_Phiên họp chính phủ:

+Được diễn ra thường lệ mỗi tháng 1 lần, ngoài ra có thể họp bất thường khi có sự đề nghị của Thủ tướng hoặc yêu cầu của ít nhất 1/3 tổng số thành viên Chính phủ, hoặc có sự yêu cầu của Chủ tịch nước. Chính phủ luôn họp công khai.

+Là nơi thể hiện trí tuệ tập thể của Chính phủ.

+Tại phiên họp Chính phủ thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng thuộc nhiệm vụ, quyền hạn như chương trình hoạt động hàng năm của Chính phủ, các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trình Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội…

+Nghị quyết của Chính phủ phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành, nếu biểu quyết ngang nhau thì lấy ý kiến bên có sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ.

+Các quyết định của Chính phủ tại phiên họp thể hiện dưới dạng nghị quyết, nghị định.

_Hoạt động của Thủ tướng Chính phủ:

+Thủ tướng chính phủ là người đứng đầu Chính phủ.

+Thủ tướng chính phủ có quyền hạn sau: Lãnh đạo công tác của Chính phủ, các thành viên của Chính phủ, thủ trưởng các cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các cấp; Quy định chế độ làm việc của Thủ tướng Chính phủ với các thành viên của Chính phủ, chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Chỉ đạo xây dựng các dự án trình Quốc hội và uỷ ban thường vụ Quốc hội, các văn bản quy phạm thuộc thẩm quyền của chính phủ và thủ tướng Chính phủ; triệu tập, chủ toạ phiên họp Chính phủ…

+Nếu Thủ tướng vắng mặt thì phó Thủ tướng được Thủ tướng uỷ quyền thay mặt lãnh đạo công tác của Chính phủ và phải chịu trách nhiệm trước Chính phủ và Thủ tướng chính phủ về nhiệm vụ được giao.

_Hoạt động của các bộ trưởng và các thành viên khác thuộc Chính phủ:

+Bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên của Chính phủ, lãnh đạo công tác của bộ và cơ quan ngang bộ; bộ trưởng chịu trách nhiệm trước thủ tướng chính phủ và Quốc hội về hoạt động quản lí nhà nước trong phạm vi ngành, lĩnh vực được phân công.

+Nhiệm vụ, quyền hạn: Trình Chính phủ chiến lược, quy hoạch phát triển, kế hoạch và các công trình quan trọng của ngành; chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh được giao; tổ chức, chỉ đạo thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học; tổ chức bộ máy nhà nước, trình Chính phủ kí kết các điều ước quốc tế thuộc ngành…

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thẩm quyền ký kết trong Hợp đồng

Thẩm quyền ký kết đối với hợp đồng là ai là đúng, làm sao để xác định được người đang ký có đúng thẩm quyền hay không, chúng tôi sẽ hướng dẫn toàn bộ những nội dung đó trong nội dung bài viết này.

Khi ký kết hợp đồng với công ty, các bên, đặc biệt là cá nhân thường ít quan tâm đến thẩm quyền của người ký kết, thường mặc định người ký là đại diện theo pháp luật của công ty và có điểm con dấu đỏ là đã yên tâm rằng mình đã giao kết hợp đồng hợp pháp.

Nhưng thực tế có nhiều hợp đồng được ký bởi người không có thẩm quyền hoặc khi xảy ra xung đột, một bên không muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng (thường là do việc thực hiện hợp đồng không còn có lợi cho họ) đã lấy lý do người ký không đúng thẩm quyền để thoái thác trách nhiệm và hủy hợp đồng. Những điều này gây ra thiệt hại vô cùng lớn cho bên còn lại đôi khi còn là ảnh hưởng tới quyền và trách nhiệm của bên thứ ba.

Công ty không chịu bồi thường thiệt hại cho đối tác vì cho rằng người ký hợp đồng không nhân danh công ty, còn cá nhân ký kết hợp đồng hoặc thoái thác trách nhiệm hoặc không có khả năng tự chịu trách nhiệm đối với thiệt hại quá lớn của đối tác. Vậy trong trường hợp này, đối tác phải làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình? Trách nhiệm với đối tác thuộc về công ty hay cá nhân người ký hợp đồng?

Qua kinh nghiệm thực tế giải quyết, chúng tôi xin đưa ra một số lưu ý khi xác định trách nhiệm của công ty, của người ký đối với những hợp đồng vô hiệu do người ký không đúng thẩm quyền. Qua đó, mỗi tổ chức, cá nhân có thể bảo vệ được tối đa quyền và lợi ích của mình nếu đã ký hợp đồng hoặc có thể tránh được việc ký kết hợp đồng với người không có thẩm quyền.

Ba trường hợp điển hình của hợp đồng vô hiệu do người ký không đúng thẩm quyền

Thực tế, hợp đồng vô hiệu do người ký không đúng thẩm quyền thường rất đa dạng về chủ thể ký kết, nhưng tựu chung lại sẽ rơi vào một trong ba trường hợp dưới đây:

  • Người ký là đại diện theo pháp luật của công ty nhưng không có thẩm quyền ký kết

Đây là những trường hợp mà theo quy định của pháp luật hoặc Điều lệ công ty trước khi ký hợp đồng phải có quyết định hoặc thông qua của Hội đồng thành viên (đối với công ty TNHH), Đại hội đồng cổ đông hay Hội đồng quản trị (đối với công ty CP). Nhưng, khi chưa có quyết định hoặc thông qua này, người đại diện theo pháp luật của công ty đã tiến hành ký kết thì hợp đồng sẽ vô hiệu.
Có thể kể đến một vài trường hợp như:
 
– Khi chưa có quyết định, thông qua của Hội đồng thành viên công ty TNHH, người đại diện theo pháp luật ký hợp đồng vay, cho vay, bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính tại thời điểm công bố gần nhất của công ty hoặc một tỉ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ (điểm d khoản 2 Điều 56 Luật DN 2014) hoặc những hợp đồng ký kết với các đối tượng được quy định tại khoản 1 Điều 67, khoản 1 Điều 86 LDN 2014;

 

– Khi chưa có quyết định hoặc thông qua của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị công ty CP, người đại diện theo pháp luật ký hợp đồng đầu tư hoặc bán, vay, cho vay tài sản… có giá trị bằng hoặc lớn hơn 35% giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty nếu Điều lệ công ty không quy định một tỷ lệ khác (điểm d khoản 2 Điều 135, điểm h khoản 2 Điều 149 LDN 2014) hoặc những hợp đồng ký kết với các đối tượng được quy định tại khoản 1 Điều 162 LDN 2014.

 

  • Người ký không phải là đại diện theo pháp luật của công ty và không có ủy quyền hợp pháp của người có thẩm quyền ký kết.

Có thể kể đến một vài trường hợp như: Chủ tịch Hội đồng quản trị (không phải là đại diện theo pháp luật), Chủ tịch Hội đồng thành viên (không phải là đại diện theo pháp luật), Phó Giám đốc, Giám đốc chi nhánh, Trưởng phòng, Trưởng ban… ký hợp đồng nhưng không có ủy quyền hợp pháp của người có thẩm quyền.

  • Người ký không phải là đại diện theo pháp luật của công ty, có ủy quyền hợp pháp nhưng thực hiện ký hợp đồng vượt quá phạm vi ủy quyền

Người ký đã được người đại diện theo pháp luật ủy quyền, nhưng phạm vi ủy quyền có giới hạn và nội dung đề cập trong hợp đồng không nằm trong phạm vi ủy quyền. Tùy từng trường hợp cụ thể mà hợp đồng đã ký này có thể sẽ bị vô hiệu toàn bộ hoặc chỉ vô hiệu một phần.

Quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm của doanh nghiệp và người ký kết trong trường hợp hợp đồng vô hiệu do người ký không đúng thẩm quyền

Với những hợp đồng được xác lập bởi đại diện hợp pháp của doanh nghiệp (đúng thẩm quyền ký kết) thì trong mọi trường hợp kể cả khi hợp đồng vô hiệu, doanh nghiệp đều phải chịu trách nhiệm với đối tác bằng tài sản của mình. Điều này đã được quy định rõ tại Điều 87 Bộ luật Dân sự 2015.
Hợp đồng được ký bởi người không có thẩm quyền của doanh nghiệp về nguyên tắc sẽ vô hiệu. Tuy nhiên, khi giải quyết hậu quả của những hợp đồng này, tùy từng trường hợp cụ thể mà doanh nghiệp hoặc người ký sẽ chịu trách nhiệm với đối tác.
Theo quy định tại Điều 142 Bộ luật Dân sự 2015 về hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện thì:

Điều 142. Hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện

1. Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây:

a) Người được đại diện đã công nhận giao dịch;

b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý;

c) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình không có quyền đại diện.

2. Trường hợp giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện thì người không có quyền đại diện vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện mà vẫn giao dịch.

3. Người đã giao dịch với người không có quyền đại diện có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự đã xác lập và yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện mà vẫn giao dịch hoặc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này.

4. Trường hợp người không có quyền đại diện và người đã giao dịch cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà gây thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại.

Và Điều 143 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì:

Điều 143. Hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện

1. Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây:

a) Người được đại diện đồng ý;

b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý;

c) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình vượt quá phạm vi đại diện.

2. Trường hợp giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch.

3. Người đã giao dịch với người đại diện có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự đối với phần vượt quá phạm vi đại diện hoặc toàn bộ giao dịch dân sự và yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch hoặc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này.

4. Trường hợp người đại diện và người giao dịch với người đại diện cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện mà gây thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại”.

 
Theo như những quy định tại hai điều luật trên thì:
–   Doanh nghiệp vẫn sẽ phải chịu trách nhiệm với bên còn lại nếu:

+ Người được đại diện đã công nhận giao dịch;

+ Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý;

+ Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình không có quyền đại diện.

–    Người trực tiếp ký sẽ phải tự chịu trách nhiệm với đối tác trong những trường hợp còn lại đối với việc ký kết của họ.

Luật Doanh nghiệp 2014 tuy có nhiều quy định mới về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, đặc biệt đã dành riêng Điều 14 để nói về về trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật. Nhưng, cũng như Luật Doanh nghiệp 2004, Luật Doanh nghiệp năm 2014 không có quy định nào nói về trách nhiệm của doanh nghiệp hay người đại diện doanh nghiệp với đối tác trong trường hợp hợp đồng vô hiệu do người ký không đúng thẩm quyền.
Như vậy, để xác định được trường hợp nào thuộc trách nhiệm của doanh nghiệp, trường hợp nào thuộc trách nhiệm của người ký kết phải căn cứ vào các quy định tại Bộ luật Dân sự 2015 đã nêu ở trên. Vấn đề đặt ra là dựa vào đâu để xác định được doanh nghiệp đồng ý hay biết mà không phản đối việc ký kết đó thì pháp luật lại chưa có quy định hướng dẫn cụ thể. Điều này đã dẫn đến tình trạng áp dụng pháp luật một cách tùy tiện, không nhất quán giữa các cơ quan, các cá nhân khác nhau; việc xác định trách nhiệm thuộc về doanh nghiệp hay cá nhân người ký phụ thuộc nhiều vào sự đánh giá chủ quan của người làm luật.
 

Đối tác công ty phải làm gì để tránh rủi ro

– Trước khi ký kết hợp đồng:
Mọi giao dịch của doanh nghiệp đều được thực hiện thông qua người đại diện hợp pháp. Vì vậy, để tránh trường hợp giao dịch với người không có thẩm quyền của doanh nghiệp, trước khi ký kết hợp đồng, đối tác phải lưu ý kiểm tra những thông tin cơ bản sau:

Kiểm tra thông tin tại Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, Điều lệ công ty để xác định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
+)    Trường hợp người ký kết là đại diện theo pháp luật thì cũng phải kiểm tra xem hợp đồng có thuộc trường hợp phải có sự thông qua của Hội đồng thành viên (đối với công ty TNHH), Đại hội đồng cổ đông hay Hội đồng quản trị (đối với công ty CP) hay không, nếu thuộc trường hợp này thì bắt buộc phải có quyết định hoặc thông qua của Hội đồng thành viên, Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị thì người đại diện theo pháp luật mới đủ thẩm quyền ký kết hợp đồng;
+)     Trường hợp họ không phải là đại diện theo pháp luật thì phải có ủy quyền hợp pháp của người có thẩm quyền. Phải kiểm tra phạm vi, thời hạn, nội dung ủy quyền để xác định chính xác thẩm quyền của người ký kết, tránh trường hợp ký vượt quá phạm vi ủy quyền.
 
– Đã ký kết hợp đồng với người không có thẩm quyền: Trường hợp đã chót ký hợp đồng với người không có thẩm quyền của doanh nghiệp, khi xảy ra tranh chấp, để buộc doanh nghiệp chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, đối tác của doanh nghiệp phải chứng minh được doanh nghiệp đồng ý hoặc biết mà không phản đối việc ký kết hợp đồng của người không có thẩm quyền. Tuy nhiên, do pháp luật chưa có quy định cụ thể nên để chứng minh được yếu tố đồng ý hoặc biết mà không phản đối của doanh nghiệp là không hề đơn giản, nhất là với những đối tác là cá nhân thì lại càng khó khăn hơn. Qua thực tế giải quyết công việc, đồng thời đã được nhiều cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chấp nhận, chúng tôi xin đưa ra một vài biểu hiện được coi là doanh nghiệp đã đồng ý hoặc biết mà không phản đối viêc ký kết sai thẩm quyền, cụ thể:
Việc thực hiện hợp đồng diễn ra công khai, liên tục, trong một thời gian dài tại doanh nghiệp, diễn biến cũng như nội dung thực hiện hợp đồng được phản ánh trong các cuộc họp có sự tham dự đầy đủ của người có thẩm quyền ký kết, quyết định của doanh nghiệp.
Các khoản thu, chi từ việc thực hiện hợp đồng được phản ánh tại chứng từ, sổ sách kế toán hay báo cáo tài chính của doanh nghiệp và đã được báo cáo hoặc phê duyệt của chính người có thẩm quyền ký kết, quyết định của doanh nghiệp;
+)      Doanh nghiệp đã sử dụng những tài sản có được từ việc thực hiện hợp đồng vào mục đích chung mà người có thẩm quyền ký kết, quyết định đều biết;
+)      Lợi nhuận từ việc thực hiện hợp đồng được doanh nghiệp sử dụng để tái đầu tư hoặc sử dụng vào các mục đích chung của doanh nghiệp;
+)     Trong một số trường hợp nhất định có thể căn cứ vào việc doanh nghiệp đã và đang chấp nhận, thực hiện những hợp đồng được ký kết không đúng thẩm quyền tương tự.
 

Một vài kiến nghị

Luật Doanh nghiệp 2014 đã có những quy định rất mới về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, như: quy định rõ ràng hơn về quyền và trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp; cho phép công ty TNHH, công ty CP được quyền quyết định số lượng người đại diện theo pháp luật … Tuy nhiên, những quy định này vẫn chưa phân định rõ trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật và của doanh nghiệp trong trường hợp giao dịch vô hiệu do người ký không đúng thẩm quyền. Vì vậy, để bảo đảm an toàn trong giao dịch, cũng như bảo vệ quyền và lợi ích của đối tác doanh nghiệp, chúng tôi xin đưa ra một vài kiến nghị sau:

–         Cần có hướng dẫn cụ thể cho Điều 142 và Điều 143 Bộ luật Dân sự 2015 trên cơ sở đó mới xác định được trường hợp nào doanh nghiệp chịu trách nhiệm, trường hợp nào người ký chịu trách nhiệm với đối tác.
–         Trường hợp doanh nghiệp có từ 2 người đại diện theo pháp luật trở lên thì việc phân chia phạm vi đại diện cho từng người thường mang tính nội bộ doanh nghiệp, đối tác khi giao dịch khó có thể biết được người đại diện đó có thẩm quyền giao dịch hay không. Do vậy, để bảo vệ quyền lợi cho đối tác của doanh nghiệp trong trường hợp này cần hướng dẫn rõ: nếu người đại diện theo pháp luật xác lập giao dịch vượt ngoài thẩm quyền đại diện được phân công theo quy định của công ty với người thứ ba, thì giao dịch đó vẫn có giá trị đối với doanh nghiệp được đại diện, người đại diện sẽ chịu trách nhiệm trực tiếp với doanh nghiệp, trừ trường hợp, người thứ ba biết hoặc phải biết người đại diện đó không có thẩm quyền xác lập giao dịch với mình.

Bài liên quan:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số bình luận pháp lý liên quan đến Điều 60 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014

15/06/2015

Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 20/11/2014 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2016. Quan điểm sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội là nhằm tiếp tục thể chế hóa quan điểm của Đảng, quy định của Hiến pháp về quyền được bảo đảm an sinh xã hội của công dân và trách nhiệm của Nhà nước tại Điều 34 và Điều 59, khắc phục những bất cập của luật hiện hành, đáp ứng nguyện vọng của người lao động và góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển đất nước[1]. Mục tiêu sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội là: (i) Đảm bảo an sinh xã hội cho người dân thông qua việc bổ sung, điều chỉnh chính sách để mở rộng nhanh hơn diện bao phủ bảo hiểm xã hội, đồng thời, Nhà nước có chính sách để khuyến khích, hỗ trợ lao động trong khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, hướng tới mục tiêu năm 2020 có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội; (ii) Đảm bảo an toàn, cân đối quỹ bảo hiểm xã hội thông qua việc xây dựng lộ trình hợp lý nhằm điều chỉnh công thức tính lương hưu theo nguyên tắc mức hưởng phải dựa trên cơ sở mức đóng và tăng thời gian đóng bảo hiểm xã hội để đảm bảo cân đối với thời gian hưởng bảo hiểm xã hội của người lao động[2].

Với những quan điểm và mục tiêu sửa đổi nói trên, có cơ sở để khẳng định: An sinh xã hội cho công dân nói chung, người lao động nói riêng là nội dung chi phối, xuyên suốt trước mắt cũng như lâu dài của Luật bảo hiểm xã hội sửa đổi năm 2014. Tuy nhiên, đã xảy một sự kiện dường như chưa có trong tiền lệ pháp lý ở nước ta kể từ khi đổi mới đến nay là một văn bản pháp luật chưa có hiệu lực nhưng đã bị phản ứng của một bộ phận đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của văn bản luật dẫn đến việc cơ quan có thẩm quyền đề nghị sửa đổi, bổ sung. Cụ thể của sự kiện này là: Sau khi được thông tin từ các cán bộ cao cấp trong doanh nghiệp đi nghe phổ biến Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 thông báo khi công nhân nghỉ việc sẽ không được nhận bảo hiểm xã hội một lần như trước mà phải đợi đến tuổi hưu, nam 60 tuổi và nữ 55 tuổi (theo Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014). Từ ngày 26/3/2015 đến ngày 30/03/2015, hàng nghìn công nhân tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn PouYuen Việt Nam, Khu công nghiệp Tân Tạo, Phường Tân Tạo, Quận Bình Tân (TP. Hồ Chi Minh) đã đình công để bày tỏ quan điểm không đồng ý với quy định tại Điều 60 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 về giải quyết bảo hiểm xã hội một lần. Trước sự kiện này đã có nhiều ý kiến từ phía Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, UBND TP. Hồ Chí Minh, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; bình luận, phân tích của truyền thông, báo chí… Ảnh hưởng của vụ việc đến mức tại phiên họp thường kỳ tháng 3/2015 do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chủ trì (ngày 01/4/2015), Chính phủ đã nghe, thảo luận về báo cáo của các bộ, cơ quan chức năng đối với kiến nghị của công nhân về Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014[3], trong đó quy định việc không cho người tham gia bảo hiểm xã hội được hưởng bảo hiểm xã hội một lần như Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006. Sau khi nghe báo cáo và các ý kiến thảo luận, Chính phủ đã nhất trí với kiến nghị của các bộ, cơ quan, địa phương và sẽ kiến nghị Quốc hội sửa đổi Điều 60 theo hướng nếu người lao động không đủ thời gian đóng bảo hiểm xã hội để hưởng lương hưu thì được hưởng bảo hiểm xã hội một lần.

Sự kiện này mặc dù chỉ liên quan đến một điều luật của một văn bản luật chưa có hiệu lực pháp luật nhưng thái độ, cách ứng xử của các chủ thể trước sự kiện này phản ánh những trạng thái chính trị, xã hội, kinh tế, pháp lý khác nhau ở nước ta trong bối cảnh hiện nay rất đáng suy ngẫm, bàn luận.

1. Dưới góc nhìn lập pháp

Quá trình ban hành, sửa đổi, bổ sung văn bản pháp luật tuân thủ quy trình, thủ tục được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008. Về phương diện pháp lý, văn bản pháp luật đã được ban hành chưa có hiệu lực pháp luật vẫn có thể bị sửa đổi, bổ sung. Chính vì vậy, việc cá nhân, tổ chức, cơ quan có thẩm quyền đề nghị Quốc hội xem xét sửa đổi Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 là không trái pháp luật. Tuy nhiên, cũng cần làm rõ bối cảnh lập pháp của Luật Bảo hiểm xã hội nói chung và Điều 60 nói riêng. Cũng như nhiều văn bản pháp luật khác, quá trình ban hành Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật như: Lập dự kiến chương trình xây dựng luật;Triển khai thực hiện, xây dựng dự thảo, lấy ý kiến dự thảo; Đánh giá tác động pháp luật; Tổ chức thẩm định; Quốc hội xem xét thông qua…. Theo đó Điều 60 là một trong những điều luật đã được bàn bạc, tranh luận, cân nhắc khá kỹ lưỡng trên cơ sở đánh giá thực tiễn thực hiện điều luật này không chỉ từ năm 2006 đến nay trong mối quan hệ giữa mong muốn của người lao động với mục tiêu của chính sách pháp luật bảo hiểm xã hội và những yếu tố kinh tế, xã hội khác. Cụ thể là:

Thứ nhất: TheoBáo cáo Thẩm tra dự án Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) số 2913/BC-UBVĐXH13 của Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc Hội ngày 19/05/2014thì: “Từ năm 2007 đến năm 2013, số người hưởng chế độ bảo hiểm xã hội một lần tăng nhanh và cao hơn 4,2 lần so với số người hưởng chế độ bảo hiểm hưu trí hàng tháng (3.056.629 người/717.404 người)[4], kết quả này không đảm bảo để thực hiện mục tiêu an sinh xã hội lâu dài cho người lao động. Do vậy, sửa đổi điều kiện hưởng bảo hiểm xã hội một lần nhằm hạn chế tối đa việc giải quyết chế độ này như dự thảo Luật là cần thiết. Bên cạnh đó, bổ sung quy định giải quyết bảo hiểm xã hội một lần đối với người mắc bệnh hiểm nghèo là hợp lý, thể hiện tính nhân văn của chính sách”. Kết luận này phần nào đã lý giải cho việc hạn chế chi trả bảo hiểm xã hội một lần mà luật cũ đã quy định.

Thứ hai: Về chính sách kinh tế. Chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là con đường tất yếu để Việt Nam nhanh thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển và trở thành một quốc gia văn minh, hiện đại.Nội dung và yêu cầu cơ bản của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tăng nhanh tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành công nghiệp, xây dựng (gọi chung là công nghiệp) và thương mại – dịch vụ (gọi chung là dịch vụ), đồng thời giảm dần tương đối tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp (gọi chung là nông nghiệp). Cùng với quá trình chuyển dịch của cơ cấu kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến những biến đổi kinh tế và xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của cơ cấu các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế, các lực lượng lao động xã hội, cơ cấu kinh tế đối nội, cơ cấu kinh tế đối ngoại… Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã làm thay đổi cơ cấu lao động nước ta theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Số lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ phải ngày càng tăng lên, trong khi số lao động ngành nông nghiệp ngày càng giảm đi. Để đạt được mục tiêu này thì sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế – xã hội phải gắn liền với việc duy trì ổn định quan hệ lao động công nghiệp trong đó cần tạo ra mối liên hệ bền vững, lâu dài về quyền và nghĩa vụ của quan hệ lao động trong đó có quyền lợi về bảo hiểm xã hội. Theo cách tiếp cận này, nếu như chúng ta để người lao động tham gia quan hệ lao động dễ dàng nhận tiền bảo hiểm xã hội một lần thì sự gắn bó của họ với quan hệ lao động công nghiệp sẽ trở nên lỏng lẻo và nguy cơ quay trở lại làm việc trong khu vực nông nghiệp là hoàn toàn có thể xảy ra. Chính vì vậy, bằng việc duy trì quan hệ bảo hiểm xã hội với những ràng buộc chặt chẽ về hưởng, chi trả bảo hiểm xã hội là một trong những biện pháp quan trọng để đảm bảo chủ trương dịch chuyển cơ cấu kinh tế xã hội của Đảng và nhà nước ta.

Thứ ba: Trong chính sách lao động, việc làm ở nước ta trước đây đã có những quy định về giải quyết bảo hiểm xã hội một lần. Vào những năm 90 để giải quyết lao động dôi dư trong các doanh nghiệp nhà nước, Hội đồng chính phủ đã ban hành Quyết định số 76/HĐBT ngày 09/10/1989 về sắp xếp lại lao động trong các đơn vị kinh tế quốc doanh. Năm 2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 41/2002/NĐ-CP ngày 11/4/2002 về chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Trong các văn bản pháp lý này đều dùng phương pháp giải quyết trợ cấp một lần cho người lao động (chưa đủ điều kiện nghỉ hưu) trên cơ sở năm công tác (năm tham gia bảo hiểm xã hội) theo mức mỗi năm làm việc được trợ cấp bằng 1 tháng lương. Tuy nhiên, nhiều khảo sát cho thấy sau hơn 10 năm từ khi nhận trợ cấp 1 lần cuộc sống của những đối tượng này gặp nhiều khó khăn hơn những người thuộc diện dôi dư nhưng đủ điều kiện hưởng lương hưu hàng tháng, “theo diện 176 (Quyết định 176-HĐBT năm 1989 về việc sắp xếp lại lao động trong các đơn vị kinh tế quốc doanh) đến nay còn để lại khá nặng nề: 800 nghìn người về hưu non hưởng theo diện 176 mong muốn hoàn trả lại Quỹ bảo hiểm xã hội số tiền đã nhận để cộng dồn thời gian tham gia bảo hiểm xã hội khi đủ điều kiện về thời gian đóng, hưởng lương hưu hàng tháng nhưng không được pháp luật hồi tố, cuộc sống của họ khó khăn hơn những người đang hưởng lương hưu”[5].

Trên cơ sở đó, Điều 60 được thiết kế theo hướng không khuyến khích việc hưởng bảo hiểm xã hội một lần và đã được đưa vào dự thảo lấy ý kiến cơ quan chuyên môn, các chuyên gia, nhân dân; Chính phủ đã thảo luận, xem xét cho ý kiến; Quốc hội thảo luận và thông qua. Như vậy, Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội không phải là một điều luật hoàn toàn mới mà là điều luật đã được quy định và thực hiện trong thực tiễn. Việc sửa đổi, bổ sung cũng đã được cân nhắc, đánh giá nhiều khía cạnh kinh tế, xã hội, pháp lý. Điều luật chưa được thực tế kiểm nghiệm, đánh giá sao đã có thể dễ dàng kết luận là không phù hợp? Dưới khía cạnh lập pháp, không dễ thuyết phục về mặt pháp lý của việc điều chỉnh điều luật này. Có vẻ như áp lực chính trị và dư luận xã hội tức thời đã lấn át sự tỉnh táo của tư duy pháp trị và những chuẩn mực lập pháp đã được hiến định.

2. Về phương diện an sinh xã hội.

Điều 34 Hiến pháp năm 2013 quy định:Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội”. Bảo hiểm xã hội là một trong những trụ cột chính của an sinh xã hội. Trong bảo hiểm xã hội thì chế độ hưu trí (thuộc chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn) có vị trí hết sức quan trọng bởi nó đảm bảo thu nhập, cuộc sống cho người đã hết tuổi lao động. Nói cách khác, chế độ hưu trí gắn liền với chính sách an sinh tuổi già, với những đối tượng đã hết khả năng làm việc để có nguồn thu nhập nuôi dưỡng, chăm sóc bản thân mình nhưng với những điều kiện được thụ hưởng khắt khe như: Tuổi đời, mức và thời gian tham gia bảo hiểm xã hội, mức độ cống hiến cho xã hội… Về phương diện tài chính, sự an toàn của quỹ bảo hiểm hưu trí trong quỹ bảo hiểm xã hội được tất cả các mô hình bảo hiểm xã hội khác nhau đều quan tâm cho dù đó là mô hình bảo hiểm xã hội thuần tuý do Nhà nước quản lý hay mô hình có sự tham gia của các chủ thể khác. Chính vì vậy, trong bảo hiểm xã hội thì chế độ hưu trí phản ánh rõ nhất nội dung an sinh xã hội mà bảo hiểm xã hội cần hướng đến và là ưu tiên được lựa chọn để đảm bảo và thực hiện chính sách an sinh xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà ở một số nước châu Âu (ví dụ: Pháp) coi chế độ hưu trí là “khế ước giữa các thế hệ” tức là sự cam kết của mọi thế hệ người lao động về việc tham gia bảo hiểm xã hội (không trốn, gian lận…) để đảm bảo và duy trì nguồn tài chínhquỹ hưu trí chi trả những người đã hết tuổi lao động, đủ điều kiện hưởng lương hưu. Với cách tiếp cận này sẽ không có khái niệm chi trả bảo hiểm một lần như chúng ta quan niệm. Theo nghiên cứu và tìm hiểu của chúng tôi về bảo hiểm hưu trí trong chính sách an sinh xã hội thì không có nước nào thuộc các mô hình an sinh xã hội (bảo hiểm xã hội) có tính truyền thống và phổ biến trên thế giới quy định người lao động đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc mỗi khi chấm dứt quan hệ lao động, ngừng việc lại có quyền nhận luôn tiền bảo hiểm cho thời gian đã tham gia. Nếu tiếp cận thuần tuý về khía cạnh kinh tế, lợi ích trước mắt cho người lao động thì có cơ sở để giải thích cho quy định này. Nhưng nếu nhìn nhận nó trong tổng thể chính sách an sinh xã hội của một quốc gia trong mối liên hệ với quyền công dân, quyền con người sẽ thấy rất thiếu thuyết phục. Vậy lựa chọn ưu tiên ở đây của chúng ta là gì? Đáp ứng tầm vĩ mô của chính sách an sinh xã hội hay phúc đáp những nhu cầu tức thời, trước mắt của một bộ phận người lao động?

3. Về hoạt động truyền thông, giải thích, phổ biến pháp luật.

Như đã trình bày ở trên, việc sửa đổi Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 đã có sự cân nhắc từ nhiều khía cạnh kinh tế, xã hội, pháp lý nhưng đã không được tuyên truyền, phổ biến hoặc có làm nhưng chưa đầy đủ thậm chí tệ hơn là phổ biến không đúng tinh thần pháp luật cho người lao động, dẫn đến đối tượng chịu sự tác động của pháp luật hiểu không đúng, không đầy đủ nên có phản ứng tiêu cực với chính sách pháp luật – cho dù đã được xây dựng với những thiện ý tốt đẹp của chính sách dành cho họ.

Truyền thông – với chức năng cung cấp thông tin chân thực, khách quan nhằm phản ánh mọi mặt đời sống xã hội. Từ đó định hướng, dẫn dắt dư luận xã hội tạo ra những giá trị nhận thức tích cực cho cộng đồng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khi thông tin cung cấp chưa được kiểm nghiệm đầy đủ tính chân thực, tính đại diện, tính khách quan… rất có thể sẽ tạo ra những nhận thức phiến diện, không đúng bản chất sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn, trở lại vụ việc chúng ta quan tâm ở đây, khi xảy ra đình công phản đối Điều 60 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014, một số phương tiện truyền thông có tầm ảnh hưởng nhất định (báo hình) đã viết bài, phỏng vấn, đưa tin… Tuy nhiên, có những nhận định rất tiếc là chưa phản ánh đúng nên có thể dẫn đến hiểu sai của dư luận. Ví dụ: Mặc dù chỉ phỏng vấn một số người lao động tham gia đình công về việc có được hỏi ý kiến về Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội không? với câu trả lời của một vài người lao động là không được hỏi, không được biết thì phóng viên đã kết luận đại ý là người lao động đã không được tham gia hỏi ý kiến khi sửa đổi luật là chưa đúng quy định…. Điều này có thể đúng với số ít người lao động được phỏng vấn. Xong, thực tế hoàn toàn không phải như vậy. Quy trình ban hành, sửa đổi văn bản pháp luật được quy định chặt chẽ. Sau khi dự thảo luật được xây dựng thì cơ quan có thẩm quyền tổ chức lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân bằng nhiều hình thức khác nhau: Tổ chức hội thảo, lấy ý kiến trực tiếp, đăng tải trên website của Quốc hội, Chính phủ, cơ quan, bộ, ban ngành chuyên môn từ trung ương đến địa phương để mọi công dân tự do góp ý… Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 cũng không phải là một ngoại lệ. Tất nhiên, không thể hỏi từng người trong số khoảng 50 triệu lao động ở nước ta. Vì vậy, không phải vì một vài người không được hỏi ý kiến mà kết luận là quy trình ban hành, sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 nói chung, Điều 60 nói riêng chưa đúng dẫn đến đâu đó có những hiểu lầm đáng tiếc của dư luận về sự việc này. Thêm nữa, việc phản ứng về Điều 60 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 mới chỉ xảy ra ở một doanh nghiệp với vài nghìn lao động, trong khi chưa hẳn họ đã có nhận thức đúng ý nghĩa sâu xa về an sinh xã hội của Điều 60 rõ ràng là chưa thuyết phục về tính đại diện cho cộng đồng 50 triệu lao động ở nước ta chịu sự tác động của điều luật này cũng như thiếu sự kiểm nghiệm từ thực tiễn.

Kết luận

Pháp luật về bảo hiểm xã hội thuộc lĩnh vực pháp luật xã hội. Đối tượng tác động của pháp luật bảo hiểm xã hội không chỉ là những người lao động đang tham gia quan hệ lao động. Sự ảnh hưởng của chính sách pháp luật xã hội thường có tính lâu dài và chú ý đến việc phòng ngừa, khống chế rủi ro ảnh hưởng đến an sinh của công dân và an ninh của xã hội. Theo đó, chính sách bảo hiểm hưu trí và pháp luật bảo hiểm hưu trí là một nội dung quan trọng của chính sách an sinh xã hội và pháp luật bảo hiểm xã hội. Với quan điểm tiếp cận như vậy, từ những nhận định, phân tích, đánh giá, kết luận trên đây tôi cho rằng về lâu dài cần tiếp tục giữ nguyên Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 như hiện hành. Tuy nhiên, để có thể phúc đáp nhu cầu của một bộ phận người lao động nhất định trong mối quan hệ này thì có thể bổ sung thêm quy định theo hướng: (1) Kéo dài thời gian ngừng việc, không tham gia bảo hiểm xã hội để được hưởng bảo hiểm xã hội một lần (Luật bảo hiểm xã hội 2006 quy định là sau 1 năm ngừng việc, nay có thể quy định là 2, 3 năm); (2) Bảo lưu quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 về vấn đề này đến 01/01/2018 – là thời điểm mà hầu hết người lao động sẽ là đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc[6]. Dù theo phương án nào thì tại kỳ họp này Quốc hội cũng cần có một Nghị quyết để giải quyết vấn đề này một cách lâu dài, vừa đảm bảo quyền lợi, nguyện vọng của người lao động, vừa bảo đảm an sinh xã hội.

PGS.TS Nguyễn Hữu Chí

Trường Đại học Luật Hà Nội



[1]Báo cáo Số: 2913 /BC-UBVĐXH13 Thẩm tra dự án Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) ngày 19/5/2014 của UBCVĐXH Quốc hội.

[2]Tài liệu đã dẫn

[3]Điều 60. Bảo hiểm xã hội một lần

1. Người lao động quy định tại khoản 1 Điều 2 của Luật này mà có yêu cầu thì được hưởng bảo hiểm xã hội một lần nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Đủ tuổi hưởng lương hưu theo quy định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều 54 của Luật này mà chưa đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội hoặc theo quy định tại khoản 3 Điều 54 của Luật này mà chưa đủ 15 năm đóng bảo hiểm xã hội và không tiếp tục tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện;

b) Ra nước ngoài để định cư;

c) Người đang bị mắc một trong những bệnh nguy hiểm đến tính mạng như ung thư, bại liệt, xơ gan cổ chướng, phong, lao nặng, nhiễm HIV đã chuyển sang giai đoạn AIDS và những bệnh khác theo quy định của Bộ Y tế;

d) Trường hợp người lao động quy định tại điểm đ và điểm e khoản 1 Điều 2 của Luật này khi phục viên, xuất ngũ, thôi việc mà không đủ điều kiện để hưởng lương hưu.”

[4]Hưởng bảo hiểm xã hội một lần: Năm 2007: 129.156 người; năm 2008: 288.309 người; năm 2009: 425.903 người; năm 2010: 498.122 người; năm 2011: 478.462 người; năm 2012: 601.020 người; năm 2013: 635.657 người. Tổng số là 3.056.629 người.

– Hưởng lương hưu hàng tháng: Năm 2007: 85.036 người; năm 2008: 99.078 người; năm 2009: 102.286 người; năm 2010: 109.586 người; năm 2011: 112.256 người; năm 2012: 101.200 người; năm 2013: 107.962 người. Tổng số là 717.404 người.

[5]Chu Thanh Vân/baohaiphong.com.vn (Cập nhật 17/5/2015)

Xem thêm: Đề tài khoa học cấp trường: “Chế độ, quyền lợi đối với người lao động khi cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước”, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2008;http://vanhoadoisong.vn/news/: Nghỉ việc theo Quyết định 176: Còn đó những khó khăn (07/06/2013)

[6] Theo quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 thì từ 01/01/2018 người lao động làm hợp đồng lao động từ 1 tháng đến dưới 3 tháng thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc (đối tượng làm hợp đồng lao động từ 03 tháng trở lên, không xác định thời hạn là đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đã quy định trong Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006).

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số vấn đề về thẩm quyền xét xử các tội phạm ở địa bàn thiết quân luật

15/07/2013

Trong các vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của các Toà án, việc phân định thẩm quyền xét xử có vai trò rất quan trọng, chiếm vị trí trung tâm trong tố tụng hình sự. Xác định đúng đắn thẩm quyền xét xử của Toà án nói chung và thẩm quyền xét xử của các Toà án quân sự nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động xét xử của Toà án các cấp xét từ góc độ pháp lý cũng như từ góc độ chính trị xã hội.

Để làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện thẩm quyền xét xử của của các Toà án quân sự, trong phạm vi bài viết này chúng tôi xin đề cập tới một nội dung rất quan trọng thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự đó là: Một số vấn đề về thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự đối với các tội phạm xảy ra trong thời gian thiết quân luật và ở địa bàn thiết quân luật (gọi tắt là trong thời gian và địa bàn thiết quân luật). Trên cơ sở đó góp phần cho việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức Toà án nhân dân, Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự cũng như các văn bản pháp luật khác có liên quan cho phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.

1. Một số vấn đề về thẩm quyền xét xử các tội phạm ở địa bàn thiết quân luật

Tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật Quốc phòng số 39/2005/QHXI ngày 14 tháng 6 năm 2005, đây là đạo luật cơ bản có ý nghĩa cột sống để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng, quân sự. Luật Quốc phòng năm 2005 ra đời đã giải thích, quy định cụ thể thời điểm, thẩm quyền ban bố tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, thiết quân luật và giới nghiêm. Đây là những biện pháp hành chính đặc biệt của Nhà nước, là cơ sở pháp lý để Nhà nước chủ động xử lý các tình huống xảy ra, góp phần giữ vững chủ quyền an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, ổn định chính trị để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Theo khoản 9 Điều 3 Luật Quốc phòng quy định: Thiết quân luật là biện pháp quản lý nhà nước đặc biệt có thời hạn do Quân đội thực hiện. Nội dung này được làm rõ hơn tạiĐiều 32 của Luật Quốc phòng đó là: Khi an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở một hoặc một số địa phương bị xâm phạm tới mức chính quyền ở đó không còn kiểm soát được tình hình thì Chủ tịch nước ra lệnh thiết quân luật theo đề nghị của Chính phủ.

Như vậy, có thể hiểu việc thiết quân luật được thực hiện khi tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở một hoặc nhiều địa phương bị xâm phạm mà chính quyền, các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương không còn kiểm soát được tình hình, mất khả năng điều hành các hoạt động quản lý nhà nước; ví dụ như các cuộc biểu tình của nhân dân chống chính quyền, hoặc sự chống phá của các thế lực thù địch nổi dậy chống lại chính quyền làm cho chính quyền ở đó không còn kiểm soát được buộc Nhà nước phải thiết quân luật nhằm đảm bảo cho an ninh chính trị được ổn định.

Việc thiết quân luật nhằm bảo đảm cho các hoạt động của Nhà nước diễn ra theo đúng chương trình, kế hoạch bảo đảm cho vận mệnh đất nước và quyền lợi của nhân dân. Việc quản lý nhà nước tại địa bàn thiết quân luật trong thời gian thiết quân luật được giao cho quân đội thực hiện. Người chỉ huy đơn vị quân đội được giao quản lý địa bàn thiết quân luật có quyền ra lệnh áp dụng các biện pháp cần thiết để thực hiện lệnh thiết quân luật và chịu trách nhiệm về việc áp dụng các biện pháp đó. Căn cứ vào Lệnh của Chủ tịch nước về thiết quân luật Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện lệnh thiết quân luật, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng có trách nhiệm chỉ đạo, chỉ huy các đơn vị quân đội được giao thực hiện nhiệm vụ tại địa bàn địa phương thiết quân luật chấp hành đúng các quy định của pháp luật.

Chỉ thị 24/CT-TTg ngày 01/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức triển khai thi hành Luật Quốc phòng và Nghị định 32/CP/2009 ngày 03/4/2009 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quốc phòng về thiết quân luật như sau:

Trong trường hợp thi hành lệnh thiết quân luật, người chỉ huy quân đội được phép cấm hoặc hạn chế người, phương tiện đi lại; đình chỉ hoặc hạn chế hoạt động tại các nơi công cộng, cấm biểu tình, bãi công hoặc các cuộc tụ tập đông người trái phép; kịp thời giải tán các cuộc biểu tình, bạo loạn…

Khi thực hiện những lệnh này thì điều tiên quyết là mọi quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân luôn được pháp luật bảo vệ.

Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị xác định việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp phải xoay quanh việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Ngành Toà án, trong đó xác định “Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”. Một trong những định hướng quan trọng liên quan đến thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự được đề cập trong Nghị quyết 49/NQ-TW là: “Nghiên cứu xác định hợp lý phạm vi thẩm quyền xét xử của Toà án quân sựtheo hướng Toà án quân sự chủ yếu xét xử các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm quân nhân, các tội liên quan đến bí mật quân sự…”. Đây là chủ trương mang tính định hướng chiến lược để Nhà nước, quân đội căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và hoạt động đặc thù của quân đội nghiên cứu xác định hợp lý phạm vi thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự.

Căn cứ Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị, Đảng uỷ quân sự Trung ương nay là Quân uỷ trung ương đã ra Nghị quyết số 67/NQ-ĐUQSTƯ ngày 08/3/2007 về việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp trong quân đội đến năm 2020. Nghị quyết đã xác định phương hướng, nhiệm vụ hoàn thiện thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự như sau:

“Trên cơ sở thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự theo quy định của pháp luật hiện hành, cần nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về tổ chức, hoạt động và nhiệm vụ của quân đội, chú ý đến khách thể đặc biệt cần được bảo vệ là kỷ luật và sức mạnh chiến đấu của quân đội, yếu tố bí mật quân sự để xác định hợp lý phạm vi thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự theo hướng: Các Toà án quân sự xét xử các vụ án hình sự mà người phạm tội là quân nhân tại ngũ, công nhân, công chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện, kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu, dân quân tự vệ phối thuộc với quân đội trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu và những vụ án hình sự do người khác phạm tội nhưng gây thiệt hại cho quân đội hoặc liên quan đến bí mật quân sự. Khi đất nước được tuyên bố trong tình trạng chiến tranh hoặc tình trạng khẩn cấp về quốc phòng thì Toà án quân sự xét xử tất cả các tội phạm xảy ra trong địa bàn thiết quân luật. Nghiên cứu đề nghị cơ quan có thẩm quyền giao cho Toà án quân sự xét xử các vụ án hành chính trong quân đội”.

Theo pháp luật hiện hành thì thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự được quy định tại các Điều 170, 171, 172, 173 và các Điều 3, 4, 5, 22, 26, 29 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự; Thông tư liên tịch số 01/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 18/4/2005 của Toà án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ Công an – Bộ Quốc phòng (viết tắt là thông tư liên tịch số 01) hướng dẫn thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự, thì đối tượng phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự như sau:

Quân nhân tại ngũ, công nhân, nhân viên quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu, dân quân tự vệ phối thuộc chiến đấu với quân đội và những người được trưng tậplàm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý.

Những người không thuộc các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này mà phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội.”

Đối với những người không còn phục vụ trong quân đội mà phát hiện hành vi phạm tội của họ đã được thực hiện trong thời gian phục vụ trong quân đội hoặc những người đang phục vụ trong quân đội mà phát hiện hành vi phạm tội của họ đã được thực hiện trước khi vào quân đội, thì Toà án quân sự xét xử những tội phạm có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội; những tội phạm khác do Toà án nhân dân xét xử.

Trong trường hợp vụ án vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự, vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân thì thẩm quyền xét xử được thực hiện như sau:

– Trong trường hợp có thể tách vụ án thì Toà án quân sự xét xử những bị cáo và tội phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 3 và Điều 4 của Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự; những bị cáo và tội phạm khác thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân;

– Trong trường hợp không thể tách vụ án thì Toà án quân sự xét xử toàn bộ vụ án.

Như vậy, cả bị cáo và tội phạm xảy ra trong thời gian và địa bàn thiết quân luật đều chưa được Bộ luật Tố tụng hình sự và Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự quy định thuộc về thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự. Mặt khác, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức Toà án nhân dân và Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự và các văn bản hướng dẫn thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự đều ra đời trước khi có Luật Quốc phòng. Vì vậy, các hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động xét xử của Toà án quân sự đối với các tội phạm xảy ra trong thời gian và địa bàn thiết quân luật nói riêng chưa có một văn bản nào hướng dẫn thực hiện.

Nghiên cứu ngược thời gian chúng ta thấy, khi chưa có Luật Quốc phòng, theo quy định về thiết quân luật của Nhà nước ta tại Sắc lệnh số 77/SL ngày 29/5/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà quy định: Khi nào tình thế nghiêm trọng mà có thể phát sinh ra cuộc ngoại xâm hay nổi loạn to thì sẽ thiết quân luật. Chỉ có Chủ tịch Chính phủ dân chủ cộng hoà mới có quyền ký sắc lệnh thiết quân luật và định những nơi thiết quân luật. Khi thiết quân luật ở mỗi tỉnh nào thì bao nhiêu quyền hành chính trong tỉnh giao cả cho viên chỉ huy quân đội. Việc xử những vụ phạm pháp về khinh tội hay trọng tội sẽ giao cho Toà án quân sự. Tuy vậy, Toà án quân sự có thể tuỳ tiện để Toà án chuyên môn xử những việc thường.

Hay theo Sắc lệnh số 157/SL ngày 17/11/1950 Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà quy định:

Trong những vùng bị địch tạm chiếm có thể thiết lập một Toà án nhân dân vùng tạm bị chiếm, quản hạt của Toà án này có thể là một tỉnh, một số huyện trong nội tỉnh hay một số xã trong một huyện hay nhiều huyện. Toà án nhân dân vùng tạm bị chiếm do Nghị định Bộ trưởng Bộ Tư pháp thiết lập theo đề nghị của Uỷ ban kháng chiến hành chính liên khu sau khi hỏi Giám đốc Tư pháp. Nghị định sẽ định rõ quản hạt của Toà án được thành lập. Trong trường hợp cần thiết, Uỷ ban kháng chiến hành chính liên khu sau khi hỏi ý kiến Giám đốc Tư pháp liên khu có thể quyết định thành lập Toà án đó nhưng phải báo cáo ngay lên Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Toà án nhân dân vùng bị chiếm có thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện, Toà án nhân dân tỉnh và Toà án quân sự. Các bản án đều được thi hành ngay về việc hình và hộ, Toà án nhân dân vùng bị chiếm thuộc quyền điều khiển của Toà án nhân dân tỉnh nếu quản hạt của Toà án nhân dân vùng tạm bị chiếm là một tỉnh thì trực thuộc quyền điều khiển của Toà án nhân dân liên khu hoặc Toà phúc thẩm. Việc xét xử các việc thuộc thẩm quyền của Toà án quân sự Toà án nhân dân vùng bị chiếm thuộc quyền điều khiển của Toà án quân sự liên khu và Uỷ ban kháng chiến hành chính liên khu. Nếu có Toà án nhân dân liên khu thì thuộc quyền điều khiển của Toà án nhân dân liên khu.

Từ những thông tư và các sắc lệnh trên chúng ta thấy trong thời gian đất nước mới giành được chính quyền cũng như trong chiến tranh và đặc biệt khi có lệnh thiết quân luật thì quyền hạn của quân đội và thẩm quyền xét xử các tội phạm của Toà án quân sự là rất rộng. Hầu như Toà án binh trong những năm tháng đó đảm nhiệm toàn bộ hoạt động tố tụng kể cả điều tra và xét xử tất cả các tội phạm. Bởi lẽ, trong tình hình lúc bấy giờ do chúng ta mới giành được chính quyền để bảo vệ chính quyền non trẻ đó đòi hỏi phải có sự chuyên chính mạnh mẽ thì mới đảm bảo giữ được chính quyền trên toàn cõi. Mặt khác, do thời bấy giờ chúng ta chưa có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mọi công dân, tạo cho công dân có quyền bình đẳng trước pháp luật nên việc quy định và mở rộng quyền hạn cho quân đội nói chung cũng như thẩm quyền xét xử các tội phạm cho Toà án quân sự nói riêng là hoàn toàn phù hợp.

Mặt khác, xuất phát từ tính chất quan trọng của việc thiết quân luật để bảo vệ chủ quyền quốc gia, trật tự an toàn xã hội và giữ vững nền độc lập dân tộc, bảo vệ quyền lợi cho nhân dân thì hầu hết các tội phạm xảy ra trong thời gian đó đều giao cho Toà án quân sự xét xử cả khinh tội và trọng tội và Toà án quân sự còn có quyền cho hoặc không cho Toà án chuyên môn xử những việc thường. Luật Quốc phòng năm 2005 hiện nay quy định: Việc xét xử tội phạm xảy ra ở địa phương trong thời gian thi hành lệnh thiết quân luật do Toà án quân sự đảm nhiệm. Như vậy, cũng tương tự như trước đây, Luật Quốc phòng hiện nay xác định tất cả các tội phạm xảy ra trong thời gian và ở địa bàn thiết quân luật đều do Toà án quân sự xét xử tức là thẩm quyền xét xử chung của các Toà án quân sự không còn bó hẹp như quy định của Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự và Thông tư liên tịch số 01/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 18/4/2005 của Toà án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ Công an – Bộ Quốc phòng nữa mà đã được mở rộng, quy định này là hoàn toàn phù hợp với thực tế nhiệm vụ cách mạng trong tình hình hiện nay.

2. Việc xét xử các tội phạm của Tòa án quân sự trong một số trường hợp cụ thể

2.1. Người phạm tội, phạm tội trong thời gian thiết quân luật và ở địa bàn thiết quân luật

Đây là trường hợp đối tượng phạm tội là người thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự theo pháp luật hiện hành cũng như các đối tượng khác không thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự theo quy định của pháp luật hiện hành mà phạm tội trong thời gian và địa bàn thiết quân luật theo như quy định của Luật Quốc phòng năm 2005. Tất cả các đối tượng này đều thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự.

