Nâng cao chất lượng tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự – Nhìn từ góc độ cải cách tư pháp

09/12/2015

Hoạt động tư pháp được Đảng và Nhà nước ta chú trọng ngay trong những năm đầu mới giành được chính quyền. Cụ thể, ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 85 về cải cách bộ máy tư pháp, xây dựng nên những nguyên tắc tiến bộ đầu tiên cho nền tư pháp nước nhà. Phát huy tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và xuất phát từ quan điểm của Đảng ta về chiến lược cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, ngày 02/1/2002, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, hiện đại, bảo vệ công lý.

Trên tinh thần Nghị quyết của Bộ Chính trị, thời gian qua, Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng liên quan đến lĩnh vực tư pháp, trong đó có quy định vấn đề tranh tụng trong hoạt động xét xử, đây được coi là những yêu cầu bức thiết, là nền tảng cho hoạt động tư pháp ở nước ta. Hiến pháp năm 2013 được ban hành cũng đã quy định rõ về vấn đề bảo vệ quyền con người, quyền công dân và có thể xem đây là một trong những nguyên tắc cơ bản cho quá trình thực hiện cải cách tư pháp. Điều 14 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, đã có một số luật, bộ luật, pháp lệnh mới được ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các quy định của Hiến pháp nói chung và với nguyên tắc tranh tụng nói riêng nhằm bảo vệ quyền con người, quyền của công dân. Điều 13 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử…”. Từ những quy định của Hiến pháp và pháp luật cho thấy, vấn đề tranh tụng nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân đã được hết sức coi trọng. Để hoạt động tranh tụng được đảm bảo thì trong hoạt động xét xử, Tòa án sẽ căn cứ vào kết quả tranh tụng để xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các chứng cứ, do các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cung cấp, của quá trình điều tra cũng như thông qua hoạt động tranh tụng tại phiên tòa của kiểm sát viên và luật sư tại phiên tòa, tài liệu do cơ quan điều tra, viện kiểm sát, người bào chữa hoặc bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác cung cấp, đó là cơ sở giúp Tòa án xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các chứng cứ và ra pháp quyết về vụ án.

Điều 2 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 cũng quy định: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Có thể nói, pháp luật tố tụng hình sự nước ta đã quy định rất rõ về quyền và nghĩa vụ của Viện kiểm sát, kiểm sát viên trong quá trình giải quyết vụ án, từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử đều có sự tham gia của Viện kiểm sát với hàng loạt quyền và nghĩa vụ đã được quy định rất cụ thể. Viện kiểm sát là người bảo vệ nội dung truy tố của Viện kiểm sát, cho nên ở giai đoạn xét xử, khả năng tranh tụng của kiểm sát viên đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa hình sự. Hiện nay, vấn đề tranh tụng trong phiên tòa hình sự là yêu cầu cấp bách trong việc đảm bảo tính công bằng dân chủ giữa người tham gia tố tụng với Viện kiểm sát, đảm bảo yêu cầu tranh tụng là căn cứ để xác định sự thật vụ án và là cơ sở để Hội đồng xét xử ra bản án đúng đắn, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Theo Từ điển tiếng Việt, tranh tụng có nghĩa là việc kiện cáo lẫn nhau. Còn theo nghĩa Hán Việt, thuật ngữ tranh tụng được ghép từ hai từ “tranh luận” và “tố tụng”. Tranh tụng là tranh luận trong tố tụng. Trong tố tụng hình sự bao giờ cũng có sự tham của bên bảo vệ quyền và lợi ích của chủ thể bị xâm phạm và bên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, yêu cầu Tòa án phân xử nội dung đúng, sai. Pháp luật tố tụng hình sự quy định cho kiểm sát viên có quyền đưa ra chứng cứ buộc tội và người bào chữa đưa ra chứng cứ gỡ tội tranh luận với kiểm sát viên để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo tại phiên tòa. Vậy có thể hiểu rằng, tranh tụng bao giờ cũng gắn liền với hoạt động tài phán của Tòa án. Đảm bảo tốt hoạt động tranh tụng và thông qua hoạt động tranh tụng của luật sư và kiểm sát viên tại phiên tòa, sẽ tạo cơ sở cho Tòa án (Hội đồng xét xử) đánh giá kết quả của những hoạt động tố tụng trước đó, đồng thời giúp cho việc xét xử được chính xác. Hoạt động tranh tụng tại phiên tòa còn có ý nghĩa bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo và của những người tham gia tố tụng khác, đảm bảo việc truy tố, xét xử là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Mặc dù hoạt động tranh tụng trong thời gian qua không ngừng được hoàn thiện, bước đầu đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp ở nước ta, nhưng thực tiễn cho thấy vẫn còn một số hạn chế, bất cập làm ảnh hưởng đến quá trình tranh tụng tại phiên tòa, dẫn đến chất lượng áp dụng pháp luật còn hạn chế, thể hiện ở một số tồn tại như:

Thứ nhất, một số vụ án hình sự, kiểm sát viên tham gia hỏi cung bị cáo ngay từ khi bắt, tạm giữ, tạm giam và bị can nhận tội, nhưng tại phiên tòa bị cáo lại chối tội và khai trước tòa là bị cáo bị ép cung, nhục hình dẫn đến luật sư yêu cầu Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung nhiều lần.

Thứ hai, đối với những vụ án, bị can bị khởi tố về tội giết người theo Điều 93 của Bộ luật Hình sự chưa xác định được khoản 1 hay khoản 2, nếu khởi tố bị can theo khoản 2 thì không bắt buộc phải có luật sư bào chữa chỉ định cho bị can (Điều 57 của BLTTHS) nhưng trong quá trình điều tra lại xác định hành vi của bị can phạm tội ở khoản 1 Điều 93 và tài liệu điều tra không thể hiện có sự tham gia của luật sư là không khách quan và không có giá trị chứng minh. Ở đây có thể hiểu rằng, quy định của luật là bắt buộc phải có người bào chữa trong mọi trường hợp khi bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình.

Thứ ba, khi tranh tụng với luật sư, một số kiểm sát viên thực hiện kỹ năng tranh tụng chưa thuyết phục, còn né tránh, có tâm lý e ngại tranh luận. Trong một số phiên tòa, khi luật sư đưa ra ý kiến phản bác những chứng cứ buộc tội của kiểm sát viên và kiểm sát viên không thể đưa ra lời lẽ đối đáp, cuối cùng chỉ nói rằng, Viện kiểm sát “giữ nguyên quan điểm như bản cáo trạng” mà không giải thích.

Thứ tư, trong quá trình tranh luận, một số kiểm sát viên và luật sư còn thiếu bình tĩnh trước những tình huống diễn ra tại phiên tòa, nóng nảy khi phát ngôn dẫn đến sử dụng các ngôn từ pháp lý thiếu chuẩn xác, viện dẫn pháp luật còn chung chung, hiệu quả tranh tụng không cao, thiếu tính thuyết phục đối với Hội đồng xét xử và những người dự xử tại phiên tòa.

Từ thực trạng trên, để nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, thiết nghĩ, cần phải thực hiện một số giải pháp cần thiết như:

Một là, cần quy định và hướng dẫn thi hành nguyên tắc tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, cần quy định quyền im lặng của người bị bắt, bị tạm giữ, họ chỉ trình bày lời khai khi có sự hiện diện của luật sư hoặc của người bào chữa khác. Nhà nước cần cụ thể hóa hơn nữa các văn bản của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự để thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật, cụ thể như: Cần quy định về việc ghi âm, ghi hình khi lấy lời khai người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can trong những trường hợp rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; giải thích cụ thể thế nào là thành khẩn khai báo, thế nào là ăn năn hối cải, vấn đề khắc phục hậu quả, phạm tội ít nghiêm trọng để cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật được thống nhất.

Hai là,Viện kiểm sát nhân dân các cấp cần tạo điều kiện tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ cho kiểm sát viênkhi tham gia phiên tòa như: Kỹ năng tranh tụng với người bào chữa, kỹ năng khi trình bày bản luận tội, cách diễn đạt, đối đáp. Bất kỳ một phiên tòa diễn ra dù phức tạp hay đơn giản, thì Viện kiểm sát cần phải rút kinh nghiệm về công tác xét xử đối với mỗi vụ án để đánh giá những mặt tích cực, hạn chế để có hướng giải quyết kịp thời cho những vụ án diễn ra sau này. Mỗi vụ án cần phân công từ hai kiểm sát viên trở lên để nghiên cứu hồ sơ nhằm tránh tình trạng vì những lý do khách quan, kiểm sát viên được phân công nghiên cứu hồ sơ vụ án không tham gia xét xử được phải chuyển vụ án đó cho kiểm sát viên khác, nhưng thời hạn xét xử đã đến mà vẫn chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án dẫn đến thiếu tự tin, lúng túng khi tranh tụng.

Về phần mình, các kiểm sát viên cần nhận thức đầy đủ hoạt động thực hành quyền công tố đã được pháp luật quy định, trách nhiệm trong việc chứng minh tội phạm, việc chứng minh tội phạm phải dựa trên nguyên tắc đảm bảo dân chủ, khách quan, đảm bảo quyền con người đã được nghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, kiểm sát viên phải biết tổng hợp chứng cứ, sắp xếp chứng cứ theo diễn biến khách quan của hành vi phạm tội, tránh trường hợp chứng cứ mâu thuẫn, chứng cứ không có tính thuyết phục; thực hiện đánh giá chính xác các chứng cứ, biết dự liệu các tình huống trong trường hợp bị cáo phản cung, chối tội… Kiểm sát viên cũng cần thường xuyên nghiên cứu văn bản pháp lý liên quan đến giải quyết vụ án hình sự, nghiên cứu đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về pháp luật hình sự và tố tụng hình sự.

