển nhượng ghi “Bố cho con”; Ủy ban nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ đã xác nhận số 82/HĐ-UBND
cùng ngày nên hợp đồng này thể hiện hợp pháp hóa việc ông Quàng Văn P1 tặng cho
anh Quàng Văn P2, chị Phan Thị V quyền sử dụng đất.

[9] Ngày 27-10-2006, Ủy ban nhân dân thành phố P cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh
Quàng Văn P2, chị Phan Thị V.

[10] Như vậy, nếu có căn cứ xác định cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền tại địa phương cấp đất cho ông Quàng Văn P1 từ năm 2003 (vì Tòa
án các cấp chưa thu thập quyết định cấp đất năm 2003), thì ông Quàng Văn P1 có
quyền sử dụng hợp pháp đối với diện tích đất nêu trên từ năm 2003 nên ông Quàng
Văn P1 có quyền định đoạt tài sản của mình.

[11] Tuy nhiên, ông Quàng Văn P1 cho rằng việc ông tặng
cho vợ chồng anh Quàng Văn P2 là có điều kiện, đó là vợ chồng anh Quàng Văn P2 phải
làm nhà cho ông ở, chăm sóc ông và bố, mẹ của ông, nhưng vợ chồng anh Quàng Văn
P2 không thực hiện cam kết. Tuy anh Quàng Văn P2 không thừa nhận việc ông Quàng
Văn P1 tặng cho có điều kiện, nhưng tại giấy ủy quyền ngày 25-3-2006, thể hiện
ông Quàng Văn P1 ủy quyền cho anh Quàng Văn P2 xin giấy phép xây dựng… có
trách nhiệm xây nhà trên lô đất 379B để ông Quàng Văn P1 ở, có trách nhiệm chăm
sóc vợ chồng cụ K (là bố, mẹ của ông Quàng Văn P1). Tại bản Cam kết
ngày 12-10-2006, anh Quàng Văn P2 có ghi “… Tôi được bố cho mảnh đất…tôi
làm cam kết này với chính quyền địa phương sẽ tiến hành xây dựng nhà ở cho bố
tôi và không được chuyển nhượng cho ai”.

[12] Mặc dù hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất không
ghi điều kiện nhưng tại các văn bản nêu trên có thể hiện anh Quàng Văn P2 phải
làm nhà cho ông Quàng Văn P1 ở, chăm sóc ông Quàng Văn P1 và bố mẹ của ông
Quàng Văn P1.

 [13] Do vậy, cần thu thập xác minh anh Quàng Văn P2 có
thực hiện đầy đủ các điều kiện trên hay không? Thời gian ông Quàng Văn P1 đi điều
trị tại bệnh viện thì ai là người chăm sóc ông Quàng Văn P1? Hiện vợ chồng anh
Quàng Văn P2 đang cư trú tại Hà Nội, thì điều kiện chăm sóc vợ chồng cụ K (bố, mẹ ông Quàng Văn P1) như thế nào? Trên cơ sở xác định việc thực hiện các điều kiện của vợ
chồng anh Quàng Văn P2 để xác định hợp đồng tặng cho giữa ông Quàng Văn P1 và vợ
chồng anh Quàng Văn P2 đã hoàn thành hay chưa hoàn thành để giải quyết vụ án
theo quy định của pháp luật.

[14] Mặt khác, theo quy định tại Điều 44 Luật Đất đai, thì Phòng Tài nguyên và Môi trường không có thẩm quyền thu hồi đất nên Tòa
án cấp phúc thẩm kiến nghị Phòng Tài nguyên và Môi trường thu hồi Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của anh Quàng Văn P2 là không đúng pháp luật.

[15] Hội đồng giám
đốc thẩm Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao thấy cần hủy bản án dân sự phúc thẩm
và hủy bản án dân sự sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

[16] Quyết định
kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là có căn cứ.

[17] Căn cứ vào khoản
2 Điều 291, Điều 296, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH:

1. Hủy Bản án dân sự
phúc thẩm số 14/2007/DSPT ngày 28-8-2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên và
hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2007/DSST ngày 30-6-2007 của Tòa án nhân dân
Thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên về vụ án “Yêu cầu hủy hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là ông Quàng Văn P1 với bị đơn là anh
Quàng Văn P2 và chị Phan Thị V.

2. Giao hồ sơ vụ án
cho Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm lại
theo quy định của pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“[10]Như vậy, nếu
có căn cứ xác định cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tại địa phương cấp đất cho
ông Quàng Văn P1 từ năm 2003 (vì Tòa án các cấp chưa thu thập quyết định cấp đất
năm 2003), thì ông Quàng Văn P1 có quyền sử dụng hợp pháp đối với diện tích đất
nêu trên từ năm 2003 nên ông Quàng Văn P1 có quyền định đoạt tài sản của mình.

[11] Tuy nhiên,
ông Quàng Văn P1 cho rằng việc ông tặng cho
vợ chồng anh Quàng Văn P2 là có điều kiện,
đó là vợ chồng anh Quàng Văn P2 phải làm nhà cho ông ở, chăm sóc ông và bố, mẹ
của ông, nhưng vợ chồng anh Quàng Văn P2 không thực hiện cam kết. Tuy anh Quàng
Văn P2 không thừa nhận việc ông Quàng Văn P1 tặng cho có điều kiện, nhưng tại
giấy ủy quyền ngày 25-3-2006, thể hiện ông Quàng Văn P1 ủy quyền cho anh Quàng
Văn P2 xin giấy phép xây dựng… có trách nhiệm xây nhà trên lô đất 379B để ông
Quàng Văn P1 ở, có trách nhiệm chăm sóc
vợ chồng cụK (là bố, mẹ
của ông Quàng Văn P1). Tại bản Cam kết ngày 12-10-2006, anh Quàng Văn P2 có ghi
“… Tôi được bố cho mảnh đất…tôi làm cam kết này với chính quyền địa phương
sẽ tiến hành xây dựng nhà ở cho bố tôi và không được chuy
n nhượng
cho ai.

[12] Mặc dù hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất không ghi điều kiện nhưng
tại các văn bản nêu trên có thể hiện anh Quàng Văn P2 phải làm nhà cho ông Quàng
Văn P1 ở, chăm sóc ông Quàng Văn P1 và bố mẹ của ông Quàng Văn P1”.

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Án lệ số 16/2017/AL về công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 14 tháng
12 năm 2017 và được công bố theo Quyết định số 299/QĐ-CA ngày 28 tháng 12 năm
2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc
thẩm số 573/2013/DS-GĐT ngày 16-12-2013 của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao
về vụ án dân sự “Tranh chấp thừa kế tài sản” tại tỉnh Vĩnh Phúc giữa nguyên đơn
là chị Phùng Thị H1, chị Phùng Thị N1, chị Phùng Thị H2, chị Phùng Thị P với bị
đơn là anh Phùng Văn T; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm chị Phùng Thị
N2, chị Phùng Thị H3.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 2 phần “Nhận định
của Toà án”.

Khái quát nội dung của án lệ:

– Tình
huống án lệ:

Di sản thừa kế là bất
động sản đã được một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng. Các đồng thừa kế
khác biết và không phản đối việc chuyển nhượng đó. Số tiền nhận chuyển nhượng
đã được dùng để lo cuộc sống của các đồng thừa kế. Bên nhận chuyển nhượng đã được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

– Giải
pháp pháp lý:

Trường hợp này, Tòa
án phải công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là hợp pháp và diện
tích đất đã chuyển nhượng không còn trong khối di sản để chia thừa kế mà thuộc
quyền sử dụng của bên nhận chuyển nhượng.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

Khoản 2 Điều 170,
Điều 234, Điều 634, Điều 697 Bộ luật Dân sự năm 2005 (tương đương với khoản 2
Điều 221, Điều 223, Điều 612, Điều 500 Bộ luật Dân sự năm 2015).

Từ khóa của án lệ:

“Xác lập quyền sở hữu
theo thỏa thuận”; “Di sản”; “Di sản thừa kế là bất động sản”; “Đồng thừa kế”;
“Chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo đơn khởi kiện ngày 02-4-2011 và các lời khai tiếp theo nguyên đơn chị Phùng Thị H1,
chị Phùng Thị N1, chị Phùng Thị P, chị Phùng Thị H2 trình bày:

 Bố mẹ nguyên đơn là ông Phùng Văn
N và bà Phùng Thị G sinh được 06 người con là: Phùng Thị N1, Phùng
Thị N2, Phùng Thị H2, Phùng Văn T, Phùng Thị P, Phùng Thị H1.

Tài sản chung của ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G là 01 ngôi nhà cấp 4
cùng công trình phụ trên diện tích đất 398m2 ở tại khu L, phường M,
thành phố N, tỉnh Vĩnh Phúc, nguồn gốc đất do cha ông để lại. Ngày 07-7-1984
ông Phùng Văn N chết (trước khi chết không để lại di chúc) bà Phùng Thị G và
anh Phùng Văn T quản lý và sử dụng nhà đất trên. Năm 1991 bà Phùng Thị G  chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K một phần diện
tích đất trên với diện tích đất là 131m2, còn lại diện tích 267m2,
năm 1999 bà Phùng Thị G được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà Phùng Thị
G muốn cho con gái là chị Phùng Thị H1 một phần diện tích đất của bà để làm nhà
ở vì hoàn cảnh của chị Phùng Thị H1 đi lấy chồng ở xa, chồng chết nên bà muốn
chị về ở cùng, nhưng anh Phùng Văn T giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên
bà Phùng Thị G không tách đất cho chị Phùng Thị H1 được. Vì vậy, chị khởi kiện
ra Tòa án buộc anh Phùng Văn T trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà
Phùng Thị G. Tòa án đã xử buộc anh Phùng Văn T phải trả giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho bà Phùng Thị G nhưng anh Phùng Văn T không trả. Vì vậy tháng
3-2010 bà Phùng Thị G đã lập di chúc với nội dung: Để lại cho chị Phùng Thị H1
diện tích đất 90m2 và toàn bộ cây cối lâm lộc trên diện tích đất có
các chiều cạnh: Phía Đông giáp diện tích đất của bà Phùng Thị G, phía Tây giáp
nhà ông N, phía Nam giáp đường T, phía Bắc giáp nhà anh C. Khi lập di chúc bà
Phùng Thị G hoàn toàn minh mẫn khỏe mạnh, có người làm chứng và di chúc đó đã
được Ủy ban nhân dân phường M chứng thực. Toàn bộ diện tích 398m2
của bà Phùng Thị G vì khi ông Phùng Văn N chết thì bà Phùng Thị G được toàn quyền
sử dụng.

Ngày 19-12-2010 bà Phùng Thị G chết, toàn bộ khối tài sản trên vợ chồng
anh Phùng Văn T vẫn quản lý sử dụng. Nay các nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết
phân chia di sản thừa kế theo di chúc bà Phùng Thị G để lại cho chị Phùng Thị
H1 là 90m2, phần còn lại là 177m2 đề nghị chia theo pháp
luật, kỷ phần thừa kế của chị Phùng Thị N1, chị Phùng Thị P, chị Phùng Thị H2
nhường cho chị Phùng Thị H1 sử dụng. Ngoài ra tài sản cây cối trên đất và phần
diện tích đất nông nghiệp của bà Phùng Thị G các nguyên đơn không đề nghị Tòa
án giải quyết.

Bị đơn anh Phùng Văn T do chị Phùng Thị H3(là vợ) đồng thời là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: chị xác nhận mối quan hệ bố mẹ, anh chị
em trong gia đình, tài sản bố mẹ để lại là diện tích đất 398m2 ở tại
khu L, phường M, thành phố N và thời gian bố mẹ chết như các nguyên đơn trình
bày là đúng nhưng toàn bộ công trình xây dựng trên đất là do vợ chồng anh chị
xây dựng năm 1997. Năm 1991 bà Phùng Thị G tự ý bán 131m2 cho ông
Phùng Văn K không bàn bạc với anh Phùng Văn T, được bao nhiêu tiền bà sử dụng
vào việc gì anh Phùng Văn T không biết. Đến năm 1999 bà Phùng Thị G được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích còn lại là 267,4m2, ông
Phùng Văn K cũng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã mua của bà Phùng
Thị G. Khi bà Phùng Thị G còn sống có lập di chúc hay không anh chị không biết.
Nay các chị em trong gia đình khởi kiện yêu cầu chia thừa kế theo di chúc và
theo pháp luật, quan điểm của anh Phùng Văn T không đồng ý vì bố mẹ anh chỉ có
một mình anh là con trai nên anh sử dụng để ở và thờ cúng tổ tiên, không đồng ý
phân chia thừa kế. Ngoài ra bà Phùng Thị G còn có diện tích đất nông nghiệp
nhưng anh Phùng Văn T không đề nghị phân chia thừa kế.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Phùng Thị N2 trình bày: chị
xác nhận mối quan hệ bố mẹ, anh chị em trong gia đình, tài sản bố mẹ để lại diện
tích đất 398m2 ở tại khu L, phường M, thành phố N và thời gian bố mẹ
chết như các nguyên đơn trình bày là đúng. Đến năm 1991 mẹ chị đã chuyển nhượng
cho ông Phùng Văn K diện tích 131m2, khi chuyển nhượng các chị đều
biết việc này, nhưng số tiền bao nhiêu chị không biết, chỉ biết mẹ chị đã dùng
số tiền đó để trang trải nợ nần và nuôi các con. Còn lại diện tích 267,4m2
đến năm 1999 mẹ chị đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên
Phùng Thị G mà hiện nay anh Phùng Văn T đang sử dụng quản lý. Khi mẹ chị còn sống
có lập di chúc hay không chị không biết nay các chị Phùng Thị N1, chị Phùng Thị
H1, chị Phùng Thị H2, chị Phùng Thị P yêu cầu chia thừa kế diện tích đất trên
chị không đồng ý vì bố mẹ chị chỉ có anh Phùng Văn T là con trai nên phải để
anh Phùng Văn T ở và thờ cúng. Nếu Tòa án giải quyết phân chia thừa kế theo
pháp luật kỷ phần thừa kế của bà, chị không nhận mà nhường cho anh Phùng Văn T
được hưởng.

Với nội dung vụ án như trên;

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2011/DSST ngày 04-10-2011 Tòa án nhân dân
thành phố Vĩnh Yên quyết định:

– Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Phùng Thị H1, buộc anh
Phùng Văn T phải có trách nhiệm thanh toán cho chị Phùng Thị H1 tổng số tiền là
340.000.000đ (trị giá 68m2 đất). Giao anh Phùng Văn T được sử dụng
diện tích đất 68m2 tại tờ bản đồ số 32, số thửa 81 ở khu phố khu L,
phường M, thành phố N, tỉnh Vĩnh Phúc (có tứ cận).

– Không chấp nhận yêu cầu của chị Phùng Thị N1, chị Phùng Thị H2, chị
Phùng Thị P khởi kiện chia thừa kế tài sản của bà Phùng Thị G theo pháp luật.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo của
các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 18-01-2011 các nguyên đơn chị Phùng Thị N1,
chị Phùng Thị H2, chị Phùng Thị P, chị Phùng Thị H1 kháng cáo không đồng ý với
quyết định của bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án chia thừa kế theo di chúc và theo
pháp luật.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 06/2012/DSPT ngày 23-2-2012 của Tòa án
nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc quyết định: sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2011/DSST
ngày 4-10-2011 của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên.

– Chấp nhận yêu cầu chia thừa kế của chị Phùng Thị N1, chị Phùng Thị H2,
chị Phùng Thị H1, chị Phùng Thị P.

– Giao cho anh Phùng Văn T và người đại diện theo pháp luật của anh Phùng
Văn T là chị Phùng Thị H3 diện tích 267,4m2, trị giá 1.337.000.000đồng
số thửa 81, tờ bản đồ số 32 ở khu phố L, phường M, thành phố N.

– Anh Phùng Văn T và người đại diện theo pháp luật của anh Phùng Văn T là
chị Phùng Thị H3 có trách nhiệm thanh toán trị giá phần thừa kế cho chị Phùng
Thị H1 là 982.200.000 đồng.

Kể từ ngày chị Phùng Thị H1 có đơn yêu cầu thi hành án nếu anh Phùng Văn
T và người đại diện theo pháp luật của anh Phùng Văn T là chị Phùng Thị H3
không thanh toán số tiền trên thì hàng tháng anh Phùng Văn T, chị Phùng Thị H3
còn phải chịu lãi theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định
tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm chị Phùng Thị H3, anh Phùng Văn T có đơn yêu cầu
xem xét lại bản án dân sự phúc thẩm nêu trên của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh
Phúc.

Tại Quyết định số 131/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 12-11-2013 của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 06/2012/DSPT ngày
23-2-2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc; với nhận định:

Tòa án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất bà Phùng Thị G đã bán cho
ông Phùng Văn K vào khối tài sản để chia là có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm xác định
di sản là tổng diện tích đất 398m2 (bao gồm cả phần đất đã bán cho
ông Phùng Văn K) để chia là không đúng.

Tuy nhiên, diện tích 267m2 đất đứng tên bà Phùng Thị G phải được
xác định là tài sản chung của vợ chồng ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G chưa
chia. Bà Phùng Thị G chỉ có quyền định đoạt ½ diện tích đất trong tổng diện
tích 267m2 đất chung của vợ chồng bà là 133,5m2 – 90m2
(đã cho chị Phùng Thị H1) còn lại là 43,5m2 được chia cho 5 thừa kế.

Đối với ½ diện tích đất trong tổng diện tích 267m2 đất chung của
vợ chồng là phần di sản của ông Phùng Văn N để lại nay đã hết thời hiệu chia thừa
kế, anh Phùng Văn T đang quản lý thì được tiếp tục quản lý. Tòa án cấp phúc thẩm
xác định toàn bộ diện tích 267m2 đất là di sản của bà Phùng Thị G để
chia theo di chúc cho chị Phùng Thị H1 90m2 đất và phần đất còn lại
177,4m2 chia theo pháp luật cho 5 kỷ phần là không đúng.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao giữ
nguyên nội dung kháng nghị của Viện trưởng, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận
kháng nghị của Viện trưởng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thì diện tích 398m2
đất tọa lạc tại khu phố L, phường M, thành phố N, Vĩnh Phúc có nguồn gốc là tài
sản chung vợ chồng ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G. Ông Phùng Văn N và bà
Phùng Thị G có 06 người con chung là chị Phùng Thị H1, chị
Phùng Thị N1, chị Phùng Thị H2, anh Phùng Văn T, chị Phùng Thị P, chị Phùng Thị
N2. Ngày
07-7-1984 ông Phùng Văn N chết không để lại di chúc, bà Phùng Thị G và anh Phùng
Văn T quản lý và sử dụng nhà đất trên.

[2] Năm 1991, bà Phùng Thị G chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K diện tích
131m2 trong tổng diện tích 398m2 của thửa đất trên; phần
diện tích đất còn lại của thửa đất là 267,4m2. Năm 1999 bà Phùng Thị
G đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 267,4m2,
bà Phùng Thị G cùng vợ chồng anh Phùng Văn T vẫn quản lý sử dụng nhà đất này.
Việc bà Phùng Thị G  chuyển nhượng đất
cho ông Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng không ai có ý kiến
phản đối gì, các con của bà Phùng Thị G có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để
lo cuộc sống của bà và các con. Nay ông Phùng Văn K cũng đã được cơ quan nhà nước
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, có cơ sở để xác định các con bà
Phùng Thị G đã đồng ý để bà Phùng Thị G 
chuyển nhượng diện tích 131m2 nêu trên cho ông Phùng Văn K.
Tòa án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất bà Phùng Thị G đã bán cho ông
Phùng Văn K vào khối tài sản để chia là có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm xác định
di sản là tổng diện tích đất 398m2 (bao gồm cả phần đất đã bán cho
ông Phùng Văn K) để chia là không đúng.

[3] Ngày 19-12-2010 bà Phùng Thị G chết, trước khi chết bà đã để lại di
chúc lập ngày 05-3-2009 có nội dung để lại cho chị Phùng Thị H1 (con gái bà
Phùng Thị G) diện tích 90m2 đất trong tổng diện tích 267m2
đất trên, di chúc có chứng thực của Ủy ban nhân dân phường M ngày 7-3-2009. Tuy
di chúc được lập và chứng thực không cùng ngày qua ý kiến của Ủy ban nhân dân
phường và lời khai của những người làm chứng trong di chúc thì có căn cứ để xác
định bà Phùng Thị G lập di chúc khi còn minh mẫn và nội dung di chúc theo ý
nguyện của bà Phùng Thị G nên Tòa án hai cấp chấp nhận di chúc là có lý, có
tình.

[4] Tuy nhiên, diện tích 267m2 đất đứng tên bà Phùng Thị G,
nhưng được hình thành trong thời gian hôn nhân nên phải được xác định là tài sản
chung của vợ chồng ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G chưa chia. Bà Phùng Thị G
chỉ có quyền định đoạt ½ diện tích đất trong tổng diện tích 267m2 đất
chung của vợ chồng bà. Do đó, phần di sản của bà Phùng Thị G để lại là ½ khối
tài sản (133,5m2) được chia theo di chúc cho chị Phùng Thị H1 (con
gái bà Phùng Thị G) là 90m2, còn lại là 43,5m2 được chia
cho 5 kỷ phần còn lại (trong đó chị N2 nhường kỷ phần thừa kế cho anh Phùng Văn
T; chị Phùng Thị H2, chị Phùng Thị N1 và chị Phùng Thị P nhường kỷ phần cho chị
Phùng Thị H1). Đối với ½ diện tích đất trong tổng diện tích 267m2 đất
chung của vợ chồng là phần di sản của ông Phùng Văn N để lại nay đã hết thời hiệu
chia thừa kế, anh Phùng Văn T là một trong các thừa kế không đồng ý chia, theo
quy định tại tiểu mục 2.4 mục 2 phần I của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày
10-8-2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì không đủ điều kiện
để chia tài sản chung nên phần diện tích đất này ai đang quản lý, sử dụng thì
được tiếp tục quản lý, sử dụng.

[5] Tòa án cấp phúc thẩm xác định toàn bộ diện tích 267m2 đất
là di sản của bà Phùng Thị G để chia theo di chúc cho chị Phùng Thị H1 90m2
đất và phần đất còn lại 177,4m2 chia theo pháp luật cho 5 kỷ phần là
không đúng.

[6] Ngoài ra, anh Phùng Văn T không kháng cáo nhưng Tòa án lại tuyên anh
Phùng Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí phúc thẩm. Chị Phùng Thị N1, chị
Phùng Thị H2, chị Phùng Thị P tự nguyện nhường kỷ phần của các chị cho chị
Phùng Thị H1 và được Tòa chấp nhận, chị Phùng Thị H1 là hộ nghèo được miễn toàn
bộ án phí nhưng Tòa cấp phúc thẩm không tuyên trả lại tiền tạm ứng án phí sơ thẩm
cho chị Phùng Thị N1, chị Phùng Thị H2, chị Phùng Thị P đều là không đúng. Vì vậy,
kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là có căn cứ chấp nhận.

Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và Điều
299 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH:

Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 06/2012/DSPT ngày 23-02-2012 của
Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc và Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2011/DS-ST ngày
04-10-2011 của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc về vụ án
“Tranh chấp thừa kế tài sản” giữa nguyên đơn chị Phùng Thị H1, chị
Phùng Thị N1, chị Phùng Thị H2, chị Phùng Thị P với bị đơn là anh Phùng Văn T
và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm chị Phùng Thị N2, chị Phùng Thị
H3.

Giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử
sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“[2] Năm 1991, bà
Phùng Thị G chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K diện tích 131m2 trong
tổng diện tích 398m2 của thửa đất trên; phần diện tích đất còn lại của
thửa đất là 267,4m2. Năm 1999 bà Phùng Thị G đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, diện tích 267,4m2, bà Phùng Thị G cùng vợ chồng
anh Phùng Văn T vẫn quản lý sử dụng nhà đất này. Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng
đất cho ông Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng không ai có ý kiến
phản đối gì, các con của bà Phùng Thị G có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để
lo cuộc sống của bà và các con. Nay ông Phùng Văn K cũng đã được cơ quan nhà nước
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, có cơ sở để xác định các con bà
Phùng Thị G đã đồng ý để bà Phùng Thị G chuyển nhượng diện tích 131m2
nêu trên cho ông Phùng Văn K. Tòa án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất bà
Phùng Thị G đã bán cho ông Phùng Văn K vào khối tài sản để chia là có căn cứ.
Tòa án cấp sơ thẩm xác định di sản là tổng diện tích đất 398m2 (bao
gồm cả phần đất đã bán cho ông Phùng Văn K) để chia là không đúng.”

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Án lệ số 12/2017/AL về xác định trường hợp đương sự được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất sau khi Tòa án đã hoãn phiên tòa

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 14 tháng 12 năm 2017 và được công bố theo Quyết định số 299/QĐ-CA ngày 28 tháng 12 năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm số 14/2017/KDTM-GĐT ngày 06-6-2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá” tại tỉnh Quảng Trị giữa nguyên đơn là Công ty cổ phần Q (người đại diện theo pháp luật là ông Đặng Công D, người đại diện theo ủy quyền là ông Hồ Nghĩa A) với bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn T (người đại diện theo pháp luật là ông Võ Văn T, người đại diện theo ủy quyền là bà Võ Thị T) .

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 1 phần “Nhận định của Toà án”.

Khái quát nội dung của án lệ:

– Tình huống án lệ:

Tòa án đã quyết định hoãn phiên tòa và lý do
hoãn phiên tòa không phải do lỗi của đương sự (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan)
hoặc
người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Phiên
tòa
được mở lại nhưng có đương sự
hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được
triệu tập hợp lệ vắng mặt.

– Giải pháp pháp lý:

Tòa án phải xác định đây là trường hợp đương sự hoặc
người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được triệu
tập hợp lệ lần thứ nhất vắng mặt tại phiên tòa.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

Khoản 1 Điều 199, Điều 202, khoản 2 Điều 266 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2004 (khoản 1 Điều 227, Điều 228, khoản 2 Điều 296 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015).

Từ khóa của án lệ:

“Triệu tập hợp lệ”; “Triệu tập hợp lệ lần thứ nhất”; “Đương sự vắng mặt tại phiên tòa”; “Hoãn phiên tòa”.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Tại Đơn khởi kiện đề
ngày 05-11-2012; Đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện đề ngày 26-5-2013 và các lời
khai tại Tòa án, nguyên đơn là Công ty cổ phần Q trình bày
:

Ngày 03-01-2011, Công ty cổ phần Q (sau đây viết tắt
là Công ty Q) và Công ty trách nhiệm hữu hạn T (sau đây viết tắt là Công ty T)
ký kết Hợp đồng mua bán cây giống cao su số 011/2011/HĐKT; ngày 23-02-2011, hai
bên tiếp tục ký Hợp đồng số 021/2011/HĐKT với cùng nội dung. Tổng số lượng cây
của hai hợp đồng là 400.000 cây cao su giống bầu 02 tầng lá có giá trị
2.800.000.000 Kíp Lào (mỗi hợp đồng 200.000 cây, trị giá 1.400.000.000 Kíp
Lào). Sau khi ký hợp đồng, Công ty Q đã tạm ứng cho Công ty T 930.000.000 Kíp
Lào (tương đương với 2.511.000.000 đồng).

Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty T đề nghị mượn
449.455 cây Stump trần và được Công ty Q chấp nhận, số cây này Công ty Q ký hợp
đồng mua của Công ty V với giá 6.500 đồng/cây. Công ty T đã trả cho Công ty Q
40.600 cây, hiện còn nợ 408.855 cây. Đợt 1, Công ty T chỉ giao được 79.924 cây
sau đó không thực hiện hợp đồng. Công ty Q đã nhiều lần mời Công ty T đến để giải
quyết, nhưng Công ty T không đến. Ngày 05-10-2011, ông Võ Văn T mới cử con gái
là bà Võ Thị T đến làm việc. Để hạn chế thiệt hại xảy ra, Công ty Q đã tiến
hành kiểm kê toàn bộ số lượng cây hiện có. Tính đến ngày 14-9-2011, tổng cộng
có 194.776 cây, nhưng đây chỉ là số lượng kiểm kê chứ không phải số lượng giao
nhận. Nếu kết thúc ở thời điểm giao nhận tháng 9-2011 thì số lượng cây giao nhận
chỉ đạt 20% trên tổng số tiền là 76% mà Công ty T đã nhận ứng trước của Công ty
Q. Do đó, Công ty Q đã thống nhất với bà Võ Thị T để Công ty Q cử công nhân đến
tận dụng và bứng tiếp đợt 2 là 117.833 cây, nâng tổng số cây giao nhận lên
197.757 cây Stump, tương ứng tổng trị giá 3.623.897.000 đồng.

Ngoài ra, Công ty Q còn cho Công ty T mượn các loại
vật tư, phân bón với tổng giá trị là 243.913.21l đồng, nhưng đến nay Công ty T
vẫn chưa trả lại.

Công ty T đã giao cho Công ty Q 163.376 bầu đất gia
công, trị giá 39.414.000 Kíp Lào, tương đương 105.629.500 đồng; vườn gỗ nhân trị
giá 20.491.200 Kíp Lào, tương đương 54.916.000 đồng và 18.096.000 đồng; tổng cộng
là 178.641.500 đồng. Nay Công ty Q yêu cầu Tòa án giải quyết:

Buộc Công ty T bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ thực
hiện hai hợp đồng nêu trên với tổng số cây giống chưa giao đủ là 202.243 cây
(trị giá thành tiền là 3.706.102.975 đồng). Theo hợp đồng hai bên đã có thỏa
thuận nếu vi phạm còn phải chịu phạt gấp 05 lần giá trị số cây chưa giao đủ là
18.530.514.875 đồng;

Buộc Công ty T phải trả 408.855
cây giống Stump trần đã mượn của Công ty Q, trị giá thành tiền là 2.657.557.500 đồng;

Buộc Công ty T phải
trả các loại vật tư đã mượn của Công ty Q bao gồm: Túi bầu PE (18 x 40)
5.170kg, phân Kali 500kg, phân DAP 1.000kg, phân lân 2.800kg với tổng trị giá
91.212.392 Kíp Lào, tương đương 243.913.21l đồng.

Tại phiên tòa, Công ty Q chỉ yêu cầu phạt vi phạm hợp
đồng 8% đối với giá trị số cây chưa giao đủ là 296.488.000 đồng. Tổng cộng Công
ty T phải trả cho Công ty Q 3.088.822.500 đồng. Sau khi đối trừ số tiền Công ty
Q phải thanh toán cho Công ty T là 1.367.934.000 đồng thì Công ty T còn phải trả
cho Công ty Q số tiền là 1.720.888.500 đồng.

Bị đơn là Công ty
trách nhiệm hữu hạn T trình bày
:

Xác nhận nội dung hợp đồng như Công ty Q đã trình
bày. Công ty T đã thực hiện đúng hợp đồng, nhưng khi đến thời hạn giao cây thì
Công ty Q trì hoãn không nhận cây với lý do chưa đủ công nhân, chưa có phương
tiện vận chuyển cây đi. Đại diện của Công ty Q cho biết do kế hoạch trồng cây
cao su của Công ty tại thời điểm đó so với năm trước đã bị cắt giảm diện tích
trồng nên không biết nhận cây xong sẽ trồng ở đâu. Do đó, đến ngày 19-7-2011,
Công ty Q mới chịu nhận đợt 1 là 79.924 cây và đến ngày 21-9-2011 mới vận chuyển
hết số cây nói trên. Công ty T đã nhiều lần yêu cầu Công ty Q nhận số cây còn lại
nhưng Công ty Q không đến nhận. Đến đầu tháng 9-2011, Công ty Q hẹn Công ty T
vào ngày 14-9-2011 sẽ cử nhân viên kỹ thuật đến kiểm tra số cây còn lại, nếu sử
dụng được thì đếm nhận và xin để nhờ tại vườn ươm của Công ty T, đến khi nào có
kế hoạch sẽ trồng. Số cây mà Công ty Q đếm vào ngày 14-9-2011 là 194.766 cây, cộng
với số cây nhận đợt 1 là 79.924 cây, tổng cộng Công ty Q đã nhận 274.690 cây. Số
cây quá thời hạn mà Công ty Q không nhận dẫn đến bị chết là 125.310 cây. Như vậy,
đối với số lượng 400.000 cây của hai hợp đồng thì Công ty T đã cung cấp đủ. Lỗi
không nhận cây dẫn đến số cây bị chết là do Công ty Q. Nghĩa vụ thực hiện việc
giao cây từ hai hợp đồng đã được Công ty T thực hiện xong. Số tiền còn lại từ
hai hợp đồng Công ty T đã nhiều lần yêu cầu thanh toán nhưng Công ty Q không chịu
trả.

Công ty Q đã ứng tiền cho Công ty T theo hai hợp đồng
là 930.000.000 Kíp Lào, tương ứng với 2.511.000.000 đồng. Số phân bón, vật tư
mà Công ty Q cho Công ty T mượn là 91.212.392 Kíp Lào. Tổng cộng số tiền Công
ty T phải trả cho Công ty Q là 1.021.212.392 Kíp Lào, tương đương 2.757.273.454
đồng.

Tổng giá trị của hai hợp đồng mà Công ty T đã thực
hiện xong là 2.800.000.000 Kíp Lào. Công ty Q đã nhận vườn gỗ nhân của Công ty
T trị giá 20.491.200 Kíp Lào và 18.096.000 đồng. Túi bầu PE mà Công ty Q đã nhận
của Công ty T đợt 1 là 32.865.000 Kíp Lào, đợt 2 là 7.875.000 Kíp Lào, tiền gia
công vào đất bầu là 39.406.291 Kíp Lào. Như vậy, tổng số tiền mà Công ty Q phải
có nghĩa vụ trả cho Công ty T là 2.900.637.491 Kíp Lào tương đương
7.831.721.225 đồng. Sau khi đối trừ nghĩa vụ của các bên, Công ty T phản tố yêu
cầu Công ty Q phải thanh toán số tiền 1.879.425.009 Kíp Lào (tương đương 5.074.447.767
đồng) và 18.096.000 đồng. Tổng cộng là 5.092.543.767 đồng.

Tại phiên tòa, Công ty T chỉ yêu cầu thanh toán các
khoản sau:

– Giá trị 400.000 cây giống đã thực hiện theo hợp đồng
là 1.870.000.000 Kíp Lào (sau khi đã trừ số tiền Công ty Q ứng là 930.000.000
Kíp Lào), tương đương 4.895.288.000 đồng;

– Giá trị vườn gỗ nhân là 20.491.200 Kíp Lào, tương
đương 53.642.000 đồng và 18.096.000 đồng;

– Giá trị 163.376 bầu đất là 39.414.000 Kíp Lào,
tương đương 103.158.000 đồng. Tổng cộng Công ty T yêu cầu Công ty Q phải thanh
toán là 4.967.026.000 đồng;

– Đối với 449.455 cây Công ty T mượn của Công ty Q,
đã trả 40.600 cây, còn lại 408.855 cây, Công ty T đồng ý trả bằng hiện vật,
không chấp nhận trả bằng tiền.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số
08/2013/KDTM-ST ngày 04-9-2013, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị quyết định:

Áp dụng khoản 1 Điều
34, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 37, Điều 54, 55, 56, 300, 301 của Luật Thương
mại; khoản 1 Điều 131 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 4, khoản 5 Điều 27 Pháp
lệnh Án phí, lệ phí Tòa án, xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc
bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn T phải thanh toán cho nguyên đơn Công ty cổ
phần Q số tiền 1.720.888.500 đồng.

Không chấp nhận yêu cầu phản tố củabị đơn đối với số tiền 3.602.837.000
đồng.

Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền
kháng cáo của các đương sự.

Ngày 04-9-2013, Công ty T có đơn kháng cáo toàn bộ bản
án sơ thẩm.

Ngày 01-10-2013, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Quảng Trị có Quyết định kháng nghị số 2110/QĐKNPT-P12 kháng nghị Bản án
kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 08/2013/KDTM-ST ngày 04-9-2013 của Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Trị.

Tại Bản án kinh doanh,
thương mại phúc thẩm số 19/2014/KDTM-PT ngày 26-02-2014, Tòa Phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại Đà Nẵng quyết định:

– Đình chỉ xét xử
phúc thẩm đối với kháng cáo của bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn T.

– Không chấp nhận
Kháng nghị số 2110/QĐKNPT-P12 ngày 01-10-2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Quảng Trị. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Sau khi xét xử phúc thẩm,
Công ty T có đơn đề nghị giám đốc thẩm đối với bản án kinh doanh thương mại
phúc thẩm nêu trên.

Tại Kháng nghị giám đốc thẩm số 01/2017/KN-KDTM ngày
24-02-2017, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh,
thương mại phúc thẩm số 19/2014/KDTM-PT ngày 26-02-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa
án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng, đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy bản án kinh
doanh, thương mại phúc thẩm nêu trên và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số
08/2013/KDTM-ST ngày 04-9-2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị; giao hồ sơ vụ
án cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm đúng quy
định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát
nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận
kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Về tố tụng: Theo Biên bản phiên tòa phúc thẩm
ngày 26-11-2013 thì tại phiên tòa các đương sự có mặt đầy đủ theo giấy triệu tập
của Tòa án. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên tòa để các
đương sự cung cấp thêm chứng cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm được mở lại vào ngày
26-02-2014, bị đơn và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn vắng
mặt. Trường hợp Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên tòa và việc hoãn phiên
tòa là do Tòa án, tại phiên tòa được mở lại đương sự hoặc người đại diện, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì được coi là vắng mặt
lần thứ nhất. Lẽ ra, Tòa án cấp phúc thẩm phải xác định là bị đơn và luật sư bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất
vắng mặt tại phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 199, khoản 2 Điều 266 Bộ
luật Tố tụng dân sự để hoãn phiên tòa. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định tại phiên
tòa phúc thẩm bị đơn và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn đã
được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai vắng mặt tại phiên tòa, từ đó đình chỉ
xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị đơn là không đúng quy định tại
Điều 199, 202, 266 Bộ luật Tố tụng dân sự, làm mất quyền kháng cáo, ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn.

[2] Về xác định lỗi của các bên: Theo Điều 3 Hợp đồng
mua bán cây giống cao su ngày 03-01-2011, các bên thỏa thuận chậm nhất đến ngày
31-7-2011, Bên B (Công ty T) phải giao đủ số lượng 200.000 cây đạt tiêu chuẩn
chất lượng cho Bên A (Công ty Q). Tại Biên bản làm việc ngày 15-7-2011 giữa ông
Hồ Duy L là nhân viên Phòng Kỹ thuật nông nghiệp Công ty Q và bà Võ Thị T đại
diện Công ty T về việc tiến hành kiểm tra và đánh giá chất lượng cây giống tại
bãi tập kết đến hết ngày 15-7-2011 ghi nhận kết quả: “Stump bầu tầng lá chuyển ra bãi 15.550 bầu; Stump bầu tầng lá chuyển
ra bãi đạt từ 2-3 tầng lá trở lên; tầng lá ổn định, chất lượng Stump bầu tầng
lá tốt”.
Từ ngày 15-7-2011 đến ngày 31-7-2011 (ngày cuối cùng thực hiện việc
giao nhận cây theo hợp đồng) hai bên không giao nhận cây và cũng không có văn bản
thỏa thuận gia hạn hay kéo dài thời hạn giao nhận cây. Công ty Q cho rằng ngày
15-7-2011 Công ty T mới có 15.550 cây đạt chất lượng thì đến ngày 31-7-2011
không thể có đủ 400.000 cây để giao nên đã vi phạm hợp đồng, còn Công ty T cho
rằng cho đến hết ngày 31-7-2011 thì Công ty Q mới chỉ nhận 3.268 cây (dù Công
ty T đã có 15.550 cây để giao), nên Công ty Q đã vi phạm hợp đồng.

[3] Tại Biên bản phiên tòa phúc thẩm ngày
26-11-2013, Công ty Q giải thích lý do: đến ngày 31-7-2011 (ngày cuối cùng thực
hiện việc giao nhận cây theo hợp đồng), Công ty Q không lập biên bản về việc
giao nhận cây và đến tháng 9-2011 lại tiếp tục thực hiện hợp đồng nhận cây vì
Công ty Q đã kiểm tra nhưng Công ty T chỉ giao được hơn 79.000 cây. Số cây còn
lại không đủ tiêu chuẩn theo hợp đồng để giao nên Công ty Q đã đồng ý cho kéo
dài thời gian giao nhận cây để trừ nợ và cho phép Công ty T tiếp tục chăm sóc
cây để đủ điều kiện giao cây. Đồng thời, ông H (Trưởng Phòng Kỹ thuật nông nghiệp
Công ty Q – là người làm chứng) đã giải thích lý do đến ngày 31-7-2011 Công ty
Q chỉ nhận 3.000 cây là do Công ty Q chỉ có 03 xe ô tô (02 xe Kazma và 01 xe
Isuzu), thời điểm này ở Lào mưa, đường xá lầy lội, bà T có điện thoại lên Công
ty Q bảo lấy cây nhưng do khó khăn nên Công ty Q không lấy kịp.

[4] Với diễn biến sự việc như trên, có thể xác định
hai bên đã ký hợp đồng quy định thời gian giao nhận cây từ ngày 30-6-2011 đến
ngày 31-7-2011 với số lượng 200.000 cây (tổng phải giao theo 02 hợp đồng là
400.000 cây). Mặc dù đến ngày 15-7-2011, Công ty T đã có 15.500 cây để giao,
nhưng Công ty Q chỉ nhận 3.200 cây do trời mưa, đường xá lầy lội và chỉ có 03
xe vận chuyển. Tuy không thể hiện bằng văn bản, nhưng cho đến ngày 05-10-2011
thì Công ty Q đã chấp nhận kéo dài thời gian giao nhận cây và tiếp tục cam kết
sẽ nhận hết cây trong vòng 12 ngày. Tính đến ngày 21-9-2011, Công ty Q đã nhận
79.924 cây và đến ngày 24-10-2011 hai bên vẫn tiến hành giao nhận cây (theo
Biên bản giao nhận cây giống ngày 24-10-2011, trong đó xác định từ ngày
06-10-2011 đến ngày 24-10-2011 đã tiến hành giao nhận 83.867 cây giống PB260 chủng
loại bầu 2 tầng lá, chất lượng cây giống tốt). Do đó, có căn cứ xác định cả hai
bên Công ty T và Công ty Q đều có lỗi trong việc giao cây và nhận cây. Tòa án cấp
sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định lỗi hoàn toàn của Công ty T và áp dụng
mức phạt cao nhất theo Điều 301 Luật Thương mại (8%) đối với Công ty T là không
phù hợp; cần phải xác định lại mức độ lỗi của các bên để quyết định mức phạt
cho đúng.

[5] Về số cây mượn: Hồ sơ vụ án thể hiện 2 bên không
có văn bản về việc mượn cây, nhưng cả 2 bên đều xác nhận Công ty Q cho Công ty
T mượn 449.455 cây, Công ty T đã trả 40.600 cây, còn nợ 408.855 cây. Công ty T
cho rằng đã có đủ cây để trả và đồng ý trả bằng cây, không chấp nhận quy đổi trả
bằng tiền. Còn Công ty Q cho rằng do Công ty T không có khả năng trả bằng cây
nên yêu cầu trả bằng tiền. Căn cứ Điều 471 và Điều 474 Bộ luật Dân sự 2005 về hợp
đồng vay tài sản; Điều 514 Bộ luật Dân sự 2005 về hợp đồng mượn tài sản đều quy
định về nghĩa vụ trả nợ là bên vay (mượn) phải hoàn trả cho bên cho vay (cho mượn)
tài sản cùng loại, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa xem
xét việc Công ty T có đủ khả năng trả cây cùng loại hay không là không phù hợp
quy định của pháp luật. Nếu Công ty T không đủ khả năng để trả bằng cây cùng loại
thì mới buộc trả bằng tiền.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 337, khoản 3 Điều 343, Điều
345 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày
25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự.

1. Chấp nhận Kháng nghị giám đốc thẩm số
01/2017/KN-KDTM ngày 24-02-2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với Bản
án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 19/2014/KDTM-PT ngày 26-02-2014 của Tòa
Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng về vụ án kinh doanh, thương mại
“Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa” giữa nguyên đơn là Công ty cổ phần Q
với bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn T.

2. Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số
19/2014/KDTM-PT ngày 26-02-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại
Đà Nẵng và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 08/2013/KDTM-ST ngày
04-9-2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị.

3. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Trị để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm đúng quy định của pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“[1] Về tố tụng:
Theo Biên bản phiên tòa phúc thẩm ngày 26-11-2013 thì tại phiên tòa các đương sự
có mặt đầy đủ theo giấy triệu tập của Tòa án. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử đã quyết
định hoãn phiên tòa để các đương sự cung cấp thêm chứng cứ. Tại phiên tòa phúc
thẩm được mở lại vào ngày 26-02-2014, bị đơn và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bị đơn vắng mặt. Trường hợp Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên
tòa và việc hoãn phiên tòa là do Tòa án, tại phiên tòa được mở lại đương sự hoặc
người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt
thì được coi là vắng mặt lần thứ nhất. Lẽ ra, Tòa án cấp phúc thẩm phải xác định
là bị đơn và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn được Tòa án
triệu tập hợp lệ lần thứ nhất vắng mặt tại phiên tòa theo quy định tại khoản 1
Điều 199, khoản 2 Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự để hoãn phiên tòa. Tòa án cấp
phúc thẩm nhận định tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn và luật sư bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai vắng mặt tại
phiên tòa, từ đó đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị đơn
là không đúng quy định tại Điều 199, 202, 266 Bộ luật Tố tụng dân sự, làm mất
quyền kháng cáo, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn.”

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Án lệ số 11/2017/AL về công nhận hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản không thuộc sở hữu của bên thế chấp

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 14  tháng 12 năm 2017 và được công bố theo Quyết
định số 299/QĐ-CA ngày 28 tháng 12 năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc
thẩm số 01/2017/KDTM-GĐT ngày 01-3-2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao về vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng” tại
thành phố Hà Nội giữa nguyên đơn là Ngân hàng Thương mại cổ phần A
(đại diện theo pháp luật là ông Phạm Hữu P, đại diện theo ủy quyền là bà Mai
Thu H) với bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn B (đại diện theo pháp luật là
anh Trần Lưu H1); người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm: ông Trần Duyên H, bà Lưu Thị Minh N, anh Trần Lưu H1, chị Phạm Thị V, anh Trần Lưu H2, chị Tạ Thu H, anh Nguyễn Tuấn T, chị Trần Thanh H, anh Trần Minh H, chị Đỗ Thị H.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 4 phần “Nhận định
của Toà án”.

Khái quát nội dung của án lệ:

– Tình huống án lệ 1:

Một bên thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở
hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nhưng trên đất còn có tài sản
thuộc sở hữu của người khác; hình thức và nội dung của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp
luật.

– Giải pháp pháp lý 1:

Trường hợp này, Tòa
án phải xác định hợp đồng
thế chấp có hiệu lực pháp luật.

– Tình huống án lệ 2:

Bên thế chấp và bên
nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử
dụng đất mà trên đất có nhà không thuộc sở hữu của người sử dụng đất.

– Giải pháp pháp lý 2:

Trường hợp này, khi
giải quyết Tòa án phải dành cho chủ sở hữu nhà trên đất được quyền ưu tiên nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất đó nếu họ có nhu cầu.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

Điều 342 Bộ luật
Dân sự năm 2005 (tương ứng với Điều 318 Bộ luật Dân sự năm 2015); Điều 715, Điều
721 Bộ luật Dân sự năm 2005; mục 4 khoản 19 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP
ngày 22-02-2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (pháp điển
hóa tại khoản 2 Điều 325 Bộ luật Dân sự năm 2015).

Từ khóa của án lệ:

“Thế chấp quyền sử dụng đất”; “Trên đất có tài sản của người khác”; “Công nhận hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất”; “Thỏa thuận xử lý tài sản thế chấp”; “Ưu tiên nhận chuyển nhượng”.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Tại đơn khởi kiện đề
ngày 06-10-2011 và các lời
khai tại Tòa án, nguyên đơn là Ngân hàng Thương mại cổ phần A trình bày:

Ngày 16-6-2008, Ngân hàng Thương mại cổ phần A (sau đây viết tắt
là Ngân hàng) và Công ty trách nhiệm hữu hạn B (sau đây viết tắt là Công ty B) ký Hợp đồng
tín dụng số
1702-LAV-200800142. Theo đó, Ngân hàng cho Công ty B vay 10.000.000.000 đồng và/hoặc bằng ngoại tệ tương
đương. Mục đích cấp tín dụng để bổ sung vốn lưu động phục vụ kinh doanh theo
nghề đăng ký của Công ty B.

Thực hiện hợp đồng, Ngân hàng đã giải ngân tổng cộng 3.066.191.933 đồng
cho Công ty B theo các Hợp đồng tín dụng kiêm Khế ước nhận nợ. Tính đến ngày
05-10-2011, Công ty B còn nợ gốc và lãi của 03 Khế ước là 4.368.570.503 đồng
(trong đó nợ gốc là 2.943.600.000 đồng, nợ lãi là 1.424.970.503 đồng).

Tài sản bảo đảm cho khoản vay nêu trên là nhà, đất [thửa đất số 43, tờ bản
đồ số 5I-I-33 (1996)] tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội thuộc
quyền sở hữu và sử dụng của ông Trần Duyên H và bà Lưu Thị Minh N (theo Giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở số 10107490390 do Uỷ ban nhân dân
thành phố Hà Nội cấp ngày 07-12-2000), do ông Trần Duyên H, bà Lưu Thị Minh N thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008. Hợp đồng thế chấp này được Phòng
công chứng số 6 thành phố Hà Nội công chứng ngày 11-6-2008 và Sở Tài nguyên và
Môi trường thành phố Hà Nội chứng nhận đăng ký giao dịch bảo đảm ngày
11-6-2008.

  Ngày 30-10-2009, Ngân hàng và
Công ty B tiếp tục ký Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200900583. Theo đó, Ngân
hàng cho Công ty B vay 180.000 USD. Mục đích vay để thanh toán tiền
vận chuyển hàng hóa lô hàng xuất khẩu; thời hạn vay 09 tháng; lãi suất vay
5,1%/năm; lãi suất quá hạn bằng 150%.

Thực hiện hợp đồng, Ngân hàng đã giải ngân đủ số tiền vay 180.000 USD cho
Công ty B. Công ty B mới trả cho Ngân hàng số tiền nợ gốc là 100.750 USD và số
nợ lãi là 1.334,50 USD. Tính đến ngày 05-10-2011, Công ty B còn nợ gốc là
79.205 USD và nợ lãi là 16.879,69 USD. Tổng cộng cả nợ gốc và lãi là 96.120,69
USD.

Tài sản bảo đảm cho khoản vay của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-2009058 gồm:

– Lô hàng 19 xe ô tô tải thành phẩm trọng tải 1,75 tấn hiệu JMP mới 100%
trị giá 2.778.750.000 đồng (do Công ty B lắp ráp theo phương thức hàng để kho
đơn vị, Ngân hàng giữ Giấy chứng nhận đăng kiểm chất lượng xe xuất xưởng) do
Công ty B thế chấp theo Hợp đồng thế chấp số 219/2009/EIBHBT-CC ngày
29-10-2009. Hợp đồng thế chấp này được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Cục đăng
ký giao dịch bảo đảm thành phố Hà Nội ngày 02-11-2009;

– Số dư tài khoản tiền gửi kỳ hạn 03 tháng trị giá 1.620.000.000 đồng do
Ngân hàng phát hành. Do Công ty B đã thực hiện được một phần nợ vay nên Ngân
hàng đã giải chấp số tiền 1.620.000.000 đồng tiền gửi trong tài khoản tiết kiệm
của Công ty B, tương ứng với số nợ đã thanh toán.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Ngân hàng xác nhận: đối với khoản vay
180.000 USD, Công ty B đã trả xong nợ gốc; chỉ còn lại nợ lãi là 5.392,81 USD;
tài sản bảo đảm là 19 xe ô tô, hiện đã bán 18 chiếc, còn lại 01 chiếc; đề nghị
Tòa án cho xử lý nốt chiếc xe còn lại để thu hồi nợ vay còn thiếu.

Ngân hàng yêu cầu Tòa án buộc:

– Công ty B thanh toán số nợ gốc và lãi bằng VNĐ của Hợp đồng tín dụng số
1702-LAV-200800142 là 4.368.570.503 đồng;

– Công ty B thanh toán 5.392,81 USD nợ lãi bằng USD của Hợp đồng tín dụng
số 1702-LAV-200900583.

Trong trường hợp, Công ty B không thanh toán hoặc thanh toán không đủ đề
nghị Tòa án phát mãi tài sản thế chấp là:

– Quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở tại số 432, tổ 28, phường E, quận
G, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông Trần Duyên H và bà
Lưu Thị Minh N;

– 01 xe ô tô tải thành phẩm, trọng tải 1,75 tấn, hiệu JMP mới 100% do
Công ty B lắp ráp theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 219/2009/EIBHBT-CC ngày
29-10-2009.

Đại diện bị đơn là anh Trần
Lưu H1 – Tổng Giám đốc Công ty B trình bày:
Thừa nhận số tiền nợ gốc, lãi và tài sản thế chấp
như Ngân hàng trình bày nhưng đề nghị Ngân hàng cho trả nợ dần.

Người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan là ông Trần Duyên H và bà Lưu Thị Minh N trình bày:
Ông bàthừa
nhận ký hợp đồng thế chấp nhà, đất số 432 nêu trên để bảo đảm cho khoản vay tối
đa là 3.000.000.000 đồng của Công ty B. Hợp đồng thế chấp được công chứng và
đăng ký giao dịch bảo đảm. Gia đình ông Trần Duyên H và bà Lưu Thị Minh N cũng
đã hỗ trợ Công ty trả được gần 600.000.000 đồng cho khoản vay có tài sản thế chấp
là nhà và đất của ông bà. Ông, bà đề nghị Ngân hàng gia hạn khoản nợ của Công
ty B để Công ty có thời gian phục hồi sản xuất, thu xếp trả nợ cho Ngân hàng; đề
nghị Tòa án không triệu tập các con trai, con dâu, con gái và con rể của ông bà
đến Tòa án làm việc.

Anh Trần Lưu H2 thay mặt
cho những người con, cháu của ông Trần Duyên H, bà Lưu Thị Minh N đang sống tại
nhà, đất số 432 trình bày:

Cuối năm 2010, anh mới biết bố mẹ anh thế chấp nhà đất của gia đình đang ở
để bảo đảm cho khoản vay của Công ty B. Sau khi ông Trần Duyên H, bà Lưu Thị
Minh N được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm
2000, anh Trần Lưu H2 và anh Trần Minh H đã bỏ tiền ra xây dựng thêm một ngôi
nhà 3,5 tầng trên đất và 16 người trong gia đình hiện đang ở tại nhà, đất số
432 nêu trên. Khi ký hợp đồng thế chấp, Ngân hàng không hỏi ý kiến các anh và
những người đang sinh sống tại nhà, đất này. Do đó, anh đề nghị Tòa án không
công nhận hợp đồng thế chấp và xem xét số tiền 550.000.000 đồng mà anh em các
anh đóng góp vào trả nợ cho Công ty B theo Hợp đồng tín dụng có tài sản bảo đảm
là nhà, đất số 432 nêu trên nhưng Ngân hàng tự ý trừ vào khoản vay ngoại tệ có
tài sản bảo đảm là 19 xe ô tô là không đúng.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:

– Chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần A đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn B.

– Buộc Công ty trách nhiệm
hữu hạn B phải thanh toán trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần A số tiền còn nợ
của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142, bao gồm: nợ gốc là 2.813.600.000 đồng;
nợ lãi trong hạn là 2.080.977.381 đồng; nợ lãi quá hạn tính đến ngày 23-9-2013
là 1.036.575.586 đồng; tiền lãi phạt chậm trả tính đến ngày 23-9-2013 là
123.254.156 đồng;
tổng cộng:            6.054.407.123
đồng.

– Buộc Công ty trách nhiệm
hữu hạn B phải thanh toán trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần A số tiền còn nợ
của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800583, gồm số tiền nợ lãi quá hạn là
5.392,81 USD.

Trong trường hợp Công ty
trách nhiệm hữu hạn B không trả nợ hoặc trả không đủ số tiền còn nợ của Hợp đồng
tín dụng số 1702-LAV-200800142, thì Ngân hàng Thương mại cổ phần A có quyền yêu
cầu Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội xử lý tài sản bảo đảm theo quy định
của pháp luật là quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại thửa số 43, tờ bản đồ
số 5I-I-33 (1996) theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở
số 10107490390 do Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp ngày 07-12-2000 cho ông
Trần Duyên H và bà Lưu Thị Minh N tại địa chỉ số 432, tổ 28, phường E, quận G,
thành phố Hà Nội để thu hồi nợ… 

Trường hợp Công ty trách
nhiệm hữu hạn B không trả nợ hoặc trả không đủ số tiền nợ của Hợp đồng tín dụng
số 1702-LAV-200800583, thì Ngân hàng Thương mại cổ phần A có quyền yêu cầu Cục
thi hành án dân sự thành phố Hà Nội xử lý tài sản bảo đảm là 01 chiếc xe ô tô tải,
trọng tải 1,75 tấn hiệu JMP do Công ty trách nhiệm hữu hạn B lắp ráp theo Hợp đồng
thế chấp tài sản số 219/2009/EIBHBT-CC ngày 29-10-2009 để thu hồi nợ.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo của
các đương sự theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đều có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày
07-7-2014, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định:

Giữ nguyên quyết định của
Bản án sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố
Hà Nội về Hợp đồng tín dụng, về các khoản tiền vay và tiền Công ty
trách nhiệm hữu hạn B phải trả
Ngân hàng Thương mại cổ phần A; hủy phần quyết định của Bản án sơ thẩm số
59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về phần hợp
đồng thế chấp, bảo đảm của người thứ 3, cụ thể:

…Hủy phần quyết định về hợp
đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của người thứ 3
(nhà đất số 432, tổ 28
, phường E, quận G, thành phố Hà Nội) ký ngày
11-6-2008 tại Phòng công chứng số 6 thành phố Hà Nội và đăng ký tài sản bảo đảm
tại Sở Tài nguyên và
Môi trường thành phố Hà Nội ngày 11-6-2008…

Giao hồ sơ vụ án về Tòa
án nhân dân thành phố Hà Nội để xác minh, thu thập chứng cứ và xét xử lại, xác
định phần tài sản hợp pháp thuộc sở hữu của ông Trần Duyên H, bà Lưu Thị Minh N
làm tài sản thế chấp bảo đảm cho Công ty trách nhiệm hữu hạn B đối với khoản tiền
vay ở Ngân hàng Thương mại cổ phần A theo Hợp đồng tín dụng số
1702-LAV-200800142 ngày 16-6-2008.       

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, Ngân hàng, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có
văn bản đề nghị xem xét lại bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Kháng nghị giám đốc thẩm số 14/2016/KDTM-KN ngày 12-4-2016, Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số
111/2014/KDTM-PT ngày 7-7-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà
Nội. Đề nghị Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số
111/2014/KDTM-PT ngày 7-7-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại
Hà Nội và Bản án
kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất
trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; đề nghị Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao xử hủy bản án phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa
án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Hồ sơ vụ án thể hiện, để đảm bảo cho khoản vay theo Hợp đồng tín
dụng số
1702-LAV-200800142 ngày
16-6-2008 tại Ngân hàng của Công ty B do anh Trần
Lưu H1 là con trai ông Trần Duyên H, bà Lưu Thị Minh N làm Giám đốc, thì ngày
11-6-2008, ông Trần
Duyên H và bà Lưu Thị Minh N đã thế chấp nhà, đất tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông Trần Duyên
H, bà Lưu Thị Minh N theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008. Hợp đồng
thế chấp này được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của
pháp luật.

[2] Theo Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ngày 07-12-2000, thì nhà, đất tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội (sau đây viết tắt là nhà, đất
số 432), gồm: diện tích đất ở 147,7 m2, diện tích nhà ở 85 m2,
kết cấu nhà: bê tông và xây gạch; số tầng: 02+01. Khi thẩm định tài sản thế chấp,
Ngân hàng biết trên diện tích đất 147,7 m2 ngoài căn nhà 02 tầng đã
được đăng ký sở hữu, còn có căn nhà 3,5 tầng chưa đăng ký sở hữu nhưng Ngân
hàng chỉ định giá quyền sử dụng đất và căn nhà 02 tầng đã đăng ký sở hữu với tổng
giá trị nhà, đất là 3.186.700.000 đồng, mà không thu thập thông tin, tài liệu để
xem xét làm rõ nguồn gốc cũng như ai là chủ sở hữu căn nhà 3,5 tầng là thiếu
sót, không đảm bảo quyền lợi của các đương sự.  

[3] Trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 06-6-2012, Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội đã tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ, xác định: nhà, đất số
432 có 02 khối nhà (gồm: khối nhà thứ nhất: diện tích chiếm đất là 37,5 m2,
chiều dài 5,9 m, chiều rộng 6,35 m; khối nhà thứ hai là nhà bê tông ba tầng có
ban công, diện tích 61,3 m2) và hiện có 16 người thường trú, đăng ký
dài hạn, thường xuyên sinh sống. Trước khi xét xử sơ thẩm, ngày 21-9-2013, anh
Trần Lưu H2 (con trai ông Trần Duyên H, bà Lưu Thị Minh N) có Đơn kiến nghị gửi
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cho rằng sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm 2000, do khó khăn về chỗ ở, năm 2002,
gia đình ông Trần Duyên H, bà Lưu Thị Minh N đã thống nhất để anh Trần Lưu H2
và những người con của ông Trần Duyên H, bà Lưu Thị Minh N bỏ tiền ra xây dựng
thêm căn nhà 3,5 tầng bên cạnh căn nhà 02 tầng cũ trên thửa đất nói trên. Như vậy,
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội biết trên thực tế hiện trạng thửa đất khi thế
chấp đã có 02 căn nhà (căn nhà 02 tầng cũ và căn nhà 3,5 tầng) không đúng theo
Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm 2000 và Hợp đồng
thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008. Khi giải
quyết vụ án, mặc dù Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có xem xét yêu cầu của anh
Trần Lưu H2 và những người con ông Trần Duyên H, bà Lưu Thị Minh N liên quan đến
căn nhà 3,5 tầng nhưng Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội không quyết định rõ có
xử lý phát mãi căn nhà 3,5 tầng hay không là không đúng, không đảm bảo quyền, lợi
ích hợp pháp của các đương sự.

[4] Theo quy định tại mục 4 khoản 19 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP
ngày 22-02-2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm: “Trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng
đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất không đồng
thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì khi xử lý quyền sử dụng đất, chủ
sở hữu tài sản gắn liền với đất được tiếp tục sử dụng đất theo như thỏa thuận
giữa người sử dụng đất và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác. Quyền và nghĩa vụ giữa bên thế chấp và chủ sở hữu tài sản gắn
liền với đất được chuyển giao cho người mua, người nhận chính quyền sử dụng đất”.

Trong vụ án này, khi ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất, bên thế chấp (ông Trần Duyên H, bà Lưu Thị Minh N) và bên nhận thế
chấp (Ngân hàng) đều biết rõ trên thửa đất của ông Trần Duyên H, bà Lưu Thị
Minh N ngoài căn nhà 02 tầng đã được đăng ký quyền sở hữu thì trên đất còn có một
căn nhà 3,5 tầng chưa được đăng ký quyền sở hữu nhưng các bên chỉ thỏa thuận thế
chấp tài sản gồm quyền sử dụng đất và căn nhà 02 tầng gắn liền với đất. Trường
hợp trên đất có nhiều tài sản gắn liền với đất mà có tài sản thuộc sở hữu của
người sử dụng đất, có tài sản thuộc sở hữu của người khác mà người sử dụng đất
chỉ thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của
mình, hợp đồng thế chấp có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp
luật thì hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm
xác định Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày
11-6-2008 có một phần bị vô hiệu (phần có căn nhà 3,5 tầng); xử hủy phần quyết
định của bản án sơ thẩm về phần hợp đồng thế chấp và giao hồ sơ cho Tòa án nhân
dân thành phố Hà Nội để xác minh, thu thập chứng cứ xác định phần tài sản hợp
pháp thuộc sở hữu của ông Trần Duyên H, bà Lưu Thị Minh N và xét xử lại là
không đúng. Lẽ ra, với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Tòa án cấp
phúc thẩm cần xem xét, quyết định về xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất
và căn nhà thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông Trần Duyên H, bà Lưu Thị Minh N
theo quy định của pháp luật. Khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm cần
yêu cầu đương sự cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh nguồn gốc hình
thành căn nhà 3,5 tầng nêu trên để giải quyết vụ án bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp cho những người đã bỏ tiền ra xây dựng nhà và đang sinh sống tại đó. Đồng
thời, Tòa án cấp phúc thẩm cần hỏi ý kiến, động viên, khuyến khích các đương sự
thỏa thuận xử lý tài sản thế chấp. Trường hợp bên thế chấp và bên nhận thế chấp
thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng diện
tích đất mà trên đất có nhà thuộc sở hữu của người khác không phải là người sử
dụng đất thì cần dành cho chủ sở hữu nhà đó được quyền ưu tiên nếu họ có nhu cầu
mua (nhận chuyển nhượng).

[5] Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ theo thỏa thuận của các bên tại
khoản 5.4 Điều 5 Hợp đồng tín dụng về lãi phạt chậm trả trên số lãi chưa thanh
toán “lãi phạt chậm trả là quá 10 ngày kể
từ ngày đáo hạn, mức lãi phạt là 2% trên số lãi chưa thanh toán; quá 30 ngày kể
từ ngày đáo hạn, mức lãi phạt là 5% trên số lãi chưa thanh toán”
để chấp nhận
yêu cầu của Ngân hàng buộc Công ty B phải trả số tiền lãi phạt chậm trả123.254.156
đồng là không đúng pháp luật, không được chấp nhận vì đây là lãi chồng lãi. Tòa
án cấp phúc thẩm không phát hiện ra sai sót này, vẫn giữ nguyên quyết định này
của bản án sơ thẩm cũng là không đúng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 337, khoản 3 Điều 343, Điều
345 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày
25-11-2015 về việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự;

1. Chấp nhận Kháng nghị giám đốc thẩm số 14/2016/KDTM-KN ngày 12-4-2016 của
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

2.  Hủy Bản án kinh doanh, thương mại
phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 07-7-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân
tối cao tại Hà Nội về vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn là
Ngân hàng Thương mại cổ phần A, bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn B và 10 người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

3. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử lại
theo thủ tục phúc thẩm đúng quy định của pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

 “[4] Trường hợp
trên đất có nhiều tài sản gắn liền với đất mà có tài sản thuộc sở hữu của người
sử dụng đất, có tài sản thuộc sở hữu của người khác mà người sử dụng đất chỉ thế
chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình, hợp đồng
thế chấp có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật thì hợp đồng
thế chấp có hiệu lực pháp luật

Trường hợp
bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản
bảo đảm là quyền sử dụng diện tích đất mà trên đất có nhà thuộc sở hữu của người
khác không phải là người sử dụng đất thì cần dành cho chủ sở hữu nhà đó được
quyền ưu tiên nếu họ có nhu cầu mua (nhận chuyển nhượng).

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Án lệ số 04/2016/AL

Được
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016
và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết
định giám đốc thẩm số 04/2010/QĐ-HĐTP ngày 03-3-2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất” tại thành phố Hà Nội giữa nguyên đơn là bà Kiều Thị Tý, ông Chu Văn Tiến
với bị đơn là ông Lê Văn Ngự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Lê
Thị Quý, bà Trần Thị Phấn, anh Lê Văn Tám, chị Lê Thị Tưởng, anh Lê Đức Lợi,
chị Lê Thị Đường, anh Lê Mạnh Hải, chị Lê Thị Nhâm.

Khái quát nội dung của án lệ:

Trường
hợp nhà đất là tài sản chung của vợ chồng mà chỉ có một người đứng tên ký hợp
đồng chuyển nhượng nhà đất đó cho người khác, người còn lại không ký tên trong
hợp đồng; nếu có đủ căn cứ xác định bên chuyển nhượng đã nhận đủ số tiền theo
thỏa thuận, người không ký tên trong hợp đồng biết và cùng sử dụng tiền chuyển
nhượng nhà đất; bên nhận chuyển nhượng nhà đất đã nhận và quản lý, sử dụng nhà
đất đó công khai; người không ký tên trong hợp đồng biết mà không có ý kiến
phản đối gì thì phải xác định là người đó đồng ý với việc chuyển nhượng nhà
đất.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:


Khoản 2 Điều 176 của Bộ luật Dân sự năm 1995;


Điều 15 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986.

Từ khóa của án lệ:

“Tranh
chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”; “Định đoạt tài sản chung của vợ
chồng”; “Xác lập quyền sở hữu theo thỏa thuận”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại
đơn khởi kiện đề ngày 05-11-2007 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là
bà Kiều Thị Tý trình bày:

Năm
1996, vợ chồng bà có mua 02 căn nhà cấp 4 trên diện tích đất thổ cư khoảng
160m2 của gia đình ông Lê Văn Ngự tại xã Xuân La, huyện Từ Liêm, thành phố Hà
Nội (nay là Tổ 11, Cụm 2, phường Xuân La, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội). Việc
mua bán hai bên có lập hợp đồng, có ghi rõ những tài sản, nhà trên đất và các
mặt tiếp giáp của thửa đất. Do vợ chồng bà chưa có hộ khẩu thường trú tại Hà
Nội, nên chính quyền địa phương không xác nhận việc mua bán giữa gia đình bà và
gia đình ông Ngự. Giá mua là 110 cây vàng, bà đã trả đủ cho vợ chồng ông Ngự và
gia đình ông Ngự đã giao nhà, đất cho bà quản lý, sử dụng.

Sau
khi mua bán nhà đất, gia đình ông Ngự xây nhà mới có mượn vợ chồng bà ngôi nhà
(phía trong) để sử dụng và chứa nguyên vật liệu, còn diện tích nhà giáp mặt
đường Xuân La bà đã cho cháu họ của bà ở nhờ để đi học. Khi gia đình ông Ngự
làm nhà xong đã trả lại nhà, đất cho bà. Bà đã phá dỡ nhà cũ, tôn nền và xây
nhà mới như hiện nay để các cháu ở nhờ; năm 2001, bà cho thuê làm xưởng mộc,
sau đó bà không cho thuê nữa, đóng cửa không sử dụng.

Năm
2006 (sau khi bà nhập khẩu về Hà Nội), khi bà làm thủ tục xin cấp giấy tờ về
quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở thì vợ chồng ông Ngự đã gây khó khăn,
vì cho rằng bà còn thiếu hơn 03 cây vàng và vợ chồng ông chỉ bán nhà, đất phía
trong, còn nhà, đất giáp mặt đường Xuân La vẫn là nhà, đất của gia đình ông.
Cuối năm 2006, ông Ngự đã tự ý phá cửa vào ở và xây một bức tường ngăn giữa
phần mái hiên của căn nhà cấp 4 giáp mặt đường Xuân La (hiện nay đang cho người
khác thuê làm cửa hàng cắt tóc). Bà đề nghị Tòa án buộc gia đình ông Ngự phải
thực hiện đúng như hợp đồng đã ký kết và buộc gia đình ông Ngự trả nhà đất
(phần diện tích mặt đường Xuân La).

Bị
đơn là ông Lê Văn Ngự trình bày:

Năm
1996, gia đình ông có nhượng bán một phần nhà, đất cho vợ chồng ông Tiến, bà
Tý. Hai bên thỏa thuận, gia đình ông bán cho vợ chồng ông Tiến, bà Tý phần nhà,
đất có vị trí giáp đường Xuân La, chiều ngang 07m, chiều dài hết khổ đất của
gia đình ông. Hai bên thống nhất trừ 21m2 mặt đường do Nhà nước đã cắm mốc chỉ
giới mở đường, nên chỉ bán nhà cấp 4 trên phần diện tích đất là 140m2.

Giá
mua nhà, đất là 6 chỉ vàng/m2 đối với 42m2 đất mặt đường là 25 cây 02 chỉ; 9
chỉ/m2 đối với 98m2 đất phía trong là 88,2 cây vàng. Tổng cộng là 113,4 cây
vàng, phía ông Tiến, bà Tý mới trả cho gia đình ông 110 cây vàng, còn nợ lại
3,4 cây vàng.

Gia
đình ông đã giao nhà, đất cho bà Tý nhưng còn 21m2 giáp mặt đường, trong chỉ
giới mở đường, gia đình ông vẫn quản lý, sử dụng. Hiện nay, Nhà nước đã thay
đổi quy hoạch, không mở đường về phía nhà, đất của gia đình ông, nên phần diện
tích này thuộc quyền quản lý, sử dụng của gia đình ông, diện tích nhà, đất của
ông Tiến, bà Tý mua không có lối đi vào.

Nay
bà Tý kiện đòi 21m2 mặt đường Xuân La, ông không chấp nhận. Nếu ông Tiến, bà Tý
muốn quản lý, sử dụng phần diện tích mặt đường và có lối đi vào nhà, đất bên
trong thì phải cắt trả cho gia đình ông 2m chiều ngang mặt đường và chiều dài
hết khổ đất, đồng thời phải thanh toán trả cho gia đình ông 160 triệu đồng nữa.

Người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:


Trần Thị Phấn thống nhất với lời khai của ông Ngự.

Anh
Lê Đức Lợi, anh Lê Văn Tám, anh Lê Mạnh Hải, chị Lê Thị Đường, chị Lê Thị Tưởng
và chị Lê Thị Nhâm có lời khai thống nhất với lời khai của ông Ngự.

Tại
Bản án dân sự sơ thẩm số 27/2008/DS-ST ngày 25-4-2008, Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội đã quyết định:

Chấp
nhận yêu cầu khởi kiện đòi lại nhà đất 23,4m2 tại 39 đường Xuân La của vợ chồng
bà Kiều Thị Tý, ông Chu Văn Tiến đối với gia đình ông Lê Văn Ngự, bà Trần Thị
Phấn.

Buộc
gia đình ông Lê Văn Ngự, bà Trần Thị Phấn, bà Lê Thị Quý (người thuê nhà) và
các con ông Lê Văn Ngự phải trả lại toàn bộ diện tích nhà đất 23,4m2 tại số 39,
đường Xuân La, phường Xuân La, quận Tây Hồ cho gia đình bà Tý, ông Tiến (do bà
Tý đại diện).

Buộc
bà Tý phải thanh toán cho gia đình ông Ngự số tiền là 13.759.000 đồng giá trị
xây dựng, cải tạo tại diện tích 23,4m2; bà Tý được sở hữu vật liệu công sức ở
diện tích này.


Tý được chủ động mở lối ra vào diện tích nhà đất phía trong và được xây bịt lối
đi phía sau sang đất nhà ông Ngự, bà Phấn. 

Ông
Ngự, bà Phấn cùng với bà Tý có trách nhiệm đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền
để hoàn tất thủ tục sang tên phần nhà đất đã nhượng bán. Nếu phía gia đình ông
Ngự gây khó khăn thì bà Tý được chủ động đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền kê
khai để làm thủ tục để sang tên, đăng ký quyền sở hữu nhà và sử dụng đất.

Ngoài
ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo của
các đương sự.

Ngày
08-5-2008, ông Lê Văn Ngự, bà Trần Thị Phấn có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất ký với vợ chồng bà Kiều Thị
Tý và ông Chu Văn Tiến với lý do việc ký hợp đồng, nhận tiền mua bán nhà, đất
chỉ do ông Ngự thực hiện, bà Phấn là vợ không biết.

Tại
Quyết định số 02/QĐ-VKSNDTC-VPT1 ngày 28-5-2008, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao kháng nghị đề nghị Hội đồng xét xử Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân
tối cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm buộc ông Ngự phải tháo dỡ phần xây dựng
trái phép trên diện tích nhà đất của bà Tý trả lại nguyên trạng ban đầu. Bà Tý
không phải bồi thường cho ông Ngự số tiền 13.759.000 đồng; đồng thời đề nghị
xem xét lại án phí dân sự sơ thẩm cho ông Ngự, bà Tý.

Tại
Bản án dân sự phúc thẩm số 162/2008/DS-PT ngày 04-9-2008, Tòa Phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại Hà Nội đã quyết định không chấp nhận kháng cáo của ông Lê
Văn Ngự và bà Trần Thị Phấn, chấp nhận Quyết định kháng nghị số
02/QĐ-VKSNDTC-VPT1 ngày 28-5-2008 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, sửa một
phần Bản án sơ thẩm như sau:

Chấp
nhận yêu cầu đòi lại nhà, đất có diện tích 23,4m2 tại số 39 đường Xuân La của
vợ chồng bà Kiều Thị Tý và ông Chu Văn Tiến đối với vợ chồng ông Lê Văn Ngự, bà
Trần Thị Phấn.

Buộc
ông Ngự, bà Phấn cùng các con của ông Ngự và bà Phấn gồm các anh: Lê Đức Lợi,
Lê Văn Tám, Lê Mạnh Hải và các chị: Lê Thị Đường, Lê Thị Tưởng, Lê Thị Nhâm và
bà Lê Thị Quý (người thuê nhà của ông Ngự) phải trả lại toàn bộ diện tích nhà,
đất là 23,4m2 tại số 39 đường Xuân La, phường Xuân La, quận Tây Hồ, thành phố
Hà Nội cho vợ chồng bà Kiều Thị Tý, ông Chu Văn Tiến (do bà Tý làm đại diện).

Về
giá trị xây dựng, cải tạo tại diện tích 23,4m2 là 13.759.000 đồng, vợ chồng ông
Lê Văn Ngự, bà Trần Thị Phấn phải tự chịu. Vợ chồng ông Ngự, bà Phấn phải phá
dỡ phần xây dựng, cải tạo tại diện tích trên để trả lại nguyên trạng cho vợ
chồng bà Tý, ông Tiến. Chi phí phá dỡ do vợ chồng ông Ngự, bà Phấn phải chịu.


Tý được quyền chủ động mở lối ra vào diện tích nhà, đất phía trong và được xây
bịt lối đi phía sau sang nhà, đất của vợ chồng ông Ngự, bà Phấn.

Ông
Ngự, bà Phấn cùng với bà Tý có trách nhiệm đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền
để hoàn tất thủ tục sang tên phần diện tích nhà, đất đã nhượng bán cho vợ chồng
bà Tý, ông Tiến. Nếu gia đình ông Ngự gây khó khăn thì bà Tý được chủ động đến
cơ quan nhà nước có thẩm quyền để kê khai, làm các thủ tục sang tên đăng ký
quyền sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà ở.

Ngoài
ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Sau
khi xét xử phúc thẩm tại các đơn khiếu nại đề ngày 21-10-2008 và ngày
22-10-2008 của ông Ngự, bà Phấn đều cho rằng nhà, đất tại số 39 đường Xuân La
là tài sản chung của gia đình ông, bà; ông Ngự đã tự ý đứng ra bán cho vợ chồng
bà Tý, ông Tiến mà không được sự đồng ý của bà Phấn là không đúng; đề nghị
tuyên bố hợp đồng này là vô hiệu.

Tại
Quyết định số 63/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 14-5-2009, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao đã kháng nghị Bản án phúc thẩm nêu trên và đề nghị Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hủy Bản án dân sự
phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 27/2008/DS-ST ngày 25-4-2008
của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại. Với nhận định:

Năm
1996, vợ chồng ông Chu Văn Tiến và bà Kiều Thị Tý có mua 02 căn nhà cấp 4 trên
diện tích đất thổ cư giáp mặt đường Xuân La có chiều ngang 7m, chiều dài hết
khổ đất của gia đình ông Lê Văn Ngự tại xã Xuân La, huyện Từ Liêm (nay là
phường Xuân La, quận Tây Hồ). Hai bên có làm giấy viết tay mua bán chuyển
nhượng nhà đất, nhưng sau đó không thực hiện các thủ tục theo quy định của pháp
luật. Sau khi mua, bà Tý đã phá cả hai căn nhà trên để làm lại, tôn nền, xây
lại móng, tường lợp ngói như hiện nay. Cuối năm 2005, khi bà Tý đề nghị làm thủ
tục xin cấp giấy tờ về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở thì gia đình
ông Ngự tranh chấp cho rằng bà Tý còn nợ 3,4 cây vàng và chỉ bán diện tích nhà
đất phía trong, còn diện tích nhà đất giáp mặt đường Xuân La vẫn là nhà đất của
gia đình ông.

Cuối
năm 2006, hai bên có xảy ra xô sát tranh chấp diện tích nhà đất 21m2 phía mặt
đường Xuân La, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.

Ngày
29-10-2007, bà Kiều Thị Tý và ông Chu Văn Tiến khởi kiện

đòi
quyền sở hữu nhà đất thông qua hợp đồng mua bán nhà đất được xác lập ngày
26-4-1996 giữa vợ chồng ông Lê Văn Ngự, bà Trần Thị Phấn với vợ chồng bà Kiều
Thị Tý, ông Chu Văn Tiến. Hợp đồng mua bán nhà đất giữa


Tý, ông Tiến với vợ chồng ông Ngự, bà Phấn chưa tuân thủ theo quy định của pháp
luật cả về hình thức và nội dung của hợp đồng; trong khi gia đình ông Ngự cho
rằng vợ chồng ông Tiến, bà Tý còn nợ 3,4 cây vàng và không bán diện tích nhà
đất giáp mặt đường Xuân La; cho nên vợ chồng ông Ngự, bà Phấn không đồng ý cho
vợ chồng ông Tiến, bà Tý làm thủ tục sang tên đăng ký quyền sở hữu nhà và quyền
sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Hiện nay toàn bộ diện tích nhà đất
theo hợp đồng mua bán chuyển nhượng trên vẫn đứng tên vợ chồng ông Ngự, bà
Phấn.

Tòa
án hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ
án này là “Tranh chấp quyền sở hữu nhà đất” và áp dụng các Điều 255 và Điều 256
của Bộ luật Dân sự để chấp nhận yêu cầu đòi lại nhà đất của vợ chồng bà Kiều
Thị Tý, ông Chu Văn Tiến đối với vợ chồng ông Lê Văn Ngự, bà Trần Thị Phấn là
không đúng, như vậy là đương nhiên công nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử
dụng đất ở đối với toàn bộ diện tích nhà đất chuyển nhượng trên cho vợ chồng bà
Tý, ông Tiến; trong khi hợp đồng chuyển nhượng nhà đất trên vẫn còn tranh chấp
chưa thể làm thủ tục sang tên, đăng ký quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất
ở cho vợ chồng bà Tý, ông Tiến được. Do vậy, cần phải hủy cả hai bản án dân sự
sơ thẩm, phúc thẩm nêu trên; giao về xét xử sơ thẩm lại để xác định đúng quan
hệ pháp luật tranh chấp, đảm bảo quyền lợi của các bên đương sự và lợi ích của
Nhà nước.

Tại
phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định:

Căn
cứ vào đơn khởi kiện đề ngày 05-11-2007 và các lời khai của bà Tý, ông Tiến
trong quá trình giải quyết vụ án thì bà Tý, ông Tiến yêu cầu ông Ngự, bà Phấn
trả lại toàn bộ nhà, đất mà ông bà đã nhận chuyển nhượng của ông Ngự, bà Phấn
đang do vợ chồng ông Ngự chiếm giữ, đồng thời yêu cầu ông Ngự, bà Phấn dỡ bỏ
phần xây dựng trái phép trên diện tích đất trên. Như vậy, nguyên đơn có yêu cầu
đòi quyền sở hữu nhà, đất mà ông Ngự, bà Phấn đã sang nhượng theo hợp đồng
chuyển nhượng nhà, đất lập ngày 26-4-1996. Trong khi đó, ông Ngự, bà Phấn cho
rằng phần đất có tranh chấp vẫn là của ông bà, vì ông bà chưa chuyển nhượng cho
bà Tý, ông Tiến. Do đó, có cơ sở xác định các đương sự tranh chấp về quyền sở
hữu tài sản và tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất, nhưng Tòa án cấp sơ
thẩm và phúc thẩm chỉ xác định quan hệ pháp luật cần giải quyết là vụ án tranh
chấp quyền sở hữu nhà, đất là chưa đầy đủ. Tuy nhiên, trong thực tế Tòa án cấp
sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã xem xét giải quyết về hai quan hệ tranh chấp
này. Do vậy, Kháng nghị số 63/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 14-5-2009 của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm
xác định sai quan hệ pháp luật có tranh chấp và cần phải hủy cả hai bản án nêu
trên để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm là chưa chính xác và không cần thiết.

Về
hợp đồng mua bán nhà, đất ngày 26-4-1996: Việc chuyển nhượng nhà, đất diễn ra
từ năm 1996, sau khi mua nhà, đất, ông Tiến, bà Tý đã trả đủ tiền, nhận nhà
đất, tôn nền đất, sửa lại nhà và cho các cháu đến ở. Trong khi đó gia đình ông
Ngự, bà Phấn vẫn ở trên diện tích đất còn lại, liền kề với nhà ông Tiến, bà Tý.
Theo lời khai của các người con ông Ngự, bà Phấn thì sau khi bán nhà, đất cho
vợ chồng bà Tý, ông Ngự, bà Phấn đã phân chia vàng cho các người con. Mặt khác,
sau khi chuyển nhượng và giao nhà đất cho ông Tiến, bà Tý thì ngày 26-4-1996,
ông Ngự còn viết “giấy cam kết” có nội dung mượn lại phần nhà đất đã sang
nhượng để ở khi xây dựng lại nhà trên phần đất còn lại và trong thực tế vợ
chồng bà Phấn, ông Ngự đã sử dụng phần nhà đất của bà Tý, ông Tiến khi xây dựng
nhà. Như vậy, có cơ sở xác định bà Phấn biết có việc chuyển nhượng nhà, đất
giữa ông Ngự với vợ chồng ông Tiến và bà Tý, bà Phấn đã đồng ý, cùng thực hiện
nên việc bà Phấn khiếu nại cho rằng ông Ngự chuyển nhượng nhà đất cho vợ chồng
bà Tý bà không biết là không có căn cứ.

Trong
quá trình giải quyết vụ án, ông Ngự, bà Phấn còn cho rằng giá mua bán nhà, đất
là 113,4 cây vàng. Tuy nhiên, ông bà không đưa ra được tài liệu chứng cứ chứng
minh cho vấn đề này. Theo nội dung bản hợp đồng mua bán nhà, đất ngày 26-4-1996
thì số tiền hai bên thỏa thuận là 110 cây vàng và trong giấy thanh toán ngày
09-5-2000, ông Ngự ký xác nhận “tôi đã nhận đủ số tiền còn lại do bán nhà, đất
cho anh Tiến và chị Tý…”. Phần ghi chú có ghi thêm, tổng số vàng tôi đã nhận
trước và hiện nay là 110 cây. Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định giá mua bán
nhà đất là 110 cây vàng và vợ chồng ông Ngự, bà Phấn đã nhận đủ số tiền.

Tuy
tại hợp đồng mua bán nhà đất nêu trên hai bên không thể hiện cụ thể diện tích
đất chuyển nhượng, nhưng hai bên thỏa thuận rõ ranh giới tứ cận “chiều ngang
mảnh đất là 07m kể từ mép tường phân cách với nhà ông Tay; phía Đông Bắc giáp
đường Xuân La – Xuân Đỉnh; Đông Nam giáp đất của ông Lê Văn Tay; Tây Nam giáp
đất của bà Lê Thị Soát, ông Vinh; Tây Bắc giáp phần đất còn lại của gia đình
ông Ngự. Chiều dài mảnh đất giáp đường Xuân La – Xuân Đỉnh đến hết khổ đất…”.

Ngoài
ra, các bên còn thỏa thuận, phần đất phía trước khi nào Nhà nước sử dụng làm
đường, thì ông Tiến được hưởng toàn bộ chế độ đền bù của Nhà nước. Như vậy,
thửa đất mà hai bên thỏa thuận chuyển nhượng là từ mép đường Xuân La – Xuân
Đỉnh vào hết khổ đất bao gồm cả diện tích đất có tranh chấp.