2.2. Người phạm tội vừa phạm tội trong thời gian và địa bàn thiết quân luật vừa phạm tội ngoài thời gian và ngoài địa bàn thiết quân luật

Đây là những trường hợp một người vừa phạm tội trong thời gian thiết quân luật và ở địa bàn thiết quân luật lại vừa phạm tội trước khi có lệnh thiết quân luật và ở ngoài địa bàn thiết quân luật. Theo quy định thì Toà án quân sự chỉ xét xử tội phạm xảy ra ở địa bàn thiết quân luật đối với mọi đối tượng, còn đối với dân thường tức là những người không thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự theo quy định của Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự và Thông tư liên tịch số 01 thì thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân. Tuy nhiên, trong những trường hợp này sẽ xảy ra hai trường hợp: một là, một người phạm tội trước khi có lệnh thiết quân luật và ở ngoài địa bàn thiết quân luật nhưng họ lại là đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự theo như quy định của pháp luật hiện hành thì đương nhiên Toà án quân sự xét xử cả tội họ thực hiện trong thời gian và địa bàn thiết quân luật và các tội phạm mà họ thực hiện trước đó tức là Toà án quân sự xét xử toàn bộ vụ án; trường hợp thứ hai đó là thời gian phạm tội trước đó của họ không trong thời gian thiết quân luật, không thuộc địa bàn thiết quân luật và họ lại không phải là đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự theo như các văn bản hướng dẫn hiện hành thì tuỳ từng trường hợp nếu quá trình điều tra tội phạm mà họ thực hiện trước đó thấy có khó khăn và ảnh hưởng đến việc xét xử kịp thời tội phạm mà họ thực hiện trong thời gian và ở địa bàn thiết quân luật, nếu thấy cần thiết phải tách vụ án thì Toà án nhân dân xét xử tội phạm của họ đã thực hiện trước đó còn các tội phạm mà họ thực hiện trong thời gian và thuộc địa bàn thiết quân luật thì do Toà án quân sự xét xử, còn nếu thấy việc điều tra các tội phạm mà họ thực hiện trước đó thuận lợi và không ảnh hưởng đến quyền tham gia theo tố tụng hình sự và lợi ích hợp pháp của người phạm tội thì Toà án quân sự xét xử toàn bộ vụ án.

Ngoài ra, qua nghiên cứu có ý kiến cho rằng trong những trường hợp này nên giao cho Toà án quân sự xét xử toàn bộ vụ án. Bởi lẽ, một mặt do tính chất nhiệm vụ và yêu cầu của tình thế cách mạng nếu việc thiết quân luật do yêu cầu của chiến tranh hoặc yêu cầu đặc biệt của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Luật Quốc phòng quy định việc xét xử các tội phạm ở địa bàn thiết quân luật do Toà án quân sự đảm nhiệm một mặt do tính chất yêu cầu của việc thiết quân luật; mặt khác, chủ yếu mà pháp luật quan tâm đến đó là đối tượng thực hiện tội phạm, nên nếu người phạm tội thực hiện tội phạm ở địa bàn thiết quân luật và thực hiện cả tội phạm ở ngoài địa bàn thiết quân luật thì Toà án quân sự xét xử toàn bộ vụ án không nhất thiết phải tách vụ án ra để giao cho Toà án nhân dân xét xử mà vẫn bảo đảm quyền lợi cho bị cáo và cũng phù hợp với Sắc lệnh 77/SL ngày 29/5/1946 trước kia đó là ngoài việc xét xử những vụ phạm pháp về khinh tội và trọng tội Toà án quân sự có thể tuỳ tiện để cho Toà án chuyên môn xét xử những việc thường.

3. Địa bàn xét xử các tội phạm trong thời gian và địa bàn thiết quân luật

3.1. Quy định về phân định địa bàn xét xử của Tòa án quân sự

Theo quy định của pháp luật hiện hành nếu không có việc thiết quân luật thì việc xét xử của Toà án quân sự được thực hiện theo Quyết định số 79/2004/QĐ-BQP ngày 07/6/2004 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về phân định địa bàn xét xử của các Toà án quân sự. Theo đó, trong trường hợp địa bàn thiết quân luật thuộc về địa phương nào của quân khu, khu vực nào thì Toà án quân sự quân khu, khu vực đó sẽ thực hiện nhiệm vụ xét xử đối với các tội phạm ở địa bàn quân khu, khu vực đó, thẩm quyền xét xử của các Toà án quân sự các cấp vẫn thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự và các văn bản nêu trên. Tuy nhiên, khi thực hiện thẩm quyền xét xử các tội phạm trong thời gian và địa bàn thiết quân luật trong thực tế sẽ xảy ra một số trường hợp sau đây:

3.2. Địa bàn xét xử của Tòa án quân sự trong thời gian thiết quân luật

Khi địa bàn thiết quân luật trong phạm vi hẹp ở một hoặc một số địa phương và thuộc phạm vi của một quân khu, khu vực thì khi có tội phạm xảy ra thì Toà án quân sự quân khu, khu vực đó sẽ xét xử các vụ án theo thẩm quyền.

Khi địa bàn thiết quân luật ở nhiều địa phương, nhiều tỉnh và nhiều quân khu khác nhau thì tội phạm xảy ra ở địa phương nào, quân khu, khu vực nào thì quân khu, khu vực đó xét xử.

Trong trường hợp nếu địa bàn thiết quân luật ở nhiều tỉnh khác nhau hoặc nhiều quân khu, khu vựckhác nhau thì nếu tội phạm xảy ra ở tỉnh nào thuộc địa bàn của Toà án quân sự nào thì Toà án quân sự đó xét xử như trường hợp trên. Nếu tội phạm xảy ra ở hai tỉnh hoặc hai quân khu, khu vực khác nhau thì tuỳ từng trường hợp nếu Viện kiểm sát truy tố ra Toà án quân sự nào thì Toà án quân sự đó xét xử. Cụ thể như sau:

Theo quy định của pháp luật hiện hành khi chưa có thiết quân luật việc xét xử của Toà án quân sự được thực hiện theo văn bản liên ngành Viện kiểm sát quân sự trung ương và Toà án quân sự trung ương số 139/QĐLN ngày 26/5/1990 ” Hướng dẫn về quan hệ tố tụng giữa các Toà án quân sự và Viện kiểm sát quân sự trong truy tố và xét xử”.

Án xảy ra ở đơn vị nào, Viện kiểm sát quân sựđơn vị đó truy tố và tham gia xét xử tại Toà án quân sự nơi tội phạm được thực hiện;

Trong những trường hợp không xác định rõ nơi thực hiện tội phạm mà có bị can phạm tội trên nhiều địa bàn khác nhau thì Viện kiểm sát quân sự truy tố và tham gia xét xử nơi có đơn vị quản lý người phạm tội đóng quân.

Trường hợp vụ án có nhiều bị can thuộc nhiều đơn vị khác nhau và phạm tội ở nhiều nơi thì Viện kiểm sát quân sự truy tố và tham gia xét xử tại Toà án quân sự nơi có đơn vị quản lý bị can chính trong vụ án.

3.3. Địa bàn thiết quân luật khi có nhiều tội phạm xảy ra

Xuất phát từ việc quản lý nhà nước ở địa bàn thiết quân luật do quân đội quản lý, đảm nhiệm. Do vậy, chỉ huy đơn vị là người đứng đầu trong địa bàn đó có thẩm quyền quyết định mọi công việc có liên quan đến quản lý nhà nước ở địa bàn thiết quân luật. Vì vậy, việc giao cho Toà án quân sự xét xử toàn bộ các tội phạm xảy ra ở địa bàn thiết quân luật là hoàn toàn phù hợp. Tuy nhiên, do biên chế số lượng cán bộ Thẩm phán, Thư ký và bộ máy giúp việc của Toà án quân sự được xác định hoạt động trong điều kiện chỉ giải quyết số lượng án theo quy định của pháp luật ở điều kiện đất nước bình thường không có việc thiết quân luật. Cho nên, tuỳ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nếu địa bàn thiết quân luật hẹp, có thể chỉ ở một huyện hoặc một tỉnh và căn cứ vào số lượng tội phạm xảy ra không nhiều thì việc xét xử của Toà án quân sự sẽ đảm nhiệm được toàn bộ theo như biên chế và tổ chức hiện tại, nhưng nếu địa bàn thiết quân luật rộng, có thể ở nhiều huyện thậm chí nhiều tỉnh tội phạm xảy ra quá nhiều thì giải quyết thế nào.

Theo quy định tại Điều 39 của Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự để đảm bảo cho các Toà án quân sự thực hiện chức năng, nhiệm vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quyết định điều động Thẩm phán từ Toà án quân sự này đến làm nhiệm vụ tại Toà án quân sự khác cùng cấp sau khi thống nhất ý kiến với Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Quyết định số 615/QĐ-BQP ngày 21/4/2000 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về việc uỷ quyền thuyên chuyển Thẩm phán Toà án quân sự; theo quyết định này thì Bộ trưởng Bộ Quốc phòng uỷ quyền cho Chánh án Toà án quân sự Trung ương quyết định thuyên chuyển Thẩm phán từ Toà án quân sự này đến Toà án quân sự khác cùng cấp trong trường hợp cần thiết để làm nhiệm vụ xét xử. Do vậy, trong những trường hợp này căn cứ vào tình hình cụ thể số lượng các vụ án phải giải quyết nếu quá nhiều Toà án quân sự quản hạt quá tải thì Chánh án Toà án quân sự Trung ương sẽ thực hiện chức năng thẩm quyền của mình ra Quyết định điều động Thẩm phán từ Toà án quân sự này đến làm nhiệm vụ xét xử tại Toà án quân sự khác sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Việc điều động các chức danh chuyên môn khác được thực hiện theo Thông tư liên tịch số 28/2004/TTLT-BQP-TANDTC ngày 04/3/2004 hướng dẫn về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và điều động đối với các chức vụ quản lý, chức danh chuyên môn nghiệp vụ trong ngành Toà án quân sự. Cho nên, chúng tôi thấy cũng cũng hoàn toàn phù hợp và không ảnh hưởng gì đến việc xét xử các vụ án theo thời gian luật định cũng như chất lượng, hiệu quả của công tác xét xử.

3.4. Địa bàn thiết quân luật khi các Tòa án quân sự bị đánh chiếm không còn khả năng thực hiện hoạt động xét xử

Đây là những trường hợp do mất ổn định chính trị có thể do bạo loạn các phần tử phản động nổi dậy chống lại chính quyền bắt bớ, giết hại cán bộ chính quyền trong đó có việc đánh chiếm trụ sở, bắt giết cán bộ của Toà án quân sự làm cho việc xét xử các tội phạm ở địa bàn quản hạt của các Toà án quân sự đó không đảm nhiệm được. Trong những trường hợp này vì chưa có văn bản nào hướng dẫn nhưng theo chúng tôi ta có thể coi đây là trường hợp đặc biệt của tranh chấp thẩm quyền theo Điều 175 Bộ luật Tố tụng hình sự. Cho nên, những vụ án xảy ra ở địa bàn thiết quân luật thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự khu vực mà Toà án quân sự khu vực quản hạt không còn khả năng xét xử thì sẽ do Chánh án Toà án Toà án quân sự quân khu đó quyết định giao cho Toà án quân sự khu vực còn lại của quân khu đó xét xử. Trường hợp nếu quân khu đó chỉ có một Toà án quân sự khu vực hiện tại như Toà án quân sự Thủ đô Hà Nội và tương lai sau này như các Toà án quân sự của các quân khu khác khi không còn khả năng xét xử thì việc xét xử các vụ án ở địa bàn đó sẽ do Chánh án Toà án quân sự trung ương quyết định. Nếu những vụ án ở địa bàn thiết quân luật thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự quân khu quản hạt mà Toà án quân sự quân khu đó không còn khả năng xét xử thì sẽ do Chánh án Toà án quân sự trung ương quyết định giao cho Toà án quân sự quân khu khác xét xử sau khi thống nhất ý kiến với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

4. Việc xét xử phúc thẩm các tội phạm ở địa bàn thiết quân luật của các Tòa án quân sự

Việc xét xử phúc thẩm các vụ án ở địa bàn thiết quân luật; trước hết chúng ta vẫn tuân thủ việc xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Tức là việc xét xử vẫn phải thực hiện theo quy trình khi bản án, quyết định của Toà án sơ thẩm xét xử có kháng cáo, kháng nghị hoặc bị kháng cáo, kháng nghị thì Toà án án quân sự quân khu và tương đương sẽ xét xử phúc thẩm. Tuy nhiên, cũng tương tự như Toà án quân sự khu vực tuỳ từng trường hợp cụ thể Chánh án Toà án quân sự trung ương có thể điều động Thẩm phán của Toà án quân sự quân khu này sang xét xử ở Toà án quân sự quân khu khác nếu số lượng án nhiều để đảm bảo kịp thời, đúng thời gian luật định hoặc quyết định giao cho Toà án quân sự quân khu khác xét xử phúc thẩm các vụ án sơ thẩm có kháng cáo hoặc bị kháng cáo, kháng nghị nếu Toà án quân sự quân khu thuộc địa bàn quản hạt không còn khả năng xét xử.

4.1. Việc xét xử các vụ án xảy ra Tòa án quân sự đã thụ lý nhưng chưa xét xử thì lệnh thiết quân luật đã bãi bỏ

Trong những trường hợp này vụ án đó cho dù đối tượng có thuộc thẩm quyền xét xử hay không thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự theo quy định của pháp luật hiện hành thì Toà án quân sự vẫn xét xử toàn bộ vụ án. Bởi lẽ, cho dù lệnh thiết quân luật đã được bãi bỏ nhưng theo quy định của Luật Quốc phòng thì tất cả các tội phạm xảy ra trong thời gian thiết quân luật do Toà án quân sự đảm nhiệm. Tức là chỉ cần xác định thời điểm phạm tội của họ xem có nằm trong khoảng thời gian thiết quân luật và có thuộc địa bàn thiết quân luật theo quy định của lệnh thiết quân luật hay không còn việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm đó khi lệnh thiết quân luật còn hay đã hết hiệu lực thì không liên quan và ảnh hưởng gì đến việc tiến hành tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng đang tiến hành tố tụng đối với tội phạm đó.

Trường hợp khi lệnh thiết quân luật đã được bãi bỏ mới phát hiện tội phạm của một người được thực hiện trong thời gian và ở địa bàn thiết quân luật thì do Toà án quân sự hay Toà án nhân dân xét xử. Về nguyên tắc theo quy định của Luật Quốc phòng thì: Tất cả các tội phạm xảy ra trong thời gian và ở địa bàn thiết quân luật đều do Toà án quân sự xét xử. Tuy nhiên, do tính chất của việc thiết quân luật xét thấy trật tự an toàn xã hội đã được ổn định, việc thiết quân luật không còn cần thiết và Nhà nước đã ra lệnh bãi bỏ lệnh thiết quân luật thì theo chúng tôi trong những trường hợp này Toà án quân sự chỉ xét xử khi đối tượng phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự theo quy định của pháp luật hiện hành, còn nếu đối tượng phạm tội đó không thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự theo quy định của pháp luật hiện hành thì giao cho Toà án nhân dân xét xử; bởi lẽ: Có trường hợp khi lệnh thiết quân luật được bãi bỏ thời gian rất dài mới phát hiện được hành vi phạm tội của họ thực hiện trong thời gian và địa bàn thiết quân luật lúc đó khi tình hình đã chuyển biến, tính chất, yêu cầu cấp thiết phải trừng trị đối với tội phạm đó không còn nữa thì cũng không nhất thiết cứ phải Toà án quân sự xét xử mà nên giao cho Toà án nhân dân xét xử sẽ thuận lợi hơn. Còn trường hợp ngay sau khi lệnh thiết quân luật được bãi bỏ mà phát hiện tội phạm của họ được thực hiện trong thời gian và địa bàn thiết quân luật thì Toà án quân sự hay Toà án nhân dân xét xử sẽ được giải quyết theo quy định về tranh chấp thẩm quyền xét xử theo quy định tại Điều 175 Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành.

4.2. Việc bảo vệ các phiên tòa do tòa án quân sự xét xử trong thời gian và địa bàn thiết quân luật

Xuất phát từ tình hình thực tiễn việc xét xử các vụ án hình sự của các Toà án quân sự hiện tại chủ yếu được thực hiện thông qua các phiên toà xét xử lưu động, công khai tại các đơn vị, địa phương nơi xảy ra tội phạm với mục đích thông qua phiên toà để mọi người nắm bắt được diễn biến vụ án, đồng thời răn đe giáo dục, nâng cao nhận thức và ý thức pháp luật cho quân nhân, nhân dân và các đối tượng khác.

Hiện tại căn cứ vào việc Chỉ thị 2045/CT-QP ngày 25/9/2000 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về tổ chức lực lượng cảnh vệ bảo vệ trụ sở và phục vụ hoạt động xét xử của các Toà án quân sự. Tuy nhiên, trong tình hình thực tế hiện nay khi chưa xảy ra việc thiết quân luật thì lực lượng cảnh vệ trong các đơn vị quân đội do không phải là lực lượng chuyên trách, mặt khác nhiều đơn vị không đủ quân số chỉ có khung thường trực nên việc bảo vệ các phiên toà lớn, phiên toà xét xử điển hình, phiên toà xét xử điểm là rất khó khăn. Vì vậy, theo chúng tôi trong thời gian thiết quân luật khi Toà án quân sự xét xử các vụ án hình sự tại địa bàn thiết quân luật thì ngoài việc sử dụng lực lượng cảnh vệ của quân đội trong các đơn vị, người chỉ huy phụ trách địa bàn thiết quân luật, theo yêu cầu của Toà án yêu cầu lực lượng cảnh sát làm nhiệm vụ bảo vệ các phiên toà do Toà án nhân dân xét xử khi chưa có lệnh thiết quân luật có nghĩa vụ phối hợp với các đơn vị quân đội làm nhiệm vụ bảo vệ các phiên toà xét xử của các Toà án quân sự và dẫn giải bị cáo về các trại giam, trại tạm giam theo yêu cầu của Toà án quân sự.

4.3. Việc báo cáo hoạt động xét xử của Tòa án quân sự trong thời gian và địa bàn thiết quân luật

Căn cứ vào tính chất, mục đích của hoạt động thiết quân luật; khi thiết quân luật mọi hoạt động quản lý nhà nước tại địa bàn thiết quân luật được giao cho quân đội thực hiện. Do vậy, căn cứ vào tình hình tội phạm xảy ra trong địa bàn, Toà án quân sự có thẩm quyền xét xử và Toà án được giao xét xử các vụ án xảy ra trong thời gian và địa bàn thiết quân luật phải trực tiếp liên hệ với người chỉ huy quân đội cao nhất được giao quản lý địa bàn thiết quân luật để phối hợp hiệp đồng cụ thể về các mặt của công tác bảo đảm cho hoạt động xét xử của Toà án quân sự. Người chỉ huy cao nhất trong địa bàn thiết quân luật có nghĩa vụ chỉ đạo các đơn vị quân đội thuộc quyền và các lực lượng khác liên quan có trách nhiệm phối hợp với Toà án quân sự thực hiện các công tác bảo đảm để xét xử các vụ án theo yêu cầu của Toà án quân sự.

5. Một số kiến nghị đề xuất hoàn thiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử của các Tòa án quân sự trong thời gian và địa bàn thiết quân luật

Quán triệt Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết số 67/NQ-ĐUQSTƯ ngày 08/3/2007 của Đảng uỷ quân sự trung ương nay là Quân uỷ trung ương về lãnh đạo thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp trong Quân đội đến năm 2020, từ trước tới nay về thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự luôn xác định Toà án quân sự có thẩm quyền xét xử tất cả các tội phạm do quân nhân, công nhân viên chức quốc phòng gây ra và những người khác phạm tội liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội. Thẩm quyền trên xuất phát từ khách thể quan trọng nhất mà các Toà án quân sự tập trung bảo vệ là kỷ luật và sức mạnh chiến đấu của quân đội. Việc củng cố tăng cường thiết chế quân sự, chính trị trong đó có các cơ quan tư pháp trong quân đội là rất cần thiết nhằm tăng cường công tác pháp chế, đấu tranh chống diễn biến hoà bình phòng chống tội phạm góp phần giữ nghiêm kỷ luật và tăng cường sức mạnh chiến đấu của quân đội, góp phần quan trọng trong đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ nghiêm pháp luật nhà nước. Để bảo đảm sự thống nhất của pháp luật, căn cứ vào Điều 32 của Luật Quốc phòng quy định về việc xét xử các tội phạm trong thời gian thi hành lệnh thiết quân luật do Toà án quân sự đảm nhiệm. Cho nên, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức Toà án nhân dân, Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự và các văn bản pháp luật khác cần bổ sung quy định và có các hướng dẫn cụ thể về hoạt động tố tụng không những của Toà án quân sự mà còn hoạt động tố tụng của các cơ quan như điều tra và Viện kiểm sát quân sự đối với hoạt động điều tra, truy tố các tội phạm xảy ra trong thời gian và địa bàn thiết quân luật. Cụ thể chúng tôi xin đề xuất và kiến nghị một số nội dung cụ thể sau đây:

1. Các văn bản như Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức Toà án nhân dân, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Pháp lệnh Tổ chức Tòa án quân sự, Pháplệnh Tổ chức Viện kiểm sát quân sự, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự cần sửa đổi, bổ sung thêm nội dung trình tự thủ tục tố tụng đối với các vụ án xảy ra trong thời gian và địa bàn thiết quân luật. Cụ thể như sau:

– Điều 171 Bộ luật Tố tụng hình sự bổ sung thêm khoản 3 với nội dung sau:

2. Toà án quân sự xét xử mọi tội phạm xảy ra trong thời gian và địa bàn thiết quân luật.

– Điều 5 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự đề nghị bổ sung thêm khoản 3 với nội dung sau:

3. Khi đất nước hoặc vùng lãnh thổ được tuyên bố trong tình trạng chiến tranh hoặc tình trạng khẩn cấp về quốc phòng thì Toà án quân sự xét xử tất cả các tội phạm xảy ra trong thời gian và địa bàn thiết quân luật.

4. Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng cần có văn bản liên ngành hướng dẫn các cơ quan Công an, Viện kiểm sát và các Toà án địa phương trong việc phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng, các đơn vị trong quân đội thực hiện việc giải quyết các tội phạm xảy ra trong thời gian và địa bàn thiết quân luật.

5. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng có văn bản hướng dẫn cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và sự phối hợp của các đơn vị quân đội thực hiện nhiệm vụ tại địa bàn thiết quân luật với các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong trong việc điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm xảy ra trong thời gian và địa bàn thiết quân luật.

6. Liên ngành các cơ quan tiến hành tố tụng trong quân đội cần ban hành cơ chế phối hợp giải quyết các vụ án hình sự trong thời gian và địa bàn thiết quân luật. Quy định về chế độ báo cáo hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm trong thời gian và địa bàn thiết quân luật./.

Vũ Thành Long

Chánh tòa, Tòa Phúc thẩm Tòa án Quân sự Trung ương

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bàn về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử

12/07/2013

Quá trình giải quyết một vụ án hình sự là một quá trình đòi hỏi các yêu cầu khắt khe về thủ tục tố tụng, không giống như giải quyết một vụ việc dân sự, kinh tế, lao động hay hành chính. Quá trình này có sự tham gia của nhiều cơ quan và người tiến hành tố tụng khác nhau, nên thẩm quyền của các chủ thể này cũng khác nhau từ lúc khởi tố vụ án cho đến giai đoạn xét xử vụ án. Quá trình này được tiến hành thông qua các giai đoạn tố tụng như sau: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, giai đoạn điều tra vụ án hình sự, giai đoạn truy tố và giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Có thể nói, giai đoạn đầu tiên cũng là giai đoạn rất quan trọng của vụ án chính là giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, “với tính chất là một giai đoạn độc lập và đầu tiên của tố tụng hình sự, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể để xác định các tiền đề pháp luật về nội dung (vật chất) và pháp luật về hình thức (tố tụng) của việc điều tra vụ án hình sự”(1). Giai đoạn này nhằm làm cơ sở cho việc xác định một người nào đó có hành vi phạm tội (hành vi nguy hiểm cho xã hội) hay không.

1. Thẩm quyền khởi tố vụ án của Tòa án

Tại Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự quy định: “Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội. Không được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ và trình tự do Bộ luật này quy định”. Tiếp theo, khoản 1 Điều 104 của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra”.

Như vậy, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, chủ thể có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự khá rộng, gồm: Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, Tòa án thông qua Hội đồng xét xử. Với ý nghĩa đấu tranh phòng, chống và kịp thời phát hiện tội phạm, việc Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định như vậy là nhằm tránh bỏ sót tội phạm. Khi Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiến hành hoạt động điều tra, truy tố không phát hiện được tội phạm, thì đến giai đoạn xét xử tại Tòa án, thông qua việc xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phát hiện được “tội phạm mới” hoặc “người phạm tội mới” sẽ có thẩm quyền khởi tố vụ án.

2. Những bất cập về thẩm quyền khởi tố vụ án của Tòa án

Theo quy định tại Điều 137 của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001), thì thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân được quy định cụ thể: “Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”, bên cạnh đó, tại Điều 134 Hiến pháp năm 1992 cũng quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Tòa án: “Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Những quy định trên của Hiến pháp năm 1992, được cụ thể hóa ở Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.

Thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân bao gồm thực hành quyền công tố và kiểm sát. Quyền khởi tố vụ án hình sự cũng là một nội dung của thực hành quyền công cố được liệt kê một cách rõ ràng tại Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, cụ thể tại khoản 1 Điều 13, khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: “Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can”(2).

Như vậy, quyền hạn và chức năng của Viện kiểm sát nhân dân có sự tách bạch hoàn toàn với quyền hạn và chức năng của Tòa án. Với nhiệm vụ duy nhất được ghi nhận của Tòa án nhân dân trong Hiến pháp năm 1992 chính là nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong quá trình xét xử, các chức năng khác như: Khởi tố, điều tra, truy tố không phải chức năng của Tòa án. Các chức năng này được giao cho các cơ quan như Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra… Việc quy định như vậy, đảm bảo cho Tòa án có điều kiện tốt nhất để thi hành nhiệm vụ của mình, tập trung xét xử dựa trên những chứng cứ hợp pháp, thông qua hoạt động xét xử vụ án nhằm đưa ra kết luận ai là người có tội hay không có tội và ai là người phải chịu hình phạt hay không phải chịu hình phạt… Bên cạnh đó, quy định này cũng đảm bảo nguyên tắc: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”(3), đây là nguyên tắc cốt lõi của nền tư pháp hầu hết các quốc gia trên thế giới.

Với quy định nêu trên của Hiến pháp năm 1992, thì thẩm quyền của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân đã được phân biệt rạch ròi. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 104 của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền của Hội đồng xét xử (Tòa án) trong giai đoạn xét xử tại phiên tòa, nếu phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần điều tra, thì Hội đồng xét xử có những sự lựa chọn: (1) Quyết định khởi tố vụ án hình sự; hoặc (2) Đề nghị Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự.

Ngoài Điều 104 Bộ luật Tố tụng hình sự nêu trên, nếu trong quá trình xét xử tại phiên tòa, khi có một trong các căn cứ được quy định tại Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa thay mặt Hội đồng xét xử ra quyết định yêu cầu điều tra bổ sung(4).

Khi đánh giá và phân tích về thẩm quyền khởi tố vụ án của Hội đồng xét xử tại Điều 104 Bộ luật Tố tụng hình sự, rất có thể việc khởi tố vụ án của Hội đồng xét xử là có căn cứ, bị can sau này trở thành bị cáo và phải chịu sự trừng phạt của pháp luật. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là liệu có khách quan hay không và sẽ tác động thế nào đến quyền, lợi ích hợp pháp của bị can (có thể sau này là bị cáo) khi chủ thể khởi tố vụ án cũng chính là chủ thể có thẩm quyền xét xử vụ án đó? Yếu tố khách quan trong một vụ án hình sự là vô cùng quan trọng. Khách quan ở đây có nghĩa là một chủ thể đứng bên ngoài vụ việc, xem xét lời buộc tội, gỡ tội của các bên liên quan dựa trên những chứng cứ hợp pháp thì ai đúng, ai sai, ai là người vô tội cần được trả tự do… Yếu tố khách quan đó cần được đảm bảo trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án, thực hành quyền xét xử cần dựa trên những đối đáp, lập luận có căn cứ pháp lý, có chứng cứ hợp pháp… thể hiện sự độc lập, sự vô tư, khách quan của mình. Tuy nhiên, với quy định tại Điều 13 và Điều 104 của Bộ luật tố Tụng hình sự, Hội đồng xét xử thay mặt cho Tòa án tham gia vào hai giai đoạn: (1) Giai đoạn khởi tố vụ án và (2) Giai đoạn xét xử. Quy định như vậy khiến cho yếu tố khách quan của vụ án không được đảm bảo.

2.1.Xét về mặt lý luận

Khi phân tích trách nhiệm và quyền hạn của Tòa án và Viện kiểm sát, có thể nhận thấy “thực hành quyền công tố”(5) (bao gồm quyền khởi tố vụ án) là chức năng của Viện kiểm sát được quy định trong Hiến pháp. Hiến pháp không quy định cho Tòa án có quyền “thực hành quyền công tố”. Như vậy, việc quy định cho Tòa án cũng có thẩm quyền khởi tố vụ án tại Điều 13 và Điều 104 Bộ luật Tố tụng hình sự là không phù hợp với Hiến pháp trong việc phân định thẩm quyền giữa Tòa án và Viện kiểm sát, cũng như quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 về “bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật”. Hiến pháp năm 1992 quy định chỉ có Viện kiểm sát mới là chủ thể thực hành quyền công tố, còn chức năng của Tòa án chỉ duy nhất là xét xử, nhưng Bộ luật Tố tụng hình sự lại quy định rằng Tòa án cũng có quyền khởi tố vụ án thông qua Hội đồng xét xử là không phù hợp với Hiến pháp.

2.2. Xét về mặt thực tiễn

Thực tiễn quá trình áp dụng các quy định tại Điều 13 và Điều 104 của Bộ luật Tố tụng hình sự gặp phải những vướng mắc sau đây:

Thứ nhất, Hội đồng xét xử không phải là cơ quan điều tra và cũng không có thẩm quyền điều tra nên trên thực tế, thẩm quyền khởi tố vụ án của Tòa án mà cụ thể là Hội đồng xét xử không khả thi vì việc quan trọng trước giai đoạn khởi tố chính là giai đoạn điều tra ban đầu. ở giai đoạn này, các cơ quan chuyên môn có thẩm quyền điều tra căn cứ vào tin tố giác tội phạm, phạm tội quả tang… tiến hành các công việc chuyên môn, nghiệp vụ nhằm thu thập chứng cứ làm căn cứ khởi tố vụ án, trong khi đó Tòa án không có chức năng và những công cụ này. Ngoài ra, nếu chỉ dựa vào việc xét xử tại phiên tòa qua phần xét hỏi, phần tranh tụng thì chưa đủ căn cứ để khẳng định chắc chắn là có “tội phạm mới” hoặc “người phạm tội mới”. Tòa án (cụ thể là Hội đồng xét xử) không có quyền và điều kiện để điều tra, xác minh thêm những vấn đề tình nghi – ngoại trừ việc xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa.

Thứ hai, để có đủ căn cứ khi ra quyết định khởi tố vụ án, thời gian điều tra, xác minh tội phạm là khá dài so với việc xét xử tại phiên tòa(6). Trong giai đoạn điều tra, cơ quan điều tra có thể triển khai các hoạt động nghiệp vụ mà Tòa án không thể có để xác định tội phạm. Ngoài ra, khi xét xử có nhiều trường hợp tại phiên tòa bị cáo khai lung tung nhằm làm khó hoạt động xét xử của Hội đồng xét xử, nhằm đổ tội cho người khác hay có hành vi khai không trung thực để nhận tội thay người khác…

Thứ ba, nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm (tin tố giác, tin báo về tội phạm, kiểm tra, xác minh nguồn tin…), cơ quan điều tra có thời hạn từ 20 ngày đến 2 tháng (sự việc có tình tiết phức tạp) để chuẩn bị và triển khai nghiệp vụ, nhưng luật không quy định Hội đồng xét xử có bao nhiêu thời gian chuẩn bị, xác minh những vấn đề cần thiết để chứng minh cho nhận định của mình. Luật chỉ đơn giản quy định: “Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra” hoặc “quyết định yêu cầu điều tra bổ sung”. Như vậy, rõ ràng là tính chủ động của Hội đồng xét xử không được đảm bảo.

Với những luận cứ nêu trên, có thể đi đến một số nhận định: (1) Hội đồng xét xử không có giai đoạn điều tra ban đầu một cách kỹ càng, chỉ thông qua xét hỏi với thời lượng ngắn; (2) Những câu trả lời, tranh tụng tại phiên tòa chưa đủ căn cứ để chứng minh kết luận của Hội đồng xét xử là đúng hay sai, sẽ dẫn tính khách quan của vụ án không được đảm bảo; (3) Hội đồng xét xử ở vào tình huống bị động và suy cho cùng đây là điều luật khó áp dụng trên thực tế. Khi có căn cứ quy định tại Điều 104 hoặc Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự, nhằm đảm bảo tính khách quan, chính xác của vụ án, Hội đồng xét xử có thể lựa chọn phương án khác đó là ra quyết định yêu cầu điều tra bổ sung gửi cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung.

3. Hướng đề xuất

Điều 13 và Điều 104 của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định thẩm quyền khởi tố vụ án của Hội đồng xét xử xét về mặt lý luận và thực tiễn là không phù hợp với Hiến pháp năm 1992 và không khả thi trên thực tế. Sau khi xem xét những khía cạnh pháp lý của vấn đề, chúng tôi kiến nghị cần phải sửa đổi quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, cụ thể:

Đối với quy định tại khoản 1 Điều 104 của Bộ luật Tố tụng hình sự về quyết định khởi tố vụ án hình sự cần sửa đổi cho phù hợp như sau: “Hội đồng xét xử yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra, nếu Viện kiểm sát ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự thì Hội đồng xét xử có quyền khiếu nại quyết định không khởi tố vụ án đó theo quy định tại Chương XXXV của Bộ luật này khi có căn cứ cho rằng quyết định không khởi tố vụ án của Viện kiểm sát là trái pháp luật”.

Ngoài ra, tại Điều 13 của Bộ luật Tố tụng hình sự về trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự cũng cần sửa đổi theo hướng không quy định thẩm quyền khởi tố vụ án của Tòa án như phân tích nêu trên.

4. Kết luận

Từ những luận cứ nêu trên, việc sửa đổi, bổ sung Điều 13 và Điều 104 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 là cần thiết và là nhiệm vụ cấp bách. Nếu Hội đồng xét xử vừa là chủ thể khởi tố, vừa là người xét xử vụ án sẽ không đảm bảo tính khách quan cũng như không đảm bảo tính chủ động của Hội đồng xét xử, chưa tối ưu hóa nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự chính là “tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân”. Thông qua việc sửa đổi, bổ sung sẽ đảm bảo hiệu lực pháp lý của Hiến pháp và trật tự của văn bản quy phạm pháp luật

Tài liệu tham khảo:

(1). GS – TSKH Lê Cảm, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội. Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố tụng, Tạp chí Luật học, số 02/2004.

(2). Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.

(3). Điều 130 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001).

(4). Khoản 2 Điều 199 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

(5). Theo quy định tại Điều 13 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.

(6). Theo quy định tại khoản 2 Điều 103 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về nhiệm vụ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố: “Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Trong trường hợp sự việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn để giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn, nhưng không quá hai tháng”.

Nguyễn Văn Vinh

Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Đăng ký giữ quốc tịch theo luật quốc tịch Việt Nam

22/10/2014

Quốc tịch (Nationality) là vấn đề mang ý nghĩa chính trị, pháp lý hết sức sâu sắc, thể hiện quan hệ gắn bó giữa Nhà nước và công dân, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của công dân đối với Nhà nước và quyền, trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân. Để xác định quốc tịch, các nước trên thế giới đều ban hành Luật Quốc tịch (Nationality Law/ Nationality Act) làm cơ sở pháp lý xác định quốc tịch của công dân mình. Đối với Việt Nam, ngay từ ngày mới giành được độc lập, ngày 20/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 53/SL quy định về quốc tịch và trong suốt quá trình xây dựng đất nước, Nhà nước Việt Nam đã ba lần xây dựng và sửa đổi Luật Quốc tịch (Law on Vietnamese Nationality) vào năm 1988, 1998 và 2008. Luật Quốc tịch năm 2008 có nhiều quy định mới so với pháp luật về quốc tịch trước đây, trong đó có chế định đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam. Bài viết này giới thiệu về một số vấn đề liên quan tới chế định đăng ký giữ quốc tịch theo Luật Quốc tịch Việt Nam, đồng thời nêu một số ý kiến nhằm đảm bảo tính khả thi của chế định này.

1. Theo pháp luật về quốc tịch của các nước trên thế giới thì vấn đề quốc tịch được xác định theo hai nguyên tắc cơ bản: Nguyên tắc quốc tịch triệt để hoặc nguyên tắc quốc tịch hữu hiệu. Các nước thực hiện theo nguyên tắc quốc tịch triệt để chỉ công nhận một quốc tịch và được quy định rất chặt chẽ, nhiều nước quy định khi công dân của họ nhập quốc tịch nước khác thì mặc nhiên mất quốc tịch gốc (Trung Quốc, Nhật Bản, Cộng hòa Liên bang Đức, Thụy Điển, Hàn Quốc…)(1) hoặc muốn nhập quốc tịch nước họ phải thôi quốc tịch nước gốc (Cộng hòa Séc, Lào…)(2). Các nước thực hiện theo nguyên tắc quốc tịch hữu hiệu thực hiện quốc tịch thực tế, có những nước công khai thừa nhận nhiều quốc tịch (Bỉ, Canađa, Úc…)(3), có những nước mặc dù không công khai thừa nhận nhiều quốc tịch, nhưng cũng không cấm công dân được có hai hoặc nhiều quốc tịch (Pháp, Mỹ…)(4).

Từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nay, pháp luật về quốc tịch Việt Nam tuân thủ nguyên tắc một quốc tịch. Điều 4 Sắc lệnh số 53/SL ngày 20/10/1945 quy định những người Việt Nam đã vào dân Pháp sẽ coi là công dân Việt Nam và phải đến Phòng Hộ tịch Tòa Thị chính khai bỏ quốc tịch Pháp(5). Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1988 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam” (Điều 3), Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 cũng khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam” (Điều 3) và Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 tiếp tục khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có quy định khác” (Điều 4). Tuy nhiên, do biến động lịch sử, nhất là Việt Nam trải qua hai cuộc chiến tranh trường kỳ, giành độc lập, người Việt Nam ra nước ngoài sinh sống với số lượng khá lớn. Theo số liệu của Ủy ban người Việt Nam ở nước ngoài, hiện có khoảng 4,5 triệu người Việt Nam định cư ở gần 100 nước trên thế giới, tập trung ở các nước Mỹ, Úc, Pháp, Đức… Một số lượng lớn người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã nhập quốc tịch nước ngoài, nhưng do nhiều nước không bắt buộc người nước ngoài xin nhập quốc tịch phải thôi quốc tịch gốc và bản thân họ không xin thôi quốc tịch Việt Nam, nên họ vẫn có quốc tịch Việt Nam. Vì vậy, nguyên tắc một quốc tịch được quy định tại pháp luật về quốc tịch Việt Nam không được thực hiện một cách triệt để.

Để giải quyết rõ ràng tình trạng hai quốc tịch đối với một bộ phận người Việt Nam định cư ở nước ngoài, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam trước ngày Luật này có hiệu lực thì vẫn còn có quốc tịch Việt Nam và trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, phải đăng ký với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để giữ quốc tịch Việt Nam. Chính phủ quy định trình tự, thủ tục đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam” (khoản 2 Điều 13). Đây là quy định mới so với Luật Quốc tịch năm 1988 và Luật Quốc tịch năm 1998. Quy định này là chế định mềm dẻo, nhằm công nhận người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn được giữ quốc tịch Việt Nam khi đã nhập quốc tịch nước ngoài, nhưng chưa làm thủ tục thôi quốc tịch Việt Nam. Mục đích của quy định đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam nhằm giải quyết rõ ràng về quốc tịch, qua đó xác định chế độ pháp lý đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tạo cơ sở để Nhà nước xây dựng, hoạch định và thực hiện các chính sách, nhằm tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài theo pháp luật, đồng thời tạo điều kiện cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài có thể đóng góp tốt nhất cho sự phát triển đất nước theo Nghị quyết số 36/NQ-TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài(6) và tinh thần của Hiến pháp năm 2013(7).

Về thời hạn đăng ký giữ quốc tịch, Luật Quốc tịch quy định trong thời hạn 5 năm, người Việt Nam định cư ở nước ngoài chưa mất quốc tịch Việt Nam phải đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài nhằm tạo điều kiện cho họ có đủ thời gian suy nghĩ, cân nhắc, lựa chọn việc giữ quốc tịch Việt Nam phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của mình. Theo khoản 3 Điều 26 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, nếu hết thời hạn đăng ký giữ quốc tịch thì bị mất quốc tịch Việt Nam. Khoản 2 Điều 18 của Nghị định số 78/2009/NĐ-CP ngày 22/9/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam đã quy định cụ thể thời hạn đăng ký giữ quốc tịch từ ngày 01/7/2009 (ngày Luật có hiệu lực) đến hết ngày 01/7/2014. Trong thời hạn từ ngày 01/7/2009 đến hết ngày 01/7/2014, người Việt Nam định cư ở nước ngoài còn quốc tịch Việt Nam mà không đăng ký giữ quốc tịch đương nhiên bị mất quốc tịch Việt Nam. Sau ngày 01/7/2014, những người này muốn có quốc tịch Việt Nam thì phải làm thủ tục xin trở lại quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật về quốc tịch.

Với mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký giữ quốc tịch, Nghị định số 78/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định trình tự, thủ tục đăng ký giữ quốc tịch đơn giản và giao cơ quan đại diện Việt Nam thường trú hoặc kiêm nhiệm tại nước nơi người người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang có quốc tịch hoặc đang thường trú thực hiện việc đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam. Người có nguyện vọng đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam chỉ cần nộp tờ khai cùng giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam quy định tại Điều 11 của Luật Quốc tịch Việt Nam sẽ được cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài tiếp nhận và cấp giấy tờ xác nhận người đó đã đăng ký giữ quốc tịch. Trường hợp người đăng ký giữ quốc tịch có giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam sẽ được cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài ghi vào số đăng ký quốc tịch là người đó có quốc tịch Việt Nam; trường hợp không đủ giấy tờ chứng minh có quốc tịch Việt Nam sẽ được cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài phối hợp với các cơ quan liên quan ở trong nước xác minh làm rõ.

2. Sau khi Luật Quốc tịch năm 2008 được ban hành, các bộ, ngành hữu quan đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam để thống nhất thực hiện. Bộ Ngoại giao đã chỉ đạo các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài tiến hành tuyên truyền, vận động bằng nhiều hình thức để cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc đăng ký giữ quốc tịch.

Luật Quốc tịch năm 2008 ban hành, được dư luận trong và ngoài nước hoan nghênh, vì đây là một luật tiến bộ. Chế định đăng ký giữ quốc tịch là một chế định mới nhằm pháp lý hóa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Tuy nhiên, qua 5 năm thực hiện, thực tiễn cho thấy các quy định liên quan đến chế định đăng ký giữ quốc tịch vẫn còn bất cập, nên ảnh hưởng đến kết quả thực hiện, cụ thể:

Thứ nhất, đối tượng đăng ký giữ quốc tịch quy định tại khoản 2 Điều 13 của Luật Quốc tịch là người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam còn quá chung chung, cần phân loại cụ thể để cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhận thức được sự cần thiết và ý nghĩa quan trọng của việc đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam.

Thứ hai, theo quy định, người Việt Nam định cư ở nước ngoài tính đến ngày 01/7/2009, ngày Luật Quốc tịch năm 2008 có hiệu lực, mà vẫn còn quốc tịch Việt Nam thì mới được đăng ký giữ quốc tịch. Như vậy, những người Việt Nam ra định cư ở nước ngoài sau ngày 01/7/2009 không được áp dụng quy định này và sau một thời gian nhất định sẽ có một số lượng lớn người Việt Nam định cư ở nước ngoài không làm thủ tục đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam. Với quy định này, cơ quan chức năng Việt Nam không nắm được cụ thể về tình hình, số liệu người Việt Nam định cư ở nước ngoài và như vậy mục tiêu đặt ra khi ban hành quy định về đăng ký giữ quốc tịch không đạt được.

Thứ ba, người Việt Nam định cư ở nước ngoài muốn được giữ quốc tịch Việt Nam phải có giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam theo Điều 11 của Luật Quốc tịch Việt Nam, tức là phải có một trong các giấy tờ sau: Giấy khai sinh; giấy chứng minh nhân dân; hộ chiếu Việt Nam; quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam; quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam; quyết định công nhận việc nuôi con nuôi đối với trẻ em là người nước ngoài; quyết định cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Điều kiện này trùng với điều kiện được cấp hộ chiếu Việt Nam tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Vì vậy, đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài khi có giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam, họ sẽ đến cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đề nghị được cấp hộ chiếu Việt Nam chứ không đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam.

Thứ tư, theo quy định, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đến đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam được cấp giấy xác nhận việc người đó đến đăng ký giữ quốc tịch. Tuy nhiên, giấy xác nhận này không có giá trị chứng minh quốc tịch Việt Nam và cũng không phải là cơ sở để được ưu đãi khi về nước đầu tư, mua nhà hoặc cấp phát các loại giấy tờ khác. Vì vậy, mặc dù thủ tục đăng ký giữ quốc tịch quy định rất đơn giản, chỉ cần có tờ khai kèm theo giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam, nhưng không khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài đến làm thủ tục đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam.

Thứ năm, theo quy định, trong thời hạn 5 năm người Việt Nam định cư ở nước ngoài phải đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam, hết thời hạn đăng ký sẽ bị mất quốc tịch Việt Nam. Quy định này nhằm giải quyết những vấn đề tồn đọng về quốc tịch nhưng không lường được tính hiệu quả và hậu quả sau 5 năm thực hiện sẽ có một số lượng lớn người Việt Nam định cư ở nước ngoài lâm vào tình trạng không quốc tịch.

Do những bất cập nêu trên, qua 05 năm thực hiện, theo số liệu của Bộ Ngoại giao, tính đến ngày 31/12/2013 mới có hơn 6.000 người đến các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài làm thủ tục đăng ký giữ quốc tịch, đặc biệt ở các nước có đông người Việt Nam định cư thì tỷ lệ đăng ký giữ quốc tịch rất thấp như ở Mỹ chỉ có gần 700 người, Úc gần 800 người. Tỷ lệ người đăng ký giữ quốc tịch so với số lượng 4,5 triệu người Việt Nam định cư ở nước ngoài là rất thấp.

3. Để tháo gỡ những bất cập của Luật Quốc tịch năm 2008 về vấn đề đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam, đồng thời tạo điều kiện thực hiện tốt Nghị quyết số 36/NQ-TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, tại kỳ họp thứ 7, khoá XIII, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008. Nội dung sửa đổi, bổ sung lần này chỉ tập trung vào những vấn đề liên quan đến việc đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam(8) và bãi bỏ quy định không đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam sẽ đương nhiên mất quốc tịch Việt Nam(9).

So với Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, thì đối tượng đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam được quy định cụ thể chỉ là người Việt Nam định cư ở nước ngoài chưa mất quốc tịch Việt Nam mà không có giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam mới đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài có giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam và người Việt Nam định cư ở nước ngoài sau ngày 01/7/2009 (ngày Luật Quốc tịch có hiệu lực) không phải đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam. Luật sửa đổi, bổ sung không quy định thời hạn phải đăng ký giữ quốc tịch đã giải quyết được tình trạng sẽ có một số lượng lớn người Việt Nam định cư ở nước ngoài bị mất quốc tịch Việt Nam do không đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam; đồng thời quy định người Việt Nam định cư ở nước ngoài đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam sẽ được cấp hộ chiếu Việt Nam. Quy định này nhằm khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam, đảm bảo quyền lợi của người đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã tập trung giải quyết những vấn đề bất cập của Luật Quốc tịch năm 2008. Tuy nhiên, để đảm bảo tính khả thi của các quy định này, có một số quy định pháp luật cần phải được hướng dẫn cụ thể:

Thứ nhất, về đối tượng đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam được quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch thì chỉ là những người chưa mất quốc tịch Việt Nam mà không có giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam. Như vậy, về bản chất số người này chưa có đủ cơ sở để xác định họ có quốc tịch Việt Nam và đòi hỏi cơ quan chức năng phải có biện pháp cụ thể để xác định quốc tịch của họ như quy định qua các loại giấy tờ để xác định quốc tịch, trách nhiệm của các cơ quan trong việc xác minh về nhân thân của người đăng ký giữ quốc tịch để xác lập về quốc tịch.

Thứ hai, hộ chiếu Việt Nam chỉ được cấp cho công dân Việt Nam, những trường hợp đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam, nhưng chưa được xác định có quốc tịch Việt Nam, thì chưa được cấp hộ chiếu Việt Nam. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Quốc tịch quy định đăng ký để được xác định có quốc tịch Việt Nam và cấp hộ chiếu Việt Nam là nhằm gắn kết giữa việc đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam với việc cấp hộ chiếu Việt Nam, đồng thời quy định rõ quyền lợi của người đăng ký giữ quốc tịch. Tuy nhiên, để tránh tình trạng hiểu nhầm, cần phải quy định rõ hộ chiếu Việt Nam chỉ cấp cho những trường hợp đã xác định rõ có quốc tịch Việt Nam.

Thứ ba, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch bỏ quy định về thời hạn đăng ký giữ quốc tịch đã tháo gỡ được áp lực về việc mất quốc tịch Việt Nam do không đăng ký giữ quốc tịch của người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Vì vậy, các cơ quan chức năng và đặc biệt là cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài phải làm tốt công tác tuyên truyền để người Việt Nam định cư ở nước ngoài hiểu và thực hiện nghiêm chỉnh chính sách của Đảng và Nhà nước

Tài liệu tham khảo:

(1). Ví dụ, Luật Quốc tịch Đức (Germany Nationality Act) quy định về vấn đề này tại Điều 17 và Điều 25.

(2). Ví dụ, Luật Quốc tịch Lào (Law on Lao Nationality 2004) quy định về vấn đề này tại Điều 14, khoản 9: “Article 14.9: Foreign citizens or apatrid individuals may acquire Lao nationality upon request if: They agree to relinquish their previous nationality (unless they have no nationality)”.

Tạm dịch: Công dân nước ngoài hoặc các cá nhân không có quốc tịch có thể được nhập quốc tịch Lào theo yêu cầu nếu: Họ đồng ý từ bỏ quốc tịch trước đó của họ (nếu như họ có quốc tịch).

(3). Ví dụ, Đạo luật Quốc tịch Úc (Australian Citizenship Act 2007) quy định về vấn đề hai quốc tịch (dual citizenship) tại Mục 21 và 27.

Websitecủa Chính phủ Úc về vấn đề này: http://www.citizenship.gov.au/current/dual_citizenship/

(4). Chẳng hạn ở Mỹ, Mục 101 (22) của Đạo luật Nhập cư và Quốc tịch Mỹ (INA) cho rằng thuật ngữ “Công dân Hoa Kỳ” có nghĩa là (A) một công dân của Hoa Kỳ, hoặc (B) một người, mặc dù không phải là công dân Hoa Kỳ, nhưng thể hiện lòng trung thành bền vững đối với Hoa Kỳ.

(5). Sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ lâm thời số 53 ngày 20/10/1945, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy định:“Kể từ ngày ban hành Sắc lệnh này, những người Việt Nam đã vào dân Pháp, sẽ coi là công dân Việt Nam. Những người ấy phải đến khai bỏ quốc tịch Pháp ở Phòng Hộ tịch Toà Thị chính của một trong những thành phố sau này: Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, Huế, Nha Trang, Sài Gòn, Biên Hoà hay ở một trong những nơi mà Uỷ ban Bắc bộ, Trung bộ hay Nam bộ sẽ định sau.

Cha hoặc mẹ sẽ khai thay cho các con vị thành niên.

Những người nào không ra khai sẽ mất quyền bầu cử và ứng cử” (Điều thứ 4).

(6). Nghị quyết số 36/NQ-TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoàinêu rõ:“Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi và hỗ trợ đồng bào ổn định cuộc sống, yên tâm làm ăn sinh sống, hội nhập vào đời sống xã hội nước sở tại, đồng thời duy trì quan hệ gắn bó với quê hương, đất nước” và “giải quyết nhanh chóng, thỏa đáng yêu cầu của người Việt Nam ở nước ngoài liên quan đến vấn đề quốc tịch” (Chương III, Điều 1).

(7). Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam quy định về quyền quốc tịch tại Điều 17 và khẳng định việc đảm bảo quyền lợi của người Việt Nam định cư tại nước ngoài ở Điều 18.

(8). Khoản 2 Điều 13 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008: Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam trước ngày Luật này có hiệu lực thì vẫn còn quốc tịch Việt Nam.

Người Việt Nam định cư ở nước ngoài chưa mất quốc tịch Việt Nam mà không có giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam theo quy định tại Điều 11 của Luật này thì đăng ký với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để được xác định có quốc tịch Việt Nam và cấp hộ chiếu Việt Nam.

(9). Khoản 3 Điều 26 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 về căn cứ mất quốc tịch Việt Nam: Không đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam theo quy định tại khoản 2 Điều 13 của Luật này.

Nguyễn Thị Thùy Linh *& Phạm Hoàng Linh**

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Nâng cao vai trò của Hội thẩm nhân dân trong quá trình xét xử

03/06/2013

Cách mạng Tháng Tám thành công đã ghi thêm một trang sử vẻ vang, chói lọi của lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Bằng thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nhân dân ta đã đập tan ách phát xít Nhật, lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp gần 100 năm, xóa bỏ chế độ phong kiến hàng nghìn năm, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình.