Ba là,theo Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Tòa án nhân dân, là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và thực hiện quyền tư pháp. Để thực hiện tốt những chức năng và nhiệm vụ của mình, Tòa án cần thực hiện tốt các vấn đề như: (i) Hướng dẫn đường lối xét xử các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, đặc biệt chú ý đến các quy định về tranh tụng trong tố tụng hình sự; (ii) Tăng cường hoạt động hướng dẫn áp dụng pháp luật về lĩnh vực tranh tụng trong hoạt động xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt động điều khiển tranh tụng tại phiên tòa; (iii) Kiện toàn về cơ cấu tổ chức, nâng cao trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng xét xử và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ thẩm phán trong việc áp dụng pháp luật trong lĩnh vực tranh tụng: (iv) Tăng cường quan hệ phối hợp giữa Tòa án nhân dân với Viện kiểm sát nhân dân, với cơ quan điều tra và các cơ quan, tổ chức thực hiện hoạt động bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và một số người tham gia tố tụng khác; Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện cho các Tòa án, cần sắp xếp vị trí cho các bên tham gia tranh tụng một cách công bằng và thuận tiện khi tham gia tranh tụng tại phiên tòa.

Thực hiện tốt các giải pháp nêu trên sẽ góp phần đảm bảo hoạt động tranh tụng, nâng cao chất lượng của công cuộc cải cách tư pháp, đáp ứng được yêu cầu Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/1/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới cũng như Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta đến năm 2020.

ThS. Lê Văn Quyến

Trường Chính trị tỉnh Bình Phước

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Nâng cao vai trò hoạt động xét xử của Hội thẩm nhân dân trong điều kiện cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay

24/11/2015

Cải cách có nghĩa là tạo ra sự thay đổi, đem lại cái mới, cái tiến bộ, như vậy có thể hiểu rằng, cải cách tư pháp là hoạt động của Nhà nước nhằm tạo ra sự thay đổi đem lại những điều mới cho hoạt động của cơ quan tư pháp với mục đích tạo cơ chế hoạt động cho cơ quan tư pháp đạt hiệu quả tốt hơn về quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức và mọi công dân.

Trên tinh thần đó, Điều 103 của Hiến pháp năm 2013 quy định “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”, quy định này đã thể hiện vai trò của nhân dân trong quá trình quản lý xã hội của đất nước. Hội thẩm nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử là tư tưởng xuyên xuốt được quy định từ bản Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 2013. Bản thân chế định “Hội thẩm là sự thể hiện tư tưởng “lấy dân làm gốc”, bảo đảm nguyên tắc thực hiện quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án, thể hiện bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”[1]. Cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, các văn bản pháp luật như Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đã ghi nhận nguyên tắc xét xử có Hội thẩm tham gia và Hội thẩm được xác định là một trong những người tiến hành tố tụng tại Tòa án. Chức năng, nhiệm vụ của Hội thẩm nhân dân được thể hiện khi được phân công giải quyết vụ án. Hội thẩm có các nhiệm vụ: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Hội thẩm nhân dân có nghĩa vụ nghiên cứu hồ sơ vụ án; tham gia xét xử các vụ án hình sự theo thủ tục sơ thẩm, trong trường hợp cần thiết Hội thẩm nhân dân có thể tham gia xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Trong quá trình xét xử sơ thẩm, Hội thẩm nhân dân có quyền tiến hành hoạt động xét hỏi, đồng thời thực hiện hoạt động nghị án và tuyên án, các quyết định liên quan đến vụ án sẽ được biểu quyết theo đa số.Về số lượng Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng xét xử, thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm: 01 Thẩm phán và 02 Hội thẩm nhân dân; đối với những vụ án có mức hình phạt từ chung thân hoặc tử hình thì hội đồng xét xử gồm 02 Thẩm phán và 03 Hội thẩm nhân dân. Từ quá trình quy định của pháp luật trên cho thấy đối với vụ án, thủ tục xét xử sơ thẩm số lượng Hội thẩm nhân dân luôn nhiều hơn số lượng Thẩm phán. Vì vậy, chất lượng hoạt động xét xử của Hội thẩm nhân dân sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của bản án sơ thẩm. Chế định Hội thẩm nhân dân khi tham gia xét xử đã đưa những tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân vào trong bản án, để có được phán quyết đúng pháp luật, được xã hội đồng tình ủng hộ.

Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động xét xử của Hội thẩm nhân dân hiện nay, bên cạnh những ưu điểm thì còn có một số vướng mắc nhất định như: Hội thẩm nhân dân chưa phát huy hết tinh thần trách nhiệm của mình, dẫn đến trách nhiệm của Thẩm phán càng nặng nề. Từ đó, chất lượng bản án nhiều lúc chưa đáp ứng được yêu cầu. Dưới đây, chúng tôi đề cập đến một số bất cập chính sau:

Thứ nhất, về cách thức tuyển chọn Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm nhân dân hiện nay được tuyển chọn từ số cán, bộ công chức từng làm trong các lĩnh vực như: Giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, tài chính của cấp huyện và cấp tỉnh, cho nên, hoạt động của Hội thẩm nhân dân còn mang tính chất kiêm nhiệm. Hội thẩm nhân dân mặc dù có trình độ chuyên môn riêng nhưng còn hạn chế rất nhiều về trình độ pháp lý, đây là vấn để bất cập trong thực tiễn hiện nay.

Thứ hai, mặc dù quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân được pháp luật quy định rất cụ thể, khi xét xử Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập chỉ tuân theo pháp luật, quá trình nghị án được thực hiện theo hình thức biểu quyết theo đa số. Tuy nhiên, thực tế Hội thẩm nhân dân không phát huy được tính độc lập và thường lệ thuộc vào Thẩm phán.

Thứ ba, do điều kiện thực tế Hội thẩm nhân dân làm việc kiêm nhiệm, ngoài việc làm chính ở cơ quan nếu được Thẩm phán mời xét xử thì Hội thẩm sẽ sắp xếp thời gian tham gia xét xử, nên một trong những thực tế hiện nay rất ít Hội thẩm nhân dân nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi đưa vụ án ra xét xử, thậm chí đến ngày mở phiên tòa, Hội thẩm nhân dân được phân công xét xử vắng vì lý do phải giải quyết công việc ở cơ quan nên không tham gia phiên tòa được, trong tình huống này, để phiên tòa được khai mạc đúng theo lịch xét xử đã công bố, Thẩm phán phải thay đổi Hội thẩm nhân dân khác, lúc này thư ký phiên tòa đã tìm cách liên hệ với Hội thẩm khác để tham gia xét xử.

Thứ tư, mặc dù luật quy định Hội thẩm nhân dân khi tham gia xét xử ngang nguyền với Thẩm phán nhưng thực tiễn trong quá trình thực hiện tố tụng rất ít trường hợp Hội thẩm tham gia xét hỏi tại phiên tòa mà việc xét hỏi lại hoàn toàn do Thẩm phán chủ động ngoài ra nếu Hội thẩm nhân dân có tham gia xét xử hỏi thì cách thức đặt câu hỏi còn ít đi vào trọng tâm của nội dung vụ án, giá trị các câu hỏi nhằm kiểm tra lại các chứng cứ trong vụ án cũng như chứng cứ do các bên tranh tụng chưa cao.

Thứ năm, trong quá trình xét xử, nếu bản án hình sự sơ thẩm tuyên án mà bị kháng cáo, kháng nghị, bản án sẽ được Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại. Trong trường hợp này, nếu bản án bị Tòa án cấp phúc thẩm hủy án hoặc sửa án thì trách nhiệm pháp lý đối với bản án không ai ngoài Thẩm phán, trong khi đó Hội thẩm nhân dân mặc dù đã được pháp luật quy định cụ thể nhưng trong thực tế chưa có trường hợp nào Tòa án nhân dân xử lý đối với Hội thẩm nhân dân tham gia xét xửđể bản án bị hủy, bị sửa. Cho nên, chưa phát huy được tinh thần trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử hiện nay.

Thứ sáu, về chế độ phụ cấp cho Hội thẩm nhân dân trong quá trình tham gia xét xử chưa tương xứng với thời gian làm việc mà Hội thẩm nhân dân bỏ ra, hiện nay mỗi một hội thẩm tham gia xét xử được phụ cấp 90.000 đồng một ngày nên chưa kích thích được sự nhiệt tình của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử.

Thứ bảy, do điều kiện vận động đi lên của xã hội dẫn đến trong một số quy định pháp luật hình sự phải thay đổi cho phù hợp điều kiện đấu tranh và phòng chống tội phạm. Để Hội thẩm nhân dân nắm bắt được những thay đổi của pháp luật, hàng năm Tòa án nhân dân đã thực hiện công tác tập huấn về kỹ năng, nghiệp vụ cũng như cung cấp những thông tin mới về pháp luật cho đội ngũ Hội thẩm nhân dân, song trên thực tế, việc tập huấn của Tòa án nhân dân cho Hội thẩm đôi lúc còn mang tính hình thức, chưa truyền tải được hết những yêu cầu và mục đích tập huấn đặt ra ban đầu, số lượng Hội thẩm tham gia hàng năm chưa nhiều do Hội thẩm nhân dân bận công tác.

Từ những tồn tại và hạn chế trên, nhằm cao trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân khi tham gia xét xử tại phiên tòa, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp nước ta, cần thực hiện một số giải pháp sau đây:

Một là, pháp luật cần quy định cụ thể hơn về tiêu chuẩn bầu Hội thẩm nhân dân. Hiện nay, pháp luật yêu cầu tiêu chuẩn Hội thẩm nhân dân chỉ cần có sự am hiểu pháp luật, quy định này rất chung chung không mang tính định lượng pháp lý nên khó áp dụng vào thực tiễn để chọn được ra những Hội thẩm nhân dân thực sự đạt trình độ pháp lý tham gia vào hoạt động xét xử.