Do
vậy, Tòa án các cấp xác định, diện tích 23,4m2 giáp đường Xuân La – Xuân Đỉnh
nằm trong diện tích đất mà ông Ngự đã thỏa thuận chuyển nhượng cho vợ chồng bà
Tý, đồng thời xác định vợ chồng bà Tý đã thanh toán đủ 110 cây vàng theo hợp
đồng và đã nhận nhà đất, từ đó, buộc gia đình ông Ngự phải trả lại toàn bộ diện
tích nhà, đất 23,4m2 tại số 39 đường Xuân La, phường Xuân La, quận Tây Hồ,
thành phố Hà Nội cho vợ chồng bà Kiều Thị Tý và ông Chu Văn Tiến là có căn cứ.

Bởi
các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 1 Điều 297 Bộ luật Tố tụng dân
sự,

QUYẾT ĐỊNH

Không
chấp nhận Kháng nghị số 63/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 14-5-2009 của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao; giữ nguyên Bản án phúc thẩm số 162/2008/DS-PT ngày
04-9-2008 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội.

NỘI DUNG ÁN LỆ

 “Về hợp đồng mua bán nhà, đất ngày 26-4-1996:
Việc chuyển nhượng nhà, đất diễn ra từ năm 1996, sau khi mua nhà, đất, ông
Tiến, bà Tý đã trả đủ tiền, nhận nhà đất, tôn nền đất, sửa lại nhà và cho các
cháu đến ở. Trong khi đó gia đình ông Ngự, bà Phấn vẫn ở trên diện tích đất còn
lại, liền kề với nhà ông Tiến, bà Tý. Theo lời khai của các người con ông Ngự,
bà Phấn thì sau khi bán nhà, đất cho vợ chồng bà Tý, ông Ngự, bà Phấn đã phân
chia vàng cho các người con. Mặt khác, sau khi chuyển nhượng và giao nhà đất
cho ông Tiến, bà Tý thì ngày 26-4-1996, ông Ngự còn viết “giấy cam kết” có nội
dung mượn lại phần nhà đất đã sang nhượng để ở khi xây dựng lại nhà trên phần
đất còn lại và trong thực tế vợ chồng bà Phấn, ông Ngự đã sử dụng phần nhà đất
của bà Tý, ông Tiến khi xây dựng nhà. Như vậy, có cơ sở xác định bà Phấn biết
có việc chuyển nhượng nhà, đất giữa ông Ngự với vợ chồng ông Tiến và bà Tý, bà
Phấn đã đồng ý, cùng thực hiện nên việc bà Phấn khiếu nại cho rằng ông Ngự
chuyển nhượng nhà đất cho vợ chồng bà Tý bà không biết là không có căn cứ.”

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Án lệ số 10/2016/AL

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua
ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17
tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc
thẩm số 08/2014/HC-GĐT ngày 19-8-2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao về vụ án hành chính “Khiếu kiện Quyết định bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất” tại tỉnh Vĩnh Long
giữa người khởi kiện là bà Võ Thị Lựu với người bị kiện là Ủy ban
nhân dân tỉnh Vĩnh Long.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 1 phần “Xét thấy”
của quyết định giám đốc thẩm nêu trên.

Khái
quát nội dung của án lệ:

– Tình huống
án lệ:

Quyết định về việc phê
duyệt phương án hỗ trợ và tái định cư của Ủy ban nhân dân tỉnh có nội dung dẫn
chiếu đến văn bản khác mà văn bản đó có nội dung tác động trực tiếp đến quyền
và lợi ích của người khởi kiện.

– Giải pháp pháp lý:

Trường
hợp này, nội dung của văn bản được dẫn chiếu thuộc quyết định hành chính và quyết
định hành chính đó là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

– Khoản 1 Điều 3 và
khoản 1 Điều 28 Luật tố tụng hành chính năm 2010 (tương ứng với khoản 1
Điều 3 và khoản 1 Điều 30 Luật tố tụng hành chính năm 2015);

– Các điều 41, 42 Luật
đất đai năm 2003;

– Nghị định số
197/NĐ-CP ngày 03-12-2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất;

– Nghị định số
69/2009/NĐ-CP ngày 13-8-2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng
đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.

Từ khóa
của án lệ:

“Quyết định hành
chính”; “Đối tượng khởi kiện vụ án hành chính”; “Thu hồi đất”; “Bồi thường,
tái định cư cho người có đất bị thu hồi”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ngày 07-4-2008, Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long
ban hành Quyết định số 567/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án tổng thể về bồi
thuờng, hỗ trợ và tái định cư dự án xây dựng Trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh
Vĩnh Long tại xã Tân An Luông, huyện Vũng Liêm, có nội dung:

“Phê duyệt phương án tổng thể về bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư dự án xây dựng Trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh Vĩnh
Long:

Tổng diện tích đất dự kiến thu hồi: 122.909m2

Tổng giá trị bồi thường dự kiến:
7.342.730.000đ”.

Ngày 17-9-2008, Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long
ban hành Quyết định số 1768/QĐ-UBND, nội dung: Thu hồi 117.863,lm2 đất
tại xã Tân An Luông, huyện Vũng Liêm do hộ gia đình, cá nhân và tổ chức quản lý
sử dụng để thực hiện dự án xây dựng trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh và
giao cho Ủy ban nhân dân huyện Vũng Liêm quyết định thu hồi đất.

Ngày 02-10-2008, Ủy ban nhân dân huyện Vũng
Liêm ban hành Quyết định số 2592/QĐ-UBND, nội dung: Thu hồi 2.353,1m2
đất của bà Võ Thị Lựu, chiết thửa số 222, loại đất trồng lúa thuộc tờ bản đồ số
03, tọa lạc tại ấp Rạch Cốc, xã Tân An Luông, huyện Vũng Liêm để xây dựng trại
giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long.

Ngày 01-12-2008, Ban bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư huyện Vũng Liêm tiến hành lập tờ khai và kiểm kê về nhà, đất, cây trồng
và vật kiến trúc của các hộ bị ảnh hưởng giải tỏa thuộc dự án xây dựng Trại giống
vật nuôi nông nghiệp tỉnh.

Ngày 15-5-2009, Sở Tài chính tỉnh Vĩnh Long có
Tờ trình số 177/TTr.STC gửi Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long về việc xin phê duyệt
phương án đền bù giải tỏa mặt bằng công trình Trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh
Vĩnh Long, theo đó hộ bà Lựu được bồi thường hỗ trợ về đất số tiền là
155.155.000đ (theo quyết định thì giá đất bồi thường cho bà Lựu với giá là
50.000đ/m2); bồi thường hỗ trợ về tài sản trên đất, ổn định cuộc sống
và đào tạo nghề số tiền là 19.286.200đ; tổng số tiền là 174.441.200đ.

Ngày 04-6-2009, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh
Vĩnh Long ban hành Quyết định số 1216/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh tại
xã Tân An Luông, huyện Vũng Liêm, nội dung:

“Điều 1. Phê duyệt phương án bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư công trình: Trại giống vật
nuôi nông nghiệp tỉnh, tại xã Tân An Luông, huyện Vũng Liêm;

1. Tổng giá
trị bồi thường, hỗ trợ và tái định cư: 9.467.085.000đ, bao gồm:

– Giá trị bồi thường, hỗ
trợ về đất: 8.071.914.000đ

– Giá trị nhà và vật kiến trúc: 161.560.000đ

– Giá trị cây trồng: 273.152.000đ

– Các khoản hỗ trợ: 654.600.000đ

– Các phí khác (chi phí các hội đồng 2%, chi phí đo
đạc): 305.859.000đ

2. Kinh phí: Trong tổng dự toán
công trình do chủ đầu tư chi trả;

Điều 2. Căn cứ vào Điều 1 của Quyết định này, Giám
đốc Sở Tài chính, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân huyện Vũng Liêm, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư huyện Vũng Liêm có trách nhiệm:

– Chủ tịch Ủy ban nhân dân
huyện Vũng Liêm chỉ đạo Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư huyện Vũng
Liêm tổ chức chi trả bồi thường đúng theo quy định hiện hành của Nhà nước và giải phóng
mặt bằng cho đơn vị thi công,

– Giám đốc Sở Tài chính chịu
trách nhiệm trước ủy ban nhân dân tỉnh về kết quả các số liệu, khối lượng và
đơn giá, trong tờ trình số 177/TTr.STC ngày 15/5/2009”.

Không đồng ý với quyết định nêu trên, bà Lựu
có đơn khiếu nại yêu cầu nâng giá bồi thường. 

Ngày 28-10-2009, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện
Vũng Liêm ban hành Quyết định số 2023/QĐ-UBND không chấp nhận khiếu nại của bà
Lựu.

Ngày 08-8-2011, bà Lựu có đơn khởi kiện tại
Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long yêu cầu hủy Quyết định số 1216/QĐ-UBND ngày
04-6-2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long đối với phần áp giá, bồi thường;
yêu cầu giải quyết lại nâng giá bồi thường đất bằng với giá thị trường
chuyển nhượng ở nơi có đất thu hồi.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 12/2012/HC-ST
ngày 18-12-2012, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã bác yêu cầu khởi kiện của bà
Võ Thị Lựu.

Ngày 29-12-2012, bà Lựu có đơn kháng cáo.

Tại Bản án hành chính phúc thẩm số
96/2013/HCPT ngày 25-4-2013, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố
Hồ Chí Minh đã hủy Bản án hành chính sơ thẩm số 12/2012/HCST ngày 18-12-2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh
Long và đình chỉ giải quyết vụ án.

Ngày 28-6-2013, Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long
có Công văn số 1816/UBND-NC và ngày 02-8-2013, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân
tỉnh Vĩnh Long có Công văn số 547/TAT-HC đề nghị giám đốc thẩm Bản án hành
chính phúc thẩm nêu trên.

Tại Quyết định số 05/2014/KN-HC ngày
05-3-2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án hành chính
phúc thẩm số 96/2013/HC-PT ngày 25-4-2013 của
Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đổc thẩm hủy Bản án hành chính
phúc thẩm nêu trên và giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối
cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện viện kiểm
sát nhân dân tối cao nhất trí với Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao.

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
nhận định:

Theo
Điều 2 của Quyết định số 1216/QĐ-UBND ngày 04-6-2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh
Vĩnh Long về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công
trình Trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh có quy định “Giám đốc Sở Tài chính chịu
trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân tỉnh
về kết quả các số liệu, khối lượng và đơn giá, trong tờ trình số 177/TTr.STC
ngày 15-5-2009”. Theo Tờ trình 177/TTr ngày 15-5-2009 của Sở Tài chính có quy định phần
bồi thường cụ thể cho hộ bà Lựu, nên phần phê duyệt đó tác động trực tiếp, cụ
thể đến quyền và lợi ích của hộ bà Lựu, là đối tượng khởi kiện vụ án hành
chính.

Vì vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã thụ
lý giải quyết yêu cầu khởi kiện của bà Lựu về phần bồi thường hỗ trợ cho gia
đình bà trong Quyết định số 1216/QĐ-UBND ngày 04-6-2009 là đúng với quy định tại
khoản 1 Điều 3 và khoản 1 Điều 28 Luật Tố tụng hành chính. Tuy nhiên, Tòa án cấp
sơ thẩm chưa xem xét làm rõ mục đích của việc thu hồi đất để xây dựng trại giống
vật nuôi nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long là cơ sở kinh tế của Nhà nước hay của tư
nhân để làm cơ sở giải quyết bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất của gia đình bà Lựu theo
đúng quy định của pháp luật.

Bà Lựu kháng cáo yêu cầu được bồi thường về đất
theo giá thị trường. Trong trường hợp này, Tòa án cấp phúc thẩm phải xem xét
đơn kháng cáo của bà Lựu về vấn đề bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất cho gia
đình bà Lựu có đúng quy định của pháp luật không, nhưng lại cho rằng Quyết định
số 1216/QĐ-UBND ngày 04-6-2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long là quyết định
mang tính tổng thể, không phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính nên đã xử
hủy Bản án hành chính sơ thẩm số 12/2012/HC-ST ngày 18-12-2012 của Tòa án nhân
dân tỉnh Vĩnh Long và đình chỉ giải quyết vụ án là sai lầm nghiêm trọng trong
việc áp dụng pháp luật tố tụng hành chính.

Bởi các lẽ trên và căn cứ
khoản 3 Điều 219, khoản 3 Điều 225, khoản 1, 2 Điều 227 Luật tố tụng hành chính,

QUYẾT ĐỊNH:

1. Chấp nhận Kháng nghị số 05/2014/KN-HC ngày 05-3-2014 của Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao.

2. Hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 96/2013/HC-PT ngày 25-4-2013 cùa
Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án hành
chính sơ thẩm số 12/2012/HC-ST ngày 18-12-2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh
Long; giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm lại
theo quy định của pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“Theo Điều 2 của Quyết định số 1216/QĐ-UBND ngày 04-6-2009 của Ủy ban
nhân dân tỉnh Vĩnh Long về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư công trình Trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh có quy định “Giám đốc Sở Tài chính chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân tỉnh về kết quả
các số liệu, khối lượng và đơn giá, trong tờ trình số 177/TTr.STC ngày
15-5-2009”. Theo Tờ trình 177/TTr ngày 15-5-2009 của Sở Tài chính có quy định phần
bồi thường cụ thể cho hộ bà Lựu, nên phần phê duyệt đó tác động trực tiếp, cụ
thể đến quyền và lợi ích của hộ bà Lựu, là đối tượng khởi kiện vụ án hành
chính”.

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Án lệ số 09/2016/AL

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua
ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17
tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm
số 07/2013/KDTM-GĐT ngày 15-3-2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao về vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa” tại
tỉnh Bắc Ninh giữa nguyên đơn là Công ty cổ
phần thép Việt Ý với bị đơn là Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên; người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Lê Thị Ngọc Lan và ông Lê Văn Dũng.

Vị trí
nội dung án lệ:

Đoạn 4, 5 và 6 Mục 2 phần “Xét thấy”
của quyết định giám đốc thẩm nêu trên.

Khái quát nội dung của án lệ:

– Tình huống
án lệ 1:

Hợp đồng mua bán hàng
hóa bị vi phạm do bên bán không giao hoặc không giao đủ hàng cho bên mua, dẫn đến
việc bên bán có nghĩa vụ hoàn trả số tiền ứng trước và tiền lãi do chậm thanh
toán.

– Giải
pháp pháp lý 1:

Trường hợp này, tiền
lãi do chậm thanh toán được tính theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị
trường bằng mức lãi suất nợ quá hạn trung bình của ít nhất ba Ngân hàng tại địa
phương tại thời điểm thanh toán (xét xử sơ thẩm), trừ trường hợp có thoả thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác.

– Tình huống
án lệ 2:

Hợp đồng mua bán hàng
hóa có phát sinh nghĩa vụ trả tiền phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại.

– Giải pháp pháp lý 2:

Trường hợp này, người
có nghĩa vụ trả tiền phạt vi phạm, bồi thường thiệt
hại không phải trả lãi trên số tiền phạt vi phạm, tiền bồi thường thiệt hại đó.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

– Điều 34, Điều 37, khoản
3 Điều 297, các điều 300, 301, 302, 306 và 307 Luật thương mại 2005;

– Các điều 307, 422,
474 và 476 Bộ luật dân sự năm 2005.

Từ
khóa của án lệ:

“Hợp đồng mua bán hàng
hóa”; “Vi phạm hợp đồng”; “Hoàn trả tiền ứng trước”; “Tiền lãi do chậm thanh
toán”; “Lãi suất nợ quá hạn”; “Lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường”;
“Phạt vi phạm ”; “Bồi thường thiệt hại”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề
ngày 07-7-2007, đơn đề nghị thay đổi yêu cầu khởi kiện ngày 10-10-2007, các tài
liệu có trong hồ sơ vụ án và trình bày của đại diện nguyên đơn thì:

Ngày 03-10-2006, Công
ty cổ phần thép Việt Ý (sau đây gọi tắt là Công ty thép Việt Ý) ký Hợp đồng
kinh tế số 03/2006-HĐKT với Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên (sau đây gọi tắt
là Công ty kim khí Hưng Yên); do ông Nguyễn Văn Tỉnh – Phó Tổng Giám đốc làm đại
diện theo Giấy ủy quyền số 621 ngày 10-9-2005 của Tổng Giám đốc Công ty. Theo Hợp
đồng này, Công ty thép Việt Ý (bên A) mua hàng hóa là phôi thép đúc liên tục
CTS-5SP/PS hàng rời, theo tiêu chuẩn GOST 380-94 của Công ty kim khí Hưng Yên
(bên B) với số lượng 3.000 tấn +/- 5%, đơn giá 6.750.000 đồng/tấn; thời gian
giao hàng từ 25 đến 31-10-2006; tổng giá trị hợp đồng là 20.250.000.000 đồng
+/-5%.

Ngày 04-10-2006, Công
ty thép Việt Ý đã chuyển toàn bộ số tiền 20.250.000.000 đồng cho Công ty kim
khí Hưng Yên theo ủy nhiệm chi thông qua Ngân hàng ngoại thương Hải Dương. Công
ty kim khí Hưng Yên cũng đã giao cho Công ty thép Việt Ý tổng số lượng hàng là
2.992,820 tấn phôi thép, còn thiếu 7,180 tấn tương ứng với số tiền 48.465.000 đồng.

Ngày 20-12-2006, hai
bên ký tiếp Hợp đồng số 05/2006-HĐKT. Đại diện cho Công ty kim khí Hưng Yên ký
hợp đồng là ông Lê Văn Mạnh – Phó Tổng Giám đốc (theo Giấy ủy quyền số
1296/UQ/HYM của Tổng Giám đốc Công ty). Theo hợp đồng này, Công ty thép Việt Ý
mua 5.000 tấn phôi thép (tiêu chuẩn và chất lượng giống như Hợp đồng số 03),
đơn giá 7.290.000 đồng/tấn (kể cả thuế VAT và cước phí vận chuyển). Tổng giá trị
hợp đồng là 36.450.000.000đồng +/- 5%; thời gian giao hàng từ ngày 18-01-2007 đến
ngày 30-01-2007; Công ty thép Việt Ý sẽ ứng trước 500.000.000 đồng cho Công ty
kim khí Hưng Yên ngay sau khi ký hợp đồng; số tiền còn lại sẽ thanh toán theo
hai đợt sau khi Công ty thép Việt Ý nhận hàng. Hợp đồng còn quy định nghĩa vụ của
Công ty kim khí Hưng Yên phải chịu
phạt 2% giá trị hợp đồng nếu không giao hàng đúng chủng loại hoặc không giao
hàng. Theo đại diện của Công ty thép Việt Ý thì ngày 21-12-2006, Công ty thép
Việt Ý đã chuyển cho Công ty kim khí Hưng Yên 500.000.000 đồng tiền ứng trước,
nhưng hợp đồng này Công ty kim khí Hưng Yên không thực hiện mà không có lý do.

Cùng ngày 20-12-2006,
Công ty thép Việt Ý cũng đã ký kết Hợp đồng số 06/2006 với Công ty kim khí Hưng
Yên (do ông Lê Văn Mạnh – Phó Tổng Giám đốc làm đại diện) để mua của Công ty
kim khí Hưng Yên 3.000 tấn phôi thép, đơn giá 7.200.000 đồng/tấn. Tổng giá trị
hợp đồng là 21.600.000.000 đồng; thời gian giao hàng từ ngàv 05-01-2007 đến
ngày 15-01-2007.

Ngày 22-12-2006, Công
ty thép Việt Ý đã chuyển cho Công ty kim khí Hưng Yên đủ 21.600.000.000đồng
theo ủy nhiệm chi tại Ngân hàng Techcombank Chi nhánh Hưng Yên, nhưng Công ty
kim khí Hưng Yên mới chuyển cho Công ty thép Việt Ý 2.989,890 tấn phôi thép,
còn thiếu 7,640 tấn, tương đương số tiền là 55.008.000 đồng.

Ngày 01-02-2007, Công
ty thép Việt Ý ký kết Hợp đồng số 01/2007 với Công ty kim khí Hưng Yên (do ông
Lê Văn Mạnh – Phó Tổng Giám đốc làm đại diện) để mua 5.000 tấn phôi thép của
Công ty kim khí Hưng Yên, đơn giá 7.800.000đồng/tấn. Tổng giá trị hợp đồng là
39.000.000.000 đồng +/- 5%. Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty thép Việt Ý
đã chuyển cho Công ty kim khí Hưng Yên 37.710.000.000 đồng và Công ty kim khí
Hưng Yên đã chuyển cho Công ty thép Việt Ý 3.906,390 tấn phôi thép, thành tiền
là 30.469.842.000 đồng. Số phôi thép Công ty kim khí Hưng Yên chưa trả cho Công
ty thép Việt Ý là 928,25538 tấn, tương đương số tiền là 7.240.158.000 đồng.

Công ty thép Việt Ý đã
nhiều lần gửi công văn đề nghị Công ty kim khí Hưng Yên thực hiện hợp đồng
nhưng Công ty kim khí Hưng Yên vẫn không thực hiện, buộc Công ty thép Việt Ý phải
mua phôi thép của nhà sản xuất khác để đảm bảo cho việc sản xuất và kinh doanh
của Công ty.

Do Công ty kim khí Hưng
Yên vi phạm các hợp đồng hai bên đã ký kết nên Công ty thép Việt Ý đã khởi kiện
yêu cầu Công ty kim khí Hưng Yên có trách nhiệm thanh toán và bồi thường mọi
thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ giao hàng trong các Hợp đồng số 03/2006, 05/2006,
06/2006, 01/2007 tại thời điểm khởi kiện là 12.874.298.683 đồng, trong đó tiền
hàng tương ứng với 1.777.020 kg phôi thép = 11.181.662.503 đồng, tiền phạt vi
phạm 1.316.490.480 đồng, tiền lãi quá hạn 376.145.700 đồng.

Tại phiên tòa sơ thẩm
ngày 03-9-2009, đại diện cho nguyên đơn yêu cầu Công ty kim khí Hưng Yên phải
thanh toán cho Công ty thép Việt Ý tính đến thời điểm xét xử sơ thẩm ngày
03-9-2009 là 28.145.956.647 đồng và buộc Công ty kim khí Hưng Yên phải xuất hóa
đơn giá trị gia tăng cho Công ty thép Việt Ý tương đương với số lượng hàng đã
giao ở Hợp đồng số 06/2006 là 21.544.992.000 đồng và Hợp đồng số 01/2007 là
30.469.842.000 đồng.

Tại các biên bản lấy lời
khai, biên bản hòa giải, biên bản phiên tòa, đại diện Bị đơn trình bày:

Thời điểm Công ty kim
khí Hưng Yên ký kết các hợp đồng trên với Công ty thép Việt Ý là thời kỳ bà Lê
Thị Ngọc Lan vẫn là Tổng Giám đốc, ông Lê Văn Dũng (chồng bà Lan) là cố vấn
kinh doanh. Ngày 22-3-2007, bà Lê Thị Ngọc Lan đã nhượng lại toàn bộ số cổ phần
của mình ở Công ty kim khí Hưng Yên cho bà Nguyễn Thị Toàn và bà Toàn nhận chức
vụ Quyền Tổng Giám đốc từ ngày 02-4-2007. Trong bản thỏa thuận phân chia tài sản
trong thời kỳ hôn nhân giữa vợ chồng ông Lê Văn Dũng và bà Lê Thị Ngọc Lan cũng
như bản cam kết về nợ của Công ty, ông Lê Vãn Dũng nhận sẽ có trách nhiệm trả tất
cả các khoản nợ của Công ty kim khí Hưng Yên
được thiết lập từ trước ngày 01-4-2007. Nay Công ty thép Việt Ý kiện đòi
bồi thường thiệt hại các Hợp đồng số 03/2006, 05/2006, 06/2006, 01/2007, Công ty kim khí Hưng Yên không đồng ý
vì trách nhiệm trả nợ thuộc về ông Dũng, bà Lan và những người lãnh đạo, quản
lý cũ của Công ty kim khí Hưng Yên. Công ty kim khí Hưng Yên đang cố gắng làm
việc chính thức với ông Dũng để ông Dũng trả trực tiếp cho Công ty thép Việt Ý
hoặc ông Dũng trả cho Công ty kim khí Hưng Yên để Công ty kim khí Hưng Yên trả
cho Công ty thép Việt Ý.

Công ty kim khí Hưng
Yên đề nghị Tòa án xem xét, đánh giá lại giá trị pháp lý của các Hợp đồng số
03/2006, 05/2006, 06/2006, 01/2007 do ông Tỉnh, ông Mạnh nhân danh Công ty kim
khí Hưng Yên ký với Công ty thép Việt Ý ngay trong vụ án này và xem xét trách
nhiệm của ông Dũng, ông Mạnh, ông Tỉnh, bà Lan đối với các khoản nợ mà Công ty
thép Việt Ý yêu cầu. Tại phiên tòa sơ thẩm lần 1, Công ty kim khí Hưng Yên về
cơ bản thống nhất với số liệu thực hiện hợp đồng mà Công ty thép Việt Ý đưa ra,
còn về số liệu tài chính thì chưa công nhận vì chưa đối chiếu công nợ; về số tiền
lãi của các hợp đồng cần phải tính lại, riêng đối với hợp đồng số 05 phía bị
đơn không đồng ý vì hai bên đã thỏa thuận hủy hợp đồng và chuyển 500.000.000 đồng
mà Công ty thép Việt Ý đã ứng trước sang để thực hiện hợp đồng số 01/2007, nên
đối với Hợp đồng số 05 Công ty kim khí Hưng Yên không có vi phạm.

Người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan – bà Lê Thị Ngọc Lan trình bày: Đầu năm 2004, vợ chồng bà
mua lại cổ phần của ông Nguyễn Lương Tuấn và ông Nguyễn Văn Thành ở Công ty kim
khí Hưng Yên, lúc đó Công ty kim khí Hưng Yên đang trong thời kỳ xây dựng. Cũng
chính từ đó, bà Lan trở thành Tổng Giám đốc kiêm Chủ tịch Hội đồng quản trị,
còn ông Dũng chồng bà Lan làm cố vấn kinh doanh của Công ty kim khí Hưng Yên.
Do mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng, ngày 05-9-2005, bà Lan và ông Dũng có làm
Bản thỏa thuận chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân tại Văn phòng luật sư Hồng
Hà (thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội). Theo bản thỏa thuận này, bà Lan được
sở hữu ngôi nhà số 250 phố Bà Triệu, còn ông Dũng được sở hữu toàn bộ 48 tỷ đồng
là cổ phần của vợ chồng tại Công ty kim khí Hưng Yên nhưng ông Dũng phải có
trách nhiệm trả các khoản nợ của Công ty kim khí Hưng Yên trong thời kỳ xây dựng
nhà máy cán thép Hưng Tài (thuộc Công ty kim khí Hưng Yên). Do không còn cổ phần
và cổ phần đã được giao cho ông Dũng nên việc điều hành công ty bà Lan đã uỷ
quyền cho ông Tỉnh và sau đó là ông Mạnh. Tuy không còn cổ phần nhưng bà Lan vẫn
là Tổng Giám đốc, song thực tế việc điều hành Công ty kim khí Hưng Yên là do
ông Dũng (chồng bà Lan), ông Tỉnh và ông Mạnh điều hành. Đến tháng 07-2007, bà
Lan mới bàn giao dư nợ vay và chức vụ Tổng Giám đốc cho bà Toàn. Bà Lan cũng
xác nhận việc ông Mạnh và ông Tỉnh (cả hai ông này lúc đó đều là Phó Giám đốc
Công ty kim khí Hưng Yên) đã ký kết các hợp đồng kinh tế với Công ty thép Việt
Ý là có sự ủy quyền thường xuyên của bà Lan. Nhưng khi bàn giao cho bà Toàn
(quyền và nghĩa vụ) là do ông Dũng với bà Toàn, bà Lan khẳng định trách nhiệm
trả nợ đối với Công ty thép Việt Ý không thuộc nghĩa vụ của bà Lan.

Người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan – ông Lê Văn Dũng trình bày: Mặc dù vợ chồng ông có sự phân
chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân và ông Dũng được sở hữu cổ phần trong Công
ty kim khí Hưng Yên nhưng ông Dũng cũng chỉ giữ vai trò cố vấn kinh doanh mà
không được quyền tham gia ký kết các hợp đồng kinh tế cũng như việc thanh quyết
toán nên ông không có trách nhiệm. Ông Dũng không nhất trí việc Công ty kim khí
Hưng Yên cho rằng ông phải là người có nghĩa vụ trả nợ mà nghĩa vụ đó phải thuộc
về Công ty kim khí Hưng Yên và bà Toàn. Ông Dũng xác nhận ngày 01-4-2007, ông
có ký bản cam kết với bà Nguyễn Thị Toàn. Bản cam kết đó thể hiện tổng giá trị
công nợ để hai bên thanh quyết toán với nhau và chỉ có ý nghĩa nội bộ cá nhân
ông Dũng với bà Toàn để làm cơ sở cho việc thanh quyết toán, bàn giao, nhưng thực
sự chưa có việc mua bán cổ phần trong công ty giữa ông và bà Toàn. Hai bên chưa
ký kết một hợp đồng mua bán cổ phần nào, còn việc chuyển nhượng cổ phần công ty
giữa bà Lan với bà Toàn thế nào ông không biết. Việc Công ty thép Việt Ý khởi
kiện yêu cầu Công ty kim khí Hưng Yên thanh toán nghĩa vụ theo hợp đồng, ông
Dũng cho rằng về mặt pháp lý thì Công ty kim khí Hưng Yên phải chịu trách nhiệm
với tư cách pháp nhân. Còn ông không có trách nhiệm với bất cứ khách hàng, đối
tác nào, nếu có thì chỉ là trách nhiệm của ông với Công ty kim khí Hưng Yên. Ông Dũng xin vắng mặt tại tất cả các phiên
toà.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 01/2007/KDTM-ST
ngày 14-11-2007, Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã quyết định: “Buộc Công ty cổ phần
kim khí Hưng Yên phải trả cho Công ty cổ phần thép Việt Ý tổng số tiền của 04 hợp
đồng số 03 ngày 03-10-2006; số 05 ngày 20-12-2006; số 06 ngày 20-12-2006và số 01 ngày
01-02-2007 là: 24.674.428.500 đồng”.
Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các
đương sự.

Ngày
27-11-2007, Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên có đơn kháng cáo.

Tại Bản án kinh doanh,
thương mại phúc thẩm số 120/2008/KDTM-PT ngày 18-6-2008, Toà phúc thẩm Toà án
nhân dân tối cao tại Hà Nội đã quyết định:
“Hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ
thẩm số 01/2007/KDTM-ST ngày
14-11-2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh. Chuyển hồ sơ vụ án đến Tòa án
nhân dân tỉnh Bắc Ninh để giải quyết lại vụ án theo quy định của pháp luật”
với lý do: Toà án cấp sơ thẩm chưa lấy lời khai của bà Lan, ông Dũng, bà Toàn,
ông Tỉnh, ông Mạnh và xác định người tham gia tố tụng từ đó làm rõ trách nhiệm
ai là người phải trả nợ cho Công ty thép Việt Ý; ngoài ra các tài liệu như bản
cam kết nhận nợ, các giấy nhận tiền của ông Dũng, giấy uỷ quyền quản lý điều
hành công ty… đều là bản phô tô không có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc
có sự đối chiếu với bản chính của Toà án cấp sơ thẩm.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 09/2008/KDTM-ST ngày
23-10-2008, Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã quyết định:“Buộc Công ty cổ phần
Kim khí Hưng Yên phải có trách nhiệm trả cho Công ty cổ phần thép Việt Ý số tiền
của 04 hợp đồng số 03 ngày 03-10-2006; số 05 ngày 20-12-2006;
số 06 ngày 20-12-2006 và số 01 ngày 01-02-2007 là: 31.902.035.179,56 đồng”.

Ngày
05-11-2008, Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên có đơn kháng cáo.

Tại Bản án kinh doanh,
thương mại phúc thẩm số 32/2009/KDTM-PT ngày 19-02-2009, Toà phúc thẩm Toà án
nhân dân tối cao tại Hà Nội đã quyết định: “1. Hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 09/2008/KDTM-ST ngày
23-10-2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh về việc “Tranh chấp hợp đồng
mua bán hàng hóa” giữa Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên với Công ty cổ phần
thép Việt Ý. 2. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ
án”, với lý do: Ông Tổng giám đốc Đinh Văn Vì chỉ khởi kiện đòi Công ty
kim khí Hưng Yên là 12.874.298.683 đồng nhưng người đại diện theo uỷ quyền đã
thay đổi liên tục bổ sung yêu cầu khởi kiện là vượt quá phạm vi khởi kiện, vi
phạm điểm 1 khoản 2 Điều 164 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số
02/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Tất cả các đơn thay đổi bổ sung yêu cầu khởi kiện này là không phù hợp với pháp
luật, Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận tất cả yêu cầu của người đại diện là vi phạm
nghiêm trọng về tố tụng dân sự nên Toà án cấp phúc thẩm không xét phần kháng
cáo về nội dung của Công ty kim khí Hưng Yên.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 18/2009/KDTM-ST ngày
03-9-2009, Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã quyết định: “1. Buộc Công ty cổ phần
kim khí Hưng Yên phải có trách nhiệm thanh toán trả Công ty cổ phần thép Việt Ý số tiền của 04 hợp đồng kinh tế: Hợp đồng
số 03/2006 ngày 03-10-2006; Hợp đồng
số 05/2006 ngày 20-12-2006; Hợp đồng số 06/2006 ngày 20-12-2006 và Hợp đồng
số 01/2007 ngày 01-02-2007 với tổng số tiền là 28.145.956.647 đồng và phải xuất
hóa đơn giá trị gia tăng trả cho Thép Việt Ý của 2 hợp đồng gồm Hợp đồng số
06/2006 tương ứng với số tiền hàng là 21.544.992.000 đồng và Hợp đồng số
01/2007 tương ứng với số tiền hàng là 30.469.842.000 đồng”. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án
phí, về việc thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của
pháp luật.

Ngày 23-9-2009, Công ty
cổ phần kim khí Hưng Yên có đơn kháng cáo.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 63/KDTM-PT ngày
05-4-2010, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã quyết định: “HuỷBản án kinh doanh,
thương mại sơ thẩm số 18/2009/KDTM-ST ngày 03-9-2009 của Tòa án nhân dân tỉnh
Bắc Ninh. Chuyển hồ sơ vụ án đến Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh để giải quyết lại
theo quy định của pháp luật”.

Ngày 25-7-2010, Tòa án
nhân dân tỉnh Bắc Ninh có Công văn số 110/2010/CV-TA đề nghị Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao xem xét lại bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Quyết định kháng
nghị số 17/2012/KDTM-KN ngày 25-6-2012, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm
theo hướng hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 63/KDTM-PT ngày
05-4-2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội; giao hồ sơ vụ
án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại
theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc
thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao.

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định:

1. Từ tháng 10/2006 đến tháng 02/2007, Công ty thép Việt Ý và Công ty kim khí Hưng Yên đã ký với nhau 4 hợp đồng kinh tế (số 03/2006-HĐKT ngày 03-10-2006, số 05/2006-HĐKT, số 06/2006-HĐKT ngày 20-12-2006 và số 01/2007-HĐKT ngày 01-02-2007).

Thời điểm các bên ký kết
hợp đồng, về phía Công ty kim khí Hưng Yên, bà Lê Thị Ngọc Lan vẫn là người đại
diện theo pháp luật (căn cứ theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thay đổi lần
5 ngày 12-8-2005 và lần 6 ngày 06-7-2007 của Công ty kim khí Hưng Yên và Quyết
định về việc thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh số 140/QĐ-HĐCĐ ngày 02-7-2007
của Công ty kim khí Hưng Yên). Tại Giấy ủy quyền số 621/UQ-KKHY ngày 10-9-2005,
bà Lan đã “1. Uỷ quyền quản lý và điều hành Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên
cho ông Nguyễn Văn Tỉnh. 2. Ông Nguyễn Văn Tỉnh chịu trách nhiệm: a/Đại diện
Công ty trong các mối quan hệ với Ngân hàng, các tổ chức, cá nhân và các cơ
quan hữu quan khác để bảo đảm cho sự hoạt động bình thường của công ty; b/ Thay
mặt Công ty thực hiện các giao dịch dân sự, kinh tế và thương mại trong phạm vi ngành nghề kinh doanh của Công ty..”.. Ngày 20-11-2006, bà Lan có Giấy uỷ
quyền số 1296/UQ/HYM ủy quyền
quản lý và điều hành Công ty cho ông Lê Văn Mạnh (nội dung ủy quyền
tương tự như nội dung ủy quyền cho ông Tỉnh).

Việc bà Lan có các giấy
uỷ quyền nói trên cho ông Nguyễn Văn Tỉnh, ông Lê Văn Mạnh (là các Phó Tổng
giám đốc Công ty) được quyền ký kết các hợp đồng kinh tế là hoàn toàn hợp pháp.
Ông Tỉnh, ông Mạnh là người ký kết hợp đồng nhân danh pháp nhân, không phải
nhân danh cá nhân nên không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Vì vậy,
không thể xác định ông Tỉnh và ông Mạnh là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong vụ án này như yêu cầu của phía bị đơn cũng như nhận định của Toà án
cấp phúc thẩm.

Tòa án cấp phúc thẩm
căn cứ vào Bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân giữa bà Lê
Thị Ngọc Lan và ông Lê Văn Dũng và Bản cam kết về nợ của Công ty giữa ông Lê
Văn Dũng và bà Nguyễn Thị Toàn để cho rằng ông Dũng, bà Lan, bà Toàn đều là người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng là không đúng. Bởi lẽ, việc chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Lê Văn Dũng và bà Lê Thị Ngọc
Lan; việc bà Nguyễn Thị Toàn và ông Lê Văn Dũng có thỏa thuận với nhau về trách
nhiệm thanh toán các khoản nợ là việc nội bộ của Công ty kim khí Hưng Yên. Việc
cam kết về nợ giữa ông Dũng và bà Toàn chưa được bên có quyền là Công ty thép Việt Ý đồng ý. Theo quy định tại khoản 1 Điều
315 Bộ luật dân sự năm 2005 thì: “Bêncó nghĩa vụ có thể chuyển
giao nghĩa vụ dân sự cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý”. Quá
trình giải quyết vụ án, ông Dũng, bà Lan đã có lời khai rõ ràng về việc thoả
thuận chia tài sản chung của vợ chồng về việc ký kết hợp đồng với Công ty thép
Việt Ý, về trách nhiệm của Công ty kim khí Hưng Yên trong việc thực hiện nghĩa
vụ theo hợp đồng; ông Dũng cũng đã có yêu cầu không tham gia phiên toà. Vì vậy,
việc triệu tập ông Dũng, bà Lan để lấy lời khai và đối chất như nhận định của
Toà án cấp phúc thẩm là không cần thiết. Từ đó, Tòa án cấp phúc thẩm đã tuyên hủy
Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 18/2009/KDTM-ST ngày 03-9-2009 của Tòa
án nhân dân tỉnh Bắc Ninh; chuyển
hồ sơ vụ án đến Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh để giải quyết lại là không đúng
pháp luật.

2. Về nội dung: Quá
trình thực hiện hợp đồng, Công ty thép Việt Ý đã chuyển tiền bằng ủy nhiệm chi
cho Công ty kim khí Hưng Yên; Công ty kim khí Hưng Yên cũng đã giao hàng cho
Công ty thép Việt Ý (thể hiện qua các Biên bản giao hàng đều có dấu của Công ty
kim khí Hưng Yên). Theo quy định tại khoản 1 Điều 93 Bộ luật dân sự 2005 thì: “Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc
thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh
pháp nhân”. Do đó, trong trường hợp này, Công ty kim khí Hưng Yên phải có trách nhiệm thanh toán các khoản
nợ cho Công ty thép Việt Ý.

Công ty kim khí Hưng
Yên thực hiện không đúng cam kết như trong hợp đồng (giao không đủ hàng cho
Công ty thép Việt Ý), nên Công ty thép Việt Ý đã khởi kiện yêu cầu Toà án buộc
Công ty kim khí Hưng Yên phải hoàn trả số tiền hàng đã nhận (tương đương với số
hàng chưa giao), tiền lãi do chậm thanh toán, tiền phạt hợp đồng, tiền bồi thường
thiệt hại (do không giao hàng nên Công ty thép Việt Ý đã phải mua của đơn vị
khác và phải trả tiền cao hơn so với giá đã thoả thuận với Công ty kim khí Hưng
Yên) là có căn cứ đúng theo quy định tại Điều 34, khoản 3 Điều 297, các Điều
300, 301, 302, 306, 307 Luật thương mại năm 2005.

Tuy nhiên, khi quyết định
về những khoản tiền mà Công ty kim khí Hưng Yên phải trả cho Công ty thép Việt
Ý, Tòa án cấp sơ thẩm đã tính toán chưa chính xác, cụ thể như sau:

Đối với số tiền ứng trước
mà không nhận được hàng của 4 Hợp đồng kinh tế, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định
chính xác số tiền và buộc Công ty kim khí Hưng Yên phải trả lại cho Công ty
thép Việt Ý là đúng. Tuy nhiên, khi tính tiền lãi do chậm thanh toán số tiền
nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm mặc dù áp dụng Điều 306 Luật thương mại năm 2005
nhưng không lấy mức lãi suất quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm
thanh toán (xét xử sơ thẩm) để tính, mà lại áp dụng mức lãi suất cơ bản do Ngân
hàng Nhà nước công bố tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo yêu cầu của nguyên đơn
để áp dụng mức lãi suất quá hạn (là 10, 5%/năm) là không đúng. Trong trường hợp
này, Tòa án cần lấy mức lãi suất quá hạn trung bình của ít nhất ba Ngân hàng tại
địa phương (Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng
thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần công
thương Việt Nam…) để tính lại tiền lãi do chậm thanh toán cho đúng quy định của
pháp luật.

Về phạt vi phạm hợp đồng:
hai bên thỏa thuận: Bên B phải chịu phạt 2% giá trị đơn hàng đã được xác nhận
khi bên B vi phạm một trong các trường hợp sau: giao hàng không đúng chủng loại,
không giao hàng. Như vậy, Công ty kim khí Hưng Yên không giao đủ hàng cho Công
ty thép Việt Ý thì phải bị phạt vi phạm là 2% trên giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng
bị vi phạm theo quy định tại Điều 300 và Điều 301 Luật thương mại năm 2005. Tòa
án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng của Công ty thép Việt Ý
là có căn cứ tuy nhiên lại tính lãi trên số tiền phạt vi phạm hợp đồng là không
đúng.

Về số tiền bồi thường thiệthại: Theo trình bày của đại
điện Công ty thép Việt Ý là do Công ty kim khí Hưng Yên vi phạm hợp đồng không
giao đủ hàng, nên Công ty thép Việt Ý phải mua phôi thép của nhà sản xuất khác
để đảm bảo cho việc sản xuất và kinh doanh của Công ty với giá cao hơn. Tòa án
cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào các Hợp đồng mua bán phôi thép mà Công ty thép Việt
Ý ký với nhà sản xuất khác để buộc Công ty kim khí Hưng Yên phải trả cho Công
ty thép Việt Ý khoản tiền chênh lệch do phải mua hàng với giá cao hơn, nhưng
chưa xem xét làm rõ, việc mua hàng của nhà sản xuất khác này có đúng là để bù
vào số hàng còn thiếu do Công ty kim khí Hưng Yên không giao đủ để đảm bảo cho
việc sản xuất kinh doanh theo kế hoạch đã đặt ra hay không, về vấn đề này Tòa
án cần phải yêu cầu Công ty thép Việt Ý cung cấp tài liệu, chứng cứ (như đơn đặt
hàng của bên thứ ba, kế hoạch sản xuất kinh doanh…) để chứng minh thiệt hại
thực tế xảy ra, từ đó mới có căn cứ buộc Công ty kim khí Hưng Yên thanh toán số
tiền bồi thường thiệt hại cho phù hợp. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tính cả
tiền lãi của khoản tiền bồi thường thiệt hại là không đúng với quy định tại Điều
302 Luật thương mại năm 2005.