Để giữ được thành quả cách mạng non trẻ lúc bấy giờ, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa dưới sự lãnh đạo của Đảng đã nhanh chóng tổ chức, xây dựng bộ máy chính quyền cách mạng, để duy trì ổn định trật tự xã hội, thực thi quyền lực nhà nước, trong đó có Tòa án. Ngày 13/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 33C thiết lập các Toà án Quân sự, đánh dấu sự ra đời của Ngành Toà án Việt Nam. Cùng với tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, cho đến nay, Ngành Tòa án được tổ chức, thành lập và hoạt động theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). Sau 25 năm đổi mới, tình hình kinh tế, đời sống của nhân dân ngày càng phát triển về mọi mặt, chính trị trong nước được ổn định. Đạt được kết quả trên là nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự đoàn kết của toàn Đảng, toàn dân ta. Bên cạnh những thành tựu về kinh tế, chính trị, tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật và tranh chấp giữa các cá nhân, tổ chức diễn ra ngày càng đa dạng và phức tạp. Các loại tội phạm xuất hiện trong nhiều lĩnh vực như: Xâm phạm an ninh quốc gia; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền sở hữu tài sản công dân; xâm phạm trật tự an toàn xã hội trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, bảo vệ môi trường, ma túy, tham nhũng… các chiêu thức và thủ đoạn diễn ra rất tinh vi. Các loại tội phạm hình sự không còn diễn ra ở một địa phương, một vùng, mà còn mang tính xuyên quốc gia, vì vậy hệ thống pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ dân sự, hình sự, hành chính, thương mại… được Quốc hội hết sức quan tâm, ban hành và sửa đổi cho phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước. Tuy nhiên, các quan hệ xã hội diễn ra ngày càng phức tạp, nhiều chế định pháp luật không đi trước đón đầu được, đây là những vướng mắc cho quá trình quản lý và duy trì trật tự xã hội hiện nay.

Trước tình hình đó, được sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, những năm qua, Ngành Tư pháp nước ta đã từng bước hoàn thiện, nâng cao chất lượng xét xử theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Lịch sử phát triển của nền tư pháp nước ta từ năm 1945 đến nay cho thấy, hội thẩm giữ vai trò rất quan trọng trong hoạt động xét xử của Toà án. Đội ngũ hội thẩm qua nhiều thế hệ đã cùng với các thẩm phán luôn luôn song hành với nhau để thực hiện nhiệm vụ cao cả, bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Sự hiện diện của hội thẩm nhân dân trong xét xử và kết quả hoạt động của hội thẩm lại càng thêm khẳng định rằng, nhân dân luôn phải có tiếng nói của mình trong hoạt động tư pháp, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân. Quá trình tổng kết hoạt động xét xử hàng năm, hầu hết các bản án, các quyết định của Tòa án được ban hành đúng pháp luật, hoàn toàn khách quan, dân chủ, đạt tình đạt lý, bản án tuyên có tính thuyết phục cao. Những thành tựu trong quá trình xét xử của cơ quan tòa án với sự tham gia tích cực và có hiệu quả của hội thẩm đã tôn vinh thêm vị trí, vai trò và uy tín của Toà án tăng thêm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Ở nhiều bình diện khác nhau, để giải quyết một vụ án không phải chỉ riêng cơ quan tòa án tham gia mà đó là cả một quá trình tiến hành tố tụng của rất nhiều cơ quan, từ điều tra đến truy tố, xét xử. Tòa án nhân dân chỉ là một mắt xích của quá trình tố tụng nhưng lại là một mắt xích vô cùng quan trọng. Vì theo quy định của Hiến pháp, thì chỉ Tòa án mới có chức năng xét xử, tuyên án một người có tội, hay không có tội. Trong phạm vi chức năng của mình, Toà án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự tôn trọng tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Bằng hoạt động của mình, Toà án nhân dân góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, với chủ nghĩa xã hội, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, kỷ luật lao động, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, phòng ngừa và chống các tội phạm và các việc làm vi phạm pháp luật, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.

Để quá trình xét xử vụ án được công bằng, đúng người, đúng tội, nhân dân được thể hiện ý kiến của mình trong quá trình xét xử, thì một trong những nguyên tắc là phiên tòa cấp sơ thẩm đều phải có sự tham gia của hội thẩm nhân dân. Tại các phiên tòa sơ thẩm, số lượng hội thẩm nhân dân đều nhiều hơn số lượng thẩm phán, khi quyết định bản án đều bỏ phiếu và quyết định theo đa số, hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán trong quá trình xét xử. Qua đó, chúng ta thấy được vai trò của hội thẩm nhân dân khi xét hỏi tại phiên tòa, cũng như quá trình nghị án là hết sức quan trọng. Vấn đề này đã được quy định rất chặt chẽ trong Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Tố tụng hình sự và Bộ luật Tố tụng dân sự.

Qua quá trình đánh giá chất lượng xét xử của hội thẩm nhân dân hiện nay, bên cạnh những ưu điểm còn có một số vướng mắc nhất định như hội thẩm nhân dân tham gia xét xử nhưng chưa phát huy hết vai trò của mình, dẫn đến trách nhiệm của thẩm phán càng nặng nề nếu thiếu sự chia sẻ của hội thẩm. Từ đó chất lượng hoạt động xét xử của hội thẩm còn hạn chế, cụ thể:

Thứ nhất, hội thẩm nhân dân hiện nay còn mang tính kiêm nhiệm nhiều. Quá trình cơ cấu hội thẩm theo từng lĩnh vực (như giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, tài chính, hưu trí…) với mục đích khi có các vụ án mà đương sự, bị cáo tại phiên tòa có liên quan đến các lĩnh vực nào, thì sẽ được mời đến tham gia nghiên cứu hồ sơ để xét xử. Theo lý luận, thì hội thẩm nhân dân là người đem hơi thở của nhân dân vào trong quá trình phán quyết các bản án, khi các vụ án có liên quan đến chuyên môn, nghiệp vụ của mình thì trong nhiều trường hợp, hội thẩm sẽ am hiểu về lĩnh vực đó hơn thẩm phán. Tuy nhiên, hội thẩm mặc dù có trình độ chuyên môn riêng nhưng còn hạn chế rất nhiều về trình độ pháp lý, đây là vấn đề bất cập trong thực tiễn hiện nay.

Thứ hai, nhiều trường hợp hội thẩm nhân dân được thẩm phán gửi lịch xét xử trước cả tháng nhưng đến ngày xét xử lại bận công việc đột xuất không tham gia phiên tòa, khi đó thư ký rất bị động trong việc sắp xếp hội thẩm khác thay thế để mở phiên tòa đúng thời gian. Bởi vì, các hội thẩm nhân dân hiện nay chủ yếu làm việc theo cơ cấu, cho nên việc tuân thủ lịch xét xử, cũng như công tác nghiên cứu hồ sơ các hội thẩm thường xem nhẹ. Tại phiên tòa, chủ tọa hỏi là chính, các hội thẩm tham gia phiên tòa rất ít hỏi, nếu có hỏi thì không đúng trọng tâm.

Thứ ba, trách nhiệm của hội thẩm nhân dân được Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân quy định rất rõ, nhưng thực tiễn trong quá trình xét xử, nếu oan sai, án bị sửa, thì chỉ có thẩm phán chịu hoàn toàn trách nhiệm trước Chánh án, chính vì sự lỏng lẻo giữa cơ quan tòa án và hội thẩm nhân dân dẫn đến các hội thẩm chưa phát huy hết trách nhiệm và nghĩa vụ của mình.

Thứ tư, vì hội thẩm hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm, thu nhập của hội thẩm chủ yếu là từ lương ở cơ quan, nên ý thức trách nhiệm trong quá trình xét xử không áp dụng theo việc thi hành công vụ như ở cơ quan được; tổng kết cuối năm ở cơ quan không xem hoạt động của cán bộ, công chức kiêm nhiệm là hội thẩm làm tiêu chí đánh giá năng lực công tác, mức độ hoàn thành nhiệm vụ. Chính vì thế, không phát huy được tinh thần trách nhiệm của hội thẩm trong công việc xét xử.

Từ những vấn đề trên, để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, nâng cao vai trò của hội thẩm nhân dân, thì mỗi hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử cần hiểu được chỉ có Tòa án là chủ thể có quyền nhân danh Nhà nước đưa ra phán quyết đối với bản án. Sự phán quyết ấy có ý chí của hội thẩm và sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích của Nhà nước, của cá nhân, tổ chức, ảnh hưởng đến uy tính của quốc gia trên trường quốc tế.

Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, phát huy quyền tự do dân chủ sâu rộng cho nhân dân, thì công tác áp dụng pháp luật phải càng được coi trọng. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục khẳng định vai trò, tầm quan trọng của chế định hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử. Đồng thời, quá trình xây dựng pháp luật về hội thẩm cần có quy định rõ về quyền và nghĩa vụ của hội thẩm khi tham gia phiên tòa; từng bước nâng cao chất lượng hội thẩm từ lúc tuyển chọn, cho đến khi xét xử.

Để nâng cao trách nhiệm của hội thẩm nhân dân khi tham gia xét xử tại phiên tòa, cần giải quyết một số vấn đề sau:

– Hội thẩm nhân dân cần hiểu rằng, trong quá trình xét xử, hội thẩm và thẩm phán xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật. Để giải quyết được tốt vấn đề này, thì Ngành Tòa án hàng năm cần phải có kế hoạch quan tâm đầu tư kinh phí để bồi dưỡng nâng cao trình độ pháp lý cho đội ngũ hội thẩm. Vì khi hội thẩm nhân dân có sự am hiểu pháp lý như thẩm phán, thì chắc chắn rằng, trong quá trình giải quyết vụ án, hội thẩm sẽ không lúng túng, khi phán quyết bản án sẽ khách quan, khoa học. Có như vậy, mới giải quyết tốt vấn đề pháp luật đặt ra là thẩm phán và hội thẩm nhân dân ngang quyền nhau trong quá trình giải quyết vụ án.

– Cần quy định rõ ràng hơn về tiêu chuẩn lựa chọn hội thẩm nhân dân, vì điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình xét xử; quy định rõ về cách thức lựa chọn, cách thức thành lập đoàn hội thẩm, quy định trách một cách rõ ràng quyền và nghĩa vụ pháp lý cho hội thẩm; sáu tháng hoặc một năm, Tòa án nhân dân cần có hội nghị tổng kết tình hình xét xử của hội thẩm. Thông qua các cuộc hội nghị để đánh giá chất lượng hoạt động của hội thẩm, Đoàn hội thẩm, từ đó Ngành Tòa án cần có hướng giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc của hội thẩm nhân dân. Chánh án Tòa án nhân dân địa phương cần có mối liên hệ với cơ quan, đơn vị có cán bộ, công chức tham gia hội thẩm ở Tòa án mình. Để qua đó, có thông tin về ý thức, trách nhiệm hoạt động của hội thẩm tại Tòa án mình với cơ quan, tổ chức. Cần có quy định thêm về tiêu chuẩn đánh giá cán bộ, công chức là hội thẩm nhân dân trong nhiệm kỳ của mình hoạt động đúng pháp luật có thể được tăng lương trước thời hạn.

– Pháp luật cần quy định trước thời gian khai mạc phiên tòa yêu cầu hội thẩm nhân dân phải có thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án ít nhất một tuần mới được tham gia xét xử vụ án. Để tránh những trường hợp hội thẩm không đọc hồ sơ vụ án cũng tham gia xét xử, đồng thời tránh được trường hợp “chữa cháy” hội thẩm, chủ tọa phải phải thay thế bằng hội thẩm khác, trong khi đó, quyết định vụ án đem ra xét xử không có tên hội thẩm tham gia theo quyết định và chủ tọa phiên tòa lại phải giải thích cho các đương sự về bổ sung hội thẩm mới. Làm như vậy rất lúng túng cho hội thẩm nếu các đương sự không đồng ý các hội thẩm được bổ sung không theo quyết định mà đương sự đã nhận được.

– Kinh phí cho hội thẩm tham gia xét xử rất ít, chỉ có 50.000đ/ngày xét xử cũng như đọc hồ sơ vụ án, dẫn đến các hội thẩm thường không yên tâm, tập trung cho công việc xét xử. Cho nên, tư tưởng các hội thẩm được thẩm phán mời tham gia phiên tòa thông qua thư ký thường từ chối khéo là bận đi công tác, hoặc bận giải quyết công việc cơ quan.

– Trong quá trình cải cách tư pháp, cần nghiên cứu thêm quy định hội thẩm của một số nước trong khu vực và trên thế giới.

Trong điều kiện Nhà nước ta đang xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thì một trong những vấn đề nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án trong quá trình áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án đang được Đảng và Nhà nước quan tâm đặc biệt. Do vậy, các chức danh trong hội đồng xét xử như thẩm phán và hội thẩm nhân dân trong các phiên tòa càng phải thể hiện hết sức vai trò và trách nhiệm của mình. Vì hoạt động của các chức danh này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng xét xử. Những tiêu chuẩn bắt buộc đối với hội thẩm là hội tụ điều kiện về chuyên môn nghiệp vụ, tư cách đạo đức, lối sống, ngoài ra, các hội thẩm cần phải có nhiệt huyết với công việc, có như vậy mới hoàn thành được trách nhiệm xét xử của mình

ThS. Lê Văn Quyến

Trường Chính trị tỉnh Bình Phước

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số vướng mắt về áp dụng biện pháp cưỡng chế Thi hành án dân sự

23/01/2015

 

Câu hỏi 1: Khoản 3 Điều 67 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định phong tỏa tài khoản, Chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng chế…”. Nhưng trong thời gian này, đương sự chưa hết quyền thỏa thuận thi hành án và người phải thi hành án chưa hết thời gian tự nguyện thi hành án theo quy định tại Điều 45 Luật Thi hành án dân sự. Việc Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế là vi phạm nghiêm trọng đến quyền của người phải thi hành án?

Trả lời: Theo quy định của pháp luật thì thời hạn tự nguyện thi hành án là 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo quyết định thi hành án hợp lệ. Tuy nhiên, đối với các trường hợp đương sự có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án, thì Chấp hành viên có quyền áp dụng ngay các biện pháp quy định tại Chương IV của Luật này. Như vậy, không phải toàn bộ quyết định cưỡng chế phải được ra sau 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo.

Phong tỏa tài khoản không phải là biện pháp cưỡng chế thi hành án mà là biện pháp bảo đảm thi hành án. Việc phong tỏa tài khoản là biện pháp ngăn chặn tẩu tán tài sản, nên không nhất thiết phải sau 15 ngày, do vậy, việc Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế là đúng quy định của pháp luật, không được xem là vi phạm đến quyền lợi của người phải thi hành án.

Câu hỏi 2: Điều 71 Luật Thi hành án dân sự quy định về biện pháp cưỡng chế thi hành án. Trên thực tế phát sinh vướng mắc như sau: Theo bản án tuyên xác định ranh giới đất, cơ quan thi hành án dân sự thụ lý đơn yêu cầu thi hành án, đã tống đạt giấy báo tự nguyện thi hành án cho hai bên đương sự. Nhưng một bên không tự nguyện, nên cơ quan thi hành án dân sự triệu tập hai bên đến chứng kiến cùng các ngành chuyên môn, đại diện địa phương cho đo đạc, xuống mốc ranh giới như bản án tuyên và người yêu cầu thi hành án đã ký nhận vào biên bản nhận ranh giới đất. Sau đó, người này không tự nguyện thi hành, không chấp nhận và dời bỏ cột mốc. Người yêu cầu thi hành án khiếu nại là cơ quan thi hành án dân sự chưa thi hành xong bản án. Vấn đề này giải quyết thế nào? Có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án lại không?

Trả lời: Nội dung này đã được quy định tại khoản 4 Điều 8 Nghị định số58/2009/NĐ-CP: “Tài sản đã được giao trên thực tế cho người được nhận tài sản và người đó đã ký nhận vào biên bản giao, nhận tài sản nhưng sau đó bị đương sự chiếm lại thì cơ quan thi hành án dân sự không có trách nhiệm giao lại tài sản cho người được nhận tài sản. Người đã nhận tài sản có quyền yêu cầu Ủy ban nhân dân hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết”.

Câu hỏi 3: Vướng mắc trong việc thực hiện quy định tại Điều 74: Cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung. Trình tự, thủ tục xác định phân chia tài sản của người phải thi hành án có chung với người khác như thế nào?

Trả lời: Trước hết, cần phải có sự phân biệt giữa tranh chấp tài sản và yêu cầu xác định, phân chia quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản.

Tranh chấp liên quan đến tài sản đã kê biên và tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản… là vụ kiện dân sự. Vì vậy, khi có tranh chấp thì phải do Tòa án giải quyết theo quy định tại khoản 10, khoản 11 Điều 25 Bộ luật Tố tụng dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2011. Do vậy, trong trường hợp này, cơ quan thi hành án dân sự cần hướng dẫn các đương sự khởi kiện để Tòa án giải quyết.

Đối với việc xác định hoặc phân chia quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản mà không có tranh chấp thì được xác định là việc dân sự. Việc không có tranh chấp ở đây có thể được hiểu là tài sản đó có sự thống nhất, thỏa thuận giữa người phải thi hành án với người khác về việc thừa nhận tài sản đó không thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án mà thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người khác. Tuy nhiên, người được thi hành án không đồng ý với thỏa thuận đó hoặc cơ quan thi hành án dân sự nhận thấy thỏa thuận đó là trái quy định của pháp luật, ảnh hưởng đến việc thi hành án, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba, của người được thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự hướng dẫn các đương sự có thể tự mình yêu cầu Tòa án xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản để thi hành án.

Câu hỏi 4: Theo quy định tại Điều 99 Luật Thi hành án dân sự thì đương sự có quyền yêu cầu định giá lại tài sản kê biên trước khi thông báo công khai bán đấu giá tài sản. Trong trường hợp giá thẩm định có sự chênh lệch thì cơ quan thi hành án dân sự giải quyết như thế nào?

Trả lời: Để đảm bảo quyền yêu cầu định giá lại tài sản kê biên của đương sự trước khi có thông báo công khai việc bán đấu giá tài sản theo điểm b khoản 1 Điều 99 Luật Thi hành án dân sự, thì cơ quan thi hành án dân sự cần hướng dẫn cho đương sự thỏa thuận về giá tài sản hoặc lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản. Nếu các bên không thỏa thuận được về các nội dung nêu trên thì Chấp hành viên chấp nhận đơn yêu cầu định giá lại tài sản của đương sự và hướng dẫn cho đương sự quyền lựa chọn tổ chức thẩm định giá. Kết quả định giá lại của tổ chức thẩm định giá do đương sự lựa chọn được xác định làm giá khởi điểm bán đấu giá tài sản. Quá trình làm việc cần có biên bản cụ thể, chặt chẽ.

Câu hỏi 5: Điều 103 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Người phải thi hành án, người đang quản lý, sử dụng tài sản không giao tài sản bán đấu giá cho người mua được tài sản thì thủ tục cưỡng chế giao tài sản được thực hiện theo quy định tại các Điều 114, 115, 116 và 117 của Luật này”.

Thực tiễn công tác thi hành án có vướng mắc phát sinh: Số tiền thu được từ việc bán đấu giá tài sản do các tổ chức bán đấu giá tài sản chuyển sang được cơ quan thi hành án dân sự thực hiện ngay việc thanh toán cho người được thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được tiền. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp, do nhiều nguyên nhân, sau khi bán đấu giá tài sản thành công lại không thể giao ngay được tài sản cho người trúng đấu giá, dẫn tới việc người trúng đấu giá tài sản gửi nhiều đơn thư khiếu nại, đề nghị giao tài sản hoặc đề nghị hủy hợp đồng mua bán tài sản.

Trả lời: Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP của Chính phủ về bán đấu giá tài sản, khi ủy quyền bán đấu giá, cơ quan thi hành án được nhận tiền bán đấu giá tài sản sau khi trừ các chi phí bán đấu giá tài sản đồng thời phải có nghĩa vụ giao tài sản cho người trúng đấu giá trong một thời hạn nhất định được ghi trong hợp đồng, nghĩa vụ giao tài sản chỉ chấm dứt khi có đủ điều kiện theo quy định tại Điều 374 Bộ luật Dân sự. Khi nghĩa vụ giao tài sản chưa chấm dứt thì các nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán tài sản chưa hoàn thành, nên trong trường hợp cơ quan thi hành án dân sự chậm giao tài sản theo thời hạn trong hợp đồng thì người trúng đấu giá có quyền hủy bỏ hợp đồng mua bán tài sản đã ký kết và yêu cầu trả lại khoản tiền mua tài sản đã nộp. Do đó, khi chưa giao được tài sản cho người trúng đấu giá, khoản tiền bán đấu giá tài sản chưa được xác định là tiền thi hành án để thực hiện việc chi trả cho những người được thi hành án.

Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự và người trúng đấu giá, tránh đơn thư khiếu nại trong việc giao tài sản bán đấu giá, cơ quan thi hành án dân sự cần chú ý: Đối với khoản tiền bán đấu giá tài sản thu được khi chưa giao được tài sản cho người trúng đấu giá, cơ quan thi hành án làm thủ tục đứng tên gửi số tiền đó vào ngân hàng theo loại tiền gửi tiết kiệm 01 tháng, khi giao xong tài sản cho người trúng đấu giá thì khoản tiền đó được xác định là tiền thu để thi hành án và thực hiện thanh toán theo quy định tại Điều 47 Luật Thi hành án dân sự. Nếu nguời trúng đấu giá huỷ hợp đồng mua bán tài sản thì cơ quan thi hành án trả lại số tiền đó cho họ.

 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số vấn đề về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản

10/10/2014

1. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản

Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính, vi phạm hành chính được hiểu là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính. Theo đó, vi phạm hành chính trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản được hiểu là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.

Từ khái niệm nêu trên cho thấy, “vi phạm hành chính trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản” có 04 dấu hiệu cơ bản sau đây:

(i) Vi phạm hành chính trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản là hành vi trái pháp luật, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản; nguy hại (tính nguy hiểm) cho xã hội do hành vi gây ra ở mức độ thấp, không đáng kể, chưa hoặc không cấu thành tội phạm hình sự và hành vi đó được quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản (Điều 19, Điều 20 và Điều 21 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã). Đây chính là dấu hiệu “pháp định” của vi phạm.

(ii) Hành vi vi phạm phải là một hành vi khách quan đã được thực hiện (hành động hoặc không hành động), phải là một việc thực, chứ không phải chỉ tồn tại trong ý thức hoặc mới chỉ là dự định, đây có thể coi là dấu hiệu “vật chất” của vi phạm.

(iii) Hành vi vi phạm do một cá nhân hoặc tổ chức thực hiện, đây là dấu hiệu xác định “chủ thể” của vi phạm.

(iv) Hành vi vi phạm là hành vi có lỗi, tức là người vi phạm nhận thức được vi phạm của mình, hình thức lỗi có thể là cố ý, nếu người vi phạm nhận thức được tính chất trái pháp luật trong hành vi của mình, thấy trước hậu quả của vi phạm và mong muốn hậu quả đó xảy ra hoặc ý thức được hậu quả và để mặc cho hậu quả xảy ra; hình thức lỗi là vô ý trong trường hợp người vi phạm thấy trước được hậu quả của hành vi nhưng chủ quan cho rằng, mình có thể ngăn chặn được hậu quả hoặc không thấy trước hậu quả sẽ xảy ra dù phải thấy trước và có thể thấy trước được hậu quả của vi phạm.

2. Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản

Tại khoản 2 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: “Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính”. Theo đó, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.

2.1. Thẩm quyền xử phạt hành chính trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản

Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính là một trong những vấn đề quan trọng của pháp luật xử phạt vi phạm hành chính nói chung, pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động bán đấu giá tài sản nói riêng. Người có thẩm quyền xử phạt hành chính trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản được pháp luật quy định tại Điều 46 Luật Xử lý vi phạm hành chính, các điều 66, 67, 72, 73 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP và Điều 12 Nghị định số 54/2014/NĐ-CP ngày 29/5/2014 về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Ngành Tư pháp, bao gồm: (i) Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; (ii) Thanh tra viên, Trưởng Đoàn thanh tra chuyên ngành, Chánh Thanh tra Sở Tư pháp; (iii) Thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành, Trưởng Đoàn thanh tra chuyên ngành, Cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp, Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp. Ngoài những người có thẩm quyền xử phạt nêu trên, những người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của các cơ quan khác theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính, thì trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao mà phát hiện các hành vi vi phạm hành chính quy định theo Nghị định số 110/2013/NĐ-CP thuộc lĩnh vực hoặc địa bàn quản lý của mình cũng có quyền xử phạt.

Cũng theo quy định tại Điều 46 Luật Xử lý vi phạm hành chính, Điều 66, Điều 67 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP và Điều 12 Nghị định số 54/2014/NĐ-CP, những người có thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản bao gồm: (i) Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; (ii) Trưởng Đoàn thanh tra chuyên ngành, Chánh Thanh tra của Sở Tư pháp; (iii) Trưởng Đoàn thanh tra chuyên ngành, Cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp, Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp.

2.2. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính

Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Theo đó, mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật; việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật; việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng; chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy định, một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần, nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt về hành vi vi phạm hành chính đó, một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm, người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính; đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.

2.3. Hình thức xử phạt trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản

Theo quy định tại Mục 5 Chương II Nghị định số 110/2013/NĐ-CP, thì các hình thức xử phạt chính trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản bao gồm: Cảnh cáo; phạt tiền; tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề đấu giá có thời hạn từ 06 tháng đến 09 tháng và thời hạn 12 tháng. Trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản không áp dụng hình thức xử phạt bổ sung.

2.4. Các biện pháp khắc phục hậu quả

Theo quy định tại Mục 5 Chương II Nghị định số 110/2013/NĐ-CP, thì các biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản bao gồm: Hủy bỏ giấy tờ giả; buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm hành chính; hủy bỏ kết quả bán đấu giá tài sản.

3. Các giai đoạn áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản

Áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản là một hình thức thực hiện pháp luật, có vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thực hiện chức năng tổ chức và quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực bán đấu giá tài sản. Thông qua hình thức này, các quy định pháp luật được đưa vào cuộc sống một cách triệt để và chính xác, ý chí Nhà nước trở thành hiện thực nhằm đảm bảo cho bộ máy nhà nước, các tổ chức và mọi công dân hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật; bảo vệ kịp thời và có hiệu quả lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân. Để đảm bảo việc xử phạt vi phạm hành chính đúng người, đúng hành vi vi phạm, người có thẩm quyền xử phạt cần nắm vững và thực hiện đúng quá trình áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Có thể phân quá trình áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản thành các giai đoạn sau:

3.1. Phân tích, đánh giá những tình tiết khách quan của vụ việc

Đây là khâu đầu tiên có ý nghĩa quan trọng đối với việc áp dụng pháp luật. Để giải quyết vụ việc chính xác và đúng đắn chủ thể áp dụng pháp luật phải hiểu được bản chất của vụ việc, làm rõ tính chất pháp lý của nó, nắm vững các tình tiết và xem xét toàn diện, khách quan các chứng cứ, tài liệu có liên quan đến vụ việc. Trong trường hợp cần thiết phải sử dụng những biện pháp chuyên môn để xác định độ tin cậy của các chứng cứ, tài liệu. Đây là cơ sở thực tế để áp dụng pháp luật đúng đắn và chính xác.

3.2. Lựa chọn quy phạm pháp luật cần áp dụng

Đây là giai đoạn tiếp theo của quá trình áp dụng pháp luật. Sau khi đã xác định đầy đủ các dấu hiệu (đặc trưng) pháp lý của vụ việc đang xem xét, người có thẩm quyền phải lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp để giải quyết vụ việc đó. Trước hết, cần xác định vụ việc đó có thuộc sự điều chỉnh của pháp luật bán đấu giá tài sản và Nghị định số 110/2013/NĐ-CP hay không. Sau đó, cần xác định lựa văn bản pháp luật và quy phạm pháp luật cụ thể điều chỉnh quan hệ pháp luật đó. Sau khi tìm được quy phạm pháp luật thích hợp, người có thẩm quyền phải nghiên cứu để hiểu chính xác nội dung của quy phạm đó. Đây là hoạt động tư duy của chủ thể áp dụng pháp luật trên cơ sở các phương pháp giải thích pháp luật như: Phương pháp lôgíc, phương pháp giải thích về mặt văn phạm, phương pháp giải thích về mặt lịch sử, phương pháp giải thích hệ thống… Việc lựa chọn quy phạm pháp luật cần áp dụng phải đảm bảo các yêu cầu sau đây:

– Văn bản quy phạm pháp luật đã lựa chọn là văn bản chính thức và đang còn hiệu lực thi hành. Trong trường hợp có nhiều văn bản quy phạm pháp luật cùng điều chỉnh về một vấn đề, thì văn bản lựa chọn phải là văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn. Trường hợp cùng một vấn đề lại có hai văn bản cùng một cơ quan ban hành thì văn bản nào ban hành sau cùng là văn bản quy phạm pháp luật cần áp dụng.

– Quy phạm pháp luật lựa chọn để áp dụng phải là quy phạm pháp luật đang có hiệu lực ở thời điểm xảy ra vụ việc đang xem xét giải quyết.

3.3. Ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính

Đây là giai đoạn quan trọng nhất của quá trình áp dụng pháp luật, phản ánh kết quả của các giai đoạn áp dụng pháp luật trước đó.

Ở giai đoạn này, người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính xác định các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của bên tham gia quan hệ pháp luật, những biện pháp hay trách nhiệm pháp lý đối với người vi phạm.

Văn bản áp dụng pháp luật thể hiện trình độ và năng lực của người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Thông qua quyết định xử phạt vi phạm hành chính, những tình tiết của vụ việc được đánh giá chính thức về mặt pháp lý, các quyền và nghĩa vụ pháp lý được quy định trong các quy phạm pháp luật được cụ thể hóa trong từng trường hợp cụ thể.

Yêu cầu đặt ra đối với việc ra văn bản áp dụng pháp luật là quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải đảm bảo tính khách quan, chính xác, đúng với quy phạm pháp luật được áp dụng. Quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải được ban hành đúng thẩm quyền, đúng thời hạn, đúng hình thức (tên gọi, hình thức thể hiện) và nội dung của văn bản phải rõ ràng, chính xác về vụ việc, chủ thể cụ thể và chỉ áp dụng một lần.

3.4. Tổ chức thực hiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính

Đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình áp dụng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, bao gồm các hoạt động tổ chức nhằm đảm bảo về mặt kỹ thuật, vật chất để bảo đảm cho việc thực hiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính được đầy đủ, đúng đắn và chính xác.

Theo quy định tại Điều 73 Luật Xử lý vi phạm hành chính, cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính phải chấp hành quyết định xử phạt trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận quyết định xử phạt vi phạm hành chính; trường hợp quyết định xử phạt vi phạm hành chính có ghi thời hạn thi hành nhiều hơn 10 ngày thì thực hiện theo thời hạn đó. Trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì vẫn phải chấp hành quyết định xử phạt, trừ trường hợp trong quá trình giải quyết khiếu nại, khởi kiện nếu xét thấy việc thi hành quyết định xử lý vi phạm hành chính bị khiếu nại, khởi kiện sẽ gây hậu quả khó khắc phục thì người giải quyết khiếu nại, khởi kiện phải ra quyết định tạm đình chỉ việc thi hành quyết định đó theo quy định của pháp luật. Người có thẩm quyền xử phạt đã ra quyết định xử phạt có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra việc chấp hành quyết định xử phạt của cá nhân, tổ chức bị xử phạt và thông báo kết quả thi hành xong quyết định cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu về xử lý vi phạm hành chính của Bộ Tư pháp, cơ quan tư pháp địa phương.

Đoàn Văn Hường

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Kinh nghiệm triển khai thực hiện cơ chế một cửa tại một số quốc gia, liên hệ thực tiễn với Việt Nam

30/12/2013

1. Lý thuyết quản lý công mới (New Public Management) với sự xuất hiện của cơ chế một cửa

Cùng với sự ra đời của lý thuyết về quản lý công cũng như quản trị công mới, cải cách hành chính và đổi mới các mô hình của Chính phủ trong việc cung cấp dịch vụ công được tạo điều kiện thuận lợi hơn cả về mặt lý luận và thực tiễn. Trong bối cảnh của các nền kinh tế chuyển đổi và định hướng thị trường đã dẫn đến những yêu cầu cấp thiết của việc tiếp cận một cách nhanh chóng, dễ dàng của người dân đối với các dịch vụ công của Nhà nước. Nghiên cứu về các mô hình cải cách đều nhận định một trong những đặc điểm nổi bật của học thuyết quản lý công mới là việc đổi mới và cải cách phương thức cung cấp dịch vụ công của Chính phủ, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho công dân và tổ chức. Thập niên 80 của thế kỷ 20, mô hình quản lý công mới được biết đến và sử dụng rộng rãi ở một số nước thuộc Tổ chức hợp tác cùng phát triển (Tiếng Anh: Oraganization for Economic Co-operation and Development – OECD) với các đặc điểm nổi bật góp phần đổi mới, cải cách Chính phủ và nền hành chính của các nước OECD với một số quan điểm như:

– Quản lý công mới chủ yếu là sự phát triển các nguyên tắc quản lý của chủ nghĩa Taylor cổ điển từ đầu thế kỷ XX, nhấn mạnh tới việc ứng dụng lý luận, phương pháp, kỹ thuật và mô thức của quản lý doanh nghiệp vào quản lý khu vực công.

– Quản lý công mới nhấn mạnh quản lý một cách chuyên nghiệp, xác định tiêu chuẩn và đánh giá hiệu suất một cách rõ ràng, dựa vào kết quả, coi trọng việc tiết kiệm chi phí.

– Quản lý công mới cũng được xem xét như là một công cụ, chính sách trong đó lấy đánh giá hiệu suất và hiệu quả làm tâm điểm, phân giải tổ chức công mang sắc thái quan liêu thành các tổ chức xử lý có hiệu quả các vấn đề của khu vực công, nâng cao tính cạnh tranh bằng các phương thức sử dụng yếu tố thị trường, ký kết hợp đồng ra bên ngoài khu vực công…

Christopher Hood (1991)[1] đã mô tả về nền hành chính công mới như là một sự chuyển đổi từ việc trọng tâm vào chính sách tới việc đo lường hiệu suất hoạt động; từ việc phụ thuộc vào nền quan liêu truyền thống tới các đơn vị được liên kết lỏng lẻo, và gần như là tự chủ với các dịch vụ được cung cấp tương đối linh hoạt; từ sự tập trung vào phát triển và đầu tư hướng tới việc cắt giảm chi phí; từ các quy định mệnh lệnh và kiểm soát truyền thống hướng tới sự tự điều chỉnh; và cho phép các cấp quản lý có thể ra quyết định nhiều hơn. Theo đó, quản lý công mới (NPM) được nhìn nhận trên 7 yếu tố: (1) Thực hiện việc quản lý chuyên nghiệp trong khu vực công; (2) Chi tiết các tiêu chuẩn và đo lường việc thực thi; (3) Chú trọng vào kiểm soát đầu ra; (4) Phân công chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong khu vực công; (5) Hướng đến sự cạnh tranh trong khu vực công; (6) Áp dụng phương pháp quản lý của khu vực tư trong hoạt động của khu vực công; (7) Sử dụng nguồn lực hiệu quả và tiết kiệm.

Cung cấp dịch vụ công: Cơ chế một cửa?

Học thuyết quản lý công và quản trị công mới là bước khởi đầu, đặt nền móng cho các quốc gia tổ chức thực hiện cải cách hành chính, đổi mới Chính phủ cũng như cải thiện chất lượng cung cấp dịch vụ công cho người dân. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là thiết kế cơ cấu tổ chức, bộ máy như thế nào sẽ là hiệu quả cho việc đem lại những dịch vụ tốt nhất cho người dân và tổ chức. Nhiều học giả trên thế giới đã nghiên cứu và chú trọng việc cần thiết phải đổi mới, cải cách cách thức cung cấp dịch vụ công, theo đó cần thiết nghiên cứu một mô hình phù hợp tạo điều kiện thuận lợi cho công dân và tổ chức tiếp cận được dịch vụ công của Nhà nước. Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu cũng đặt vấn đề Chính phủ Trung ương hay chính quyền địa phương sẽ là những chủ thể cung cấp dịch vụ công. Thực tiễn đã chỉ ra rằng đang có một xu hướng là chính quyền địa phương nên là nơi cung cấp dịch vụ công và cần thiết phải có cơ chế để nâng cao vai trò của chính quyền địa phương trong việc cung cấp dịch vụ công.

Sự cần thiết của cơ chế một cửa được đặt ra ở đây là việc dễ dàng tiếp cận, tin cậy, hiệu quả đối với các giao dịch hành chính, dịch vụ công mà người dân, tổ chức yêu cầu đối với cơ quan nhà nước. Cụm từ “Một cửa” (One-Stop Shop) được xuất hiện từ những năm 20 của thế kỷ 20 khi mà các doanh nghiệp tư nhân, các trung tâm thương mại mong muốn cải thiện cách thức kinh doanh của mình để tạo điều kiện cho khách hàng có thể dễ dàng tiếp cận việc mua hàng hóa. Cho tới những năm gần đây, cụm từ này tiếp tục được xuất hiện với việc phát triển của thương mại điện tử, kinh doanh trên internet. Trong những năm 80 của thế kỷ 20, nhiều Chính phủ trên thế giới đã bắt đầu tiếp cận phương thức này nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ và coi công dân, tổ chức như là những khách hàng của mình để phục vụ. De Araujo[2] đã chỉ ra rằng sự xuất hiện của cơ chế một cửa như là một cách thức mới để cải thiện mối quan hệ giữa cơ quan công quyềnđối với công dân và tổ chức trong việc giảm thiểu quan liêu, nâng cao tính thiết thực, hiệu quả của bộ máy hành chính và là điểm quan trọng để hiện đại hóa nền hành chính nhằm phục vụ tốt hơn cho công dân. Poddighe (2011)[3] cho rằng ý tưởng và khái niệm cơ chế một cửa xuất phát từ nhiều cách tiếp cận khác nhau để hướng tới một phương thức chung như là một phương tiện vận chuyển phải đối mặt với hàng rào hành chính trong quá trình cung cấp dịch vụ công, những hàng rào này bao gồm tiếp cận thông tin, cách tiếp cận thủ tục hành chính và tiếp cận với các cơ quan có chức năng cung cấp dịch vụ công. Hơn nữa, mục đích của cơ chế một cửa nhằm cải cách nền hành chính, khắc phục tính quan liêu, nhũng nhiễu của một bộ phận đội ngũ công chức trong nền công vụ. Tuy nhiên, xung quanh vấn đề cơ chế một cửa, cũng đã có nhiều tranh cãi rằng đây là một lý thuyết và phương thức mới của cải cách dịch vụ công hay đây chỉ là một cơ chế để giảm thiểu những quá trình phức tạp tại một đầu mối giữa cơ quan hành chính với người dân và doanh nghiệp và thông qua cơ chế hợp tác, phối hợp giữa các cơ quan công quyền có liên quan trong quá trình cung cấp dịch vụ công. Nhu cầu cần thiết của cơ chế một cửa được nhìn nhận theo cách tiếp cận của việc nâng cao năng lực của nền hành chính, tính minh bạch và trách nhiệm giải trình là yếu tố quan trọng để các quốc gia áp dụng thực hiện cơ chế một cửa. Tuy nhiên, đặt vấn đề từ phía các quốc gia đang phát triển với một hệ thống hành chính thứ bậc và quan liêu thì hơn lúc nào hết cần phải có học thuyết và những lý thuyết phù hợp cho sự vận hành của cơ chế một cửa. Đâu là cơ sở căn bản của việc ra đời cơ chế một cửa: Có thực sự nó cần thiết cho những mong muốn của người dân và tổ chức hay đó chỉ là một cơ chế hữu hiệu cần thiết cho một nền hành chính quan liêu, thậm chí là những sở thích nhất thời của các nhà chính trị. Mặt khác, cơ chế một cửa có thể như là những cố gắng trong quá trình thay đổi văn hóa công vụ dưới áp lực của truyền thống tổ chức. Hơn nữa, nhiều câu hỏi được đặt ra rằng một cửa là sự cải cách về quản lý hay là một sự dịch chuyển về lý thuyết tổ chức trong cung cấp dịch vụ công hoặc đó chỉ là một cái nhìn mới cho cách làm cũ của cung cấp dịch vụ công. Vấn đề đặt ra ở đây một cửa là một tổ chức hay chỉ là một cơ chế phối hợp của phương thức quản lý mới và hiện đại hóa nền hành chính. Ranh giới giữa lý thuyết khoa học tổ chức và sự chuyển giao nền hành chính quan liêu truyền thống tới học thuyết quản lý công mới, cũng như những ý tưởng về tổ chức dường như vẫn còn là một bước trở ngại lớn trong quá trình tổ chức thực hiện cơ chế một cửa.

Kinh nghiệm và thực tiễn của nhiều nước trên thế giới trong quá trình vận hành và tổ chức thực hiện cơ chế một cửa đã chỉ ra rằng đây là một cơ chế hữu hiệu để nâng cao tính hiệu quả của nền hành chính và giảm thiểu thời gian cho người dân và tổ chức khi đến giải quyết thủ tục hành chính với cơ quan công quyền tại một địa điểm. Một số quốc gia thiết lập và tổ chức thực hiện cơ chế một cửa trong cung cấp dịch vụ công tại cấp chính quyền trung ương, một số nước thì đặt theo đơn vị hành chính các cấp của chính quyền địa phương. Các quốc gia cũng đều chú trọng việc thiết lập cơ chế theo dõi, đánh giá tính hiệu quả của việc tổ chức thực hiện cơ chế một cửa và xây dựng các công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công.

2. Kinh nghiệm tổ chức thực hiện cơ chế một cửa tại một số quốc gia

2.1. Bồ Đào Nha

Bồ Đào Nha bắt đầu tổ chức thực hiện và thiết lập bộ phận một cửa từ năm 1999 với tên gọi là The Citizen Shops[4] (Tạm dịch là: Bộ phận tiếp công dân). Bộ phận này được thiết lập với mục đích thành lập những tổ chức hiện đại, cập nhật và hiện đại hóa ở các thành phố lớn để cung cấp dịch vụ công, thống nhất các dịch vụ công tại một đầu mối, cải thiện chất lượng dịch vụ công và được quản lý bởi MICS (Management Institue of Citizen Shops). Bộ phận tiếp công dân này được tổ chức thực hiện theo cơ chế một cửa phục vụ cho cả người dân và doanh nghiệp, các tổ chức công cũng như tổ chức tư nhân với hàng loạt dịch vụ công như cung cấp điện, nước, dịch vụ sức khỏe, đào tạo, việc làm… Cho tới năm 2008 đã có 72 triệu lượt người được cung cấp dịch vụ công.Bộ phận tiếp doanh nghiệp với những nội dung ở cách thức tổ chức thực hiện cũng tương tự như Bộ phận tiếp công dân. Bộ phận tiếp doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ công và tư nhân cho doanh nghiệp với các hoạt động bao gồm các bước trong chu kỳ kinh doanh: Thành lập doanh nghiệp, quản lý các hoạt động doanh nghiệp, mở rộng kinh doanh, đóng cửa hoặc bán doanh nghiệp. Ngoài ra, có hàng loạt dịch vụ công được cung cấp bởi Bộ phận ‘một cửa” như: Dịch vụ tại Chính phủ trung ương, thuế, an sinh xã hội, đăng ký (đất đai, kinh doanh, xe cộ, dân sự), chăm sóc sức khoẻ, lao động, nhập cư, giấy phép được cấp bởi một số Bộ, dịch vụ tại chính quyền địa phương, giấy phép cấp thành phố, dịch vụ cung cấp nước thành phố, dịch vụ tư nhân, ngân hàng, dịch vụ điện, nước, khí đốt, điện thoại di động, dịch vụ bưu điện.

2.2. Kinh nghiệm thực hiện cơ chế một cửa tại Kazakhstan

Cơ chế một cửa (OSS) (tiếng Nga gọi là “Centry obsluzhivaniya naseleniya”)[5]tại Kazakhstan được tổ chức thực hiện trong giai đoạn cải cách hành chính, đổi mới mô hình Chính phủ, áp dụng mô hình Quản lý công mới (New Public Management) và được xem như là một cách thức liên thông để cung cấp dịch vụ công, theo đó, dịch vụ công được cung cấp tại một trụ sở duy nhất thay vì tại nhiều toà nhà chính phủ khác nhau và trong một môi trường làm việc được trang bị hiện đại. Cơ chế một cửa là một nỗ lực của Chính phủ Kazakhstan nhằm làm giảm nạn quan liêu khi cung cấp các dịch vụ dân sự và nâng cao chất lượng của nền hành chính công của nước này. Mục tiêu là kết nối một loạt các dịch vụ công từ các bộ chính phủ để cung cấp cho người dân những dịch vụ tích hợp và dễ tiếp cận, dựa trên giả thiết rằng “bằng cách chú ý hơn nữa đến khách hàng, các cơ quan nhà nước có thể học hỏi để nâng cao chất lượng phục vụ và khi khách hàng chú ý đến sự thay đổi này, họ sẽ trở nên hài lòng hơn với dịch vụ được Nhà nước cung cấp”.

Cơ chế một cửa cũng là một phần không thể thiếu của Chính phủ điện tử ở Kazakhstan – một bước tiến của việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) và cơ sở hạ tầng công nghệ của nước này. Trong giai đoạn đầu tiên, từ 12/2006 đến 12/2008, cơ chế một cửa đã được triển khai tại 3 Bộ: Bộ Tư pháp (MJ) – đóng vai trò điều phối cải cách, Cục quản lý tài nguyên đất (ALRM) và Bộ Quốc phòng (MD). Trong vòng 4 năm triển khai từ tháng 11/2005, số lượng các trung tâm một cửa đã tăng lên nhanh chóng từ 4 trung tâm lên tới 300 trung tâm cấp khu vực và làng với trên 10.000 nhân viên.

Giống như nhiều quốc gia khác đang trong bối cảnh chuyển đổi, tổ chức quy trình công việc và việc tổ chức thực hiện cơ chế một cửa được nhìn nhận cũng như được giới thiệu với mục đích “làm giảm nguy cơ tham nhũng và nâng cao chất lượng dịch vụ công” và được trông đợi sẽ hoàn thiện dịch vụ công truyền thống với chất lượng tốt hơn, dễ dàng tiếp cận hơn và trong môi trường thân thiện hơn. “Những sự thay đổi này được đánh giá cao bởi người dân vốn đã quen với việc bị yêu cầu phải đi hết cơ quan công quyền này đến cơ quan khác bởi những công chức kém năng động và thiếu quan tâm đến khách hàng”[6].

Tuy nhiên, các công chức ở bộ phận một cửa tại Kazakhstan không có quyền quyết định để giải quyết các yêu cầu của công dân, doanh nghiệp, khách hàng. Mục tiêu trọng tâm ở đây là tạo sự thuận tiện và nhanh chóng trong việc tiếp nhận và giải quyết các yêu cầu của người dân. Vì thế, hoạt động của bộ phận một cửa chỉ hạn chế trong việc vận hành kỹ thuật như một trung gian giữa cơ quan hành chính với người dân thay vì là một nơi cung cấp dịch vụ. Trên thực tế, bộ phận một cửa thu thập giấy tờ và gửi tới các cơ quan chính phủ theo một quy trình hành chính tương tự như trước đó khi chưa có cơ chế một cửa. Bản chất của vấn đề là cơ chế một cửa tại Kazakhstan chỉ giới hạn trong các sử dụng các bộ phận một cửa để tiếp nhận dịch vụ và thông tin trong khi thực tiễn các nước trên thế giới cho thấy cơ chế một cửa có thể được sử dụng như một trung tâm cung cấp dịch vụ độc lập, nơi có quyền đưa ra các quyết định. Đồng thời với việc thực hiện cơ chế một cửa tại một số cơ quan Chính phủ thì vẫn còn những nơi cung cấp dịch vụ công có cách thức hoạt động như một cơ quan song song cùng tồn tại đồng thời với các cơ quan cung cấp dịch vụ theo kiểu truyền thống – nơi màviệc cung cấp nhiều dịch vụ một lúc còn hạn chế thay vì hoạt động như một cơ quan duy nhất cung cấp dịch vụ công.

Nhiều ý kiến cho rằng những dịch vụ được cung cấp bởi Bộ Tư pháp đóng vai trò là cơ quan điều phối được cung cấp thông qua bộ phận một cửa “nhằm làm giảm những điểm cung cấp dịch vụ công riêng lẻ dẫn đến giảm nguy cơ tham nhũng” trong khi đó những cơ quan Chính phủ khác vẫn tiếp tục cung cấp những dịch vụ cùng song hành với Bộ phận một cửa tại các cơ quan Chính phủ khác. Cung cấp dịch vụ công vẫn phải đối mặt với sự phản đối mạnh mẽ từ các cán bộ, nhà quản lý cao cấp, những người lo sợ sẽ bị mất quyền lực, nguồn lợi và cả những nguồn thu bất hợp pháp. Những nhà quản lý cấp trung và những nhân viên cũng tỏ ra lưỡng lự trong việc áp dụng sự thay đổi trong cách làm việc và vai trò của họ từ những người cung cấp dịch vụ trở thành nhân viên nghiệp vụ đơn thuần không tiếp xúc trực tiếp với khách hàng (back-office staff)[7].

Tất nhiên, đánh giá việc tổ chức thực hiện cơ chế một cửa tại Kazakhstan đã cho cái nhìn lạc quan về cách thức cung cấp dịch vụ công một cách tốt hơn, trong một không gian hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin và theo những cách dễ tiếp cận hơn. Cơ chế một cửa đã cải thiện việc tiếp cận của người dân với các dịch vụ công thông qua việc giới thiệu các kênh cung cấp đa dạng: giao dịch trực tiếp (face-to-face contact), tổng đài điện thoại, bưu điện, công nghệ điện thoại di động, và các quầy thông tin. Vì vậy, các bộ phận một cửa đã đưa ra nhiều lựa chọn đa dạng hơn cho người dân để lựa chọn sử dụng dịch vụ tại các bộ phận một cửa hay các bộ phận truyền thống.

Ở cấp chính quyền địa phương, cơ chế một cửa có những quyền tự chủ riêng biệt và tách khỏi sự chi phối từ các cơ quan Chính phủ trung ương. Tuy nhiên, về cách thức quản lý và điều hành, kiểm soát từ Chính phủ trung ương, thực hiện cơ chế một cửa ở chính quyền địa phương cho thấy vẫn có những cơ quan đại diện cho các bộ phận hoạt động của Bộ Tư pháp (cung cấp 16 dịch vụ pháp luật trên tổng số 25) và đảm bảo việc duy trì những điều kiện cần thiết để cơ chế một cửa hoạt động có hiệu quả (như việc phân bổ ngân sách, hỗ trợ cơ sở hạ tầng, nhân lực, công nghệ). Bộ Tư pháp vẫn có khả năng ảnhhưởng tới tất cả các quyết định của các nhà quản lý bộ phận một cửa: Liên quan tới việc xây dựng ngân sách, các phương án cung cấp dịch vụ, công tác với chính quyền địa phương và cung cấp các thống kê hoạt động. Để tăng cường việc kiểm soát hoạt động bên trong bộ phận một cửa, một cơ quan được gọi là “Trung tâm kiểm soát tình huống” đã được thành lập (Situational Centre). Trung tâm này sử dụng hệ thống ghi hình của CCTV (camera ghi hình quan sát) kết hợp với việc kiểm soát các chỉ số thống kê hoạt động trực tuyến (ví dụ như số lượng vụ việc đã được xử lý/ số lượng văn bản đã ban hành/ số lượng khách hàng đã được phục vụ, thời gian giải quyết vụ việc). Tất cả các dữ liệu, bao gồm cả việc ghi hình quá trình tương tác dịch vụ khách hàng và số liệu thống kê, được thu thập, lưu trữ tại trụ sở của Bộ Tư pháp ở thủ đô Astana.