Hai là, pháp luật cần quy định cụ thể để ràng buộc trách nhiệm pháp lý của Hội thẩm nhân dân khi xét xử những vụ án bị Tòa án cấp phúc thẩm sửa án hoặc hủy án. Tòa án nhân dân cần có sự liên hệ chặt chẽ về năng lực hoạt động của Hội thẩm nhân dân với cơ quan, đơn vị có cán bộ, công chức, viên chức là Hội thẩm nhân dân. Có thể sử dụng năng lực hoạt động của Hội thẩm nhân dân là một trong những tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, công chức.

Ba là, Tòa án nhân dân cần thực hiện tốt công tác tập huấn hàng năm cho Hội thẩm nhân dân, đặc biệt là tập huấn các kỹ năng xét hỏi, bồi dưỡng kịp thời những quy định của pháp lý để Hội thẩm nhân dân nắm bắt và vận dụng vào thực tiễn xét xử.

Bốn là, pháp luật cần quy định cụ thể việc Hội thẩm nhân dân không tham gia nghiên cứu hồ sơ vụ án thì không được tham gia xét xử, nếu Tòa án nào vi phạm nguyên tắc này là cơ sở để hủy bản án sơ thẩm vì đã vi phạm tố tụng.

Năm là, nhà nước cần quan tâm hơn nữu đến phụ cấp cho Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử trên tinh thần quyền lợi sẽ đi đôi với trách nhiệm.

Sáu là,pháp luật cần quy định lại về số lượng của Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử sơ thẩm cho phù hợp với điều kiện thực tế, đó là số lượng Hội thẩm nhân dân ít hơn số lượng của Thẩm phán, tránh trường hợp như hiện nay, những người tham gia xét xử có nghiệp vụ chuyên môn cao nhưng lại chiếm tỷ lệ ít hơn so với những người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ pháp lý thấp, có thể nói đây là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng xét xử vụ án ở nước ta hiện nay. Trong quá trình cải cách tư pháp, cần nghiên cứu thêm quy định Hội thẩm của một số nước trong khu vực và trên thế giới.

Lê Văn Quyến

Trường Chính trị tỉnh Bình Phước



[1] www.Toaan.gov.vnTrương Hòa Bình Bí thư Trung ương Đảng,Chánh án Tòa án nhân dân tối cao

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Góp phần hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam

24/12/2015

Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “… Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…”, “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[1]. Như vậy, kiểm soát quyền lực nhà nước đã được chính thức khẳng định với ý nghĩa là một nguyên tắc hiến định trong tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước, tạo cơ sở để xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước.

Thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước là những khuôn khổ pháp lý được tạo ra bởi Hiến pháp và pháp luật nhằm giới hạn quyền lực nhà nước, định hướng và tạo chuẩn mực cho hành vi của các tổ chức, cá nhân tham gia kiểm soát quá trình tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước. Đó là tổng thể những quy tắc, thể thức, chuẩn mực, phạm vi, giới hạn, quy trình, thủ tục, xác lập quyền và trách nhiệm của các chủ thể, các biện pháp, hậu quả pháp lý… được hàm chứa trong nội dung các quy phạm của pháp luật thực định, hướng đến việc kiểm soát quyền lực nhà nước[2]. Thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước là yếu tố nền tảng, cốt lõi cùng với các yếu tố khác (thiết chế, điều kiện, mối quan hệ tương tác giữa thể chế, thiết chế, các điều kiện…) hình thành cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước[3]. Thể chế pháp lý có vai trò quyết định,bởi phải có các quy định của pháp luật thì mới tạo nên cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước. Để hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, trước hết phải hoàn thiện thể chế về kiểm soát quyền lực nhà nước.

Về cơ bản, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước tại Việt Nam hiện nay bao gồm kiểm soát từ bên ngoài và kiểm soát bên trong bộ máy nhà nước. Mỗi cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước sẽ cần có thể chế pháp lý tương ứng. Kiểm soát từ bên ngoài bộ máy nhà nước gồm: Hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của Đảng; kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía nhân dân. Kiểm soát bên trong bộ máy nhà nước gồm: Kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; kiểm soát của cơ quan nhà nước ở trung ương với cơ quan nhà nước ở địa phương, của cơ quan chính quyền địa phương cấp trên với chính quyền địa phương cấp dưới và giữa các cơ quan trong cùng cấp chính quyền địa phương với nhau. Với phạm vi rộng, bài viết này không có điều kiện đề cập giải pháp hoàn thiện từng lĩnh vực thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước một cách cụ thể, mà chỉ nêu một số ý kiến tổng thể bước đầu để góp phần định hướng quá trình hoàn thiện hệ thống thể chế pháp lý thời gian tới.

1. Hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước của các chủ thể ngoài Nhà nước

1.1. Về kiểm soát quyền lực nhà nước của Đảng

Trong nội dung này, cần tiếp tục làm rõ mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý. Dựa trên sự phân công trách nhiệm rõ ràng đó, Đảng thực hiện việc kiểm soát quyền lực nhà nước. Đối với từng thiết chế cơ bản của bộ máy nhà nước, Đảng cần xây dựng được phương thức lãnh đạo hiệu quả. Đảng lãnh đạo còn thông qua việc thiết lập cơ chế để cơ quan nhà nước này kiểm soát cơ quan nhà nước khác như là những công cụ kiểm soát trong tầm kiểm soát của Đảng. Ví dụ, với sự lãnh đạo của Đảng đoàn Quốc hội trong hoạt động của Quốc hội, Đảng sẽ thêm công cụ giám sát cơ quan hành pháp; với sự lãnh đạo của Ban Cán sự Đảng Chính phủ, Đảng sẽ thực hiện sự kiểm soát của Chính phủ với các cơ quan nhà nước khác trong phạm vi thẩm quyền của Chính phủ… Việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, trong đó có thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía Đảng lãnh đạo sẽ được tiếp tục nghiên cứu trong thời gian tới, theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 và Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XII của Đảng đã gợi mở: “Nâng cao hiệu quả thực hiện và tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng các chủ trương, chính sách lớn, lãnh đạo thể chế hoá các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật…; chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp; các tổ chức của Đảng và đảng viên phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật”[4].

1.2. Về kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân

Để hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân phải chú ý đầy đủ các khía cạnh của chủ thể nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước: Thứ nhất, nhân dân – với tư cách toàn thể công dân Việt Nam – là chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước, ví dụ: Khi toàn dân góp ý xây dựng, sửa đổi Hiến pháp, hoặc khi toàn thể nhân dân tham gia một cuộc trưng cầu ý dân trên toàn phạm vi lãnh thổ Việt Nam; thứ hai, nhân dân – với tư cách từng cá nhân công dân kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua các chế định như quyền bầu cử, ứng cử, quyền khiếu nại, tố cáo…; thứ ba, nhân dân – dưới danh nghĩa các cộng đồng mà họ sinh sống và làm việc thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ ở cơ sở (xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp); thứ tư, nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, xã hội – nghề nghiệp và các tổ chức khác kiểm soát quyền lực nhà nước, ví dụ: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia tổ chức bầu cử, hoặc thực hiện quyền giám sát xã hội, phản biện xã hội.

Khi xây dựng thể chế pháp lý để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước, ngoài quyền kiểm soát (mà chủ yếu là giám sát) của các chủ thể nêu trên, không thể thiếu việc quy định các điều kiện bảo đảm để nhân dân thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước, ví dụ: Để nhân dân có thể tiếp cận thông tin, các cơ quan nhà nước phải công khai, minh bạch và có trách nhiệm giải trình. Cần sớm ban hành Luật Tiếp cận thông tin, Luật Ban hành quyết định hành chính, nghiên cứu nâng lên thành luật về trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước hiện đang được quy định tại Nghị định số 90/2013/NĐ-CP ngày 08/8/2013 của Chính phủ… Trên thực tế, thời gian qua, cơ quan lập pháp mới tập trung xây dựng, sửa đổi các luật về tổ chức các cơ quan trong bộ máy nhà nước, mà chưa chú trọng ban hành các luật liên quan trực tiếp đến kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía nhân dân. Vì vậy, dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII của Đảng đề ra phương hướng phải “bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện. Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân”[5]. Đây chính là phương hướng hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát của nhân dân đối với quyền lực nhà nước thời gian tới.

2. Hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà nước

2.1. Thể chế pháp lý về kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp theo Hiến pháp năm 2013 và các luật về tổ chức các cơ quan tương ứng trong bộ máy nhà nước mới ban hành đã có những bước tiến tích cực, tuy nhiên còn có những hạn chế, cụ thể như sau:

Đối với kiểm soát quyền lập pháp: Các công cụ, phương tiện pháp lý để kiểm soát quyền lập pháp ở nước ta còn hạn chế và hiệu lực chưa rõ. Do nhận thức đã tồn tại lâu dài về tính thống nhất của quyền lực nhà nước là thống nhất ở Quốc hội trong bộ máy nhà nước thiết kế theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa nên sự kiểm soát chỉ nặng về một chiều từ lập pháp đến các cơ quan khác mà chưa chú trọng chiều ngược lại. Chính phủ được quy định là “cơ quan chấp hành của Quốc hội” và vì thế Chính phủ có rất ít công cụ kiểm soát hoạt động lập pháp của Quốc hội. Tòa án là thiết chế rất quan trọng trong nhà nước pháp quyền thì chưa được trao quyền phán quyết các vi phạm về Hiến pháp. Trong khi đó, việc trao quyền tự giám sát hoạt động lập pháp cho các cơ quan trong nội bộ của Quốc hội như hiện nay (việc thẩm tra luật của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban, việc Uỷ ban thường vụ Quốc hội thảo luận trước khi trình Quốc hội…) là chưa đủ mạnh. Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội vận hành theo cơ chế của một cơ quan dân cử, đại diện, trong khi việc xem xét, phán quyết sự phù hợp của một văn bản quy phạm pháp luật phải mang tính chất tài phán thì ở nước ta cơ chế tài phán trong lĩnh vực này còn rất hạn chế.