Bởi
các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 của Bộ luật tố tụng
dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011),

QUYẾT ĐỊNH:

Hủy Bản án kinh doanh,
thương mại phúc thẩm số 63/KDTM-PT ngày 05-4-2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân
dân tối cao tại Hà Nội và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số
18/2009/KDTM-ST ngày 03-9-2009 của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh; giao hồ sơ vụ
án cho Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của
pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“Đối với số tiền ứng trước mà không nhận được hàng của 4 hợp
đồng kinh tế, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định chính xác số tiền và buộc Công ty
Hưng Yên phải trả lại cho Công ty Việt Ý là đúng. Tuy nhiên, khi tính tiền lãi do chậm thanh toán số tiền nêu trên, Tòa án cấp sơ
thẩm mặc dù áp dụng Điều 306 Luật thương mại năm 2005 nhưng không lấy mức
lãi suất quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán (xét xử sơ
thẩm) để tính, mà lại áp dụng mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố
tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo yêu cầu của nguyên đơn để áp dụng mức lãi quá
hạn (là 10,5%/năm) là không đúng. Trong trường hợp này, Tòa án cần lấy mức lãi
suất quá hạn trung bình của ít nhất ba ngân hàng tại địa phương (Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần
Công thương Việt Nam…) để tính lại tiền lãi do chậm thanh toán cho
đúng quy định của pháp luật”.

“Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng
của Công ty Việt Ý là có căn cứ tuy nhiên lại tính lãi trên số tiền phạt vi phạm
hợp đồng là không đúng”.

“Tòa án cấp sơ thẩm còn tính cả tiền lãi của khoản tiền bồi
thường thiệt hại là không đúng với quy định tại Điều 302 Luật thương mại năm
2005”.

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Án lệ số 06/2016/AL

 Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số
220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết
định giám đốc thẩm số 100/2013/GĐT-DS ngày 12-8-2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp thừa kế” tại Hà Nội, giữa nguyên đơn
là ông Vũ Đình Hưng với bị đơn là bà Vũ Thị Tiến (tức Hiền), bà Vũ Thị Hậu;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm các ông, bà Vũ Đình Đường, Vũ Thị
Cẩm, Vũ Thị Thảo, Nguyễn Thị Kim Oanh, Hà Thùy Linh.

Khái quát nội dung của án lệ:

Trong
vụ án tranh chấp thừa kế có người thuộc diện thừa kế ở nước ngoài, nếu Tòa án
đã thực hiện ủy thác tư pháp, thu thập chứng cứ theo đúng quy định của pháp luật
nhưng vẫn không xác định được địa chỉ của những người đó thì Tòa án vẫn giải
quyết yêu cầu của nguyên đơn; nếu xác định được di sản thừa kế, diện hàng thừa
kế và người để lại di sản thừa kế không có di chúc thì giải quyết việc chia
thừa kế cho nguyên đơn theo quy định của pháp luật; phần tài sản thừa kế của
những người vắng mặt, không xác định được địa chỉ sẽ tạm giao cho những người
sống trong nước quản lý để sau này giao lại cho những thừa kế vắng mặt.  

 Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:


Điều 93; điểm đ khoản 1 Điều 168 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004;


Điều 676 và 685 của Bộ luật Dân sự năm 2005.

Từ khóa của án lệ:

“Tranh
chấp di sản thừa kế”; “Người thừa kế ở nước ngoài chưa rõ địa chỉ”; “Ủy thác tư
pháp”; “Phân chia di sản”; “Quản lý di sản”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo
đơn khởi kiện tháng 7 năm 1993, nguyên đơn là ông Vũ Đình Hưng trình bày:

Cha
mẹ ông là cụ Vũ Đình Quảng và cụ Nguyễn Thị Thênh sinh được 6 người con là ông
Vũ Đình Đường, bà Vũ Thị Cẩm, bà Vũ Thị Thảo, ông, bà Vũ Thị Tiến (tức Hiền) và
bà Vũ Thị Hậu. Cụ Quảng và cụ Thênh tạo lập được căn nhà số 66 phố Đồng Xuân,
quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, diện tích 123m2. Năm 1979, cụ Quảng chết không để lại
di chúc, căn nhà do cụ Thênh và 3 con là ông, bà Hậu, bà Tiến ở; ông Đường, bà
Thảo và bà Cẩm đều xuất cảnh đi nước ngoài. Tại biên bản họp gia đình ngày
28-10-1982, cụ Thênh và ông, bà Tiến, bà Hậu thỏa thuận tạm thời phân chia nhà
thành 3 phần cho ông, bà Hậu và bà Tiến sử dụng. Năm 1987, cụ Thênh chết. Sau
đó năm 1989, bà Tiến đã lén lút bán phần nhà được tạm chia cho bà Nguyễn Thị
Kim Oanh. Khi ông đã có đơn khởi kiện chia thừa kế ra Tòa án rồi nhưng ngày
31-10-1993, bà Hậu đã bán tiếp phần nhà bà Hậu được tạm chia cho bà Hà Thùy
Linh. Việc mua bán nhà này là sai. Ông xác định được 3 anh chị em đang ở nước
ngoài (là ông Đường, bà Cẩm và bà Thảo) có văn bản cho ông hưởng phần thừa kế
nên yêu cầu chia thừa kế di sản của cha mẹ ông theo pháp luật.

Ông
Hưng xuất trình bản photocopy các giấy ủy quyền lập ngày 03-3-1992 của ông Vũ
Đình Đường, ngày 1-5-1993 của bà Vũ Thị Cẩm, ngày 28-10-1991 của bà Vũ Thị Thảo
đều có nội dung ủy quyền cho ông Hưng quản lý trông nom phần tài sản của mình
trong nhà 66 Đồng Xuân là 1/6 nhà. Sau khi nộp đơn khởi kiện, ông Hưng xuất
trình thêm các “Giấy chuyển hẳn cho quyền thừa kế” đề ngày 25-4-1995 của ông Vũ
Đình Đường; “Giấy chuyển hẳn cho quyền thừa kế” đề ngày 10-5-1995 của bà Vũ Thị
Cẩm; “Giấy cho hẳn quyền thừa kế” của bà Vũ Thị Thảo; các văn bản này đều ghi
là lập tại nước ngoài, đều có nội dung xác nhận: cha mẹ để lại ngôi nhà 66 Đồng
Xuân cho 6 người con nhưng bà Tiến (Hiền) và bà Hậu đã bán phần nhà của cha mẹ
để lại là vi phạm lời dặn của mẹ (không được bán, cho người ngoài vào ở)… Ông
Đường và bà Thảo, bà Cẩm làm giấy này cho hẳn ông Hưng 1/6 ngôi nhà 66 Đồng
Xuân phần mỗi người được hưởng thừa kế để ông Hưng duy trì thờ cúng tổ tiên và
cũng để ba gia đình con cháu người ở nước ngoài có nơi đi lại thờ cúng tổ tiên
và đề nghị cho ông Hưng được hưởng thừa kế bằng hiện vật (các tài liệu ông Hưng
xuất trình đều chỉ là bản photocopy).

Bị
đơn trình bày:


Vũ Thị Tiến trình bày: Xác nhận về quan hệ huyết thống và nguồn gốc căn nhà 66
Đồng Xuân như ông Hưng trình bày. Năm 1989, bà đã bán phần được chia cho bà
Oanh, đã giao nhà và đã làm xong thủ tục mua bán nhà tại Sở Nhà đất Hà Nội cho
người mua. Sau khi đến ở, bà Oanh còn có thỏa thuận với ông Hưng, bà Hậu hoán
đổi một số công trình trong nhà để các bên sử dụng thuận tiện hơn. Sau đó do
ông Hưng khiếu nại nên Sở Nhà đất đã thu hồi hồ sơ mua bán nhà giữa bà và bà Oanh.
Bà Hậu cũng đã bán phần nhà được chia cho người khác. Bà xác định cụ Thênh đã
cho tiền 3 người đi nước ngoài nên họ không có yêu cầu gì về nhà này. Bà đã bán
phần nhà của mình cho bà Oanh, nay bà không có trách nhiệm gì về phần nhà đã
bán.


Vũ Thị Hậu trình bày: Xác nhận về quan hệ huyết thống và nguồn gốc căn nhà 66
Đồng Xuân như ông Hưng trình bày và việc phân chia nhà cũng như việc bà Tiến đã
bán một phần như bà Tiến trình bày. Bà xác định khi bán có thông báo cho anh
chị ở nước ngoài và họ đều đồng ý. Bà đề nghị chia cho bà vào phần nhà bà đã
bán cho vợ chồng bà Linh, ông Khôi.

Người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:

Vợ
chồng bà Hà Thùy Linh và ông Hoàng Mạnh Khôi trình bày: Khi ông bà mua nhà, bà
Hậu có cho xem biên bản họp gia đình, nên ông bà mới nhất trí mua. Ông bà đã
trả đủ tiền, dọn đến ở từ đó đến nay, yêu cầu được hợp pháp hóa phần nhà đã mua
của bà Hậu.


Nguyễn Thị Kim Oanh trình bày: Ngày 18-10-1992, bà có mua nhà của bà Tiến được
chia, giá 30.000.000 đồng. Việc mua bán đã được chính quyền cho phép. Sau khi
mua nhà, bà đã về ở, có thỏa thuận hoán đổi một số vị trí sử dụng nhà cho ông
Hưng, đề nghị công nhận hợp đồng mua bán nhà giữa bà Tiến với bà.

Tại
Bản án dân sự sơ thẩm số 20/DSST ngày 23-5-1995, Tòa án nhân dân thành phố Hà
Nội đã chấp nhận yêu cầu xin chia thừa kế của ông Hưng, ông Đường, bà Cẩm, bà
Thảo do ông Hưng đại diện xin chia di sản thừa kế của cụ Quảng và cụ Thênh.
Chấp nhận một phần bản di chúc của cụ Thênh lập ngày 28-10-1982, xác định di
sản thừa kế trị giá 1.228.151.520 đồng, chia thừa kế bằng hiện vật nhà, đất cho
3 người là ông Hưng, bà Hậu và bà Tiến. Việc mua bán giữa bà Tiến, bà Hậu với
bà Oanh, bà Linh được thực hiện theo quy định của nhà nước.


Tiến kháng cáo đề nghị xem xét lại cách tính diện tích di sản thừa kế. Ông Hưng
kháng cáo cho rằng Tòa án xử không khách quan.

Tại
Bản án dân sự phúc thẩm số 115 ngày 10-10-1995, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân
tối cao tại Hà Nội quyết định: Hủy Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án nhân
thành phố Hà Nội giải quyết sơ thẩm lại.

Tại
Bản án dân sự sơ thẩm số 50/DSST ngày 11-9-1996, Tòa án nhân dân thành phố Hà
Nội quyết định chấp nhận yêu cầu xin chia thừa kế của ông Hưng, ông Đường, bà
Cẩm, bà Thảo do ông Hưng làm đại diện xin chia di sản thừa kế của cụ Quảng và
cụ Thênh; ghi nhận sự tự nguyện của ông Đường, bà Cẩm, bà Thảo ở nước ngoài
nhường kỷ phần thừa kế cho ông Hưng và chia hiện vật cho ông Hưng, bà Hậu, bà
Tiến (mỗi người 1/3 cửa hàng và phần nhà phía sau), bà Hậu, bà Tiến phải thanh
toán chênh lệch cho ông Hưng (bà Hậu 156.824.381 đồng; bà Tiến 140.774.106
đồng). Việc mua bán nhà giữa bà Tiến, bà Hậu với bà Oanh, bà Linh là trái pháp
luật.

Ông
Hưng kháng cáo.

Tại
Quyết định số 82/TĐC ngày 15-7-1997, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại
Hà Nội đã tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án.

Sau
khi có Nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27-7-2006 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm
1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân
dân tối cao tại Hà Nội đã tiếp tục giải quyết vụ án.

Tại
Bản án dân sự phúc thẩm số 142/2007/DSPT ngày 03-7-2007, Tòa Phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại Hà Nội đã hủy Bản án sơ thẩm và giao Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội giải quyết sơ thẩm lại vụ án với nhận định: Đơn khởi kiện chỉ có ông
Hưng viết và ký, các giấy ủy quyền của ông Đường, bà Thảo, bà Cẩm đều không thể
hiện là uỷ quyền khởi kiện chia thừa kế (trừ giấy của bà Thảo), nay các đương
sự thừa nhận ông Đường, bà Thảo đều đã chết, nên cần xác minh việc này và đưa
người thừa kế của họ tham gia tố tụng; định giá lại nhà đất cho phù hợp.

Sau
khi thụ lý lại vụ án, đương sự trình bày: ông Đường và bà Thảo đã chết vào
khoảng năm 2002. Tòa án cấp sơ thẩm đã yêu cầu ông Hưng cung cấp giấy chứng tử
của ông Đường và bà Thảo, bổ sung đơn khởi kiện theo đúng quy định tại khoản 2
Điều 164 Bộ luật Tố tụng dân sự (họ tên, địa chỉ, quốc tịch của các con ông
Đường, bà Thảo; tên, địa chỉ của người đang ở tại phần nhà đất tranh chấp)
nhưng ông Hưng không cung cấp được.

Tại
Quyết định số 04/2008/QĐST-DS ngày 17-01-2008, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
đã đình chỉ việc giải quyết vụ án, trả tạm ứng án phí cho

ông
Hưng.

Ngày
29-01-2008, ông Hưng kháng cáo cho rằng Tòa án đình chỉ việc giải quyết vụ án
là không đúng.

Tại
Quyết định số 168/2008/DS-QĐPT ngày 04-9-2008, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân
tối cao tại Hà Nội đã chấp nhận kháng cáo của ông Hưng, hủy quyết định sơ thẩm
với lý do: cấp sơ thẩm áp dụng khoản 2 Điều 192 đình chỉ việc giải quyết vụ án
là không đúng, làm mất quyền khởi kiện của đương sự.

Sau
khi thụ lý lại vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã yêu cầu ông Hưng cung
cấp các tài liệu là tên, tuổi, địa chỉ người thừa kế của ông Đường, bà Thảo;
văn bản ủy quyền hoặc từ chối nhận thừa kế của những người này; tên và địa chỉ
những người đang ở tại nhà đất của bà Oanh. Ông Hưng không cung cấp được các
tài liệu trên.

Tại
Quyết định số 54/DS-ST ngày 30-9-2009, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã
quyết định: Đình chỉ giải quyết vụ án chia thừa kế, trả lại đơn kiện và tài
liệu chứng cứ kèm theo cho ông Hưng.

Ông
Hưng kháng cáo.

Tại
Quyết định số 44/2010/QĐ-PT ngày 09-3-2010, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối
cao tại Hà Nội quyết định: Giữ nguyên quyết định sơ thẩm.

Ông
Hưng có đơn đề nghị giám đốc thẩm.

Tại
Quyết định số 35/2013/KN-DS ngày 22-01-2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
đã kháng nghị Quyết định số 44/2010/QĐ-PT ngày 09-3-2010 của Tòa Phúc thẩm Tòa
án nhân dân tối cao tại Hà Nội. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao xét xử giám đốc thẩm, huỷ Quyết định dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy Quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm số 54/2009/DS-ST ngày 30/9/2009
của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội giải quyết sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại
phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với
kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định:

Căn
nhà số 66 phố Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội do cụ Vũ Đình Quảng
(chết năm 1979) và Nguyễn Thị Thênh (chết năm 1987) tạo lập. Các cụ sinh được 6
người con thì 3 người là ông Vũ Đình Đường, bà Vũ Thị Cẩm, bà Vũ Thị Thảo định
cư ở nước ngoài từ năm 1979, còn 3 người ở trong nước là ông Vũ Đình Hưng, bà
Vũ Thị Tiến (Hiền), bà Vũ Thị Hậu. Sau khi cụ Quảng chết chỉ còn cụ Thênh, ông
Hưng, bà Tiến, bà Hậu quản lý căn nhà này. Sau khi cụ Thênh chết, ông Hưng, bà
Tiến và bà Hậu đã tự phân chia căn nhà thành 3 phần để ở. Ngày 18-10-1992, bà
Tiến bán phần nhà đang sử dụng cho bà Nguyễn Thị Kim Oanh và ngày 31-10-1993 bà
Hậu bán tiếp phần nhà bà đang ở cho bà Hà Thùy Linh.

Năm
1993, ông Hưng khởi kiện yêu cầu chia thừa kế nhà đất của cha mẹ nêu trên theo
pháp luật. Việc giải quyết vụ án kéo dài từ năm 1993 đến 1996 và bị tạm đình
chỉ xét xử phúc thẩm năm 1997. Năm 2007, vụ án được thụ lý lại.

Khi
giải quyết vụ án, trước giai đoạn tố tụng tạm đình chỉ (1997), ông Hưng đã cung
cấp các đơn, giấy ủy quyền lập năm 1991, 1992, 1993, 1994 của ông Đường, bà
Cẩm, bà Thảo có nội dung giao cho ông Hưng trông coi quản lý  tài sản thừa
kế phần của họ trong di sản thừa kế là nhà đất số 66 phố Đồng Xuân; sau đó ông
Hưng lại cung cấp các văn bản lập năm 1995 của ông Đường, bà Thảo và bà Cẩm có
nội dung cho hẳn ông Hưng phần thừa kế của mình trong tài sản tranh chấp. Các
văn bản đều có tem và con dấu của nước sở tại (ông Đường ở Anh, bà Cẩm ở Pháp
và bà Thảo ở Mỹ), nhưng chỉ là bản photocopy. Tuy nhiên, các đương sự đều ghi
rõ số nhà, địa chỉ của người viết văn bản. Trong quá trình thụ lý giải quyết
lại vụ án sau giai đoạn tạm đình chỉ, ông Hưng, bà Tiến, bà Hậu đều khai ông
Đường, bà Thảo đã chết khoảng năm 2002, ông Hưng xác định địa chỉ của bà Cẩm,
bà Thảo không thay đổi, còn ông đã liên lạc với con ông Đường nhưng không nhận
được hồi âm (bút lục 376, 377, 382). Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu ông Hưng phải
cung cấp chứng tử của ông Đường, bà Thảo; tên, địa chỉ của con ông Đường, bà
Thảo. Ông Hưng khai không cung cấp được và đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ để
giải quyết theo pháp luật (bút lục 390). Như vậy, trong hồ sơ đã có địa chỉ của
những người đã sống ở nước ngoài, còn việc yêu cầu ông Hưng cung cấp chứng tử
của ông Đường bà Thảo là không cần thiết, vì cả ba người ở trong nước đều xác
nhận hai người này đã chết. Lẽ ra, Tòa án cấp sơ thẩm phải thực hiện thủ tục ủy
thác tư pháp theo quy định, thu thập chứng cứ đối với ông Đường, bà Thảo để làm
rõ thời điểm những người này chết và nếu hai người chết này còn có người thừa
kế thì hỏi họ về quan điểm giải quyết vụ án. Tùy từng trường hợp căn cứ chứng
cứ mới để giải quyết vụ án theo quy định. Nếu không thu thập được chứng cứ gì
hơn thì vẫn phải giải quyết yêu cầu của ông Hưng để được hưởng thừa kế theo
pháp luật, phần thừa kế của ông Đường bà Thảo sẽ tạm giao cho những người đang
sống trong nước quản lý để sau này người thừa kế của họ có quyền hưởng theo
pháp luật, như vậy mới giải quyết dứt điểm vụ án. Đối với những người đang sống
tại phần nhà bà Tiến bán thì nghĩa vụ cung cấp tên tuổi của họ là của bà Tiến.
Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu ông Hưng cung cấp tên tuổi của những người này là
không đúng đối tượng. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng ông Hưng không cung cấp được tên,
địa chỉ của con ông Đường, bà Thảo, người mua nhà của bà Oanh để đình chỉ giải
quyết vụ án là không đúng. Tòa án cấp phúc thẩm lẽ ra phải hủy quyết định sơ
thẩm để giao giải quyết lại nhưng lại giữ nguyên quyết định sơ thẩm là không
đúng.

Ngoài
ra, theo các tài liệu có trong hồ sơ và lời khai của ông Hoàng Mạnh Khôi ngày
17-10-2007 (bút lục 373) và “Giấy bán nhà” ngày 31-10-1993 (bút lục 18), thì bà
Hậu bán phần nhà mà bà đang quản lý cho bà Hà Thùy Linh (chồng là ông Hoàng
Mạnh Khôi). Quyết định sơ thẩm và phúc thẩm lại ghi là bà Nguyễn Thị Thùy Linh
là không chính xác, cần điều chỉnh lại cho phù hợp.


các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH

 1. Hủy Quyết định số 44/2010/QĐ-PT ngày
09-3-2010 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và hủy Quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 54/2009/DS-ST ngày 30-9-2009 của Tòa
án nhân dân thành phố Hà Nội về vụ án tranh chấp thừa kế, giữa nguyên đơn là
ông Vũ Đình Hưng với bị đơn là bà Vũ Thị Tiến, bà Vũ Thị Hậu; người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Vũ Đình Đường, bà Vũ Thị Cẩm, bà Vũ Thị Thảo, bà
Nguyễn Thị Kim Oanh, bà Hà Thùy Linh.

2.
Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội giải quyết sơ thẩm lại vụ
án theo đúng quy định của pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“Lẽ ra, Tòa án cấp sơ thẩm phải thực
hiện thủ tục ủy thác tư pháp theo quy định, thu thập chứng cứ đối với ông
Đường, bà Thảo để làm rõ thời điểm những người này chết và nếu hai người chết
này còn có người thừa kế thì hỏi họ về quan điểm giải quyết vụ án. Tùy từng
trường hợp căn cứ chứng cứ mới để giải quyết vụ án theo quy định. Nếu không thu
thập được chứng cứ gì hơn thì vẫn phải giải quyết yêu cầu của ông Hưng để được
hưởng thừa kế theo pháp luật, phần thừa kế của ông Đường bà Thảo sẽ tạm giao
cho những người đang sống trong nước quản lý để sau này người thừa kế của họ có
quyền hưởng theo pháp luật, như vậy mới giải quyết dứt điểm vụ án. Đối với
những người đang sống tại phần nhà bà Tiến bán thì nghĩa vụ cung cấp tên tuổi
của họ là của bà Tiến. Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu ông Hưng cung cấp tên tuổi
của những người này là không đúng đối tượng. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng ông
Hưng không cung cấp được tên, địa chỉ của con ông Đường, bà Thảo, người mua nhà
của bà Oanh để đình chỉ giải quyết vụ án là không đúng. Tòa án cấp phúc thẩm lẽ
ra phải hủy quyết định sơ thẩm để giao giải quyết lại nhưng lại giữ nguyên
quyết định sơ thẩm là không đúng.”

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Án lệ số 03/2016/AL

Được
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016
và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết
định giám đốc thẩm số 208/2013/DS-GĐT ngày 03-5-2013 của Tòa Dân sự Tòa án nhân
dân tối cao về vụ án “Ly hôn” tại Hà Nội giữa nguyên đơn là chị Đỗ Thị Hồng với
bị đơn là anh Phạm Gia Nam; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phạm
Gia Phác, bà Phùng Thị Tài, anh Phạm Gia Ơn, chị Phạm Thị Lữ, anh Bùi Văn Đáp,
chị Đỗ Thị Ngọc Hà.

Khái quát nội dung của án lệ:

Trường
hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất và vợ chồng người con đã
xây dựng nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người con
xây dựng nhà thì cha mẹ và những người khác trong gia đình không có ý kiến phản
đối gì; vợ chồng người con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và
đã tiến hành việc kê khai đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì
phải xác định vợ chồng người con đã được tặng cho quyền sử dụng đất.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

 
– Điều 14 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986;

  –
Điều 242 của Bộ luật Dân sự năm 1995;

  –
Khoản 2 Điều 176 của Bộ luật Dân sự năm 1995.

Từ khoá của án lệ:

“Ly
hôn”; “Tài sản chung của vợ chồng”; “Tặng cho tài sản”; “Căn cứ xác lập quyền
sở hữu”; “Xác lập quyền sở hữu theo thỏa thuận”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị
Đỗ Thị Hồng và anh Phạm Gia Nam kết hôn năm 1992, có đăng ký tại Ủy ban nhân
dân xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. Sau chung sống một thời
gian thì phát sinh mâu thuẫn, hai vợ chồng sống ly thân từ tháng 9 năm 2008 đến
nay. Ngày 18-4-2009, chị Hồng khởi kiện xin ly hôn anh Nam, anh Nam cũng đồng
ý.

Về
con chung: Vợ chồng có hai con là Phạm Gia Khang, sinh năm 1992 và Phạm Hương
Giang, sinh năm 2000. Chị Hồng và anh Nam đều có nguyện vọng nuôi cả hai con và
không yêu cầu người còn lại đóng góp nuôi con. Nguyện vọng của cháu Khang là
muốn ở với anh Nam, nguyện vọng của cháu Giang là muốn ở với chị Hồng.

Về
tài sản: Trong quá trình chung sống thì vợ chồng có xây nhà hai tầng vào năm
2002 (năm 2005 xây thêm một tum để chống nóng), nhà được xây trên thửa đất 80m2
tại xóm Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín. Về nhà, vợ chồng thống nhất là
tài sản chung hai vợ chồng. Riêng về đất thì các bên không thống nhất được với
nhau.

Theo
chị Hồng: Đất là của gia đình ông Phạm Gia Phác (bố đẻ anh Nam) được cấp đất
giãn dân năm 1992, sau đó gia đình ông Phác đã họp và tuyên bố cho vợ chồng chị
diện tích đất, không làm giấy tờ. Năm 2001, ông Phác sang báo và anh Nam đi làm
thủ tục cấp sổ đỏ nên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên hộ
anh Phạm Gia Nam nên đất này là tài sản chung của vợ chồng.

Chị
yêu cầu được sử dụng nhà và đất nêu trên và thanh toán 1/2 giá trị đất và tài
sản trên đất cho anh Nam như giá mà Hội đồng định giá đã đưa ra.

Theo
anh Nam: Thửa đất này bố mẹ anh được cấp giãn dân năm 1992, bố mẹ chỉ cho vợ
chồng ở nhờ chứ chưa cho vì gia đình anh còn đông anh em. Năm 2001, anh tự kê
khai làm giấy tờ đất, gia đình anh không biết. Quan điểm của anh là trả lại đất
cho ông Phác.

Theo
ông Phác và bà Tài (bố mẹ anh Nam): Nguồn gốc đất là của ông được Ủy ban nhân
dân xã Vân Tảo cấp đất giãn dân năm 1992, ông có xây một căn nhà cấp 4 trên đó.
Năm 1993, gia đình ông cho vợ chồng anh Nam, chị Hồng ra đó làm ăn sinh sống
chứ không cho đất vì vợ ông bị liệt 15 năm nay, ông và anh Ơn (em trai anh Nam)
phải chăm sóc, nguyện vọng của gia đình là để mảnh đất này cho anh Ơn vì anh Ơn
chưa có chỗ ở. Khi gia đình được cấp đất giãn dân thì gia đình chỉ có 4 người
là ông, bà Tài, chị Lữ, anh Ơn (còn anh Nam đã thoát ly khỏi địa phương). Khi
chị Hồng xin ly hôn anh Nam thì gia đình mới biết anh Nam đã tự động sang tên
đất từ năm 2001. Nay ông, bà yêu cầu anh Nam, chị Hồng trả lại đất cho ông, bà.

Ngoài
ra, trong quá trình giải quyết vụ án chị Hồng còn khai anh Nam được trường Cán
bộ Sỹ quan Lục quân I cấp một thửa đất có diện tích 125m2 ở huyện Thạch Thất,
ban đầu chị yêu cầu chia thửa đất này nhưng sau đó chị không yêu cầu giải quyết
nữa.

Về
nợ: Theo chị Hồng, vợ chồng vay của bà Hoàng Thị Chu (mẹ chị) 7,5 chỉ vàng
9999, vay của chị Đỗ Thị Ngọc Hà (chị gái chị) 1 cây vàng 9999, vay của anh Bùi
Văn Đáp 150.000.000 đồng, lãi suất 1,25%/tháng, tất cả các khoản vay này đều
không có giấy tờ. Chị yêu cầu anh Nam phải cùng chị thanh toán các khoản nợ
trên.

Theo
anh Nam, vợ chồng chỉ nợ bà Chu 7,5 chỉ vàng, anh đã trả được 13.875.000 đồng
(tương đương 3,75 chỉ vàng). Còn các khoản vay khác anh không biết, anh không
đồng ý trả theo yêu cầu của chị Hồng.

Ngày
03-11-2010, Hội đồng định giá đã định giá tài sản như sau:

Đất:
80m2 x 22.000.000 đồng/m2 = 1.760.000.000 đồng.

Nhà:
475.865.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là: 2.235.865.000 đồng.

Tại
Bản án sơ thẩm số 03/2011/HNGĐ-ST ngày 17-5-2011, Tòa án nhân dân huyện Thường
Tín, thành phố Hà Nội đã quyết định:

1.
Về quan hệ vợ chồng: Chị Đỗ Thị Hồng được ly hôn anh Phạm Gia Nam.

2.
Về con chung: Giao cháu Phạm Hương Giang, sinh ngày 14-8-2000 cho chị Hồng nuôi
dưỡng cho đến khi trưởng thành. Tạm hoãn việc đóng góp phí tổn nuôi con chung
cho anh Nam đến khi chị Hồng có yêu cầu. Anh Nam có quyền đi lại thăm hỏi con
chung, không ai được ngăn cản.

3.
Tài sản chung, công sức đóng góp: Xác nhận ngôi nhà hai tầng 1 tum và Tòan bộ
công trình trên thửa đất số 63 tờ bản đồ số 5 ở Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện
Thường Tín, thành phố Hà Nội là tài sản chung của chị Đỗ Thị Hồng và anh Phạm
Gia Nam có giá trị 475.865.000 đồng.

4.
Xác nhận quyền sử dụng đất 80m2 đất thửa số 63 tờ bản đồ số 5 ở Vân Hòa, xã Vân
Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội thuộc hộ gia đình ông Phạm Gia Phác.
Buộc chị Đỗ Thị Hồng và anh Phạm Gia Nam phải trả lại cho hộ gia đình ông Phạm
Gia Phác quyền sử dụng 80m2 thửa số 63 tờ bản đồ số 5 ở Vân Hòa, xã Vân Tảo,
huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. Giao hộ gia đình ông Phạm Gia Phác được
quyền sở hữu Tòan bộ tài sản trên thửa đất này gồm nhà hai tầng và công trình
trên đất. Buộc ông Phạm Gia Phác phải thanh toán trả chị Đỗ Thị Hồng và anh
Phạm Gia Nam mỗi người 237.932.500 đồng.

5.
Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện Thường Tín thu hồi giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số U060645 cấp ngày 21-12-2001, mang tên hộ ông Phạm Gia Nam để làm
thủ tục cấp lại cho ông Phạm Gia Phác khi ông Phác có yêu cầu.

6.
Ghi nhận sự tự nguyện của anh Phạm Gia Nam hỗ trợ chị Đỗ Thị Hồng số tiền là
800.000.000 đồng.

7.
Buộc chị Đỗ Thị Hồng phải thanh toán trả cho anh Bùi Văn Đáp số tiền là
179.820.000 đồng.

8.
Bác các yêu cầu khác của chị Đỗ Thị Hồng.

Ngoài
ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo.

Ngày
19-5-2011, chị Hồng có đơn kháng cáo Tòan bộ Bản án sơ thẩm.

Ngày
24-5-2011, anh Nam kháng cáo không đồng ý hỗ trợ chị Hồng 800.000.000 đồng tạo
dựng chỗ ở mới. Nhưng tại phiên tòa phúc thẩm anh Nam rút yêu cầu kháng cáo này.

Tại
Bản án phúc thẩm số 105/2011/LHPT ngày 30-8-2011 và ngày 06-9-2011 Tòa án nhân
dân thành phố Hà Nội đã quyết định:

Giữ
nguyên Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 03/2011/HNGĐ-ST ngày 17-5-2011
của Tòa án nhân dân huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội (như đã nêu ở trên).

Ngoài
ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn tuyên về án phí.

Sau
khi xét xử phúc thẩm, chị Hồng và bà Hoàng Thị Chu có đơn đề nghị xem xét theo
thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án phúc thẩm nêu trên.

Tại
Quyết định kháng nghị số 05/2013/KN-HNGĐ-LĐ ngày 03-01-2013, Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao đã kháng nghị đối với Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số
105/2011/LHPT ngày 30-8-2011 và 06-9-2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
Đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng: Hủy
Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm nêu trên và Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm
số 03/2011/HNGĐ-ST ngày 17-5-2011 của Tòa án nhân dân huyện Thường Tín, thành
phố Hà Nội về phần quan hệ tài sản; giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Thường
Tín, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Tại
phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm soát nhân dân tối cao cho rằng đối
với đất tranh chấp, khi cấp giãn dân cho gia đình ông Phác thì không có anh
Nam, không có căn cứ cho rằng bố mẹ đã cho vợ chồng anh Nam nên đất vẫn là của
gia đình ông Phác. Tòa án hai cấp xác định là của bố mẹ anh Nam là có căn cứ.
Có sai phần nợ của bà Chu. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng
nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Hội đồng giám đốc thẩm Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao
nhận định:

Về
quan hệ hôn nhân và con chung, Tòa án các cấp đã giải quyết, các đương sự không
có khiếu nại.

Về
quan hệ tài sản: Tài sản mà các đương sự tranh chấp là diện tích đất 80m2 tại
xóm Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội mang tên hộ anh
Phạm Gia Nam.

Hồ
sơ thể hiện nguồn gốc diện tích đất nêu trên là của ông Phạm Gia Phác được Ủy
ban nhân dân xã Vân Tảo, huyện Thường Tín cấp đất giãn dân vào năm 1992. Căn cứ
Biên bản bàn giao đất của Ủy ban nhân dân xã cho ông Phác thì thời điểm có biên
bản giao đất này chị Hồng đã kết hôn với anh Nam. Tuy nhiên, theo xác minh của
Tòa án cấp sơ thẩm tại xã Vân Tảo, Thường Tín về thủ tục cấp đất thì xã Vân Tảo
đã có chủ trương cấp đất giãn dân từ năm 1991. Dù khi làm thủ tục cấp đất, gia
đình ông Phác chỉ có 4 người là ông Phác, bà Tài, chị Lữ, anh Ơn (vì thời điểm
này anh Nam đi bộ đội chưa về địa phương), nhưng việc cấp đất giãn dân là cấp
đất cho hộ đông người, cấp cho vợ chồng ông Phác và các con, nên anh Nam cũng
là đối tượng được cấp đất. Sau khi nhận đất, gia đình ông Phác đã xây dựng một
căn nhà cấp 4. Năm 1993, gia đình ông Phác cho vợ chồng anh Nam chị Hồng ra ở
riêng trên diện tích đất này và anh chị là người quản lý, sử dụng đất liên tục
từ đó cho đến nay.

Chị
Hồng cho rằng gia đình ông Phác đã tuyên bố cho vợ chồng chị diện tích đất nêu
trên, ông Phác và anh Nam khẳng định gia đình chưa cho vợ chồng.

Xét
thấy: Theo xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Vân Tảo thì năm 2001, xã tổ chức cho
các hộ dân trong xã Vân Tảo đăng ký kê khai để xét cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng và các hộ kê khai tại trụ sở thôn xóm (BL 103). Tất cả các hộ dân trong xã
đều được biết về chủ trương kê khai đất này. Ông Phác là chủ đất nhưng không đi
kê khai. Anh Nam đang ở trên đất và là người đi kê khai làm thủ tục cấp giấy
chứng nhận. Ngày 21-12-2001, anh Nam được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số U060645 đứng tên hộ ông Phạm Gia Nam. Vợ chồng anh chị đã xây nhà 2 tầng
kiên cố vào năm 2002 và đến năm 2005 thì xây thêm tum tầng 3. Ông Phác và các
anh chị em trong gia đình anh Nam đều biết việc xây dựng trên của vợ chồng anh
Nam chị Hồng, nhưng cũng không ai có ý kiến gì. Như vậy, từ khi được cấp giấy
chứng nhận (2001) cho đến khi có việc ly hôn của anh Nam, chị Hồng (2009), gia
đình ông Phác cũng không ai có khiếu nại gì về việc cấp đất, xây nhà này. Điều
đó thể hiện ý chí của gia đình ông Phác là đã cho anh Nam và chị Hồng diện tích
đất nêu trên. Do đó, việc ông Phác và anh Nam khai rằng anh Nam tự ý kê khai
giấy tờ đất, ông Phác không biết là không có cơ sở chấp nhận. Như vậy, có căn
cứ xác định lời khai của chị Hồng về việc gia đình ông Phác đã cho anh chị diện
tích đất trên, là có cơ sở.

Do
đó, việc Tòa án các cấp nhận định rằng anh Nam đi làm giấy tờ đất ông Phác
không biết và việc chị Hồng khai gia đình chồng đã cho vợ chồng nhưng không có
chứng cứ chứng minh, để xác định diện tích đất 80m2 tại thôn Vân Hòa, xã Vân
Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội là tài sản thuộc hộ gia đình ông Phạm
Gia Phác; đồng thời, buộc anh Nam, chị Hồng trả lại đất cho gia đình ông Phác,
là không đúng. Cần phải xác định diện tích đất tranh chấp trên là tài sản chung
của vợ chồng anh Nam, chị Hồng và khi chia phải coi anh Nam có công sức đóng
góp nhiều hơn để chia theo công sức của mỗi bên và cần phải căn cứ vào nhu cầu
về chỗ ở để chia hiện vật cho các bên nhằm đảm bảo quyền lợi cho các đương sự.

Đối
với nội dung khiếu nại của bà Hoàng Thị Chu (mẹ đẻ chị Hồng), thấy rằng: Ngày
07-5-2011 (trước ngày xét xử sơ thẩm), bà Chu đã có đơn gửi Tòa án nhân dân
huyện Thường Tín, nội dung: “Hôm nay là ngày 07-5-2011, tôi đã nhận được số
tiền các cháu trả tôi. Tôi không đề nghị Tòa án giải quyết nữa”. Tòa án cấp sơ
thẩm tuyên sung công quỹ đối với số tiền tạm ứng án phí của bà Chu (200.000đ),
nhưng không tuyên đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu đòi nợ của bà Chu, là
trái với quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy
nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm, bà Chu không kháng cáo và Viện kiểm sát không
kháng nghị, do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm đã căn cứ Điều 263 Bộ luật Tố tụng
dân sự chỉ xem xét lại phần của bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng
nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị, nên
kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với nội dung trên là không
cần thiết.

Do
đó, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét thấy
kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với phần tài sản tranh chấp
của anh Nam, chị Hồng (là 80m2 đất tại xóm Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường
Tín, Hà Nội), là có căn cứ chấp nhận.


các lẽ trên, căn cứ khoản 2 Điều 291; khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật Tố
tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH

Hủy
Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 105/2011/LH-PT

ngày
30-8-2011 và ngày 06-9-2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và Bản án hôn
nhân gia đình sơ thẩm số 03/2011/HNGĐST ngày 17-5-2011 của Tòa án nhân dân
huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội về phần quan hệ tài sản, đã giải quyết vụ án
“Ly hôn” giữa nguyên đơn là chị Đỗ Thị Hồng và bị đơn là anh Phạm Gia Nam;

Giao
hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội xét xử sơ
thẩm lại theo quy định của pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“Theo xác minh tại Ủy ban nhân dân
xã Vân Tảo thì năm 2001 xã tổ chức cho các hộ dân trong xã Vân Tảo đăng ký kê
khai để xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng và các hộ kê khai tại trụ sở thôn
xóm (BL 103). Tất cả các hộ dân trong xã đều được biết về chủ trương kê khai đất
này. Ông Phác là chủ đất nhưng không đi kê khai. Anh Nam đang ở trên đất và là
người đi kê khai làm thủ tục cấp giấy chứng nhận. Ngày 21-12-2001 anh Nam được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U060645 đứng tên hộ ông Phạm Gia Nam.
Vợ chồng anh chị đã xây nhà 2 tầng kiên cố vào năm 2002 và đến năm 2005 thì xây
thêm tum tầng 3. Ông Phác và các anh chị em trong gia đình anh Nam đều biết
việc xây dựng trên của vợ chồng anh Nam chị Hồng, nhưng cũng không ai có ý kiến
gì. Như vậy, từ khi được cấp giấy chứng nhận (2001) cho đến khi có việc ly hôn
của anh Nam, chị Hồng (2009), gia đình ông Phác cũng không ai có khiếu nại gì
về việc cấp đất, xây nhà này. Điều đó thể hiện ý chí của gia đình ông Phác là
đã cho anh Nam và chị Hồng diện tích đất nêu trên. Do đó, việc ông Phác và anh
Nam khai rằng anh Nam tự ý kê khai giấy tờ đất, ông Phác không biết là không có
cơ sở chấp nhận. Như vậy, có căn cứ xác định lời khai của chị Hồng về việc gia
đình ông Phác đã cho anh chị diện tích đất trên, là có cơ sở.

Do đó, việc Tòa án các cấp nhận định
rằng anh Nam đi làm giấy tờ đất ông Phác không biết và việc chị Hồng khai gia
đình chồng đã cho vợ chồng nhưng không có chứng cứ chứng minh, để xác định diện
tích đất 80m2 tại thôn Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội
là tài sản thuộc hộ gia đình ông Phạm Gia Phác; đồng thời buộc anh Nam, chị
Hồng trả lại đất cho gia đình ông Phác, là không đúng. Cần phải xác định diện
tích đất tranh chấp trên là tài sản chung của vợ chồng anh Nam, chị Hồng và khi
chia phải coi anh Nam có công sức đóng góp nhiều hơn để chia theo công sức của
mỗi bên và cần phải căn cứ vào nhu cầu về chỗ ở để chia hiện vật cho các bên
nhằm đảm bảo quyền lợi cho các đương sự.”

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Án lệ số 05/2016/AL

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua
ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06
tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm số 39/2014/DS-GĐT ngày
09-10-2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp
di sản thừa kế” tại Thành phố Hồ Chí Minh giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị
Thưởng, bà Nguyễn Thị Xuân với bị đơn là ông Nguyễn Chí Trải (Cesar Trai Nguyen), chị Nguyễn Thị Thuý Phượng, bà
Nguyễn Thị Bích Đào; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Nguyễn Thị Xê,
Nguyễn Chí Đạt (Danforth Chi Nguyen), Nguyễn Thuần Lý, Nguyễn Thị Trinh, Nguyễn
Chí Đức, Nguyễn Thị Thuý Loan, Phạm Thị Liên, Phạm Thị Vui, Trần Đức Thuận,
Trần Thành Khang.

Khái quát nội dung của án lệ:

Trong
vụ án tranh chấp di sản thừa kế, có đương sự thuộc diện được hưởng một phần di
sản thừa kế và có công sức đóng góp vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế
nhưng không đồng ý việc chia thừa kế (vì cho rằng đã hết thời hiệu khởi kiện về
thừa kế), không có yêu cầu cụ thể về việc xem xét công sức đóng góp của họ vào
việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế; nếu Tòa án quyết định việc chia thừa kế
cho các thừa kế thì phải xem xét về công sức đóng góp của họ vì yêu cầu không
chia thừa kế đối với di sản thừa kế lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

Khoản
1 Điều 5 và Điều 218 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004;

Từ khóa của án lệ:

“Yêu
cầu khởi kiện”; “Yêu cầu phản tố”; “Công sức đóng góp vào việc quản lý, tôn tạo
di sản thừa kế”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại
đơn khởi kiện ngày 18-7-2008 và trong quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn Thị
Thưởng, bà Nguyễn Thị Xuân trình bày: Cha mẹ các bà là cụ Nguyễn Văn Hưng (chết
năm 1978), cụ Lê Thị Ngự (chết năm 1992) có 06 người con là bà Nguyễn Thị Xê,
ông Nguyễn Chí Trải, bà Nguyễn Thị Xuân, bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị
Trinh và ông Nguyễn Chí Trai. Ông Trai có vợ là bà Ông Thị Mạnh và có 05 người
con là anh Nguyễn Thuần Lý, anh Nguyễn Thuần Huy, chị Nguyễn Thị Quới Đường,
anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1966) và anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1968). Tại
Quyết định số 413/2008 ngày 31-3-2008, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã
tuyên bố ông Trai, bà Mạnh, anh Thuần Huy, chị Quới Đường, anh Nguyễn Chí Đạt
(sinh năm 1968) là đã chết.