Công cụ đánh giá việc thực hiện Cơ chế một cửa cũng được thực hiện có hiệu quả ở Kazakhstan. Các dịch vụ công tại bộ phận một cửa được cung cấp qua nhiều kênh: Qua gặp trực tiếp, và qua truyền thông; các tiêu chuẩn và quy định dịch vụ được nâng cao đã làm cho thông tin trở nên minh bạch hơn với người dân (tốc độ xử lý dịch vụ, lệ phí, yêu cầu); thủ tục khiếu nại đã được sử dụng để chấp thuận và xem xét những khiếu nại của người dân; hệ thống đánh giá hoạt động dựa trên việc kiểm soát những số liệu định tính được tạo ra. Cơ chế một cửa đã thiết lập một cấu trúc tập trung vào phong cách quản lý của khu vực tư nhân rồi định hướng một mô hình cung cấp dịch vụ công mới với việc sử dụng các sáng kiến trong khu vực công. Trong điều kiện đánh giá hoạt động thực tiễn cơ chế một cửa ở Kazakhstan trong những năm gần đây, vẫn còn nhiều đánh giá, nhận định cho rằng cơ chế một cửa có sự liên hệ với các đặc điểm của nền hành chính truyền thống đó là: (1) Không thể phân quyền cho những người làm việc trong Bộ phận một cửa; (2) Không thể tích hợp các dịch vụ công trong một điểm giao dịch duy nhất; (3) Không thể cải thiện được việc đánh giá chất lượng hoạt động dựa vào ý kiến người dân; (4) Mặc dù cơ chế một cửa có đào tạo cán bộ nhưng vẫn hạn chế quyền tự quyết và hành vi của họ trong những quy định và hướng dẫn nghiêm ngặt và không tạo điều kiện để họ thay đổi những cách thức làm việc cũ; (5) Cơ chế một cửa chưa thể giảm được nạn quan liêu và tham nhũng.

2.3. Kinh nghiệm thực hiện cơ chế một cửa của Indonesia

Indonesia đã trải qua một thời gian dài để hồi phục sau cuộc khủng khoảng tài chính Châu Á vào năm 1997, Chính phủ đã đưa ra một loạt các sáng kiến quan trọng để đáp ứng được những thách thức phát triển lâu dài và tiến hành những cải cách cần thiết cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước trong việc phát triển kinh tế và tăng số lượng việc làm. Trong khi Chính phủ trung ương đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội và cấu trúc nền hành chính quốc gia, chính quyền địa phương vẫn có một vai trò thiết yếu trong việc tạo lập môi trường pháp lý và phân bổ chi tiêu công (hơn một nửa chi tiêu phát triển diễn ra ở cấp địa phương). Một số chính quyền địa phương đã thúc đẩy tự do mới để tạo ra một môi trường kinh doanh năng động, đặc biệt, sự phân quyền cho chính quyền địa phương ở Indonesia diễn ra từ năm 2001 đã ảnh hưởng lớn đến việc quản lý hành chính thuế và phí. Các giấy phép cấp địa phương và các quy trình liên quan đã tạo ra một rào cản lớn đối với nền kinh tế địa phương. Các nghiên cứu chỉ ra rằng chính quyền địa phương đã tạo ra khoảng 6000 loại thuế và phí mới trong suốt giai đoạn từ năm 2000 cho tới giữa năm 2005. Phần lớn các khoản thu mới này là các giấy phép và phí sử dụng. Khó khăn của việc tuân thủ theo các yêu cầu cấp giấy phép là cản trở chính với các nhà kinh doanh và hậu quả là chỉ một phần nhỏ các doanh nghiệp chính thức hoá các hoạt động của họ, dẫn đến việc tiếp cận hạn chế đối với các nguồn lực tài chính và thị trường, cũng như tiềm năng phát triển. Quỹ Châu Á (The Asia Foundation)[8] đã xây dựng một chương trình phát triển kinh tế kết hợp hỗ trợ kỹ thuật cho chính quyền địa phương và vận động cải cách khu vực tư nhân. Phương pháp tiếp cận bao gồm bốn chương trình liên kết chặt chẽ và hỗ trợ nhau:

– Cơ chế một cửa: Chương trình nhằm giúp chính quyền đia phương xử lý giấy phép hiệu quả hơn qua việc sử dụng các bộ phận một cửa. Đây là nơi kết hợp việc quản lý của nhiều bộ chuyên môn riêng biệt với nhau thành một cơ quan nơi có thể xử lý nhanh chóng việc cấp giấy phép.

– Chương trình đánh giá tác động pháp lý: Chương trình nhằm hỗ trợ chính quyền địa phương thực hiện việc đánh giá tác động pháp lý như một nhiệm vụ thường xuyên khi soạn thảo các quy định mới. Chương trình bổ sung và hỗ trợ cho Cơ chế một cửa trong việc giúp đỡ Chính phủ rà soát lại các quy định liên quan đến giấy phép kinh doanh.

– Chương trình tăng cường các hiệp hội doanh nghiệp:Đây là thành phần thứ 3 nhằm tạo ra các mạng lưới hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ SME (Forum Daerah-Forda) để nâng cao tiếng nói trong việc cải cách. Chương trình này nhằm tạo ra những áp lực cần thiết cho việc cải cách và giữ cho Chính phủ có trách nhiệm sau khi các hỗ trợ kỹ thuật kết thúc.

– Xếp hạng môi trường kinh doanh: Thành tố thứ tư này bao gồm một cuộc điều tra mức độ cạnh tranh hàng năm nhằm xếp hạng các tỉnh và thành phố theo mức độ thân thiện trong kinh doanh theo cơ sở hạ tầng, dịch vụ công và chính sách phát triển. Một yếu tố chủ chốt của cuộc điều tra này là chất lượng và chi phí cho các dịch vụ cấp phép tại địa phương.

* Đăng ký kinh doanh và quy trình cấp phép

Quy trình bắt đầu bằng việc thành lập pháp lý của doanh nghiệp, bao gồm việc sở hữu và hợp pháp hoá luật công ty và mã số đăng ký thuế. Trước khi thực hiện cơ chế một cửa, Indonesia được xem là một trong những nơi xử lý quy trình này lâu nhất thế giới, tới 75 ngày. Tuy nhiên, cải cách tại bộ Tư pháp đã làm giảm thời gian này xuống còn 22 ngày.

* Quy trình cấp phép Chính phủ và các cấp ban hành

Cơ chế một cửa tại Indonesia được thực hiện dưới nhiều hình thức. Vị trí của Cơ chế một cửa trong nền hành chính địa phương, có thể xem xét 3 yếu tố: nền tảng pháp lý, cấp độ tổ chức, và thẩm quyền hoạt động. Nền tảng pháp lý: Xu hướng thiết lập cơ chế một cửa ở cấp địa phương được phát động từ giữa những năm 1990. Tuy nhiên, trước khi diễn ra việc phân quyền cho địa phương, các cơ quan cấp phép là một phần của cấu trúc chính phủ quốc gia, không có sự tích hợp cấp phép kinh doanh cho tới sau khi diễn ra sự phân quyền. Bộ Nội Vụ đã ban hành một thông tư vào năm 1997 hướng dẫn chung việc xây dựng cơ chế một cửa tại địa phương. Vào năm 2006, nằm trong chiến lược cải cách môi trường đầu tư của Chính phủ, Bộ Nội vụ đã ban hành một Nghị định hướng dẫn cụ thể về việc thành lập Bộ phận một cửa. Chính quyền địa phương tuân thủ theo những quy định của Chính phủ. Tuy nhiên, nhận thức của chính quyền địa phương đối với nền tảng pháp lý quốc gia đối với việc thành lập Cơ chế một cửa là khác nhau. Nghị quyết của chính phủ chỉ cung cấp những sự tham khảo pháp lý, chính quyền địa phương không bắt buộc phải thành lập cơ chế một cửa.

Những địa phương muốn thành lập cơ chế một cửa có thể ban hành một Nghị định được thông qua bởi Thị trưởng hoặc người đứng đầu; hay Bản Quy chế của địa phương mình (Perda) được thông qua bởi chính quyền địa phương. Nghị định có thể dễ dàng thay đổi hoặc bãi bỏ khi có Thị trưởng hoặc người đứng đầu mới; trong khi đó, sẽ khó khăn hơn để thay đổi Quy chế vì nó yêu cầu sự chấp thuận của chính quyền địa phương. Cho tới nay có khoảng 440 chính quyền địa phương các cấp tổ chức thực hiện cơ chế một cửa.

Cơ chế một cửa có thể được thực hiện ở nhiều cấp độ tổ chức khác nhau:

– Cấp độ đầu tiên là hình thức đơn vị (unit form), đây là cấp độ thấp nhất và thường là ít hiệu quả nhất. Đơn vị một cửa chỉ đơn giản là quầy giao dịch nhận đơn xin cấp phép mà không có thẩm quyền để phê duyệt. Họ vẫn sẽ chuyển những đơn thư đến những cơ quan chuyên môn liên quan có thẩm quyền ban hành giấy phép.

– Cấp độ thứ hai là hình thức văn phòng (office or kantor OSS). Loại hình này thường nhận đơn thư và phối hợp xử lý số đơn xin cấp phép này với các chuyến công tác thực địa của các bộ phận chuyên môn.

– Cấp độ thứ ba và hiệu quả nhất, là tổ chức theo trung tâm xử lý một cửa (department or dinas OSS) hoặc, nơi có thể tiếp nhận, xử lý và phê duyệt đơn xin cấp phép. Mô hình này có sự tham gia của những công chức hành chính có chuyên môn cần thiết.

Cho tới nay những kinh nghiệm về cơ chế một cửa ở Indonesia vẫn còn những thách thức đặt ra giữa quyền quyết định xây dựng hình thức thực hiện cơ chế một cửa với rất ít thông tin hướng dẫn từ Chính phủ. Vì thiếu khả năng và thông tin, và mâu thuẫn không thể tránh khỏi với các nhóm lợi ích trong nền hành chính quan liêu, phần lớn chính quyền địa phương áp dụng hình thái đơn vị một cửa, nơi không có thẩm quyền quyết định và đơn giản chỉ là thêm một cơ quan mới vào chu trình cấp phép vốn đã phức tạp.

Những nhân tố thành công của việc thực hiện cơ chế một cửa tại Indonesia đã xác định một số đặc điểm chủ chốt của một Trung tâm một cửa thành công, đó là:

– Lãnh đạo chính quyền địa phương có quyết tâm cao. Chính quyền địa phương và đặc biệt là nhà lãnh đạo đóng một vị trí then chốt trong thành công của cải cách cấp phép và thiết lập cơ chế một cửa.

– Bộ phận một cửa có thẩm quyền ban hành giấy phép, dựa trên quy định địa phương.Theo quy định, luât pháp về bộ máy chính quyền địa phương (PP 8/2003) đã quy định cấp độ và phạm vi trách nhiệm của các cấp nhà nước khác nhau. Mô hình lý tưởng của cơ chế một cửa là cấp độ số 3 – các trung tâm xử lý một cửa (dinas). Người đứng đầu các trung tâm xử lý một cửa (Dinas) có thẩm quyền ký và ban hành giấy phép. Không giống như người đứng đầu của các đơn vị (unit) hay các văn phòng (office) chỉ có vai trò điều phối các dịch vụ cấp phép.

Nhiều ví dụ thành công của mô hình một cửa tại Indonesia (ví dụ như tại thành phố Sragen thuộc tỉnh Trung Java và thành phố Parepare thuộc tỉnh Nam Sulawesi) chỉ là ở cấp độ đơn vị (unit), nơi chính quyền địa phương đã giao cho người đứng đầu của Bộ phận một cửa quyền được ký và hợp pháp hoá giấy phép đã được xử lý bởi Bộ phận một cửa. Điều lệ địa phương cho người đứng đầu của Bộ phận một cửa quyền đối với quá trình cấp phép và thiết lập các tiêu chuẩn dịch vụ tối thiểu và các biện pháp thi hành. Nguồn nhân lực chuyên nghiệp và đạt trình độ cao cũng góp phần cho thực hiện cơ chế một cửa hiệu quả tại Indonesia. Những nơi mà Bộ phận một cửa thành công là do được đầu tư đáng kể (kể cả sử dụng ngân sách địa phương) vào quá trình bồi dưỡng nhân lực. Một vài địa phương cũng có những quy định về việc duy trì đội ngũ nhân viên để tránh việc ra đi của những nhân viên được đào tạo.

– Những lệ phí được tiêu chuẩn và minh bạch. Những bộ phận một cửa thành công thường công bố rộng rãi những thông tin này cho công chúng tại các văn phòng của họ, tờ rơi phân phát cho người dân và qua website. Nhiều bộ phận một cửa đã áp dụng hệ thống thanh toán điện tử để khách hàng không cần phải sử dụng tiền mặt.

– Thành công của bộ phận một cửa còn được quyết định bởi nhận thức của công chúng. Cơ chế một cửa có thể được quảng bá qua đài phát thanh, tài liệu, tờ rơi và biển quảng cáo ở các địa điểm công cộng hoặc các chiến dịch thông tin trực tiếp được tiến hành bởi các nhân viên của bộ phận một cửa.

3. Những vấn đề đặt ra liên hệ thực tiễn với Việt Nam

Có thể thấy cơ chế một cửa được áp dụng và thực hiện tại 3 quốc gia Bồ Đào Nha, Kazakhstan và Indonesia đã đem lại những hiệu quả nhất định trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia. Đây là những quốc gia có quá trình đổi mới, cải cách hành chính và phát triển kinh tế – xã hội trong bối cảnh gần giống với Việt Nam. Trong quá trình thực hiện cải cách đó, Bồ Đào Nha đứng vị trí số 1 trong bảng xếp hạng các nước mới gia nhập EU27+ về mức độ có sẵn và phức tạp của các chỉ số về dịch vụ công trực tuyến.Kazakhstan với tham vọng trở thành một trong 30 nước giàu nhất thế giới vào năm 2050 và Indonesia hiện nằm trong nhóm G20, nhóm của 20 quốc gia có nền kinh tế lớn nhất thế giới.

Tại Việt Nam, thực hiện Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong những năm qua, các địa phương đã tập trung triển khai thực hiện cơ chế cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước các cấp từ cấp tỉnh, cấp huyện đến cấp xã để nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công, góp phần từng bước làm thay đổi cơ bản mối quan hệ giữa chính quyền và cá nhân, tổ chức theo hướng hành chính phục vụ, tạo thuận lợi cho cá nhân, tổ chức khi đến giao dịch với cơ quan hành chính. Nhiều địa phương đã chủ động triển khai thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông hiện đại tại Ủy ban Nhân dân cấp huyện. Trong số 700 đơn vị hành chính cấp huyện trong cả nước, hiện đã có 686 đơn vị triển khai thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông, đạt 98%. Những đơn vị hành chính cấp huyện cho đến nay chưa triển khai thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông đều là các huyện đảo, các huyện mới thành lập.

Cơ chế một cửa, một cửa liên thông hiện đại cũng đã bắt đầu xuất hiện với việc áp dụng công nghệ thông tin, các trang thiết bị hiện đại tại một số địa phương từ những năm 2006. Tính đến nay đã có 42/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đang triển khai cơ chế một cửa, một cửa liên thông hiện đại tại Ủy ban nhân dân cấp huyện, trong đó có 9 tỉnh, thành phố triển khai ở tất cả các đơn vị hành chính cấp huyện là Bà Rịa-Vũng Tàu, Bắc Giang, Bắc Ninh, Ninh Bình, Cần Thơ, Đà Nẵng, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Hải Phòng (không tính các huyện đảo của Hải Phòng và Đà Nẵng). Tính chung cả nước có 203/700 đơn vị hành chính cấp huyện đang triển khai cơ chế một cửa, một cửa liên thông hiện đại. Tuy nhiên, cũng như nhiều quốc gia khác, thực hiện cơ chế một cửa ở Việt Nam cần được nhìn nhận cụ thể hơn về cách thức đánh giá và đo lường thực chất hiệu quả của cơ chế một cửa, góp phần nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ hành chính công của cơ chế một cửa tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Công cụ đo lường quá trình thực thi của cơ chế một cửa cần được xem xét từ sự xuất hiện cùng với những giá trị truyền thống của nền hành chính, cách thức đánh giá và đây có thể được coi là những định hướng tương lai của cơ chế một cửa. Đồng thời với đó, cần phải giải quyết những vấn đề từ lý luận đến thực tiễn ở một số khía cạnh như:

(i) Làm thế nào để nền hành chính quan liêu truyền thống có thể ứng dụng Nền quản lý công mới hướng tới khách hàng trong bối cảnh đất nước đang chuyển đổi và cải cách hành chính?

(ii) Liệu cơ chế một cửa có thật sự là một sự cải cách hay chỉ là diện mạo mới cho cách cung cấp dịch vụ trước đây, làm thế nào để nâng cao chất lượng cơ chế một cửa?

(iii) Khung thể chế và văn hoá thống trị trong hệ thống đang kìm hãm các cải cách dịch vụ công theo những cách nào?

Cần thiết phải hoàn thiện các cơ chế và quy định về phân cấp, quy định rõ quy trình trách nhiệm, cơ chế khen thưởng cho đội ngũ công chức làm việc tại bộ phận một cửa cũng như nghiên cứu và sử dụng các công vụ đo lường hiệu quả hoạt động của bộ phận một cửa. Tại Indonesia đã xây dựng, phát triển và áp dụng Chỉ số đánh giá hiệu quả hoạt động bộ phận một cửa (OSS Performance Index) từ năm 2007[9].Kinh nghiệm tại Kazakhstan cho thấy thực hiện cơ chế một cửa phụ thuộc từ việc cấp kinh phí của bộ Tư pháp và được cấp kinh phí hoạt động bởi Bộ này thông qua quá trình cấp ngân sách thông thường mà không có bất kỳ sự tự chủ nào về quản lý tài chính. Thực tế này hoàn toàn khác xa với xu hướng mà Nền quản lý công mới hướng tới, đó là việc phân cấp ngân sách và phân quyền khỏi cấp Trung Ương. Đồng thời, khen thưởng được ghi nhận thông qua các báo cáo thống kê dựa trên số lượng dịch vụ được cung cấp mà không tính đến đánh giá độ hài lòng của người dân. Báo cáo phân tích hiệu quả chi phí của việc đầu tư lớn và chi phí hoạt động không được công bố rộng rãi cho công chúng. Trong khi nhiều nước công nghệ hoá cả bộ phận giao dịch trực tiếp và bộ phận chuyên môn giải quyết vấn đề, cơ chế một cửa tại Kazakhstan chỉ tập trung vào bộ phận giao dịch trực tiếp bằng việc đầu tư trụ sở làm việc hiện đại, trang thiếp bị mới, tiến bộ công nghệ mà không cải thiện chiều sâu quy trình làm việc cuả các bộ phận chuyên môn giải quyết trực thuộc các bộ ngành.

Trong lý thuyết nền quản lý công mới, đánh giá mức độ hài lòng của khách hàng được xem như trong một trong những kỹ năng để thu thập những số liệu quan trọng và nâng cao chất lượng. Những tiêu chuẩn rõ ràng và thước đo hoạt động là những yếu tố khác của nền quản lý công mới. Tuy nhiên, với cơ chế một cửa, mặc dù tiêu chuẩn cung cấp dịch vụ và quy định đã được giới thiệu, sự đánh giá hoạt động vẫn còn mập mờ. Việc tăng cường chất lượng và hiệu quả của cung cấp dịch vụ vẫn làm theo quy trình truyền thống từ trên xuống, tức là chính phủ Trung ương quyết định loại hình dịch vụ được cung cấp mà không tham khảo ý kiến nhân dân. Đây là những bài học kinh nghiệm hữu ích đối với Việt Nam nhằm nâng cao hơn nữa và tổ chức thực hiện có hiệu quả cơ chế một cửa, góp phần nâng cao chỉ số hài lòng người dân và tổ chức, bảo đảm sự hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước đạt mức trên 60% trong giai đoạn 2011-2015 và mức độ hài lòng của người dân và doanh nghiệp đối với sự phục vụ của các cơ quan hành chính nhà nước đạt mức trên 80% vào năm 2020 theo như Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 8/11/2011 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 đã đưa ra.

Ths. Nguyễn Mạnh Cường

Vụ Cải cách hành chính – Bộ Nội vụ



[1] Hood, Christopher. 1991. A Public Management for All Seasons? Public Administration 69 (1): 3-19.

[2] De Araújo, J. F. F. E. (2001) “Improving public service delivery: The crossroads between NPM and traditional bureaucracy” (tạm dịch: Nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công: Sự giao thoa giữa quản lý công mơi và nền hành chính quan liêu truyền thống) , Public Administration, 79 (4), pp. 915-932.

[3]Poddighe, F. (2011) “Lean production and one-stop shop for municipal sẻvieces” (tạm dịch: Hướng tới sản lượng và cơ chế một cửa cho các dịch vụ công ích) , Public Administration and Management, 16 (1), pp. 1-20.

[4] Cơ chế một cửa – Dễ dàng hơn, nhanh hơn và rẻ hơn – Kinh nghiệm Bồ Đào Nha (Luís Goes Pinheiro, Trưởng bộ phận nhân sự,Văn phòng Ban Thư ký hiện đại hóa hành chính, 2010).

[5] One stop shop in Kazakhstan: Breaking –up traditional bureaucracy or a new look for old practice? (Tạm dịch: Một cửa tại Kazahkstan: Phá vỡ tính quan liêu hay một cái nhìn mới cho cách làm cũ).

[6]Thông điệp của Tổng thống Cộng hoà Kazakhstan tới người dân vào tháng 2/2005, “Kazakhstan trên đường đẩy mạnh hiện đại hoá kinh tế, xã hội và chính trị”.

[7]Thuật ngữ “back-office staff” dùng để chỉ những nhân viên làm nhiện vụ giải quyết các văn bản và không làm việc trực tiếp với khách hàng, ngược lại với các “front-office staff” (giao dịch viên) là những người tư vấn và chấp nhận đơn thư trực tiếp từ khách hàng.

[8]Giấy phép kinh doanh và cơ chế một cửa ở Indonesia, Tiến sĩ Liesbet Steer, (The Asia Foundation, 11/2006).

[9]Measuring One Stop Shop Performance in Indonesia (tạm dịch: Đo lường hiệu quả hoạt động cơ chế một cửa), Asia Foundation, tháng 8/2007.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Các tiêu chí tiếp cận pháp luật tại cơ sở – Những vướng mắc, bất cập và định hướng hoàn thiện

23/01/2015

Ngày 24/01/2013, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg về việc ban hành Quy định về chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở (Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg).

Thực tiễn qua gần 02 năm thực hiện Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg có thể nhận thấy bên cạnh những khó khăn, vướng mắc chung về nguồn lực tổ chức thực hiện, về cơ chế phối hợp giữa các cấp, các ngành và chưa có sự vào cuộc của cấp ủy, chính quyền các cấp, thì quy định về tiêu chí, chỉ tiêu tiếp cận pháp luật đã bộc lộ một số vướng mắc, bất cập, như: Một số tiêu chí, chỉ tiêu tiếp cận pháp luật có nội hàm chưa rõ ràng, chung chung, định tính, đã dẫn tới cách hiểu, cách vận dụng chưa thống nhất, gây khó khăn trong việc chấm điểm, cũng như đánh giá kết quả; một số chỉ tiêu chưa thực sự phù hợp, còn có khoảng cách so với nhu cầu và điều kiện thực tế của từng địa phương; các tiêu chí, chỉ tiêu về tiếp cận pháp luật còn có sự trùng lắp, chồng chéo, mâu thuẫn với một số tiêu chí, chỉ tiêu, chỉ số trong các bộ tiêu chí có liên quan đang áp dụng trong thực tiễn; thực trạng công tác tổng hợp, thống kê trong các lĩnh vực quản lý hiện nay chưa đáp ứng các yêu cầu đặt ra của hoạt động đánh giá các tiêu chí, chỉ tiêu tiếp cận pháp luật ở trung ương và địa phương…

Để Bộ tiêu chí tiếp cận pháp luật trở thành công cụ đánh giá một cách khách quan, chính xác, toàn diện và định lượng cụ thể kết quả thực hiện các nhiệm vụ, hoạt động của chính quyền cơ sở, đảm bảo cho người dân tiếp cận với pháp luật, phát huy vai trò của pháp luật ngay tại cơ sở, tác giả Nguyễn Thị Thạo đã có bài viết “Các tiêu chí tiếp cận pháp luật tại cơ sở – Những vướng mắc, bất cập và định hướng hoàn thiện”.

Để hiểu thêm những nội dung tác giả muốn đề cập, độc giả có thể xem nội dung của bài viết được đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề “Chuẩn tiếp cận pháp luật”, tháng 01 năm 2015.

Vũ Hải Việt

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Đo lường chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của các cơ quan thuộc Bộ Tư pháp

14/10/2014

1. Đôi nét về chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước

Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2010 – 2020đã khẳng định rõ từ nay đến năm 2020, Chính phủ, các Bộ, ban, ngành cần tiếp tục đổi mới phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà nước; bảo đảm sự hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước đạt mức trên 80% vào năm 2020; hầu hết các dịch vụ công được cung cấp trực tuyến trên Mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ ở mức độ III và IV, đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ người dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác nhau. Để có cơ sở đo lường, xác định mức độ hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước một cách cụ thể, định lượng như đã đề ra tại Nghị quyết số 30c/NQ-CP, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã ban hành Quyết định số 1383/QĐ-BNV phê duyệt Đề án xây dựng Phương pháp đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước. Đề án được xây dựng nhằm đánh giá khách quan chất lượng cung cấp dịch vụ hành chính công của cơ quan hành chính nhà nước. Thông qua đó, các cơ quan hành chính nhà nước nắm bắt được yêu cầu, mong muốn của người dân, tổ chức để có những biện pháp cải thiện chất lượng phục vụ và cung cấp dịch vụ của mình nhằm nâng cao sự hài lòng và lợi ích của người dân, tổ chức.

Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính (tên viết tắt tiếng Anh là SIPAS) là kết quả mang tính định hướng của việc đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước. Chỉ số SIPAS là thước đo mang tính khách quan, phản ánh trung thực kết quả đánh giá của người dân, tổ chức về sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước thông qua việc cung cấp các dịch vụ hành chính công cụ thể. Chỉ số SIPAS được đo lường thông qua điều tra xã hội học đối với người dân, tổ chức đã giải quyết thủ tục hành chính (đã hoàn thành và nhận kết quả) ở các dịch vụ hành chính công được lựa chọn khảo sát. Thông tin điều tra xã hội học được thu thập trên các Phiếu hỏi, được phát tới người dân, tổ chức, gồm khoảng 20 câu hỏi khảo sát trên 04 tiêu chí: (1) Tiếp cận dịch vụ; (2) Thủ tục hành chính; (3) Sự phục vụ của công chức và (4) Kết quả giải quyết công của cơ quan hành chính nhà nước. Với mỗi tiêu chí, người dân, tổ chức đưa ra đánh giá về sự hài lòng và đánh giá chung về sự hài lòng đối với tàn bộ dịch vụ theo thang đánh giá 5 mức: (1) Rất hài lòng, (2) Không hài lòng, (3) Bình thường, (4) Hài lòng và (5) Rất hài lòng. Chỉ số SIPAS được tính toán dựa trên tỷ lệ phần trăm số người dân, tổ chức có câu trả lời ở mức hài lòng và rất hài lòng đối với câu hỏi hài lòng chung về toàn bộ dịch vụ. Bên cạnh đó, phương pháp đo lường này cung cấp các chỉ số thành phần theo từng tiêu chí của dịch vụ, các chỉ số đánh giá chất lượng phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước theo từng yếu tố của dịch vụ, giúp cơ quan quản lý phân tích, xác định cụ thể mức độ hài lòng của người dân, tổ chức đối với dịch vụ được tiến hành khảo sát.

Được sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới, năm 2014, các tỉnh Bình Định, Thanh Hóa và Phú Thọ đã tiến hành khảo sát, lấy ý kiến đối tượng sử dụng dịch vụ công. Qua khảo sát cho thấy bức tranh rõ nét về chất lượng dịch vụ công, mức độ hài lòng và mong muốn của người sử dụng dịch vụ.

Theo đánh giá của Bộ Nội vụ và các địa phương trên, việc khảo sát phản hồi của người sử dụng dịch vụ công được triển khai khách quan, chính xác, phản ánh đúng tình trạng giải quyết thủ tục hành chính của cơ quan hành chính nhà nước đối với tổ chức, cá nhân. Để bảo đảm cuộc khảo sát hoàn toàn khách quan, các địa phương giao cho một cơ quan độc lập tiến hành khảo sát. Sở Nội vụ tỉnh chỉ chịu trách nhiệm quản lí và giám sát quá trình khảo sát.

Ông Soren Davidsen, chuyên gia của Ngân hàng Thế giới, cho rằng chính quyền có trách nhiệm phục vụ người dân và để làm được điều này, chính quyền cần biết mọi người nghĩ gì. Khảo sát mức độ hài lòng của người dân, tổ chức sẽ giúp các địa phương xác định lĩnh vực và vấn đề trong cung cấp dịch vụ cần quan tâm đặc biệt để cải cách hoặc cần xây dựng năng lực, đề ra những giải pháp khắc phục khả thi để nâng cao chất lượng dịch vụ, nâng cao sự hài lòng của người dân, tổ chức; đồng thời đưa ra phản hồi chính sách cho các cấp cao hơn.

Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Tiến Dĩnh cho biết: Việt Nam đã đạt những tiến bộ ấn tượng trong cung cấp dịch vụ, nhưng chất lượng một số lĩnh vực còn kém; còn tồn tại khoảng cách trong cung cấp dịch vụ có chất lượng giữa các địa phương, giữa các vùng trong cả nước; khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản đối với người dân ở vùng sâu, vùng xa cải thiện chưa nhiều, còn có sự khác biệt lớn so với thành thị… Cải cách hành chính nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa để khắc phục những vấn đề này. Cải cách hành chính nhà nước còn phải đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người dân khi mức sống và trình độ dân trí cao hơn. Nền hành chính phải hiệu quả, minh bạch và đáp ứng được nhu cầu của người dân, xã hội. Người dân cần được tham gia vào quá trình ban hành và giám sát việc thực thi chính sách, chương trình, kế hoạch của Chính phủ. Phải bảo đảm mọi người có khả năng tiếp cận và có quyền được sử dụng công bằng và đầy đủ các dịch vụ có chất lượng tốt.

Bộ Nội vụ đã xây dựng phương pháp đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính. Đây là lần đầu tiên Chính phủ Việt Nam có một công cụ đánh giá khách quan chất lượng dịch vụ công từ đối tượng sử dụng và cũng là lần đầu tiên Chính phủ mang đến cho người dân, tổ chức một công cụ để yêu cầu phục vụ tốt hơn từ các cơ quan nhà nước, nhất là những đối tượng người nghèo, dân tộc thiểu số, người khuyết tật… bởi họ phụ thuộc vào các dịch vụ thiết yếu và sự hỗ trợ của Chính phủ nhiều hơn là những người thuộc tầng lớp trung lưu hay giàu có – những người có khả năng lựa chọn nhiều cơ hội hơn.

Với công cụ này, Bộ Nội vụ sẽ tiến hành điều tra, khảo sát trong phạm vi cả nước. 30.000 mẫu phiếu khảo sát 6 lĩnh vực dịch vụ, ở 70 quận huyện và 210 xã, phường tại 20 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Các bộ, ngành, các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương triển khai điều tra khảo sát, xác định chỉ số hài lòng trên cơ sở sử dụng phương pháp mà Bộ Nội vụ đã ban hành với những bổ sung cho phù hợp với nhu cầu và đặc thù của lĩnh vực, ngành hay địa phương.

2. Các dịch vụ hành chính công của Bộ Tư pháp được triển khai trong thời gian qua

Hiện nay, Bộ Tư pháp có khoảng 27 nhóm dịch vụ hành chính công trên 05 lĩnh vực lớn thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp: Nuôi con nuôi, đăng ký giao dịch bảo đảm, bổ trợ tư pháp, lý lịch tư pháp, hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp. Hầu hết tất cả các dịch vụ công trực tuyến của Bộ đều được cung cấp trực tuyến ở mức độ I, II và III, được đăng tải trên Cổng Thông tin điện tử của Bộ Tư pháp. Các nhóm dịch vụ hành chính công tiêu biểu: Giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; Cấp, gia hạn, sửa đổi giấy phép hoạt động tại Việt Nam của tổ chức con nuôi nước ngoài; Đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm; Chấp nhận khách hàng thường xuyên; Cấp chứng chỉ hành nghề luật sư; Cấp giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam cho luật sư nước ngoài; Cấp giấy phép thành lập công ty luật nước ngoài; Bổ nhiệm công chứng viên; Cấp thẻ công chứng viên; Cấp chứng chỉ hành nghề đấu giá; Cấp giấy phép thành lập trung tâm trọng tài; Cấp phiếu lý lịch tư pháp cho người nước ngoài đã cư trú tại Việt Nam;…

Nhiều đơn vị cung cấp dịch vụ hành chính công của Bộ đã mạnh dạn ứng dụng công nghệ thông tin, áp dụng cá sáng kiến, cải cách hành chính. Điển hình như hệ thống đăng ký trực tuyến giao dịch bảo đảm bằng động sản (trừ tàu bay, tàu biểu) của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm chính thức đi vào hoạt động từ ngày 19/3/2012 đến nay đã tạo một bước ngoặt quan trọng trong việc cải cách thủ tục hành chính. Phần mềm đăng ký trực tuyến mạng lại cho người yêu cầu đăng ký những tính năng ưu việt như: Tự đăng ký trực tuyến, tự tra cứu thông tin miễn phí, nhanh chóng trong 03 giây; Giao diện đăng ký được thiết kế đơn giản, dễ thao tác; Việc đăng ký được thực hiện trong suốt 24/24 giờ mà không phụ thuộc vào giờ làm việc của các Trung tâm đăng ký. Phần mềm mang đến những tính năng tiện ích lớn nhất là công khai và minh bạch hóa tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm, tiết kiệm thời gian, công sức, chi phí cũng như tạo điều kiện tối đa cho tổ chức, cá nhân có nhu cầu tìm hiểu thông tin được kịp thời, nhanh chóng. Hiện nay, hệ thống đăng ký trực tuyến đã triển khai ở cấp độ III về cung cấp dịch vụ công trực tuyến.

Trong lĩnh vực nuôi con nuôi, hiện nay, chuyên mục nuôi con nuôi trên Cổng Thông tin điện tử của Bộ Tư pháp đã đăng tải đầy đủ thủ tục hành chính đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, bao gồm trình tự thực hiện, các thức thực hiện cũng như thành phần hồ sơ kèm theo: Mẫu đơn, mẫu tờ khai xin nhận con nuôi cho phép người nhận con nuôi tải về để khai báo hoàn thiện hồ sơ, tạo thuận lợi cho người dân, tổ chức trong việc xin nhận con nuôi.

Trong lĩnh vực cấp phiếu lý lịch tư pháp, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia đã triển khai thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin trong việc cấp phiếu như triển khai xây dựng phần mềm phục vụ việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Hiện nay, việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp tại Trung tâm đáp ứng mức độ II của dịch vụ hành chính công trực tuyến, cụ thể: Thủ tục yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp và Biểu mẫu tờ khai yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp đã được đăng tải công khai trên Cổng Thông tin điện tử của Bộ Tư pháp. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp có thể truy cập Cổng Thông tin điện tử của Bộ để sử dụng hoặc đề nghị Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia cung cấp để sử dụng miễn phí khi đến làm thủ tục.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả nêu trên, có thể nhận thấy rằng hầu hết các dịch vụ công trực tuyến của Bộ Tư pháp mới chỉ dừng lại ở mức độ II. Vì vậy, các cá nhân, tổ chức có nhu cầu sử dụng dịch vụ công vẫn phải trực tiếp đến trụ sở cơ quan Bộ Tư pháp để nộp hồ sơ và nhận kết quả đã phần nào gây khó khăn, tốn kém cả về mặt chi phí và thời gian cho người dân. Hơn nữa, về phía người dân, do một bộ phận người dân chưa biết và chưa thực sự quan tâm nhiều đến các dịch vụ công trực tuyến của các cơ quan nhà nước, chưa biết phương thức truy cập vào Cổng Thông tin điện tử của Bộ Tư pháp để tra cứu thông tin về các dịch vụ công do Bộ Tư pháp cung cấp. Thậm chí, khi cán bộ tiếp công dân hướng dẫn công dân truy cập vào Cổng Thông tin điện tử của Bộ Tư pháp để tải mẫu đơn về và điền các thông tin thì nhiều người không hiểu và không biết cách làm, cán bộ tiếp công dân đã phải in và trực tiếp hướng dẫn cho người dân để họ kê khai. Đây là một thực tế mà nhiều chuyên viên pháp lý làm việc với dân gặp phải. Điều này đã làm hạn chế phần nào tính hiệu quả của dịch vụ hành chính công trực tuyến mà các đơn vị thuộc Bộ đang áp dụng. Nguyên nhân của thực trạng trên xuất phát chủ yếu từ trình độ và điều kiện thiết bị công nghệ thông tin của người dân, đặc biệt là khu vực nông thôn còn rất nhiều thiếu thốn gây khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ công trực tuyến.

3. Một số nội dung đề xuất khi tiến hành đo lường chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của các cơ quan thuộc Bộ Tư pháp

Khi tiến hành đo lường chỉ số hành lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của các cơ quan có cung cấp dịch vụ công thuộc Bộ Tư pháp trong giai đoạn tới (2015-2020), chúng tôi xin đề xuất một số điểm như sau:

Thứ nhất, về phương pháp tiến hành đo lường. Công văn số 1159/BNV-CCHC ngày 10/4/2014 của Bộ Nội vụ hướng dẫn triển khai phương pháp đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước đã nêu rõ phương pháp tiến hành đo lường là sử dụng các phương pháp điều tra xã hội học. Tổ chức điều tra xã hội học được thực hiện dưới hình thức phát phiếu hỏi để người dân, tổ chức tự nghiên cứu và trả lời. Các cơ quan thuộc Bộ có thể áp dụng một trong những phương thức sau đây tùy thuộc vào điều kiện và nguồn lực của từng đơn vị: Gặp trực tiếp người dân, tổ chức; Gửi phiếu qua đường bưu điện; Tập trung người dân (hoặc đại diện tổ chức) đến một địa điểm để trả lời phiếu; Điều tra trực tuyến trên mạng điện tử. Trong các phương thức kể trên thì phương thức điều tra trực tuyến trên mạng điện tử là phù hợp với hầu hết các lĩnh vực hành chính công mà các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp cung cấp. Phương pháp này đảm bảo tính nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm thời gian, chi phí. Tuy nhiên, muốn thực hiện được phương pháp này đòi hỏi các đơn vị cần chú trọng đầu tư cho việc ứng dụng công nghệ thông tin, cải thiện việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến ở cấp độ III và IV để có điều kiện kết hợp giữa cung cấp dịch vụ với điều tra xã hội học.

Thứ hai, về việc lựa chọn dịch vụ công. Do đối tượng điều tra xã hội học để đo lường, xác định chỉ số SIPAS là những người dân, tổ chức đã giải quyết thủ tục hành chính (đã hoàn thành và nhận kết quả) ở dịch vụ công được lựa chọn, nên để đảm bảo việc điều tra xã hội học là tin cậy, phản ánh đúng mức độ hài lòng của người dân, tổ chức thụ hưởng dịch vụ công, cần lựa chọn dịch vụ công có số lượng lớn người dân, tổ chức tham gia sử dụng dịch vụ (100 lượt giải quyết/năm trở lên); không nên tiến hành khảo sát đối với các dịch vụ công mang tính đặc thù, cá biệt, không hướng tới đông đảo người dân, tổ chức (như Cấp giấy phép hoạt động tại Việt Nam của tổ chức con nuôi nước ngoài; Cấp giấy phép thành lập trung tâm trọng tài;…).

Thứ ba, về thời gian tiến hành. Để việc đo lường chỉ số SIPAS được chính xác, các đơn vị có cung cấp dịch vụ hành chính công thuộc Bộ cần có thời gian để hoàn thiện việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc cung cấp các dịch vụ công trực tuyến, chuẩn bị bộ câu hỏi và các phương án trả lời, cũng như các điều kiện cần thiết khác để tiến hành cuộc điều tra. Trong quá trình tiến hành, cần lựa chọn một số dịch vụ công tiêu biểu để tiến hành đo lường trước, sau đó cần có thời gian để sơ kết, rút kinh nghiệm và áp dụng cho các dịch vụ công khác. Theo chu kỳ 2-3 năm, Bộ Tư pháp cần tổ chức đo lường, xác định Chỉ số SIPAS đối với các dịch vụ công đã được đo lường, khảo sát trước đó để có cơ sở đánh giá thực tế mức độ cải thiện chất lượng phục vụ và cung cấp dịch vụ của các đơn vị thuộc Bộ, biểu dương, khen ngợi các đơn vị đã có giải pháp thay đổi, cải tiến chất lượng phục vụ, đồng thời quán triệt, đôn đốc, theo dõi sát các dịch vụ công vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của người dân.

Thứ tư, về việc lựa chọn tổ chức tiến hành. Để đảm bảo việc đo lường sự hài lòng của người dân cho kết quả đánh giá khách quan, trung thực, chính xác, cần lựa chọn các tổ chức bên ngoài Bộ Tư pháp. Các tổ chức đạt tiêu chuẩn tham gia đo lường như: Công ty cổ phần chứng nhận WCERT, Công ty cổ phần chứng nhận quốc tế, Công ty TNHH chứng nhận BVQA,…là những tổ chức được cấp phép hoạt động và có đội ngũ chuyên gia đánh giá chuyên nghiệp, sẽ giúp cho việc đo lường chỉ số SIPAS được khách quan và khoa học.

Bảo Hân

Tài liệu tham khảo

1. Tài liệu tọa đàm công tác cải cách hành chính do Bộ Tư pháp tổ chức, ngày 1/10/2014;

2. Hà Phúc Anh, Đo lường chỉ số hài lòng dịch vụ công tạo tiến bộ cho nền hành chính, đăng tải trên trang web http://www.baomoi.com;

3. Đặng Chí Thanh, Đánh giá mức độ hài lòng của người dân – Đôi điều cần suy nghĩ, đăng tải trên trang web http://www.noivu.danang.gov.vn.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Trách nhiệm liên đới trong trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

30/08/2013

Theo quy định của pháp luật hình sự, khi xét xử các vụ án ngoài việc xác định tội danh quyết định hình phạt đối với người phạm tội, thì đồng thời Toà án phải giải quyết các tranh chấp dân sự phát sinh ngoài hợp đồng do hành vi phạm tội gây ra. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin đề cập tới một trong số những nội dung đó là trách nhiệm liên đới trong trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi phạm tội trực tiếp gây ra.

Tại Điều 42 Bộ luật Hình sự quy định: Người phạm tội phải trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, buộc công khai xin lỗi. Như vậy, ngoài hành vi phạm tội mà người phạm tội phải chịu các chế tài pháp luật hình sự quy định trong mỗi điều luật cụ thể ở phần các tội phạm, thì hầu hết các vụ án người phạm tội phải chịu một hoặc nhiều biện pháp tư pháp như trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, buộc công khai xin lỗi. Đây là một nội dung mà các cơ quan tiến hành tố tụng thường xuyên phải giải quyết trong các vụ án hình sự.

Chúng ta đã biết, trách nhiệm liên đới trong trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ đặt ra trong các vụ án hình sự có nhiều người cùng tham gia thực hiện một hay nhiều tội phạm và hành vi phạm tội của họ đã gây ra thiệt hại cho Nhà nước, tổ chức, tập thể hay cá nhân thì họ phải có trách nhiệm liên đới trả lại tài sản hoặc bồi thường lại thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định tại Chương XXI từ Điều 604 đến Điều 630 Bộ luật Dân sự và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, nguyên tắc bồi thường thiệt hại… được quy định cụ thể tại Bộ luật Dân sự. Nghị quyết 03/2006 xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi hội tụ đủ bốn yếu tố đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi trái pháp luật, mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật; lỗi cố ý hoặc vô ý của người gây thiệt hại. Qua thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết các vụ án đồng phạm khi phát sinh trách nhiệm liên đới trong trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hiện nay còn có nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau.

Xin nêu ví dụ như sau:

Từ năm 2003 đến năm 2009, Nguyễn Thị H và Trần Đình T ở thành phố V tỉnh NA do có nhiều mối quan hệ nên làm trung gian “chạy” cho những người từ 18 đến 25 tuổi nhập ngũ, sau đó xin đi học để phục vụ lâu dài trong lực lượng vũ trang, ngoài ra còn có khả năng “chạy” cho đi lao động xuất khẩu ở các quốc gia Hàn Quốc và Nhật Bản. H và T đã cùng nhau trao đổi, bàn bạc và bằng nhiều thủ đoạn khác nhau trong thời gian từ năm 2003 đến năm 2009 đã chiếm đoạt được của hơn một trăm người bị hại với số tiền hơn 11 tỉ đồng. Khi nhận tiền của các đối tượng, H và T đều viết giấy biên nhận cam kết hứa hẹn với nội dung sẽ làm được các yêu cầu theo thoả thuận của hai bên, còn nếu không thực hiện được công việc theo thoả thuận thì H và T sẽ phải trả lại cả tiền gốc và tiền lãi theo lãi suất của ngân hàng cho các đối tượng. Sau khi nhận được tiền, H và T không làm được yêu cầu như đã thoả thuận.Số tiền chiếm đoạt được của các đối tượng H và T đã dùng vào việc tiêu dùng cho cá nhân. Tổng số tiền hơn 11 tỉ đồng mà hai bị cáo chiếm đoạt, cơ quan tiến hành tố tụng đã chứng minh được H trực tiếp chiếm đoạt 3 tỉ đồng, T trực tiếp chiếm đoạt 2 tỉ đồng, còn hơn 6 tỉ đồng hiện hai bị cáo đổ lỗi cho nhau và cơ quan tiến hành tố tụng cũng không chứng minh được bị cáo nào trực tiếp chiếm đoạt số tiền này.

Khi giải quyết vụ án, phần định tội danh và quyết định hình phạt đối với hai bị cáo về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chúng tôi không đề cập đến trong bài viết. Tuy nhiên, phần các biện pháp tư pháp, mà cụ thể là giải quyết việc trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại trong vụ án này hiện có nhiều cách hiểu và quan điểm giải quyết khác nhau.

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Hợp đồng giữa hai bị cáo H và T với những người bị hại đây là hợp đồng vô hiệu, nên các bị cáo chỉ phải trả lại số tiền gốc cho người bị hại và không phải trả số tiền lãi theo nguyên tắc tại Điều 132 Bộ luật Dân sự quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối và Điều 137 – Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu. Trong vụ án này, để chiếm đoạt được tiền của người bị hại, hai bị cáo H và T đã bằng nhiều thủ đoạn gian dối để lừa người bị hại giao tiền cho các bị cáo như hứa giúp đỡ “chạy” cho con em họ vào lực lượng vũ trang, “chạy” cho đi học hay đi xuất khẩu lao động là những thông tin không đúng sự thật, đồng thời để làm tin, hai bị cáo còn viết giấy cam kết, hứa hẹn nếu không làm được theo như thoả thuận thì các bị cáo sẽ trả lại số tiền gốc và cả số tiền lãi cho người bị hại, nhưng thực chất đây là giao dịch lừa dối của các bị cáo đối với người bị hại nên được coi là giao dịch dân sự vô hiệu. Điều 132 Bộ luật Dân sự quy định giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối là “hành vi cố ý của một bên nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về nội dung của giao dịch dân sự đó”. Điều 137 Bộ luật Dân sự quy định hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch dân sự vô hiệu sẽ không làm phát sinh, thay đổi quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên.Như vậy, trong trường hợp này quyền và nghĩa vụ giữa các bị cáo H và T với những người bị hại đã thoả thuận sẽ không phát sinh kể cả việc hứa trả lãi của số tiền gốc. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Do vậy, H và T chỉ phải trả lại cho người bị hại số tiền gốc đã chiếm đoạt mà thôi. Cách giải quyết này cũng phù hợp với kết luận của Chánh án Toà án nhân dân tối cao tại Hội nghị tổng kết công tác Ngành Toà án năm 1991 đó là: Đối với các tranh chấp về nợ hụi nếu phát hiện có yếu tố chiếm đoạt hoặc giật hụi thì chuyển sang Viện kiểm sát truy tố về tội Lừa đảo hoặc tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Khi xử lý các tranh chấp này, Toà án chỉ giải quyết cho trả lại phần vốn (thanh toán nợ gốc) không được tính lãi suất còn vốn thì được thanh toán theo cách có tính trượt giá theo hướng dẫn tại Thông tư liên ngành 01/TTLN ngày 10/1/1992 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Theo quy định của Điều 42 Bộ luật Hình sự, thì H và T sẽ phải trả lại cho người bị hại toàn bộ số tiền gốc hơn 11 tỉ đồng mà hai bị cáo chiếm đoạt; trong đó, Nguyễn thị H phải trả lại cho người bị hại số tiền 3 tỉ đồng mà H đã trực tiếp chiếm đoạt và Trần Đình T sẽ phải trả lại cho người bị hại số tiền 2 tỉ đồng mà T đã trực tiếp chiếm đoạt. Còn số tiền lãi phát sinh từ 3 tỉ đồng mà H chiếm đoạt và 2 tỉ đồng mà T chiếm đoạt, cùng với số tiền hơn 6 tỉ đồng mà các bị cáo hiện đổ lỗi cho nhau trong việc chiếm đoạt mà cơ quan tiến hành tố tụng không chứng minh được, thì hai bị cáo phải có trách nhiệm trả lại và bồi thường cho người bị hại theo phần bằng nhau. Bởi lẽ, theo quy định của Điều 42 Bộ luật Hình sự, thì số tiền gốc hơn 11 tỉ đồng là số tiền mà hai bị cáo phải trả lại cho người bị hại chứ không phải tiền bồi thường. Còn số tiền lãi là thiệt hại trong vụ án nên các bị cáo phải bồi thường cho người bị hại theo nguyên tắc liên đới bồi thường thiệt hại. Do đây là vụ án đồng phạm, nên các bị cáo phải có trách nhiệm liên đới bồi thường theo phần bằng nhau, không phân biệt bị cáo nào chiếm giữ nhiều hơn hay ít hơn theo quy định của pháp luật dân sự và Nghị quyết 03/2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Như vậy, số tiền hơn 6 tỉ đồng mà hai bị cáo còn đổ lỗi cho nhau, thì hai bị cáo phải có nghĩa vụ trả lại cho người bị hại cùng với việc bồi thường thiệt hại tổng số tiền lãi của hơn 11 tỉ đồng theo phần bằng nhau cho những người bị hại.

Trước hết, chúng tôi không đồng tình với cách giải quyết như quan điểm thứ nhất cho rằng, đây là hợp đồng vô hiệu, trong vụ án này, thoả thuận của hai bị cáo với những người bị hại nó hoàn toàn khác với trường hợp giao kết hợp đồng dân sự thông thường khác. Bởi vì, đây là trường hợp giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự, phần bồi thường thiệt hại này nó có liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội hay nói cách khác nghĩa vụ dân sự phát sinh trong trường hợp này là do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra, giao dịch dân sự bị vi phạm là căn cứ pháp lý để cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người phạm tội và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người phạm tội với người bị hại. Do vậy, để xác định việc trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại trong vụ án này, trước hết chúng ta phải xác định hành vi của các bên khi giao kết hợp đồng. Trong vụ án này, hành vi của H và T là hành vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản của người bị hại. Cho nên, tất cả những thiệt hại mà H và T gây ra họ phải có nghĩa vụ trả lại và bồi thường cho người bị hại. Nội dung kết luận tại Hội nghị tổng kết công tác Ngành Tòa án năm 1991 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn việc giải quyết tranh chấp nợ hụi đã hướng dẫn cụ thể là nếu phát hiện có yếu tố chiếm đoạt hoặc giật hụi thì chuyển sang Viện kiểm sát truy tố về tội Lừa đảo hoặc tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Như vậy, mặc nhiên từ quan hệ dân sự thông thường đã chuyển hoá thành quan hệ pháp luật hình sự. Cho nên, việc hiểu theo nghĩa đơn thuần của hợp đồng dân sự vô hiệu sẽ không đúng trong trường hợp của vụ án này. Do vậy, tất cả những thiệt hại mà một người gây ra họ phải có nghĩa vụ bồi thường lại toàn bộ cho người bị thiệt hại. Vì thế, hướng dẫn trong kết luận của Chánh án Toà án nhân dân tối cao năm 1991 là hoàn toàn phù hợp không có gì mâu thuẫn trong việc giải quyết vụ án này.

Trở lại vụ án trên, trước hết, chúng ta phải xác định đây là một vụ án đồng phạm, nên hai bị cáo H và T phải có trách nhiệm liên đới trả lại số tiền gốc và bồi thường toàn bộ thiệt hại số tiền lãi phát sinh từ tiền gốc theo như cam kết đã thoả thuận cho hơn một trăm người bị hại. Điều 616 Bộ luật Dân sự quy định bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra, trong trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại, thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người, nếu không xác định được mức độ lỗi của mỗi người thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau. Trong vụ án này, tuy các bị cáo cùng nhau thực hiện tội phạm và cùng nhau chiếm đoạt hơn 11 tỉ đồng của hơn một trăm người bị hại, nhưng quá trình điều tra đã xác định được cụ thể số tiền 5 tỉ đồng mà hai bị cáo trực tiếp chiếm giữ đó là H 3 tỉ đồng và T 2 tỉ đồng thì bị cáo H phải trả lại cho người bị hại 3 tỉ đồng cùng với số tiền lãi phát sinh, bị cáo T phải phải trả lại cho người bị hại 2 tỉ đồng cùng với số tiền lãi phát sinh. Còn số tiền mà hai bị cáo đổ lỗi cho nhau không khai nhận và cơ quan điều tra cũng không chứng minh được, thì hai bị cáo có nghĩa vụ trả lại và bồi thường cho người bị hại theo phần bằng nhau của số tiền gốc hơn 6 tỉ đồng cùng với số tiền lãi phát sinh, giải quyết như trên vừa bảo đảm công bằng nghĩa vụ giữa hai bị cáo, vừa đảm bảo quyền lợi cho những người bị hại, phù hợp với quy định của pháp luật hình sự và pháp luật dân sự.