Đối với kiểm soát quyền hành pháp: Cơ quan chính giám sát Chính phủ hành pháp là Quốc hội. Tuy nhiên hiện nay, các quy định về trình tự, thủ tục, công cụ giám sát quyền lực hành pháp của Quốc hội còn chưa được quy định chi tiết, như: Thủ tục bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu và phê chuẩn; cách thức tổ chức các phiên họp giải trình tại Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội; cách thức hoặc bộ phận chuyên môn để giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, các bộ, ngành thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương; cách thức thành lập và nhiệm vụ, quyền hạn của các Ủy ban điều tra do Quốc hội thành lập… Những vấn đề này đã được xem xét hoàn thiện thêm một bước trong Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân được trình Quốc hội thông qua trong kỳ họp lần thứ 10 Quốc hội khóa XIII (tháng 11/2015). Bên cạnh đó, cơ chế xét xử của Tòa án đối với các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật, pháp lệnh (do Chính phủ, bộ, ngành ban hành) vẫn chưa được quy định. Do đó, việc kiểm soát quyền lực của Chính phủ trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật chưa được triệt để.

Đối với kiểm soát quyền tư pháp: Quyền tư pháp và hoạt động tư pháp là lĩnh vực đặc thù liên quan đến quyền con người và được tiến hành theo những trình tự, thủ tục hết sức chặt chẽ. Vấn đề quan trọng nhất trong kiểm soát quyền tư pháp là làm sao để hoạt động xét xử của tòa án không bị lạm dụng, không vi phạm pháp luật, dẫn đến oan sai; và ngược lại các cơ quan khác không được can thiệp vào hoạt động xét xử của tòa án, bảo đảm tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của hội đồng xét xử. Vì vậy, các nguyên tắc liên quan đến hoạt động của Tòa án nhân dân quy định trong Hiến pháp năm 2013 ngoài việc cụ thể hóa trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì cần tiếp tục cụ thể hóa trong các luật khác, đặc biệt các luật về tố tụng hình sự, dân sự, hành chính.

2.2. Thể chế pháp lý về kiểm soát của chính quyền trung ương đối với chính quyền địa phương, kiểm soát của cơ quan nhà nước cấp trên với cơ quan nhà nước cấp dưới và giữa các cơ quan trong cùng cấp chính quyền địa phương không phải là vấn đề mới, nhưng Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã có những thay đổi căn bản trong quan niệm về vị trí, vai trò, cách thức tổ chức và cơ chế hoạt động của chính quyền địa phương, tạo ra nhiều độ mở và linh hoạt trong việc thiết kế chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt. Như vậy, nếu cơ chế kiểm soát quyền lực của cấp trên với cấp dưới vẫn cứng nhắc, không linh hoạt thì sẽ gây khó khăn cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương.

Trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã có một số khái niệm mới trong cơ chế phân định thẩm quyền giữa trung ương và địa phương được quy định như phân quyền, phân cấp, ủy quyền cho chính quyền địa phương (từ Điều 11 đến Điều 14) nhưng trong thực hiện sẽ có nhiều lúng túng vì hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, nhất là việc phân quyền theo nguyên tắc phải được quy định trong các luật chuyên ngành cụ thể, như vậy sẽ rất khó hệ thống hoá các quy định về phân quyền, dẫn đến mỗi lĩnh vực quản lý nhà nước có tiêu chí, nguyên tắc phân quyền khác nhau, không thống nhất và khó thực hiện. Hơn nữa, thực tế cũng cho thấy cơ chế kiểm soát giữa chính quyền trung ương với chính quyền địa phương chưa thực sự hiệu quả, một số trường hợp trung ương mất kiểm soát đối với địa phương (ví dụ như trong lĩnh vực đất đai, tài nguyên khoáng sản…). Về giám sát của cơ quan dân cử, cũng là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương (Hội đồng nhân dân) với cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương (Uỷ ban nhân dân) trong thực tiễn còn rất nhiều nội dung có tính hình thức. Vì vậy, hiệu quả giám sát của cơ quan dân cử đối với cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương chưa thực sự đáp ứng yêu cầu đặt ra.

Về phương hướng hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà nước, dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất; xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền. Đồng thời, quy định rõ hơn cơ chế phối hợp trong việc thực hiện và kiểm soát các quyền ở các cấp chính quyền”. Đối với chính quyền địa phương, “tiếp tục phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương. Trên cơ sở bảo đảm tính thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính quốc gia, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm quản lý nhà nước của mỗi cấp chính quyền địa phương”[6].

3. Nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp lý về bảo vệ Hiến pháp

Khoản 2 Điều 119 Hiến pháp năm 2013 quy định “cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”. Tuy vậy, hiện nay, Việt Nam chưa xây dựng một cơ chế bảo vệ Hiến pháp cụ thể, độc lập (Hội đồng bảo hiến/Tòa án Hiến pháp…) mà vẫn còn tản mạn trong các đạo luật khác nhau về tổ chức bộ máy nhà nước. Trong trường hợp có Luật về bảo vệ Hiến pháp thì có thể ra đời một cơ quan chuyên trách bảo vệ Hiến pháp do luật định hay không? Mặc dù khoản 2 Điều 119 Hiến pháp năm 2013 khi kể tên các cơ quan có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp có dùng cụm từ “các cơ quan khác của Nhà nước”, nhưng điều này sẽ là rất khó nếu cơ quan chuyên trách ấy là một cơ quan nhà nước độc lập, vì việc thiết kế cơ quan bảo vệ Hiến pháp ở nước ta bị ràng buộc bởi hai nguyên tắc là: Hiến pháp tối thượng và Quốc hội là tối thượng. Vì những ràng buộc đó, thì về mặt lý luận, chúng ta không có cơ sở để thiết lập một Tòa án Hiến pháp đứng độc lập với Quốc hội, hoặc trao cho Tòa án nhân dân tối cao thẩm quyền phán quyết về tính hợp hiến trong các hành vi của Quốc hội. Với những ràng buộc có tính chất nguyên lý như vậy, cùng với những bất cập của cơ chế bảo hiến hiện hành, việc thiết lập Hội đồng Hiến pháp là một cơ quan chuyên môn đặc biệt của Quốc hội với tư cách là cơ quan không có thẩm quyền “kết luận về tính hợp hiến” và không làm mất hoàn toàn hiệu lực của đạo luật đã được Quốc hội thông qua (mặc dù vẫn có quyền kiến nghị với Quốc hội xem xét lại đạo luật đã được thông qua) là lựa chọn có thể chấp nhận được.

4. Thiết lập cơ chế phối hợp kiểm soát giữa cơ quan đảng, cơ quan nhà nước với các hoạt động kiểm soát của nhân dân

Tăng cường hoạt động kiểm soát của nhân dân đối với quyền lực nhà nước phải được tiến hành đồng thời với việc tăng cường kiểm soát của các cơ quan có chức năng kiểm tra, thanh tra, giám sát thuộc bộ máy đảng và nhà nước. Sự phối hợp của hai hệ thống kiểm soát này sẽ là sự bổ sung hoàn thiện cho nhau để bảo đảm hiệu quả tối ưu cho mục đích kiểm soát quyền lực. Điều này xuất phát từ nguyên nhân mỗi hệ thống kiểm soát đều cần sự bổ khuyết của hệ thống kia để bảo đảm hiệu quả cho hoạt động của mình. Hệ thống kiểm soát bên trong cần tính khách quan của hệ thống kiểm soát bên ngoài để làm cơ sở cho quyết định của mình. Hệ thống kiểm soát bên ngoài cần sự hỗ trợ do quyết định mang tính quyền lực công của hệ thống kia mang lại. Cụ thể, tăng cường sự phối hợp, kết hợp giữa hoạt động giám sát của nhân dân, thông qua hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cũng như của Ban thanh tra nhân dân, với hoạt động thanh tra của Thanh tra Chính phủ, hoạt động kiểm tra của Đảng và hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội. Đặc biệt, cần chú trọng việc phối hợp giữa hoạt động giám sát của nhân dân với hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội. Bởi vì, hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội là hoạt động giám sát mang tính quyền lực nhà nước cao nhất, và do vậy, khi được kết hợp với hoạt động giám sát trực tiếp của nhân dân sẽ tạo ra một cơ chế pháp lý bảo đảm cho hoạt động giám sát của nhân dân được tiến hành có hiệu quả trên thực tế.

Tóm lại, thiết lập hệ thống thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước hiệu quả là cả một quá trình nhận thức và vận động khó khăn, lâu dài về phương diện lý luận và thực tiễn. Chúng tôi cho rằng trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013 và những đường lối của Đảng sau Đại hội XII thì thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước sẽ được hoàn thiện nhanh hơn. Bài viết này chỉ mong muốn nhấn mạnh việc hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước cần tiến hành đồng bộ, giải quyết được những điểm còn thắt về cơ chế hiện nay để: (i) Tăng cường sự lãnh đạo và vai trò kiểm soát quyền lực nhà nước của Đảng; (ii) Tạo điều kiện tối đa để nhân dân thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước; (iii) Khắc phục hạn chế, gia tăng hiệu quả kiểm soát quyền lực nội bộ giữa các cơ quan nhà nước; (iv) Bảo đảm cho Hiến pháp thực sự có vị trí, vai trò tối thượng, được tôn trọng, bảo vệ và thực thi; (v) Tạo ra sự phối kết hợp đồng bộ và hiệu quả giữa các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong điều kiện chính trị, kinh tế, lịch sử, văn hóa, xã hội cụ thể của nước ta.

ThS. Nguyễn Long Hải

Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh

Tài liệu tham khảo:

[1]. Điều 2, Hiến pháp năm 2013.