Căn
nhà số 263 đường Trần Bình Trọng, Phường 4, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh do cụ
Hưng, cụ Ngự nhận chuyển nhượng đất của ông Đào Thành Phụng năm 1953, đến năm
1966 thì hai cụ xây dựng nhà ở như hiện nay. Nhà đất chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất, chỉ mới kê khai năm 1999. Cụ Hưng,
cụ Ngự chết đều không để lại di chúc, căn nhà hiện nay do chị Nguyễn Thị Thuý
Phượng là con ông Nguyễn Chí Trải đang quản lý. Quá trình quản lý, chị Phượng
cho bà Nguyễn Thị Bích Đào thuê một phần căn nhà để làm lò bánh mì. Khi chị
Phượng ở đây có sửa chữa nhà nhưng không đáng kể. Vợ chồng ông Trải không có
đóng góp gì vào việc xây dựng và sửa chữa vì ông Trải đi cải tạo, còn bà Tư vợ
ông Trải không có nghề nghiệp, con còn bé không có thu nhập để có tiền đóng
góp. Nếu chị Phượng có chứng cứ chứng minh chi phí sửa chữa và yêu cầu thì các
bà sẽ trả.

Các
nguyên đơn yêu cầu chia thừa kế căn nhà này theo quy định của pháp luật và xin
được nhận nhà, hoàn lại bằng tiền cho các thừa kế khác. Chị Phượng không thuộc
diện thừa kế nên phải trả lại nhà, không đồng ý hỗ trợ chị Phượng đi nơi khác.

Bị
đơn là chị Nguyễn Thị Thuý Phượng trình bày: Chị thống nhất về quan hệ gia
đình. Cha chị là ông Nguyễn Chí Trải, mẹ chị là bà Nguyễn Thị Tư có 03 người
con gồm chị, anh Nguyễn Chí Đức, chị Nguyễn Thị Thuý Loan (anh Đức, chị Loan
hiện sống ở Canada). Căn nhà số 263 đường Trần Bình Trọng là của ông bà nội chị
mua từ năm 1953, khi đó là nhà ngói, vách ván. Năm 1955, cha chị kết hôn với mẹ
chị và cha mẹ chị ở tại căn nhà này. Năm 1978 cha chị xuất cảnh sang Mỹ, mẹ chị
chết năm 1980. Chị sống tại căn nhà này từ nhỏ đến nay, đã sửa chữa nhà nhiều
lần như làm cửa nhôm, xây tường phần gác lửng, lát gạch men sân thượng, xây
tường phía sau nhà. Chị có phần thừa kế của cha chị vì năm 2006 cha chị đã lập
tờ cho đứt chị tài sản thừa kế ở Việt Nam nên chị được phần thừa kế mà cha chị
được hưởng của cụ Hưng, cụ Ngự. Chị không đồng ý yêu cầu của các nguyên đơn, vì
thời hiệu chia thừa kế đã hết, hiện tại chị và 02 con của chị đang sống tại căn
nhà này. Chị có cho bà Nguyễn Thị Bích Đào thuê một phần nhà làm lò bánh mì,
chị và bà Đào sẽ tự giải quyết với nhau về việc thuê nhà.

Bị
đơn là ông Nguyễn Chí Trải trình bày: Tại văn bản ngày 14-10-2009, ông Trải có
đơn đề nghị có nội dung ngày 25-4-2006 ông có giấy cho đứt tài sản thừa kế của
ông cho chị Phượng được hưởng phần tài sản thừa kế mà ông được hưởng của cha mẹ
tại Việt Nam, nay ông xin huỷ bỏ văn bản trên và bằng văn bản này ông xin uỷ
quyền cho bà Thưởng, bà Xuân thay mặt ông tại Tòa án, khi Tòa xét xử xong phần
tài sản thừa kế của ông xin được trao hết cho con trai ông là anh Nguyễn Chí
Đức hiện cư trú tại Canada.

Sau
khi xét xử sơ thẩm, ngày 22-4-2010, ông Trải có Đơn tường trình nội dung ông
không đồng ý chia thừa kế nhà 263 Trần Bình Trọng mà giao cho chị Phượng tiếp
tục trông nom để ở, ông và vợ ông đã có công sức đóng góp tiền của vào căn nhà
này. Nhưng đến ngày 14-7-2010, ông Trải lại có văn bản có nội dung ông cho con
trai là anh Nguyễn Chí Đức phần tài sản ông được nhận thừa kế của cha mẹ. Ngày
11-3-2011, ông Trải có Tờ tường trìnhnội dung ông đồng ý với quyết
định của Bản án sơ thẩm, ông không kháng cáo.

Người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:


Bà Nguyễn Thị Trinh (là con cụ Hưng, cụ Ngự) trình bày: Bà thống nhất như trình
bày của các nguyên đơn về quan hệ gia đình và nguồn gốc tài sản. Năm 1966 nhà
bị hư dột, cha mẹ bà có sửa lại nhà có sự đóng góp của các con trong đó có bà
nhưng bà không yêu cầu phần bà đã đóng góp. Việc chị Phượng cho rằng cha mẹ chị
và chị có đóng góp trong việc sửa chữa nhà là không đúng. Bà đề nghị kỷ phần
thừa kế của bà giao cho bà Xuân, bà Thưởng quản lý; đề nghị bà Đào, chị Phượng
trả lại nhà.


Anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1966), anh Nguyễn Thuần Lý trình bày: Cha mẹ các
anh là ông Nguyễn Chí Trai, bà Ông Thị Mạnh cùng 03 người em của các anh đều đã
chết trên biển khi vượt biên vào năm 1982. Các anh đồng ý với ý kiến của nguyên
đơn về việc chia thừa kế, xin được hưởng thừa kế tài sản của cụ Hưng, cụ Ngự và
giao cho bà Thưởng, bà Xuân quản lý.

– Bà
Nguyễn Thị Xê (là con của cụ Hưng, cụ Ngự) thống nhất với trình bày của các
nguyên đơn về quan hệ gia đình và yêu cầu của các nguyên đơn, kỷ phần thừa kế bà được hưởng cho 02 con của bà là
Phạm Thị Vui và Phạm Thị Liên.


Lời khai của chị Nguyễn Thị Thuý Loan, anh Nguyễn Chí Đức theo giấy uỷ quyền
lập ngày 21-5-2007 (đã được hợp pháp hoá lãnh sự) thì chị Loan, anh Đức ủy
quyền cho chị Phượng quyết định mọi sự việc liên quan đến những tranh chấp hay
phân chia tài sản và nhà đất bên Việt Nam (Giấy ủy quyền này do chị Phượng xuất trình theo đơn của chị Phượng đề ngày 25-3-2011,
sau khi xét xử sơ thẩm).

Chị Loan có đơn (kèm theo văn bản uỷ quyền) có nội dung
xin vắng mặt phiên toà ngày 13-8-2009. Về tài sản tranh chấp cha mẹ chị có tiền
đóng góp, còn các cô chú khác không đóng góp gì. Sau năm 1975, mọi người đi
hết, chỉ còn mình chị Phượng ở với ông bà, đề nghị Tòa cho chị Phượng ở lại nhà
đất tranh chấp.

Tại
Bản án dân sự sơ thẩm số 3363/2009/DSST ngày 18-11-2009, Tòa án nhân dân Thành
phố Hồ Chí Minh quyết định:


Xác định nhà đất tại 263 Trần Bình Trọng là di sản thừa kế của cụ Nguyễn Văn
Hưng, cụ Lê Thị Ngự; mỗi kỷ phần thừa kế được hưởng là 10.655.687.000: 6
=1.775.947.800 đồng.


Buộc mẹ con chị Phượng và bà Đào giao lại nhà đất tranh chấp cho bà Thưởng, bà
Xuân. Bà Thưởng, bà Xuân có trách nhiệm trả cho các thừa kế khác bằng tiền mà
họ được hưởng.


Ghi nhận việc ông Nguyễn Chí Trải cho con là anh Nguyễn Chí Đức được nhận kỷ
phần thừa kế của ông.

Ngày
30-11-2009, chị Nguyễn Thị Thuý Phượng có đơn kháng cáo có nội dung cho rằng cụ
Hưng, cụ Ngự chết đã quá 10 năm nên thời hiệu khởi kiện về thừa kế không còn.

Ngày
15-3-2011, chị Phượng có đơn kháng cáo bổ sung nội dung:


Cha chị là ông Trải không đồng ý chia và đồng ý cho chị quản lý căn nhà này.
Các đồng thừa kế không có văn bản xác nhận nhà tranh chấp là tài sản chung chưa
chia. Cha mẹ chị và các con trong đó có chị đã sống ổn định hơn 50 năm tại căn
nhà này, đã bảo quản, giữ gìn căn nhà nhưng nay lại buộc mẹ con chị phải ra
khỏi nhà là không thấu tình đạt lý.

Tại
Bản án dân sự phúc thẩm số 116/2011/DS-PT ngày 10-5-2011, Tòa Phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Giữ nguyên Bản án sơ
thẩm.

Ngày
16-6-2011, chị Nguyễn Thị Thuý Phượng có đơn đề nghị giám đốc thẩm Bản án dân
sự phúc thẩm nêu trên.

Tại
Quyết định số 158/2014/KN-DS ngày 06-5-2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
đã kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên
và Bản án dân sự sơ thẩm số 3363/2009/DSST ngày 18-11-2009 của Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Tại
phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí kháng
nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định:

Vợ
chồng cụ Nguyễn Văn Hưng (chết năm 1978), cụ Lê Thị Ngự (chết năm 1992) có 06
người con gồm bà Nguyễn Thị Xê, ông Nguyễn Chí Trải, bà Nguyễn Thị Xuân, bà
Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Trinh và ông Nguyễn Chí Trai. Vợ chồng ông
Nguyễn Chí Trai, bà Ông Thị Mạnh có 05 người con là anh Nguyễn Thuần Lý, anh
Nguyễn Thuần Huy, chị Nguyễn Thị Quới Đường, anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm
1966), anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1968). Ông Trai, bà Mạnh, anh Huy, chị
Đường, anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1968) bị tuyên bố chết ngày 31-3-2008 theo
Quyết định số 413/2008 ngày 31-3-2008 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh.

Cụ
Hưng, cụ Ngự chết đều không để lại di chúc. Các con của hai cụ và chị Phượng
(con ông Trải) đều thừa nhận căn nhà số 263 đường Trần Bình Trọng, Phường 4,
Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh do cụ Hưng, cụ Ngự nhận chuyển nhượng của ông Đào
Thành Phụng năm 1953 là tài sản của hai cụ tạo lập, hiện tại đang do chị Phượng
quản lý, sử dụng.

Năm
2008, bà Xuân, bà Thưởng khởi kiện yêu cầu chia thừa kế di sản của cụ Hưng, cụ
Ngự để lại.

Các đương sự đều xác định ông Trải định cư tại Mỹ trước
ngày 01-7-1991. Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm
căn cứ Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27-7-2006 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội xác định thời hiệu khởi kiện thừa kế đối với di sản của cụ Hưng vẫn
còn là có cơ sở. Đối với di sản của cụ Ngự thì đã hết thời hiệu khởi kiện yêu
cầu chia thừa kế, nhưng ông Trải và các đồng thừa kế của hai cụ đều thừa nhận
di sản của cụ Ngự là tài sản chung của các thừa kế chưa chia và đều nhất trí
chia đều cho các thừa kế. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm căn cứ tiểu mục
a điểm 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10-8-2004 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc
giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình để chia phần di sản của cụ
Ngự cho các thừa kế là có căn cứ.

Cụ
Hưng chết năm 1978, theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 thì
ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng. Phần tài sản ông Trải được
hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư. Bà Tư chết năm
1980, các thừa kế của bà Tư gồm ông Trải và 03 người con của ông Trải, bà Tư
trong đó có chị Phượng. Như vậy, chị Phượng được hưởng một phần tài sản của mẹ
là bà Tư, nhưng ông Trải đã định đoạt toàn bộ kỷ phần thừa kế mà ông được hưởng
của cụ Hưng cho anh Đức là chưa đúng.

Chị
Phượng sinh năm 1953 và các đương sự xác định chị Phượng ở tại nhà của ông, bà
từ nhỏ đến nay. Từ năm 1982, chị Phượng đã là chủ hộ khẩu tại nhà đất này, cụ
Ngự còn sống nhưng ở nơi khác, bà Thưởng chuyển hộ khẩu về tại đây từ năm 1979
nhưng không ở đây, nên chị Phượng đã trực tiếp quản lý, sử dụng nhà đất tranh
chấp từ sau khi cụ Ngự chết đến nay. Các đương sự khác đều có nơi ở ổn định nơi
khác. Khi chia thừa kế và tài sản chung, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm không
xem xét tạo điều kiện cho chị Phượng có chỗ ở mà buộc chị Phượng phải giao lại
nhà cho các nguyên đơn trong đó có phần quyền
tài sản chị Phượng được hưởng thừa kế của mẹ là bà Tư là chưa phù hợp.

Tuy
chị Phượng không phải thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hưng, cụ Ngự,
nhưng là cháu nội của hai cụ và có nhiều công sức quản lý, đã chi tiền sửa chữa
nhà nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, chị Phượng không yêu cầu xem xét
công sức vì chị Phượng cho rằng vụ án đã hết thời hiệu chia thừa kế, không đồng
ý trả nhà đất cho các thừa kế. Như vậy, yêu cầu của chị Phượng đề nghị xác định
quyền lợi là lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm,
phúc thẩm chưa xem xét công sức cho chị Phượng là giải quyết chưa triệt để yêu
cầu của đương sự.


các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297, khoản 1, 2 Điều 299 Bộ luật Tố tụng
dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011;

QUYẾT ĐỊNH

Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 116/2011/DS-PT
ngày 10-5-2011 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh và hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 3363/2009/DSST ngày 18-11-2009 của
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án tranh chấp thừa kế tài sản giữa
nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Xuân với bị đơn là chị Nguyễn
Thị Thuý Phượng và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.

Giao
hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo
quy định của pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

Cụ Hưng chết năm 1978, theo quy định của Luật Hôn nhân và
gia đình năm 1959 thì ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng. Phần
tài sản ông Trải được hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải,
bà Tư. Bà Tư chết năm 1980, các thừa kế của bà Tư gồm ông Trải và 03 người con
của ông Trải, bà Tư trong đó có chị Phượng.

Tuy
chị Phượng không phải thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hưng, cụ Ngự,
nhưng là cháu nội của hai cụ và có nhiều công sức quản lý, đã chi tiền sửa chữa
nhà nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, chị Phượng không yêu cầu xem xét
công sức vì chị Phượng cho rằng vụ án đã hết thời hiệu chia thừa kế, không đồng
ý trả nhà đất cho các thừa kế. Như vậy, yêu cầu của chị Phượng đề nghị xác định
quyền lợi là lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm,
phúc thẩm chưa xem xét công sức cho chị Phượng là giải quyết chưa triệt để yêu
cầu của đương sự.”
.

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Thay đổi trụ sở khác quận, huyện đồng thời với việc thay đổi cơ quan thuế quản lý (không cần thiết đối với các công ty do Cục thuế quản lý), do vậy trước khi tiến hành thủ tục thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh. Doanh nghiệp cần làm thủ tục thông báo thay đổi cơ quan thuế quản lý (hay còn gọi là chốt thuế chuyển quận).

Hồ sơ thực hiện chốt thuế chuyển quận

Theo quy định tại khoản 2 điều 10 thông tư 105/2020/TT-BTC để thay đổi cơ quan thuế quản lý doanh nghiệp nộp tờ khai Điều chỉnh thông tin đăng ký thuế mẫu 08-MST

Quy trình xử lý hồ sơ chuyển thuế sang quận khác

Theo quy định tại điều 11 thông tư 105/2020/TT-BTC quy định như sau: Người nộp thuế do Chi cục Thuế quản lý thay đổi địa chỉ trụ sở trong cùng địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhưng khác quận, huyện, thành phố trực thuộc tỉnh:

Tại cơ quan thuế nơi người nộp thuế chuyển đi:
Người nộp thuế nộp hồ sơ thay đổi thông tin đăng ký thuế tại cơ quan thuế quản lý trực tiếp. Trong thời hạn chậm nhất không quá 05 (năm) ngày làm việc kể từ ngày cơ quan thuế công bố biên bản, kết luận kiểm tra (đối với hồ sơ thuộc diện phải kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế), 07 (bảy) ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ của người nộp thuế (đối với hồ sơ thuộc diện không phải kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế), cơ quan thuế ban hành Thông báo về việc người nộp thuế chuyên địa điểm mẫu số 09-MST ban hành kèm theo Thông tư này theo quy định tại Khoản 3 Điều 6 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế gửi cho người nộp thuế.
Người nộp thuế chuyển địa điểm hoạt động kinh doanh tại trụ sở chính, nếu tiếp tục có hoạt động kinh doanh khác địa bàn cấp tỉnh với địa bản nơi đóng trụ sở chính và có nghĩa vụ khai thuế, nộp thuế với cơ quan thuế quản lý trên địa bàn cấp tỉnh đó theo quy định của pháp luật quản lý thuế (cơ quan thuế quản lý khoản thu) thì không phải thực hiện chuyển nghĩa vụ thuế theo quy định tại điểm a.1 Khoản này.

Tại cơ quan thuế nơi người nộp thuế chuyển đến:
Trong thời hạn 03 (ba) ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ của người nộp thuế, cơ quan thuế tiếp nhận hồ sơ có trách nhiệm cập nhật các thông tin thay đổi vào Hệ thống ứng dụng đăng ký thuế. Đồng thời, ban hành Giấy chứng nhận đăng ký thuế hoặc Thông báo mã số thuế đã cập nhật thông tin thay đổi gửi cho người nộp thuế.

Trường hợp này nếu đối với doanh nghiệp thực hiện tại sở kế hoạch đầu tư thì không phải làm thủ tục tại cơ quan thuế chuyển đến theo quy định tại nghị định 01/2021/NĐ-CP

Xử lý đối với người nộp thuế đã hoàn thành chuyển địa điểm tại cơ quan thuế nơi chuyển đi nhưng không nộp hồ sơ thay đổi địa chỉ trụ sở tại cơ quan đăng ký kinh doanh, đăng ký hợp tác xã (đối với người nộp thuế đăng ký thuế cùng với đăng ký doanh nghiệp, đăng ký hợp tác xã, đăng ký kinh doanh) hoặc tại cơ quan thuế nơi chuyển đến (đối với người nộp thuế đăng ký thuế trực tiếp với cơ quan thuế)
a) Trong thời hạn 10 (mười) ngày làm việc kể từ ngày cơ quan thuế nơi chuyển đi ban hành Thông báo về việc người nộp thuế chuyển địa điểm mẫu số 09-MST ban hành kèm theo Thông tư này, nếu người nộp thuế không thực hiện chuyên địa điểm thì phải có Văn bản đăng ký hủy chuyển địa điểm mẫu số 31/ĐK-TCT ban hành kèm theo Thông tư này gửi cơ quan thuế nơi chuyển đi. Cơ quan thuế nơi chuyển đi ban hành Thông báo về việc xác nhận người nộp thuế hủy chuyển địa điểm mẫu số 36/TB-ĐKT ban hành kèm theo Thông tư này, gửi người nộp thuế trong thời hạn 03 (ba) ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị của người nộp thuế.
b) Sau 10 (mười) ngày làm việc kể từ ngày cơ quan thuế nơi chuyển đi ban hành Thông báo về việc người nộp thuế chuyển địa điểm mẫu số 09-MST ban hành kèm theo Thông tư này, nếu người nộp thuế không nộp hồ sơ cho cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan đăng ký hợp tác xã hoặc cơ quan thuế nơi chuyển đến và người nộp thuế không có văn bản đề nghị hủy chuyển địa điểm theo quy định tại điểm a Khoản này gửi cơ quan thuế nơi chuyển đi thì cơ quan thuế nơi chuyển đến ban hành Thông báo giải trình, bổ sung thông tin tài liệu mẫu số 01/TB-B STT-NNT tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ gửi người nộp thuế.
c) Sau 10 (mười) ngày làm việc kể từ ngày cơ quan thuế nơi chuyển đến ban hành Thông báo theo quy định tại điểm b Khoản này gửi người nộp thuế nhưng người nộp thuế không nộp Văn bản đăng ký hủy chuyển địa điểm mẫu số 31/ĐK-TCT ban hành kèm theo Thông tư này hoặc không nộp hồ sơ thay đổi địa chỉ trụ sở, cơ quan thuế nơi chuyển đến ban hành Thông báo về việc người nộp thuế không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký mẫu số 16/TB-ĐKT ban hành kèm theo Thông tư này, chuyển trạng thái “Người nộp thuế không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký” và công khai thông tin trên cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế theo quy định tại Điều 17 Thông tư này.

Báo cáo tình hình sử dụng hoá đơn khi chuyển cơ quan thuế quản lý

Trước khi gửi hồ sơ chuyển cơ quan thuế quản lý đơn vị, tổ chức phải nộp báo cáo tình hình sử dụng hoá đơn đến thời điểm chuyển đi để chốt hoá đơn khi làm thủ tục

Xử lý chứng từ khấu trừ thuế TNCN đã mua khi chuyển trụ sở công ty

Đối với một số đơn vị có sử dụng chứng từ khấu trừ thuế TNCN thì sẽ phải làm báo cáo hoặc hủy chứng từ khấu trừ thuế TNCN trước khi chuyển sang cơ quan thuế quản lý mới. Thủ tục cụ thể đối với các trường hợp được quy định tại quyết định 440/QĐ-BTC ngày 14/03/2013 như sau:

5. Quản lý biên lai khi đơn vị chuyển cơ quan thuế quản lý
5.1. Quản lý biên lai của đơn vị chuyển cơ quan thuế trong nội, tỉnh, thành phố quản lý.
Bộ phận Tiếp nhận hồ sơ Cục Thuế/Chi cục Thuế thực hiện:
Nhận Báo cáo tình hình sử dụng biên lai (mẫu BC7/AC), Báo cáo tình hình sử dụng chứng từ khấu trừ thuế thu nhập cá nhân tự in (mẫu CTT25/AC) và Bảng kê biên lai chưa sử dụng (Bản kê ấn chỉ mẫu BK04/AC) của đơn vị chuyển gửi cơ quan Thuế nơi đi trước ngày Thông báo phát hành biên lai với cơ quan Thuế nơi đến.
Phòng/Bộ phận Ấn chỉ Cục Thuế/Chi cục Thuế chuyển đi thực hiện:
– Nhận, nhập Báo cáo tình hình sử dụng biên lai (mẫu BC7/AC hoặc mẫu CTT25/AC) và Bảng kê biên lai chưa sử dụng (mẫu BK04/AC) của đơn vị gửi cơ quan Thuế nơi đi. Chương trình Quản lý Ấn chỉ hỗ trợ người sử dụng điều chỉnh giảm Thông báo phát hành trước đây đúng bằng số biên lai đã kê trong Bảng kê biên lai chưa sử dụng (mẫu BK04/AC) của đơn vị trong Chương trình Quản lý Ấn chỉ.
– Chương trình Quản lý Ấn chỉ hỗ trợ phát hiện sai sót các số liệu trên Báo cáo tình hình sử dụng biên lai (mẫu BC7/AC hoặc mẫu CTT25/AC) và Bảng kê biên lai chưa sử dụng (mẫu BK04/AC) của đơn vị, ghi Sổ theo dõi sử dụng biên lai (mẫu ST10/AC) của đơn vị, tổng hợp Báo cáo tổng hợp tình hình sử dụng biên lai (mẫu BC8/AC) của cơ quan Thuế truyền lên cấp trên.
Phòng/Bộ phận Ấn chỉ Cục Thuế/Chi cục Thuế chuyển đến thực hiện:
Nhận, nhập Thông báo phát hành số biên lai đúng bằng số biên lai trong Bảng kê biên lai chưa sử dụng (mẫu BK04/AC) của đơn vị vào Chương trình quản lý Ấn chỉ. Chương trình hỗ trợ ghi Sổ theo dõi sử dụng biên lai (mẫu ST10/AC) của đơn vị.
5.2. Quản lý biên lai của đơn vị chuyển cơ quan thuế ngoài tỉnh, thành phố quản lý
Biên lai đơn vị đặt in, tự in khi chuyển cơ quan thuế ngoài tỉnh, thành phố quản lý, đơn vị thực hiện thanh, quyết toán biên lai, hủy biên lai còn lại trước khi chuyển cơ quan thuế ngoài tỉnh quản lý; Thông báo kết quả hủy gửi cơ quan thuế theo quy định tại Thông tư số 153/2012/TT-BTC ngày 17/9/2012 của Bộ Tài chính.

Hỏi đáp về thủ tục thuế chuyển quận

Mẫu công văn xin chốt thuế chuyển quận

Để thực hiện thủ tục chốt thuế chuyển quận doanh nghiệp dùng mẫu 08-MST theo thông tư 105/2020/TT-BC

Thủ tục chốt hoá đơn chuyển quận

Trước khi nộp hồ sơ chốt thuế chuyển cơ quan thuế quản lý. Doanh nghiệp chốt hoá đơn chuyển quận bằng cách gửi thông báo tình hình sử dụng hoá đơn đến ngày chuyển đi (ngày nộp hồ sơ) tới cơ quan thuế . Sau khi thực hiện xong thủ tục này thì nộp mẫu 08-MST. Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp cơ bản đã hoàn thành thủ tục chuyển sang sử dụng hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế nên có thể bỏ qua bước này.

Chuyển cơ quan thuế quản lý có phải quyết toán thuế?

Theo điểm g khoản 1 điều 110 luật quản lý thuế 2019 quy định như sau:
Điều 110. Kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế
1. Kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế được thực hiện trong các trường hợp sau đây:
g) Trường hợp chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, giải thể, chấm dứt hoạt động, cổ phần hóa, chấm dứt hiệu lực mã số thuế, chuyển địa điểm kinh doanh và các trường hợp kiểm tra đột xuất, kiểm tra theo chỉ đạo của cấp có thẩm quyền, trừ trường hợp giải thể, chấm dứt hoạt động mà cơ quan thuế không phải thực hiện quyết toán thuế theo quy định của pháp luật.

Như vậy, theo quy định pháp luật khi chuyển địa điểm kinh doanh khác cơ quan thuế quản lý thì cơ quan thuế quản lý có quyền kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế. Tuy nhiên, thực tế có thể tùy cơ quan thuế địa phương mà việc kiểm tra có thể tiến hành khác nhau.

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Án lệ số 02/2016/AL

Được Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo
Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm
số 27/2010/DS-GĐT ngày 08-7-2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
về vụ án “Tranh chấp đòi lại tài sản” tại tỉnh Sóc Trăng giữa nguyên đơn là bà
Nguyễn Thị Thảnh với bị đơn là ông Nguyễn Văn Tám; người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan là bà Nguyễn Thị Yêm.

Khái quát nội dung của
án lệ:

Trường hợp người Việt
Nam định cư ở nước ngoài đã bỏ tiền ra để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất
và nhờ người ở trong nước đứng tên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hộ
mình, khi giải quyết tranh chấp thì Tòa án phải xem xét và tính công sức bảo
quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị quyền sử dụng đất cho người đứng tên
hộ; trường hợp không xác định được chính xác công sức của người đó thì cần xác
định người thực chất trả tiền để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và người
đứng tên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hộ có công sức ngang nhau để chia
phần giá trị chênh lệch tăng thêm so với tiền gốc nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ban đầu.

Quy định của pháp luật
liên quan đến án lệ:

Điều 137 và Điều 235 của
Bộ luật Dân sự năm 2005.

Từ khóa của án lệ:

“Giao dịch dân sự vô
hiệu”; “Đòi lại tài sản”; “Căn cứ xác lập quyền sở hữu”; “Xác lập quyền sở hữu
đối với lợi tức”; “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề
ngày 24-01-2005, tờ khai ngày 07-02-2005 và quá trình giải quyết vụ án bà
Nguyễn Thị Thảnh là nguyên đơn trình bày:

Bà Thảnh là Việt kiều ở
Hà Lan về thăm thân nhân tại Việt Nam và có ý định chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, nên ngày 10-8-1993, bà có nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Hêng Tính,
bà Lý Thị Sà Quênh diện tích 7.595,7m2 đất ruộng tại Phường 7, thị xã Sóc Trăng
với giá 21,99 chỉ vàng. Bà là người trực tiếp giao dịch, thỏa thuận việc chuyển
nhượng và trả tiền, vàng cho vợ chồng ông Hêng Tính. Mục đích của bà Thảnh là
chuyển nhượng đất để giao cho em ruột của bà là ông Nguyễn Văn Tám và bà Nguyễn
Thị Chính Em canh tác nuôi cha mẹ của bà và ông Tám. Do bà là người Việt Nam
định cư ở nước ngoài nên bà để cho ông Tám đứng tên trong giấy tờ sang nhượng.
Đồng thời, bà Thảnh xuất trình “Tờ sang nhượng đất ruộng” lập ngày 10-8-1993 có
xác nhận của Ủy ban nhân dân xã An Hiệp. Sau khi nhận chuyển nhượng bà để cho
vợ chồng ông Tám canh tác, nhưng năm 2004, không được bà đồng ý, ông Tám đã
chuyển nhượng toàn bộ diện tích 7.595,7m2 đất trên cho Công ty trách nhiệm hữu
hạn Minh Châu với giá trị quyền sử dụng đất là 1.260.000.000 đồng. Vì vậy, bà
yêu cầu ông Tám trả lại số tiền thu được từ việc chuyển nhượng đất của bà.

Ông Nguyễn Văn Tám là bị
đơn trình bày:

Diện tích 7.595,7m2 đất
mà bà Thảnh tranh chấp là đất do vợ chồng ông là người bỏ tiền, vàng ra sang
nhượng lại của vợ chồng ông Hêng Tính, ông là người đứng tên trong “Tờ sang
nhượng đất ruộng” lập ngày 10-8-1993. Tờ sang nhượng này không có xác nhận của
chính quyền địa phương. Nhưng sau đó, ông và vợ chồng ông Hêng Tính còn ký bản
hợp đồng và đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất cùng ngày 11-8-1993, các
văn bản này có xác nhận của Ủy ban nhân dân  xã An Hiệp và của Ủy ban nhân dân  huyện Mỹ Tú đồng ý cho chuyển nhượng. Sau khi
chuyển nhượng ông đã đăng ký, kê khai được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất vào ngày 28-5-1994. Do đó, năm 2004, ông chuyển nhượng toàn bộ đất trên cho
Công ty trách nhiệm hữu hạn Minh Châu với giá trị là 1.260.000.000 đồng. Ông
cho rằng “Tờ sang nhượng đất ruộng” lập ngày 10-8-1993, có xác nhận của Ủy ban
nhân dân xã An Hiệp do bà Thảnh xuất trình là giả vì theo Bản kết luận giám
định số 2784/C21 (P7) ngày 25-10-2005 của Viện Khoa học Hình sự Tổng cục cảnh
sát thì không phải chữ ký của ông trong tờ sang nhượng đất ruộng do bà Thảnh
xuất trình. Vì vậy, ông không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của bà Thảnh.

Bà Nguyễn Thị Yêm (vợ
của ông Tám) là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Năm 1993 vợ
chồng bà có chuyển nhượng đất của ông Hêng Tính. Khi làm thủ tục chuyển nhượng
bà không tham gia nhưng bà có đưa tiền, vàng cho ông Tám trả cho vợ chồng ông
Hêng Tính nên bà cũng không chấp nhận theo yêu cầu của bà Thảnh.

Vợ chồng ông Hêng Tính,
bà Lý Thị Sà Quênh (tên gọi khác là Lý Thị Sà Vênh) là người chuyển nhượng đất
đều khẳng định bà Thảnh trực tiếp thỏa thuận chuyển nhượng, trực tiếp trả 21,99
chỉ vàng cho ông, bà và bà Thảnh để cho ông Tám đứng tên giùm trong tờ sang
nhượng đất ruộng lập ngày 10-8-1993; chữ ký trong tờ sang nhượng đất ruộng do
bà Thảnh xuất trình đúng là chữ ký của ông, bà.

Tại Bản án dân sự sơ
thẩm số 04/2006/DS-ST ngày 28-4-2006, Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng quyết
định:

Chấp nhận một phần yêu
cầu của bà Nguyễn Thị Thảnh về việc đòi lại tiền chuyển nhượng đất.

Buộc vợ chồng ông Nguyễn
Văn Tám, bà Nguyễn Thị Yêm phải có trách nhiệm hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Thảnh
630.000.000 đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ
thẩm còn quyết định về án phí, chi phí giám định và tuyên quyền kháng cáo cho
các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 10-5-2006, ông
Nguyễn Văn Tám kháng cáo cho rằng bà Thảnh không phải là người có quyền sử dụng
phần đất mà ông đã chuyển nhượng cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Minh Châu
nhưng Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông thanh toán cho bà Thảnh 630.000.000 đồng là
không đúng.

Ngày 12-5-2006, ông
Nguyễn Hữu Phòng (đại diện cho bà Thảnh) kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm
xét xử buộc ông Tám trả lại toàn bộ số tiền mà ông Tám đã chuyển nhượng đất là
1.260.000.000 đồng cho bà Thảnh.

Tại Bản án dân sự phúc
thẩm số 334/2006/DS-PT ngày 25-8-2006, Toà Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao
tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định: bác yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn và
bị đơn, sửa Bản án sơ thẩm như sau:

Chấp nhận một phần yêu
cầu của bà Nguyễn Thị Thảnh về việc đòi lại tiền chuyển nhượng quyền sử dụng
đất.

Buộc ông Nguyễn Văn Tám,
bà Nguyễn Thị Yêm có trách nhiệm hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Thảnh số tiền
27.047.700 đồng tương đương 21,99 chỉ vàng 24k.

Buộc vợ chồng ông Nguyễn
Văn Tám và bà Nguyễn Thị Yêm phải nộp lại số tiền 1.232.266.860 đồng để sung
công quỹ Nhà nước.

Ngoài ra, Tòa án cấp
phúc thẩm còn quyết định về án
phí.         

Sau xét xử phúc thẩm,
ông Nguyễn Văn Tám khiếu nại Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.

Tại Quyết định số
449/2009/KN-DS ngày 21-8-2009, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản
án dân sự phúc thẩm số 334/2006/DS-PT ngày 25-8-2006 của Toà Phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án phúc thẩm nêu trên và huỷ Bản
án dân sự sơ thẩm

số 04/2006/DS-ST ngày
28-4-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân
dân tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật, với
nhận định:

“Bà Nguyễn Thị Thảnh
khởi kiện đòi lại tài sản đối với ông Nguyễn Văn Tám và cho rằng do bà là người
Việt Nam định cư ở nước ngoài nên bà có nhờ ông Tám (em của bà) đứng tên nhận
chuyển nhượng đất của vợ chồng ông Hêng Tính giùm cho bà nhưng sau đó ông Tám
đã chuyển nhượng đất của bà cho người khác.

Tòa án cấp sơ thẩm và
Tòa án cấp phúc thẩm xác định ông Tám chỉ đứng tên nhận chuyển nhượng đất của
vợ chồng ông Hêng Tính giùm cho bà Thảnh là có căn cứ.

Do bà Thảnh là người
Việt Nam định cư ở nước ngoài, nên bà Thảnh không được giao đất mà chỉ được trả
lại phần giá trị đầu tư tiền chuyển nhượng đất.

Đối với chênh lệch giá
trị đất, thời điểm xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm là thời điểm thi hành Bộ
luật Dân sự năm 2005, không có quy định buộc phải tịch thu sung công quỹ nên
khoản chênh lệch này bà Thảnh và ông Tám cùng được hưởng. Tòa án cấp sơ thẩm
không buộc ông Tám nộp số tiền chênh lệch giá trị đất để sung công là có căn cứ
nhưng không buộc ông Tám trả cho bà Thảnh giá trị đầu tư ban đầu là không đúng.
Tòa án cấp phúc thẩm không đưa ra được căn cứ pháp luật nhưng đã buộc ông Tám
nộp toàn bộ số tiền chênh lệch (1.232.226.860 đồng) để sung công quỹ Nhà nước
là không đúng quy định của pháp luật”.

Tại phiên tòa giám đốc
thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao huỷ
Bản án phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2006/DS-ST ngày
28-4-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân
dân tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao nhận định:

Bà Nguyễn Thị Thảnh khởi
kiện yêu cầu ông Nguyễn Văn Tám trả lại cho bà 1.260.000.000 đồng vì cho rằng
bà là người trực tiếp giao dịch, trả tiền nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông
Hêng Tính 7.595,7m2 đất, nhưng vì bà là người Việt Nam định cư ở nước ngoài nên
nhờ ông Tám (em của bà) đứng tên, nhưng không được bà đồng ý ông Tám đã chuyển
nhượng toàn bộ diện tích đất cho Công ty TNHH Minh Châu để nhận 1.260.000.000
đồng.

Ông Tám cho rằng ông là
người thỏa thuận chuyển nhượng đất và trả tiền cho ông Hêng Tính, nên giấy tờ
chuyển nhượng đất ông đứng tên. Sau khi nhận chuyển nhượng ông trực tiếp quản
lý, sử dụng, đăng ký kê khai, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và khi
ông chuyển nhượng cho Công ty TNHH Minh Châu được chính quyền cho phép, nên ông
không chấp nhận yêu cầu của bà Thảnh.

Tuy nhiên, quá trình
giải quyết vụ án vợ chồng ông Tám có nhiều lời khai mâu thuẫn về số tiền, vàng
đã trả cho ông Hêng Tính và ông cũng không chứng minh được nguồn gốc nguồn tiền,
vàng mà ông cho rằng đã trả cho ông Tính.

Trong khi đó vợ chồng
ông Tính, bà Quênh khẳng định chỉ thỏa thuận chuyển nhượng đất và nhận vàng của
bà Thảnh còn việc viết giấy chuyển nhượng đất đứng tên ông Tám là theo yêu cầu
của bà Thảnh, vì bà Thảnh đang định cư ở nước ngoài.

Theo lời khai của cụ
Thái Thị Ba, ông Nguyễn Phước Hoàng, bà Nguyễn Thị Chính Em (là mẹ và anh chị
em ruột của bà Thảnh, ông Tám) thì bà Thảnh giao dịch, trả tiền chuyển nhượng
đất cho vợ chồng ông Tính, còn ông Tám chỉ là người đứng tên giùm.

Tổng hợp các chứng cứ
nêu trên có cơ sở khẳng định Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác
định bà Thảnh là người bỏ toàn bộ số tiền là 21,99 chỉ vàng để nhận chuyển
nhượng diện tích trên, còn ông Tám chỉ là người đứng tên giùm. Do ông Tám đã
chuyển nhượng đất trên cho Công ty TNHH Minh Châu và bà Thảnh chỉ yêu cầu ông
Tám trả lại số tiền đã chuyển nhượng là 1.260.000.000 đồng nên Tòa án cấp sơ
thẩm, phúc thẩm thụ lý giải quyết là đúng quy định của pháp luật.

Tuy bà Thảnh là người bỏ
21,99 chỉ vàng để chuyển nhượng đất (tương đương khoảng 27.047.700 đồng). Nhưng
giấy tờ chuyển nhượng đứng tên ông Tám và sau khi nhận chuyển nhượng ông Tám
quản lý đất, sau đó chuyển nhượng cho người khác. Như vậy, lẽ ra phải xác định
ông Tám có công sức trong việc bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị đất
nên phải xác định số tiền trên (sau khi trừ tiền gốc tương đương 21,99 chỉ vàng
của bà Thảnh) là lợi nhuận chung của bà Thảnh và ông Tám. Đồng thời xác định
công sức của ông Tám để chia cho ông Tám một phần tương ứng với công sức của
ông mới đúng và đảm bảo quyền lợi của các đương sự (Trường hợp không xác định
được chính xác công sức của ông Tám thì phải xác định bà Thảnh, ông Tám có công
sức ngang nhau để chia).

Tòa án cấp sơ thẩm công
nhận bà Thảnh, ông Tám mỗi người có quyền sở hữu 1/2 số tiền trên nhưng không
trích trả cho bà Thảnh số tiền tương ứng với 21,99 chỉ vàng là không đúng.

Tòa án cấp phúc thẩm chỉ
công nhận bà Thảnh có quyền sở hữu số tiền tương ứng với 21,99 chỉ vàng, còn
lợi nhuận là số tiền còn lại tịch thu sung công quỹ nhà nước là không đúng với
quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, không đảm bảo quyền lợi của các đương sự.

Ngoài ra, bà Thảnh khởi
kiện yêu cầu ông Tám trả cho bà 1.260.000.000 đồng là số tiền ông Tám chuyển
nhượng giá trị quyền sử dụng 7.595,7m2 đất, mà không tranh chấp quyền sử dụng
đất, còn ông Tám cho rằng số tiền trên là của ông. Như vậy, các đương sự tranh
chấp quyền sở hữu tài sản là số tiền nêu trên. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa
án cấp phúc thẩm lại xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp đòi lại tài sản”
là không chính xác.

Bởi các lẽ trên, căn cứ
khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH

1- Huỷ Bản án dân sự
phúc thẩm số 334/2006/DSPT ngày 25-8-2006 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2006/DS-ST ngày
28-4-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng về vụ án tranh chấp đòi lại tài
sản giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thảnh với bị đơn là ông Nguyễn Văn Tám;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Yêm.

2- Giao hồ sơ vụ án cho
Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của
pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“Tuy bà Thảnh là người bỏ 21,99 chỉ vàng để chuyển nhượng đất
(tương đương khoảng 27.047.700 đồng). Nhưng giấy tờ chuyển nhượng đứng tên ông
Tám và sau khi nhận chuyển nhượng ông Tám quản lý đất, sau đó chuyển nhượng cho
người khác. Như vậy, lẽ ra phải xác định ông Tám có công sức trong việc bảo
quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị đất nên phải xác định số tiền trên (sau
khi trừ tiền gốc tương đương 21,99 chỉ vàng của bà Thảnh) là lợi nhuận chung
của bà Thảnh và ông Tám. Đồng thời xác định công sức của ông Tám để chia cho
ông Tám một phần tương ứng với công sức của ông mới đúng và đảm bảo quyền lợi
của các đương sự (Trường hợp không xác định được chính xác công sức của ông Tám
thì phải xác định bà Thảnh, ông Tám có công sức ngang nhau để chia).”

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Án lệ số 08/2016/AL

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua
ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17
tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm
số 12/2013/KDTM-GĐT ngày 16-5-2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao về vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng” tại thành
phố Hà Nội giữa nguyên đơn là Ngân hàng thương mại cổ
phần ngoại thương Việt Nam với bị đơn là Công ty cổ phần dược phẩm Kaoli; người
có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan gồm các ông, bà Nguyễn Thị Phượng, Nguyễn
Đăng Duyên, Đỗ Thị Loan.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 16 phần “Xét thấy” của quyết định giám đốc thẩm nêu trên.

Khái quát nội dung của án lệ:

– Tình huống án lệ:

Trong hợp đồng tín dụng,
các bên có thỏa thuận về lãi suất cho vay, gồm: lãi suất cho vay trong hạn, lãi
suất nợ quá hạn, việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân
hàng, tổ chức tín dụng cho vay mà đến thời điểm xét xử sơ thẩm khách hàng vay
chưa thanh toán, hoặc thanh toán không đủ số tiền nợ gốc, lãi theo hợp đồng tín
dụng.