Tuy nhiên, theo nguyên tắc quy định ở Điều 616 Bộ luật Dân sự, giả sử trong vụ án này, khi tiến hành điều tra cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh được vai trò trách nhiệm hình sự của hai bị cáo khác nhau, thì bị cáo nào phải chịu trách nhiệm hình sự cao hơn thì phải chịu trách nhiệm trả lại số tiền gốc và bồi thường thiệt hại số tiền lãi cao hơn tuỳ theo tính chất mức độ lỗi. Tuy nhiên, số tiền trả lại và bồi thường này cũng chỉ được phân định trách nhiệm liên đới cao hơn hay thấp hơn trong tổng số tiền hơn 6 tỉ đồng khi các bị cáo còn đổ lỗi cho nhau trong việc chiếm đoạt, cũng như số tiền lãi phát sinh từ 6 tỉ đồng này mà thôi, còn số tiền cụ thể đã chứng minh được từng bị cáo trực tiếp chiếm giữ thì vẫn giải quyết theo như phân tích trên.

Trên đây là một số nội dung xoay quanh trách nhiệm liên đới trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hiện đang còn có nhiều quan điểm và ý kiến khác nhau. Rất mong cơ quan nhà nước có thẩm quyền lưu tâm hướng dẫn việc áp dụng pháp luật trong trường hợp trên

Vũ Thành Long

Tòa án Quân sự Trung ương

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thừa phát lại Bình Định – Kết quả và những khó khăn cần tháo gỡ

25/06/2015

Thừa phát lại là một chế định tồn tại ở Việt Nam từ thời Pháp thuộc và tồn tại dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa trước năm 1975 ở miền Nam. Tiếp thu những ưu điểm của mô hình Thừa phát lại trước đây ở nước ta và ở các nước trên thế giới, đồng thời thực hiện chủ trương xã hội hóa một số hoạt động bổ trợ tư pháp đã được nêu ra trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó có từng bước thực hiện xã hội hóa một số công việc liên quan đến công tác thi hành án dân sự. Quốc hội khóa XII đã thông qua Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 11/11/2008 về việc thi hành Luật Thi hành án dân sự, trong đó đã giao Chính phủ quy định và tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại một số địa phương. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại TP. Hồ Chí Minh (Nghị định số 61/2009/NĐ-CP). Sau khi đạt được những kết quả thành công bước đầu, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 giao Chính phủ tiếp tục triển khai việc thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại 13 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đến ngày 31/12/2015.

Tỉnh Bình Định là một trong 13 tỉnh triển khai thí điểm chế định Thừa phát lại, được sự quan tâm của cả hệ thống chính trị: Thường trực Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh, Ban chỉ đạo thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại và của các sở, ngành chức năng, Văn phòng Thừa phát lại Bình Định được thành lập theo Quyết định số 310/QĐ-UBND ngày 27/1/2014 của ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định. Đây là Văn phòng Thừa phát lại đầu tiên của các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Văn phòng Thừa phát lại Bình Định bắt đầu hoạt động tính đến nay là 01 năm.

1. Một số kết quả thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại tỉnh Bình Định

Thời gian đầu,hoạt động Thừa phát lại Bình Định chủ yếu tập trung vào việc quảng bá chức năng, nhiệm vụ và tổ chức hoạt động của Văn phòng dưới nhiều hình thức như in, phát trên 200.000 tờ rơi, thư ngỏ đến các hộ dân ở các tuyến đường giao thông, các doanh nghiệp, các cơ quan ở thành phố Quy Nhơn và các huyện, thị xã lân cận. Tuyên truyền qua các báo trung ương và địa phương, trên Trang thông tin điện tử… Sau một năm triển khai hoạt động, Thừa phát lại Bình Định đã tiến hành một số hoạt động và đạt được kết quả như sau:

1.1. Hoạt động tống đạt

Tống đạt là hoạt động chức năng của Thừa phát lại theo Nghị định số 61/2009/NĐ-CP, góp phần giảm tải cho các cơ quan Tòa án và Thi hành án dân sự,nhằm tạo điều kiện để các cơ quan này tập trung cho công tác chuyên môn chính thuộc về chức năng của mình.

Văn phòng Thừa phát lại Bình Định đã tống đạt tổng số: 1.227 văn bản, thu được là 75.679.000 đồng. Trong đó:

+ Cục thi hành án dân sự tỉnh Bình Định: 20 văn bản, thu được 1.430.000 đồng.

+ Chi cục thi hành án dân sự TP. Quy Nhơn 821 văn bản, thu được 52.820.000 đồng.

+ Tòa án nhân dân TP. Quy Nhơn: 373 văn bản, thu được: 24.135.000 đồng.

+ Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định: 13 văn bản, thu được là 1.325.000 đồng.

1.2. Hoạt động lập vi bằng

Vi bằng là văn bản do Thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, hành vi được dùng làm chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác.

Thẩm quyền lập vi bằng của Thừa phát lại lần đầu tiên được quy định một cách khái quát tại Điều 25 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP. Cũng theo quy định này, trừ những trường hợp bị pháp luật cấm như “các trường hợp về đảm bảo an ninh, quốc phòng, đời tư, đạo đức xã hội và các trường hợp bị pháp luật cấm”, thì Thừa phát lại có quyền lập vi bằng. Với phạm vi thẩm quyền lập vi bằng rộng như vậy đã giúp ích nhiều cho công dân tạo lập chứng cứ.

Vi bằng chính là thế mạnh của Thừa phát lại. Ngoài Thừa phát lại, không có một hệ thống cơ quan nào giúp người dân xác lập chứng cứ theo yêu cầu của họ một cách kịp thời và thuận lợi, người dân có thể đến Văn phòng Thừa phát lại với thủ tục giản đơn, nhanh chóng và không hạn chế về thời gian. Văn phòng Thừa phát lại Bình Định đến tháng 8 năm 2014 đã lập 03 vi bằng và đã đăng ký tại Sở Tư pháp tỉnh Bình Định, với số tiền thu là: 5.400.000 đồng. Nội dung vi bằng thể hiện phong phú trên nhiều lĩnh vực, đã có tác dụng thiết thực, bước đầu được dư luận trong xã hội biết và ủng hộ.

1.3. Hoạt động xác minh điều kiện thi hành án

Việc xác minh điều kiện thi hành án là một tiền đề mang tính tiên quyết trong khâu tổ chức thi hành án dân sự. Tuy nhiên, người dân lại không đủ điều kiện để tiến hành công việc này. Với sự ra đời của tổ chức Thừa phát lại sẽ giúp công dân có thêm công cụ hỗ trợ một cách tích cực, để đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình thực thi thủ tục thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự.

Trong thời gian qua, Văn phòng Thừa phát lại Bình Định đã tiến hành xác minh điều kiện thi hành án: 52 bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật cho cá nhân, tổ chức. Tổng số tiền thu được là: 141.200.000 đồng.

1.4. Hoạt động tổ chức thi hành án

Thi hành án là một quá trình tiến hành các thủ tục, đưa các bản án, quyết định của Tòa án vào thực tiễn theo quy định của pháp luật. Đây là hoạt động trực tiếp tác động đến quyền lợi của các bên thi hành án, nên từ trước đến nay, các cơ quan thi hành án của Nhà nước thực hiện còn gặp rất nhiều khó khăn. Đối với Văn phòng Thừa phát lại, do còn rất mới mẻ, lại là tổ chức xã hội hóa, nghiệp vụ chuyên môn về thi hành án dân sự chưa được đào tạo, tập huấn nên việc tiến hành thi hành án hiện nay gặp nhiều khó khăn hơn, một năm qua, Văn phòngThừa phát lại Bình Định chưa thực hiện việc thi hành án nào.

Như vậy, sau một năm thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại tỉnh Bình Định, được sự quan tâm giúp đỡ của cả hệ thống chính trị tỉnh, nên Văn phòng Thừa phát lại Bình Định đã đạt được một số kết quả bước đầu khả quan, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm, là cơ sở, tiền đề quan trọng cho việc tiếp tục triển khai chế định Thừa phát lại, để thành lập các văn phòng Thừa phát lại tiếp theo tại tỉnh Bình Định và trên phạm vi cả nước.

2. Những khó khăn, vướng mắc mà Thừa phát lại Bình Định đã gặp

Qua thực tiễn thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại ở Bình Định, chúng tôi xin nêu lên một số khó khăn cụ thể như sau:

2.1. Về chi phí cho công tác thực hiện việc tống đạt

Thực hiện Thông tư liên tịch số 09/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC ngày 28/02/2014 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tài chính, hướng dẫn thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội (Thông tư số 09/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC), công tác tống đạt hiện tại Văn phòng Thừa phát lại Bình Định đang thực hiện có rất nhiều vất vả, thực tế chi phí cho việc tống đạt khá cao, nhưng mức phí tống đạt lại thấp và nhiều bất cập.

Khó khăn cơ bản trong công tác tống đạt, xuất phát từ những quy định của Luật Thi hành án dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự chưa rõ ràng và công tác này chưa được luật hóa, nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau khi thực hiện. Do đó, khi Thừa phát lại thực hiện tống đạt, thì hình thức, thủ tục, văn bản tống đạt của Tòa án lại khác với hình thức văn bản tống đạt của cơ quan thi hành án dân sự, vấn đề này chưa được hướng dẫn để thống nhất thực hiện.

Ví dụ: Giấy triệu tập đương sự do hệ thống cơ quan Tòa án quy định, khi thực hiện tống đạt chỉ cần người trực tiếp tiến hành tống đạt thực hiện và đương sự (người nhận) là đủ. Trường hợp đương sự (người nhận) không có ở địa chỉ cư trú, thì mới nhờ đến cán bộ tư pháp phường, xã để tống đạt hoặc xác nhận khi Thừa phát lại tiến hành tống đạt.

Về thủ tục tống đạt văn bản của cơ quan thi hành án dân sự: Hình thức trong văn bản tống đạt theo mẫu của Thông tư số 09/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC, ngoài Thừa phát lại và thư ký nghiệp vụ, còn có sự chứng kiến, xác nhận của cán bộ khối phố, cán bộ tư pháp xã, phường hoặc Công an khu phố thì mới đủ điều kiện hợp lệ và được thanh toán chi phí tống đạt. Nếu đương sự không có mặt tại nơi cư trú, thì cũng cần có đủ các thành phần như đã nêu trên mới tiến hành niêm yết hợp lệ (hai trường hợp được nêu trên đều phải thực hiện đúng và đủ thành phần, mới được coi là hợp lệ). Như vậy, do cơ chế phối hợp, Thừa phát lại và thư ký nghiệp vụ không thể tự mình thực hiện việc tống đạt, mà phụ thuộc rất nhiều vào sự hỗ trợ của ủy ban nhân dân và Công an phường, xã. Văn bản tống đạt trực tiếp cho đương sự theo quy định phải có cả khuôn dấu của ủy ban nhân dân phường, xã.

Theo chúng tôi, cần phải quy định riêng về thủ tục tống đạt của Thừa phát lại theo hướng: Văn phòng Thừa phát lại tự chịu trách nhiệm về tính xác thực của các biên bản mà Thừa phát lại lập; còn đối với trường hợp tống đạt trực tiếp, tống đạt qua người thứ ba hoặc niêm yết, thì chỉ cần xác nhận của Thừa phát lại là đủ điều kiện về pháp lý.

2.2.Về lập vi bằng

Khi thực hiện theo Nghị định số 61/2009/NĐ-CP thì hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại tiến hành thuận lợi, do Thừa phát lại có được quyền chủ động thực hiện, không phụ thuộc nhiều vào bên thứ ba. Tuy nhiên, khi Nghị định số 61/2009/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại TP. Hồ Chí Minh, đã có nhiều nội dung thay đổi quan trọng liên quan đến hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại. Trong đó phạm vi thẩm quyền lập vi bằng bị thu hẹp hơn, tức là bổ sung quy định Thừa phát lại không được lập vi bằng “các trường hợp thuộc thẩm quyền công chứng của tổ chức hành nghề công chứng hoặc thuộc thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân các cấp”, đồng thời với việc thêm quy định Sở Tư pháp có quyền từ chối đăng ký vi bằng của Thừa phát lại. Vấn đề này hiện nay còn nhiều cách hiểu khác nhau, gây khó khăn trong quá trình xác định thẩm quyền xác lập và đăng ký vi bằng.

Thực hiện Công văn số 4003/BTP-TCTHADS ngày 19/9/2014 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số nội dung liên quan đến hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại đã có một số chú ý:

– Không lập vi bằng chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch; không xác nhận chữ ký và bản sao từ bản chính (là thẩm quyền thuộc tổ chức hành nghề công chứng hoặc thuộc thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân các cấp).

– Không lập vi bằng các sự kiện và hành vi nhằm thực hiện các giao dịch trái pháp luật của người yêu cầu lập vi bằng, trừ trường hợp sự kiện, hành vi trái pháp luật do người khác thực hiện ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người yêu cầu lập vi bằng.

– Không lập vi bằng các hành vi, sự kiện của cán bộ công chức đang thi hành công vụ, trừ trường hợp các sự kiện, hành vi đó rõ ràng trái pháp luật, xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của người yêu cầu lập vi bằng.

– Không lập vi bằng để ghi nhận những sự kiện, hành vi mà mình không trực tiếp chứng kiến hoặc những sự kiện, hành vi chỉ thông qua lời kể của người khác.

Thực tiễn lập vi bằng, chúng tôi thấy có một số băn khoăn đối với các trường hợp như sau:

Ví dụ 1: Thừa phát lại lập vi bằng ghi nhận các bên tiến hành tự thảo luận và thỏa thuận giao (nhà ở) tài sản, giao tiền đặc cọc, giao tiền cho vay, mượn và giao sổ tiền gửi tiết kiệm, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ). Thừa phát lại lập vi bằng xác nhận sự kiện, hành vi để làm chứng cứ khi cần thiết.

Ví dụ 2: Các bên mua bán nhà bằng giấy viết tay, nay nhờ Thừa phát lại lập vi bằng ghi nhận việc các bên có giao nhận tiền. Sự kiện Thừa phát lại lập vi bằng chính là việc giao nhận tiền giữa các bên. Trong việc giao dịch mua bán nhà, đất của các bên chỉ được xem xét khi có tranh chấp khởi kiện đến Tòa án. Việc Thừa phát lại lập vi bằng, thì vi bằng chính là chứng cứ về việc các bên có sự giao nhận tiền, làm cơ sở chứng cứ cho Tòa án giải quyết hậu quả pháp lý vụ án.

Ví dụ 3: Vợ, chồng có ngôi nhà cấp 4 tọa lạc trên mảnh đất 80m2 (đất được tồn tại lâu đời ổn định tại khu dân cư) chưa được cấp giấy quyền sử dụng đất, đất không có tranh chấp. Trước khi ly hôn, vợ, chồng tự nguyện thỏa thuận bàn giao nhà cho vợ để ở nuôi con, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Các đương sự yêu cầu Thừa phát lại lập vi bằng việc giao ngôi nhà là tài sản của họ. Thừa phát lại lập vi bằng việc giao nhận ngôi nhà này chỉ ghi nhận sự kiện, hành vi việc giao nhận ngôi nhà là tài sản của vợ chồng trước khi ly hôn. Thẩm quyền lập vi bằng và đăng ký vi bằng trong những trường hợp nêu trên có nhiều ý kiến khác nhau. Vấn đề này theo chúng tôi, thì việc Thừa phát lại lập vi bằng để ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa hai vợ, chồng giao ngôi nhà cho một bên là nhằm để làm cơ sở cho việc xác định tài sản này là do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp. Tuy rằng việc xác định quyền sử dụng đất (sổ đỏ) chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp, đây cũng chỉ là vấn đề thủ tục và thời gian, mà không thể không công nhận, bởi vì, đất không có tranh chấp. Chúng tôi cho rằng những trường hợp này lập vi bằng là phù hợp, để người dân tạo lập chứng cứ, nếu có tranh chấp thì có cơ sở giải quyết.

2.3. Về tổ chức thi hành án

Trong công tác thi hành án dân sự, cần có sự vào cuộc, cộng tác thực sự của các ngành và có thể cả hệ thống chính trị. Tuy nhiên, vấn đề vướng mắc cơ bản và cốt lõi đó là, trong công tác tổ chức thi hành án dân sự hiện nay của Thừa phát lại chưa được pháp luật về thi hành án dân sự quy định, trao quyền cụ thể. Bước đầu chỉ thực hiện quy định của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP.

Về công tác tổ chức nhân sự, vẫn còn hạn chế trong giai đoạn thí điểm; về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng công tác thi hành án dân sự, chưa được nghiên cứu tập huấn. Do đó, tính chủ động việc thi hành án dân sự của Thừa phát lại vẫn còn khó khăn.

Từ các vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn, chúng tôi xin kiến nghị:

Để hoạt động Thừa phát lại có thể triển khai có hiệu quả, thì cần thường xuyên mở các lớp đào tạo, tập huấn cho Thừa phát lại cho đội ngũ chuẩn bị tham gia làm Thừa phát lại và thư ký nghiệp vụ, đặc biêt là về kỹ năng trong công tác thi hành án, nhằm trang bị kỹ năng và để tạo nguồn. Thời gian đào tạo, tập huấn cần tăng hơn so với trước. Các cơ quan thi hành án và Tòa án cũng mạnh dạn tạo điều kiện, giao cho Thừa phát lại văn bản để tống đạt cho đương sự, góp phần giảm tải cho các cơ quan này.

Pháp luật chuyên ngành của Thừa phát lại cũng cần xúc tiến xây dựng, để chuẩn bị cho sự ra đời kịp thời và thực thi trong thời gian tới .

Công tác tuyên truyền cần được tăng cường dưới nhiều hình thức và thường xuyên, liên tục để cộng đồng dân cư trong xã hội hiểu biết nhiều hơn về chế định Thừa phát lại và từ đó có sự lựa chọn dịch vụ lập vi bằng, xác minh thi hành án và thi hành án, góp phần hạn chế tranh chấp và tạo chứng cứ khi giải quyết các tranh chấp.

Trương Việt Kon Tum

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Dấu vết – Quy luật bất biến trong điều tra hình sự

12/08/2014

Vào buổi sáng mồng 5 Tết, nhân dân phát hiện một xác chết nổi lập lờ trên sông Cầu Lai, một con sông nhỏ, bề ngang chừng hơn chục mét, đoạn địa phận xã Phú Sơn, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Khi nạn nhân được đưa lên bờ thì nhận ra chính là cụ bà Nguyễn Thị C, thường gọi là cụ L, 72 tuổi, một người sống độc thân trong xã. Ngang lưng nạn nhân buộc dây thừng, đầu kia buộc vào một khối gạch lớn có nhiều mạch vữa xây, cân được 35kg. Trên đầu cụ C chít khăn mỏ quạ màu đen. Thường các cụ bà khi vấn khăn mỏ quạ thì gập lần thứ nhất theo đường chéo làm tấm khăn hình vuông trở thành hình tam giác, lại gập lần thứ hai khoảng 5 hay 6cm ở đáy tam giác chỗ đường vừa gập làm cho chiếc khăn chỗ có 4 lớp vải – cũng chính là đáy tam giác của mảnh khăn – chỗ chỉ có hai lớp vải. Ở phần hai lớp vải của khăn có một vết rách vải không hoàn toàn, hình vuông, mỗi cạnh 2,5cm. Bốn “cạnh” của hình vuông hình thành do các sợi vải đứt không đồng đều, có sợi đứt hẳn, sợi đứt dở dang. Đặc biệt, trên một “cạnh” có đoạn đo được 4mm thì các sợi vải hoàn toàn không đứt…

Chấp hành Quyết định trưng cầu giám định pháp y của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình, Cơ quan giám định pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh Thái Bình kết luận giám định: “Trên cơ thể nạn nhân không có dấu vết do đả thương, đâm chém, rạch cắt; nguyên nhân chết do ngạt nước”. Kết luận giám định pháp y đặt ra cho cơ quan điều tra nhiều câu hỏi: Liệu có phải nạn nhân bị bức tử bằng cách buộc khối gạch lớn vào người rồi đẩy xuống sông? Tuy với một cụ già nhỏ bé chỉ cao 1m45, nhưng muốn làm được việc này thủ phạm ít nhất phải có hai tên, trong khi với một người tầm vóc nhỏ bé, yếu ớt thì hành vi bóp cổ hay siết cổ bằng dây cũng có thể dẫn đến cái chết? Những giám định viên pháp y và các cán bộ kỹ thuật hình sự khám nghiệm đều khẳng định hoàn toàn không có hai loại dấu vết này. Từ 30 Tết đến sau hơn một tuần, trời rét, làm thi thể biến đối chậm, nên sự khẳng định không có hai loại dấu vết này có thể tin cậy.Điểm này được thể hiện trong biên bản khám nghiệm và hoàn toàn logic với chẩn đoán pháp y chết ngạt nước vì khi xuống nước, nạn nhân phải còn sống, mới hít nước vào phổi, người chết đương nhiên không thể hít thở được? Có hay không việc nạn nhân tự buộc gạch vào người rồi xuống sông để quyên sinh, tình huống này có thể xảy ra ở những người mắc bệnh trầm cảm tuổi già với nhiều hoang tưởng tội lỗi bản thân nặng nề, nhưng khối gạch vữa kia ở đâu và cụ C có khuân nổi một vật nặng 35kg? Kết quả điều tra đã loại bỏ giả thiết thứ hai, vì cụ C không có bệnh tâm thần; khối gạch vữa được làm rõ là ở cầu ao nhà ông H. ở xóm sát bờ sông, cách nơi phát hiện tử thi cụ C khoảng hơn 100m; đây là một cục móng nhà cấp bốn của trường tiểu học gần đó, khi phá dỡ để xây trường học cao tầng, ông H đã đem về bắc cầu ao. Với sức khỏe của cụ C thì không thể mang vật nặng đi xa như vậy?Thông tin càng trở lên “rối” khi vết rách trên chiếc khăn mỏ quạ của nạn nhân “lên tiếng”. Sau khi rửa sạch phù sa và chất bẩn bám trên vải, nhưng không làm biến đổi vết rách và sợi vải, rồi nghiên cứu dưới kính hiển vi chiếu xiên tại phòng thí nghiệm, các cán bộ kỹ thuật hình sự công an tỉnh thấy chiếc khăn cũ, vải đã sờn và đặc biệt họ khẳng định đây là vết rách mới được tạo ra. Vết rách vải hình vuông mỗi cạnh 2,5 cm làm những người có kinh nghiệm về dấu vết liên tưởng đến tác động của một chiếc búa đinh mà bốn cạnh còn sắc nét đánh lên đầu nạn nhân, làm đứt rách không hoàn toàn các sợi vải. Phải chăng cụ C bị đánh bằng búa vào đầu, rồi hung thủ buộc gạch nặng vào người, lăn xuống sông để phi tang tội ác – một thủ đoạn thông thường mà tội phạm vẫn thường dùng, bởi chúng cho rằng, với những vật nặng sẽ làm tử thi sẽ không nổi lên được. Nhưng giả thiết này lại mâu thuẫn với kết luận giám định pháp y là “cơ thể nạn nhân không có dấu vết do đả thương, đâm chém, rạch cắt”; mặt khác, một cụ già nhỏ bé như vậy bị đánh bằng búa vào đầu liệu có còn sống hay không để khi bị đẩy xuống nước còn thở nên hít nước vào phổi dẫn đến chết ngạt?

Tài liệu điều tra cho thấy cụ C sống độc thân, vì cụ ông mất đã lâu. Cụ có một người con trai ngoài 40 tuổi, làm nghề bảo dưỡng đường bộ ở Sở Giao thông tỉnh Yên Bái. Anh này đã có gia đình riêng ở cùng xóm với cụ. Việc cụ ở riêng là do quan niệm không muốn vướng bận con cái, dù các con đã nhiều lần mời mẹ về ở cùng, nhưng cụ không nghe. Chiều mồng 3 Tết, anh con trai mời mẹ sang nhà mình hóa vàng tiễn gia tiên về trời để mồng 4 tốt ngày anh lên cơ quan. Cỗ bàn xong, trời cũng sâm sẩm tối, cụ C bảo: Thôi để mẹ về bên nhà đóng cửa chuồng gà, không chốc nữa tối chẳng biết đâu mà lần!… Cũng vì sống độc thân, nên không ai hay biết chuyện gì đã xảy ra, chỉ đến khi phát hiện cụ chết nổi dưới sông, thì cả làng mới bùi ngùi thương xót, rồi lời này, ý kia rằng nếu cụ ở với con cháu thì đâu đến nỗi… Cụ C còn có một người con nuôi khác là ông T, 50 tuổi, có gia thất riêng ở một xóm khác cùng xã, nhưng vừa qua đời vì ung thư phổi, mới chôn cất được vài ngày. Vùng quê này cũng như nhiều nơi khác có lệ đánh bài bạc ở nhà đám, vừa là để cho đỡ trống vắng nhà, vừa là trông coi giúp gia chủ vào ban đêm và thường đánh thâu đêm suốt sáng; đánh từ lúc dựng rạp thông đến khi xong việc mấy ngày. Có vài người hàng xóm và cả người nhà nhớ lại khoảng 9 giờ tối một hôm, họ đang ngồì trong chiếu bạc, thì thấy thằng Thường, 17 tuổi, con trai ông T. không biết đi đâu về, nó không vào trong nhà mà đứng ngoài sân vẫy thằng K bạn thân bằng tuổi nó (đang ngồi chầu rìa bên chiếu bạc) ra ngoài, rồi hai đứa đi đâu không rõ. Qua ánh điện hắt từ trong nhà ra ngoài sân, thấy trên vai áo và ngực áo thằng Thường có dính chất màu đỏ, người thì bảo giống màu máu, người thì bảo giống màu nước quết trầu của mấy cụ bà ăn trầu vỏ. Một nguồn tin khác do nhiều người cung cấp nói rằng, từ hôm phát hiện xác cụ C nổi ngoài sông, công an về khám nghiệm, mổ tử thi, thì không nhìn thấy Thường trong làng nữa? Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình triệu tập K đến làm việc. Khi hỏi Thường đi đâu, K khai không biết, nó không nói gì với cháu! Sắc mặt K tỏ ra bình thản.Cũng có thể Thường không nói cho K biết là đi đâu.Để xác minh nơi Thường đến vẫn còn có cách khác. Tuy nhiên, khi cán bộ điều tra hỏi đến việc tối hôm sau ngày chôn cất ông T, Thường đi đâu về vẫy K đang ngồi chầu rìa chiếu bạc ra ngoài, thì hai người đi đâu, liền thấy mặt K biến sắc. Ngập ngừng một thoáng K nói: “Nó rủ cháu đi ống nước”, giọng K lạc hẳn đi, vì thế nói “uống” thành ra “ống”. Thấy tinh thần đối tượng có biến loạn, cán bộ điều tra liền tăng áp lực: Lạ nhỉ, từ khi phát hiện xác cụ C thì thằng Thường biến mất, thằng này không nghề không nghiệp đi đâu nhỉ, bảo có nghề ngỗng thì còn đi làm ăn, đằng này… K im lặng không nói gì!? Cán bộ điều tra nhẹ nhàng thuyết phục: Nếu chẳng may cháu có làm điều gì dại dột, cứ mạnh dạn khai báo để được giảm nhẹ tội hoặc nếu biết ai phạm tội cứ khai ra, nếu không cháu sẽ mắc tội che giấu tội phạm. Nếu điều tra được đúng là cháu che giấu tội phạm, thì tội này cũng phải đi tù đấy. Nét mặt K tái hẳn… Có lẽ là một thanh niên nông thôn mới lớn, K không hiểu biết luật pháp, nên khi biết rồi, thì sợ… Sau một lúc suy nghĩ có vẻ căng thẳng lắm, K xin khai: Tối hôm đó, khi thằng Thường vẫy cháu ngoài, nó bảo đi với tao một lúc. Cháu bảo đi đâu?Thằng Thường nói là đi hộ tao việc này, mày cứ đến chỗ tao cần nhờ thì sẽ rõ, tao sẽ nói.Nó dẫn cháu ra bãi tha ma cạnh sông Cầu Lai, thì cháu nhìn thấy mờ mờ như có người nằm trên đám cỏ. Thằng Thường nói: Tao đập chết bà ấy rồi! Cháu giật mình sợ hãi, buột miệng hỏi theo phản xạ: Bà nào? Nó nói: Bà C. Cháu nói: Chết rồi, sao mày đập bà ấy? Thằng Thường nói: Tao lấy vàng! Cụ C ky cóp được sáu chỉ vàng thì cả làng đều biết vì đi đâu cụ cũng khoe. Thằng Thường là cháu nuôi, thường qua lại nhà cụ, nên chắc nó biết chỗ cụ giấu vàng. Cháu rất sợ hãi nên bảo nó: Mặc kệ mày, tao về đây! Nó nài nỉ: Mày phải giúp tao, tao chót rồi, mày là thằng thân nhất với tao, mày không giúp thì tao làm sao bây giờ. Giờ mày đi kiếm cho tao một sợi dây thừng, tao biết chỗ có tảng gạch, tao đi vác về, buộc vào bà ấy rồi đẩy xuống sông thì không nổi lên được đâu. Lúc ấy tự nhiên cháu lại thấy thương nó, vì nó với cháu rất thân nhau, nên đã làm theo lời nó. Khi cháu về nhà mình lấy dây thừng đem đến nghĩa địa, thì nó đã vác từ đâu về một tảng gạch rất to.Cháu và nó buộc dây thừng vào tảng gạch rồi buộc vào ngang lưng cụ C và đẩy xuống sông.Cháu cũng nghĩ rằng tảng gạch to như thế thì cụ C sẽ không nổi lên được. Nhưng từ lúc đó trở đi cháu luôn luôn bồn chồn, lo sợ sẽ xảy ra một điều khủng khiếp, ăn không biết ngon, ngủ thì ác mộng bị rắn đuổi, chó becgiê đuổi… Cán bộ điều tra hỏi K có nghe thằng Thường nói đập bằng cái gì và vào chỗ nào trên người cụ C thì K nói không biết!? Phần quan trọng nhất trong tình tiết vụ án đã sáng tỏ: Cụ C bị đánh, nhưng hung khí thuộc loại nào và tác động vào đâu trên cơ thể nạn nhân thì chưa rõ nhưng rõ ràng là mâu thuẫn với kết luận giám định pháp y. Vì thế, vết rách trên chiếc khăn mỏ quạ trở thành đối tượng nghi vấn có trọng lượng nhất về loại hung khí đã tạo ra nó, bởi trường hợp này lời khai của kẻ tiếp tay cho hung thủ được cơ quan điều tra đánh giá là trung thực.

Kết thúc buổi làm việc, Viện Khoa học hình sự Bộ Công an và Công an tỉnh Thái Bình có cùng quan điểm phải khai quật tử thi, giám định lại mới có thể làm sáng tỏ hoàn toàn những mâu thuẫn về dấu vết của vụ việc và đó cũng chính là chìa khóa để mở ra hướng đi đúng. Ngày hôm sau, thực hiện quyết định của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình, tử thi cụ C được khai quật và giám định… Sau 7 ngày chôn cất trong điều kiện thời tiết lạnh, nên tử thi cụ C hầu như chưa biến dạng do phân hủy. Ngoài những đường mổ do pháp y Sở Y tế Thái Bình mổ trước, phát hiện thấy da vùng đỉnh đầu trái của nạn nhân có vết đen xạm mờ; sát vết này là một vết rách da sâu đến tận xương sọ, hình chữ L mà góc “chữ” hướng về phía trán, nhánh dài của vết rách da đo được 2,3cm, nhánh ngắn là 2cm, góc và mép vết rách da không gọn; vùng da rách có màu xám khác với màu sắc những vùng da lành khác. Phẫu tích da đầu để bộc lộ hoàn toàn xương vòm sọ thấy xương đỉnh trái có vết vỡ lún dạng ba cạnh đo được 3,2cm, 2,8cm và 2,5cm. Diện xương vỡ lún gồm các mảnh xương vỡ nhỏ chưa rời hẳn nhau (vỡ xương không hoàn toàn – TG) theo kiểu bậc thang, chỗ lún sâu nhất đo được 0,7cm. Khe giữa các mảnh xương vỡ còn kẹt lại mấy sợi tóc ngắn.Mặt trong diện lún vỡ có một mảnh xương nhọn chọc thủng màng cứng não.Toàn bộ mô não bán cầu đại não trái có màu nâu (khác hẳn với màu trắng xám của bán cầu đại não phải). Đây là máu chảy bên trong màng cứng não và trong mô não (do mảnh xương vỡ đâm vào) đã biến đổi thành màu nâu do quá trình phân hủy. Ngoài ra, mặt ngoài màng cứng não trái tương ứng với vùng xương vỡ lún có một khối máu tụ gần tròn, đường kính 4cm (gọi là tụ máu ngoài màng cứng não – khe giữa xương sọ và mặt ngoài màng cứng não); khối máu tụ này làm biến đổi màu sắc (trở thành màu nâu) của mặt trong xương sọ và mặt ngoài màng cứng não vùng xương vỡ lún. Sự không logic của kết luận giám định pháp y lần đầu bộc lộ từ kết quả phát hiện những tổn thương sọ não, bởi phải nghi vấn rằng: Với vết thương sọ não hở trầm trọng như vậy, gồm cả vỡ xương sọ, rách màng cứng não, tụ máu ngoài màng cứng não, chảy máu rất rộng trong chất não bán cầu não trái ở một người già yếu, tầm vóc nhỏ bé, sẽ chết ngay vì sốc chấn thương, nên khi bị hung thủ đẩy xuống nước sẽ không còn thở nữa!? Vậy thì kết luận nguyên nhân chết là ngạt nước phải được xem xét lại, phải tìm được dấu vết của dị vật (nước, bùn đất…) trong đường thở.Kiểm tra toàn diện cơ thể, đặc biệt là hệ thống đường thở từ mũi, miệng, khí quản, phế quản đều không thấy có nước, cát hay những dị vật khác. Trong những ngày Tết, nước sông Cầu Lai đỏ đậm phù sa, nếu nạn nhân hít nước vào đường thở thì hệ thống này chắc phải có nước màu phù sa và cát. Dấu vết âm tính trong đường thở cho phép loại trừ nguyên nhân chết ngạt nước của kết luận giám định pháp y lần đầu, vì hoàn toàn không có căn cứ khoa học. Đây là một trường hợp đẩy xác chết xuống nước, không phải chết do ngạt nước.

Dựa trên đặc điểm thương tích, các giám định viên pháp y Bộ Công an xác định hung khí thuộc nhóm vật tày rất cứng có cạnh; diện tiếp xúc với đỉnh đầu nạn nhân có dạng phẳng; số lần tác động (đánh) là một lần; cường độ lực tác động mạnh; khi đánh thủ phạm ở phia sau nạn nhân (gọi là tương quan vị trí giữa thủ phạm và nạn nhân). Có thể giải thích như sau: Do cấu tạo xương đỉnh (vòm) sọ người có ba lớp, lớp ngoài và trong là xương cứng, giữa hai lớp này là xương xốp; lại do cấu trúc hình vòm cong, nên một vật có bề mặt phẳng tác động (đánh) vào theo chiều từ trên xuống dưới với một lực mạnh hay vừa phải thường tạo ra kiểu lún xương hình bậc thang mà các loại xương khác không có dạng tổn thương này (do khác đặc điểm cấu tạo). Mặt khác, vết rách da ở đỉnh đầu trái nạn nhân có đặc điểm bờ mép và góc không gọn chính là đặc điểm thương tích do vật tày gây ra. Nhận định này cùng với vết rách vải trên chiếc khăn mỏ quạ của cụ C càng làm cho búa đinh trở thành “nghi can” số một. Chỉ có điều vì sao trên một “cạnh” của vết rách vải hình vuông lại có đoạn dài 4mm mà các sợi vải hoàn toàn lành lặn thì chưa ai giải thích được?

Sau nhiều công sức dò tìm tung tích tên Thường, thằng cháu nuôi bất nghĩa bị bắt ở Hà Nội. Tại cơ quan điều tra, tên Thường đã khai và diễn lại hành vi phạm tội: Tối mồng 3 Tết, nó đến nhà bà nuôi nói dối là người lớn sai nó mời bà sang nhà để bàn việc… Khi đến đoạn đồng vắng cách giữa hai xóm, nó từ phía sau rút chiếc búa đinh giắt trong người đập mạnh vào đầu bà nuôi.Cụ C gục ngay tại chỗ. Nó vác cụ đến nghĩa địa cạnh sông Cầu Lai cách đó khoảng hơn trăm mét. Vì thế, màu đỏ trên vai và ngực áo nó mà những người ngồi trong chiếu bạc nhìn thấy chính là máu… Trên đường về nhà để gọi bạn, nó vứt chiếc búa vào bụi rậm… Tên Thường chỉ chỗ vứt búa. Nhặt búa lên, cán bộ kỹ thuật hình sự tức thì lật mặt búa như một phản xạ tự nhiên, trong tất cả ánh mắt đổ dồn của mọi người: Các cạnh của chiếc búa còn rất gọn. Một hơi thở dài bật ra sau kìm nén, bởi hung khí gây án đã được nhận định đúng… Còn đoạn “sợi vải lành lặn” 4mm kia cũng ngay lập tức được giải thích: Trên một cạnh của mặt búa có một vết sứt dài 4mm, không rõ vì sao?

Tên Thường vì hai tội danh, nên phải chịu mức án tử hình, không làm cho những người tham gia giải quyết vụ án băn khoăn nhiều về chuyện nhân tình thế thái. Một vụ giết người, buộc xác vào vật nặng đẩy xuống nước để che giấu tội ác đã được chứng minh bằng sự logic của dấu vết, nhưng để lại một vết gợn lớn. Xưa nay đã có biết bao lần phá án thất bại bởi sự cẩu thả của con người và lần này cũng vậy. Gám định viên pháp y giám định lần đầu đã bỏ qua dấu vết thương tích ở vùng đầu của nạn nhân, trong khi dấu vết này quyết định bản chất của vụ án về hai vấn đề mấu chốt: Khi bị đẩy xuống nước, nạn nhân còn sống hay đã chết và hung khí gây án là loại vật gì? Sai lầm khi giám định pháp y lần đầu có nguyên nhân là sự bàng quan với tất cả các dấu vết của vụ án: Ở một hiện trường cách xa làng mạc, phát hiện tử thi dưới nước nhưng bị buộc vào vật nặng, rõ ràng là dấu hiệu không bình thường nhưng lại không đặt ra những tình huống từ dấu hiệu bất bình thường đó, khi mà thực tế có không ít những trường hợp giết người vứt xác xuống nước để làm như nạn nhân chết ngạt nước. Vết rách trên chiếc khăn mỏ quạ của nạn nhân rất không bình thường, vì nó không giống như những vết rách vải khác do vải đã quá cũ nát hoặc bị móc vào đinh hay vật nhọn nào đó… Vì không nhận thấy đặc điểm bất bình thường của vết rách và không có nhận thức về mối liên hệ từ vết rách với cơ thể, nên đã khám xét quá cẩu thả, bỏ qua thương tích vùng đầu. Nếu dấu vết thương tích này được phát hiện khi khám nghiệm và giám định pháp y tử thi lần đầu thì vụ việc sẽ rất đơn giản với đúng bản chất của nó: Có nhiều tổn thương sọ não trầm trọng như vậy khi xuống nước, nạn nhân đã ngừng thở và giám định viên pháp y hoàn toàn có thể chẩn đoán đúng nguyên nhân chết cũng như xác định rằng đây là một trường hợp xác chết bị đẩy xuống nước. Chẩn đoán pháp y “chết ngạt nước” làm cho những người am hiểu lĩnh vực này băn khoăn nhất vì hoàn toàn không có căn cứ khoa học. Bởi trường hợp này tử thi hầu như chưa phân hủy, việc chẩn đoán chết ngạt nước khá đơn giản, chỉ cần thấy có nước trong khí, phế quản và dịch bọt trong mô phổi. Với ngạt nước nói chung, đôi khi nạn nhân chết khi gặp nước lạnh đột ngột; hoảng sợ khi bị lút quá sâu xuống nước… do xuất hiện phản xạ ức chế trung tâm chỉ huy tuần hoàn và hô hấp ở hành não dẫn dến ngừng thở nên trong đường thở không có nước. Tuy nhiên, trường hợp này không có bất kỳ nguyên nhân nào dẫn dến chết do phản xạ mà y văn đã mô tả, trong khi hiện trường vụ việc rất không bình thường vì xác được buộc vào vật nặng. Có lẽ chỉ còn một hướng có thể nhận định đó là sự thiếu trách nhiệm và cách làm việc thiếu khoa học khi giám định.

Trong khoa học điều tra hình sự, dấu vết vật chất luôn là “người chỉ đường” tin cậy nhất, nếu ta tôn trọng chúng và nắm vững quy luật tồn tại, tác động cũng như biến đổi của chúng.

Nguyễn Văn

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hướng dẫn nghiệp vụ công tác tư pháp

18/09/2015

Thời gian qua, Bộ Tư pháp đã nhận được công văn của một số tỉnh, thành phố và cơ quan tư pháp địa phương đề nghị hướng dẫn nghiệp vụ về công tác tư pháp. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật xin lựa chọn một số hướng dẫn cụ thể để giới thiệu cùng bạn đọc

1. Hướng dẫn nghiệp vụ giải quyết một số vướng mắc trong việc chuyển giao công chứng, chứng thực hợp đồng giao dịch(theo Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch)

Để giải quyết những vướng mắc trong việc chuyển giao chứng thực – công chứng hợp đồng, giao dịch theo Nghị định số 23/2015/NĐ-CP, ngày 29/6/2015, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 2271/BTP-BTTP về việc thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải về công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Tại Công văn nói trên, Bộ Tư pháp đã đề nghị, trước mắt Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hướng dẫn Sở Tư pháp, các sở, ban, ngành tổ chức có liên quan: Thực hiện quy định về thẩm quyền công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất theo đúng quy định của Luật Đất đai năm 2013, đảm bảo người dân có quyền lựa chọn công chứng tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã. Đối với các địa bàn đã thực hiện việc chuyển giao chứng thực hợp đồng, văn bản từ Ủy ban nhân dân cấp xã sang các tổ chức hành nghề công chứng tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi đã có quyết định chuyển giao xem xét những nơi mà việc chuyển giao đã ổn định, tổ chức hành nghề công chứng hoạt động tốt, đáp ứng được nhu cầu thì xem xét, quyết định giữ nguyên việc chuyển giao để tránh gây xáo trộn, khó khăn cho người dân. Hiện nay, Bộ Tư pháp đang tiếp tục nghiên cứu, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường để hướng dẫn thực hiện vấn đề nêu trên một cách có hiệu quả theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ.

2. Về thời gian giải quyết đối với thủ tục ghi vào sổ việc ly hôn đã tiến hành ở nước ngoài

Theo Điều 45 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình (Nghị định số 126/2014/NĐ-CP) thì:

(i) Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ và lệ phí, Sở Tư pháp gửi văn bản xin ý kiến Bộ Tư pháp về điều kiện ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn, kèm theo 01 bộ hồ sơ.

(ii) Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản xin ý kiến của Sở Tư pháp, Bộ Tư pháp xem xét, thẩm tra hồ sơ và điều kiện ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn.

Nếu xét thấy bản án, quyết định ly hôn, bản thỏa thuận ly hôn đáp ứng điều kiện quy định tại Điều 41 của Nghị định này và việc ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn là đúng thẩm quyền thì Bộ Tư pháp gửi văn bản đồng ý cho Sở Tư pháp thực hiện ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn theo quy định của Nghị định này.

Nếu yêu cầu ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn không đủ điều kiện hoặc không đúng thẩm quyền thì Bộ Tư pháp trả lại hồ sơ cho Sở Tư pháp, có văn bản thông báo, nêu rõ lý do.

(iii) Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đồng ý của Bộ Tư pháp thì Sở Tư pháp ghi vào sổ hộ tịch và cấp cho người yêu cầu giấy xác nhận ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn đã được giải quyết ở nước ngoài theo mẫu quy định. Trường hợp không đủ điều kiện hoặc không đúng thẩm quyền ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn thì phải trả lời bằng văn bản và trả lại hồ sơ cho người yêu cầu, không trả lại lệ phí.

Như vậy, Nghị định số 126/2014/NĐ-CP đã quy định rõ thời hạn đối với từng cơ quan khi giải quyết thủ tục, nhưng không quy định tổng thời gian giải quyết đối với một số hồ sơ ghi chú ly hôn là bao nhiêu ngày (thời gian nêu trên tại mỗi cơ quan không bao gồm thời gian gửi hồ sơ từ Sở Tư pháp đến Bộ Tư pháp và ngược lại). Do đó, đề nghị các Sở Tư pháp khi công bố thời hạn giải quyết thủ tục ghi chú ly hôn hoặc khi ghi phiếu hẹn giải quyết hồ sơ cho người dân, cần căn cứ vào thời gian gửi và nhận hồ sơ theo đường bưu điện (từ Sở Tư pháp đến Bộ Tư pháp và ngược lại) để giải quyết thủ tục và thông báo công khai cho người dân.

Để tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho người dân, hiện nay, Bộ Tư pháp đang xây dựng dự thảo nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch, trong đó cố gắng rút ngắn thời gian giải quyết so với quy định của Luật; đối với thủ tục ghi vào sổ việc ly hôn đã tiến hành ở nước ngoài dự thảo nghị định quy định theo hướng: Ủy ban nhân dân cấp huyện trực tiếp quyết định việc ghi chú mà không phải gửi hồ sơ xin ý kiến cấp trên.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Công tác đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất trên địa bàn tỉnh Nghệ An

24/04/2015

1. Những kết quả ghi nhận

Triển khai thực hiện công tác đăng ký giao dịch bảo đảm trên địa bàn tỉnh, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Nghệ An đã ban hành kế hoạch thực hiện trên cơ sở bám sát chỉ đạo của Bộ Tư pháp để giao nhiệm vụ cho các cấp, các ngành, trong đó tập trung các cơ quan: Sở Tư pháp; Sở Tài nguyên và Môi trường; Sở Tài chính; Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; hệ thống các ngân hàng, các tổ chức tín dụng; UBND các huyện, thành phố, thị xã, UBND cấp xã; các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh tổ chức thực hiện nghiêm túc, có kết quả Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm với nhiều giải pháp đồng bộ. Trên cơ sở nhiệm vụ được giao tại Quy chế phối hợp trong quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất trên địa bàn tỉnh Nghệ An theo Quyết định số 65/2012/QĐ-UBND ngày 28/8/2012 của UBND tỉnh Nghệ An, năm 2014, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 1875/QĐ-UBND về việc kiểm tra thực hiện công tác đăng ký giao dịch bảo đảm tại các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Qua thực tiễn kiểm tra cho thấy, công tác này đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn những hạn chế và vướng mắc cần có giải pháp tháo gỡ.

Để đảm bảo bộ máy tổ chức thực hiện nhiệm vụ đăng ký giao dịch bảo đảm cho tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh thuận lợi, nhanh gọn, đáp ứng tinh thần cải cách hành chính, 20 huyện, thành phố, thị xã và tại Sở Tài nguyên và Môi trường đã thành lập Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Hiện nay, biên chế Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp huyện nơi ít nhất là 05 biên chế, nơi nhiều nhất là 44 biên chế (TP. Vinh), Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất của tỉnh có 26 biên chế và 34 hợp đồng. Ngoài biên chế quy định, các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện, thành phố, thị xã đều hợp đồng thêm người làm việc. Các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp tỉnh, cấp huyện đều bố trí từ 01 đến 02 cán bộ chuyên trách có trình độ đại học trực tiếp làm công tác đăng ký giao dịch bảo đảm.

Các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp tỉnh, cấp huyện được bố trí phòng làm việc đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ, được trang bị cơ sở vật chất, tủ đựng tài liệu lưu trữ lâu dài, hệ thống máy vi tính bảo đảm hoạt động công nghệ thông tin trong công tác đăng ký. Trung tâm “giao dịch một cửa” tại Văn phòng UBND cấp huyện từng bước được xây dựng, nâng cấp khang trang, đáp ứng giao dịch cho các tổ chức, cá nhân trên các lĩnh vực, trong đó có tiếp nhận, trả hồ sơ đăng ký giao dịch bảo đảm.

Song song với các hoạt động xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy thực hiện, UBND tỉnh cũng chỉ đạo các ngành, các cấp đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các nội dung cơ bản của pháp luật về công tác đăng ký giao dịch bảo đảm, để cán bộ và nhân dân nhận thức được vai trò quan trọng của công tác này nhằm thực hiện tốt trên địa bàn.

Nhìn chung, các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất đã thực hiện theo hướng dẫn tại Nghị định số 83/2010/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 20/2011/TTLT-BTP-BTNMT ngày 18/11/2011 của liên Bộ Tư pháp – Bộ Tài nguyên và Môi trường(1). Các quy định về việc tiếp nhận, giải quyết hồ sơ yêu cầu đăng ký thế chấp, sử dụng các mẫu đơn đã được thực hiện nghiêm túc theo quy định tại Thông tư liên tịch số 20/2011/TTLT-BTP-BTNMT. Hồ sơ đăng ký, thời hạn đăng ký và việc từ chối đăng ký giao dịch bảo đảm cũng được thực hiện đúng quy định. Các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất đã thực hiện thu phí đăng ký giao dịch bảo đảm theo Thông tư liên tịch số 69/2011/TTLT-BTC-BTP ngày 18/5/2011 của liên Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp(2); Quyết định số 33/QĐ-UBND ngày 22/5/2012 của UBND tỉnh Nghệ An(3).

Trong năm 2014, công tác đăng ký giao dịch bảo đảm tại các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trên địa bàn tỉnh đã đạt được các kết quả như sau: Tổng số đơn đã thụ lý: 93.437 đơn, tăng hơn gấp đôi số lượng đơn so với năm 2013 (năm 2013 thụ lý 41.950 đơn); tổng số đơn được giải quyết: 93.437, trong đó có 62.118 đơn đăng ký giao dịch bảo đảm và 173 đơn cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm.

Các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất đã thực hiện nghiêm túc Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, Thông tư số 69/2011/TTLT-BTC-BTP, Công văn số 5328/BTP-ĐKGDBĐ ngày 09/9/2011 của Bộ Tư pháp về việc xác định đối tượng được miễn lệ phí đăng ký giao dịch bảo đảm, Quyết định số 33/QĐ-UBND của UBND tỉnh Nghệ An. Đối với các huyện đồng bằng, một số huyện đã thực hiện tốt việc miễn lệ phí đăng ký giao dịch bảo đảm cho các đối tượng theo quy định như: Huyện Nam Đàn, huyện Yên Thành, huyện Quỳnh Lưu, thị xã Cửa Lò. Tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất tỉnh, TP. Vinh và một số huyện như Tương Dương, Hưng Nguyên, Quỳ Châu, Diễn Châu, Hoàng Mai… không có hồ sơ đăng ký giao dịch bảo đảm do hầu hết các đối tượng vay vốn để sửa chữa, nâng cấp nhà ở hoặc sản xuất phi nông nghiệp nên không có nhu cầu vay vốn để sản xuất, kinh doanh phục vụ cho phát triển nông nghiệp, nông thôn.

Các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất đã có sự phối hợp tốt với các tổ chức công chứng và các tổ chức tín dụng trong việc cung cấp thông tin về tài sản bảo đảm. Trong năm 2014, việc thực hiện công chứng các hợp đồng chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất gồm 11.404 hợp đồng (trong đó 02 Phòng công chứng là 1.628 hợp đồng và Văn phòng công chứng là 9.776 hợp đồng), tăng 3.839 hợp đồng so với năm 2013. Các Văn phòng công chứng đã thực hiện hướng dẫn khách hàng làm thủ tục công chứng các hợp đồng chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất theo đúng quy định.Đối với các địa phương đã được chuyển giao thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch từ UBND cấp xã sang tổ chức hành nghề công chứng thực hiện, việc thực hiện công chứng các hợp đồng chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đã được thực hiện thống nhất và thuận lợi hơn.