[2]. Hiện nay có một số cách định nghĩa khác nhau về thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước, như: “Thể chế kiểm soát quyền lực nhà nước là các quy định của Hiến pháp, luật và các văn bản dưới luật liên quan đến việc tổ chức, thực hiện và kiểm soát quyền lực nhà nước, bao gồm các quy định của Hiến pháp, pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước; các quy định về thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm sát; các quy định về nguyên tắc, thẩm quyền, nội dung, hình thức, trình tự kiểm soát quyền lực nhà nước được ghi nhận trong Hiến pháp, các luật tổ chức bộ máy nhà nước, trong luật bầu cử, luật giám sát, thanh tra, phản biện xã hội, trong các điều ước và tập quán quốc tế…” (xem: Nguyễn Minh Đoan,Vũ Thu Hạnh: Các yếu tố cấu thành của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7 năm 2014); hay: “Thể chế kiểm soát quyền lực nhà nước là tổng thể các quy phạm pháp luật xác lập các cơ quan, tổ chức, cá nhân, quyền và nghĩa vụ, phương thức và các điều kiện bảo đảm để các chủ thể khác nhau kiểm soát quyền lực nhà nước” (xem: Trần Ngọc Đường: Báo cáo kết quả nghiên cứu Đề tài: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ở nước ta, Văn phòng Quốc hội đã nghiệm thu năm 2015). Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ xin nêu ngắn gọn quan niệm về thể chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước. Xin được trở lại phân tích rõ hơn về khái niệm này trong một bài viết khác.

[3]. Các nhà nghiên cứu ở nước ta hiện nay còn quan niệm khác nhau về những yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước, tuy nhiên đều thống nhất rằng trong cơ chế đó có thể chế, thiết chế.

[4]. Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.

(Nguồn: http://daihoi12.dangcongsan.vn/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=28340728&cn_id=400849).

[5]. Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng

[6]. Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại ô nhiễm môi trường biển do dầu từ tàu gây ra

28/12/2015

Nhận thức rõ được sự trong sạch của biển cả có tầm quan trọng sống còn, Việt Nam đã tham gia các công ước quốc tế và ban hành các văn bản trong nước về phòng ngừa, khắc phục sự cố ô nhiễm môi trường (ÔNMT) biển, trong đó có ÔNMT biển do dầu từ tàu gây ra. Tuy nhiên trên thực tế, thiệt hại do ÔNMT biển vẫn xảy ra dù chúng ta đã áp dụng các biện pháp phòng ngừa. Và phần lớn những thiệt hại do ô nhiễm dầu gây ra trên các vùng biển của nước ta đều chưa được đánh giá đúng mức và được bồi thường thỏa đáng vì những bất cập trong hệ thống pháp luật cũng như cơ chế thực hiện. Chính vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại ÔNMT biển do dầu từ tàu gây ra là một đòi hỏi cấp thiết về lý luận cũng như thực tiễn.

1. Tình hình ô nhiễm môi trường biển do dầu từ tàu gây ra tại Việt Nam

Hoạt động bình thường của tàu thuyền (nước sinh hoạt, rác, dầu..) và các sự cố, tai nạn hàng hải đều là các nguồn gây ÔNMT biển rất nặng nề. Tuy nhiên, khi nói đến ô nhiễm do hoạt động tàu thuyền, chúng ta thường liên tưởng ngay đến ô nhiễm do dầu vì đây là loại ô nhiễm gây tác hại ngay lập tức và thường là đặc biệt nghiêm trọng. Việt Nam nằm cạnh tuyến đường hàng hải quan trọng Thái Bình Dương, có mật độ tàu thuyền qua lại lớn nên khả năng ô nhiễm biển do tàu thuyền gây ra cũng rất lớn. Số lượng dầu chuyên chở qua Biển Đông hàng năm vào khoảng 2,1 tỷ tấn và vào bất cứ thời điểm nào cũng có khoảng 51 tàu chở dầu cỡ lớn hoạt động trong khu vực[1]. Ước tính, lượng dầu rò rỉ từ các tàu chở dầu trên tuyến hàng hải vào khoảng 23.001 tấn[2].

Một nguyên nhân quan trọng dẫn đến ÔNMT biển xảy ra tại các cảng biển và vùng biển Việt Nam mà hậu quả rất nghiêm trọng, đó là sự cố tràn dầu. Sự cố tràn dầu là tai nạn xảy ra trên biển do các hoạt động chuyên chở, tàng trữ hoặc khai thác dầu khí và các sản phẩm hóa dầu. Hậu quả là dầu bị tràn ra biển và gây ô nhiễm nghiêm trọng đến môi trường biển. Do tính chất nghiêm trọng và mức độ độc hại cao tác động đến môi trường, nên số lượng dầu tràn ra từ 100 lít trở lên được coi là sự cố tràn dầu.

Thống kê các vụ tai nạn hàng hải tại Việt Nam cho thấy, các sự cố do các vụ tai nạn hàng hải ngày một tăng. Các nguyên nhân chính dẫn đến sự cố tràn dầu xảy ra ở các cảng biển nước ta là do các nguyên nhân thời tiết, nguyên nhân kỹ thuật và có đến hơn nửa các sự cố tràn dầu là do yếu tố con người gây ra. Theo đánh giá của Viện Khoa học và Tài nguyên môi trường biển – Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, từ năm 1989 đến nay, vùng biển Việt Nam có khoảng trên 100 vụ tràn dầu do tai nạn tàu, các vụ tai nạn này đều đổ ra biển từ vài chục đến hàng trăm tấn dầu. Những vụ tràn dầu thường xảy ra vào tháng 3 và tháng 4 hàng năm ở miền Trung; từ tháng 5 đến tháng 6 ở miền Bắc[3].

Thống kê cho thấy, giai đoạn từ năm 1992 – 2008, lượng dầu tràn trên biển Việt Nam xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Cụ thể như những vụ tràn dầu với lượng từ 07 – 700 tấn thường tập trung chủ yếu do tàu mắc cạn. Còn các vụ tràn dầu với số lượng lớn hơn 700 tấn chủ yếu là do quá trình vận chuyển dầu và va chạm tàu trên biển[4].

Hậu quả các vụ ÔNMT do dầu sẽ làm hủy hoại các hệ sinh thái, động thực vật trên biển, ven biển, trên sông, các hệ sinh thái nhạy cảm như san hô, rừng ngập mặn, đặc biệt nó tác động trực tiếp và gây nên những thiệt hại kinh tế rất lớn cho các tổ chức, cá nhân sinh sống và có các hoạt động phát triển ven sông, ven biển như các hoạt động nuôi trồng, khai thác thủy sản, du lịch biển, làm muối, nông nghiệp… Ô nhiễm dầu còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, sức khỏe, tính mạng của người dân ven biển. Theo đánh giá của các chuyên gia, nồng độ dầu trong nước đạt 0,1 mg/l có thể gây chết các loài sinh vật phù du, cá, chim biển, ảnh hưởng lớn đến các con non và ấu trùng của các sinh vật đáy; làm giảm tỷ lệ sống sót của san hô, làm rừng ngập mặn bị chết; dầu bám vào cơ thể hoặc sinh vật hấp thu qua quá trình lọc nước làm giảm giá trị sử dụng và cản trở các hoạt động kinh tế vùng ven biển[5]. Khi có sự cố tràn dầu, theo tốc độ gió và dòng chảy, dầu sẽ trôi theo dòng chảy mặt nước, trôi dạt vào vùng biển ven bờ, bám vào kè đá, các bờ đảo làm mất mỹ quan và gây mùi khó chịu đối với các du khách tham quan du lịch, do vậy, doanh thu của ngành du lịch sẽ bị ảnh hưởng nặng nề. Ngoài ra, ô nhiễm dầu còn làm ảnh hưởng đến nguồn giống tôm cá, sự phát triển và sinh sản của các nguồn thủy hải sản nên làm chúng bị chết, dẫn đến giảm năng suất nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản ven biển.

Do đó, sự cố môi trường tràn dầu có thể xem là một trong những dạng sự cố gây ra tổn thất kinh tế lớn nhất trong các loại sự cố môi trường do con người gây ra. Hiện việc xác định vị trí dầu tràn và khắc phục sự cố này ở Việt Nam còn nhiều hạn chế, cả về cơ sở pháp luật và các trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật chuyên dụng để khắc phục ô nhiễm tràn dầu.

2. Thực tiễn bồi thường thiệt hại ô nhiễm môi trường biển do dầu từ tàu gây ra

Theo số liệu thống kê của Cục Hàng hải Việt Nam năm 2008, chỉ tính riêng giai đoạn năm 1995 – 2004, trên các vùng biển Việt Nam đã ghi nhận được gần 50 sự cố tràn dầu với lượng dầu tràn khoảng 120.000 tấn. Trong đó, chỉ có 14 vụ được bồi thường với tổng số tiền 5.501.000 USD và 886.500.000 đồng Việt Nam[6]. Dầu tràn gây ảnh hưởng nặng nề về nhiều mặt. Đơn cử vụ tàu chở dầu Neptune Aries (Singapore) đâm vào cầu tàu cảng Cái Tiên trên sông Sài Gòn hồi tháng 10/1994, làm tràn 1.584 tấn dầu DO và hơn 150 tấn xăng dầu các loại từ đường ống dẫn dầu của cầu cảng. Thiệt hại từ sự cố tràn dầu ước tính 28 triệu USD, nhưng chủ tàu chỉ bồi thường 4,2 triệu USD[7]. Khi tiềm lực tài chính của chủ tàu còn hạn chế thì chi phí xử lý ô nhiễm môi trường mà ngân sách nhà nước phải gánh chịu là rất lớn, vụ sà lan dầu Hồng Anh 06 bị đắm tại phao số 7, luồng Vũng Tàu – Sài Gòn ngày 20/3/2003, để tràn 40 tấn dầu không thu hồi được là một ví dụ. Chủ tàu là Công ty Trọng Nghĩa, Bình Dương chỉ mua bảo hiểm thân tàu với mức 500 triệu đồng, trong khi kinh phí trục vớt sà lan và xử lý phòng, chống tràn dầu đã tốn hơn 2 tỷ đồng. Mặc dù chủ tàu phải chịu trách nhiệm hình sự, song Nhà nước cũng mất một khoản tiền không nhỏ, chưa kể tác hại cho môi trường khó mà khắc phục được một sớm một chiều[8]. Hay như vụ tàu Mimosa của Petro Việt Nam bị tàu Trinity quốc tịch Liberia đâm đắm ngày 12/5/2005 ở khu vực mỏ Đại Hùng, cách thành phố Vũng Tàu 180 hải lý, với hơn 100 tấn dầu trong bụng. Mặc dù chủ tàu đã đặt 02 triệu USD, nhưng không có nghĩa là với số tiền đó có thể giải quyết được hậu quả tràn dầu gây ra cho môi trường biển Vũng Tàu[9].