– Giải
pháp pháp lý:

Trường hợp này, khách
hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng, tổ chức tín dụng khoản tiền nợ
gốc chưa thanh toán, tiền lãi trên nợ gốc trong hạn (nếu có), lãi nợ quá hạn của
số tiền gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng
cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp các bên có thỏa thuận
về việc điều chỉnh mức lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của ngân hàng, tổ chức
tín dụng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán theo
quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi
suất của Ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

– Các điều 471, 474 và Điều
476 Bộ luật dân sự 2005;

– Khoản 2 Điều 91 Luật
Tổ chức tín dụng năm 2010;

– Khoản 1 Điều 1 Thông
tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14-4-2010 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn tổ chức
tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận;

– Khoản 2 Điều 11 Quy
chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng được ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31-12-2001
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước được sửa đổi, bổ sung bằng Quyết định số
127/2005/QĐ-NHNN ngày 03-2-2005.

Từ khóa của án lệ:

 “Lãi suất”; “Nợ gốc chưa thanh toán”; “Hợp đồng
tín dụng”; “Điều chỉnh lãi suất”; “Lãi suất nợ quá hạn”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện
đề ngày 20-7-2010 và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ
vụ án thì
thấy:

Ngân hàng TMCP ngoại
thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long (sau đây viết tắt là
Vietcombank) và Công ty Cổ phần Dược phẩm Kaoli (sau đây viết tắt là Công ty Kaoli) có ký kết 04 hợp đồng tín dụng,
gồm: Hợp đồng tín dụng số 03/07/NHNT-TL ngày
25-12-2007; số 04/07/NHNT-TL ngày 28-12-2007; số 144/08/NHNT-TL ngày
28-3-2008 và số 234/08/NHNT-TL ngày 27-5-2008. Các hợp đồng tín dụng nêu trên
được bảo đảm bằng tài sản là quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại:

– Số 122 Đội Cấn,
phường Đội Cấn, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội (thửa đất số 46B+39C+37C, tờ bản
đồ số 19) thuộc quyền sở hữu và sử dụng của bà Nguyễn Thị Phượng (theo Hợp đồng thế chấp số 1678.2008/HĐTC ngày 25-6-2008; bảo
đảm cho khoản vay và bảo lãnh cao nhất là 4.605.000.000 đồng; các điều kiện chi tiết
về việc vay và cho vay khoản tiền nêu trên sẽ được ghi cụ thể trong các giấy tờ
nghiệp vụ ngân hàng mà Vietcombank và Bên được bảo lãnh (Công ty Kaoli) sẽ ký tại
trụ sở của Vietcombank (khoản 1.3 Điều 1); giá trị tài sản thế chấp là
4.605.000.000 đồng theo Biên bản định giá tài sản số 105/08/NHNT.TL; thời hạn
thế chấp là 05 năm tính từ ngày Bên được bảo lãnh nhận tiền vay; hợp đồng có hiệu
lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất (khoản 10.1
Điều 10). Hợp đồng này được công chứng viên Phòng Công chứng số 3 thành phố Hà
Nội công chứng ngày 25-6-2008 và Phòng Tài nguyên và môi trường quận Ba Đình
chứng nhận đăng ký thế chấp bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất
ngày 10-7-2008). Trước đó, ngày 03-9-2007, bà Phượng và
Vietcombank lập Biên bản giao nhận hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh với nội dung: “Hai
bên tiến hành bàn giao các giấy tờ bản chính tài sản bảo đảm sau đây để đảm bảo
cho các nghĩa vụ của Công ty cổ phần dược phẩm Kaoli tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam
– Chi nhánh Thăng Long; tên tài sản: Quyền
sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại 122 Đội Cấn, phường Đội Cấn, quận Ba Đình, Hà Nội” (BL 52).

– Tổ 13 cụm 2 phường Nhật Tân, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng
của ông Nguyễn Đăng Duyên và vợ là bà Đỗ Thị Loan (theo Hợp đồng thế chấp số
1677.2008/HĐTC ngày 25-6-2008, bảo đảm cho khoản vay và bảo lãnh cao nhất là 1.250.000.000 đồng; các điều kiện
chi tiết về việc vay và cho vay khoản tiền nêu trên sẽ được ghi cụ thể trong
các giấy tờ nghiệp vụ ngân hàng mà Vietcombank và Bên được bảo lãnh (Công ty
Kaoli) sẽ ký tại trụ sở của Vietcombank (khoản 1.3 Điều 1); giá trị tài sản thế
chấp là 1.250.000.000 đồng theo Biên bản định giá tài sản số 106/08/NHNT.TL
ngày 03-9-2007 (khoản 3.1 Điều 3); thời hạn thế chấp là 05 năm tính từ ngày Bên
được bảo lãnh nhận tiền vay; hợp đồng có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại
Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất (khoản 10.1 Điều 10); hợp đồng này được
công chứng viên Phòng Công chứng số 3 thành phố Hà Nội công chứng ngày
25-6-2008 và Phòng Tài nguyên và môi trường quận Ba Đình chứng nhận đăng ký thế chấp bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn
liền với đất ngày 01-7-2008). Trước đó, ngày
03-9-2007, ông Nguyễn Đăng Duyên và Vietcombank – Chi nhánh Thăng Long lập Biên
bản giao nhận hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh với nội dung: “Hai
bên tiến hành bàn giao các giấy tờ bản chính tài sản bảo đảm sau đây để đảm bảo
cho các nghĩa vụ của Công ty cổ phần dược phẩm Kaoli tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long; tên tài sản: Quyền sở hữu nhà ở và
quyền sử dụng đất ở tại tổ 13 cụm 2 phường Nhật Tân, quận Tây Hồ, Hà Nội” (BL
58a).

Ngoài ra, các khoản
vay của các hợp đồng tín dụng nêu trên còn được bảo đảm bằng tài sản là nhà, đất
thuộc quyền sử dụng và sở hữu của ông Cao Ngọc Minh và vợ là bà Đoàn Thị Thanh
Thủy; nhà, đất của ông Giang Cao Thắng và vợ là bà Dương Thị Sinh (đã được giải
chấp); quyền sử dụng đất của ông Chu Quốc
Khanh; nhà, đất của bà Chu Thị Hồng và ông Nguyễn Văn Minh.

Thực hiện hợp đồng,
Vietcombank – Chi nhánh Thăng Long đã giải ngân cho Công ty Kaoli vay số tiền
theo các hợp đồng tín dụng nói trên. Công ty Kaoli chỉ mới trả được một phần tiền
nợ gốc và nợ lãi. Vietcombank khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty Kaoli phải
thanh toán số tiền còn nợ của 04 hợp đồng tín dụng nêu trên là 8.197.957.837 đồng
(trong đó: nợ gốc là 5.457.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 397.149.467 đồng,
nợ lãi quá hạn tính đến ngày xét xử sơ thẩm là 2.343.808.370 đồng) và xử lý tài
sản thế chấp của bà Nguyễn Thị Phượng; của ông Nguyễn Đăng Duyên và bà Đỗ Thị
Loan để thu hồi nợ.

Đại diện bị đơn –
ông Đỗ Văn Chính, giám đốc Công ty Kaoli trình bày: Ông thừa nhận Công ty Kaoli
còn nợ Vietcombank số tiền gốc và lãi trong hạn, lãi quá hạn theo 04 Hợp đồng
tín dụng như Vietcombank trình bày là đúng. Ông xác định trách nhiệm trả nợ
theo 04 hợp đồng tín dụng nêu trên là của Công ty Kaoli và xin trả dần trong thời
hạn 05 năm.

Trường hợp Công ty
Kaoli không trả được nợ hoặc trả nợ không đầy đủ, Vietcombank yêu cầu phát mại
tài sản đảm bảo của bà Nguyễn Thị Phượng, của ông Nguyễn Đăng Duyên và bà Đỗ Thị
Loan thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Ông Chính xác
nhận Vietcombank giải ngân trước khi ký kết Hợp đồng thế chấp số 1678.2008/HĐTC
ngày 25-6-2008 và Hợp đồng thế chấp số 1677.2008/HĐTC ngày 25-6-2008. Từ ngày
25-6-2008 đến nay, Công ty Kaoli không vay thêm một khoản vay nào khác, không
ký hợp đồng tín dụng nào khác với Vietcombank.

Người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trình bày:

– Ông Nguyễn Văn
Nghi (đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Phượng) trình bày: Vietcombank
khởi kiện Công ty Kaoli và đề nghị Tòa án cho phát mại tài sản của bà Phượng
trong trường hợp Công ty Kaoli không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, ông không đồng
ý vì bà Phượng ký kết hợp đồng thế chấp vào ngày 25-6-2008 nên không phải chịu
trách nhiệm bảo lãnh cho khoản vay của Công ty Kaoli tại Vietcombank theo 04 hợp
đồng tín dụng mà Vietcombank đang khởi kiện. Đề nghị Tòa án buộc Vietcombank
làm thủ tục giải chấp và trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở
hữu nhà ở cho bà Phượng.

– Ông Nguyễn Đăng
Duyên và bà Đỗ Thị Loan cùng trình bày: Vợ chồng ông, bà có ký Hợp đồng thế chấp
ngày 25-6-2008 nhưng hợp đồng này chỉ đảm bảo cho khoản vay của Công ty Kaoli tại
Vietcombank và sẽ chịu mọi trách nhiệm phát sinh từ thời điểm sau ngày
25-6-2008 đến ngày 25-4-2009 còn toàn bộ những hợp đồng tín dụng đã ký trước thời
điểm ngày 25-6-2008 giữa Vietcombank và Công ty Kaoli thì ông, bà không chịu
trách nhiệm. Theo Vietcombank thì từ sau thời điểm ngày 25-6-2008 đến nay,
Vietcombank không ký hợp đồng tín dụng nào với Công ty Kaoli. Do vậy, trách nhiệm
pháp lý của ông, bà chưa phát sinh. Đề nghị Tòa án buộc Vietcombank phải giải
chấp tài sản theo Hợp đồng thế chấp ngày 25-6-2008 cho ông, bà.

Tại Bản án kinh
doanh, thương mại sơ thẩm số 32/2011/KDTM-ST ngày 24-3-2011, Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội quyết định:

“1. Chấp nhận một
phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam đối với Công ty
Kaoli. Buộc Công ty Kaoli có trách nhiệm phải trả cho Ngân hàng tổng số tiền nợ
gốc và lãi là 8.197.957.837 đồng.

2. Không chấp nhận
yêu cầu của Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam đòi phát mãi các tài sản là
giá trị quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại thửa đất số 46B + 39C +
37C, tờ bản đồ số 19, địa chỉ số 122 Đội Cấn, phường Đội Cấn, quận Ba Đình,
thành phố Hà Nội theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở
số 10101132587 do Uỷ ban nhân dân quận Ba Đình cấp ngày 27-4-2004 cho bà Nguyễn
Thị Phượng và giá trị quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại địa chỉ số
tổ 13, cụm 2, phường Nhật Tân, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội theo Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại thửa đất số 13+64A (1 phần), tờ bản
đồ số 04 tại địa chỉ số tổ 13 cụm 2, phường Nhật Tân, quận Tây Hồ, Hà Nội theo
Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 10103090899 do Ủy
ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp ngày 23-3-2004 cho ông Nguyễn Đăng Duyên và vợ
là bà Đỗ Thị Loan.

Ngân hàng TMCP ngoại
thương Việt Nam có trách nhiệm trả lại đầy đủ giấy tờ về quyền sở hữu nhà ở và
quyền sử dụng đất ở và làm thủ tục giải tỏa tài sản thế chấp cho bà Nguyễn Thị
Phượng và vợ, chồng ông Nguyễn Đăng Duyên, bà Đỗ Thị Loan”.

Ngoài ra, Tòa án cấp
sơ thẩm còn có quyết định về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự theo quy
định của pháp luật.

Ngày 04-4-2011,
Vietcombank có đơn kháng cáo.

Tại Bản án kinh
doanh, thương mại phúc thẩm số 148/2011/KDTM-PT ngày 17-8-2011, Tòa phúc thẩm
Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội căn cứ khoản 2 Điều 275 và khoản 1 Điều 276
Bộ luật tố tụng dân sự quyết định:

“Sửa Bản án kinh
doanh, thương mại sơ thẩm số 32/2011/KDTM-ST ngày 23 và 24-3-2011 của Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội về phần nghĩa vụ bảo lãnh đối với bà Nguyễn Thị Phượng
và vợ, chồng ông Nguyễn Đăng Duyên, bà Đỗ Thị Loan, cụ thể như sau:

Xử: Các Biên bản
bàn giao hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh
ngày 03-9-2007 giữa Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long
với bà Nguyễn Thị Phượng và vợ chồng ông Nguyễn Đăng Duyên, bà Đỗ Thị Loan là hợp
đồng bảo lãnh (các bút lục số 52, 58a).

Buộc Công ty cổ phần
dược phẩm Kaoli phải có trách nhiệm thanh toán trả cho Ngân hàng TMCP ngoại
thương Việt Nam tổng số tiền nợ gốc và nợ lãi là 8.197.957.837 đồng…

Trong trường hợp
Công ty cổ phần dược phẩm Kaoli không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ
trả nợ không đầy đủ cho Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam thì Ngân hàng TMCP
ngoại thương Việt Nam có quyền yêu cầu Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội
xử lý tài sản bảo lãnh theo quy định của Luật thi hành án dân sự để thu hồi nợ
theo trách nhiệm bảo lãnh của người bảo lãnh.

…Kể từ ngày bản
án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án,
người phải thi hành án còn phải trả lãi đối với số tiền chậm thi hành án theo
lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm thi
hành án”.

Ngoài ra, Tòa án cấp
phúc thẩm còn quyết định về án phí, về việc thi hành án.

Sau khi xét xử phúc
thẩm, bà Nguyễn Thị Phượng; ông Nguyễn Đăng Duyên và bà Đỗ Thị Loan có nhiều
đơn đề nghị xét lại bản án phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Quyết định
kháng nghị số 34/2012/KDTM-KN ngày 15-10-2012, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc
thẩm theo hướng hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 148/2011/KDTM-PT
ngày 17-8-2011 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội; giao hồ sơ
vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại
theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám
đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định
:

 Xét các Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền với đất để bảo lãnh cho người thứ ba vay vốn ngân hàng (Số
công chứng: 1677.2008/HĐTC và 1678.2008/HĐTC cùng ngày 25-6-2008) thấy:

Cả hai hợp đồng thế
chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất để bảo lãnh cho người thứ ba
vay vốn ngân hàng đều không nêu rõ bảo đảm cho khoản vay theo hợp đồng tín dụng
nào và đều được ký kết sau khi 04 Hợp đồng tín dụng (số 03/07/NHNT-TL ngày
25-12-2007; số 04/07/NHNT-TL ngày
28-12-2007; số 144/08/NHNT-TL ngày 28-3-2008 và số 234/08/NHNT-TL ngày
27-5-2008) đã được Vietcombank – Chi nhánh Thăng Long giải ngân. Theo quy định
tại khoản 1.3 Điều 1 của hai Hợp đồng thế chấp nêu trên thì: “Các điều kiện chi
tiết về việc vay và cho vay khoản tiền nêu trên (Nghĩa vụ được bảo đảm là khoản
vay và bảo lãnh cao nhất là 4.605.000.000 đồng…; – khoản 1.2 Điều 1 Hợp đồng
thế chấp) sẽ được ghi cụ thể trong giấy tờ nghiệp vụ Ngân hàng mà bên B
(Vietcombank – Chi nhánh Thăng Long) và bên được bảo lãnh sẽ ký tại trụ sở của
bên B (Vietcombank – Chi nhánh Thăng Long)” thì có thể hiểu bà Phượng, vợ chồng
ông Duyên và bà Loan chỉ bảo lãnh cho Công ty Kaoli vay tiền theo các hợp đồng
tín dụng sẽ được ký tại trụ sở của Vietcombank sau ngày ký hợp đồng thế chấp
(ngày 25-6-2008) chứ không bảo lãnh cho các khoản vay của 04 Hợp đồng tín dụng
đã ký trước đó.

Vietcombank căn cứ
vào khoản 6.2 Điều 6 của 04 Hợp đồng tín dụng nêu trên về biện pháp bảo đảm tiền
vay có ghi (viết tay) nội dung: “Các thỏa thuận chi tiết về tài sản, quyền và
nghĩa vụ của các bên được xác định cụ thể trong…Hợp đồng thế chấp số
1677.2008/HĐTC ngày 25-6-2008 và Hợp đồng thế chấp số 1678.2008/HĐTC ngày
25-6-2008” để yêu cầu Tòa án buộc bà Phượng, vợ chồng ông Duyên và bà Loan phải
có trách nhiệm bảo lãnh đối với các khoản vay của Công ty Kaoli theo 04 Hợp đồng
tín dụng nêu trên. Nhưng nội dung này, theo đại diện Vietcombank trình bày tại
phiên tòa sơ thẩm là “do kế toán của Ngân hàng viết”. Tại phiên tòa sơ thẩm,
ông Đỗ Văn Chính – Giám đốc Công ty Kaoli trình bày: “Công ty Kaoli không biết
việc viết thêm này” và “Không đồng ý với yêu cầu phát mại của Ngân hàng. Các
tài sản của bà Phượng và vợ chồng ông Duyên, bà Loan là do Ngân hàng ghi thêm
trong các hợp đồng tín dụng”.

Mặt khác, tại phiên
tòa phúc thẩm đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Phượng cho biết bà Nguyễn
Thị Phượng không nhận được hợp đồng tín dụng nào từ Vietcombank; còn ông Duyên,
bà Loan thì có nhận được hợp đồng tín dụng từ Vietcombank. Như vậy, ông Chính,
bà Phượng và vợ chồng ông Duyên, bà Loan không biết nội dung chữ viết tay do kế
toán Ngân hàng ghi trong các hợp đồng tín dụng, không ký vào hợp đồng tín dụng
cho nên chưa có căn cứ để xác định các hợp đồng tín dụng nêu trên được bảo đảm
bằng các Hợp đồng thế chấp số 1677.2008/HĐTC và 1678.2008/HĐTC cùng ngày
25-6-2008.

Bên cạnh hai hợp đồng
thế chấp nêu trên thì trong hồ sơ vụ án có 02 bộ tài liệu liên quan đến việc thế
chấp tài sản: 01 bộ của bà Phượng; 01 bộ của vợ chồng ông Duyên, bà Loan; trong
mỗi bộ đều có: Biên bản định giá tài sản và Biên bản bàn giao tài sản cùng đề
ngày 03-9-2007; Đơn yêu cầu đăng ký thế chấp (ngày 29-01-2008 của bà Phượng;
ngày 25-6-2008 của ông Duyên, bà Loan). Tuy nhiên, trong các Biên bản và Đơn
yêu cầu đăng ký thế chấp này cũng không nói rõ bảo đảm cho khoản vay của hợp đồng
tín dụng nào.

Tòa án cấp phúc thẩm
nhận định (tóm tắt): “Các Biên bản giao nhận hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, bảo
lãnh giữa Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long với bà
Phượng, vợ chồng ông Duyên, bà Loan lập ngày 03-9-2007 đều có nội dung thế chấp,
cầm cố, bảo lãnh cho các nghĩa vụ của Công ty cổ phần dược phẩm Kaoli tại Ngân
hàng…nên xác định đây là một hợp đồng…”. Và Tòa án cấp phúc thẩm tuyên xử:
“Các Biên bản bàn giao hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh ngày 03-9-2007
giữa Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long với bà Nguyễn
Thị Phượng và vợ chồng ông Nguyễn Đăng Duyên, bà Đỗ Thị Loan là hợp đồng bảo
lãnh (các bút lục số 52, 58a)” và “Trong trường hợp Công ty cổ phần dược phẩm
Kaoli không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ trả nợ không đầy đủ cho
Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam, thì Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam
có quyền yêu cầu Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội xử lý tài sản bảo lãnh
theo quy định của Luật thi hành án dân sự để thu hồi nợ theo trách nhiệm bảo
lãnh của người bảo lãnh”.

Nhận định và quyết
định trên đây của Tòa án cấp phúc thẩm là không có căn cứ và không đúng pháp luật.
Bởi lẽ:

– Biên bản giao nhận hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh ngày 03-9-2007 giữa bà Nguyễn Thị Phượng (cũng như giữa ông Duyên, bà Loan) với
Vietcombank – Chi nhánh Thăng Long không phải là hợp đồng bảo lãnh như Tòa án cấp
phúc thẩm xác định.

Tại phiên tòa phúc
thẩm ngày 17-8-2011 đại diện Vietcombank cũng chỉ xác định: “Biên bản bàn giao
tài sản, biên bản định giá tài sản là một bộ phận không thể tách rời hợp đồng
thế chấp tài sản”.

– Theo Biên bản
giao nhận hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, Biên bản định giá tài sản
và trình bày của đại diện Vietcombank tại phiên tòa phúc thẩm thì ngày giao nhận
hồ sơ và định giá tài sản là ngày 03-9-2007. Còn hợp đồng thế chấp giữa bà Phượng
(cũng như giữa ông Duyên, bà Loan) với Vietcombank – Chi nhánh Thăng Long được
ký vào ngày 25-6-2008 (sau ngày lập Biên bản giao nhận hồ sơ tài sản và Biên bản
định giá tài sản) nên không thể coi các Biên bản này là một bộ phận không thể
tách rời của Hợp đồng thế chấp nói trên. Tòa án cấp phúc thẩm cũng xác định: “Hợp
đồng thế chấp ngày 25-6-2008… không liên quan đến các biên bản giao nhận hồ
sơ…”.

– Theo ngày ghi
trong biên bản và trình bày của đại diện Vietcombank tại phiên tòa phúc thẩm
thì ngày giao hồ sơ (bản chính Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng
đất ở) và ngày định giá tài sản là ngày 03-9-2007, nhưng trong các Biên bản định
giá tài sản này lại ghi: “Căn cứ Bảng giá đất tại các quận tại Hà Nội ban hành
kèm theo Quyết định số 150/2007/QĐUBND ngày 28-12-2007 của Uỷ ban nhân dân
thành phố Hà Nội” và Biên bản này là bộ phận không thể tách rời của Hợp đồng thế
chấp số 1678.2008/HĐTC và số 1677.2008/HĐTC ngày 25-6-2008. Riêng đối với trường
hợp của bà Phượng, giá trị quyền sử dụng đất ở được xác định theo Biên bản xác
định giá đất thực tế ngày 04-9-2007 và Đơn yêu cầu đăng ký thế chấp của bà Phượng
đề ngày 29-01-2008 ghi: “Hợp đồng thế chấp số 1678.2008/HĐTC ký ngày 25 tháng 6
năm 2008”. Mặt khác, theo trình bày và tài liệu do bà Phượng, vợ chồng ông
Duyên, bà Loan xuất trình thì tại thời điểm ngày 03-9-2007 nhà, đất của bà Phượng
đang được thế chấp tại Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Quảng An, quận Tây Hồ, đến ngày 11-01-2008 mới được giải chấp; còn nhà, đất của
vợ, chồng ông Duyên, bà Loan đang được thế chấp tại Ngân hàng thương mại cổ phần
ngoài quốc doanh Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long, đến ngày 16-01-2008 mới được
giải chấp.

Với các chứng cứ
nêu trên có căn cứ để kết luận: Biên bản giao nhận hồ sơ tài sản thế chấp, cầm
cố, bảo lãnh và Biên bản định giá tài sản không phải được lập vào ngày
03-9-2007, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở không phải
được giao vào ngày 03-9-2007, việc định giá không được thực hiện vào ngày
03-9-2007 như đại diện Vietcombank trình bày và được Tòa án cấp phúc thẩm chấp
nhận.

Tại thời điểm ngày
03-9-2007, thì Hợp đồng thế chấp, bảo lãnh tài sản bằng quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền trên đất phải được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm
theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 130 Luật Đất đai 2003; tại điểm a mục 1
Điều 12 Nghị định 163/NĐ-CP ngày 29-12-2006 và tại tiểu mục 2.4 mục 2 Thông tư
liên tịch số 03/2006/TTLT-BTP-BTNMT ngày 13-6-2006; chứ không phải công chứng
và không phải đăng ký giao dịch bảo đảm như Tòa án cấp phúc thẩm nhận định.

Tòa án cấp phúc thẩm
chưa làm rõ ngoài các tài liệu nêu trên còn có tài liệu, chứng cứ nào khác để
chỉ dẫn các hợp đồng thế chấp do bà Phượng và vợ chồng ông Duyên, bà Loan ký là
được bảo lãnh cho 04 hợp đồng tín dụng của Công ty Kaoli hay không mà lại cho rằng
các biên bản bàn giao hồ sơ là hợp đồng bảo lãnh là không đúng, không chính
xác. Vì Biên bản này không thể là hợp đồng bảo lãnh, khi xét cả về mặt hình thức
và nội dung văn bản.

– Nếu có căn cứ cho
rằng các Hợp đồng thế chấp ngày 25-6-2008 của bà Phượng và của vợ chồng ông
Duyên, bà Loan bảo lãnh cho các hợp đồng tín dụng nêu trên thì hợp đồng bảo
lãnh của bà Phượng chỉ bảo đảm cho khoản vay và bảo lãnh cao nhất là
4.605.000.000 đồng; hợp đồng bảo lãnh của vợ chồng ông Duyên, bà Loan bảo đảm
cho khoản vay và bảo lãnh cao nhất là 1.250.000.000 đồng. Trong khi đó, Tòa án
cấp phúc thẩm nhận định các Biên bản giao nhận hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố,
bảo lãnh lập ngày 03-9-2007 là hợp đồng bảo lãnh và tuyên: “Trong trường hợp
Công ty Cổ phần Dược phẩm Kaoli không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ
trả nợ không đầy đủ cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam, thì
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam có quyền yêu cầu Cục thi
hành án dân sự thành phố Hà Nội xử lý tài sản bảo lãnh theo quy định của Luật
thi hành án dân sự để thu hồi nợ theo trách nhiệm bảo lãnh của người bảo lãnh”
có nghĩa là bà Phượng, ông Duyên, bà Loan phải chịu trách nhiệm bảo lãnh cho
toàn bộ số nợ của Công ty Kaoli và không phân định rõ trách nhiệm bảo lãnh của
bà Phượng, ông Duyên và bà Loan cũng là không đúng.

Ngoài ra, Tòa án cấp
sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm quyết định: “Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp
luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi hành
án còn phải trả lãi đối với số tiền chậm thi hành án theo lãi suất cơ bản do
Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm thi hành án” cũng là
không đúng. Đối với các khoản tiền vay của tổ chức Ngân hàng, tín dụng, ngoài
khoản tiền nợ gốc, lãi vay trong hạn, lãi vay quá hạn, phí mà khách hàng vay phải
thanh toán cho bên cho vay theo hợp đồng tín dụng tính đến ngày xét xử sơ thẩm,
thì kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục
chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất
mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc
này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh
lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách
hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân
hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với
sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

Bởi các lẽ trên,
căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân
sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011),

QUYẾT ĐỊNH:

1. Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 148/2011/KDTM-PT ngày 17-8-2011 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xét
xử vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn là
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam với bị đơn là Công ty cổ phần
dược phẩm Kaoli và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Phượng,
ông Nguyễn Đăng Duyên, bà Đỗ Thị Loan.

2. Giao hồ sơ vụ án
cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại theo
đúng quy định của pháp luật.

NỘI DUNG ÁN
LỆ

“Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm quyết định:
“Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu
thi hành án, người phải thi hành án còn phải trả lãi đối với số tiền chậm thi
hành án theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời
gian chậm thi hành án” cũng là không đúng. Đối với các khoản tiền vay của tổ chức
Ngân hàng, tín dụng, ngoài khoản tiền nợ gốc, lãi vay trong hạn, lãi vay quá hạn,
phí mà khách hàng vay phải thanh toán cho bên cho vay theo hợp đồng tín dụng
tính đến ngày xét xử sơ thẩm, thì kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm
khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc
chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến
khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các
bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của
Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho
Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp
với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay”.

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Án lệ số 07/2016/AL về công nhận hợp đồng mua bán nhà được xác lập trước ngày 01-7-1991.

Được Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 03 tháng 10 năm 2016 và được công bố
theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm số 126/2013/DS-GĐT ngày 23-9-2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sở hữu, sử dụng nhà” tại thành phố Hà Nội giữa nguyên đơn là các ông, bà Nguyễn Đình Sông, Nguyễn Thị Hồng, Nguyễn Thị Hương với bị đơn là các ông, bà Đỗ Trọng Thành, Đỗ Thị Nguyệt, Vương Chí Tường, Vương Chí Thắng, Vương Bích Vân, Vương Bích Hợp; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm các ông, bà Nguyễn Thị Lan, Nguyễn Thị Hay, Tô Thị Lâm, Nguyễn Đình Uân, Nguyễn Thị Hợp, Nguyễn Đình Hòa, Nguyễn Thị Minh Nguyệt, Trần Thị Bích, Vũ Đình Hậu.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 4 phần “Xét thấy” của quyết định giám đốc thẩm
nêu trên.

Khái quát nội dung của án lệ:

– Tình huống án lệ:

Hợp đồng mua bán nhà được lập thành văn bản trước
ngày 01-7-1991, có chữ ký của bên bán, ghi rõ bên bán đã nhận đủ tiền, bên mua
tuy chưa ký tên trên hợp đồng nhưng là người giữ hợp đồng và đã quản lý, sử dụng
nhà ở ổn định trong thời gian dài mà bên bán không có tranh chấp đòi tiền mua
nhà.

– Giải pháp pháp lý:

Trường hợp này, hợp đồng có giá trị xác định bên mua
đã trả đủ tiền cho bên bán và ý chí của bên mua đồng ý với hợp đồng mua bán nhà
đó, hợp đồng mua bán nhà được công nhận.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

– Các điều 81, 82, 83 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2004 (tương ứng với các điều 93, 94, 95 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015);

– Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20-8-1998 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày
01 tháng 7 năm 1991.

Từ khóa của án lệ:

“Hợp đồng mua bán nhà”; “Một bên không ký tên trong
hợp đồng”; “Xác định chứng cứ”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 06-3-2006 và trong quá trình
giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông Nguyễn Đình Sông trình bày: Bố ông là cụ
Nguyễn Đình Chiện (chết năm 1998), mẹ ông là cụ Nguyễn Thị Mở (chết năm 2005).
Bố mẹ ông có 04 người con gồm ông, bà Nguyễn Thị Hồng, bà Nguyễn Thị Hương, bà
Nguyễn Thị Lan. Trước đây gia đình ông ở số 2 Hàng Bún, còn bác ông là Nguyễn
Đình Nhuần ở số 10 Hàng Bún. Khi đi sơ tán về thì nhà của bác bị Nhà nước lấy
giao cho người khác sử dụng, nên bố ông đã nhường nhà số 2 Hàng Bún cho cụ Nhuần
ở, gia đình ông đi thuê nhà, ông Đỗ Trọng Thành là người ký hợp đồng cho bố ông
thuê tầng 2 nhà 19 phố Thuốc Bắc ngày 01-02-1972. Nhà 19 Thuốc Bắc thuộc quyền
sở hữu của 05 anh chị em ông Thành gồm ông Đỗ Trọng Thành, bà Đỗ Thị Ngà, bà Đỗ
Song Toàn, bà Đỗ Thị Nguyệt, ông Đỗ Trọng Cao. Do ông Cao cần tiền chữa bệnh
nên đã bán 01 buồng 38m2 tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc cho gia đình ông, hợp
đồng ông Cao ký bán không ghi ngày tháng năm, giá bán là 6550 đồng, ông Cao đã
nhận đủ tiền. Khi ông Cao bán gian buồng 38m2 có đưa cho bố ông bằng
khoán nhà 19 Thuốc Bắc, trong bằng khoán nói rõ ông Cao được hưởng 8/12 phần
căn nhà, còn ông Thành, bà Ngà, bà Nguyệt, bà Toàn được hưởng 4/12 phần căn
nhà; tầng 1 căn nhà 19 Thuốc Bắc thì trước đó anh em ông Thành đã bán cho vợ chồng
ông Vũ Đình Tiệp, bà Trần Thị Bích; ông Cao sửa gian bếp 07m2 tầng 2
để ở. Sau khi ông Cao chết ngày 05-11-1972 thì anh em ông Thành, bà Ngà, bà
Nguyệt đã ký bán nốt 07m2 tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc cho gia đình ông
giá 3000 đồng và bên bán đã hợp thức hóa bằng hợp đồng bán đứt tầng 2 ngày
05-11-1972 là ngày ông Cao chết. Anh em ông Thành cùng ký tên vào văn tự ghi rõ
bên bán đã nhận đủ tiền. Ông Thành đã giao cả giấy ủy quyền của ông Cao viết
ngày 09-9-1972 có nội dung ông Cao là chủ sở hữu nhà 19 Thuốc Bắc, do bị bệnh
nên viết ủy quyền phòng khi bị mất, để ông Thành có quyền thay ông Cao bán gian
buồng phụ thuộc nhà 19 Thuốc Bắc. Giấy tờ mua bán 02 gian nhà tầng 2 nhà 19 Thuốc
Bắc gia đình ông giữ nên cha mẹ ông ký vào giấy này lúc nào cũng được. Ông
Thành cho rằng cha mẹ ông không ký vào giấy mua bán để cho rằng chưa trả tiền
là không đúng.

Cụ Nhuần đã chết năm 2000, vợ của cụ Nhuần là cụ Tô
Thị Lâm và các con của cụ Nhuần là các ông, bà Nguyễn Đình Uân, Nguyễn Đình
Hòa, Nguyễn Đình Hợp, Nguyễn Thị Minh Nguyệt đều xác nhận là cụ Chiện mua căn
buồng tầng 2 của ông Cao chứ không phải cụ Nhuần mua, cụ Nhuần chỉ là người đứng
tên hộ.

Gia đình ông Thành (ở tại nhà 17 Thuốc Bắc) luôn gây
khó khăn trong sinh hoạt cho gia đình ông. Ông Thành sang chiếm nóc tầng 2 nhà
19 Thuốc Bắc nên cha ông có sang trao đổi với ông Thành không được sử dụng nóc
nhà nhưng ông Thành không nghe, nên hai bên buộc phải có văn bản ngày
20-12-1987 đồng ý cho ông Thành được sử dụng chung nóc nhà nhưng hai gia đình
ngày càng mâu thuẫn. Sau đó gia đình ông đi kê khai sang tên sở hữu tầng 2 nhà
19 Thuốc Bắc nhưng ông Thành luôn gây khó khăn. Nay ông yêu cầu Tòa án công nhận
hợp đồng mua bán tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc.

Ngoài ra, ông cũng yêu cầu một số vấn đề sau:

– Nhà 19 Thuốc Bắc tầng 1 ông Thành đã bán cho gia
đình ông Tiệp, tầng 2 đã bán cho gia đình ông, nên ông Thành không còn quyền lợi
gì của nhà 19 Thuốc Bắc, do đó ông Thành không được sử dụng nóc nhà tầng 2 và
khu phụ nhà 19 Thuốc Bắc.

Gia đình ông mua tầng 2, khi đó thỏa thuận miệng là
đi ra đường bằng lối đi qua tầng 1 nhà 17 Thuốc Bắc của ông Thành, nên ông yêu
cầu ông Thành không được để hàng hóa tại lối đi từ đường Hàng Cá vào đi qua nhà
17, 19 Thuốc Bắc lên tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc.

– Yêu cầu ông Thành bồi thường thiệt hại do đã chiếm
hữu nóc nhà, sử dụng lối đi để hàng hóa từ năm 1987 đến nay với số tiền là
540.000.000 đồng (2.500.000đ/tháng x 18 năm).

– Bồi thường thương tích cho ông và vợ ông do con
ông Thành gây ra là 5.000.000đ/người.

– Bồi thường thiệt hại về tinh thần do ông Thành
tranh chấp gây bất ổn cho cuộc sống của gia đình ông, số tiền là 800.000.000 đồng.

– Ông Thành phải trả chi phí cải tạo nóc nhà ông do
ông Thành để đồ đạc làm hỏng, dự kiến sửa hết 120.000.000 đồng.

– Việc khiếu kiện kéo dài làm mất việc làm của ông
do ông Thành gây ra nên ông Thành phải trả 108.000.000 đồng (12.000.000đ/năm x
9 năm).

Bị đơn là ông Đỗ Trọng Thành trình bày: Nhà 19 Thuốc
Bắc mang bằng khoán điền thổ số 1577 khu Đồng Xuân, diện tích 69m2
do cụ Đỗ Huy Ngọc và cụ Lê Thị Hữu (là cha mẹ của ông) đứng tên sở hữu; ngày
21-4-1959 đã sang tên cho các con được thừa hưởng, cụ thể: ông Cao hưởng 8/12,
còn lại 04 người con là bà Nga, bà Nguyệt, bà Toàn và ông hưởng chung 4/12 phần
căn nhà. Năm 1971, các anh chị em ông có cho vợ chồng cụ Chiện, cụ Mở (là bố mẹ
ông Sông) thuê tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc. Sau đó cũng năm 1971, ông Cao bán đứt
01 buồng 38m2 nhà 19 Thuốc Bắc cho cụ Nguyễn Đình Nhuần, nhưng cụ
Chiện lại ký thay trong giấy mua bán, giá bán là 6550 đồng, giấy không ghi ngày
tháng năm. Ngày 09-9-1972, ông Cao lập giấy ủy quyền cho ông bán 01 buồng 7,8m2
tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc. Ngày 05-11-1972, ông Cao chết. Căn cứ giấy ủy quyền của
ông Cao, ông đã viết giấy bán buồng 07m2 cho cụ Chiện, nhưng cụ Chiện
đề nghị ông viết gộp cả buồng 38m2 mà cụ Chiện đã mua của ông Cao,
nên ông đã viết văn tự bán đứt tầng 2, chị em ông đã ký vào văn tự, nhưng khi
đưa văn tự sang cho cụ Chiện, cụ Mở ký thì cụ Nhuần có mặt ở đó mắng và không
cho vợ chồng cụ Chiện ký, nên vợ chồng cụ Chiện không ký được. Ông không đồng ý
yêu cầu của ông Sông vì ông Sông chỉ ở nhờ nhà của cụ Nhuần.

Ông Thành còn có lời khai khác, cụ thể là: Ông Cao
bán 01 buồng nhưng đến năm 1998 ông mới biết và khi đó ông mới biết ông có phần
trong nhà này, trước đó ông hiểu là nhà thuộc phần của ông Cao. Ông Cao có ủy
quyền cho ông bán buồng 07m2, trong giấy mua bán viết bên mua đã nhận
nhà, bên bán đã giao tiền, nhưng thống nhất bên mua ký mới giao tiền. Ông Cao ủy
quyền cho ông là sai vì đây là tài sản chung của mấy anh chị em; nhà 19 Thuốc Bắc
ông chưa kê khai vì còn đang tranh chấp; nhà 17 Thuốc Bắc ông đã kê khai là
trên cơ sở ông được hưởng theo bản án chia thừa kế năm 1992. Giấy ông Cao bán
nhà cho cụ Nhuần 38m2 ông áng chừng viết khoảng năm 1971. Ông chỉ
lưu bản chính ông Cao bán nhà cho cụ Nhuần, còn các văn bản khác ông không giữ.
Khi bán nhà cho cụ Nhuần, ông Cao có đưa bằng khoán nhà 19 Thuốc Bắc cho cụ Nhuần.

Ông không đồng ý yêu cầu của ông Sông vì không có việc
mua bán tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc, bố mẹ ông Sông chưa ký vào giấy mua bán và
chưa trả tiền; hợp đồng mua bán nhà không hợp pháp, nên ông Sông không có quyền
đòi nóc nhà tầng 2; lối đi qua tầng 1 nhà 17 Thuốc Bắc, ông Sông chỉ đi nhờ (Bl
586). Diện tích phụ nhà 19 Thuốc Bắc, anh chị em ông không bán nên ông vẫn có
quyền sử dụng. Ông cũng không chấp nhận yêu cầu của ông Sông đòi bồi thường thiệt
hại về thu nhập vì ông Sông là người tranh chấp chứ không phải ông. Đánh nhau
thì hai bên cũng có thương tích, Công an không giải quyết gì nên ông không đồng
ý bồi thường.

Ngày 07-4-2009, ông Thành có đơn phản tố đề nghị gia
đình ông Sông phải đi ra đường trên diện tích nhà 19 Thuốc Bắc, có nghĩa là nhà
tầng 1 số 19 Thuốc Bắc phải mở lối đi ra đường cho gia đình ông Sông. Nhà 17
Thuốc Bắc thuộc quyền sở hữu của ông, khi anh chị em ông bán tầng 1 nhà 19 Thuốc
Bắc cho gia đình ông Tiệp cũng đã ghi rõ ở như diện tích đang ở, trừ lối đi.

Ngày 23-9-2009, ông Thành có đơn xin rút yêu cầu phản
tố về lối đi.

– Bà Đỗ Thị Nguyệt và các con bà Đỗ Thị Nga là Vương
Chí Tường, Vương Chí Thắng, Vương Bích Vân, Vương Bích Hợp có đơn trình bày: Buồng
38m2 ông Cao viết bán, nhưng nhà thuộc các đồng sở hữu nên không có
quyền, còn bà Ngà, bà Nguyệt có ký bán buồng 7m2 cho cụ Chiện nhưng
bên mua chưa trả tiền nên yêu cầu trả lại nhà.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

­– Cụ Tô Thị Lâm trình bày: Chồng cụ là cụ Nguyễn
Đình Nhuần (chết năm 2000). Trước đây vợ chồng cụ sống ở số 10 phố Hàng Bún, vợ
chồng cụ Chiện sống cùng vợ chồng cụ. Năm 1970, vợ chồng cụ Chiện chuyển sang
nhà số 19 Thuốc Bắc ở. Vợ chồng cụ Chiện mua nhà thế nào cụ không biết, cụ chỉ
nhớ là năm 1972 cụ Nhuần về nói với cụ là cụ Chiện mua nhà, nhờ cụ Nhuần đứng
tên. Nhà 19 Thuốc Bắc là do vợ chồng cụ Chiện mua và trả tiền, vợ chồng cụ
không tham gia giao dịch mua bán với ông Thành, gia đình cụ cũng không có quyền
lợi gì liên quan đến nhà 19 Thuốc Bắc.

– Các con của cụ Lâm là ông Nguyễn Đình Uân, ông
Nguyễn Đình Hòa, bà Nguyễn Quỳnh Hợp, bà Nguyễn Thị Minh Nguyệt trình bày nhất
trí với lời khai của cụ Lâm.

– Bà Trần Thị Bích, ông Vũ Đình Hậu trình bày: Ông,
bà đang ở tầng 1 nhà 19 Thuốc Bắc. Ông Thành không có quyền yêu cầu gia đình bà
phải mở lối đi cho gia đình ông Sông ở tầng 2; ông Thành đã có đơn xin rút yêu
cầu phản tố về lối đi, ông, bà không có ý kiến gì.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 78/DSST ngày
21-11-2007, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:

– Bác yêu cầu của ông Nguyễn Đình Sông.

Ngày 21-11-2007, ông Nguyễn Đình Sông có đơn kháng
cáo.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 121/2008/DSPT ngày
30-6-2008, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định: Hủy án
sơ thẩm, giao sơ thẩm giải quyết lại.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 52/2009/DSST ngày
29-9-2009, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:

1. Không chấp nhận yêu cầu công nhận hợp đồng mua
bán toàn bộ tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc của nguyên đơn.

2. Chấp nhận yêu cầu của ông Sông về việc buộc ông
Thành phải dọn toàn bộ đồ đạc, cây cảnh trên nóc tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc chuyển
dọn về nhà 17 Thuốc Bắc.

Gia đình ông Thành và gia đình ông Sông sử dụng nóc
nhà tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc đúng như cam kết ký ngày 20-12-1987.

3. Không chấp nhận yêu cầu của ông Sông không cho
gia đình ông Thành sử dụng diện tích phụ, sân tại nhà 19 Thuốc Bắc.

4. Xác định lối đi từ phố Hàng Cá đi vào nằm trên
hai diện tích đất của nhà 17, 19 Thuốc Bắc, không ai được để hàng hóa, vật dụng
cản trở việc đi lại.

5. Không chấp nhận các yêu cầu của ông Sông đòi bồi
thường thiệt hại đối với ông Thành.

6. Bác các yêu cầu khác của các bên đương sự.

7. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố của
ông Thành.