Về áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý, hiện nay, trên địa bàn tỉnh chưa có phần mềm thống nhất về quản lý cơ sở dữ liệu và chỉnh lý biến động đất đai, tuy vậy đối với Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất TP. Vinh, để tiện lợi trong việc quản lý và thực hiện công việc thì đã tự thiết kế phần mềm theo dõi đăng ký giao dịch bảo đảm và đăng ký biến động, hiện tại đã nhập được hơn 70.000 trường hợp đăng ký giao dịch bảo đảm vào phần mềm ACCESS. Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất đang xây dựng phần mềm xử lý và theo dõi hồ sơ, theo dõi quản lý sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, theo dõi đơn thư.

2. Những hạn chế, khó khăn

Qua quá trình kiểm tra của Đoàn kiểm tra liên ngành công tác đăng ký giao dịch bảo đảm tại một số Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất đã phát hiện một số thiếu sót, vi phạm chung trong quá trình hoạt động, cụ thể: Các Văn phòng đăng ký chưa vào Sổ địa chính theo quy định tại Thông tư liên tịch số 20/2011/TTLT-BTP-BTNMT, Thông tư số 09/2007/TT-BTNMT ngày 02/8/2007 của Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn việc lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính và Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về hồ sơ địa chính. Một số hồ sơ, tại đơn yêu cầu đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, trong phần ghi của cán bộ đăng ký, thời điểm tiếp nhận hồ sơ, cán bộ nhận đơn không ghi giờ, phút nhận hồ sơ dẫn đến khó khăn trong việc xác định thời điểm thế chấp khi thực hiện các nghĩa vụ dân sự, chưa đúng với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 19 Thông tư liên tịch số 20/2011/TTLT-BTP-BTNMT. Việc đánh số thứ tự hồ sơ không đúng quy định tại Thông tư số 09/2007/TT-BTNMT (tại tiết b điểm 2.13 mục III) và Thông tư số 17/2009/TT-BTNMT ngày 21/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Các hồ sơ có kê khai thế chấp tài sản tại đơn yêu cầu đăng ký nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, chưa phù hợp với quy định của Nghị định số 83/2010/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 20/2011/TTLT-BTP-BTNMT. Việc ghi nội dung thế chấp tại trang bổ sung chưa đầy đủ (thiếu địa chỉ của bên nhận thế chấp), không đúng mẫu theo quy định tại Thông tư số 17/2009/TT-BTNMT. Về việc lưu trữ hồ sơ đăng ký, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất có chứng nhận đăng ký thế chấp sao lưu chưa đầy đủ theo quy định tại Điều 28 Thông tư liên tịch số 20/2011/TTLT-BTP-BTNMT. Một số Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất chưa thực hiện báo cáo thống kê theo đúng quy định. Tại một số Văn phòng công chứng, hồ sơ công chứng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất không có giấy xác nhận tình trạng sử dụng đất không có tranh chấp; một số hồ sơ chưa làm thủ tục xóa thế chấp là quyền sử dụng đất tại ngân hàng (không có đơn đăng ký xóa thế chấp, không có tài liệu chứng minh tài sản thế chấp đủ điều kiện để bảo đảm nhiều nghĩa vụ), nay lại tiếp tục thế chấp tại ngân hàng khác nhưng Văn phòng công chứng vẫn thực hiện công chứng vào hợp đồng thế chấp. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm chưa phát huy tốt hiệu quả, nhất là quy định về miễn lệ phí đăng ký giao dịch bảo đảm. Người dân chưa hiểu rõ quy định về các trường hợp miễn lệ phí đăng ký giao dịch bảo đảm.

Bên cạnh những hạn chế, tồn tại nêu trên, các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất còn gặp phải một số khó khăn về cơ sở vật chất và nguồn nhân lực;chưa có phần mềm phối hợp thông tin giữa các tổ chức hành nghề công chứng, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và các tổ chức tín dụng để nắm bắt được tình trạng pháp lý của tài sản khi thực hiện giao dịch.

3. Một số giải pháp khắc phục

Để khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu trên, trong thời gian tới cần thực hiện một số giải pháp sau:

Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm đối với quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất.

Tiến hành rà soát các quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm, đối chiếu các quy định do UBND tỉnh ban hành để kịp thời phát hiện, kiến nghị bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm đối với quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất trên địa bàn tỉnh.

Tổ chức đoàn công tác liên ngành kiểm tra định kỳ về công tác đăng ký giao dịch bảo đảm tại các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, báo cáo UBND tỉnh về kết quả kiểm tra và biện pháp xử lý.

Tham mưu UBND tỉnh bố trí đủ nguồn nhân lực, kinh phí để phục vụ hoạt động quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm trên địa bàn tỉnh; trang bị cơ sở vật chất, khuyến khích ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin về thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất.

Hướng dẫn, chỉ đạo các tổ chức hành nghề công chứng, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, các tổ chức tín dụng, UBND các xã, phường, thị trấn thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm đối với quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất

Tài liệu tham khảo:

(1). Hướng dẫn việc đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất.

(2). Hướng dẫn chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí đăng ký giao dịch bảo đảm, phí cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm và phí sử dụng dịch vụ khách hàng thường xuyên.

(3). Về việc quy định đối tượng, mức thu, tỷ lệ trích nộp ngân sách và chế độ quản lý lệ phí đăng ký giao dịch bảo đảm và phí cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm trên địa bàn tỉnh Nghệ An.

Nguyễn Quế Anh

Sở Tư pháp Nghệ An

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bàn về một số điểm mới trong Luật Công chứng năm 2014

22/12/2014

Qua thực tiễn thi hành từ khi có hiệu lực đến nay, Luật Công chứng năm 2006 đã bộc lộ một số bất cập cần phải điều chỉnh, chính vì vậy, Luật Công chứng năm 2014 ra đời thay thế cho Luật Công chứng năm 2006 như là một tất yếu. Luật mới được đánh giá là đã tạo thuận lợi lớn cho người dân, tạo sự phấn khởi cho các tổ chức hành nghề công chứng. Theo đó, Luật này đã đưa ra rất nhiều quy định mới như: Ban hành mức trần thù lao công chứng; quy định vị trí, vai trò của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên; chuyển đổi, giải thể phòng chông chứng; chuyển nhượng văn phòng công chứng; bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên… Trong đó, có những quy định có thể là hoàn toàn mới chưa từng tồn tại trong các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động công chứng, hoặc đã từng tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định và tùy từng quy định sẽ có ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau đối với hoạt động công chứng. Vì vậy, chúng ta cần có cách hiểu, cách vận dụng đúng đắn để có thể đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu sử dụng dịch vụ công chứng.

Do đó, để góp phần giúp thực thi Luật Công chứng mới đạt hiệu quả, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Bàn về một số điểm mới trong Luật Công chứng năm 2014” của tác giả Tuấn Đạo Thanh và Nguyễn Duy Ninh, đăng trên số 64 trang tháng 11/2014. Trong khuôn khổ phạm vi bài viết, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu một số điểm mới liên quan trực tiếp tới hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ công chứng như về quy định công chứng bản dịch, chứng thực bản sao, chứng thực chữ ký, vị trí, vai trò của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên.

Ngô Huyền

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Kinh nghiệm pháp luật về ban hành quyết định hành chính của Đức, Nhật bản, Hàn quốc

22/01/2015

Chế định về quyết định hành chính (QĐHC) là một chế định cơ bản của Luật Hành chính hiện đại trên thế giới, trong đó việc ban hành các quyết định này thể hiện rõ tính chất quyền uy, quyền lực phục tùng của chủ thể quản lý hành chính.

Đáp ứng yêu cầu về sự cần thiết xây dựng Dự án Luật Ban hành quyết định hành chính1, một trong những nội dung cần nghiên cứu đó là một số kinh nghiệm pháp luật nước ngoài về việc ban hành QĐHC. Trong phạm vi bài viết này, tác giả nghiên cứu kinh nghiệm của Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc và tập trung vào một số nội dung cơ bản như: Khái niệm, đặc điểm, chủ thể ban hành và ủy quyền ban hành QĐHC; phân loại/hình thức QĐHC; nguyên tắc/yêu cầu ban hành QĐHC; điều kiện để một QĐHC hợp pháp; một số quy định về trình tự, thủ tục ban hành; vấn đề hiệu lực và tính vô hiệu của QĐHC; vấn đề gia hạn, thu hồi, hủy bỏ QĐHC…

Việc nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài (trong đó, tập trung vào ba nước là Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc) dựa trên quan điểm là cần có sự chọn lọc, đáp ứng yêu cầu thực tiễn về hệ thống pháp luật, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa pháp lý của Việt Nam. Kinh nghiệm nước ngoài rất đa dạng, phong phú, do đó việc học tập kinh nghiệm nước ngoài cần tránh việc “cấy ghép” pháp luật Việt Nam từ “mớ hổ lốn của những thứ vay mượn”2.

1. Kinh nghiệm quy định pháp luật của Đức về việc ban hành quyết định hành chính

Thứ nhất, về khái niệm quyết định hành chính

Luật Thủ tục hành chính của Đức quy định, quyết định hành chính là tất cả các mệnh lệnh, quyết định hoặc các hoạt động mang tính chủ quyền khác mà một cơ quan nhà nước thực hiện, nhằm điều chỉnh một trường hợp cụ thể trong phạm vi hành chính công và hướng đến các tác động pháp lý trực tiếp đối với bên ngoài. QĐHC chung là một QĐHC hướng đến một nhóm người có thể xác định được hoặc đã xác định theo các đặc điểm khái quát chung hoặc liên quan đến những đặc điểm mang tính theo luật công của một sự việc, hoặc việc cộng đồng sử dụng nó3.

Thứ hai, về sự phân loại quyết định hành chính

Pháp luật của Đức phân biệt các loại QĐHC sau:

– Quyết định hành chính mệnh lệnh: Bao gồm sự cho phép hoặc không cho phép hoặc buộc người dân làm một điều gì đó, chấp nhận một điều gì đó hoặc không làm một điều gì đó4;

– Quyết định hành chính kiến tạo (tạo quyền): Được sử dụng khi một quan hệ pháp lý cụ thể giữa người dân và cơ quan hành chính được xác lập, thay đổi hoặc hủy bỏ5;

– Quyết định hành chính tuyên bố: Là quyết định ra tuyên bố về một quyền hoặc một tính chất quan trọng về pháp lý của một người hoặc một sự việc6;

– Quyết định hành chính có lợi và bất lợi7;

– Cam kết, bảo đảm8.

Thứ ba, về nguyên tắc chung ban hành quyết định hành chính

Điều 37 Luật Thủ tục hành chính quy định rõ 03 nguyên tắc chung trong việc ban hành QĐHC: (i) Một QĐHC phải được xác định đủ rõ về mặt nội dung; (ii) Một QĐHC có thể được ban hành bằng văn bản, dưới dạng điện tử, bằng lời nói hoặc bằng những cách thức khác; (iii) Một QĐHC bằng văn bản hoặc điện tử phải cho phép xác định được cơ quan ban hành và phải có chữ ký hoặc tên của lãnh đạo cơ quan đó, người đại diện hoặc người được ủy quyền của lãnh đạo9.

Thứ tư, về một số quy định về trình tự, thủ tục ban hành quyết định hành chính

Pháp luật Đức có quy định trách nhiệm lấy lời trình bày của người liên quan, theo đó, trước khi ban hành một QĐHC có liên quan tới quyền của một bên thì phải tạo điều kiện để người này trình bày ý kiến về những nội dung có ý nghĩa quan trọng đối với QĐHC. Tuy nhiên, cũng có thể không phải thực hiện điều này nếu như trong hoàn cảnh một vụ việc cụ thể không nên làm như vậy, nhất là khi: (i) Cần phải có ngay một QĐHC do có nguy cơ hết thời hiệu hoặc do lợi ích cộng đồng đòi hỏi; (ii) Không đảm bảo được thời hạn đã được ấn định phải ra quyết định hành chính; (iii) Người có liên quan trong đơn hoặc đề nghị vì quyền lợi của mình đã thông báo không cần thiết phải làm việc này; (iv) Cơ quan hành chính dự định ban hành một loại QĐHC với số lượng lớn hoặc ban hành QĐHC với sự trợ giúp của hệ thống tự động; (v) Phải ra một quyết định trong thủ tục cưỡng chế thi hành. Ngược lại, có thể không nghe trình bày ý kiến nếu như điều này đi ngược lại với lợi ích cộng đồng.

Pháp luật Đức cũng quy định cơ quan hành chính phải cho phép bên có liên quan tiếp xúc với hồ sơ liên quan tới thủ tục hành chính, nếu như điều này là cần thiết để cho người này có thể thực hiện các quyền hoặc để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định cơ quan hành chính không có nghĩa vụ cho tiếp xúc hồ sơ, nếu như điều này làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ của mình, hoặc việc tiết lộ nội dung hồ sơ ảnh hưởng tới lợi ích của liên bang, tiểu bang; hoặc trong những thủ tục theo quy định của pháp luật; hoặc theo bản chất.

Thứ năm, về vấn đề hiệu lực của quyết định hành chính

Pháp luật của Đức quy định hiệu lực của QĐHC chỉ bắt đầu khi những người liên quan biết10, theo đó, hiệu lực được xác định như sau: (i) QĐHC có hiệu lực đối với người mà QĐHC nhằm vào hoặc người có liên quan tới QĐHC từ thời điểm những người này được công bố quyết định đó; (ii) Một QĐHC luôn còn hiệu lực chừng nào nó không bị rút lại, bãi bỏ, hủy bỏ bằng một cách khác, bị hết thời gian hoặc một thứ gì đó tương tự; (iii) Một QĐHC bị vô hiệu thì không có hiệu lực.

Điều 44 của Luật Thủ tục hành chính quy định các trường hợp quyết định vô hiệu, cụ thể là:

(i) Có một sai sót đặc biệt nghiêm trọng và rõ ràng dưới góc độ đánh giá thấu đáo tất cả các tình tiết của vụ việc; (ii) Nếu được ban hành dưới dạng văn bản hoặc điện tử, nhưng cơ quan ban hành không ý thức được là đã ban hành văn bản đó; nếu theo quy định của pháp luật chỉ có thể được ban hành dưới dạng cấp một văn bằng, nhưng hình thức này đã không được đáp ứng đầy đủ; nếu được ban hành do một cơ quan không có thẩm quyền và cũng không được ủy quyền; nếu xét về thực trạng căn cứ thì không ai có thể thực hiện được; nếu đòi hỏi khi thực hiện phải có một hành vi vi phạm pháp luật, hành vi mà có thể phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc phạt tiền; nếu vi phạm thuần phong mỹ tục.

Trong trường hợp chỉ một phần của QĐHC vô hiệu thì QĐHC vẫn vô hiệu toàn bộ, nếu như phần bị vô hiệu này quan trọng tới mức cơ quan hành chính không thể ban hành QĐHC nếu thiếu phần đó. Cơ quan hành chính theo chức năng có thể khẳng định QĐHC vô hiệu bất cứ lúc nào và khẳng định vô hiệu theo đơn yêu cầu, nếu người đặt đơn có quyền chính đáng yêu cầu điều này.

Thứ sáu, về vấn đề ủy quyền ban hành quyết định hành chính

Theo Pháp luật của Đức, việc ủy quyền cho phép đối với mọi hoạt động liên quan đến thủ tục quản lý hành chính. Khi được yêu cầu, người được ủy quyền phải chứng minh được sự ủy quyền bằng văn bản. Việc rút lại ủy quyền chỉ có hiệu lực đối với cơ quan nhà nước kể từ khi nhận được văn bản rút lại ủy quyền này. Sự ủy quyền sẽ không bị hủy bỏ kể cả khi người ủy quyền chết, hoặc có thay đổi về năng lực hành vi, hoặc về đại diện pháp lý của người được ủy quyền.

Thứ bảy, về vấn đề gia hạn, thu hồi, hủy bỏ quyết định hành chính

Việc thu hồi hay hủy bỏ QĐHC sẽ được thực hiện bởi cơ quan hành chính có thẩm quyền hay Tòa án trong trường hợp QĐHC được ban hành trái pháp luật. Một QĐHC có thể bị coi là trái pháp luật nếu như: (i) Quyết định đó được ban hành do sự gian dối, lừa đảo, hoặc qua đe dọa, hoặc hối lộ, hoặc đơn giản là do cơ quan ban hành quyết định không đủ thông tin, hoặc thông tin không chính xác11; (ii) Nếu được ban hành trái thẩm quyền, vượt quá thẩm quyền; (iii) Nếu nội dung của quyết định đòi hỏi phải thực hiện một việc trái pháp luật, có thể dẫn đến vi phạm pháp luật hình sự, hoặc vi phạm hành chính, hoặc vi phạm nghiêm trọng về trình tự, thủ tục ban hành theo quy định của pháp luật ảnh hưởng đến việc quyết định của sự việc; (iv) Một QĐHC được ban hành, nhưng trên thực tế nó không thể thực hiện được, tức là không bảo đảm tính khả thi, thì về thực chất cũng làm mất hiệu lực của QĐHC, trong trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền đã ban hành QĐHC sẽ xem xét và ra quyết định thu hồi.

2. Kinh nghiệm quy định pháp luật của Nhật Bản về ban hành quyết định hành chính Thứ nhất, về khái niệm, đặc điểm, chủ thể ban hành quyết định hành chính

Luật Thủ tục hành chính Nhật Bản (1993) không đưa ra khái niệm chung về QĐHC, mà định nghĩa các loại văn bản thuộc phạm vi của QĐHC. Tuy nhiên, khái niệm QĐHC đã được các học giả Nhật Bản trình bày trong giáo trình chính thống đào tạo luật như sau12: Quyết định hành chính là một loại quyết định cá biệt, tác động ra bên ngoài trực tiếp và chính xác đối với một đối tượng cụ thể xác định, có tính quyền lực, tính pháp lý do các cơ quan hành chính hay các chủ thể thực hiện quyền hành pháp ban hành, theo nguyên tắc về thẩm quyền và quyền tự định đoạt theo quy định của pháp luật.

QĐHC thể hiện bốn đặc trưng sau đây: (i) Có tính quyền lực công; (ii) Có tính pháp lý và có hiệu lực thi hành; (iii) Có tính tác động trực tiếp và chính xác tới các đối tượng có liên quan; (iv) Có tính tác động ra bên ngoài13.

Về hình thức của QĐHC, theo Luật Thủ tục hành chính Nhật Bản, bao gồm:

– Quyết định cho phép (Permission): Đây là quyết định mà cơ quan hành chính căn cứ vào các quy định của pháp luật liên quan trao quyền cho các tổ chức, cá nhân được thực hiện một số hoạt động nhất định như: Cho phép xây dựng khu vui chơi, giải trí (Pachinko), xây dựng khách sạn, nhà ở, trường học, bệnh viện…

– Quyết định chấp thuận (Approval): Đây là quyết định có nội hàm gần giống với quyết định cho phép, tuy nhiên điểm khác biệt của quyết định này là, các cơ quan hành chính trên cơ sở các hoạt động đã diễn ra của các đối tượng có liên quan, đồng ý hay chấp thuận về tính pháp lý của các hoạt động đó.

– Quyết định cấm đoán (Prohibition): Đây là quyết định mà cơ quan hành chính căn cứ vào thẩm quyền của mình và pháp luật hiện hành cấm các tổ chức hay cá nhân thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định.

– Quyết định cấp giấy phép, quyền bảo hộ (License, Patent): Đây là quyết định liên quan đến yêu cầu của người dân trong việc thực hiện các quyền đi lại, cư trú, quyền kinh doanh sản xuất, quyền bảo hộ công nghiệp…

– Quyết định xử phạt hành chính (Administrative Sanction): Đây là quyết định phổ biến của Nhật Bản được áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân có các hành vi vi phạm hành chính trong một số lĩnh vực nhất định.

– Quyết định cưỡng chế (Coercive measures): Đây là quyết định buộc các đối tượng liên quan phải thực hiện một số hành vi nhất định, hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc phải ra một số quyết định nhằm hạn chế quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan khi các chủ thể này cố tình không thực hiện các yêu cầu buộc phải thực hiện trước đó. Ngoài ra, hướng dẫn hành chính (administrative guidance) được xem là một ngoại lệ quyết định hành chính của Nhật Bản14.

Thứ hai, về một số quy định liên quan đến trình tự, thủ tục ban hành quyết định hành chính

Luật Thủ tục hành chính không quy định nhiều điều khoản cụ thể liên quan đến quy trình ban hành QĐHC, mà chỉ quy định một số nguyên tắc chung như: Đối với việc ban hành một số QĐHC có nội dung phức tạp, liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân (lĩnh vực xây dựng, quy hoạch, cấp hay tước các loại giấy phép quan trọng…), thì cơ quan hành chính phải thực hiện thủ tục lắng nghe/giải trình từ phía cơ quan và các đối tượng có liên quan.

Luật cũng quy định rõ tính minh bạch, công khai trong thủ tục ban hành QĐHC, đặc biệt có quy định về tham vấn, quyền tiếp cận thông tin của người dân. Các quy trình, thủ tục ban hành QĐHC cụ thể phát sinh trong các lĩnh vực quản lý hành chính được quy định trong các văn bản luật chuyên ngành.

Thứ ba, về hiệu lực thi hành quyết định hành chính

Luật Nhật Bản xác định hiệu lực thi hành của một QĐHC theo nguyên tắc khi các cá nhân, tổ chức có liên quan nhận được hay biết được các QĐHC được ban hành để áp dụng đối với mình. Nhiều trường hợp, thời điểm ban hành trùng với thời điểm tổ chức, cá nhân có liên quan nhận được quyết định, tuy nhiên các thời điểm này cũng có thể khác nhau, đặc biệt đối với vụ việc phức tạp, tác động đến một số nhóm đối tượng nhất định. Trong trường hợp này, hiệu lực thi hành quyết định có thể tính từ ngày người dân nhận được, hoặc có trường hợp ấn định một khoảng thời gian nhất định để thi hành.

3. Kinh nghiệm quy định pháp luật của Hàn Quốc về ban hành quyết định hành chính

Theo Luật Thủ tục hành chính Hàn Quốc năm 1996 (sửa đổi năm 2007), khái niệm QĐHC về cơ bản giống với Nhật Bản, theo đó quyết định này phải được xem là một loại quyết định cá biệt, do các cơ quan hành chính hay các chủ thể có thẩm quyền trong cơ quan hành chính ban hành theo nguyên tắc về thẩm quyền và quyền tự định đoạt, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật. Hướng dẫn hành chính cũng được xem là một ngoại lệ của QĐHC, mặc dù gọi là văn bản hướng dẫn, nhưng có ý nghĩa bắt buộc các đối tượng liên quan phải tuân theo. Trong trường hợp không thực hiện theo các hướng dẫn hay thông báo, đều có thể coi là những hành vi vi phạm và có thể bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Nếu các hướng dẫn hay thông báo này có dấu hiệu vượt quyền, lạm quyền, vi phạm pháp luật, thì các đối tượng có liên quan đều có thể thực hiện quyền khiếu nại tới cơ quan nhà nước đã ban hành (hoặc cấp trên của cơ quan này), hoặc khởi kiện ra Tòa án hành chính.

Về hình thức của QĐHC, Luật Thủ tục hành chính phân chia thành 2 nhóm:Quyết định có lợi (beneficial dispositions) và quyết định bất lợi (disvantageous dispotisions).

Về trình tự, thủ tục ban hành QĐHC, Luật của Hàn Quốc quy định rõ thủ tục lấy ý kiến (hearings) của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp bởi QĐHC. Tất nhiên, không phải mọi QĐHC khi ban hành đều bắt buộc phải tuân theo thủ tục này, ví dụ như: Các QĐHC xử phạt đơn giản, mức phạt tiền thấp và đã rõ ràng chứng cứ vi phạm. Còn đối với các QĐHC phải có thủ tục lấy ý kiến giải trình từ phía đối tượng, Luật quy định rõ, cơ quan có thẩm quyền ra quyết định có trách nhiệm thông báo rõ lý do việc ban hành quyết định cho đối tượng liên quan và phải gửi cho họ quyết định, các căn cứ pháp lý, các giấy tờ, các chứng cứ cần thiết khác trong vòng từ 10 đến 14 ngày trước khi tổ chức phiên họp lắng nghe ý kiến.

Điểm mới cần lưu ý là, Luật Thủ tục hành chính năm 2007 đã bổ sung quy định về thủ tục lấy ý kiến của người dân khi cơ quan hành chính ban hành các quyết định mang tính hoạch định chính sách, quy hoạch đất đai, quản lý đô thị, quản lý hệ thống giao thông công cộng…, người dân có thể phản hồi ý kiến thông qua hệ thống thông tin điện tử (the electronic public hearings) và cơ quan hành chính có trách nhiệm tiếp nhận, lắng nghe phản hồi và trả lời một cách thỏa đáng trong thời hạn quy định.

Tóm lại, qua nghiên cứu một số kinh nghiệm của Đức, Nhật Bản và Hàn Quốc cho thấy, các nước này khi quy định về việc ban hành QĐHC và cơ chế kiểm soát việc ban hành này đều đề cao tính hậu kiểm của QĐHC, đề cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân công quyền trong việc ban hành QĐHC đảm bảo tính hợp pháp và hợp lý. Các nước này cũng trao quyền tự định đoạt của cơ quan hành chính khi ban han hành QĐHC nhằm đảm bảo tính linh hoạt, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước. Tuy nhiên, QĐHC sau khi được ban hành, nếu vì một lý do nào đó xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, hoặc có dấu hiệu lạm quyền, vượt quyền…, thì họ đều có quyền khiếu nại tới cơ quan hành chính cấp trên hoặc khởi kiện ra Tòa án (khởi kiện ra Tòa án hành chính Đức, Hàn Quốc, hoặc ra Tòa án thường, nhưng có bộ phận chuyên giải quyết vụ án hành chính như Nhật Bản, mặc dù hệ thống Tòa án hành chính độc lập của Nhật Bản giống như mô hình của Đức đã bị hủy bỏ từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai)

Phạm Hồng Quang

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Đẩy mạnh công tác trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Ninh Bình

20/11/2015

 

Thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho các đối tượng được trợ giúp pháp lý nói chung và người khuyết tật nói riêng, được sự quan tâm của các cấp chính quyền địa phương, sự phối kết hợp của các tổ chức đoàn thể trên địa bàn tỉnh, hoạt động trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật thông qua các hình thức trợ giúp pháp lý khác nhau đã đạt được những kết quả nhất định, tuy chưa thực sự chuyên sâu nhưng bước đầu đã tạo điều kiện cho người khuyết tật được tiếp cận với hoạt động trợ giúp pháp lý. Ngay từ đầu năm 2015, Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Ninh Bình đã phối hợp với Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh xây dựng kế hoạch trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật, chủ yếu thông qua các hình thức như tư vấn pháp luật, tuyên truyền pháp luật cho người khuyết tật, bên cạnh đó, Trung tâm còn cử các trợ giúp viên pháp lý, luật sư là cộng tác viên của Trung tâm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khuyết tật tại các cơ quan tiến hành tố tụng.

Trong 10 tháng đầu năm 2015, thông qua các cuộc trợ giúp pháp lý lưu động, Trung tâm đã tư vấn, hướng dẫn giải đáp pháp luật cho 941 trường hợp chủ yếu thuộc các lĩnh vực pháp luật về chính sách cho người khuyết tật, phát hàng nghìn tờ gấp tuyên truyền pháp luật với nội dung chính sách của Đảng và Nhà nước đối với người khuyết tật. Trung tâm đã tăng cường bồi dưỡng kỹ năng đối với người thực hiện trợ giúp pháp lý trong việc trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật; hình thành các nhóm cộng tác viên trợ giúp pháp lý chuyên trách, tập huấn cho đội ngũ cộng tác viên cơ sở kiến thức về chế độ, chính sách của người khuyết tật, kỹ năng trợ giúp pháp lý đặc thù vì họ là người có điều kiện tiếp xúc với người khuyết tật, là người đầu tiên mà người khuyết tật tìm đến khi có nhu cầu trợ giúp pháp lý.

Bên cạnh đó, trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật không chỉ dừng lại ở việc tư vấn mà người thực hiện trợ giúp pháp lý phải đến tận nơi ở của người khuyết tật để giúp đỡ họ hoàn thành hồ sơ, làm đại diện thực hiện các thủ tục pháp lý cần thiết, liên hệ với cơ quan chức năng để giải quyết giúp họ thông qua hình thức đại diện ngoài tố tụng. Đặc biệt, công tác truyền thông pháp luật về trợ giúp pháp lý thông qua các hình thức phù hợp cần hướng tới đối tượng người khuyết tật và đông đảo các tầng lớp nhân dân, để người khuyết tật biết được quyền của mình, còn những người bình thường có nhận thức, thái độ đúng đắn, sẵn sàng hỗ trợ, giúp đỡ những người kém may mắn hòa nhập cộng đồng.

Đa số vướng mắc của người khuyết tật thường xoay quanh các chế độ bảo trợ xã hội dành cho người khuyết tật, về trình tự, thủ tục hưởng trợ cấp xã hội, các vấn đề liên quan đến quyền của người khuyết tật. Trong khi đó, việc tiếp cận các dịch vụ trợ giúp pháp lý đối với người khuyết tật gặp nhiều khó khăn. Những người khuyết tật vốn đã gặp trở ngại trong việc đi lại, giao tiếp, chưa kể những trường hợp bị các dạng tật phức tạp (câm, điếc, mù) thì việc tiếp cận dịch vụ trợ giúp pháp lý lại là cả một vấn đề lớn. Để chính sách trợ giúp pháp lý đến được với nhiều người khuyết tật có nhu cầu, cần đẩy mạnh xã hội hóa, huy động nguồn lực cho hoạt động trợ giúp pháp lý đối với người khuyết tật. Trên thực tế cho thấy, việc tham gia vào hoạt động trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân rất hạn chế vì thiếu nguồn lực. Vì vậy, đòi hỏi đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật, bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý của người khuyết tật theo hướng giải quyết thỏa đáng giữa việc quản lý Nhà nước với vai trò tự quản của các tổ chức xã hội tham gia trợ giúp pháp lý. Theo đó, mở rộng mạng lưới cộng tác viên trợ giúp pháp lý tại cơ sở, huy động sự tham gia đóng góp của các cấp, các ngành cho hoạt động nhân đạo này…

Có thể nói, những đóng góp của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Ninh Bình trong công tác trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật trong thời gian vừa qua đã góp phần không nhỏ trong việc thực hiện các chính sách liên quan đến quyền và lợi ích của người khuyết tật. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, thực tế hoạt động trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật cũng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Hoạt động tư vấn pháp lý cho người khuyết tật mới chỉ đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu của cộng đồng người khuyết tật. Ước tính còn hàng nghìn người khuyết tật chưa được tiếp cận các dịch vụ tư vấn, trợ giúp pháp lý. Nguyên nhân khiến nhiều Người khuyết tật chưa tiếp cận được hoạt động này là do những rào cản về dạng tật, ngôn ngữ giao tiếp, do nguồn lực dành cho trợ giúp pháp lý có tăng nhưng quỹ thời gian hạn hẹp, chất lượng hoạt động chưa đồng đề; số vụ việc trợ giúp pháp lý do cộng tác viên thực hiện mới chỉ tập trung ở lĩnh vực tư vấn pháp luật; sự thiếu liên kết, phối hợp giữa cơ quan nhà nước và các tổ chức của người khuyết tật, các hiệp hội, cơ sở sản xuất, kinh doanh của người khuyết tật trong việc tìm hiểu nhu cầu và trợ giúp pháp lý cho họ khi cần thiết; do ngân sách địa phương hạn hẹp, chưa bố trí kinh phí riêng nên hoạt động trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật chưa mang tính chuyên sâu; hoạt động trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật chủ yếu được lồng ghép thực hiện trong các chương trình như Quyết định số 59/2012/QĐ-TTg ngày 24/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các xã nghèo giai đoạn 2013 – 2020…

Để khắc phục những khó khăn, vướng mắc trên và nâng cao hiệu quả công tác này, bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý của người khuyết tật, trong thời gian tới, cần thiết phải xây dựng được mô hình trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật có hiệu quả. Cùng với đó, việc đẩy mạnh xã hội hóa, huy động nguồn lực cho hoạt động trợ giúp pháp lý đối với người khuyết tật cũng hết sức quan trọng. Tăng cường truyền thông pháp luật về trợ giúp pháp lý thông qua các phương tiện thông tin đại chúng với hình thức phù hợp. Ngoài ra, cần thường xuyên tiến hành các hoạt động tập huấn cho đội ngũ những người thực hiện trợ giúp pháp lý, để họ có điều kiện tiếp cận với người khuyết tật và có thể là người được tìm đến đầu tiên khi người khuyết tật có yêu cầu trợ giúp pháp lý.

Đoàn Thị Ngọc Hải

Sở Tư pháp tỉnh Ninh Bình

 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Lý luận và thực trạng quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên Học viện Cán bộ thành phố Hồ Chí Minh

30/10/2015

 

Trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, công tác cán bộ nói chung, nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của TP. Hồ Chí Minh nói riêng đang đặt ra những yêu cầu cấp bách. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đề cập đến nhiệm vụ: “Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục lý luận chính trị, giáo dục công dân trong hệ thống các trường chính trị…”[1]. Quản lý nhà nước đội ngũ giảng viên Học viện Cán bộ TP. Hồ Chí Minh nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức – nguồn nhân lực quan trọng cho Thành phố.

 

1. Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đội ngũ giảng viên Học viện Cán bộ thành phố Hồ Chí Minh

1.1. Một số nội dung cơ bản về quản lý nhà nước, đội ngũ giảng viên Học viện Cán bộ thành phố Hồ Chí Minh

– Quản lý nhà nước

Quản lý là sự tác động lên một hệ thống nào đó với mục tiêu đưa hệ thống đó đến trạng thái cần đạt được. Quản lý là một phạm trù xuất hiện trước khi có Nhà nước với tính chất là một loại lao động xã hội hay lao động chung được thực hiện ở quy mô lớn. Quản lý được phát sinh từ lao động, không tách rời khỏi lao động và bản thân quản lý cũng là một loại hoạt động lao động. Là một phạm trù gắn liền với sự xuất hiện của Nhà nước, quản lý nhà nước ra đời với tính chất là loại hoạt động quản lý xã hội. Quản lý nhà nước, hiểu theo nghĩa rộng, được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước. Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là hoạt động chấp hành – điều hành được đặc trưng bởi các yếu tố có tính tổ chức; được thực hiện trên cơ sở và để thi hành pháp luật; được bảo đảm thực hiện chủ yếu bởi hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước (hoặc một số cá nhân và tổ chức xã hội trong trường hợp được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước). Quản lý nhà nước cũng là sản phẩm của việc phân công lao động nhằm liên kết và phối hợp các đối tượng bị quản lý [2].

Quản lý nhà nước đội ngũ giảng viên Học viện Cán bộ TP. Hồ Chí Minh được hiểu là hoạt động chấp hành – điều hành theo đó chấp hành là hoạt động thực hiện trên thực tế các quy định pháp luật của Nhà nước và các quy chế của Học viện đối với đội ngũ giảng viên; điều hành là hoạt động chỉ đạo của cơ quan nhà nước cấp trên và trực tiếp là của Giám đốc Học viện đối với đội ngũ giảng viên. Đặc trưng của hoạt động điều hành là ban hành văn bản pháp luật và văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật.

– Đội ngũ giảng viên

Theo Điều 70 Luật Giáo dục năm 2005 quy định “Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác”. Đội ngũ giảng viên được hiểu là tập thể giảng viên (nhà giáo), được tập hợp và tổ chức thành một lực lượng có chung nhiệm vụ thực hiện các mục tiêu giáo dục của cơ sở giáo dục đó.

– Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh

Học viện Cán bộ TP. Hồ Chí Minh (gọi tắt là Học viện) thuộc hệ thống trường chính trị cấp tỉnh [3], được thành lập theo Quyết định số 1878/QĐ-TTg ngày 15/10/2014 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở nâng cấp Trường Cán bộ TP. Hồ Chí Minh (gọi tắt là Trường Cán bộ). Học viện có nhiệm vụ “đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước; về kiến thức và kỹ năng quảnlýnhà nước; thực hiện triển khai dịch vụ khoa học và công nghệ; nghiên cứu và tư vấn về chính sách cho các cấp quản lý của TP. Hồ Chí Minh; hợp tác, liên kết đào tạo, nghiên cứu khoa học với các cơ sở giáo dục đại học trong và ngoài nước”. Hiện nay, Học viện có bốn Khoa giảng dạy, đó là: Khoa Lý luận Mác – Lênin, Khoa Dân vận, Khoa Xây dựng Đảng và Khoa Nhà nước – pháp luật.

1.2. Một số văn bản về quản lý nhà nước đội ngũ giảng viên Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh

Giảng viên Học viện là một bộ phận của đội ngũ công chức, viên chức; do đó, quản lý nhà nước đội ngũ giảng viên Học viện chịu sự điều chỉnh của các văn bản quy phạm pháp luật đối với công chức, viên chức, giảng viên trường chính trị cấp tỉnh. Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước công chức, viên chức, giảng viên trường chính trị cấp tỉnh. Các văn bản quy phạm pháp luật đó bao gồm các luật, nghị định, thông tư và nhiều văn bản cụ thể hoá công tác quản lý nhà nước giảng viên Học viện. Một số văn bản quan trọng là:

Học viện là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Thành ủy và Ủy ban nhân dân TP.Hồ Chí Minh, do đó các công chức, viên chức, giảng viên Học viện chịu sự điều chỉnh của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Luật Viên chức năm 2010. Ngoài ra, giảng viên Học viện còn tuân theo quy định của Luật Giáo dục năm 1998 – sửa đổi, bổ sung năm 2005. Để cụ thể hóa nội dung quản lý nhà nước đội ngũ công chức, viên chức, giảng viên của các luật nêu trên, nhiều nghị định, thông tư đã được ban hành như: Nghị định số 27/2012/NĐ-CP ngày 06/4/2012 của Chính phủ quy định về xử lý kỷ luật viên chức và trách nhiệm bồi thường, hoàn trả của viên chức; Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức; Thông tư liên tịch số 36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 28/11/2014 của Bộ Giao dục – Đào tạo và Bộ Nội vụ quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại học công lập;Thông tư liên tịch số 06/2011/TTLT-BNV-BGDĐT ngày 06/62011 của Bộ Nội vụ và Bộ Giáo dục – Đào tạo quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ, chế độ làm việc, chính sách đối với giảng viên tại cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc trung ươngNhững văn bản quy phạm pháp luật trên là cơ sở pháp lý để thực hiện công tác tuyển dụng, sử dụng, quản lý công chức, viên chức nói chung và công chức, viên chức, giảng viên trường chính trị cấp tỉnh nói riêng. Các văn bản quy phạm pháp luật bước đầu đã đáp ứng và tạo nền tảng pháp lý đẩy mạnh hoạt động quản lý nhà nước đội ngũ giảng viên trường chính trị cấp tỉnh mang lại hiệu quả, tạo tiền đề cho sự phát triển của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

Học viện thuộc hệ thống Trường Chính trị cấp tỉnh, do đó quản lý giảng viên của Học viện còn phải tuân thủ theo cả những quy định của Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh [4]. Học viện đã ban hành Quy chế giảng viên, trong đó quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn của giảng viên; chế độ làm việc, chính sách đối với giảng viên. Trên cơ sở các quy định của pháp luật và các quy chế đã được ban hành, có bốn nội dung cơ bản về quản lý nhà nước đội ngũ giảng viên Học viện được xem xét, đó là: (i) Xây dựng kế hoạch, quy hoạch giảng viên; (ii) Tuyển dụng đội ngũ giảng viên; (iii) Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên; và (iv) Kiểm tra, đánh giá đội ngũ giảng viên. Theo các quy định thì tiêu chuẩn của giảng viên Học viện phải gồm cả tiêu chuẩn chung của một giảng viên (bằng cấp chuyên ngành, trình độ ngoại ngữ, trình độ tin học, nghiệp vụ sư phạm và khả năng nghiên cứu khoa học theo quy định, và có thêm tiêu chuẩn của giảng viên trường chính trị cấp tỉnh là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, có trình độ lý luận chính trị, có kiến thức về quản lý nhà nước, có phương pháp giảng dạy tích cực theo quy định (trừ trường hợp giảng viên tập sự) [5]. Có thể thấy rằng, những tiêu chuẩn đối với giảng viên Học viện nói riêng và Trường chính trị cấp tỉnh nói chung đòi hỏi khắt khe hơn và cao hơn so với giảng viên nói chung.

2. Thực trạng quản lý nhà nước đội ngũ giảng viên Học viện Cán bộ thành phố Hồ Chí Minh

2.1. Công tác xây dựng kế hoạch, quy hoạch giảng viên

Xây dựng kế hoạch, quy hoạch giảng viên của Học viện là nội dung quản lý quan trọng nhất nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, giảng viên có số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu hiện nay, có nguồn dự trữ dồi dào cho phát triển sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực của TP.Hồ Chí Minh.Ban Thường vụ Thành ủy TP.Hồ Chí Minh đã rất quan tâm và xây dựng định hướng phát triển của Học viện, cụ thể [6]:

Về chủ trương, đến năm 2010, Trường Cán bộ sẽ được đầu tư để trở thành một Trung tâm đào tạo cán bộ có uy tín – Trường Đại học Chính trị, một cơ sở nghiên cứu khoa học xã hội có chất lượng và triển vọng; mở rộng chức năng đào tạo, bồi dưỡng. Đến năm 2014, định hướng trên đã được hiện thực hóa khi Trường Cán bộ được nâng cấp lên Học viện. So với Trường Cán bộ trước đây, Học viện đã có thêm nhiều chức năng, nhiệm vụ mới và được đào tạo, bồi dưỡng nhiều loại chương trình mới. Từ đây đã mở ra hướng phát triển cho Học viện, nhưng đồng thời cũng là thách thức không nhỏ đối với công tác quản lý nhà nước đội ngũ giảng viên của Học viện, những người trực tiếp thực hiện các chương trình đào tạo được giao.

Học viện sẽ xây dựng đội ngũ công chức, viên chức, giảng viên trong sạch vững mạnh. Đặc biệt chú trọng đào tạo nâng cao trình độ, chuẩn hóa giảng viên và cán bộ quản lý, bảo đảm 100% có trình độ ngoại ngữ, tin học và 100% có trình độ Trung cấp Lý luận chính trị trở lên; Trưởng, phó khoa phòng có trình độ Cử nhân Lý luận chính trị, Cao cấp Lý luận chính trị. Bên cạnh đó, Học viện còn chăm lo giáo dục chính trị cho công chức, viên chức, giảng viên; chăm lo đời sống vật chất cho cán bộ, nhân viên. Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập từng bước hiện đại hóa việc giảng dạy và phục vụ giảng dạy. Đội ngũ giảng viên cần được phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, trong đó chất lượng là một yêu cầu ưu tiên số một. Đội ngũ giảng viên phải thực sự mạnh về chuyên môn, tinh về chất lượng và có đủ bản lĩnh về chính trị, gương mẫu về đạo đức và có phương pháp giảng dạy thuyết phục. Giảng viên Học viện trong những năm tới phải đồng thời là một nhà lý luận, một nhà nghiên cứu, một nhà giáo tâm huyết yêu nghề, một giảng viên Đại học thực thụ, một báo cáo viên cấp Thành phố, một cán bộ bản lĩnh…

Về kế hoạch, hiện nay Học viện có 67 giảng viên, trong thời gian tới đòi hỏi cần tăng lên 150 – 180 người, đạt tỉ lệ giảng viên/học viên là 1/20 và tiến dần đến tỷ lệ 1/10. Điều đó đã tác động trực tiếp đến sĩ số của các lớp, trước đây thường từ 150 – 200 người/lớp, thì hiện nay đã giảm xuống còn 80 – 100 người/lớp; trong tương lai gần sẽ là 40 – 50 người/lớp, đặc biệt sẽ có những lớp từ 10 – 20 người/lớp.

2.2. Công tác tuyển dụng đội ngũ giảng viên

Tuyển dụng đội ngũ giảng viên là một hoạt động then chốt trong quản lý

nhà nước về giáo dục. Quản lý nhà nước về tuyển dụng giảng viên phải được thực hiện đầy đủ về quy trình tuyển dụng, số lượng, cơ cấu và tiêu chuẩn giảng viên.Công tác tuyển dụng giảng viên của Học viện trong thời gian qua luôn thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Tính đến ngày 31/12/2014, Học viện có 67 giảng viên, trong đó có 17 giảng viên trẻ (tỷ lệ 25,4 %), trong 5 năm tới, số giảng viên nghỉ hưu theo chế độ là 24 người (tỷ lệ 35,8%). Như vậy, trong thời gian tới số lượng giảng viên trẻ sẽ tăng lên, do đó, công tác tuyển dụng sẽ đặc biệt chú trọng đến chất lượng của người được tuyển dụng để đáp ứng nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ khi Học viên được thành lập và có thêm chức năng, nhiệm vụ mới.

2.3. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên

Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên là một trong những hoạt động cơ bản của quản lý nhà nước đội ngũ giảng viên. Nó bao gồm các hoạt động đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, tự bồi dưỡng của các cấp quản lý và chính bản thân giảng viên.

Chất lượng giảng viên Học viện là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước; kiến thức và kỹ năng quảnlýnhà nước cho cán bộ, công chức, viên chức của TP. Hồ Chí Minh. Thành ủy TP. Hồ Chí Minh, Đảng ủy và Ban Giám đốc Học viện luôn chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị, kiến thức quản lý nhà nước và các tiêu chuẩn khác. Xác định việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên mang tính chiến lược, đây là công việc phải làm thường xuyên, liên tục và lâu dài để xây dựng một đội ngũ giảng viên đủ về số lượng, phù hợp về cơ cấu và có chất lượng cao, phục vụ cho chiến lược phát triển lâu dài khi Trường Cán bộ đã được nâng cấp thành Học viện Cán Bộ.

a. Về trình độ chuyên môn

Đến ngày 31/12/2014, trong số 67 giảng viên của Học viện, có 65 giảng viên có trình độ chuyên môn sau đại học (tỷ lệ 97%), chỉ còn 2 giảng viên có trình độ cử nhân (tỷ lệ 3%) . Về chức danh, có 2 giảng viên (tỷ lệ 3%) là Phó Giáo sư (tỷ lệ 3%).

b. Về trình độ lý luận chính trị

Đối với đội ngũ giảng viên Học viện, không chỉ có yêu cầu về nâng cao trình độ chuyên môn mà trình độ lý luận chính trị là một yêu cầu bắt buộc. Hiện nay, Học viện có 65 giảng viên có trình độ trung cấp (tỷ lệ 97%), cao cấp hoặc cử nhân chính trị; chỉ còn 2 giảng viên trẻ có trình độ sơ cấp chính trị (tye lệ 3%).

c. Tham gia đề tài nghiên cứu khoa học

Hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học là hai nhiệm vụ cơ bản của người giảng viên. Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ gắn bó biện chứng với nhau, có vai trò tác động qua lại lẫn nhau. Để nâng cao chất lượng đào tạo, mỗi giảng viên không ngừng nâng cao chất lượng bài giảng và phải đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học vào thực tiễn giảng dạy. Ở các Trường Chính trị, đội ngũ giảng viên được coi là lực lượng đi đầu và quyết định trong việc thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học.

Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học được Ban Giám hiệu Trường Cán bộ – Ban Giám đốc Học viện quan tâm. Số lượng đề tài khoa học đã tăng lên trong những năm gần đây, không các đề tài cấp cơ sở mà còn có các đề tài cấp thành phố và cấp nhà nước. Hoạt động nghiên cứu khoa học, của giảng viên đã có những đóng góp tích cực vào công tác đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường, có nhiều đề tài nghiên cứu khoa đã nghiệm thu và vận dụng vào phục vụ công tác giảng dạy tại trường.

d. Các tiêu chuẩn khác

– Về trình độ sư phạm

Trình độ sư phạm là yếu tố quan trọng giúp giảng viên truyền tải kiến thức tới người học. Hiện nay, có 100% giảng viên của Học viện đã được trang bị phương pháp giảng dạy đại học, đặc biệt là phương pháp giảng dạy tích cực do Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức. Phương pháp giảng dạy được xác định trên cơ sở đặc điểm của đối tượng đào tạo và nội dung đào tạo.

Việc đổi mới phương pháp giảng dạy đã được Ban Giám hiệu Trường Cán bộ – nay là Ban Giám đốc Học viện cùng tập thể giảng viên quan tâm và đưa thành tiêu chuẩn đánh giá, xếp loại thi đua cuối năm. Bên cạnh phương pháp dạy và học truyền thống, đội ngũ giáo viên đã tìm cách đa dạng hóa các hình thức tổ chức lớp học, sử dụng các phương tiện hỗ trợ giảng dạy. Ban Giám hiệu Trường Cán bộ – Ban Giám đốc Học viện đã tổ chức nhiều khóa tập huấn cho giảng viên về phương pháp giảng dạy, cách thức sử dụng các phương tiện hỗ trợ như: projector, bảng tương tác… Phương pháp giảng dạy tích cực đang ngày càng chiếm ưu thế trong công tác giảng dạy các loại lớp của nhà trường, trong đó có chương trình đào tạo, bồi dưỡng.

– Về trình độ ngoại ngữ, tin học và kiến thức về quản lý nhà nước

Nếu đối chiếu với tiêu chuẩn giảng viên được quy định tại Quy chế giảng viên thì hầu hết các giảng viên đều đạt tiêu chuẩn chung về trình độ chuyên môn và trình độ lý luận chính trị theo quy định, thậm chí có nhiều tiêu chí cao hơn tiêu chuẩn. Tuy nhiên, vẫn còn một số tiêu chí chưa đạt ở một số giảng viên, đặc biệt là giảng viên trẻ như: Tin học trình độ B trở lên – trong khi hầu hết giảng viên trẻ chỉ có trình độ A; có chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước – trong khi hầu hết giảng viên trẻ chưa có chứng chỉ này; hay trình độ ngoại ngữ để thực sự có thể sử dụng cho nghiên cứu và tham khảo tài liệu giảng dạy bằng tiếng nước ngoài còn hạn chế.

2.4. Công tác kiểm tra, đánh giá đối với giảng viên

Kiểm tra, đánh giá đội ngũ giảng viên Học viện là một hoạt động quan trọng để đánh giá phẩm chất và năng lực của giảng viên. Qua đó, nhận biết được những điểm mạnh, điểm yếu và mặt còn tồn tại cần phải khắc phục trong thời gian tới và có những định hướng cho sự phát triển của giảng viên trong tương lai. Nhờ có kiểm tra đánh giá của từng giảng viên mà Học viện có kế hoạch, phương án sắp xếp, bố trí công việc phù hợp và đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ giảng viên. Công tác kiểm tra, đánh giá đội ngũ giảng viên được tiến hành thường xuyên, liên tục. Song song với việc đổi mới phương pháp giảng dạy, việc đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá đội ngũ giảng viên cần được chú trọng.Trong những năm qua, Học viện đã kiểm tra, đánh giá đội ngũ giảng viên dưới nhiều hình thức như: kiểm tra giáo án giảng dạy ở tổ chuyên môn, tổ chức lấy ý kiến học viên, tổ chức thao giảng, tham dự hội thi giảng viên giảng dạy giỏi cấp trường và cấp quốc gia…

Việc tổ chức lấy ý kiến học viên được tổ chức định kỳ, mỗi năm 2 lần, vào 6 tháng đầu năm và 6 tháng cuối năm, kết quả qua các năm có gần 100% giảng viên được đánh giá đạt loại khá trở lên. Hội thi giảng viên dạy giỏi toàn quốc các Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức theo định kỳ 2 năm/lần. Tại mỗi kỳ Hội thi, Học viện đều có 02 giảng viên tham dự, qua 5 kỳ Hội thi đến nay Học viện có 6 giảng viên đạt danh hiệu “Giảng viên dạy giỏi xuất sắc toàn quốc khối các trường Chính trị” và 4 giảng viên đạt danh hiệu “Giảng viên dạy giỏi toàn quốc khối các trường Chính trị”. Qua các kỳ kiểm tra, đánh giá và tổng kết công tác cuối năm, Học viện đã thực hiện kịp thời công tác thi đua khen thưởng giảng viên theo đúng quy định. Cho đến nay, chưa có giảng viên của Học viện phải chịu bất kỳ hình thức kỷ luật nào.

3. Kết luận và đề xuất

3.1.Kết luận

Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật khá đầy đủ về quản lý nhà nước cán bộ, công chức, viên chức, giảng viên, giảng viên trường chính trị cấp tỉnh. Các văn bản quy phạm pháp luật đã bước đầu đáp ứng và tạo nền tảng pháp lý đẩy mạnh hoạt động quản lý nhà nước đội ngũ giảng viên Học viện Cán bộ TP. Hồ Chí Minh. Công tác chỉ đạo của Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ chí Minh và Thành ủy TP. Hồ Chí Minh, và công tác quản lý của Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh chặt chẽ và kịp thời, tạo sự đoàn kết, nhất trí, phát huy cao độ sức mạnh trí tuệ của tập thể giảng viên Học viện. Công tác quản lý đội ngũ giảng viên đã được Học viện Cán bộ TP. Hồ Chí Minh nghiêm túc tổ chức thực hiện đầy đủ và đúng theo các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước và bám sát sự chỉ đạo của Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Thành ủy và Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh. Từ thực tiễn quản lý nhà nước đội ngũ giảng viên Học viện, một số vấn đề đặt ra trong thời gian tới như sau:

– Đến nay, khi Học viện cán bộ đã được thành lập với những chức năng và nhiệm vụ mới, cần tiếp tục xây dựng kế hoạch phát triển Học viện theo lộ trình trung hạn và dài hạn, trong đó có kế hoạch, quy hoạch; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên đáp ứng nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của Thành phố trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai.