Qua thực tiễn giải quyết đền bù và kết quả thu được sau mỗi lần giải quyết cho thấy, sau mỗi vụ tai nạn tàu chở dầu, thiệt hại cho môi trường biển trước mắt cũng như lâu dài và thiệt hại mà những người liên quan trực tiếp phải gánh chịu – như đánh bắt, du lịch là rất lớn, nhưng mức bồi thường không đáng kể. Việc bồi thường chủ yếu dựa trên cơ sở thoả thuận, nhân nhượng giữa các bên. Chính quyền địa phương còn gặp nhiều lúng túng trong quá trình giải quyết khiếu nại, đòi bồi thường. Sở dĩ như vậy là do:

Thứ nhất, các quy định pháp luật của Việt Nam về bồi thường thiệt hại ÔNMT biển do dầu từ tàu gây ra còn chung chung và rải rác ở các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Việt Nam chưa tham gia Công ước quốc tế về việc thành lập Quỹ quốc tế về Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu 1992 (FUND 92), vì vậy, đối với những vụ tràn dầu vượt quá giới hạn trách nhiệm mà chủ tàu phải chi trả thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Đây là thiệt hại không đáng có, chất thêm gánh nặng cho ngân sách của chúng ta vốn đã rất hạn hẹp.

Thứ hai, do năng lực của các cán bộ làm công tác về bồi thường thiệt hại ÔNMT biển do dầu từ tàu gây ra, cụ thể:

(i) Điểm yếu nhất hiện nay là chúng ta không có đủ năng lực để xây dựng một bộ hồ sơ pháp lý chính xác và thuyết phục, cũng như không đủ năng lực để tiến hành thụ lý các vụ án gây ÔNMT do dầu từ tàu phải được đền bù, nhất là các vụ án môi trường có yếu tố nước ngoài.

(ii) Việt Nam thiếu đội ngũ cán bộ quản lý môi trường biển có năng lực chuyên môn cao, thiếu các chuyên gia giỏi có kinh nghiệm về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu từ tàu, do đó, chúng ta khó có thể đòi được sự bồi thường đầy đủ và thoả đáng đối với sự cố ô nhiễm dầu trong vùng biển Việt Nam.

3. Pháp luật về bồi thường thiệt hại ô nhiễm môi trường biển do dầu từ tàu gây ra

Đối với mỗi quốc gia ven biển, sự trong sạch của môi trường biển có tầm quan trọng sống còn. Việt Nam cũng đã nhận thức rõ sự phát triển kinh tế phải đi đôi với việc bảo vệ môi trường và tài nguyên biển. Tại Hội nghị Rio de Janerio, Việt Nam tuyên bố Chiến lược phát triển của quốc gia mình: “Việt Nam nhận thức rõ thực tế rằng, biển và đại dương có ý nghĩa đặc biệt đối với sự sống trên hành tinh của chúng ta, và nước chúng tôi ủng hộ cuộc đấu tranh chống việc biến biển hay đại dương thành các bãi phế thải và rác vì điều này sẽ nhanh chóng hủy hoại các hệ sinh thái biển và tài nguyên thiên nhiên, hậu quả là gây ra các ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ con người. Cần phải có các biện pháp thống nhất để quản lý biển và đại dương thông qua việc tăng cường sự hợp tác quốc tế và khu vực và thông qua các cố gắng có phối hợp nhằm giảm bớt tình trạng ô nhiễm biển và duy trì tính đa dạng sinh học của biển”[10].

Là thành viên của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, của Tổ chức Hàng hải quốc tế – IMO, Việt Nam có quyền đồng thời có nghĩa vụ bảo vệ và giữ gìn môi trường biển. Việt Nam đã tham gia nhiều công ước của IMO về tiêu chuẩn kỹ thuật và con người như: Công ước quốc tế về mạn khô – Loadlines 1966, Công ước quốc tế về đo dung tích tàu biển – Tonnage 1969; Công ước quốc tế về phòng ngừa va chạm trên biển – Colreg 72; Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm từ tàu – Marpol 73/78; Công ước quốc tế về an toàn sinh mạng người trên biển – Solas 74; Công ước quốc tế về tiêu chuẩn huấn luyện, thi, cấp chứng chỉ chuyên môn và bố trí chức danh đối với thuyền viên – STCW 78/95… Tuy nhiên, trên thực tế tai nạn vẫn xảy ra, dù tàu và thuyền viên đáp ứng đủ những chuẩn mực mà các công ước quốc tế nêu ra. Là quốc gia ven biển, quốc gia có cảng, quốc gia tàu mang cờ, Việt Nam hoàn toàn có quyền nhận đầy đủ các khoản bồi thường cho các thiệt hại ô nhiễm dầu từ tàu gây ra trong vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia mình. Xuất phát từ quyền và nghĩa vụ, xuất phát từ ý nghĩa của việc đền bù, Việt Nam cần phải có một cơ sở pháp lý vững chắc để đảm bảo được đền bù thoả đáng, đầy đủ cho những thiệt hại về ÔNMT nói chung và ÔNMT biển nói riêng.

Bên cạnh việc tích cực tham gia các điều ước quốc tế về phòng, chống ÔNMT biển do dầu từ tàu gây ra, Việt Nam cũng đã xây dựng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trong nước điều chỉnh về vấn đề này. Đến nay, ngoài Hiến pháp năm 2013, hệ thống các văn bản pháp luật chung quy định về phòng chống ÔNMT biển dầu từ tàu gây ra bao gồm 32 văn bản quy phạm pháp luật[11]; các văn bản pháp luật riêng biệt về phòng chống ÔNMT biển do dầu từ tàu gây ra bao gồm 12 văn bản quy phạm pháp luật[12]. Bên cạnh đó, Ủy ban nhân dân các tỉnh cũng đã ban hành các văn bản hành chính riêng biệt về phòng chống ÔNMT biển do dầu nói chung và phòng chống ÔNMT biển do dầu từ tàu gây ra nói riêng.

Hiện nay, chúng ta đã có một cơ sở pháp lý về bồi thường thiệt hại ÔNMT biển do dầu từ tàu gây ra, tuy nhiên các quy định này chỉ tồn tại ở dạng những văn bản quy phạm mang tính đơn lẻ, không thống nhất và còn nhiều hạn chế, bất cập như:

Thứ nhất, hiện nay, chúng ta chưa có quy định cụ thể về lượng giá tổn thất, giám định thiệt hại; mức chi phí xử lý một đơn vị diện tích, thể tích hoặc khối lượng nước, đất bị ô nhiễm đạt quy chuẩn kỹ thuật về môi trường đối với chất lượng môi trường nước; định mức chi phí phục hồi một đơn vị diện tích hệ sinh thái bị suy thoái… gây nên những bất cập khi tính toán thiệt hại đối với môi trường. Ngoài ra, chúng ta cũng chưa có quy định cụ thể về căn cứ, nguyên tắc tính toán thiệt hại làm cơ sở xác định bồi thường thiệt hại ÔNMT biển do dầu.

Thứ hai, chúng ta chưa có một văn bản pháp luật nào điều chỉnh một cách đầy đủ và chuyên biệt về vấn đề bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu; việc khởi hiện hay khiếu nại và xác định các thiệt hại về môi trường cũng như thiệt hại về kinh tế do các hành vi gây ÔNMT biển do dầu vẫn dựa trên các nguyên tắc cơ bản quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005. Mặc dù Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường đã có Thông tư số 2262/1995/TT-MTG hướng dẫn về vấn đề bồi thường do ô nhiễm dầu, song các thủ tục không thống nhất trong hệ thống các cơ quan, dẫn đến việc bồi thường diễn ra chậm chạp, luôn phải đợi ý kiến của cấp trên hướng dẫn; chưa có quy định về lượng giá tổn thất khi có thiệt hại xảy ra; chưa có cơ chế giám sát… Ngoài ra, phạm vi của Luật Bảo vệ môi trường vẫn còn hẹp và chung chung, vì vậy quyền và nghĩa vụ của các chủ thể chưa được bao quát hết. Đặc biệt, vấn đề trách nhiệm và bồi thường thiệt hại không được quy định rõ ràng, không có biện pháp cưỡng chế dẫn đến sự hạn chế, tiêu hao quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. Việc quy trách nhiệm pháp lý trong sự cố tràn dầu chưa được quy định cụ thể, rõ ràng cho ai, chủ thể nào. Hiện nay, Việt Nam đã ban hành Luật Biển Việt Nam, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Dầu khí, nhưng chưa có quy định cụ thể về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu từ tàu. Trong thực tế, khi có các vụ tràn dầu trên biển xảy ra, cơ quan chức năng mới có văn bản hướng dẫn thực hiện.