Ngày 01-10-2009, ông Nguyễn Đình Sông có đơn kháng
cáo không đồng ý quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.

Ngày 12-10-2009, ông Đỗ Trọng Thành có đơn kháng cáo
không đồng ý quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm về phần lối đi, đề nghị xác định
lối đi này là tạm thời.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 86/2010/DS-PT ngày
18-5-2010, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định: Y án sơ
thẩm về giải quyết hợp đồng mua bán nhà và các yêu cầu khác, hủy một phần bản
án sơ thẩm giao sơ thẩm giải quyết lại về phần lối đi qua nhà 17 Thuốc Bắc.

Ngày 20-7-2010, ông Nguyễn Đình Sông có đơn đề nghị
giám đốc thẩm, xin công nhận hợp đồng mua bán tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc.

Tại Quyết định số 148/2013/KN-DS ngày 11-4-2013,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm số
86/2010/DS-PT ngày 18-5-2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội;
đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản
án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm số 52/2009/DS-ST ngày
29-9-2009 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát
nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận
kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, nhưng theo hướng hủy Bản án
dân sự phúc thẩm số 86/2010/DS-PT ngày 18-5-2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân
dân tối cao tại Hà Nội, giao Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại.

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định:

Theo lời khai của nguyên đơn, bị đơn và các tài liệu
trong hồ sơ vụ án thì căn nhà số 19 phố Thuốc Bắc, phường Hàng Bồ, quận Hoàn Kiếm,
Hà Nội thuộc quyền sở hữu của vợ chồng cụ Đỗ Huy Ngọc và cụ Lê Thị Hữu đã sang
tên thừa kế cho các con là ông Đỗ Trọng Cao (chết năm 1972, không vợ con) được
hưởng 8/12 phần, còn lại bà Đỗ Thị Ngà (tức Nga), bà Đỗ Thị Nguyệt, bà Đỗ Thị
Song Toàn (chết năm 1963, không chồng con), ông Đỗ Trọng Thành hưởng chung 4/12
phần. Ngày 01-7-1971, ông Thành ký hợp đồng cho gia đình cụ Nguyễn Đình Nhuần
(là bác ruột ông Nguyễn Đình Sông, chết năm 2000) và vợ chồng cụ Nguyễn Đình
Chiện (là cha của ông Sông, chết năm 1998) thuê gian buồng tầng 2 nhà 19 phố
Thuốc Bắc, diện tích 39,36m2 để lấy tiền chữa bệnh cho ông Cao, đã
nhận trước 2000 đồng.

Tại “Giấy bán đứt một buồng ở” (không ghi ngày tháng
năm nhưng ông Thành thừa nhận văn bản này viết khoảng năm 1971), ông Cao đã bán
cho cụ Nhuần 01 gian buồng tầng 2 nhà 19 phố Thuốc Bắc (không ghi diện tích)
giá 6550 đồng, bên bán đã nhận đủ tiền, ghi là cụ Chiện đại diện mua bán và ký
thay cụ Nhuần. Ông Thành cho rằng gian nhà bán này chính là gian nhà thuê nêu
trên và bán cho cụ Nhuần, không phải bán cho cụ Chiện. Tuy nhiên, cụ Tô Thị Lâm
và các ông, bà Nguyễn Đình Uân, Nguyễn Đình Hòa, Nguyễn Quỳnh Hợp, Nguyễn Thị
Minh Nguyệt (là vợ, con cụ Nhuần) đều xác định cụ Chiện trực tiếp giao dịch và
trả tiền, cụ Nhuần chỉ đứng tên hộ cụ Chiện trên hợp đồng mua nhà do ông Cao
bán. Do đó, có cơ sở xác định cụ Chiện là người mua gian buồng này.

Ngày 09-9-1972, ông Cao viết giấy ủy quyền để ông
Thành bán căn buồng phụ ông Cao đang ở. Ngày 05-11-1972, ông Cao chết không để
lại di chúc. Cùng ngày 05-11-1972, ông Thành, bà Ngà, bà Nguyệt ký “Văn tự bán
đứt tầng 2 số nhà 19 phố Thuốc Bắc” có nội dung bán cho vợ chồng cụ Chiện buồng
chính 38,07m2, buồng phụ 7,095m2, tổng là 45,165m2,
giá 3000 đồng, bên bán đã nhận đủ tiền, bên mua đã nhận sử dụng diện tích tầng
2 và đang ở; văn tự có đủ 3 người gồm ông Thành, bà Ngà, bà Nguyệt là bên bán
ký tên, còn bên mua ghi tên cụ Chiện, cụ Mở nhưng không ký.

Khi tranh chấp, ông Sông xuất trình được 02 văn tự
bán nhà nêu trên và cả giấy ông Cao ủy quyền cho ông Thành bán nhà. Thực tế,
gia đình cụ Chiện đã quản lý cả 02 gian buồng tầng 2 nhà 19 phố Thuốc Bắc của
gia đình ông Thành từ năm 1972 đến nay, gia đình ông Thành ở số nhà 17 phố Thuốc
Bắc liền kề không tranh chấp đòi tiền thuê nhà hoặc tiền mua nhà. Nội dung “Văn
tự bán đứt tầng 2 số nhà 19 phố Thuốc Bắc” đều ghi rõ bên bán đã nhận đủ tiền,
không có việc hai bên thỏa thuận sẽ lập giấy trả tiền riêng, đây chính là biên
nhận mà bên bán xác nhận là bên mua đã trả tiền. Bên mua chưa ký vào văn bản
mua bán, nhưng văn bản này bên mua là người giữ, nên vẫn có giá trị xác định
nghĩa vụ của bên bán về việc đã nhận tiền. Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm cho rằng
bên mua chưa ký tên vào văn bản mua bán nhà và không chứng minh được đã trả tiền
để bác yêu cầu công nhận hợp đồng mua bán nhà của nguyên đơn là chưa đảm bảo
quyền lợi của nguyên đơn.

Giao dịch mua bán nhà ở giữa các anh chị em ông
Thành và vợ chồng cụ Chiện, cụ Mở được xác lập trước ngày 01-7-1991, nên cần phải
áp dụng Nghị quyết 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20-8-1998 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội để giải quyết vụ án. Bà Nguyễn Thị Lan (con cụ Chiện, cụ Mở) tham gia tố tụng
với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là do thuộc diện thừa kế di
sản của cụ Chiện, cụ Mở mà không tham gia vào giao dịch này. Bà Lan mới định cư
tại Cộng hòa Séc từ năm 1997, việc mua bán này không phải là giao dịch nhà ở
trước ngày 01-7-1991 có người định cư ở nước ngoài trước ngày 01-7-1991 tham
gia, nên Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm căn cứ Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11
ngày 27-7-2006 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01-7-1991
có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia để giải quyết vụ án là chưa
đúng.

Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3
Điều 297, khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung
theo Luật số 65/2011/QH12 ngày 29-3-2011 của Quốc hội);

QUYẾT ĐỊNH:

Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 86/2010/DS-PT
ngày 18-5-2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội về vụ án
“Tranh chấp quyền sở hữu, sử dụng nhà” giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Đình Sông,
bà Nguyễn Thị Hồng, bà Nguyễn Thị Hương với bị đơn là ông Đỗ Trọng Thành, bà Đỗ
Thị Nguyệt, anh Vương Chí Tường, anh Vương Chí Thắng, chị Vương Bích Vân, chị
Vương Bích Hợp; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 09 người.

Giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối
cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại theo quy định của pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“Khi tranh chấp,
ông Sông xuất trình được 02 văn tự bán nhà nêu trên và cả giấy ông Cao ủy quyền
cho ông Thành bán nhà. Thực tế, gia đình cụ Chiện đã quản lý cả 02 gian buồng tầng
2 nhà 19 phố Thuốc Bắc của gia đình ông Thành từ năm 1972 đến nay, gia đình ông
Thành ở số nhà 17 phố Thuốc Bắc liền kề không tranh chấp đòi tiền thuê nhà hoặc
tiền mua nhà. Nội dung “Văn tự bán đứt tầng 2 số nhà 19 phố Thuốc Bắc” đều ghi
rõ bên bán đã nhận đủ tiền, không có việc hai bên thỏa thuận sẽ lập giấy trả tiền
riêng, đây chính là biên nhận mà bên bán xác nhận là bên mua đã trả tiền. Bên
mua chưa ký vào văn bản mua bán, nhưng văn bản này bên mua là người giữ, nên vẫn
có giá trị xác định nghĩa vụ của bên bán về việc đã nhận tiền. Tòa án cấp sơ thẩm,
phúc thẩm cho rằng bên mua chưa ký tên vào văn bản mua bán nhà và không chứng
minh được đã trả tiền để bác yêu cầu công nhận hợp đồng mua bán nhà của nguyên
đơn là chưa đảm bảo quyền lợi của nguyên đơn”.

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Tiền thuê nhà cho nhân viên là một trong các khoản chi được phép tính vào chi phí của công ty. Như vậy, để được đưa tiền thuê nhà của người lao động vào chi phí công ty phải đáp ứng các yêu cầu nào của pháp luật?

Tính chi phí đối với tiền thuê nhà của người lao động

Theo quy định tại khoản 2.6 điều 6 thông tư 78/2014/TT-BTC (sửa đổi bởi thông tư 96/2015/TT-BTC) quy định:

Điều 6. Các khoản chi được trừ và không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế
2. Các khoản chi không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế bao gồm:
2.6. Chi tiền lương, tiền công, tiền thưởng cho người lao động thuộc một trong các trường hợp sau:
b) Các khoản tiền lương, tiền thưởng, chi mua bảo hiểm nhân thọ cho người lao động không được ghi cụ thể điều kiện được hưởng và mức được hưởng tại một trong các hồ sơ sau: Hợp đồng lao động; Thoả ước lao động tập thể; Quy chế tài chính của Công ty, Tổng công ty, Tập đoàn; Quy chế thưởng do Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Giám đốc quy định theo quy chế tài chính của Công ty, Tổng công ty.
– Trường hợp doanh nghiệp ký hợp đồng lao động với người lao động trong đó có ghi khoản chi về tiền nhà do doanh nghiệp trả cho người lao động, khoản chi trả này có tính chất tiền lương, tiền công và có đầy đủ hoá đơn, chứng từ theo quy định thì được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp.

Theo quy định trên để ghi nhận tiền thuê nhà cho người lao động phải đáp ứng hai điều kiện như sau:
– Hợp đồng lao động có ghi nhận về tiền thuê nhà do doanh nghiệp trả cho người lao động
– Có hoá đơn, chứng từ hợp pháp theo quy định pháp luật

Thuế thu nhập cá nhân đối với tiền thuê nhà cho người lao động

Thông tư 92/2015/TT-BTC tại Điều 11, Khoản 2 Sửa đổi, bổ sung tiết đ.1 điểm đ khoản 2 Điều 2, Thông tư 111/2013/TT-BTC như sau:

Điều 2. Các khoản thu nhập chịu thuế
2. Thu nhập từ tiền lương, tiền công
đ) Các khoản lợi ích bằng tiền hoặc không bằng tiền ngoài tiền lương, tiền công do người sử dụng lao động trả mà người nộp thuế được hưởng dưới mọi hình thức
đ.1) Tiền nhà ở, điện, nước và các dịch vụ kèm theo (nếu có), không bao gồm: khoản lợi ích về nhà ở, điện nước và các dịch vụ kèm theo (nếu có) đối với nhà ở do người sử dụng lao động xây dựng để cung cấp miễn phí cho người lao động làm việc tại khu công nghiệp; nhà ở do người sử dụng lao động xây dựng tại khu kinh tế, địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn cung cấp miễn phí cho người lao động.
Trường hợp cá nhân ở tại trụ sở làm việc thì thu nhập chịu thuế căn cứ vào tiền thuê nhà hoặc chi phí khấu hao, tiền điện, nước và các dịch vụ khác tính theo tỷ lệ giữa diện tích cá nhân sử dụng với diện tích trụ sở làm việc.
Khoản tiền thuê nhà, điện nước và các dịch vụ kèm theo (nếu có) đối với nhà ở do đơn vị sử dụng lao động trả hộ tính vào thu nhập chịu thuế theo số thực tế trả hộ nhưng không vượt quá 15% tổng thu nhập chịu thuếphát sinh (chưa bao gồm tiền thuê nhà) tại đơn vị không phân biệt nơi trả thu nhập.

Như vậy: Tiền thuê nhà, điện nước doanh nghiệp chi trả cho người lao động như trong các trường hợp trên sẽ phải chịu thuế thu nhập cá nhân

Ví dụ 1:
Doanh nghiệp A chi trả tiền lương cho người lao động là 10 triệu đồng/ tháng.
Tiền thuê nhà doanh nghiệp trả thay cho người lao động là 2 triệu đồng/ tháng.
15% chi phí tiền nhà là: 10 x 15% = 1,5 triệu đồng < 2 triệu đồng.
Vậy tiền nhà tính vào thu nhập chịu thuế là 1,5 triệu đồng. Phần tiền nhà vượt quá là 0,5 triệu đồng không tính vào thu nhập chịu thuế TNCN.

Ví dụ 2:
Doanh nghiệp A chi trả tiền lương net cho người lao động là 10,235 triệu đồng/ tháng. Ông A không có người phụ thuộc và không có bảo hiểm bắt buộc, bảo hiểm tự nguyện.
Tiền nhà doanh nghiệp trả thay cho ông A là 2 triệu đồng/ tháng.
Thu nhập quy đổi chưa bao gồm tiền nhà là 10,235 – 9 = 1,235 triệu đồng.
Thu nhập tính thuế chưa bao gồm tiền nhà là: 1/0.95 = 1,3 triệu đồng.
Thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân là: 1,3 + 9 = 10,3 triệu đồng.
15% chi phí tiền nhà là: 10,3 x 15% = 1,545 triệu đồng < 2 triệu đồng.
Tiền nhà tính vào thu nhập chịu thuế của người lao động là 1,545 triệu đồng. Phần tiền nhà vượt quá là 0.455 triệu đồng không tính vào thu nhập chịu thuế TNCN.

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Trước khi nhập khẩu hàng mỹ phẩm các doanh nghiệp nhập khẩu hàng mỹ phẩm cần làm thủ tục công bố mỹ phẩm nhập khẩu tại Cục Dược thuộc Bộ Y Tế để được cấp phiếu công bố mỹ phẩm. Tuy nhiên có một số trường hợp không cần làm thủ tục công bố theo khoản 2 điều 35 thông tư 06/2011/TT-BYT như sau:

Điều 35. Nhập khẩu mỹ phẩm
2. Nhập khẩu mỹ phẩm trong một số trường hợp đặc biệt (không bắt buộc phải thực hiện công bố sản phẩm mỹ phẩm theo quy định của Thông tư này):
a) Tổ chức, cá nhân nhập khẩu mỹ phẩm để nghiên cứu, kiểm nghiệm phải gửi đơn hàng nhập khẩu mỹ phẩm dùng cho nghiên cứu, kiểm nghiệm tới Cục Quản lý dược – Bộ Y tế (Phụ lục số 14-MP). Số lượng tối đa cho mỗi sản phẩm là 10 mẫu.
Đơn hàng nhập khẩu mỹ phẩm dùng cho nghiên cứu, kiểm nghiệm được làm thành 03 bản. Sau khi được phê duyệt, 02 bản được lưu tại Cục Quản lý dược, 01 bản gửi đơn vị. Bản gửi đơn vị có đóng dấu “Bản gửi doanh nghiệp” để trình cơ quan Hải quan khi làm thủ tục thông quan.
Các sản phẩm mỹ phẩm nhập khẩu để nghiên cứu, kiểm nghiệm phải được sử dụng đúng mục đích, không được phép đưa ra lưu thông trên thị trường.
b) Tổ chức, cá nhân nhận mỹ phẩm là quà biếu, quà tặng làm thủ tục nhập khẩu tại cơ quan Hải quan theo quy định. Tổng trị giá mỗi lần nhận không vượt quá định mức hàng hóa được miễn thuế theo quy định hiện hành.
Các mẫu mỹ phẩm nhập khẩu là quà biếu, quà tặng không được phép đưa ra lưu thông trên thị trường.
c) Tổ chức, cá nhân nhập khẩu mỹ phẩm để trưng bày tại hội chợ, triển lãm và các trường hợp tạm nhập tái xuất khác phải làm thủ tục xin cấp giấy phép tạm nhập tái xuất của Bộ Công Thương theo quy định hiện hành.

Xin nhập khẩu mỹ phẩm để nghiên cứu, kiểm nghiệm

Hồ sơ gồm:
– 3 bản đơn hàng nhập khẩu mỹ phẩm (theo mẫu)
– Bản sao y chứng thực đăng ký kinh doanh của công ty
Thời gian thực hiện: 10 – 15 ngày làm việc
Hiệu lực: Theo từng lần xin công văn

Phụ lục số 14-MP

TÊN ĐƠN VỊ  
Số: …
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

ĐƠN HÀNG NHẬP KHẨU MỸ PHẨM DÙNG CHO NGHIÊN CỨU, KIỂM NGHIỆM
Kính gửi: Cục Quản lý dược – Bộ Y Tế (138A Giảng Võ, Ba Đình, Hà Nội)

(Đơn vị) kính đề nghị Cục Quản lý dược xét duyệt để đơn vị được nhận các mỹ phẩm dùng cho kiểm nghiệm chất lượng sau:

STT Tên mỹ phẩm, dạng bào chế, quy cách đóng gói Dạng sản phẩm Thành phần Đơn vị tính Số lượng Tên công ty sản xuất, tên nước Ghi chú
1              
2              
3              
Cục Quản lý dược
Chấp thuận đơn hàng nhập khẩu gồm … trang … khoản kèm theo công văn………..số … /QLD-CL ngày … tháng … năm … của Cục Quản lý dược. Hà Nội, ngày … tháng … năm …
Cục trưởng
…, ngày … tháng … năm …
Giám đốc đơn vị
(Ký tên, đóng dấu)
(Ghi rõ họ và tên người ký)

Trên đây là các quy định và trình tự xin công văn nhập khẩu hàng mỹ phẩm đối với các trường hợp không cần công bố mỹ phẩm. Khách hàng có nhu cầu liên hệ dịch vụ vui lòng liên hệ LVNLAW để được hỗ trợ.

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Đang giải thể có thể dừng lại và tiếp tục hoạt động hay không? Khôi phục mã số thuế khi đang làm thủ tục giải thể? Hiện tại công ty chúng tôi đang làm thủ tục giải thể và đã hoàn thành thủ tục chấm dứt hiệu lực mã số thuế, tra trên trang thông tin tổng cục thuế gdt.gov.vn mã số thuế ghi là “NNT ngừng hoạt động và đã hoàn thành thủ tục chấm dứt hiệu lực mã số thuế”. Hiện tại chủ sở hữu công ty đã khắc phục được những khó khăn và không dự định tiếp tục giải thể nữa. Vậy chúng tôi phải làm những thủ tục gì?

Có thể khôi phục mã số thuế sau khi có quyết định giải thể hay không?

Theo công văn 1062/TCT-KK ngày 29/03/2018 của tổng cục thuế không có phép doanh nghiệp tiếp tục hoạt động sau khi đã có quyết định giải thể và chuyển trạng thái mã số thuế, do vậy với trường hợp này doanh nghiệp tiếp tục giải thể và lập công ty mới.

Tổng cục Thuế nhận được công văn số 7536/CT-KK&KKT ngày 26/2/2018 của Cục Thuế thành phố Hà Nội vướng mắc về khôi phục hoạt động của doanh nghiệp. Về vấn đề này, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:
Căn cứ tại Khoản 3, Khoản 7, Điều 202 Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 ngày 26/11/2014;
Căn cứ tại Điều 64 Nghị định 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp;
Căn cứ tại Điểm b Khoản 1, Điều 20 Thông tư 95/2016/TT-BTC ngày 28/6/2016 của Bộ Tài chính hướng dẫn về đăng ký thuế quy định về khôi phục mã số thuế.
Căn cứ các quy định nêu trên, trường hợp Công ty Liên doanh Tân Đại Lộc (MST: 0500502128) đã có Quyết định giải thể số 05/2017/QĐ-HĐQT ngày 10/08/2017 và đã gửi hồ sơ giải thể đến cơ quan thuế để giải thể doanh nghiệp nhưng chưa gửi hồ sơ đến cơ quan đăng ký kinh doanh là vi phạm quy định của Luật Doanh nghiệp. Đề nghị doanh nghiệp gửi hồ sơ giải thể đến cơ quan đăng ký kinh doanh theo quy định.
Công ty Liên doanh Tân Đại Lộc không được khôi phục mã số thuế sau khi cơ quan thuế đã đưa về trạng thái người nộp thuế ngừng hoạt động và đang làm thủ tục chấm dứt hiệu lực mã số thuế. Trường hợp, doanh nghiệp có nhu cầu hoạt động kinh doanh trở lại thì thực hiện đăng ký thành lập doanh nghiệp mới theo quy định.

Tuy nhiên, công văn này áp dụng theo quy định cũ. Hiện nay, việc doanh nghiệp đã làm thủ tục thông báo giải thể nhưng chưa hoàn tất đóng mã số thuế có thể thực hiện mở lại theo quy định. Tại điều 40 Luật quản lý thuế 2019 quy định:

Điều 40. Khôi phục mã số thuế
1. Người nộp thuế đăng ký thuế cùng với đăng ký doanh nghiệp, đăng ký hợp tác xã, đăng ký kinh doanh nếu được khôi phục tình trạng pháp lý theo quy định của pháp luật về đăng ký doanh nghiệp, đăng ký hợp tác xã, đăng ký kinh doanh thì đồng thời được khôi phục mã số thuế.

Ngoài ra, tại điều 18 thông tin 105/2020/TT-BTC cũng quy định:

Điều 18. Hồ sơ đề nghị khôi phục mã số thuế
2. Hồ sơ khôi phục mã số thuế theo quyết định, thông báo, giấy tờ khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền:
a) Giao dịch thông báo khôi phục tình trạng pháp lý của doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị phụ thuộc của cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan đăng ký hợp tác xã.
b) Quyết định của Tòa án hủy bỏ Quyết định tuyên bố cá nhân là đã chết, mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân sự.

Do vậy, việc khôi phục lại mã số thuế sẽ theo thông báo khôi phục tình trạng pháp lý của doanh nghiệp do phòng ĐKKD ban hành.

Thủ tục khôi phục tình trạng pháp lý doanh nghiệp do hủy bỏ quyết định giải thể

Theo quy định tại điều 207 Luật doanh nghiệp 2020 và khoản 7 điều 70 nghị định 01/2021/NĐ-CP quy định về việc hủy bỏ quyết định giải thể cụ thể như sau:

Điều 207. Các trường hợp và điều kiện giải thể doanh nghiệp
1. Doanh nghiệp bị giải thể trong trường hợp sau đây:
a) Kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà không có quyết định gia hạn;
b) Theo nghị quyết, quyết định của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư nhân, của Hội đồng thành viên đối với công ty hợp danh, của Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, của Đại hội đồng cổ đông đối với công ty cổ phần;

Luật doanh nghiệp 2020

Điều 70. Đăng ký giải thể doanh nghiệp đối với trường hợp quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 207 Luật Doanh nghiệp
Việc đăng ký giải thể doanh nghiệp quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 207 Luật Doanh nghiệp được thực hiện theo trình tự, thủ tục sau đây:
7. Trong thời hạn 180 ngày kể từ ngày nhận được thông báo kèm theo nghị quyết, quyết định giải thể quy định tại Điều 208 Luật Doanh nghiệp và Phòng Đăng ký kinh doanh chưa chuyển tình trạng pháp lý của doanh nghiệp sang tình trạng đã giải thể trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp không tiếp tục thực hiện giải thể, doanh nghiệp gửi thông báo về việc hủy bỏ nghị quyết, quyết định giải thể đến Phòng Đăng ký kinh doanh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính. Kèm theo thông báo phải có nghị quyết, quyết định của chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, của Hội đồng thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty hợp danh, của Đại hội đồng cổ đông đối với công ty cổ phần về việc hủy bỏ nghị quyết, quyết định giải thể. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo về việc hủy bỏ nghị quyết, quyết định giải thể doanh nghiệp, Phòng Đăng ký kinh doanh phải đăng tải thông báo và nghị quyết, quyết định về việc hủy bỏ nghị quyết, quyết định giải thể doanh nghiệp trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, khôi phục tình trạng pháp lý của doanh nghiệp trên Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp và gửi thông tin huỷ bỏ nghị quyết, quyết định giải thể của doanh nghiệp cho Cơ quan thuế.

Nghị định 01/2021/NĐ-CP

Như vậy, theo quy định này trường hợp công ty đang làm thủ tục giải thể mà muốn tiếp tục hoạt động sẽ thực hiện hủy bỏ nghị quyết, quyết định giải thể tại phòng đăng ký kinh doanh hồ sơ gồm:
– Thông báo về việc hủy bỏ nghị quyết, quyết định giải thể
– Biên bản họp, quyết định (tùy loại hình công ty)
– Văn bản ủy quyền thực hiện thủ tục kèm theo giấy tờ pháp lý của người thực hiện thủ tục

Sau khi thực hiện thủ tục này tại phòng ĐKKD, doanh nghiệp không cần thực hiện thủ tục tại cơ quan thuế. Việc khôi phục mã số thuế sẽ do cơ quan thuế và cơ quan đăng ký kinh doanh liên thông thực hiện. Cụ thể tại điều 19 thông tư 105/2020/TT-BTC quy định:

Điều 19. Xử lý hồ sơ khôi phục mã số thuế và trả kết quả
3. Khi cơ quan thuế nhận được giao dịch khôi phục tình trạng pháp lý đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh của cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan đăng ký hợp tác xã theo quy định của pháp luật về đăng ký doanh nghiệp, đăng ký hợp tác xã trên Hệ thống ứng dụng đăng ký thuế, cơ quan thuế thực hiện khôi phục mã số thuế cho người nộp thuế ngay trong ngày nhận được giao dịch.

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Miễn thuế hàng hóa qua chuyển phát

Theo quy định tại nghị định 134/2016/NĐ-CP (sửa đổi bởi nghị định 18/2021/NĐ-CP) miễn thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu với giá trị cụ thể như sau

Điều 29. Miễn thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo điều ước quốc tế, hàng hóa có trị giá tối thiểu, hàng hóa gửi qua dịch vụ chuyển phát nhanh
2. Hàng hóa nhập khẩu gửi qua dịch vụ bưu chính, chuyển phát nhanh có trị giá hải quan từ 1.000.000 đồng Việt Nam trở xuống hoặc có số tiền thuế phải nộp từ 100.000 đồng Việt Nam trở xuống được miễn thuế nhập khẩu.
Trường hợp hàng hóa có trị giá hải quan vượt quá 1.000.000 đồng Việt Nam hoặc có tổng số tiền thuế phải nộp trên 100.000 đồng Việt Nam thì phải nộp thuế nhập khẩu đối với toàn bộ lô hàng.
3. Hàng hóa có tổng trị giá hải quan từ 500.000 đồng Việt Nam trở xuống hoặc có tổng số tiền thuế xuất khẩu, nhập khẩu phải nộp từ 50.000 đồng Việt Nam trở xuống cho một lần xuất khẩu, nhập khẩu được miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Quy định tại khoản này không áp dụng đối với hàng hóa là quà biếu, quà tặng, hàng hóa mua bán trao đổi của cư dân biên giới và hàng hóa gửi qua dịch vụ bưu chính, chuyển phát nhanh.

Miễn thuế đối với trường hợp hàng xách tay

Việc miễn thuế đối với trường hợp hàng xách tay của người xuất nhập cảnh được quy định tại điều 6 nghị định 134/2016/NĐ-CP

Điều 6. Miễn thuế đối với hành lý của người xuất cảnh, nhập cảnh
1. Người nhập cảnh bằng hộ chiếu hoặc giấy tờ thay hộ chiếu (trừ giấy thông hành dùng cho việc xuất cảnh, nhập cảnh), do cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam hoặc của nước ngoài cấp, có hành lý mang theo người, hành lý gửi trước hoặc gửi sau chuyến đi được miễn thuế nhập khẩu cho từng lần nhập cảnh theo định mức như sau:
a) Rượu từ 20 độ trở lên: 1,5 lít hoặc rượu dưới 20 độ: 2,0 lít hoặc đồ uống có cồn, bia: 3,0 lít.
Đối với rượu, nếu người nhập cảnh mang nguyên chai, bình, lọ, can (sau đây viết tắt là chai) có dung tích lớn hơn dung tích quy định nhưng không vượt quá 01 lít thì được miễn thuế cả chai. Trường hợp vượt quá 01 lít thì phần vượt định mức phải nộp thuế theo quy định của pháp luật;
b) Thuốc lá điếu: 200 điếu hoặc thuốc lá sợi: 250 gam hoặc xì gà: 20 điếu;
c) Đồ dùng cá nhân với số lượng, chủng loại phù hợp với mục đích chuyến đi;
d) Các vật phẩm khác ngoài hàng hóa quy định tại các điểm a, b, và c khoản này (không nằm trong Danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu hoặc nhập khẩu có điều kiện) có tổng trị giá hải quan không quá 10.000.000 đồng Việt Nam;
Trường hợp vượt định mức phải nộp thuế, người nhập cảnh được chọn vật phẩm để miễn thuế trong trường hợp hành lý mang theo gồm nhiều vật phẩm.
2. Người điều khiển tàu bay và nhân viên phục vụ trên các chuyến bay quốc tế; người điều khiển tàu hỏa và nhân viên phục vụ trên tàu hỏa liên vận quốc tế; sĩ quan, thuyền viên làm việc trên tàu biển; lái xe, người lao động Việt Nam làm việc ở các nước láng giềng có chung biên giới đường bộ với Việt Nam không được hưởng định mức hành lý miễn thuế quy định tại các điểm a, b và d khoản 1 Điều này cho từng lần nhập cảnh mà cứ 90 ngày được miễn thuế 01 lần. Định mức quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người dưới 18 tuổi.
3. Người xuất cảnh bằng hộ chiếu hoặc giấy tờ thay hộ chiếu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam hoặc của nước ngoài cấp, có hành lý mang theo người, hành lý gửi trước hoặc gửi sau chuyến đi, không thuộc Danh mục hàng cấm xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu hoặc xuất khẩu có điều kiện theo quy định của pháp luật, được miễn thuế xuất khẩu không hạn chế định mức.

Định mức miễn thuế quà tặng, quà biếu

Việc miễn thuế đối với trường hợp hàng xách tay của người xuất nhập cảnh được quy định tại điều 8 nghị định 134/2016/NĐ-CP (sửa đổi bởi nghị định 18/2021/NĐ-CP)

Điều 8. Miễn thuế đối với quà biếu, quà tặng
1. Quà biếu, quà tặng được miễn thuế theo quy định tại khoản 2 Điều 16 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là những mặt hàng không thuộc Danh mục mặt hàng cấm nhập khẩu, cấm xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, tạm ngừng nhập khẩu, không thuộc danh mục mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (trừ trường hợp quà biếu, quà tặng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt để phục vụ mục đích an ninh, quốc phòng) theo quy định của pháp luật.
2. Định mức miễn thuế:
a) Quà biếu, quà tặng của tổ chức, cá nhân nước ngoài cho tổ chức, cá nhân Việt Nam; quà biếu, quà tặng của tổ chức, cá nhân Việt Nam cho tổ chức, cá nhân nước ngoài có trị giá hải quan không vượt quá 2.000.000 đồng hoặc có trị giá hải quan trên 2.000.000 đồng nhưng tổng số tiền thuế phải nộp dưới 200.000 đồng được miễn thuế không quá 04 lần/năm.
b) Đối với quà biếu, quà tặng của tổ chức, cá nhân nước ngoài cho cơ quan, tổ chức Việt Nam được ngân sách nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động theo pháp luật về ngân sách và được cơ quan có thẩm quyền cho phép tiếp nhận hoặc quà biếu, quà tặng vì mục đích nhân đạo, từ thiện là toàn bộ trị giá của quà biếu, quà tặng và không quá 04 lần/năm..
Trường hợp vượt định mức miễn thuế của cơ quan, tổ chức được ngân sách nhà nước đảm bảo kinh phí hoạt động, Bộ Tài chính quyết định miễn thuế đối với từng trường hợp.
c) Quà biếu, quà tặng của tổ chức, cá nhân nước ngoài cho cá nhân Việt Nam là thuốc, thiết bị y tế cho người bị bệnh thuộc Danh mục bệnh hiểm nghèo quy định tại Phụ lục IV Nghị định này có trị giá hải quan không vượt quá 10.000.000 đồng được miễn thuế không quá 4 lần/năm.

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Các trường hợp cấp lại giấy phép lao động

Theo quy định tại điều 12 nghị định 152/2020/NĐ-CP thì có 3 trường hợp được cấp lại giấy phép lao động. Cụ thể như sau:
– Giấy phép lao động còn thời hạn bị mất.
– Giấy phép lao động còn thời hạn bị hỏng
– Thay đổi họ và lên, quốc tịch, số hộ chiếu, địa điểm làm việc ghi trong giấy phép lao động còn thời hạn.

Hồ sơ cấp lại giấy phép lao động

  1. Văn bản đề nghị cấp lại giấy phép lao động của người sử dụng lao động
  2. 02 ảnh màu (kích thước 4 cm x 6 cm, phông nền trắng, mặt nhìn thẳng, đầu để trần, không đeo kính màu), ảnh chụp không quá 06 tháng tính đến ngày nộp hồ sơ.
  3. Giấy phép lao động còn thời hạn đã được cấp; trường hợp mất GPLĐ phải có xác nhận của cơ quan công an cấp xã nơi người nước ngoài cư trú hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài; thay đổi nội dung ghi trên giấy phép lao động thì phải có các giấy tờ chứng minh.
  4. Văn bản chấp thuận nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài
  5. Giấy tờ quy định tại khoản 3 và 4 là bản gốc hoặc bản sao có chứng thực trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 12 Nghị định này, nếu của nước ngoài thì phải hợp pháp hóa lãnh sự và phải dịch ra tiếng Việt trừ trường hợp được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước ngoài liên quan đều là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại hoặc theo quy định của pháp luật.

Trình tự cấp lại giấy phép lao động

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị cấp lại giấy phép lao động, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hoặc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội cấp lại giấy phép lao động. Trường hợp không cấp lại giấy phép lao động thì có văn bản trả lời và nêu rõ lý do.
Thời hạn của giấy phép lao động: Đây là trường hợp cấp lại giấy phép lao động do người lao động nước ngoài bị mất, thất lạc giấy phép lao động do đó, thời gian trên giấy phép lao động sẽ bằng thời hạn của giấy phép lao động đã được cấp trừ đi thời gian người lao động nước ngoài đã làm việc tính đến thời điểm đề nghị cấp lại giấy phép lao động.

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Án lệ số 01/2016/AL

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm
số 04/2014/HS-GĐT ngày 16-4-2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
về vụ án “Giết người” đối với bị cáo: Đồng Xuân Phương, sinh năm 1975; trú tại
nhà số 11/73 phố Đinh Tiên Hoàng, Phường Hoàng Văn Thụ, quận Hồng Bàng, thành
phố Hải Phòng; là công nhân xây dựng; con ông Đồng Xuân Chì và bà Dương Thị
Thông; bị bắt giam ngày 22-6-2007;

Người bị hại: Nguyễn Văn
Soi, sinh năm 1971 (đã chết).

 Khái quát nội dung của án lệ:

Trong vụ án có đồng
phạm, nếu chứng minh được ý thức chủ quan của người chủ mưu là chỉ thuê người
khác gây thương tích cho người bị hại mà không có ý định tước đoạt tính mạng
của họ (người chủ mưu chỉ yêu cầu gây thương tích ở chân, tay của người bị hại
mà không yêu cầu tấn công vào các phần trọng yếu của cơ thể có khả năng dẫn đến
chết người); người thực hành cũng đã thực hiện theo đúng yêu cầu của người chủ
mưu; việc nạn nhân bị chết nằm ngoài ý thức chủ quan của người chủ mưu thì
người chủ mưu phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Cố ý gây thương tích” với
tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người”.

Quy định của pháp luật
liên quan đến án lệ:

 – Điểm m, n khoản 1 Điều 93 của Bộ luật Hình
sự năm 1999;       

  – Khoản 3 Điều
104 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Từ khóa của án lệ:

“Giết người”; “Cố ý gây
thương tích”; “Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”; “Các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe”; “Thuê người khác gây thương tích”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Khoảng 15 giờ ngày
21-6-2007, Công an quận Long Biên, thành phố Hà Nội nhận được tin báo đã xảy ra
vụ án, nạn nhân bị chết tại khu vực đúc dầm bê tông thi công cầu Thanh Trì
thuộc địa phận tổ 12, phường Thạch Bàn, quận Long Biên; nạn nhân là anh Nguyễn
Văn Soi (kỹ sư xây dựng thuộc Công ty cổ phần xây dựng 204 thuộc Tổng công ty
xây dựng Bạch Đằng). Qua điều tra, xác minh, Công an quận Long Biên đã bắt khẩn
cấp Đồng Xuân Phương.

Quá trình điều tra xác
định: Anh Nguyễn Văn Soi và Đồng Xuân Phương cùng làm việc tại Công ty cổ phần
xây dựng 204 thuộc Tổng công ty xây dựng Bạch Đằng (được giao nhiệm vụ thi
công, xây dựng cầu Thanh Trì). Khoảng tháng 02-2007, Phương uống rượu say trong
giờ làm việc, bị anh Soi dùng điện thoại di động chụp ảnh, báo cáo lãnh đạo nên
Phương có ý định trả thù anh Soi.

 Ngày 14-6-2007, Đồng Xuân Phương gọi điện thoại cho bạn là Đoàn Đức Lân sinh năm 1975 (trú tại nhà số 11 C98 Trại Chuối, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng) nói việc mâu thuẫn nêu trên và thuê Lân đánh trả thù. Lân nói sẽ giới thiệu người khác thực hiện. Tối ngày 17-6-2007, Phương từ Hà Nội về Hải Phòng gặp Lân và bạn của Lân là Hoàng Ngọc Mạnh sinh năm 1982 (còn gọi là Thắng; trú tại phường Sở Dầu, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng) kể lại việc mâu thuẫn và thuê Lân, Mạnh đánh anh Soi, bằng cách dùng dao đâm vào chân, tay nạn nhân để gây thương tích. Đồng Xuân Phương hỏi giá bao nhiêu, Mạnh và Lân nói tùy nên Phương đã đưa cho Mạnh 1.500.000 đồng. Lân và Mạnh đồng ý.

 Khoảng 20 giờ ngày 20-6-2007, Hoàng Ngọc Mạnh
đi cùng Nam (là bạn Mạnh; không xác định được địa chỉ) lên Hà Nội gặp Đồng Xuân
Phương thống nhất là sẽ đánh anh Soi vào ngày 21-6-2007; sau đó Phương đưa thêm
500.000 đồng để Mạnh thuê chỗ ngủ. Đến khoảng 9 giờ ngày 21-6-2007, Phương dẫn
Mạnh và Nam đến đoạn đường anh Soi sẽ qua để đi họp vào đầu giờ buổi chiều hôm
đó; rồi quay về Công ty. Khoảng 11 giờ, Hoàng Ngọc Mạnh đến quán nước tại ngã
ba quốc lộ 5 – 1B (quán của chị Phạm Thị Miến) thuê điện thoại di động của chị
Miến gọi điện thoại cho Đồng Xuân Phương yêu cầu mô tả đặc điểm nhận dạng và
thông báo số điện thoại di động của anh Soi; Phương đã thực hiện theo yêu cầu của
Mạnh. Đến khoảng hơn 13 giờ chiều, Mạnh lại thuê điện thoại di động của chị
Miến gọi cho Phương thông báo là đã nhận dạng được anh Soi và Mạnh sẽ thực hiện
một mình vì hiện Nam đã bỏ đi đâu không thông báo lại, Đồng Xuân Phương đồng ý.

 Khoảng 14 giờ 16 phút cùng ngày, Mạnh đã thuê
máy điện thoại di động của chị Miến gọi điện thoại hẹn gặp anh Soi tại khu vực
đúc dầm bê tông. Khi anh Soi đến, Mạnh đã dùng dao nhọn chuẩn bị từ trước đâm
02 nhát vào mặt sau đùi phải, làm anh Soi chết.

 Tại Bản giám định
pháp y số 146/PC21-PY ngày 17-7-2007, Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an thành
phố Hà Nội kết luận: Nạn nhân bị 02 vết thương tại mặt sau đùi phải, vết phía
trên xuyên vào cơ đùi 3cm. Vết phía dưới cắt đứt động mạch, tĩnh mạch đùi sau
gây chảy mất nhiều máu. Nguyên nhân chết: Sốc mất máu cấp không hồi phục do vết
thương động mạch.

Ngoài ra, trong quá
trình điều tra Đồng Xuân Phương còn khai: Ngoài lý do mâu thuẫn giữa bị cáo và
anh Soi, việc thuê đâm anh Soi còn có nguyên nhân do bị anh Ngô Văn Toản (là
Phó Ban điều hành dự án cầu Thanh Trì) kích động, vì trước đó anh Toản cũng có
mâu thuẫn với anh Soi. Cơ quan điều tra đã lấy lời khai của anh Toản, nhưng anh
Toản không thừa nhận việc này. Kết quả điều tra không có cơ sở kết luận anh
Toản có liên quan đến vụ án.

Đoàn Đức Lân và Hoàng
Ngọc Mạnh bỏ trốn, Cơ quan điều tra đã có quyết định truy nã và quyết định tạm
đình chỉ điều tra bị can đối với Đoàn Đức Lân và Hoàng Ngọc Mạnh, khi nào bắt
được sẽ xử lý sau.

Trong quá trình điều
tra, cán bộ và Công ty cổ phần xây dựng 204 đã tự nguyện quyên góp, trợ cấp cho
gia đình người bị hại tổng cộng 123.000.000 đồng, trong đó có chi phí mai táng
63.000.000 đồng và 03 sổ tiết kiệm cho gia đình anh Soi, với tổng số tiền gửi
là 60.000.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ
thẩm số 164/2008/HSST ngày 17-11-2008, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội áp dụng
điểm n khoản 1 Điều 93; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự; xử phạt Đồng
Xuân Phương 17 năm tù về tội “Giết người”.

Buộc Đồng Xuân Phương
bồi thường cho gia đình người bị hại tiền tổn thất tinh thần là 32.400.000 đồng
và cấp dưỡng hàng tháng cho 02 con và mẹ người bị hại.

Sau khi xét xử sơ thẩm,
bị cáo Đồng Xuân Phương kháng cáo đề nghị xem xét lại vụ án.

Đại diện hợp pháp của
người bị hại là chị Nguyễn Thị Thanh kháng cáo đề nghị tăng hình phạt, tăng mức
bồi thường đối với bị cáo.

Tại Bản án hình sự phúc
thẩm số 262/2009/HSPT ngày 05-5-2009, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại
Hà Nội căn cứ khoản 1 Điều 250 Bộ luật Tố tụng Hình sự, hủy Bản án hình sự sơ
thẩm nêu trên để điều tra lại theo thủ tục chung.

Tại Bản án hình sự sơ
thẩm số 167/2010/HSST ngày 31-3-2010, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội áp dụng
điểm n khoản 1 Điều 93; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự; xử phạt Đồng
Xuân Phương 17 năm tù về tội “Giết người”.

Buộc Đồng Xuân Phương
bồi thường các khoản gồm: Chi phí mai táng 34.583.000 đồng, tiền tổn thất tinh
thần cho vợ con người bị hại tổng số là 39.000.000 đồng và cấp dưỡng hàng tháng
cho mẹ và con người bị hại.

Sau khi xét xử sơ thẩm,
ngày 02-4-2010, Đồng Xuân Phương kháng cáo xin giảm hình phạt và đề nghị xem
xét lại vụ án vì chưa bắt được Mạnh nên không có đủ căn cứ khẳng định việc Mạnh
đâm chết anh Soi.

Ngày 13-4-2010, vợ người
bị hại là chị Nguyễn Thị Thanh kháng cáo đề nghị tăng hình phạt, tăng mức bồi
thường đối với bị cáo.