– Công tác quy hoạch, đào tạo đội ngũ giảng viên cần chú trọng đội ngũ giảng viên thay thế cho thế hệ giảng viên chuẩn bị nghỉ hưu theo chế độ trong thời gian tới để đảm bảo sự kế cận liên tục, tránh được sự hụt hẫng chuyên môn giữa các thế hệ.

– Trong công tác tuyển dụng giảng viên, phần lớn người được tuyển dụng hiện nay là sinh viên mới ra trường, để nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên từ đầu vào, làm thế nào để thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cao là một vấn đề quan trọng được đặt ra.

– Công tác đào tạo giảng viên cần chú trọng việc đào tạo giảng viên có trình độ chuyên ngành ở bậc tiến sĩ, bồi dưỡng kiến thức về quản lý nhà nước, nghiệp vụ sư phạm, ngoại ngữ, tin học và khả năng nghiên cứu khoa học.

3.2. Đề xuất giải pháp

Để tăng cường hiệu quản quản lý nhà nước đội ngũ giảng viên Học viện, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho Thành phố, một số giải pháp được đề xuất như sau:

a. Nhóm giải pháp về pháp lý

Các nội dung quản lý nhà nước cần được thực hiện trên nền tảng pháp lý vững chắc, đó là văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao. Do đó, thực hiện việc “luật hóa” các quan điểm, chủ trương của Đảng về quản lý nhà nước đội ngũ giảng viên trường chính trị cấp tỉnh, cụ thể về đối tượng điều chỉnh:

– Cần xác định rõ các khái niệm cơ bản “nhà giáo”, “giáo viên”, “giảng viên”, “giảng viên chính trị”… Khi có quy định thống nhất sẽ xác định đúng đối tượng điều chỉnh trong quá trình thực hiện các chế độ, chính sách có liên quan.

– Các chế độ chính sách đối với đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý trường chính trị cần được luật hóa trong Luật Giáo dục để bảo đảm giá trị pháp lý và hiệu lực thi hành cao, bảo đảm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho đội ngũ giảng viên trường chính trị để họ yên tâm công tác, giữ vững phẩm chất và nâng cao năng lực.

b. Nhóm giải pháp tăng cường hiệu quả công tác quản lý nhà nước đội ngũ giảng viên Học viện

– Về quy hoạch giảng viên

Đối với các giảng viên trong diện quy hoạch vào đội ngũ quản lý, Lãnh đạo Học viện và Lãnh đạo Khoa xem xét phân côngmột số công việc để họ dần làm quen và tích lũy kinh nghiệm quản lý, như:Chủ trì thông tin khoa học, chủ trì cuộc họp thảo luận chuyên môn, phối hợp giải quyết một số công việc chung của trường.

– Về đào tạo, bồi dưỡng giảng viên

Phát huy tính tự chủ ở mỗi giảng viên, để họ nỗ lực tự thân trong học tập, nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ chuyên môn và trau dồi kinh nghiệm thực tiễn. Đội ngũ giảng viên trẻ cần có tinh thần cầu tiến, tiếp tục rèn luyện các mặt chuyên môn, tác phong sư phạm, chấp hành nội quy, kỷ luật phát ngôn, bản lĩnh chính trị. Học viện cần xây dựng quy định về việc phân công giảng viên có kinh nghiệm kèm cặp, giúp đỡ giảng viên trẻ về chuyên môn cũng như hoàn thiện nhân cách sống. Việc phân công người hướng dẫn, bồi dưỡng giảng viên trẻ cần trở thành quy định bắt buộc đối với giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, giảng viên cao cấp, giảng viên chính trong Học viện.

Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Học viện với Học viện chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh và các đơn vị khác như Viện Nghiên cứu, Trường Đại học… để giảng viên được tham gia nhiều hơn vào các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn qua đó có sự giao lưu, học hỏi kinh nghiệm giữa giảng viên của các Trường Chính trị, học tập nâng cao trình độ chuyên môn và kiến thức thực tiễn.

Các khoa giảng dạy cần có kế hoạch cụ thể, thường xuyên phân công các giảng viên lâu năm có kinh nghiệm dự giờ giảng viên trẻ, đặc biệt là những bài giảng mới thông qua, có vậy mới kịp thời góp ý cho giảng viên trẻ về chuyên môn và tác phong giúp giảng viên trẻ ngày càng hoàn thiện mình.

Cần có nguồn kinh phí hỗ trợ giảng viên trẻ học tập nâng cao trình độ ngoại ngữ và tin học ở những cơ sở đào tạo có uy tín, chất lượng.

ThS. Trần Tuấn Duy

Học viện Cán bộ TP. Hồ Chí Minh

 

Chú thích:

[1]. Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XI, Nxb.Chính trị Quốc gia, tr.256

[2]. Uông Chu Lưu,Một số vấn đề lý luận về phân cấp quản lý nhà nước, http://moj.gov.vn/65nam/News/Lists/TuL…, truy cập ngày 20/12/2014.

[3]. Quyết định số 184-QĐ/TW ngày 03/9/2008 của Ban Bí thư quyết định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Trường Chính trị tỉnh, thành phố tực thuộc Trung ương.

[4]. Ban hành kèm theo Quyết định số 268/QĐ-HVCT-HCQG ngày 03/02/2010 của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh v/v Ban hành các Quy chế, Quy định quản lý đào tạo ở các trường chính trị tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương.

[5]. Quyết định số 295 ngày 06/6/2014 của Hiệu trưởng Trường Cán bộ Thành phố

Hồ Chí Minh) Quy định Tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn của giảng viên; Chế độ làm việc, chính sách đối với giảng viên.

 

 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý xã Thạch Bình – Cầu nối giữa pháp luật với nhân dân

24/07/2015

 

Sau gần 5 năm thành lập và đi vào hoạt động, Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý xã Thạch Bình, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình đã giúp công tác trợ giúp pháp lý đến được với từng người dân, nhất là đối với người nghèo, người dân tộc thiểu số, phụ nữ bị bạo hành và các đối tượng chính sách khác.

Thạch Bình là một xã có địa bàn rộng với trên 80% dân số là người dân tộc (dân tộc Mường), tỷ lệ hộ nghèo cao, trình độ dân trí thấp, trình độ nhận thức pháp luật còn hạn chế, giao thông đi lại còn gặp nhiều khó khăn… nên nhu cầu trợ giúp pháp lý, giúp đỡ về mặt pháp luật cho nhân dân là rất lớn. Sau gần 5 năm thành lập và đi vào hoạt động, Câu lạc bộ (CLB) đã tuyên truyền vận động và kết nạp được gần 20 hội viên hoạt động tại 11 thôn, bản trên địa bàn xã. Đến nay, CLB đã tuyên truyền, phổ biến đến với người dân các đạo luật cơ bản như: Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai (sửa đổi), Luật Hôn nhân và gia đình (sửa đổi), Luật Phòng chống bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng giới, Luật Giao thông đường bộ, Luật Khiếu nại, Luật tố cáo, Luật Người cao tuổi, Luật Dân quân tự vệ… và các văn bản chính sách khác. Sau 5 tháng đầu năm 2015, CLB trợ giúp pháp lý xã đã tư vấn, giải đáp các vướng mắc pháp luật cho 22 trường hợp, chủ yếu là người dân tộc thiểu số và người nghèo, tổ chức sinh hoạt CLB trợ giúp pháp lý tại 5 điểm bản, thu hút gần 500 lượt người tham gia. Thông qua hoạt động sinh hoạt CLB trợ giúp pháp lý tại trụ sở UBND xã và tại các điểm bản trên địa bàn xã, mà phần lớn người dân trong xã đã biết đến hoạt động trợ giúp pháp lý và tìm đến Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh và chi nhánh của Trung tâm để được tư vấn, giúp đỡ về mặt pháp luật. Nhờ vậy, số người tham dự các buổi tuyên truyền, tư vấn pháp luật tăng lên, số vụ tranh chấp nhỏ và khiếu nại, tố cáo, số vụ việc yêu cầu tư vấn trong thời gian qua cũng giảm. Thông qua các buổi tuyên truyền pháp luật và trợ giúp pháp lý tại các thôn, bản, CLB trợ giúp pháp lý đã nhận được rất nhiều ý kiến có liên quan đến các lĩnh vực pháp luật cần được tư vấn, giúp đỡ tại chỗ, trong đó có cả các ý kiến gửi về Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh và đã tư vấn thành công.

Ngoài ra, CLB còn phối hợp với Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh tổ chức 01 cuộc trợ giúp pháp lý lưu động tại trụ sở UBND xã, thu hút hàng trăm lượt người tham gia, 13 ý kiến trợ giúp pháp lý đã được tư vấn tại chỗ thành công làm cho nhân dân địa phương rất hài lòng. Bên cạnh đó, CLB trợ giúp pháp lý xã còn phối hợp với Phòng Tư pháp huyện, Hội luật gia huyện, Hội phụ nữ huyện và Công an huyện Nho Quan… tổ chức tuyên truyền pháp luật cho gần 200 người tham dự và trao đổi về các vấn đề pháp lý đang xảy ra trong đời sống nhân dân địa phương. Tại các buổi sinh hoạt trợ giúp pháp lý, có rất nhiều ý kiến trợ giúp pháp lý đều đã được tư vấn tại chỗ. Những số liệu phản ánh trên cho thấy nhu cầu được tư vấn pháp luật cho nhân dân địa phương trong thời gian qua là rất lớn, việc tư vấn giải đáp thành công đã giải quyết được tình trạng quá tải tại trụ sở UBND xã và các cơ quan chuyên môn cấp huyện. Mặt khác, thông qua việc tuyên truyền pháp luật, tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý đã góp phần truyền tải đến người dân những quy định pháp luật cơ bản, tránh tình trạng người dân vi phạm pháp luật mà không biết mình đã vi phạm pháp luật. Nhờ kết quả của công tác truyền thông tuyên truyền pháp luật thông qua các buổi sinh hoạt chuyên đề, CLB trợ giúp pháp lý và hoạt động trợ giúp pháp lý lưu động của Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh mà số vụ khiếu nại, tố cáo trong thời gian qua đã giảm đáng kể, những chi phí không cần thiết và những chi phí nhỏ mà người dân phải nộp do không am hiểu pháp luật cũng giảm.

Sau gần 5 năm thành lập và hoạt động, đội ngũ Ban Chủ nhiệm CLB Trợ giúp pháp lý xã Thạch Bình đã được kiện toàn để tổ chức hoạt động, 11 thôn, bản trên địa bàn xã đều đã có hội viên làm đầu mối hoạt động. Các hội viên trong CLB đã hoạt động rất tích cực và đều đặn để đạt được hiệu quả cao hơn nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của nhân dân. Để có được những kết quả đáng khích lệ đó, trước hết phải kể đến sự quan tâm, ủng hộ của Đảng ủy, UBND xã và đội ngũ làm công tác truyền thông, tuyên truyền pháp luật, tư vấn pháp luật của CLB Trợ giúp pháp lý xã Thạch Bình.

Hiện nay, Luật Trợ giúp pháp lý ngày càng phát huy hiệu quả, việc tổ chức mô hình CLB Trợ giúp pháp lý ở cấp xã, phường, thị trấn là rất cần thiết. Tuy nhiên, đây là mô hình mới nên phải có sự bồi dưỡng về chuyên môn, kỹ năng quản lý, điều hành cho Ban Chủ nhiệm các CLB Trợ giúp pháp lý; đồng thời bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ năng giao tiếp cho các hội viên. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất quyết định hiệu quả hoạt động là Ban Chủ nhiệm và hội viên CLB phải có trình độ pháp lý, nhiệt tình, say mê với công việc và có khả năng truyền đạt những kiến thức pháp luật tới nhân dân để nhân dân kịp thời nắm bắt được những quy định của pháp luật, hạn chế tình trạng vi phạm pháp luật trong nhân dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương.

Đoàn Thị Ngọc Hải

Sở Tư pháp tỉnh Ninh Bình

 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Công tác tư pháp Lạng Sơn sau một năm nhìn lại

21/01/2016

Công tác tư pháp Lạng Sơn sau một năm nhìn lại Lạng Sơn là tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Bắc nước ta, với diện tích tự nhiên là 8.328 km2, dân số toàn tỉnh là 831.887 người (theo điều tra dân số 01/4/2009), có 7 dân tộc anh em cùng sinh sống. Địa hình tỉnh Lạng Sơn chủ yếu là đồi núi, mật độ dân cư phân bố không tập trung. Tỉnh có 10 đơn vị hành chính huyện và 1 thành phố, là điểm nút của sự giao lưu kinh tế với các tỉnh phía Tây (như Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Kạn), phía Đông (như tỉnh Quảng Ninh), phía Nam (như Bắc Giang, Bắc Ninh, thủ đô Hà Nội) và phía Bắc tiếp giáp với Trung Quốc. Ngoài những điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên phong phú, Lạng Sơn còn là tỉnh có hệ thống giao thông thuận lợi (có đường quốc lộ 1A đi qua; có đường biên giới chung với Trung Quốc dài 253 km; có 2 cửa khẩu quốc tế (cửa khẩu đường bộ Hữu Nghị và cửa khẩu đường sắt Đồng Đăng), 2 cửa khẩu quốc gia (Chi Ma, Bình Nghi) và 7 cặp chợ biên giới; có đường sắt liên vận quốc tế) cho việc giao lưu kinh tế, khoa học – công nghệ với các tỉnh phía Nam trong cả nước, với Trung Quốc và sang các nước vùng Trung Á, châu Âu và các nước khác1… Trong điều kiện hiện nay, khi Nhà nước ta đang thực hiện chính sách đầu tư phát triển các khu kinh tế cửa khẩu, thì Lạng Sơn càng có điều kiện để phát triển các ngành kinh tế, đặc biệt là thương mại, du lịch và dịch vụ. Khu kinh tế cửa khẩu là một trong những vùng kinh tế trọng điểm, là khu vực phát triển năng động nhất, là trọng tâm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của cả tỉnh, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao mức sống của nhân dân, tăng thu nhập cho ngân sách địa phương và trung ương.

Trong những năm qua, sự phát triển về mọi mặt của tỉnh Lạng Sơn có đóng góp không nhỏ của Ngành Tư pháp. Có thể nói, việc tổ chức thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ công tác tư pháp, trong đó có vai trò đặc biệt quan trọng của Sở Tư pháp đã đóng góp tích cực vào việc phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.

Sở Tư pháp Lạng Sơn được thành lập theo Quyết định số 72/UB-QĐ-TC ngày 22/02/1982 của Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn trên cơ sở cơ cấu tổ chức của Ban Pháp chế tỉnh. Trong quá trình 33 năm xây dựng và trưởng thành, mặc dù chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp tỉnh Lạng Sơn có nhiều thay đổi, tuy nhiên, trong bất kỳ thời điểm nào, Sở Tư pháp luôn tham mưu cho Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh tổ chức chỉ đạo, triển khai thực hiện hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ công tác tư pháp trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn ở các lĩnh vực công tác như: Công tác xây dựng và thi hành pháp luật; theo dõi thi hành pháp luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; kiểm soát thủ tục hành chính; pháp chế; phổ biến, giáo dục pháp luật; hòa giải ở cơ sở; hộ tịch; quốc tịch; chứng thực; nuôi con nuôi; lý lịch tư pháp; bồi thường nhà nước; trợ giúp pháp lý; luật sư; tư vấn pháp luật; công chứng; giám định tư pháp; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính… Hiện nay, Sở Tư pháp 6 phòng chuyên môn, 2 tổ chức giúp việc và 3 đơn vị sự nghiệp trực thuộc.

Để phản ánh hoạt động của Ngành Tư pháp Lạng Sơn, tháng 11/2015, Sở Tư pháp tỉnh Lạng Sơn đã phối hợp với Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp tổ chức Tọa đàm “Công tác pháp chế, công tác tư pháp ở tỉnh Lạng Sơn”. Tại Tọa đàm này, các đại biểu đã cùng nhau phân tích, đánh giá kết quả đạt được của công tác tư pháp Lạng Sơn trong một năm qua, đồng thời nêu ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân, từ đó đề xuất giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của công tác tư pháp và pháp chế trong thời gian tới. Một số lĩnh vực hoạt động nổi bật của tư pháp xứ Lạng năm vừa qua, đó là:

Về xây dựng và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật: Trong năm 2015, công tác xây dựng, ban hành, kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật của cấp tỉnh tuân thủ đúng trình tự, thủ tục quy định, đảm bảo đúng thẩm quyền; kịp thời thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của đảng, pháp luật của Nhà nước, phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh.

Về công tác bổ trợ tư pháp: Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động bổ trợ tư pháp trên địa bàn tỉnh ngày càng đi vào nề nếp, việc xã hội hóa tiếp tục được đẩy mạnh, các biện pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được tăng cường, góp phần tạo sự phát triển bền vững cho các hoạt động bổ trợ tư pháp, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu hợp pháp, chính đáng của tổ chức và người dân. Tuy nhiên, việc kiện toàn tổ chức và phát triển luật sư theo Đề án chưa đạt hiệu quả cao, chất lượng giải quyết vụ việc của luật sư chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của người dân. Về hoạt động công chứng, mặc dù đã có quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng nhưng số lượng tổ chức hành nghề công chứng còn ít. Do vậy, việc đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp là yêu cầu cấp thiết hiện nay trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.

Về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật: Có thể nói, các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật đã được triển khai tương đối đồng bộ thống nhất, có trọng tâm, trọng điểm theo đúng chương trình, kế hoạch đề ra. Nội dung phổ biến thiết thực, gắn với từng đối tượng và phù hợp với nhiệm vụ kinh tế – chính trị của địa phương, yêu cầu nhiệm vụ của các ngành, các tổ chức đoàn thể. Hình thức phổ biến được thực hiện một cách đa dạng và phong phú, đem lại hiệu quả thiết thực. Do vậy, nhiều nội dung pháp luật đã đi vào cuộc sống đến với mọi tầng lớp nhân dân, góp phần tích cực vào việc hạn chế các vi phạm pháp luật trong cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, việc chấp hành pháp luật ở một số nơi chưa thực sự nghiêm (ví dụ như khu vực đô thị), vì thế, trong thời gian tới, cần có những giải pháp cụ thể giúp cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đạt hiệu quả cao đối với từng đối tượng.

Về hoạt động kiểm soát thủ tục hành chính: Năm vừa qua, tất cả các quy định về thủ tục hành chính được đánh giá tác động, thẩm định theo đúng pháp luật; thực hiện đầy đủ việc công bố công khai thủ tục hành chính; hoàn thành việc rà soát toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật quy định về thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền ban hành của địa phương; công tác rà soát quy định, thủ tục hành chính được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, tránh rà soát tràn lan.

Về hoạt động trợ giúp pháp lý: Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh luôn bố trí viên chức thực hiện việc tiếp công dân kịp thời, có hiệu quả; cử trợ giúp viên pháp lý, luật sư cộng tác viên tham gia đại diện, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng; thực hiện tốt việc phối hợp trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng; tổ chức hoạt động trợ giúp pháp lý lưu động có hiệu quả tại cơ sở và tư vấn pháp luật miễn phí tại chỗ cho những đối tượng thuộc diện được trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên, công tác trợ giúp pháp lý còn gặp nhiều khó khăn do hạn chế về cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc và phương tiện đi lại.

Năm 2016 và những năm tiếp theo, Ngành Tư pháp tỉnh Lạng Sơn sẽ tiếp tục phát huy những thành tích đã đạt được, nỗ lực hết mình để khắc phục những khó khăn, hạn chế, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, phấn đấu đưa Sở Tư pháp tỉnh Lạng Sơn trở thành đơn vị đi đầu trong hoạt động tư pháp.

Huyền Bùi

Tài liệu tham khảo:

http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/cactinhvathanhpho/tinhlangson/thongtintinhthanh?view=introduction&provinceId=1366.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phòng, chống tội phạm trên địa bàn tỉnh Gia Lai

24/11/2015

Trong thời gian qua với xu hướng hội nhập và phát triển kinh tế ngày càng sâu rộng, văn hóa xã hội ngày càng phát triển, đời sống của nhân dân trên địa bàn tỉnh Gia Lai ngày càng được cải thiện, kéo theo đó là những tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường, hình thành lối sống thực dụng, thích hưởng thụ. Sự tác động, ảnh hưởng của môi trường, gia đình, xã hội như: Bạo lực gia đình, mạng xã hội, các loại hình trò chơi trên internet… làm cho bộ phận người dân, nhất là lứa tuổi thanh thiếu niên nhận thức, hành động lệch lạc hoặc dễ bị các đối tượng lợi dụng, lôi kéo, dụ dỗ, thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, như: Giết người, cướp tài sản, trộm cắp, tụ tập gây rối an ninh trật tự… ý thức đề cao cảnh giác đấu tranh tố giác tội phạm của một bộ phận nhân dân chưa cao.

Theo thống kê từ năm 2011 đến nay, bình quân mỗi năm trên địa bàn tỉnh xảy ra trên 850 vụ án hình sự, tính chất thủ đoạn gây án ngày càng tinh vi, nghiêm trọng, như: Vụ giết người, cướp tài sản (chết 2 người) xảy ra ngày 23/12/2012 tại thị trấn Đăk Đoa, huyện Đăk Đoa; vụ giết người xảy ra ngày 21/01/2015 tại xã Ia Kla, huyện Đức Cơ (chết 2 người, bị thương 1 người). Nguyên nhân là do mâu thuẫn cá nhân bộc phát tức thời; do mâu thuẫn gia đình; liên quan đến rượu, bia…; số đối tượng hoạt động chuyên nghiệp, lưu động, có xu hướng trẻ hóa, số đối tượng từ 14 tuổi đến dưới 30 tuổi chiếm tỉ lệ cao (68%). Nhiều đối tượng phạm tội trong độ tuổi từ 14 đến 18 tuổi như nhóm đối tượng Lê Văn Dương (sinh năm 1998, có 4 đối tượng) gây ra 8 vụ trộm cắp tài sản tại huyện Chư Pưh, nhóm đối tượng Dương Văn Tâm (sinh năm 1994, có 3 đối tượng) gây ra 12 vụ cướp tại huyện Đăk Đoa, Chư Păh… Đối tượng phạm tội là người dân tộc thiểu số ngày càng tăng, tội phạm trộm cắp chiếm tới 48% cơ cấu tội phạm… Tội phạm về kinh tế như: Các vụ vận chuyển tàng trữ lâm sản trái phép với số lượng lớn; tình trạng buôn bán, vận chuyển hàng cấm… xảy ra ngày càng nhiều tại địa bàn các huyện Chư Prông, Chư Sê, Đức Cơ, Kong Chro. Tội phạm tham nhũng còn tiềm ẩn nhiều phức tạp xảy ra ở các lĩnh vực như quản lý đất đai, quản lý tài chính, thực hiện chính sách… Đối với tội phạm về ma túy ngày càng diễn biến rất phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi, số đối tượng liên quan đến ma túy có xu hướng tăng, theo rà soát trên địa bàn tỉnh hiện có 948 đối tượng liên quan đến ma túy…

Thực hiện Chỉ thị số 48/CT-TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới; Kết luận số 95-KL/TW ngày 02/4/2014 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 26/3/2008 của Bộ Chính trị vềtiếp tục tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới”; Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 01/12/2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc trong tình hình mới và Kế hoạch số 3705/KH-UBND ngày 28/10/2013 của Uỷ ban nhân dân tỉnh về thực hiện Dự án “Xây dựng xã, phường, thị trấn không có tệ nạn ma túy”; Kế hoạch số 1269/KH-BCĐ ngày 19/9/2012 của Ban chỉ đạo phòng chống tội phạm tỉnh về triển khai thực hiện công tác phòng chống tội phạm. Xác định được công tác tuyên truyền pháp luật phòng chống tội phạm có vai trò đặc biệt quan trọng, làm giảm thiểu tỉ lệ vi phạm pháp luật trong cộng đồng dân cư trên địa bàn tỉnh.

Trong 05 năm qua, toàn tỉnh đã thực hiện tuyên truyền hơn 355.000 tài liệu các loại tuyên về công tác phòng, chống tội phạm, phòng, chống ma tuý, phòng, chống mua bán người; phát sóng trên 7.000 bản tin, bài viết phóng sự tuyên truyền phòng chống tội phạm; tổ chức tập trung tuyên truyền công tác phòng, chống tội phạm tại các khu vực biên giới được 930 buổi với 94.582 lượt người tham dự; tổ chức tuyên truyền cá biệt cho từng đối tượng, từng hộ gia đình được 3.636 buổi với 25.139 lượt người; tổ chức cho 9.100 hộ gia đình làm cam kết “không tiếp tay cho các hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả”; 31.500 cán bộ, hội viên hội phụ nữ ký cam kết “bản thân và gia đình không vi phạm pháp luật về tệ nạn xã hội”, các cơ quan đơn vị phối hợp thực hiện hàng ngàn buổi tuyên truyền về công tác phòng, chống tội phạm với 645.522 lượt người tham dự, phát động quần chúng phòng chống tội phạm tại 4.700 lượt thôn, làng, tổ dân phố với 631.888 lượt người tham dự; tổ chức 135 lớp tập huấn tuyên truyền về phòng chống tội phạm. Ngoài ra, công tác tuyên truyền còn tập trung vào việc thông qua các hoạt động như “Ngày pháp luật”; cuộc vận động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, “3 không với ma túy”; các câu lạc bộ pháp luật như “Phụ nữ với pháp luật”, “Thanh niên với pháp luật”, “Tuổi trẻ với pháp luật”…

Nhìn chung công tác tuyên truyền về phòng, chống tội phạm trong thời gian qua tuy được đổi mới nhiều với các nội dung phù hợp, phát huy được hiệu quả nhất định, nhưng triển khai chưa thường xuyên, chưa tập trung vào các đối tượng có nguy cơ phạm tội, tệ nạn xã hội… công tác cảm hóa, giúp đỡ người phạm tội, vi phạm pháp luật, tái hòa nhập cộng đồng còn hạn chế, thiếu sự tích cực tham gia của toàn xã hội; tỷ lệ tái phạm trong số phạm nhân được đặc xá, mãn hạn tù vẫn chưa giảm. Trong thời gian tới để công tác tuyên truyền đạt hiệu quả cao hơn, làm giảm thiểu tỉ lệ vi phạm pháp luật của người dân, đặc biệt là lứa tuổi thanh, thiếu niên và tội phạm công nghệ cao cần thực hiện một số nội dung sau:

Thứ nhất, các cấp Ủy đảng, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở phải quan tâm hơn nữa trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền phòng, chống tội phạm, xác định công tác này là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của mình;

Thứ hai, cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền phòng, chống tội phạm, phòng, chống ma tuý, phòng, chống mua bán người trên địa bàn tỉnh cả về chiều sâu, chiều rộng, với nhiều hình thức, nội dung phù hợp đến từng đối tượng cụ thể, đề ra chương trình, kế hoạch tuyên truyền để thực hiện có hiệu quả các chủ trương, kế hoạch phòng, chống tội phạm; tập trung tuyên truyền vào các địa bàn trọng điểm có nguy cơ cao để giảm thiểu tình trạng vi phạm pháp luật;

Thứ ba, thường xuyên biên soạn và cấp phát các tài liệu tuyên truyền đến tận cơ sở; mở các lớp tập huấn để nâng cao nhận thức và kỹ năng về công tác phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội trong hệ thống mặt trận, đoàn thể chính trị, các tổ chức xã hội, từ đó tạo ra phong trào đoàn kết đấu tranh phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội rộng khắp, phấn đấu từng bước làm giảm và tiến tới đẩy lùi tội phạm, tệ nạn ma túy, mại dâm, mua bán người… ra khỏi đời sống xã hội;

Thứ tư, mỗi cán bộ, đảng viên có trách nhiệm thực hiện và tuyên truyền, vận động gia đình thực hiện pháp luật liên quan đến công tác phòng, chống tội phạm;

Thứ năm, huy động sự tham gia rộng rãi, tích cực của các tổ chức quần chúng và nhân dân vào công tác phòng, chống tội phạm. Nâng cao hiệu quả phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc; tổ chức các đợt tuyên truyền gắn với việc thực hiện “xây dựng xã, phường, thị trấn không có tệ nạn ma túy”

Thứ sáu, tăng cường và đổi mới công tác cảm hóa, giáo dục, giúp đỡ những người phạm tội được đặc xá, tha tù, người mắc tệ nạn xã hội tại cộng đồng và tại các trại giam, cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng với những hình thức phù hợp. Quan tâm hỗ trợ những người lầm lỗi đã cải tạo tốt để sớm ổn định cuộc sống, tái hòa nhập với cộng đồng.

Cuối cùng, xây dựng và nhân rộng các mô hình tuyên truyền phòng, chống tội phạm có hiệu quả. Vận động nhân dân tích cực tham gia trấn áp tội phạm, truy bắt các đối tượng bị truy nã nhưng đang lẩn trốn. Kịp thời động viên, khen thưởng những tập thể, cá nhân đã đóng góp tích cực trong việc phát hiện, điều tra tội phạm. Có chính sách bảo vệ cá nhân và gia đình những người tham gia làm công tác phòng, chống tội phạm.

Ngân Vũ

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Đôi điều về năng lực và đạo đức nghề nghiệp của công chứng viên

14/10/2015

Như đã biết, đặc trưng nổi bật và khác biệt nhất của công chứng viên so với những người hành nghề khác là mặc dù với tư cách cá nhân (là một công dân hoặc một viên chức bình thường) nhưng được Nhà nước tin tưởng, bổ nhiệm để trao cho một phần quyền lực công của Nhà nước (thực hiện dịch vụ công do Nhà nước ủy nhiệm) nhằm thực hiện chức năng chính là chứng nhận tính xác thực, tính chính xác, tính hợp pháp và tính phù hợp với đạo đức xã hội của các hợp đồng, văn bản giao dịch dân sự hoặc các giấy tờ dân sự khác. Qua đó, chính công chứng viên sẽ làm cho các văn bản, giấy tờ này trở thành có hiệu lực pháp luật như các văn bản của Nhà nước ban hành ra, được nhân dân và Nhà nước thừa nhận. Đồng thời, với chức năng nói trên của mình, hành vi của công chứng viên còn được toàn bộ xã hội nhìn nhận như một chuẩn mực về sự đúng đắn, đặt vào đó một sự tin cậy rất cao nếu như không muốn khẳng định gần như là tuyệt đối. Chính vì những lý do nêu trên mà vấn đề năng lực và đạo đức của công chứng viên luôn luôn phải được đặt lên hàng đầu trong tất cả các quy định về công chứng viên nói riêng và các quy định về công chứng nói chung để đáp ứng được những kỳ vọng lớn lao đó của người dân và của xã hội. Với các nước có nền pháp luật lâu đời và phát triển thì đội ngũ công chứng viên của họ đã gần như khẳng định được vị thế chắc chắn, uy tín rất cao trong giới những người hành nghề pháp luật và trong lòng xã hội. Còn đối với nước ta, một đất nước vẫn còn nghèo, lịch sử pháp luật chưa dài, ý thức pháp luật của người dân chưa cao, trình độ và kinh nghiệm của những nhà xây dựng pháp luật dù sao vẫn còn những hạn chế, thiếu sót, nên việc xây dựng và thực thi pháp luật nói chung và pháp luật về công chứng nói riêng vẫn còn rất nhiều tồn tại, bất cập.

Trong bối cảnh hiện nay, khi nền kinh tế đang phát triển theo định hướng kinh tế thị trường, lĩnh vực công chứng đã chính thức được xã hội hóa, thì cùng với sự phát triển về số lượng, những yêu cầu về chất lượng, mà trong đó yếu tố năng lực và yếu tố đạo đức của các công chứng viên buộc phải đặt ra một cách cấp bách và phải thực thi một cách triệt để.

Theo lý luận, năng lực chuyên môn và đạo đức là hai phạm trù khác nhau, nhưng trên thực tế, năng lực và đạo đức của một công chứng viên tuy có sự độc lập song lại cùng phải phục vụ một mục đích cơ bản là đảm bảo cho chất lượng của hành vi và văn bản công chứng. Suy rộng ra, nó sẽ quyết định chất lượng cả một chế định công chứng, quyết định uy tín cho cả đội ngũ công chứng viên của một quốc gia. Với sự chỉ đạo của Đảng, sự cố gắng chung của Nhà nước và toàn xã hội, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản quy phạm về công chứng. Theo đó, văn bản có hiệu lực cao nhất hiện nay là Luật Công chứng năm 2014. Luật này đã quy định khá đầy đủ về mặt hình thức đối với điều kiện, tiêu chuẩn liên quan đến chất lượng công chứng viên. Ngoài ra, còn có nhiều văn bản quy phạm hướng dẫn thực hiện khác mà đặc biệt là Thông tư số 11/2012/TT-BTP do Bộ Tư pháp ban hành ngày 30/10/2012 chỉ để quy định riêng về “Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng”. Thông tư này bao gồm nhiều nội dung quy định về đạo đức hành nghề của công chứng viên. Tuy nhiên, từ quy định cho đến kết quả thực thi là một khoảng cách còn khá lớn. Biểu hiện trên thực tế là, cho đến hiện tại, những sai phạm xuất phát từ cả năng lực của công chứng viên lẫn sai phạm về đạo đức hành nghề của công chứng viên vẫn còn rất nhiều và có biểu hiện ngày càng tinh vi hơn, thậm chí nhiều trường hợp còn lẫn lộn rất khó phân biệt đó là sai phạm về năng lực hay về đạo đức hành nghề công chứng, khó phân biệt đó là sai phạm do vô ý hay cố ý của công chứng viên. Dưới đây, chúng tôi sẽ phân tích, bình luận về một số quy định pháp luật và việc áp dụng những quy định này trên thực tế.

1. Về tiêu chuẩn công chứng viên

Tiều chuẩn công chứng viên được quy định tại Điều 8 Luật Công chứng năm 2014 như sau:

“Điều 8. Tiêu chuẩn công chứng viên

Công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt và có đủ các tiêu chuẩn sau đây thì được xem xét, bổ nhiệm công chứng viên:

1. Có bằng cử nhân luật;

2. Có thời gian công tác pháp luật từ 05 năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức sau khi đã có bằng cử nhân luật;

3. Tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng quy định tại Điều 9 của Luật này hoặc hoàn thành khóa bồi dưỡng nghề công chứng quy định tại khoản 2 Điều 10 của Luật này;

4. Đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng;

5. Bảo đảm sức khỏe để hành nghề công chứng”.

Nhìn chung những quy định tiêu chuẩn dành cho công chứng viên như trên là đúng đắn, hợp lý và cũng khá tương đồng với tiêu chuẩn đối với một số chức danh tư pháp khác. Tuy nhiên, như đã phân tích, hoạt động công chứng là một hoạt động đặc thù chỉ do một cá nhân (công chứng viên) tiếp nhận, tự quyết định xử lý và thực hiện việc công chứng từ đầu đến cuối, đồng thời phải tự “chịu trách nhiệm trước pháp luật và người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng” (khoản 4, Điều 4). Như vậy, có thể thấy sức ép về kiến thức pháp luật, về kinh nghiệm áp dụng pháp luật, kinh nghiệm phân tích các mối quan hệ xã hội và cả sức ép về tâm lý đối với công chứng viên khi thực hiện công chứng là rất lớn. Thêm vào đó, Luật Công chứng lại còn khống chế cả thời hạn phải thực hiện việc công chứng:“Thời hạn công chứng không quá 02 ngày làm việc; đối với hợp đồng, giao dịch có nội dung phức tạp thì thời hạn công chứng có thể kéo dài hơn nhưng không quá 10 ngày làm việc”(khoản 2 Điều 43). Mặt khác, vì là dịch vụ đã được xã hội hoá nên xuất hiện thêm yếu tố cạnh tranh, do đó việc tiếp nhận và giải quyết các yêu cầu công chứng đòi hỏi phải được thực hiện gần như là tức thời, nếu không có các quy địnhkhống chế thời gian của pháp luật. Với tất cả những sức ép như trên, liệu rằng những quy định về tiêu chuẩn công chứng viên trong Luật nói trên đã đủ chưa? Chúng tôi có thể khẳng định: Quy định như vậy còn quá sơ sài, khó đáp ứng được với những diễn biến vô cùng phức tạp trong thực tiễn xã hội, dễ đẩy công chứng viên, nhất là các công chứng viên mới vào nghề mắc phải những sai phạm do thiếu kinh nghiệm, thiếu bản lĩnh nghề nghiệp. Do vậy, để củng cố thêm năng lực của công chứng viên (trong trường hợp này tạm coi năng lực chỉ bao gồm: Năng lực kinh nghiệm và bản lĩnh nghề nghiệp) thì có lẽ Luật nên quy định chi tiết hơn nữa, chặt chẽ hơn nữa để nâng cao thêm chất lượng, năng lực công chứng viên. Ví dụ: Thay vì quy định phải có 05 năm công tác pháp luật như quy định hiện hành, nên quy định luôn: Phải có đủ từ 03 đến 05 năm làm giúp việc nghiệp vụ trực tiếp cho công chứng viên, hoặc quy định phải có ít nhất 05 năm làm việc tại tổ chức hành nghề công chứng, chứ không nên quy định chung chung là 05 năm công tác pháp luật như hiện tại…

Còn đối với quy định “phải có phẩm chất đạo đức tốt”cũng cần phải quy định cụ thể hơn. Chuẩn mực đạo đức xã hội chúng ta có thể đã biết nhiều, chuẩn mực đạo đức trong pháp luật chúng ta cũng có thể trích dẫn ra từ một số các quy định trong hệ thống văn bản quy phạm, nhưng đối với tiêu chuẩn công chứng viên thì nên đặt chuẩn mực đạo đức cao hơn một mức so với các đối tượng thông thường khác, tức là phải quy định rõ hơn thế nào là đạo đức tốt. Ví dụ chúng ta có thể đưa ra những quy định cụ thể hơn như: chưa từng bị kết án tù giam vì lỗi cố ý trong lĩnh vực công chứng, hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính đến lần thứ ba trong lĩnh vực công chứng vì lỗi cố ý mà vẫn cố tình vi phạm, hoặc chưa từng phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, hoặc những người không có hành vi gây ra những dư luận xấu có tác động tiêu cực đến xã hội…

2. Về đạo đức hành nghề của công chứng viên

Từ khi xã hội hoá đến nay, nhất là trong giai đoạn đầu do chưa có quy hoạch tổng thể của Chính phủ, số lượng các văn phòng công chứng tăng mạnh và phân bổ không đều. Số lượng công chứng viên cũng tăng lên rất nhanh và được bổ nhiệm khá dễ dàng, lại được tự do cạnh tranh theo xu hướng thị trường nên các văn phòng công chứng đã không ngừng đẩy mạnh cạnh tranh, thu hút lợi nhuận, dẫn tới sự cạnh tranh không lành mạnh giữa một số tổ chức hành nghề công chứng. Từ đó xuất hiện nhiều vụ việc công chứng viên công chứng hợp đồng, giao dịch (nhiều nhất lại là liên quan đến bất động sản, những tài sản có giá trị lớn) có dấu hiệu vi phạm pháp luật một cách cố ý, nghiêm trọng như: công chứng “treo”, công chứng “khống”, ủy quyền bán một tài sản cho nhiều người, công chứng hợp đồng giao dịch khi chưa có đầy đủ điều kiện theo quy định của pháp luật, coi nhẹ các quy định của pháp luật, coi nhẹ việc tuân theo đạo đức xã hội, thiếu cẩn trọng trong thẩm định hồ sơ, thu thù lao công chứng chưa thống nhất, thu không theo quy định hoặc có sự khuất tất trong thu thù lao, phí công chứng…

Tất cả những hành vi trên của công chứng viên và của các tổ chức hành nghề công chứng xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Có thể do trình độ, năng lực của công chứng viên đó yếu, kiến thức pháp luật và kỹ năng nghiệp vụ chưa đủ để đáp ứng. Tuy nhiên trên thực tế nhiều sai phạm không hoàn toàn xuất phát từ nguyên nhân vừa nêu. Rất nhiều những sai phạm trong số đó sau khi được các cơ quan điều tra hay các đoàn thanh tra, kiểm tra vào cuộc tìm hiểu, xem xét, kết luận đã rút ra được nguyên nhân sâu xa xuất phát từ chính sự sai phạm về đạo đức hành nghề của công chứng viên. Đó là một sự vi phạm hoàn toàn mang tính chủ quan, nhằm mục đích trục lợi có chủ ý của công chứng viên khi thực hiện việc công chứng.

Trước tình hình đó cùng với sự phản ánh của dư luận xã hội, ngày 30/12/2012 Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 11/2012/TT-BTP quy định “Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng”. Theo đó, Thông tư quy định khá đầy đủ vể quy tắc đạo đức hành nghề của riêng công chứng viên. Qua nghiên cứu Thông tư nói trêncó thể thấy, với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước cao nhất của Ngành Tư pháp, với sự tham khảo kinh nghiệm pháp luật nước ngoài, sự đúc kết kinh nghiệm ban hành văn bản quy phạm pháp luật kết hợp với yếu tố thực tiễn, Bộ Tư pháp đã quy định một cách có hệ thống, có chiều sâu và khá toàn diện về tất cả những khía cạnh, các yếu tố nhằm luật hoá đạo đức hành nghề công chứng, trong đó chủ yếu là quy định về công chứng viên, nhằm hướng tới xây dựng nghề công chứng của nước ta thực sự trở thành một nghề cao quý.

Tất cả các quy định trong bộ quy tắc đạo đức hành nghề công chứng này đều khá rõ ràng, mạch lạc, rất phù hợp với chuẩn mực đạo đức chung theo quy định của pháp luật Việt Nam, phù hợp với truyền thống đạo đức dân tộc, đạo đức xã hội và đạo đức con người. Tuy nhiên, vì là một bộ quy tắc đạo đức áp dụng để hành nghề, nên các quy định trong bộ quy tắc này dường như thiếu đi những quy định đòi hỏi sự chi tiết. Cụ thể như:

Thứ nhất: Quy định về việc kiểm tra, thanh tra, giám sát, khen thưởng, xử lý vi phạm còn chung chung, chưa đề ra được lịch trình, tiêu chí và thành phần những người tham gia vào đoàn thanh tra, kiểm tra, giám sát, khen thưởng, xử lý vi phạm. Điều này rất quan trọng, vì nó sẽ bảo đảm cho việc đánh giá được chính xác, kịp thời và quan trọng nhất là phải thật sự công tâm, khách quan và chuẩn mực. Muốn như thế, ngoài các cơ quan quản lý Nhà nước như Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp hoặc Tổ chức xã hội nghề nghiệp hay chính Tổ chức hành nghề công chứng, thì trong quy chế nên quy định thêm: Trong thành phần đoàn thanh tra, kiểm tra, hay hội đồng giám sát, khen thưởng, xử lý vi phạm phải có mặt thêm các cơ quan báo chí, truyền thông, những người chuyên làm công tác xã hội và nhất là những người yêu cầu công chứng (người yêu cầu ngẫu nhiên và người yêu cầu thường xuyên), … Có như vậy việc thanh tra, kiểm tra, giám sát, khen thưởng, xử lý vi phạm mới được chính xác, quy chế mới thực sự phát huy được tác dụng.

Thứ hai: Cùng với quy định “Công chứng viên thực hiện không đúng Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị nhắc nhở, phê bình, khiển trách, xử lý kỷ luật theo Điều lệ của tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên, bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật”, cũng nên quy định thêm việc phải thành lậpđoàn hay hội đồng xử lý vi phạm. Đồng thời, nên quy định chi tiết hơn từng vi phạm cụ thể của công chứng viên sẽ phải chịu hình thức xử phạt nào, mức độ bao nhiêu…

3. Ý kiến đóng góp của một số chuyên gia

– Theo Luật gia Phạm Quốc Anh, Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam: “Trong tất cả các lĩnh vực nói chung và lĩnh vực công chứng nói riêng, con người luôn là yếu tố quyết định. Là một người công chứng viên, tiêu chuẩn đầu tiên là cần phải có đủ trình độ năng lực và đạo đức nghề nghiệp. Điều đó sẽ được thể hiện qua chất lượng công chứng, qua thái độ niềm nở, ân cần, làm việc cặn kẽ, có trách nhiệm. Hiện nay, các công chứng viên chủ yếu vẫn làm công tác đối nội với các loại giao dịch trong nước, ít các hợp đồng giao dịch có yếu tố nước ngoài, đa số chất lượng ngoại ngữ của các công chứng viên còn thấp, kiến thức về hội nhập rất hạn chế. Vì vậy tự bản thân mỗi người làm công tác công chứng phải có ý thức trau dồi những hạn chế nói trên.

Thêm vào đó hiện nay theo quy định chung thì những cán bộ đã được đào tạo, công tác ở các cơ quan tư pháp, hành pháp được miễn thực tập công chứng viên. Đây là một kẽ hở, mặc dù quy định đó đúng, nhưng chưa được hoàn thiện bởi vì mỗi lĩnh vực của pháp luật lại có những yêu cầu riêng, nếu chỉ có nền kiến thức chung của ngành tư pháp để đem vào làm việc cụ thể trong lĩnh vực công chứng thì chưa đủ. Những người đã qua đào tạo, công tác tại các cơ quan tư pháp, hành pháp muốn làm việc trong lĩnh vực công chứng vẫn phải qua lớp đào tạo ngắn hạn, có thi, kiểm tra một cách nghiêm túc để lấy chứng chỉ. Nếu chỉ dựa trên quá trình công tác mà miễn thực tập thì sẽ chỉ đáp ứng được về mặt số lượng, không đáp ứng được về chất lượng”.

– Luật gia Đỗ Văn Chỉnh, nguyên thẩm phán, Trưởng ban Thanh tra TANDTC cho biết hiện nay những tiêu chuẩn đối với công chứng viên trong luật công chứng đã tương đối chặt chẽ và đầy đủ. Đối với người công chứng viên không đặt quá nặng những tiêu chuẩn về hình thức như ngoại hình, giọng nói điều quan trọng là phải có sức khỏe, có năng lực, phải qua đào tạo bài bản và phải có tinh thần trách nhiệm trong công việc.

– Luật gia Phương Linh, Sở Tư pháp Bắc Giang nêu: Nên có thêm tiêu chuẩn về độ tuổi công tác bởi hiện nay Luật Công chứng của nước ta không quy định việc hạn chế độ tuổi hành nghề công chứng, điều này chưa phù hợp bởi hoạt động công chứng ngoài đòi hỏi kỹ năng về nghiệp vụ, công chứng viên còn cần có tư duy về nghiệp vụ sắc bén, đòi hỏi cần có sự tinh thông và “nhạy cảm” trong nghề nghiệp. Nếu công chứng viên hành nghề cao tuổi sẽ bị hạn chế về sức khoẻ, không đáp ứng được các yêu cầu này.

Và cuối cùng, thay cho lời kết, chúng tôi xin trích dẫn một ý kiến khách quan dưới đây của một người khách yêu cầu công chứng thực tế: Ông Nguyễn Thế Hòa, một người dân đến yêu cầu công chứng tại Văn phòng công chứng Ngọn Lửa Việt, số 16, đường 10, khu đô thị Trung Yên, Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội đóng góp: “làm người công chứng viên phải thật sự khách quan, trung thực, không thiên vị, không vì lợi ích cá nhân, vì sự quen thân làm ảnh hưởng đến lợi ích người khác, không công chứng hợp đồng, giao dịch có nội dung trái đạo đức xã hội. Công chứng viên phải có đủ năng lực để nắm rõ và giải thích cho người yêu cầu công chứng về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm đối với Nhà nước, về quyền được khiếu nại, tố cáo của người yêu cầu công chứng khi tham gia ký kết hợp đồng, giao dịch hay không?. Những tiêu chuẩn đó không chỉ dừng lại ở việc các văn phòng công chứng tự đánh giá, mà chính những người đi công chứng như chúng tôi cũng sẽ được tham gia đánh giá trực tiếp bằng nhận xét khách quan của mình”.

Chu Hồng Sơn

Công chứng viên Phòng Công chứng số 1 TP. Hà Nội

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết số 48/NQ-TW về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trên địa bàn tỉnh Ninh Bình

07/12/2015

Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48/NQ-TW của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48/NQ-TW). Đây là văn kiện chính trị của Đảng định hướng cho sự phát triển của hệ thống pháp luật nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Trên cơ sở Nghị quyết số 48/NQ-TW, Ban thường vụ tỉnh ủy Ninh Bình đã chỉ đạo Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh và các các cơ quan có liên quan bám sát nội dung của Nghị quyết, triển khai thực hiện phù hợp với tình hình thực tế địa phương. Từ đó đã tạo được sự chuyển biến tích cực trong hệ thống pháp luật, các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh đã làm tốt vai trò tham mưu cho HĐND, UBND các cấp xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện đảm bảo sát với tình hình thực tế. Qua 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết, công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật trên địa bàn tỉnh Ninh Bình đã có những chuyển biến cơ bản đáp ứng được các mục tiêu, quan điểm đã đề ra.

Trong 10 năm qua (2005 – 2015), HĐND và UBND các cấp đã ban hành 3.072 văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), (trong đó HĐND, UBND tỉnh ban hành 487 VBQPPL; HĐND, UBND cấp huyện ban hành 373 VBQPPL; HĐND, UBND cấp xã ban hành 1.734 VBQPPL). Các VBQPPL của tỉnh ban hành cơ bản đều phù hợp với các VBQPPL do các cơ quan trung ương ban hành và phù hợp với tình hình thực tế của tỉnh Ninh Bình, có tính thực tiễn, khả thi cao, có tác động tích cực hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách của tỉnh. Đồng thời, thông qua công tác thẩm định đã phát hiện nhiều dự thảo văn bản quy định không đúng thẩm quyền, không phù hợp với quy định của cơ quan nhà nước cấp trên hoặc có phạm vi, đối tượng điều chỉnh không rõ ràng, thể thức và kỹ thuật trình bày sai với quy định của pháp luật, từ đó kiến nghị cơ quan soạn thảo tiếp thu, chỉnh lý.

Đối với công tác tự kiểm tra, rà soát và hệ thống hóa VBQPPL trong thời gian qua đã được các cấp, các ngành thực hiện tương đối nghiêm túc. Trong 10 năm qua, Sở Tư pháp đã thực hiện tự kiểm tra đối với 487 VBQPPL của HĐND, UBND tỉnh (97 Nghị quyết, 354 Quyết định và 36 Chỉ thị); Phòng Tư pháp cấp huyện đã giúp HĐND, UBND cùng cấp tự kiểm tra đối với 359 VBQPPL; công chức tư pháp – hộ tịch cấp xã đã giúp HĐND, UBND cấp xã thực hiện kiểm tra đối với 1.770 VBQPPL. Công tác tự kiểm tra, xử lý văn bản trong thời gian qua đã được các cấp, các ngành thực hiện tương đối nghiêm túc và kịp thời, đặc biệt là công tác tự kiểm tra ở cấp tỉnh đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận và đạt được những kết quả đáng khích lệ.

Thực hiện Thông tư liên tịch số 03/2010/TT-BTP ngày 03/3/2010 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện công tác theo dõi thi hành pháp luật và Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ về theo dõi thi hành pháp luật, công tác theo dõi thi hành pháp luật đã có nhiều chuyển biến, bước đầu đã có sự gắn kết với kế hoạch kiểm soát thủ tục hành chính và kiểm tra VBQPPL. Sở Tư pháp đã tham mưu giúp UBND tỉnh xây dựng Quy chế phối hợp trong công tác theo dõi thi hành pháp luật, trong đó phân công cụ thể trách nhiệm của các cấp, các ngành; biên soạn, phát hành sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ theo dõi thi hành pháp luật để cấp phát cho các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh bảo đảm nâng cao chất lượng và thống nhất trong quá trình xây dựng, góp ý, kiểm soát thủ tục hành chính, thẩm định, theo dõi thi hành pháp luật, kiểm tra văn bản.

Việc xử lý vi phạm hành chính được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo thực hiện, cơ bản đi vào nề nếp; xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành bảo đảm tính công khai, minh bạch, khách quan, đúng thẩm quyền. Để triển khai thực hiện công tác quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính, ngày 20/3/2015, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 252/QĐ-UBND ngày 20/3/2015 ban hành Kế hoạch theo dõi thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính năm 2015 trên địa bàn tỉnh.