Thứ ba, trách nhiệm pháp lý trong sự cố tràn dầu, khiếu nại yêu cầu bồi thường thiệt hại và những biện pháp đảm bảo tài chính cho việc bồi thường, giải quyết hậu quả do ô nhiễm dầu không được quy định rõ ràng, cụ thể. Thực tế là những biện pháp cưỡng chế thi hành sau khi xảy ra sự cố đối với những chủ thể có liên quan hầu hết còn thiên về mệnh lệnh hành chính, tiền phạt không đủ răn đe và không chú trọng đến vấn đề đền bù. Việc quy định thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động hàng hải và trong lĩnh vực bảo vệ môi trường như hiện nay là ngắn (quy định thời hiệu 1 – 2 năm) và có nguy cơ bỏ lọt hành vi vi phạm pháp luật. Mức xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm như hiện nay là thấp. Mức phạt tiền (mức trần) đối với các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hàng hải chỉ là 100 triệu đồng, trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa là 75 triệu đồng và mức phạt tiền (mức trần) đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường chỉ là 01 tỷ đồng. Mức xử phạt thấp này không thể so sánh với những hậu quả nghiêm trọng mà các hành vi vi phạm pháp luật gây ra. Ngoài ra, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Giám đốc cảng vụ hàng hải còn thấp và chưa phù hợp. Trên thực tế, nhiều vụ vi phạm pháp luật diễn ra thường vượt quá thẩm quyền xử phạt của Giám đốc cảng vụ. Theo quy định, vụ việc sẽ phải chuyển lên Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để xử lý, điều đó ít nhiều gây khó khăn, phát sinh các chi phí cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có liên quan.

4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại ô nhiễm môi trường do dầu từ tàu gây ra

Trước những tồn tại, bất cập của hệ thống pháp luật về bồi thường thiệt hại ÔNMT biển do dầu từ tàu gây ra, chúng tôi kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện như sau:

Một là, cần nhanh chóng xây dựng các quy phạm pháp luật để xác định, lượng giá các thiệt hại do ô nhiễm dầu đối với môi trường tự nhiên và các chi phí để khắc phục, làm sạch môi trường. Đặc biệt là những tác động của ô nhiễm dầu đối với các hệ sinh thái biển và ven biển tiêu biểu. Ngoài ra, cần đánh giá các thiệt hại gián tiếp tình trạng ô nhiễm dầu đối với sức khỏe và những tổn thất về tinh thần của người dân. Khi sự cố tràn dầu xảy ra, đi cùng với nó là sự giảm sút về sản lượng đánh bắt cá, sản lượng muối, giảm lượng khách du lịch… không chỉ ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của hàng triệu ngư dân ven biển, người dân làm dịch vụ du lịch mà còn tác động đến những người sống phụ thuộc họ. Đó là những tổn thất không dễ dàng để có thể thống kê và tính toán.

Hai là, hiện nay trình tự giải quyết các vụ kiện dân sự về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu về cơ bản vẫn áp dụng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên, chúng ta cần nhìn nhận và nghiên cứu các đặc thù của việc kiện đòi bồi thường thiệt hại liên quan đến các hoạt động trên biển mà nhất là liên quan đến việc ô nhiễm dầu, để có hướng xây dựng quy định riêng và thành lập Tòa án chuyên giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển. Mặt khác, cần nghiên cứu các quy định về tổ chức, hoạt động của Toà án quốc tế, Trọng tài quốc tế về Luật Biển để sẵn sàng đưa các vụ kiện liên quan đến tổ chức, cá nhân Việt Nam ra giải quyết theo trình tự tố tụng thay vì giải quyết theo trình tự thương lượng, ngoại giao như hiện nay.

Ba là, cần xem xét, sửa đổi quy định về thời hiệu xử phạt. Theo đó, căn cứ để xác định thời hiệu dài hay ngắn là tùy thuộc vào mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm cũng như hậu quả để lại cho môi trường biển (hậu quả trước mắt và lâu dài). Bên cạnh đó, cần nâng mức xử phạt vi phạm hành chính và nên sửa đổi mức phạt tiền theo hướng không quy định trần như hiện nay, mà quy định theo tỷ lệ gây thiệt hại cho môi trường. Đồng thời, để tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân có liên quan cũng như cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian xử lý và giảm bớt các chi phí phát sinh không đáng có trong quá trình chuyển hồ sơ vụ việc thì việc nâng mức xử phạt thuộc thẩm quyền của Giám đốc cảng vụ là cần thiết.

Bốn là, ban hành một luật chuyên biệt về bồi thường thiệt hại ÔNMT biển do dầu từ tàu gây ra, trong đó cần tập trung và làm rõ ràng những vấn đề pháp lý sau:

(i) Giải thích và làm rõ các khái niệm ÔNMT biển, ÔNMT biển do dầu, bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu;

(ii) Quy định các biện pháp phòng ngừa, xử lý và khắc phục các sự cố tràn dầu;

(iii) Quy định trình tự, thủ tục đòi bồi thường thiệt hại ÔNMT biển do dầu;

(iv) Đưa ra khung cụ thể cho việc yêu cầu bồi thường thiệt hại và khắc phục thiệt hại, tức là cần phải lượng hóa (bằng các số liệu) về mặt kinh tế đối với các thiệt hại do ô nhiễm dầu để làm căn cứ cho việc yêu cầu bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, cũng tùy vào đặc điểm của từng ngành kinh tế mà áp dụng các cách tính toán thiệt hại cho phù hợp. Vì vậy, trong đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại cần phải thể hiện rõ tổng số tiền yêu cầu bồi thường thiệt hại và khắc phục thiệt hại do sự cố gây ô nhiễm dầu là bao nhiêu?

(v) Quy định những biện pháp đảm bảo tài chính đối với các bên liên quan để đáp ứng nghĩa vụ đền bù thiệt hại, mà cụ thể là việc thành lập một Quỹ quốc gia về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu, với nguồn thu là từ việc đóng bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc với các chủ tàu có nguy cơ gây ô nhiễm dầu.

(vi) Quy định cụ thể hơn về trình tự thủ tục tố tụng và xét xử tại Tòa án (hoặc trọng tài) đối với các yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu.

(vii) Quy định cụ thể về cơ cấu, tổ chức, quyền hạn, nghĩa vụ của từng cơ quan, đơn vị có liên quan trong việc chỉ đạo, tổ chức ứng cứu và ngăn ngừa các sự cố tràn dầu, tránh tình trạng chồng chéo giữa các cơ quan như hiện nay.

ThS. Đặng Thanh Hà

Cục Hàng hải Việt Nam



[1]Nguyễn Hồng Thao, Ô nhiễm môi trường biển Việt Nam – luật pháp và thực tiễn, Nxb. Thống kê, H.., 2003.

[2]Báo cáo Kiểm soát ô nhiễm môi trường biển trong hoạt động hàng hải của Cục HHVN năm 2009.

[3] Văn Hảo (2012), “Những hậu quả ONMT biển do tràn dầu”, nguồn: http://www.vietnamplus.vn/nhung-hau-qua-o-nhiem-moi-truong-bien-do-tran-dau/173158.vnp

[4] Văn Hảo (2012), “Những hậu quả ONMT biển do tràn dầu”, nguồn: http://www.vietnamplus.vn/nhung-hau-qua-o-nhiem-moi-truong-bien-do-tran-dau/173158.vnp

[5]Nguyễn Thị Ánh Nguyệt (2011), Pháp luật Việt Nam về việc bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu trong tương quan so sánh với pháp luật Australia, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội.

[6] Theo Báo cáo tổ chức thực hiện Công ước về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại ô nhiễm môi trường biển do dầu từ tàu tại Việt Nam của Cục Hàng hải Việt Nam năm 2008.

[7] Theo Báo cáo tổ chức thực hiện Công ước về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại ô nhiễm môi trường biển do dầu từ tàu tại Việt Nam của Cục Hàng hải Việt Nam năm 2008.

[8] Theo Báo cáo tổ chức thực hiện Công ước về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại ô nhiễm môi trường biển do dầu từ tàu tại Việt Nam của Cục Hàng hải Việt Nam năm 2008.

[9] Theo Báo cáo tổ chức thực hiện Công ước về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại ô nhiễm môi trường biển do dầu từ tàu tại Việt Nam của Cục Hàng hải Việt Nam năm 2008.

[10]Nguyễn Hồng Thao, Ô nhiễm môi trường biển Việt Nam – luật pháp và thực tiễn, Nxb. Thống kê, H., 2003.

[11]32 văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có: 02 bộ luật (Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi năm 2009; Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2005); 05 luật (Luật Dầu khí năm 1993, được sửa đổi năm 2000, 2008; Luật Thủy sản năm 2004; Luật Biển Việt Nam năm 2012; Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012; Luật Bảo vệ môi trường năm 2014); 01 pháp lệnh (Pháp lệnh lực lượng Cảnh sát biển năm 2008); 11 nghị định (Nghị định số 25/2009/NĐ-CP ngày 6/3/2009 của Chính phủ về quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo; Nghị định số 72/2010/NĐ-CP ngày 8/7/2010 của Chính phủ quy định về phòng ngừa, đấu tranh, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác về môi trường ….); 02 quyết định của Thủ tướng Chính phủ (Quyết định số 256/2003/QĐ-TTG ngày 22/12/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020; Quyết định số 166/2003/QĐ-TTg ngày 21/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030); 11 quyết định, thông tư của Bộ trưởng (Thông tư 12/2011/TT-BTNMT ngày 14/4/2011 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về quản lý chất thải nguy hại; Thông tư số 26/2011/TT-BTNMT ngày 18/7/2011 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 29/2011/NĐ-CP ngày 18/4/2011 của Chính phủ quy định về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường …).

[12] 12 văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có: 01 nghị định (Nghị định số 162/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trên các vùng biển, dảo và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); 05 quyết định của Thủ tướng Chính phủ (Quyết định số 129/2001/QĐ-TTg ngày 29/8/2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch quốc gia ứng cứu sự cố tràn dầu giai đoạn 2001-2020; Quyết định số 02/2013/QĐ-TTg ngày 14/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế hoạt động ứng phó sự cố tràn dầu …); 06 quyết định, thông tư của Bộ trưởng (Thông tư liên tịch số 12/2005/TTLT-BTNMT-BGTVT ngày 8/7/2005 của liên tịch Bộ Thương Mại – Bộ Tài nguyên và Môi trường – Bộ Giao thông vận tải hướng dẫn điều kiện an toàn môi trường biển đối với hoạt động cung ứng dầu cho tàu biển; Quyết định số 59/2005/ QĐ-BGTVT ngày 21/11/2005 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải ban hành quy định về trang thiết bị an toàn hàng hải và phòng ngừa ô nhiễm môi trường biển lắp đặt trên tàu biển Việt Nam hoạt động tuyến nội địa…); 01 nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng).