Tại Bản án hình sự phúc
thẩm số 475/2010/HSPT ngày 15-9-2010, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại
Hà Nội áp dụng các điểm m, n khoản 1 Điều 93; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật
Hình sự; xử phạt Đồng Xuân Phương tù chung thân về tội “Giết người”; buộc Đồng
Xuân Phương bồi thường tiền bù đắp tổn thất tinh thần là 43.800.000 đồng và giữ
nguyên các quyết định khác về bồi thường thiệt hại.

Tại Kháng nghị số
13/KN-HS ngày 22-7-2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hủy Bản án hình
sự phúc thẩm nêu trên về các phần: Tội danh, hình phạt và án phí hình sự phúc
thẩm đối với Đồng Xuân Phương; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân
dân tối cao tại Hà Nội để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp
luật.

Tại phiên tòa, đại diện
Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao.

Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao nhận định:

Căn cứ vào các lời khai
nhận tội của bị cáo Đồng Xuân Phương trong quá trình điều tra và tại các phiên
tòa sơ thẩm, phiên Tòa Phúc thẩm; lời khai và kết quả nhận dạng của những người
làm chứng về các đối tượng liên quan đến vụ án; Biên bản khám nghiệm hiện
trường; Bản giám định pháp y cùng các tài liệu, chứng cứ khác của vụ án; có đủ
căn cứ kết luận do mâu thuẫn trong sinh hoạt, Đồng Xuân Phương đã thuê Hoàng Ngọc
Mạnh và Đoàn Đức Lân dùng dao đâm anh Nguyễn Văn Soi, với mục đích gây thương
tích cho nạn nhân để trả thù. Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; có căn cứ
xác định về mặt chủ quan, Phương chỉ muốn gây thương tích cho anh Soi mà không
muốn tước đoạt tính mạng, cũng không muốn thuê Mạnh đâm bừa, đâm ẩu vào anh Soi
để mặc mọi hậu quả xảy ra. Vì thế, bị cáo chỉ yêu cầu tấn công vào chân, tay mà
không yêu cầu tấn công vào các phần trọng yếu của cơ thể, là những vị trí nếu
bị tấn công thì sẽ có nhiều khả năng xâm hại đến tính mạng nạn nhân. Khi thực
hiện tội phạm, Mạnh đã đâm 02 nhát đều vào đùi nạn nhân theo đúng yêu cầu của
Phương. Hành vi phạm tội của Hoàng Ngọc Mạnh khó thấy trước được hậu quả chết
người có thể xảy ra. Việc nạn nhân bị chết do sốc mất máu cấp không hồi phục là
ngoài ý muốn của Đồng Xuân Phương và đồng phạm. Hành vi của Đồng Xuân Phương
thuộc trường hợp phạm tội Cố ý gây thương tích dẫn đến chết người, quy định tại
khoản 3 Điều 104 Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã
kết án Đồng Xuân Phương về tội “Giết người” là không đúng pháp luật.

Vì các lẽ trên, căn cứ
vào khoản 3 Điều 285 và Điều 287 Bộ luật Tố tụng hình sự,

QUYẾT ĐỊNH

1. Hủy Bản án hình sự
phúc thẩm số 475/2010/HSPT ngày 15-9-2010 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối
cao tại Hà Nội về các phần: Tội danh, hình phạt và án phí hình sự phúc thẩm đối
với Đồng Xuân Phương; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối
cao tại Hà Nội để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

2. Tiếp tục tạm giam
Đồng Xuân Phương cho đến khi Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội
thụ lý lại vụ án.

3. Các quyết định khác
của Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên đã có hiệu lực pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; có căn cứ xác định về mặt
chủ quan, Phương chỉ muốn gây thương tích cho anh Soi mà không muốn tước đoạt
tính mạng, cũng không muốn thuê Mạnh đâm bừa, đâm ẩu vào anh Soi để mặc mọi hậu
quả xảy ra. Vì thế, bị cáo chỉ yêu cầu tấn công vào chân, tay mà không yêu cầu
tấn công vào các phần trọng yếu của cơ thể, là những vị trí nếu bị tấn công thì
sẽ có nhiều khả năng xâm hại đến tính mạng nạn nhân. Khi thực hiện tội phạm,
Mạnh đã đâm 02 nhát đều vào đùi nạn nhân theo đúng yêu cầu của Phương. Hành vi
phạm tội của Hoàng Ngọc Mạnh khó thấy trước được hậu quả chết người có thể xảy
ra. Việc nạn nhân bị chết do sốc mất máu cấp không hồi phục là ngoài ý muốn của
Đồng Xuân Phương và đồng phạm. Hành vi của Đồng Xuân Phương thuộc trường hợp
phạm tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người, quy định tại khoản 3 Điều 104
Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã kết án Đồng Xuân
Phương về tội “Giết người” là không đúng pháp luật.”

––––––––––––––––

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Theo quy định mới của pháp luật, việc “Xác nhận sơ yếu lý lịch” có thể thực hiện tại phòng công chứng, văn phòng công chứng hoặc UBND xã/phường mà không phụ thuộc vào nơi cư trú của người xin xác nhận. Tuy nhiên trên thực tế nhiều người không nắm được các quy định này dẫn tới khó khăn trong việc xin xác nhận tại sơ yếu lý lịch.

Quy định về chứng thực chữ ký

Chứng thực chữ ký là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định này chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản là chữ ký của người yêu cầu chứng thực. Theo quy định tại điểm b khoản 4 điều 24 của nghị định 23/2015/NĐ-CP thì việc khai sơ yếu lý lịch chỉ cần chứng thực chữ ký.

Điều 24. Thủ tục chứng thực chữ ký
4. Thủ tục chứng thực chữ ký quy định tại Khoản 1, 2 và 3 Điều này cũng được áp dụng đối với các trường hợp sau đây:
b) Chứng thực chữ ký của người khai lý lịch cá nhân;

Ngoài ra, tại Điều 15 Thông tư 01/2020/TT-BTP cũng quy định:

Điều 15. Chứng thực chữ ký trong tờ khai lý lịch cá nhân
1. Các quy định về chứng thực chữ ký tại Mục 3 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP được áp dụng để chứng thực chữ ký trên tờ khai lý lịch cá nhân. Người thực hiện chứng thực không ghi bất kỳ nhận xét gì vào tờ khai lý lịch cá nhân, chỉ ghi lời chứng chứng thực theo mẫu quy định tại Nghị định số 23/2015/NĐ-CP. Trường hợp pháp luật chuyên ngành có quy định khác về việc ghi nhận xét trên tờ khai lý lịch cá nhân thì tuân theo pháp luật chuyên ngành.
2. Người yêu cầu chứng thực phải chịu trách nhiệm về toàn bộ nội dung trong tờ khai lý lịch cá nhân của mình. Đối với những mục không có nội dung trong tờ khai lý lịch cá nhân thì phải gạch chéo trước khi yêu cầu chứng thực.

Thẩm quyền chứng thực chữ ký

Theo quy định tại điều 5 nghị định 23/2015/NĐ-CP quy định về thẩm quyền chứng thực chữ ký quy định:

Điều 5. Thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực
1. Phòng Tư pháp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Phòng Tư pháp) có thẩm quyền và trách nhiệm:

b) Chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản;
2. Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) có thẩm quyền và trách nhiệm:
b) Chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản, trừ việc chứng thực chữ ký người dịch;
3. Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan đại diện lãnh sự và Cơ quan khác được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài (sau đây gọi chung là Cơ quan đại diện) có thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực các việc quy định tại các Điểm a, b và c Khoản 1 Điều này. Viên chức ngoại giao, viên chức lãnh sự ký chứng thực và đóng dấu của Cơ quan đại diện.
5. Việc chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký, chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản là động sản, chứng thực di chúc quy định tại Điều này không phụ thuộc vào nơi cư trú của người yêu cầu chứng thực.
4. Công chứng viên có thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực các việc quy định tại Điểm a Khoản 1, Điểm b Khoản 2 Điều này, ký chứng thực và đóng dấu của Phòng công chứng, Văn phòng công chứng (sau đây gọi chung là tổ chức hành nghề công chứng).

Như vậy, việc chứng thực chữ ký trong sơ yếu lý lịch có thể thực hiện tại UBND xã, huyện; cơ quan đại diện ngoại giao; văn phòng công chứng

Các công văn hướng dẫn về việc xác nhận sơ yếu lý lịch

Công văn số 1520/HTQTCT-CT ngày 20/03/2014

Theo công văn Công văn số 1520/HTQTCT-CT ngày 20/03/2014 của Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (UBND cấp xã) thực hiện chứng thực chữ ký của người khai Sơ yếu lý lịch, người khai phải tự chịu trách nhiệm về nội dung đã khai trong lý lịch.

Hiện nay, yêu cầu xác nhận Sơ yếu lý lịch của người dân là rất lớn. Tuy nhiên, do chưa có văn bản hướng dẫn về việc xác nhận nên Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện không thống nhất, có nơi xác nhận đăng ký thường trú, có nơi xác nhận chữ ký của người khai lý lịch, cũng có nơi chỉ đóng dấu của Ủy ban nhân dân mà không có nội dung xác nhận…
Đặc biệt, Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực còn nhận được phản ánh của báo chí và một số địa phương về việc một số Ủy ban nhân dân cấp xã đã xác nhận vào Sơ yếu lý lịch của công dân với nội dung “không chấp hành pháp luật, chủ trương của Nhà nước” do những hộ gia đình này không nộp đầy đủ các khoản thu của địa phương. Nội dung xác nhận này đã làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, gây bất lợi cho công dân khi sử dụng Sơ yếu lý lịch.
Để tháo gỡ vướng mắc nêu trên, nhằm đáp ứng yêu cầu của người dân, trong thời gian chưa ban hành Luật Chứng thực, Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực đề nghị các Sở Tư pháp chỉ đạo Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn trên địa bàn chỉ thực hiện chứng thực chữ ký của người khai Sơ yếu lý lịch; người khai phải tự chịu trách nhiệm về nội dung đã khai trong lý lịch. Trong trường hợp người thực hiện chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã biết rõ về nhân thân của người khai sơ yếu lý lịch và yên tâm, tin tưởng vào nội dung đã khai trong Sơ yếu lý lịch của người đó, thì xác nhận nội dung Sơ yếu lý lịch là đúng. Đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã không ghi nội dung về việc chấp hành pháp luật, chủ trương, chính sách của Nhà nước, địa phương vào Sơ yếu lý lịch của công dân./.

Hướng dẫn bởi Mục 1 Công văn 1352/HTQTCT-CT năm 2015

Để thống nhất triển khai thực hiện Nghị định số 23/2015/NĐ-CP, Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực đề nghị Sở Tư pháp quán triệt đối với các cơ quan, tổ chức thực hiện chứng thực, một số điểm mới so với các quy định hiện hành như sau:
1. Về thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực (Điều 5):
1.2. Thẩm quyền chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản:
Phòng Tư pháp và UBND cấp xã có thẩm quyền chứng thực như nhau, không phân biệt ngôn ngữ của giấy tờ văn bản (điểm b khoản 1, điểm b khoản 2).

Công văn số 873/HTQHCT-CT ngày 25/8/2017

Thêm vào đó, Công văn số 873/HTQHCT-CT ngày 25/8/2017 về chứng thực Sơ yếu lý lịch, Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực nhấn mạnh:

Ngày 16/02/2015, Chính phủ ban hành Nghị định số 23/2015/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch (sau đây gọi là Nghị định số 23/2015/NĐ-CP). Sau hơn 02 năm triển khai thi hành Nghị định số 23/2015/NĐ-CP, hoạt động chứng thực đã dần đi vào nền nếp, góp phần giải quyết nhu cầu chứng thực của cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, qua theo dõi công tác về chứng thực và phản ánh của báo chí thời gian gần đây cho thấy, việc chứng thực chữ ký trong Sơ yếu lý lịch của công dân được thực hiện không đúng quy định của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, gây bất lợi cho công dân khi sử dụng Sơ yếu lý lịch.
Để thực hiện tốt Nghị định số 23/2015/NĐ-CP và chấn chỉnh tình trạng nêu trên, Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực đề nghị Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tiếp tục phổ biến, quán triệt và chỉ đạo đến tất cả các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền chứng thực trên địa bàn (gồm Ủy ban nhân dân cấp xã, Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, các tổ chức hành nghề công chứng) tuyệt đối không phê nội dung nhận xét về việc chấp hành chủ trương, pháp luật, chính sách, quy định… của Đảng, Nhà nước, địa phương vào Sơ yếu lý lịch của công dân; chỉ thực hiện chứng thực chữ ký của người yêu cầu trên Sơ yếu lý lịch theo đúng quy định tại Mục 3, từ Điều 23 đến Điều 26 của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP. Trường hợp cơ quan, tổ chức vi phạm quy định của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP trong việc chứng thực chữ ký trên Sơ yếu lý lịch của công dân, đề nghị Sở Tư pháp kịp thời báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật./.

Xin xác nhận sơ yếu lý lịch tại UBND xã, phường nơi thường trú: Người khai mang giấy tờ cá nhân và sơ yếu lý lịch đến UBND để xác nhận

Xác nhận SYLL tại UBND xã, phòng tư pháp nơi không thường trú: Vì là chứng thực chữ ký nên các UBND hoặc phòng tư pháp đều có chức năng này mà không nhất thiết phải là nơi thường trú của người khai

Xác nhận sơ yếu lý lịch tại văn phòng công chứng: Ngoài chứng năng công chứng, các phòng công chứng cũng có chức năng chứng thực chữ ký nên có thể khai sơ yếu lý lịch và xác nhận tại bất cứ phòng công chứng nào trên toàn quốc

Những lưu ý khi yêu cầu chứng thực sơ yếu lý lịch

  1. Mang theo Chứng minh nhân dân/Căn cước công dân/Hộ chiếu bản gốc.
  2. Không được ký trước vào Sơ yếu lý lịch (Theo quy định của pháp luật thì người yêu cầu chứng thực sơ yếu lý lịch phải ký trước mặt công chứng viên của Văn phòng công chứng).
  3. Người thực hiện chứng thực không ghi bất kỳ nhận xét gì vào tờ khai lý lịch cá nhân, chỉ ghi lời chứng chứng thực theo mẫu.
  4. Đối với những mục không có nội dung trong tờ khai lý lịch cá nhân thì phải gạch chéo trước khi yêu cầu chứng thực.
  5. Người yêu cầu chứng thực phải chịu trách nhiệm về toàn bộ nội dung trong tờ khai lý lịch cá nhân của mình.
  6. Người thực hiện chứng thực chịu trách nhiệm về tính xác thực về chữ ký của người yêu cầu chứng thực trong giấy tờ, văn bản (Điều này có nghĩa người thực hiện chứng thực chỉ chứng nhận chữ ký trên Sơ yếu lý lịch là của người yêu cầu chứng thực, còn không chịu trách nhiệm về nội dung trên Sơ yếu lý lịch).

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Trường hợp có 2 sổ bảo hiểm xã hội thì xử lý như thế nào? Cách giải quyết khi có hai sổ bảo hiểm xã hội? Có thể gộp sổ bảo hiểm xã hội khi làm cho hai công ty không?

Trả lời

– Tại Khoản 4, Điều 46 Quy trình thu BHXH, BHYT, BH thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; quản lý sổ BHXH, thẻ BHYT ban hành kèm theo Quyết định số 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam quy định: 

Một người có từ 2 sổ BHXH trở lên ghi thời gian đóng BHXH không trùng nhau thì cơ quan BHXH thu hồi tất cả các sổ BHXH, hoàn chỉnh lại cơ sở dữ liệu, in thời gian đóng, hưởng BHXH, BH thất nghiệp của các sổ BHXH vào sổ mới. 

Như vậy, về nguyên tắc mỗi người lao động chỉ có duy nhất 01 sổ BHXHNgười lao động có từ 2 sổ BHXH trở lên cần phải làm thủ tục gộp sổ thành 1 số BHXH duy nhất để cơ quan BHXH quản lý thuận tiện ghi nhận quá trình đóng, hưởng BHXH.

Các trường hợp gộp sổ bảo hiểm xã hội

1. Trường hợp các sổ bảo hiểm có thời gian đóng trùng nhau

Theo quy định tại Điểm 2.5 Khoản 2 Điều 2 Quyết định 595/QĐ-BHXH năm 2017 quy định:

Hoàn trả: là việc cơ quan BHXH chuyển trả lại số tiền được xác định không phải tiền đóng BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ, BNN hoặc đóng thừa khi ngừng giao dịch với cơ quan BHXH; đóng trùng cho cơ quan, đơn vị, cá nhân đã nộp cho cơ quan BHXH.

Đồng thời, Tiết e Điểm 3.1 Khoản 3 Điều 43 Quyết định 595 được sửa đổi bởi Khoản 67 Điều 1 Quyết định 505/QĐ-BHXH năm 2020 quy định:

Trường hợp một người có từ 02 sổ BHXH trở lên có thời gian đóng BHXH, BHTN trùng nhau thì cơ quan BHXH thực hiện hoàn trả cho người lao động số tiền đơn vị và người lao động đã đóng vào quỹ hưu trí, tử tuất và số tiền đã đóng vào quỹ BHTN (bao gồm cả số tiền thuộc trách nhiệm đóng BHXH, BHTN của người sử dụng lao động), không bao gồm tiền lãi. Cơ quan BHXH quản lý nơi người lao động đang làm việc hoặc đang sinh sống thực hiện hoàn trả cho người lao động theo quy định tại Khoản 2 Điều 46.

Theo đó, nếu người lao động có từ 02 sổ BHXH trở lên mà có thời gian đóng BHXH, BHTN trùng nhau thì cơ quan BHXH hoàn trả cho người lao động số tiền đơn vị và người lao động đã đóng vào quỹ hưu trí, tử tuất và số tiền đã đóng vào quỹ BHTN (bao gồm cả số tiền thuộc trách nhiệm đóng BHXH, BHTN của người sử dụng lao động), không bao gồm tiền lãi.

2. Trường hợp sổ bảo hiểm có thời gian đóng không trùng nhau

Theo Khoản 72 Điều 1 Quyết định 505/QĐ-BHXH năm 2020 có quy định:

2. Gộp sổ BHXH và hoàn trả
Trường hợp một người có từ 2 sổ BHXH trở lên đề nghị gộp sổ BHXH, cán bộ Phòng/Tổ cấp sổ, thẻ thực hiện kiểm tra, đối chiếu nội dung đã ghi trên các sổ BHXH và cơ sở dữ liệu; lập Danh sách đề nghị gộp sổ BHXH (Mẫu C18-TS) chuyển cán bộ Phòng/Tổ quản lý thu thực hiện:
+ Trường hợp thời gian đóng BHXH trên các sổ BHXH không trùng nhau: Thực hiện gộp quá trình đóng BHXH của các sổ BHXH trên cơ sở dữ liệu; hủy mã số sổ BHXH đã gộp.
+ Trường hợp thời gian đóng BHXH trên các sổ BHXH trùng nhau: lập Quyết định hoàn trả (Mẫu C16-TS) để hoàn trả cho người lao động theo quy định tại Điểm 2.3 Khoản 2 Điều 43.

Trường hợp này sẽ tổng hợp quá trình đóng bảo hiểm thành sổ mới và hủy mã số sổ BHXH đã gộp

Thủ tục gộp sổ bảo hiểm xã hội

Bước 1: Trước khi làm thủ tục gộp hồ sơ BHXH, người lao động cần kiểm tra thông tin cá nhân của người tham gia (họ tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, dân tộc, quốc tịch) trên các sổ BHXH để tránh trường hợp có sai sót. Trường hợp nếu thông tin trên hai sổ bảo hiểm xã hội khác nhau phải điều chỉnh cho khớp trước khi thực hiện gộp sổ

Bước 2: Chuẩn bị hồ sơ gộp sổ BHXH theo Điều 27 Quyết định 595/QĐ-BHXH quy định hồ sơ làm thủ tục gộp sổ bảo hiểm xã hội bao gồm:
– Mẫu TK1-TS: Tờ khai tham gia, điều chỉnh thông tin bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế;
– Sổ BHXH (tất cả các sổ mà người lao động có);

Làm thủ tục gộp sổ BHXH ở đâu? Gộp sổ bảo hiểm xã hội bằng cách nộp cho đơn vị nơi đang làm việc hoặc nộp trực tiếp cho cơ quan BHXH quận/huyện nơi người lao động tham gia bảo hiểm để được xem xét, giải quyết.

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Trong một số trường hợp người đại diện theo pháp luật của công ty thay đổi chữ ký của chính mình. Người đại diện theo pháp luật ở đây thường là giám đốc hoặc tổng giám đốc của công ty, đối với các trường hợp này theo quy định của pháp luật cần thực hiện các thủ tục nào?

Khác với việc thay đổi đại diện theo pháp luật của công ty, việc thay đổi chữ ký của đại diện theo pháp luật không cần phải làm thủ tục tại phòng đăng ký kinh doanh – Sở KHĐT nơi doanh nghiệp đặt trụ sở, tuy nhiên theo quy định tại thông tư 200/2014/TT-BTC quy định việc mở sổ đăng ký mẫu chữ ký (trong đó có chữ ký của đại diện theo pháp luật)

Điều 118. Lập và ký chứng từ kế toán
7. Các doanh nghiệp phải mở sổ đăng ký mẫu chữ ký của thủ quỹ, thủ kho, các nhân viên kế toán, kế toán trưởng (và người được uỷ quyền), Tổng Giám đốc (và người được uỷ quyền). Sổ đăng ký mẫu chữ ký phải đánh số trang, đóng dấu giáp lai do Thủ trưởng đơn vị (hoặc người được uỷ quyền) quản lý để tiện kiểm tra khi cần. Mỗi người phải ký ba chữ ký mẫu trong sổ đăng ký.

Do vậy, đối với việc thay đổi chữ ký của đại diện theo pháp luật doanh nghiệp không cần thông báo tới các cơ quan nhà nước nhưng cần thực hiện việc mở sổ đăng ký chữ ký mẫu và lưu giữ tại doanh nghiệp trong các trường hợp các cơ quan về thuế kiểm tra đột xuất. Doanh nghiệp có thể tham khảo mẫu sổ đăng ký mẫu chữ ký dưới đây

CÔNG TY TNHHABC
————-
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
———————-
Số: 01/20../SĐK-ABC Hà Nội, ngày … tháng … năm 20..

SỔ ĐĂNG KÝ MẪU CHỮ KÝ

STT Họ và tên Chức danh Chữ ký 1 Chữ ký 2 Chữ ký 3
1 Nguyễn Văn A Tổng giám đốc      
2 Nguyễn Thị B Kế toán toán trưởng      
3   Kế toán      
4   Thủ quỹ      
5   Thủ kho      

Mức phạt khi không lập sổ đăng ký mẫu chữ ký theo điều 8 nghị định 41/2018/NĐ-CP như sau:

Điều 8. Xử phạt hành vi vi phạm quy định về chứng từ kế toán
2. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Lập chứng từ kế toán không đủ số liên theo quy định của mỗi loại chứng từ kế toán;
b) Ký chứng từ kế toán khi chưa ghi đủ nội dung chứng từ thuộc trách nhiệm của người ký;
c) Ký chứng từ kế toán mà không đúng thẩm quyền;
d) Chữ ký của một người không thống nhất hoặc không đúng với sổ đăng ký mẫu chữ ký;
đ) Chứng từ kế toán không có đủ chữ ký theo chức danh quy định trên chứng từ;
e) Không dịch chứng từ kế toán bằng tiếng nước ngoài ra tiếng Việt theo quy định;
g) Để hư hỏng, mất mát tài liệu, chứng từ kế toán đang trong quá trình sử dụng.

Các công việc cần làm khi thay đổi mẫu chữ ký của đại diện theo pháp luật

  • Bước 1: Thay đổi mẫu chữ ký tại Ngân hàng mà doanh nghiệp đăng ký tài khoản (nếu doanh nghiệp có đăng ký tài khoản ngân hàng) để có thể thực hiện các thủ tục rút tiền tại ngân hàng
  • Bước 2: Mở sổ đăng ký mẫu chữ ký (nếu chưa có) hoặc cập nhật lại sổ đăng ký mẫu chữ ký (nếu đã có sổ đăng ký mẫu chữ ký).

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Di chúc là gì? Quy định pháp luật về di chúc? Di chúc dùng để làm gì? Các lại di chúc và cách lập di chúc

Di chúc là gì?

Di chúc là một khái niệm được quy định tại điều 624 bộ luật dân sự 2015 như sau

Điều 624. Di chúc
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.

Theo đó, một người trước khi chết có thể để lại tài sản cho người khác bằng cách lập di chúc. Theo quan điểm của một số nhà khoa học nghiên cứu về pháp luật thời kỳ La Mã: Di chúc là việc định đoạt tài sản của con người trong trường hợp lúc qua đời với nội dung có sự chỉ định rõ người thừa kế. Như vậy ở thời kỳ La Mã, di chúc đã được ghi nhận là việc định đoạt tài sản của con người. trong đó ý chí của chính người để lại di sản về việc chuyển tài sản của mình cho ai (người thừa kế) phải được ghi vào phần đầu của di chúc. Điều này cho thấy, pháp luật thực định tại Việt Nam khi quy định về di chúc cũng phản ánh sự tiếp thu pháp luật thời kỳ La Mã.

Quan điểm lập pháp ở Việt Nam qua các thời kỳ đề cho rằng, di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Khái niệm về di chúc được giữ nguyên từ lần ghi nhận đầu tiên tại BLDS năm 1995 cho đến hiện tại. Mặc dù việc sử dụng từ ngữ có thể khác nhau nhưng đều xác định di chúc là mong muốn, là ý chí dịch chuyển di sản của người trước khi chết cho người còn sống sau khi họ chết.

Đặc điểm của di chúc

Với quan niệm trên, di chúc mang những đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, di chúc là phương tiện truyền đạt thông tin. Thông qua bản di chúc, có một lượng thông tin được cung cấp nhưng người hưởng di sản, số di sản…

Thứ hai, việc lập di chúc là giao dịch đơn phương. Việc lập di chúc là giao dịch đơn phương vì những lý do sau: (1) Di chúc là sự thể hiện ý chí của một cá nhân nhằm làm phát sinh hậu quả pháp lý; (2) người thừa kế (một bên chủ thể trong quan hệ thừa kế) chỉ có thể thể hiện ý chí của mình sau khi người lập di chúc chết; (3) cá nhân lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc bất cứ khi nào. Những đặc trưng này cho thấy, việc lập di chúc khác về bản chất so với khế ước (hợp đồng – giao dịch nhiều bên).

Thứ ba, nội dung di chúc thể hiện mục đích dịch chuyển di sản của người chết cho người còn sống. Ý chỉ của cá nhân khi lập di chúc sẽ không thể được pháp luật điều chỉnh nếu không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các chủ thể khác. Do đó, nội dung của di chúc cần phải đảm bảo sự dịch chuyển tài sản và hệ quả pháp sinh quyền sở hữu đối với chủ thể nào đó.

Thứ tư, di chúc là loại giao dịch chỉ pháp sinh hiệu lực khi người lập di chúc chết. Di chúc là phương tiện phản ánh ý chí, mong muốn định đoạt di sản của cá nhân sau khi chết. Di chúc phản ánh quá trình hình thành chế định thừa kế theo di chúc. Quan hệ về thừa kế chỉ phát sinh khi có sự kiện một người chết nên việc lập di chúc chỉ có thể phát sinh hiệu lực khi người lập chết.

Thứ năm, di chúc là loại giao dịch có nhiều nét đặc thù. Như trên đã phân tích, việc lập du chúc là loại giao dịch chỉ phát sinh hiệu lực khi người lập di chúc chết. Do đó, có thể khẳng định những nét đặc thù của việc lập di chúc đều xuất phát từ căn nguyên này. Một vài nét đặc thù có thể kể đến như: (1) Điều kiện về người lập di chúc yêu cầu khắc khe hơn so với các loại giao dịch khác; (2) Tính tự nguyện trong di chúc cũng được loại bỏ yếu tố nhầm lẫn; (3) Di chúc trọng hình thức hơn so vói các giao dịch thông thường.

Điều kiện hợp pháp của di chúc

Di chúc được chia làm 2 loại chính là:
– Di chúc bằng văn bản (có/không người làm chứng/công chứng) có thể đánh máy hoặc viết tay (xác nhận chữ ký và điềm chỉ)
– Di chúc miệng (chỉ lập khi không thể lập được di chúc bằng văn bản, huỷ bỏ nếu sau 3 tháng người lập vẫn minh mẫn, sáng suốt)
Di chúc hợp pháp phải đáp ứng các điều kiện theo quy định tại điều 630, 631 của bộ luật dân sự 2015 như sau:

Điều 631. Nội dung của di chúc
1. Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau:
a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;
b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
d) Di sản để lại và nơi có di sản.
2. Ngoài các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này, di chúc có thể có các nội dung khác.
3. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.
Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.
Điều 632. Người làm chứng cho việc lập di chúc
Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

Hiệu lực của di chúc

Hiệu lực của di chúc hiệu lực khi người để lại di chúc chết (thời điểm mở thừa kế). Tuy nhiên, di chúc sẽ hết hiệu lực ngay sau khi người để lại di chúc có bản di chúc mới

Điều 643. Hiệu lực của di chúc
1. Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế.
2. Di chúc không có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong trường hợp sau đây:
a) Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;
b) Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực.
3. Di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.
4. Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực.
5. Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực.
Điều 611. Thời điểm, địa điểm mở thừa kế
1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này.
2. Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ di sản hoặc nơi có phần lớn di sản.

Lưu ý: Theo quy định về hạn chế phân chia di sản tại điều 661 bộ luật dân sự 2015 quy định về việc hạn chế phân chia di sản người lập di chúc có thể chỉ định để phân chia tài sản sau thời hạn nhất định, không nhất thiết phải là khi người để lại di sản chết đi.

Điều 661. Hạn chế phân chia di sản
Trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem chia.
Trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định. Thời hạn này không quá 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn 03 năm mà bên còn sống chứng minh được việc chia di sản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của gia đình họ thì có quyền yêu cầu Tòa án gia hạn một lần nhưng không quá 03 năm.

Mẫu di chúc tham khảo

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
—–—–
DI CHÚC

Hôm nay, ngày …. Tháng….năm 20…, tại …

Tôi tên là:   Nguyễn Thị A
Sinh năm:  18/08/1958
Hộ khẩu thường trú:
Trong trạng thái tinh thần minh mẫn, sáng suốt, tôi quyết định lập bản di chúc này để định đoạt tài sản của tôi. Nội dung Di chúc như sau:

Tài sản để lại:
Quyền sử dụng 158m2  đất, trên đất có 4 gian nhà cấp 4, thuộc thửa đất số 01,  tờ bản đồ số 23; địa chỉ thửa đất: Thôn A, Thị trấn Như Quỳnh, Huyện Văn Lâm, Tỉnh Hưng Yên
– Hướng Đông giáp nhà ông Nguyễn Văn A: dài 17.5m;
– Hướng Tây giáp nhà ông Nguyễn Văn B: dài 19m;
– Hướng Nam giáp nhà bà Nguyễn Thị C: dài 6,9 m;
– Hướng Bắc giáp đường tỉnh lộ:  dài 7,8 m;
Quyền sử dụng đất trên là tài sản của riêng tôi.

Bằng bản di chúc này, tôi định đoạt toàn bộ quyền sử dụng đất và tài sản trên đất nêu trên cho con trai tôi là: Nguyễn Văn D (sinh năm 1979, số CMTND:1245678900  cấp ngày 30 tháng 11 năm 2013 tại Hà Nội).
Sau khi tôi qua đời, tôi mong muốn các con, các cháu thương yêu đùm bọc nhau, tuyệt đối tôn trọng ý chí của tôi thể hiện trong bản Di chúc này, tuyệt đối không được tranh chấp, khiếu kiện gì.
Để đảm bảo rõ ràng, khách quan, tự nguyện, không bị ai đe dọa, lừa dối hay ép buộc trong việc lập Di chúc; tôi có nhờ những người làm chứng sau:

1. Bà Nguyễn Thị H – Là em gái ruột của tôi
Hộ khẩu thường trú: Thôn A, Thị trấn Như Quỳnh, Huyện Văn Lâm, Tỉnh Hưng Yên

2. Bà Lương Thị F – là cháu dâu gọi tôi là bác
Hộ khẩu thường trú: Thôn A, Thị trấn Như Quỳnh, Huyện Văn Lâm, Tỉnh Hưng Yên

Người làm chứng nêu trên là do tôi tự lựa chọn và mời đến, họ không thuộc những người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của tôi, không phải là người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan đến nội dung Di chúc và có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.

Bản Di chúc này gồm 02 (hai) trang; được lập thành 01 bản, Giao cho con trai tôi là Nguyễn Văn D, có trách nhiệm bảo quản và công bố Di chúc khi tôi qua đời;

Người làm chứng Người lập di chúc
(Ký, ghi họ tên) (Ký, ghi họ tên)

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Giấy chứng nhận đăng ký mẫu dấu là một giấy tờ quan trọng của tổ chức, tuy nhiên vì nhiều lý do khác nhau như bị mất, bị cháy, do công tác văn thư lưu trữ mà doanh nghiệp làm thất lạc giấy chứng nhận đăng ký mẫu dấu của mình. Với các trường hợp mất đăng ký mẫu dấu với doanh nghiệp trong nước hiện tại chỉ cần liên hệ khắc dấu mới. Trường hợp cấp lại đăng ký mẫu dấu chỉ áp dụng cho những trường hợp vẫn sử dụng mẫu dấu của công an như: văn phòng đại diện công ty nước ngoài, công ty luật, các văn phòng luật sư và các tổ chức khác sử dụng dấu do cơ quan công an cấp

Căn cứ pháp lý của thủ tục xin cấp lại đăng ký mẫu dấu

1. Nghị định 99/2016/NĐ-CP về quản lý và sử dụng con dấu
2. Nghị định số 144/2021/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội; phòng chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình.

Thủ tục xin cấp lại đăng ký mẫu dấu

Bước 1: Nộp hồ sơ thông báo mất đăng ký mẫu dấu tại phòng cảnh sát quản lý hành chính và trật tự xã hội PC 64 thuộc công an tỉnh thành phố. Tại đây cán bộ tiếp nhận sẽ lập biên bản về hành vi làm mất mẫu con dấu này
Bước 2: Sau 7 ngày nhận quyết định phạt tại phòng PC64 và thực hiện nộp phạt vào kho bạc của cơ quan nhà nước gần nhất
Bước 3: Photo biên lai nộp phạt gửi lại cơ quan công an và nhận giấy giới thiệu khắc dấu tại đơn vị khắc dấu có thẩm quyền
Bước 4: Đơn vị khắc dấu gửi dấu cho công an và cấp lại mẫu dấu và con dấu mới

Phí khi cấp lại đăng ký mẫu dấu

  • Mức phạt mất đăng ký mẫu dấu là 1.500.000 VNĐ đối với tổ chức
  • Cấp Giấy chứng nhận đăng ký mẫu dấu: 50.000 đồng (năm mươi nghìn đồng).

Dịch vụ xin cấp lại đăng ký mẫu dấu

Trong trường hợp khách hàng không nắm rõ các quy trình để xin cấp lại đăng ký mẫu dấu có thể liên hệ LVNLAW để cung cấp dịch vụ cấp lại đăng ký mẫu dấu. Chúng tôi sẽ giải quyết cho khách hàng một cách nhanh chóng và đúng quy định. Thay mặt khách hàng làm việc với cơ quan công an PC64 và nộp phạt tại kho bạc nhà nước. Thời gian thực hiện thủ tục 10 ngày làm việc (Không tính thứ 7, chủ nhật và ngày lễ)

Hỏi đáp về việc cấp lại đăng ký mẫu dấu bị mất

1. Cấp lại đăng ký mẫu dấu cho VPĐD thương nhân nước ngoài

Đối với VPĐD của thương nhân nước ngoài sử dụng dấu do cơ quan công an quản lý nên khi mất đăng ký mẫu dấu phải làm thủ tục đổi lại con dấu như trong bài viết và sẽ được cấp đăng ký mẫu dấu mới

2. Mức phạt khi làm mất đăng ký mẫu dấu là bao nhiêu tiền

Theo quy định tại điều 4 và điều 12 của nghị định 144/2021/NĐ-CP mức phạt khi làm mất đăng ký mẫu dấu là 1.500.000 VNĐ
Điều 4. Quy định về mức phạt tiền tối đa, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính
2. Mức phạt tiền quy định tại Chương II Nghị định này là mức phạt được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính của cá nhân. Đối với tổ chức có cùng hành vi vi phạm, mức phạt tiền gấp 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
Điều 13. Vi phạm các quy định về quản lý và sử dụng con dấu
Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Không thực hiện thủ tục cấp lại khi Giấy chứng nhận đăng ký mẫu con dấu bị mất;

3. Doanh nghiệp bị mất đăng ký mẫu dấu phải làm gì?

Trước đấy theo luật doanh nghiệp 2014 dấu của doanh nghiệp được công bố tại cổng thông tin quốc gia. Tuy nhiên, hiện nay theo luật doanh nghiệp 2020 doanh nghiệp tự chủ về con dấu mà không cần thông báo trước khi sử dụng. Do vậy, khi mất đăng ký mẫu dấu doanh nghiệp chỉ cần liên hệ các đơn vị khắc dấu để khắc lại và sử dụng một cách bình thường

4. Doanh nghiệp bị mất đăng ký mẫu dấu do công an cấp có bị phạt không?

Theo quy định hiện nay, các doanh nghiệp sử dụng dấu do cơ quan công an cấp đã bị mất đăng ký mẫu dấu sẽ không bị phạt (do không có quy định)

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Hai khái niệm sử dụng hóa đơn bất hợp phápsử dụng bất hợp pháp hóa đơn là hai khái niệm nghe có vẻ tương tự nhau, dễ gây nhầm lẫn. Nhưng về bản chất thì lại khác nhau hoàn toàn và vấn đề xử phạt liên quan đến hai hành vi này cũng khác nhau.

Hoá đơn bất hợp pháp là gì?

Hóa đơn hơp pháp là hóa đơn do Bộ Tài Chính phát hành và được tổ chức, cá nhân mua trực tiếp tại cơ quan thuế; hóa đơn do doanh nghiệp tự đặt in và có thông báo phát hành theo đúng quy định và hóa đơn do doanh nghiệp tự đặt in (trường hợp doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của pháp luật). Theo quy định về hoá đơn bất hợp pháp tại nghị định 125/2020/NĐ-CP giải thích về chứng từ không hợp pháp như sau:

Điều 4. Hành vi sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp; sử dụng không hợp pháp hóa đơn, chứng từ
1. Sử dụng hóa đơn, chứng từ trong các trường hợp sau đây là hành vi sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp:
a) Hóa đơn, chứng từ giả;
b) Hóa đơn, chứng từ chưa có giá trị sử dụng, hết giá trị sử dụng;
c) Hóa đơn bị ngừng sử dụng trong thời gian bị cưỡng chế bằng biện pháp ngừng sử dụng hóa đơn, trừ trường hợp được phép sử dụng theo thông báo của cơ quan thuế;
d) Hóa đơn điện tử không đăng ký sử dụng với cơ quan thuế;
đ) Hóa đơn điện tử chưa có mã của cơ quan thuế đối với trường hợp sử dụng hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế;
e) Hóa đơn mua hàng hóa, dịch vụ có ngày lập trên hóa đơn từ ngày cơ quan thuế xác định bên bán không hoạt động tại địa chỉ kinh doanh đã đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
g) Hóa đơn, chứng từ mua hàng hóa, dịch vụ có ngày lập trên hóa đơn, chứng từ trước ngày xác định bên lập hóa đơn, chứng từ không hoạt động tại địa chỉ kinh doanh đã đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chưa có thông báo của cơ quan thuế về việc bên lập hóa đơn, chứng từ không hoạt động tại địa chỉ kinh doanh đã đăng ký với cơ quan có thẩm quyền nhưng cơ quan thuế hoặc cơ quan công an hoặc các cơ quan chức năng khác đã có kết luận đó là hóa đơn, chứng từ không hợp pháp.

Sử dụng bất hợp pháp hoá đơn là gì?

Hóa đơn được lập với mục đích chủ yếu là phản ánh chính xác, đầy đủ các nghiệp vụ mua bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ làm cơ sở cung cấp thông tin về tình hình kinh doanh, làm cơ sở xác định nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Tuy nhiên trong một số trường hợp doanh nghiệp vẫn sử dụng hóa đơn với những mục đích bất hợp pháp như lập hóa đơn khác với số liệu thực tế phát sinh, lập hóa đơn với nội dung không có thật, hoạc sử dụng hóa đơn của tổ chức kinh tế khác vì mục đích gian lận, trốn thuế hoạc hóa đơn với nội dung trên các liên không đồng đều. Theo khái niệm tại điều 4 nghị định 125/2020/NĐ-CP quy định cụ thể

Điều 4. Hành vi sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp; sử dụng không hợp pháp hóa đơn, chứng từ
2. Sử dụng hóa đơn, chứng từ trong các trường hợp sau đây là hành vi sử dụng không hợp pháp hóa đơn, chứng từ:
a) Hóa đơn, chứng từ không ghi đầy đủ các nội dung bắt buộc theo quy định; hóa đơn tẩy xóa, sửa chữa không đúng quy định;
b) Hóa đơn, chứng từ khống (hóa đơn, chứng từ đã ghi các chỉ tiêu, nội dung nghiệp vụ kinh tế nhưng việc mua bán hàng hóa, dịch vụ không có thật một phần hoặc toàn bộ); hóa đơn phản ánh không đúng giá trị thực tế phát sinh hoặc lập hóa đơn khống, lập hóa đơn giả;
c) Hóa đơn có sự chênh lệch về giá trị hàng hóa, dịch vụ hoặc sai lệch các tiêu thức bắt buộc giữa các liên của hóa đơn;
d) Hóa đơn để quay vòng khi vận chuyển hàng hóa trong khâu lưu thông hoặc dùng hóa đơn của hàng hóa, dịch vụ này để chứng minh cho hàng hóa, dịch vụ khác;
đ) Hóa đơn, chứng từ của tổ chức, cá nhân khác (trừ hóa đơn của cơ quan thuế và trường hợp được ủy nhiệm lập hóa đơn) để hợp thức hóa hàng hóa, dịch vụ mua vào hoặc hàng hóa, dịch vụ bán ra;
e) Hóa đơn, chứng từ mà cơ quan thuế hoặc cơ quan công an hoặc các cơ quan chức năng khác đã kết luận là sử dụng không hợp pháp hóa đơn, chứng từ.

Như vậy: Sử dụng hóa đơn bất hợp pháp là việc doanh nghiệp sử dụng hóa đơn chưa có hoặc hết giá trị sử dụng, hóa đơn giả. Sử dụng bất hợp pháp hóa đơn là việc doanh nghiệp sử dụng hóa đơn với những mục đích mà pháp luật không cho phép.

Mức phạt: Theo quy định tại nghị định 125/2020/NĐ-CP

Điều 16. Xử phạt hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn
1. Phạt 20% số tiền thuế khai thiếu hoặc số tiền thuế đã được miễn, giảm, hoàn cao hơn so với quy định đối với một trong các hành vi sau đây:
đ) Sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp để hạch toán giá trị hàng hóa, dịch vụ mua vào làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được hoàn, số tiền thuế được miễn, giảm nhưng khi cơ quan thuế thanh tra, kiểm tra phát hiện, người mua chứng minh được lỗi vi phạm sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp thuộc về bên bán hàng và người mua đã hạch toán kế toán đầy đủ theo quy định.
Điều 17. Xử phạt hành vi trốn thuế
1. Phạt tiền 1 lần số thuế trốn đối với người nộp thuế có từ một tình tiết giảm nhẹ trở lên khi thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây:
đ) Sử dụng chứng từ không hợp pháp; sử dụng không hợp pháp chứng từ; sử dụng chứng từ, tài liệu không phản ánh đúng bản chất giao dịch hoặc giá trị giao dịch thực tế để xác định sai số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được miễn, giảm, số tiền thuế được hoàn; lập thủ tục, hồ sơ hủy vật tư, hàng hóa không đúng thực tế làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được hoàn, được miễn, giảm;

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com