Việc triển khai các nhiệm vụ phổ biến giáo dục pháp luật ở tỉnh được thực hiện bài bản, theo kế hoạch thống nhất từ tỉnh đến cơ sở. Nội dung tuyên truyền, phổ biến pháp luật đã bám sát các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước trong phát triển kinh tế – xã hội, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chính trị của ngành, địa phương; gắn với các sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa quan trọng của đất nước và địa phương; tập trung vào những văn bản pháp luật mới, có phạm vi điều chỉnh rộng liên quan đến nhiều mặt của đời sống xã hội và các quyền, nghĩa vụ của người dân. Nhiều hình thức phổ biến pháp luật đã được sáng tạo, đổi mới phù hợp với địa phương, cơ sở và đối tượng được phổ biến. Nguồn nhân lực cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay đã kiện toàn được 100 báo cáo viên cấp tỉnh, 273 báo cáo viên cấp huyện và hơn 800 tuyên truyền viên pháp luật

Về năng lực của các thiết chế xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật, đi đôi với việc xây dựng thể chế về xây dựng pháp luật và theo dõi thi hành pháp luật trên địa bàn tỉnh, cơ cấu tổ chức, biên chế thực hiện nhiệm vụ xây dựng pháp luật và theo dõi thi hành pháp luật cũng được quan tâm kiện toàn. Năm 2005, đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật, công tác pháp chế ở tỉnh mới chỉ có 17 người, ở cấp huyện là 22 người, cấp xã là 145 người. Đến nay, con số này được nâng lên là 38 cán bộ pháp chế ở cấp tỉnh, 30 cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật ở cấp huyện và 187 cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật ở cấp xã, cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu của Nghị quyết số 48/NQ-TW và yêu cầu thực tiễn địa phương.

Về đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực làm công tác pháp luật, năm 2005, toàn tỉnh có 184 cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật và công tác pháp chế, trong đó có 40 người có trình độ cử nhân Luật, 78 người có trình độ trung cấp Luật và 66 người có trình độ chuyên ngành khác. Đến năm 2015, trình độ chuyên môn của đội ngũ làm công tác pháp luật đã được nâng lên một cách rõ rệt, với tổng số 255 cán bộ thì có 02 người có trình độ Thạc sỹ, 159 người có trình độ Cử nhân Luật, 37 người có trình độ Trung cấp Luật và 57 người có trình độ chuyên ngành khác.

Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên thì việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 48/NQ-TW ở địa phương còn gặp một số khó khăn hạn chế như:Một số sở, ngành, địa phương chưa thực sự quan tâm đúng mức đến việc chỉ đạo và triển khai thực hiện đầy đủ, toàn diện công tác xây dựng VBQPPL; công tác xây dựng và ban hành VBQPPL còn bị động, phải chờ và phụ thuộc vào việc hướng dẫn và giao nhiệm vụ của các cơ quan trung ương; kinh phí cho công tác xây dựng văn bản nói chung cũng như công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa nói riêng chưa được bố trí thường xuyên, chưa đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ phải triển khai thực hiện; đội ngũ làm công tác xây dựng pháp luật tuy được củng cố kiện toàn, có tăng về số lượng, cơ bản bảo đảm về chất lượng để thực hiện nhiệm vụ được giao, nhưng so với yêu cầu công việc hiện nay thì vẫn chưa đáp ứng yêu cầu công việc được giao, được phân cấp, vì ngoài thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, hiện nay đội ngũ này đảm nhận nhiều công việc mới, rất khó và nặng nề như: kiểm soát thủ tục hành chính, theo dõi thi hành pháp luật, xử lý vi phạm hành chính, bồi thường nhà nước…mặt khác đội ngũ công chức pháp chế ở các sở, ngành hầu hết là kiêm nhiệm, chậm được kiện toàn nên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến công tác xây dựng VBQPPL. Ngoài ra, đội ngũ công chức tư pháp – hộ tịch ở cơ sở không ổn định và thường xuyên thay đổi qua mỗi kỳ bầu cử, đại hội. Ngoài ra, hiện nay các thông tư liên tịch giữa Bộ Nội vụ và các Bộ, ngành ban hành để hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương không quy định về tổ chức pháp chế. Do vậy, không thể giữ lại Phòng Pháp chế theo Nghị định số 55/2011/NĐ-CP của Chính phủ…

Để khắc phục những tồn tại, hạn chế trong thời gian qua, đồng thời tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 48/NQ-TW trong thời gian tới, các cơ quan có thẩm quyền cần nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành một cách đồng bộ, thống nhất và kịp thời, tránh tình trạng luật đã có hiệu lực nhưng không tổ chức triển khai thực hiện được, vì còn phải chờ hướng dẫn của trung ương; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật, bảo đảm luật ban hành có hiệu lực được tổ chức triển khai đồng bộ; quy định trách nhiệm hành chính đối với cơ quan, người ban hành văn bản trái pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của tổ chức và người dân; tiếp tục rà soát, phân loại để kiến nghị, sửa đổi, bổ sung hoặc loại bỏ những thủ tục hành chính rờm rà, không còn phù hợp, làm cho hệ thống VBQPPL của địa phương đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và có tính khả thi cao. Nhiệm vụ nào đã phân cấp, phân quyền cho cơ quan cấp dưới thì phải ban hành văn bản để tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc;cần phải có biện pháp để đảm bảo số lượng biên chế của công chức làm công tác VBQPPL ở địa phương và sớm ban hành chính sách đãi ngộ, hỗ trợ để thu hút, tạo điều kiện cho những người trực tiếp làm công tác xây dựng VBQPPL; khẩn trương ban hành văn bản hướng dẫn để xác định vị trí pháp lý và sự tồn tại của Phòng Pháp chế ở các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh theo quy định tại Nghị định số 55/2011/NĐ-CP; tăng cường và thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, kỷ năng xây dựng VBQPPL chuyên ngành cho công chức làm công tác xây dựng pháp luật ở địa phương để góp phần phục vụ tốt công tác xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật ở địa phương như Nghị quyết số 48/NQ-TW của Bộ Chính trị đã đề ra.

Đoàn Thị Ngọc Hải

Sở Tư pháp tỉnh Ninh Bình

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Những thuận lợi, khó khăn và bài học kinh nghiệm khi chuyển đổi phòng công chứng số 2 tại Lâm Đồng

29/12/2015

Thực hiện quy định chuyển đổi phòng công chứng sang văn phòng công chứng theo Luật Công chứng năm 2014 và Nghị định số 29/2015/NĐ-CP ngày 15/3/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng (Nghị định số 29/2015/NĐ-CP), Sở Tư pháp tỉnh Lâm Đồng đã xây dựng trình Uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh phê duyệt Đề án chuyển đổi phòng công chứng số 2 tại thành phố Bảo Lộc. Đến ngày 09/11/2015 UBND tỉnh Lâm Đồng ban hành Quyết định số 2416/QĐ-UBND ngày 9/11/2015 cho phép chuyển đổi phòng công chứng số 2 thành văn phòng công chứng Lê Trung Kiên, với giá quyền nhận chuyển đổi là 1,8 tỷ đồng. Quyết định này có hiệu lực từ ngày 01/12/2015 và kể từ ngày này phòng công chứng số 2 chính thức chấm dứt hoạt động sau hơn 20 năm tồn tại. Đây là mô hình chuyển đổi thành công phòng công chứng sang văn phòng công chứng đầu tiên trên cả nước. Nó đánh dấu sự quyết tâm thực hiện chủ trương xã hội hóa công chứng theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, là kết quả của gần một năm nỗ lực chuẩn bị của Ngành Tư pháp tỉnh Lâm Đồng.

Quá trình chuyển đổi phòng công chứng số 2 thuận lợi là do luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Tư pháp, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Lâm Đồng; sự phối hợp hiệu quả, có trách nhiệm của các sở, ban, ngành liên quan; sự thống nhất, quyết tâm của Ban Giám đốc Sở Tư pháp trong chỉ đạo thực hiện và sự đồng thuận của đa số đảng viên, công chức, viên chức, người lao động. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi cũng gặp không ít khó khăn, vì đây là mô hình làm thí điểm và chưa có địa phương nào trên cả nước thực hiện, do đó Ngành Tư pháp Lâm Đồng phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm.

Khó khăn đầu tiên, là nhận thức của công chứng viên, viên chức, người lao động về chủ trương chuyển đổi còn nhiều tâm tư, ý kiến trái chiều, do sợ công việc bấp bênh sau chuyển đổi, sợ việc giải quyết chế độ không thỏa đáng… Thứ hai là, khó khăn về thể chế khi Nghị định số 29/2015/NĐ-CP còn có những vấn đề bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung cho rõ hơn như: Chưa quy định lộ trình tiến hành việc chuyển đổi; cách tính giá quyền nhận chuyển đổi còn khá chung chung, định tính và thiếu căn cứ tính toán giá; việc quy định buộc văn phòng công chứng được thành lập từ việc chuyển đổi phải ký hợp đồng lao động với công chứng viên, viên chức, người lao động của phòng công chứng được chuyển đổi còn thiếu tính khả thi vì không có chế tài áp dụng; việc quy định phải đấu giá đối với những phòng công chứng có giá quyền nhận chuyển đổi lớn nhưng không quy định mức bao nhiêu được coi là có giá trị lớn đã dẫn đến việc lúng túng khi áp dụng phương thức chuyển đổi. Thứ ba là, khó khăn trong việc lựa chọn đơn vị phòng công chứng chuyển đổi và phương thức chuyển đổi phù hợp, nhằm đảm bảo hài hòa giữa lợi ích nhà nước và công chứng viên, viên chức, người lao động. Thứ tư là, khó khăn trong việc giải quyết chế độ chính sách cho công chứng viên, viên chức, người lao động sau khi chuyển đổi, làm sao bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của họ, đảm bảo họ tiếp tục có việc làm, thu nhập ổn định. Thứ năm là, khó khăn trong việc xử lý tài sản Nhà nước phát sinh khi thực hiện chuyển đổi phòng công chứng.

Để giải quyết những vấn đề trên, từ đầu năm 2015 khi xây dựng Kế hoạch công tác năm, Ngành Tư pháp Lâm Đồng đã đưa nội dung chuyển đổi phòng công chứng thành văn phòng công chứng là một trong các nhiệm vụ công tác trọng tâm phải thực hiện trong năm 2015. Để triển khai nhiệm vụ này, ngay sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 29/2015/NĐ-CP, tại buổi làm việc của đồng chí Phó Bí thư Tỉnh ủy với Sở Tư pháp vào đầu tháng 4/2015, lãnh đạo Sở đã báo cáo Thường trực Tỉnh ủy xin chủ trương cho thực hiện thí điểm việc chuyển đổi phòng công chứng sang văn phòng công chứng. Sau khi Tỉnh ủy có văn bản đồng ý cho chủ trương thực hiện, Sở tiếp tục có văn bản xin ý kiến của UBND tỉnh để triển khai thực hiện và ngày 14/5/2015 UBND tỉnh ban hành Công văn số 2532/UBND-NC đồng ý cho Sở Tư pháp chuyển đổi phòng công chứng số 2 thành văn phòng công chứng. Triển khai chỉ đạo của UBND tỉnh, Sở Tư pháp thành lập tổ xây dựng Đề án chuyển đổi phòng công chứng số 2 gồm 10 thành viên do đồng chí Phó Giám đốc Sở phụ trách. Tổ xây dựng Đề án đã tổ chức nhiều buổi làm việc để trao đổi, nắm bắt tư tưởng và trả lời làm rõ những kiến nghị, đề xuất của công chứng viên, viên chức, người lao động phòng công chứng số 2, đặc biệt là những đề xuất, kiến nghị về phương án chuyển đổi, giá quyền nhận chuyển đổi và chế độ chính sách đối với công chứng viên, viên chức, người lao động khi thực hiện việc chuyển đổi. Tiếp theo tổ xây dựng Đề án thu thập thông tin, số liệu, phối hợp với Sở Tài chính, Sở Nội vụ, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, Hội công chứng tỉnh tổ chức nhiều cuộc họp liên ngành để thống nhất dự thảo Đề án chuyển đổi. Trên cơ sở góp ý của các sở, ngành tổ xây dựng Đề án tiếp tục hoàn thiện nội dung Đề án trình UBND tỉnh phê duyệt.

Việc UBND tỉnh phê duyệt Đề án chuyển đổi chỉ được coi là thành công bước đầu. Tiếp theo, phối hợp với Sở Tài chính để tính toán phương án xử lý tài sản Nhà nước, thanh quyết toán các nguồn thu – chi ngân sách tại phòng công chứng chuyển đổi; phối hợp với Sở Nội vụ, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội để tính toán chế độ, chính sách đối với công chứng viên, viên chức, người lao động; phối hợp với phòng công chứng để thống kê các loại tài sản, sổ sách, hồ sơ… Sau khi đã có sự chuẩn bị hoàn tất cho việc chuyển đổi, cuối cùng là trình UBND tỉnh ban hành quyết định cho phép chuyển đổi để triển khai thực hiện.

Đến nay, việc chuyển đổi đã cơ bản thực hiện xong, trong đó đã giải quyết thấu đáo các vấn đề đặt ra, nhất là những khó khăn đặt ra ban đầu. Công chứng viên, viên chức, người lao động đã đồng thuận cao với phương thức chuyển đổi là giao cho chính họ được nhận lại quyền chuyển đổi phòng công chứng nơi họ đang làm việc với giá trị nhận chuyển đổi phù hợp trên cơ sở tính toán hài hòa lợi ích giữa Nhà nước và của chính họ. Việc này đã tạo ra một sự đảm bảo rằng, họ sẽ tiếp tục được đồng hành cùng nhau làm việc trong một môi trường mới, trên một nền tảng thương hiệu, uy tín đã có do chính họ tạo dựng nên. Về chế độ chính sách đối với công chứng viên, viên chức, người lao động cũng đã được giải quyết thỏa đáng, đúng quy định của pháp luật và đảm bảo quyền lợi cho họ. Trưởng phòng công chứng do không đủ điều kiện nghỉ chế độ theo Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 của Chính phủ về chính sách tinh giản biên chế (Nghị định số 108/2014/NĐ-CP), theo nguyện vọng của đồng chí này, cơ quan đã giải quyết cho thôi việc theo quy định tại Nghị định số 46/2010/NĐ-CP ngày 27/4/2010 của Chính phủ quy định về thôi việc và thủ tục nghỉ hưu đối với công chức. Đối với công chứng viên và viên chức thì giải quyết chế độ nghỉ việc theo Nghị định số 108/2014/NĐ-CP do dôi dư sắp sếp tổ chức bộ máy. Đối với người lao động, thì chấm dứt hợp đồng lao động và giải quyết chế độ theo pháp luật về lao động. Đối với tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, thì áp dụng Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước năm 2008, Nghị định số 52/2009/NĐ-CP ngày 3/6/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước và hướng dẫn của Bộ Tài chính để tổ chức thanh lý đối với các tài sản hết hạn sử dụng; điều chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu; bán đối với các tài sản không còn nhu cầu sử dụng; riêng trụ sở của phòng công chứng đề xuất UBND tỉnh thu hồi và cho văn phòng công chứng nhận chuyển đổi thuê lại với giá ưu đãi trong thời hạn 10 năm.

Việc chuyển đổi thành công phòng công chứng số 2 trong tổng số 5 phòng công chứng trên địa bàn tỉnh đã chấm dứt sự bao cấp của ngân sách nhà nước cấp cho đơn vị này mỗi năm gần nửa tỷ đồng, tinh giản được 07 biên chế, đồng thời, đã thu về cho ngân sách nhà nước 1,8 tỷ đồng. Có thể khẳng định, tuy là mô hình thực hiện thí điểm nhưng quá trình thực hiện đã được triển khai hết sức chặt chẽ, khoa học và trách nhiệm dưới sự chỉ đạo sâu sát của Bộ Tư pháp, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Lâm Đồng, cùng với sự quyết tâm thực hiện của lãnh đạo Sở Tư pháp, sự chung sức phối hợp hiệu quả của các sở, ngành, địa phương trong tỉnh, sự đồng thuận cao của công chức, viên chức, người lao động. Đây chính là những bài học kinh nghiệm rút ra về sự thành công của mô hình thí điểm này của Ngành Tư pháp Lâm Đồng.

Vũ Ngọc Thành

Chánh Văn phòng Sở Tư pháp Lâm Đồng

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật tại Tuyên Quang

23/02/2016

Để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật”. Nhiệm vụ đầu tiên là phải ban hành pháp luật, tiếp đến là tổ chức thực hiện pháp luật, trong đó, nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) được xem là cầu nối giữa đưa các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với các tầng lớp nhân dân. Mục đích của nhiệm vụ tuyên truyền, PBGDPL là nhằm xây dựng ý thức pháp luật, làm cho nhân dân, cán bộ, công chức có lòng tin vào pháp luật, có thói quen, động cơ tích cực trong thực hiện pháp luật. Sinh thời, V.I.Lênin từng chỉ rõ: “Tuyên truyền là cần thiết và chúng ta không nên sợ phải lặp đi lặp lại… Và nếu chúng ta nghĩ rằng chúng ta đã quá chú ý nhiều đến việc tuyên truyền, thì cần nói rằng chúng ta còn phải làm việc đó nhiều hơn gấp trăm lần nữa”[1]. Điều đó có nghĩa là, hoạt động tuyên truyền, PBGDPL cần phải thực hiện thường xuyên, liên tục, thực hiện càng nhiều nội dung, phong phú về hình thức, không chỉ bằng lời nói mà bằng hình ảnh minh họa, thực hiện càng nhiều càng tốt, khi nào hoạt động tuyên truyền đến với đối tượng được tuyên truyền biến thành hành động trong thực tế thì hoạt động tuyên truyền, PBGDPL mới thực sự có hiệu quả. Ở Việt Nam,Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã đặc biệt coi trọng công tác giáo dục pháp luật, ngay từ Đại hội VI Đảng ta đã nhấn mạnh: “phải coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật. Đưa việc giáo dục pháp luật vào hệ thống các trường của Đảng, của Nhà nước (kể cả các trường phổ thông, đại học), của các đoàn thể nhân dân. Cán bộ quản lý các cấp từ trung ương đến đơn vị cơ sở phải có kiến thức về quản lý hành chính và hiểu biết pháp luật”[2].

1. Những kết quả đạt được

Nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của hoạt động tuyên truyền, PBGDPL, trong những năm qua, Đảng bộ các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang đã triển khai nhiều hoạt động thiết thực. Các hoạt động này một mặt làm cho pháp luật của Nhà nước đi vào đời sống xã hội, nâng cao nhận thức và hành động phù hợp với pháp luật của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, mặt khác làm cho xã hội của tỉnh Tuyên Quang đi vào ổn định và trật tự. Đây là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị trong tỉnh, trong đó, lực lượng chủ đạo, nòng cốt trong hoạt động này là Hội đồng phối hợp PBGDPL tỉnh.

Trong năm 2015, Hội đồng phối hợp PBGDPL tỉnh đã bám sát kế hoạch hoạt động, quan tâm tư vấn, tham mưu hoàn thiện thể chế về PBGDPL, hòa giải ở cơ sở; hướng dẫn các cơ quan, đơn vị xác định những nội dung pháp luật trọng tâm cần phổ biến, gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh của tỉnh; đã ký kết kế hoạch phối hợp với Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp tỉnh về thông tin, tuyên truyền, phổ biến về chủ trương, nhiệm vụ cải cách tư pháp và hoạt động tư pháp, giai đoạn 2015 – 2020. Các hoạt động của Hội đồng phối hợp PBGDPL đã bám sát chức năng, nhiệm vụ được quy định tại Quyết định số 27/2013/QĐ- TTg ngày 19/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ; công tác phối hợp ngày càng chặt chẽ, bài bản hơn, trách nhiệm của thành viên Hội đồng phối hợp PBGDPL được nâng lên, đặc biệt đã phát huy được vai trò điều hành, tổ chức hoạt động của người có thẩm quyền trong Hội đồng phối hợp PBGDPL.

Bên cạnh đó, Sở Tư pháp đã thực hiện tốt vai trò là cơ quan thường trực Hội đồng phối hợp PBGDPL tỉnh, kịp thời tham mưu giúp Hội đồng phối hợp PBGDPL, tư vấn cho Ủy ban nhân dân tỉnh các giải pháp để thực hiện có hiệu quả công tác tuyên truyền, PBGDPL. Một số nhiệm vụ đạt kết quả cao, như: Tổ chức thành công cuộc thi viết “Tìm hiểu Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013”; ban hành kế hoạch và tổ chức triển khai các luật được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 8, và kỳ họp thứ 9; tổ chức hưởng ứng “Ngày pháp luật Việt Nam” năm 2015; tuyên truyền về đại hội Đảng các cấp; Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị; tổ chức tuyên truyền pháp luật cho các đối tượng đặc thù… qua đó đã tạo thành đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn tỉnh, huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị và nhân dân trong tỉnh.

Ngoài ra, công tác củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ thực hiện hoạt động tuyên truyền, PBGDPL trên địa bàn tỉnh cũng đã được quan tâm; công tác tập huấn nghiệp vụ, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ thực hiện công tác PBGDPL đã được thực hiện; chất lượng công tác tuyên truyền, PBGDPL từng bước được nâng lên. Công tác phối hợp tốt giữa các cơ quan, đơn vị trong việc tổ chức thực hiện các hình thức PBGDPL được nâng cao một cách rõ rệt. Vì vậy, trong năm 2015 các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh đã tổ chức thành công hàng ngàn buổi tuyên truyền pháp luật, treo hàng trăm băng rôn, khẩu hiệu, phát sóng nhiều tin, phóng sự, tổ chức nhiều đợt cao điểm tuyên truyền về các chính sách mới được ban hành, cung cấp hàng ngàn bộ tài liệu tuyên truyền pháp luật… đến các tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh.

2. Những khó khăn, hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được, thực tế cho thấy công tác tuyên truyền, PBGDPL trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang vẫn còn gặp không ít khó khăn, hạn chế như: Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc, địa hình sông suối dày đặc, bị chia cắt bởi nhiều dãy núi cao, giao thông đi lại chưa thực sự thuận lợi; đời sống của nhân dân trên địa bàn tỉnh còn gặp nhiều khó khăn; với 22 dân tộc, chủ yếu là dân tộc ít người, sinh sống ở vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa…; tình hình vi phạm pháp luật vẫn xảy ra, những vụ vi phạm có tính chất đặc biệt nghiêm trọng có dấu hiệu gia tăng, đối tượng vi phạm là người dân tộc ít có điều kiện được tìm hiểu về pháp luật chiếm tỷ lệ lớn; việc xã hội hóa công tác truyên truyền, PBGDPL chưa thực hiện được nhiều; việc truyên truyền, PBGDPL bằng hình thức tuyên truyền miệng còn hạn chế, nhất là ở thôn, xóm, tổ dân phố; việc thực hiện kinh phí chi cho công tác hòa giải ở cơ sở còn chậm; việc chỉ đạo rà soát, sửa đổi, bổ sung quy ước còn chậm; kinh phí phục vụ cho công tác tuyên truyền, PBGDPL ở nhiều cơ quan, đơn vị còn hạn chế, chủ yếu sử dụng từ kinh phí chi thường xuyên

Một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do: Nguồn lực cho công tác tuyên truyền, PBGDPL còn khó khăn, hạn hẹp; đội ngũ cán bộ chuyên trách về công tác tuyên truyền, PBGDPL từ tỉnh đến cơ sở còn ít; đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật hoạt động không đồng đều, một số cán bộ có trình độ và kỹ năng tuyên truyền còn hạn chế, chưa thu hút được người nghe; theo Quy chế tổ chức và hoạt động của thôn, xóm, bản, tổ dân phố được ban hành kèm theo Quyết định số 17/2013/QĐ-UBND, ngày 20/8/2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang thì Hội nghị thôn, tổ dân phố được tổ chức mỗi năm 2 lần (khi cần thiết có thể họp bất thường), nên thời gian dành cho việc tuyên truyền, PBGDLP luật ít; việc tổ chức họp chuyên đề để tuyên truyền, PBGDPL khó khăn. Hệ thống truyền thanh cơ sở nhiều nơi đã hư hỏng, không đáp ứng được yêu cầu tuyên truyền, PBGDPL; công chức được giao nhiệm vụ chưa chủ động tham mưu hướng dẫn tổ hòa giải lập hồ sơ đề nghị thanh toán kinh phí chi thù lao hòa giải; hơn nữa, trình độ dân trí chưa cao, người dân của địa phương chủ yếu là người dân tộc, sống xa trung tâm thành phố, hiểu biết về văn hóa còn hạn chế, trong khi hoạt động tuyên truyền thường ngắn gọn, khái quát, cô đọng. Người dân có đến nghe tuyên truyền thì việc lĩnh hội kiến thức pháp luật cũng không được bao nhiêu. Muốn khai thác thêm thông tin về pháp luật thì điều kiện khai thác qua các trang mạng xã hội, trình độ, khả năng khai thác của bản thân cũng còn nhiều hạn chế.

3. Một số nhiệm vụ và giải pháp trong thời gian tới

Để nâng cao hiểu biết pháp luật của cán bộ và nhân dân trong tỉnh, hạn chế vi phạm pháp luật, hình thành thói quen sống làm việc theo Hiến pháp và pháp luật trong thời gian tới hoạt động tuyên truyền, PBGDPL cần thực hiện tốt những giải pháp sau:

Thứ nhất, kiện toàn đội ngũ báo cáo viên và tuyên truyền viên pháp luật. Các cấp, các ngành có thẩm quyền cần quan tâm hơn nữa đến công tác kiện toàn đội ngũ báo cáo viên và tuyên truyên truyền viên pháp luật, đảm bảo về số lượng và chất lượng, nhất là đội ngũ tuyên truyền viên. Phối hợp với các đơn vị có liên quan mở các lớp tập huấn bồi dưỡng và nâng cao kiến thức pháp luật cho chính đội ngũ này, trang bị thêm những kỹ năng cần thiết để khi tuyên truyền ở cơ sở họ có khả năng vận dụng kiến thức, phương pháp tuyên truyền vào nhóm đối tượng cụ thể cho phù hợp;

Thứ hai, tích cực, chủ động tuyên truyền đúng đối tượng theo quy định của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật. Ở cơ sở cũng nên nhóm thành từng nhóm đối tượng để tuyên truyền cho phù hợp. Ví dụ, với nội dung của Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Phòng, chống bạo lực trong gia đình, thì đối tượng được tuyên truyền ở đây phải gồm cả nam và nữ, nhất là những người thường xuyên có hành vi bạo lực. Không nên chỉ mời người đại diện hộ gia đình, mà nên khuyến khích tất cả các thành viên trong gia đình đến nghe (trừ những người già yếu, con trẻ đi học…). Thực tiễn tuyên truyền ở cơ sở gần như đối tượng đến nghe các luật này chỉ thấy toàn phụ nữ. Trong khi thiếu đi đàn ông và thanh niên – những đối tượng rất cần thiết để tiếp thu nội dung của hai văn bản luật trên;

Thứ ba, Hội đồng phối hợp PBGDPL tỉnh nên tập trung vào những nội dung cụ thể: Tư vấn tổ chức các hoạt động hường ứng “Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” năm 2016; triển khai các luật mới được Quốc hội khóa XIV thông qua tại các kỳ họp; tuyên truyền kết quả Đại hội Đảng các cấp, nhất là kết quả Đại hội, Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, tuyên truyền pháp luật về bầu cử, các luật có liên quan thiết thực đến cuộc sống, sinh hoạt của nhân dân, như: Bộ luật Dân sự năm 2015; Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Bộ luật Hình sự năm 2015; Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Tố tụng hành chính (sửa đổi), Luật Tạm giữ, tạm giam, Luật Trưng cầu ý dân, Luật Phí, lệ phí;

Thứ tư, đổi mới, kết hợp sử dụng nhiều hình thức tuyên truyền phù hợp. Điều quan trọng nhất là hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục phải phù hợp với đối tượng thì mới mang lại hiệu quả của hoạt động tuyên truyền. Ví dụ, ở vùng xa xôi, hẻo lánh thì khó có thể tổ chức thành hội thi, mà chủ yếu tuyên truyền thông qua họp thôn, tư vấn trực tiếp tại gia đình. Chú trọng những đối tượng hoặc gia đình có thành viên hay vi phạm pháp luật;

Thứ năm, tăng cường kiểm tra về hoạt động tuyên truyền, PBGDPL. Các cơ quan, đơn vị cần thường xuyên kiểm tra hoạt động tuyên truyền, PBGDPL tại các đơn vị trực thuộc mình quản lý, đảm bảo các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước thường xuyên được cập nhật đến cán bộ, công chức ở đơn vị mình. Hội đồng phối hợp, PBGDPL tỉnh cần tích cực kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở các đơn vị cấp dưới thực hiện tốt chức năng của mình. Yêu cầu bổ sung hoặc thay đổi hình thức tuyên truyền không phù hợp;

Thứ sáu, tăng thêm kinh phí cho hoạt động truyên truyền, PBGDPL. Các cấp, các ngành nghiên cứu bổ sung thêm kinh phí cho hoạt động tuyên truyền pháp luật, nhất là ở cơ sở. Vì để tuyên truyền pháp luật đến người dân hiệu quả thì ngoài việc giành thời gian nghiên cứu về các văn bản pháp luật, tuyên truyền viên còn phải nghiên cứu vận dụng hình thức tuyên truyền cho phù hợp với đối tượng, chưa kể địa hình phức tạp, chia cắt, giao thông đi lại chưa thuận tiện… việc thông báo để người dân đến nghe tuyên truyền cũng là một việc hết sức khó khăn. Việc bổ sung thêm kinh phí cho hoạt động này nói chung và tuyên truyền viên ở cơ sở nói riêng là một việc làm hết sức cần thiết;

Thứ bảy, các cấp Ủy đảng, chính quyền, mặt trận, các ngành chức năng ở địa phương tăng cường chỉ đạo, quan tâm, phối hợp với nhau thực hiện tốt hơn nữa việc tuyên truyền pháp luật cho cán bộ, công chức, người lao động trong cơ quan, đơn vị mình, đồng thời tư vấn, chia sẻ những hình thức tuyên truyền thiết thực, hiệu quả cho các đơn vị khác. Vận động cán bộ, đoàn viên, hội viên của tổ chức mình thực hiện tốt nghĩa vụ công dân nơi cư trú. Phối hợp các hoạt động tuyên truyền, PBGDPL với việc thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết, xây dụng đời sống văn hóa”, thực hiện “Quy chế dân chủ ở cơ sở” và “xây dựng xã hội học tập”. Tổ chức sơ kết, tổng kết và kiểm tra tổ chức thực hiện tất cả các hoạt động nói trên.

ThS. Nguyễn Thị Mai

Trường Chính trị tỉnh Tuyên Quang



[1]V.I.Lênin (1977), Về pháp chế xã hội chủ nghĩa,Nxb. Sự thật, Hà Nội.

[2]Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.121,.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Giải pháp để tránh rủi ro khi việc kết hôn với người nước ngoài gia tăng

22/10/2015

Trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội của đất nước và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam có bước phát triển đáng kể. Theo số liệu thống kê, từ năm 2011 đến cuối năm 2014, cả nước có 50.452 công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài hoặc kết hôn với công dân Việt Nam định cư tại nước ngoài, thì khu vực phía Nam có 38.483 người (chiếm 76%). Hàng năm, trên địa bàn khu vực có trên 9.000 trường hợp đăng ký kết hôn tại Sở Tư pháp và bình quân 3.000 trường hợp ghi chú kết hôn/năm, trong đó, chủ yếu là nữ công dân Việt Nam tham gia trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài (chiếm khoảng 95%)[1].

1. Một số lý do dẫn tới việc kết hôn với người nước ngoài gia tăng

Có một thực tế không thể phủ nhận là có nhiều trường hợp việc kết hôn với người nước ngoài xuất phát từ tình yêu thực sự. Kết hôn vì tình yêu chân chính tạo ra nhiều điểm tích cực, nó tạo ra sự đan xen, sự tiếp cận đa dạng văn hoá, tạo điều kiện để giao lưu học hỏi, tuy nhiên, cũng còn nhiều trường hợp việc kết hôn không xuất phát từ tình yêu thực sự, mà xuất phát từ:

– Hoàn cảnh gia đình khó khăn, nghèo túng, trình độ học vấn thấp, xuất thân từ những khu vực có điều kiện kinh tế – xã hội thấp, điều kiện địa lý không thuận lợi. Khi họ thấy bạn bè, người thân kết hôn với người nước ngoài hoặc những người Việt Nam định cư ở nước ngoài về nước ăn mặc sang trọng, hào phóng, đã tác động đến một bộ phận phụ nữ nông thôn bị ảnh hưởng chạy theo xu hướng lấy chồng ngoại, họ đã dễ dàng chấp nhận mai mối để kết hôn với người ngoại quốc hoặc là kết hôn để được bảo lãnh ra nước ngoài, kết hôn để được nhập quốc tịch nước ngoài, kết hôn để được bằng chị, bằng em. Đây là một nhận thức kết hôn lệch lạc dễ dẫn đến hôn nhân đổ vỡ, không hạnh phúc.

– Nhiều trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài vì mục đích kinh tế, thể hiện rõ nhất là các trường hợp kết hôn với người Đài Loan, Hàn Quốc. Thực tế có một bộ phận sau khi kết hôn đã gửi tiền về giúp gia đình “đổi đời”, có nhà cửa khang trang, có kinh tế khấm khá hơn, thu nhập cao hơn; một số không ít phụ nữ có cơ hội về việc làm, thu nhập… Tuy nhiên, hình thái kết hôn này cũng để lại không ít hệ quả tiêu cực.

– Hoạt động môi giới hôn nhân ở nước ngoài phát triển mạnh. Trên thực tế, các công ty môi giới nước ngoài là công ty có giấy phép hoạt động môi giới hợp pháp hoặc ẩn nấp dưới dạng của những văn phòng tư vấn pháp luật cho người di trú kết hôn hay tư vấn du lịch. Bản thân các cá nhân môi giới tích cực, chủ động trong việc tiếp cận và thuyết phục đối tượng là những cô gái mới lớn, sống ở nông thôn có hoàn cảnh kinh tế khó khăn hoặc chưa có công việc ổn định. Hoạt động môi giới đã khiến họ không từ thủ đoạn nào, để làm cầu nối cho nhu cầu kết hôn của cô dâu Việt Nam với chú rể nước ngoài bất chấp mọi hậu quả. Còn ở Việt Nam, hoạt động môi giới hôn nhân hiện đang ẩn dưới các hình thức giới thiệu từ người thân, người quen và vì thế việc kiểm soát hoạt động này không dễ dàng.

– Pháp luật về hôn nhân và gia đình một số nước quy định việc kết hôn đơn giản: ở Hàn Quốc, khi hai công dân Hàn Quốc đăng ký kết hôn, chỉ cần làm giấy đăng ký sau đó đến đăng ký tại cơ quan hộ tịch là được công nhận mà không cần phải nộp thêm bất cứ một loại giấy tờ nào khác. Trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài thì người nước ngoài có trách nhiệm phải tự chứng minh về tình trạng hôn nhân của mình[2]. Quy định về công nhận và ghi chú việc kết hôn đã tiến hành ở nước ngoài khá đơn giản, đương sự chỉ cần xuất trình giấy tờ hộ tịch đã đăng ký hợp lệ tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thì được công nhận và ghi chú vào sổ hộ tịch[3].

2. Những vấn đề pháp lý đặt ra

Kết hôn với người nước ngoài là quyền nhân thân của mỗi người, trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ theo Luật Hôn nhân và gia đình. Luật pháp Việt Nam không có bất cứ quy định nào ngăn cản việc kết hôn của công dân Việt Nam với người nước ngoài, nhưng những năm gần đây việc phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài diễn ra rất phức tạp và đặt ra nhiều thách thức:

– Về quốc tịch: Hiện nay, có một số cô dâu Việt Nam rơi vào tình trạng không quốc tịch, do họ đã được thôi quốc tịch Việt Nam nhưng chưa được nhập quốc tịch nước ngoài. Bên cạnh đó, trên thực tế cũng phát sinh khó khăn liên quan đến vấn đề quốc tịch đối với trẻ em được sinh ra bởi hai dòng máu. Đây là số trẻ em đã có quốc tịch nước ngoài hoặc chưa xác định quốc tịch, nhưng theo mẹ hoặc được người mẹ gửi cho ông bà ngoại nuôi tại Việt Nam. Do vấn đề quốc tịch nên việc giải quyết khai sinh, đăng ký hộ khẩu cũng như việc thực hiện các chính sách giáo dục, y tế… đối với các trẻ em này gặp khó khăn, vướng mắc hiện chưa có hướng giải quyết một cách thống nhất, đồng bộ[4].

– Về ly hôn: Vướng mắc lớn nhất về pháp lý “bịt lối” làm lại cuộc đời của các cô dâu Việt Nam là nhiều người trốn về và không lấy được bản án ly hôn tại nước ngoài nên không thể kết hôn tại Việt Nam. Hoặc là trường hợp các cô dâu tự ý bỏ về và người chồng cũng chưa đưa đơn ly hôn ra tòa tại nước ngoài. Ví dụ tại Hàn Quốc, Tòa án Hàn Quốc chỉ lưu bản án ly hôn trong vòng hai năm sau khi có phán quyết của Tòa án (đối với những trường hợp thuận tình ly hôn). Sau thời gian này, bản án ly hôn sẽ bị hủy và không thể lấy bản án mà chỉ được cấp một giấy chứng nhận hôn nhân gia đình, trong đó có ghi rõ thời gian kết hôn, ly hôn, nhưng pháp luật Việt Nam lại không công nhận giấy chứng nhận hôn nhân gia đình này. Do đó, với những phụ nữ Việt Nam đã ly hôn người chồng Hàn Quốc quá hai năm mà không lấy được bản án ly hôn sẽ gặp rắc rối khi muốn kết hôn ở Việt Nam[5].

Trường hợp ghi chú kết hôn: Khi Sở Tư pháp công nhận việc kết hôn của công dân Việt Nam đã tiến hành ở nước ngoài, tức là họ được xem là vợ chồng tại Việt Nam, được hưởng các quyền theo Luật Hôn nhân và gia đình tại Việt Nam… Trường hợp, họ bị từ chối ghi chú kết hôn khi không đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam, có nghĩa ở nước ngoài họ là vợ chồng, còn ở Việt Nam thì họ không được xem là vợ chồng. Nếu phát sinh bất kỳ tranh chấp nào tại Việt Nam, thì đó được xem là tranh chấp dân sự thông thường. Một điều đáng quan tâm nữa là, vì hôn nhân của họ chưa được công nhận tại Việt Nam, nên theo nguyên tắc họ vẫn là người độc thân theo pháp luật Việt Nam và do đó họ hoàn toàn có quyền kết hôn với một người khác. Có thể nhận ra mâu thuẫn ở đây là: Việc không công nhận quan hệ hôn nhân tại Việt Nam là việc của Việt Nam, còn giá trị pháp lý trong quan hệ hôn nhân của họ ở nước ngoài không thay đổi.

– Về pháp lý: Xung đột pháp luật về giải quyết ly hôn giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài; vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hôn nhân trong điều kiện Việt Nam và nước ngoài chưa có thỏa thuận tương trợ tư pháp; vấn đề quốc tịch của các cô dâu sau khi kết hôn; vấn đề khai sinh và quốc tịch của trẻ em được sinh ra bởi hai dòng máu. Đây là những nội dung pháp lý đang đặt ra từ thực tiễn các quan hệ hôn nhân với người nước ngoài.

– Vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ khi bị xâm hại: Do không có sự chuẩn bị các điều kiện cơ bản cho cuộc sống sau hôn nhân, nên nhiều phụ nữ khó có khả năng hòa nhập. Rào cản ngôn ngữ đã trở thành trở ngại lớn cho cuộc sống của phụ nữ Việt Nam tại nước ngoài, sự lệ thuộc kinh tế đem đến không ít bi kịch cho họ, nhất là những trường hợp lấy chồng vì mục đích thương mại. Không hiếm các hiện tượng bạo hành người vợ cả về thể xác lẫn tinh thần đã xảy ra và cái giá phải trả là đổ vỡ hôn nhân, thậm chí bị giết hại của phụ nữ Việt Nam ở nước ngoài.

– Về buôn bán phụ nữ: Hiện nay tình hình buôn bán phụ nữ trên địa bàn cả nước nói chung, đặc biệt là buôn bán phụ nữ ra nước ngoài diễn ra dưới nhiều hình thức như xuất cảnh trái phép, kết hôn giả, lừa đưa ra nước ngoài lao động, du lịch sau đó ép làm nghề mại dâm. Thực tế, có không ít trường hợp thương tâm là các cô gái sau khi kết hôn đã bị bán làm gái mại dâm trong các nhà chứa mà báo chí đã có nêu xảy ra tại Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc hay bị lừa gạt lấy phải người chồng tâm thần, tàn tật…

– Về xã hội: Nhiều năm nay, hàng trăm bài báo đã điều tra các đường dây tuyển các cô gái đem về thành phố Hồ Chí Minh, để những người đàn ông lớn tuổi, tật nguyền từ Đài Loan, Hàn Quốc đến tuyển lựa. Nhiều bài báo cũng phản ảnh, mô tả cảnh cô dâu Việt Nam ở Đài Loan, Hàn Quốc bị ngược đãi, làm vợ tập thể… phải trốn về nước.

Hoặc nhiều trường hợp sau khi đăng ký kết hôn xong, người vợ không xin được Visa nhập cảnh theo chồng là người nước ngoài. Thực tế đó khiến một số trường hợp phải ly hôn do chờ đợi quá lâu mà chồng một nơi, vợ một nơi.

Tất cả những vấn đề trên đã để lại hậu quả mà xã hội phải gánh chịu không chỉ là trước mắt mà về lâu dài, ảnh hưởng đến nhiều mặt: Xã hội, pháp luật quốc gia và quốc tế. Đặc biệt những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, nét đẹp vốn có từ lâu đời của phụ nữ Việt Nam bị xâm phạm.

3. Những giải pháp tránh rủi ro khi phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài

Kết hôn với người nước ngoài là hiện tượng bình thường xảy ra ở tất cả các quốc gia nói chung, Việt Nam nói riêng, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Chính vì vậy, những giải pháp cần thực hiện không nhằm mục đích hạn chế, ngăn cản quan hệ kết hôn với người nước ngoài mà nhằm tránh những rủi ro, không đáng có đối với phụ nữ Việt Nam tham gia quan hệ hôn nhân. Theo đó, trước mắt cần tập trung vào các giải pháp cơ bản sau:

– Chú trọng công tác giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức đối với phụ nữ là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Đặc biệt, phải quan tâm đến việc phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm, bảo đảm cuộc sống cho những phụ nữ còn khó khăn, những phụ nữ vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số và những người bị buôn bán hoặc do hôn nhân bất hạnh trở về quê hương làm ăn sinh sống. Việc tuyên truyền, giáo dục, nhân rộng các điển hình biết vượt lên số phận, hay tổ chức những cuộc tọa đàm, trao đổi trực tiếp với những người đã từng là nạn nhân của buôn bán, bất hạnh để cảnh báo họ.

– Định kỳ tập huấn cho cán bộ làm công tác hộ tịch tại các Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, cán bộ tư vấn tại các Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nhằm nâng cao sự hiểu biết về văn hoá, pháp luật của các nước trên thế giới giúp cho việc đánh giá, nhận xét về sự hiểu biết của các bên được đầy đủ và toàn diện hơn, bảo đảm việc thực hiện thống nhất.

– Tăng cường hơn nữa việc hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra các địa phương trong việc thụ lý, giải quyết hồ sơ đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; kịp thời chấn chỉnh những sai lệch trong công tác này.

– Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về kết hôn có yếu tố nước ngoài, theo đó cần sửa đổi, bổ sung quy định giải quyết xung đột pháp luật về hình thức kết hôn có yếu tố nước ngoài; bổ sung các quy định bảo đảm ngăn chặn hiệu quả các tiêu cực trong việc kết hôn với người nước ngoài; tiếp tục thực hiện việc ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp với các nước có đông người Việt Nam cư trú, sinh sống.

Hoàng Huy Trường

Tài liệu tham khảo:

[1]. Tọa đàm về kết hôn có yếu tố nước ngoài tại khu vực phía Nam, nguồn: http://moj.gov.vn/cuccongtacphianam/Pages/tin-hoat-dong.aspx?ItemID=6496.

[2]. Bộ Tư pháp. Báo cáo tổng hợp khảo sát kinh nghiệm của một số nước về công tác đăng ký hộ tịch.

[3]. Điều 36, 37, 38 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hôn nhân và gia đình.

[4]. Xem: Nan giải việc làm giấy khai sinh cho trẻ có yếu tố nước ngoài, nguồn: http://vtv.vn/xa-hoi/hau-giang-nan-giai-viec-lam-giay-khai-sinh-cho-tre-co-yeu-to-nuoc-ngoai-20140903224838224.htm.

[5]. Xem: Trợ giúp cô dâu Việt làm lại cuộc đời, nguồn: http://tuoitre.vn/tin/ban-doc/20140904/%E2%80%8Btro-giup-co-dau-viet-lam-lai-cuoc-doi/641098.html.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Vướng mắc khi áp dụng quy định về tập sự hành nghề công chứng

22/10/2015

Luật Công chứng số 53/2014/QH13 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015 đã dành riêng những điều, khoản để quy định về tiêu chuẩn công chứng viên và việc tập sự hành nghề công chứng viên. Việc hoàn thành thủ tục tập sự hành nghề công chứng viên là điều kiện bắt buộc để được đề nghị bổ nhiệm công chứng viên. Đồng thời, ngày 15/4/2015, Bộ Tư pháp cũng đã ban hành Thông tư số 04/2015/TT-BTP hướng dẫn tập sự hành nghề công chứng (Thông tư số 04/2015/TT-BTP). Tuy nhiên, các văn bản trên đều chưa có những quy định thật cụ thể và đã phát sinh những bất cập trong việc thực hiện tập sự hành nghề công chứng đối với một số trường hợp nhất định trên thực tế, từ đó rất khó khăn cho các cơ quan, đơn vị, địa phương trong quá trình áp dụng.

Thứ nhất, đối với những trường hợp công chức đang công tác tại các cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (không phải công tác tại Sở Tư pháp), đã được quy hoạch và được cấp có thẩm quyền có định hướng bố trí giữ chức vụ trưởng phòng tại các phòng công chứng. Đây là công việc bình thường và đương nhiên trong công tác cán bộ tại địa phương. Tuy nhiên, theo quy định hiện hành tại khoản 2 Điều 19 Luật Công chứng năm 2014 thì trưởng phòng công chứng phải là công chứng viên. Cùng với đó, để được bổ nhiệm công chứng viên thì phải bảo đảm các tiêu chuẩn, trong đó có điều kiện “phải hoàn thành tập sự hành nghề công chứng viên theo thời gian quy định là 12 tháng đối với người có giấy chứng nhận tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng”. Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là việc tập sự hành nghề công chứng được thực hiện như thế nào (trong trường hợp đã qua lớp đào tạo nghề công chứng theo quy định). Bởi lẽ, những trường hợp này đang công tác tại các cơ quan khác, không thể bố trí thời gian để đến các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện việc tập sự trong thời gian dài như vậy. Mặt khác, theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Thông tư số 04/2015/TT-BTP thì: “Người thuộc một trong các trường hợp sau đây thì không được đăng ký tập sự: …Người đang là cán bộ, công chức, viên chức (trừ viên chức làm việc tại phòng công chứng)…”. Đây là vấn đề vướng mắc đang nảy sinh trong thực tế. Thiết nghĩ, Bộ Tư pháp cần phối hợp với các bộ, ngành có liên quan sớm có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Nên chăng, quy định rút ngắn thời gian tập sự đối với những trường hợp này, đồng thời cho phép vận dụng thời gian tập sự, nghiên cứu công việc vào thời điểm ngoài giờ hành chính và các ngày nghỉ (vì các tổ chức hành nghề công chứng làm việc cả các ngày thứ bảy, chủ nhật). Hoặc cũng có thể quy định thời gian những trường hợp này công tác, làm việc tại các cơ quan hành chính nhà nước được xem như là thời gian tập sự hành nghề công chứng. Không nên quy định “cứng” đối với điều kiện “trưởng phòng công chứng phải là công chứng viên” bởi lẽ, trên thực tế thì đã có những trường hợp giữ chức vụ phó trưởng phòng phụ trách phòng công chứng không phải là công chứng viên, trong khi đó thì giữa hai chức danh trưởng phòng công chứng và phó trưởng phòng phụ trách phòng công chứng về thực tế thì không khác gì nhau, họ đều quản lý, điều hành phòng công chứng và đều hưởng quyền lợi, chịu trách nhiệm như nhau trong việc điều hành đơn vị phòng công chứng. Có như vậy, thì mới bảo đảm việc thực hiện tập sự hành nghề công chứng đối với các trường hợp này và cũng đồng thời đảm bảo cho các địa phương, đơn vị vận dụng trong công tác cán bộ liên quan đến việc luân chuyển, chuyển đổi vị trí công tác.

Thứ hai, đối với những trường hợp công chức, viên chức đang công tác tại các đơn vị chuyên môn, nghiệp vụ, đơn vị sự nghiệp khác thuộc Sở Tư pháp đã được quy hoạch, dự kiến bố trí làm công chứng viên tại các phòng công chứng. Cũng tương tự như các trường hợp trên, việc tập sự của các trường hợp này là rất khó khăn, vì lý do biên chế, lý do công việc và các quy định của pháp luật hiện hành. Theo quy định thì những trường hợp này nếu muốn đủ điều kiện để được bổ nhiệm công chứng viên thì cũng phải thực hiện việc tập sự hành nghề công chứng tại các tổ chức hành nghề công chứng. Tuy nhiên, hiện tại họ đang làm việc tại các đơn vị chuyên môn, sự nghiệp thuộc Sở Tư pháp (không phải tại các phòng công chứng) thì việc tập sự được thực hiện như thế nào. Rất cần được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Thực tế, tại một số địa phương đang cần tạo nguồn từ công chức, viên chức thuộc Sở Tư pháp để đề nghị bổ nhiệm công chứng viên nhưng gặp phải vướng mắc quy định hiện hành về tập sự hành nghề công chứng. Theo như quy định tại khoản 2 Điều 2 Thông tư số 04/2015/TT-BTP thì các trường hợp là công chức, viên chức (không đang công tác tại phòng công chứng) thuộc các Sở Tư pháp không thể nào thực hiện được việc tập sự hành nghề công chứng để bảo đảm đủ điều kiện được bổ nhiệm công chứng viên. Hiện tại, một số Sở Tư pháp dự kiến “vận dụng” việc tập sự hành nghề công chứng đối với các trường hợp này bằng việc ban hành quyết định biệt phái đến công tác tại các phòng công chứng đối với những trường hợp này. Tuy nhiên, việc làm này chỉ được thực hiện thuận lợi đối với những Sở Tư pháp được phân bổ số lượng biên chế công chức hợp lý; còn đối với những Sở Tư pháp có số lượng biên chế công chức ít thì rất khó khăn và có thể nói là không thể thực hiện việc này. Mặt khác, có Sở Tư pháp cũng dự kiến vận dụng bằng việc ban hành quyết định điều động những trường hợp này đến công tác tại các phòng công chứng. Tuy nhiên, vướng mắc về việc quy định, phân định rõ ràng giữa viên chức và công chức theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Luật Viên chức năm 2010. Theo quy định thì người lao động làm việc tại các phòng công chứng là viên chức (trừ chức danh trưởng phòng), trong khi đó những trường hợp công tác tại các phòng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Sở Tư pháp là công chức. Như vậy, việc điều động đối với những trường hợp từ công chức thành viên chức là phải theo quy trình và quy định của pháp luật có liên quan, không dễ dàng thực hiện và phải xin ý kiến quyết định của cấp có thẩm quyền (cụ thể là Sở Nội vụ). Mặt khác, trong trường hợp chỉ tiêu biên chế được giao cho các phòng công chứng đã được sử dụng hết thì “phương án” này cũng không thể thực hiện được. Nên chăng, Bộ Tư pháp sớm có quy định cụ thể về những trường hợp này được miễn thời gian tập sự hành nghề công chứng, bởi lẽ họ đang công tác tại các phòng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Sở Tư pháp, quản lý nhà nước về lĩnh vực công chứng hoặc cũng có thể quy định cụ thể việc tập sự hành nghề công chứng ngoài thời gian hành chính hoặc các ngày nghỉ tại các tổ chức hành nghề công chứng đối với những trường hợp này. Như vậy, sẽ thuận lợi hơn cho các địa phương trong việc phát triển nguồn công chứng viên và tạo điều kiện cho các Sở Tư pháp thuận tiện trong công tác tổ chức cán bộ có liên quan.

Những vướng mắc này rất cần được cấp có thẩm quyền, mà cụ thể là Bộ Tư pháp hướng dẫn cụ thể, rõ ràng để các đơn vị, địa phương, cá nhân có liên quan triển khai thực hiện, bảo đảm đúng quy định của pháp luật và tình hình thực tế.

Nguyễn Xuân Viễn

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com