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bàn về khái niệm quyết định hành chính

28/12/2015

Quyết định hành chính (QĐHC) là một nội dung cơ bản của luật hành chính hiện đại trên thế giới[1], trong đó việc ban hành các quyết định này thể hiện rõ tính chất quyền uy, quyền lực phục tùng của chủ thể quản lý (được hiểu là các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân được Nhà nước trao quyền trong lĩnh vực quản lý hành chính) tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục đích của hành vi xử sự (được gọi là khách thể của quản lý hành chính, hay trật tự quản lý hành chính nhà nước). Tuy nhiên, qua đánh giá hệ thống pháp luật ở nước ta cho thấy,vẫn còn nhiều điểmbất cập dẫn đến chất lượng của QĐHC thấp, nhiều QĐHC chưa bảo đảm tính hợp pháp, hợp lý hoặc thiếu tính khả thi, thậm chí có trường hợp QĐHC vừa ban hành đã sớm phải thu hồi hoặc hủy bỏ. Thực tiễn này “kéo theo” sự kém hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà nước, trực tiếp cản trở việc nước ta thực hiện chủ trương về một nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đạichuyển đổi từ nền hành chính can thiệp sang nền hành chính phục vụ. Chính vì tầm quan trọng của việc ban hành QĐHC đối với nền công vụ mà Dự án Luật Ban hành Quyết định hành chính đã được Bộ Tư pháp đề xuất và được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh khoá XIII của Quốc hội. Việc xây dựng Dự án Luật Ban hành Quyết định hành chính ở Việt Nam có vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 đã được Quốc hội thông qua tháng 6/2015.

Tuy nhiên, nghiên cứu Dự thảo Luật Ban hành Quyết định hành chính[2] (Dự thảo) và các văn bản pháp luật có liên quan chúng ta thấy rằng, hiện nay trong khoa học pháp lý vẫn chưa có một cách hiểu thống nhất về khái niệm QĐHC, gây khó khăn trong việc ban hành, áp dụng và xử lý các QĐHC. Chính vì vậy, trong phạm vi bài viết này, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu nội hàm khái niệm QĐHC từ góc độ phân tích các thành tố cơ bản (chủ thể, thẩm quyền, hình thức ban hành, đặc tính pháp lý của QĐHC) để hình thành nên nội hàm của khái niệm QĐHC. Bên cạnh đó, có so sánh, đánh giá khái niệm QĐHC được nêu trong Dự thảo với quan niệm của QĐHC dưới góc độ nghiên cứu lý luận tại các trường đại học, trong Luật Khiếu nại và Luật Tố tụng hành chính. Từ đó đưa ra ý kiến đề xuất góp phần làm rõ khái niệm QĐHC cho Dự thảo.

1. Các thành tố cơ bản hình thành khái niệm quyết định hành chính

1.1. Vềđặc tính pháp lý của quyết định hành chính

Thuật ngữ “quyết định” bắt nguồn từ tiếng latinh “actus”, có nghĩa là hành động, hành vi[3]. Trong tiếng Anh, quyết định “decisions” tức là kết quả của quá trình thể hiện ý chí, bản thân quyết định mang tính đơn phương dù quyết định đó do ai ban hành, trong nhiều trường hợp có thể có sự tham gia của những chủ thể khác trong quá trình tạo ra quyết định, nhưng không vì thế mà làm cho quyết định trở thành sản phẩm của quá trình đám phán, thương lượng[4]. Bởi vậy, nhiều sách, báo pháp lý nước ngoài thường gọi quyết định là hành động, hành động dẫn đến hệ quả pháp lý được gọi là quyết định pháp luật.

Theo Từ điển Luật học, quyết định hành chính là quyết định trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, thể hiện ý chí đơn phương của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, của người có chức vụ, tổ chức và cá nhân được Nhà nước trao quyền, được thực hiện trên cơ sở và để thi hành pháp luật, theo trình tự và hình thức do pháp luật quy định, hướng tới việc thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính. Quan điểm này tương đồng với quan điểm của các tác giả trong giáo trình Luật Hành chính trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, QĐHC hay còn gọi là quyết định quản lý nhà nước hiện nay được hiểu “là kết quả sự thể hiện ý chí quyền lực đơn phương của các cơ quan nhà nước và những người có thẩm quyền, của các cơ quan, của các tổ chức xã hội khi được nhà nước trao quyền, được thực hiện trên cơ sở và để thi hành luật, theo trình tự, hình thức do luật định, nhằm đặt ra chủ trương, đường lối, nhiệm vụ lớn có tính chất định hướng; hoặc đặt ra, đình chỉ, sửa đổi, áp dụng, bãi bỏ các quy phạm pháp luật hành chính hay làm thay đổi phạm vi hiệu lực của chúng hoặc làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ pháp luật hành chính cụ thể để thực hiện các nhiệm vụ và chức năng quản lý nhà nước”. Theo đó, quyết định quản lý nhà nước (QĐHC) được phân thành ba loại theo nội dung pháp lý, cụ thể: Quyết định chủ đạo, quyết định quy phạm và quyết định cá biệt[5].

Trong khi đó, theo khoản 1 Điều 2 Dự thảo, quyết định hành chính là văn bản áp dụng pháp luật do cơ quan hành chính nhà nước quy định tại khoản 2 Điều 2 Dự thảo ban hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, được áp dụng một lần nhằm giải quyết vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, nghĩa vụ, lợi ích của một hoặc một số đối tượng xác định hoặc nhằm giải quyết vấn đề liên quan đến lợi ích công cộng, được Nhà nước bảo đảm thực hiện.

Như vậy, theo Dự thảo, thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật này là một loại văn bản mà cụ thể là văn bản áp dụng pháp luật chỉ do các cơ quan hành chính ban hành. Hiện chưa có một văn bản pháp luật nào đưa ra chính thức khái niệm văn bản áp dụng pháp luật, tuy nhiên, văn bản áp dụng pháp luật hay văn bản áp dụng quy phạm pháp luật là những khái niệm tuy không được sử dụng trong pháp luật thực định, nhưng lại là khái niệm được sử dụng rất phổ biến trong các giáo trình, sách, báo pháp lý. Văn bản áp dụng quy phạm pháp luật có thể hiểu là văn bản do chủ thể có thẩm quyền ban hành dựa trên cơ sở các quy định của văn bản quy phạm pháp luật, theo hình thức, thủ tục luật định, được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể, khác với văn bản quy phạm pháp luật có phạm vi đối tượng điều chỉnh rộng, hiệu lực nhiều lần. Vì vậy, văn bản áp dụng quy phạm pháp luật làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể, là phương tiện đưa pháp luật vào thực tế cuộc sống[6].

Theo cách hiểu về văn bản áp dụng pháp luật hiện nay và đối chiếu với sự phân loại các QĐHC theo giáo trình Luật Hành chính Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh thì QĐHC là văn bản áp dụng pháp luật hay nói cách khác nó chính là quyết định cá biệt – một trong ba loại QĐHC. Vấn đề đặt ra ở chỗ, nội hàm của khái niệm QĐHC đã bị thu hẹp một cách bất hợp lý so với cách hiểu chính thức. Đối với quyết định quy phạm, luật có thể không điều chỉnh vì đã có Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 điều chỉnh, tuy nhiên, đối với quyết định chủ đạo thì vẫn bị “bỏ ngỏ”, chưa được điều chỉnh bởi một văn bản riêng biệt nào.

Theo tác giả, Dự thảo nên làm rõ khái niệm QĐHC bao gồm ba loại: Quyết định chủ đạo, quyết định quy phạm, quyết định cá biệt và đưa ra định nghĩa đối với từng loại quyết định. Theo đó, đối với quyết định quy phạm thì có thể sử dụng kỹ thuật lập pháp dẫn chiếu tới Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 để xác định thẩm quyền ban hành, nội dung, trình tự ban hành, còn Luật Ban hành quyết định hành chính sẽ tập trung điều chỉnh đối với hai loại QĐHC còn lại là quyết định chủ đạo và quyết định cá biệt.

1.2. Về hình thức thể hiện của quyết định hành chính

Trong khoa học pháp lý tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về quyết định: Có quan điểm coi quyết định là hành động, hành vi; sự lựa chọn các phương án, mệnh lệnh; văn bản; sự thể hiện ý chí quyền lực nhà nước; kết quả và hình thức thể hiện của hoạt dộng nhà nước… Ngay cả việc bỏ phiếu của công dân trong các cuộc bầu cử cũng được khoa học lý luận chung về nhà nước và pháp luật coi là quyết định.

Theo quan điểm của các giáo trình tại các cơ sở giảng dạy đại học hiện nay thì QĐHC được thể hiện dưới hai hình thức: Bằng văn bản hoặc tồn tại dưới hình thức tín hiệu, còi hiệu, biển báo… Tuy nhiên, những quyết định này phải thể hiện sao cho đối tượng thi hành hiểu được ý chí truyền tải trong đó (ví dụ: Còi, cờ, đèn, gậy chỉ đường của cảnh sát giao thông…).

Hiện nay, Dự thảo quy định hình thức của QĐHC chỉ được thể hiện dưới một hình thức duy nhất là văn bản cá biệt. Trên thực tế khi tiến hành rà soát các QĐHC, Cục Kiểm soát thủ tục hành chính – Bộ Tư pháp đã xác định có 12 loại QĐHC cá biệt là kết quả của các thủ tục hành chính, bao gồm: Văn bằng, biển hiệu, chứng chỉ, giấy chứng nhận, giấy xác nhận, giấy phép, giấy đăng ký, văn bản phê duyệt, quyết định hành chính, thẻ, văn bản chấp nhận, văn bản xác nhận. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, ngoài 12 loại QĐHC trên còn có một số loại hình thức QĐHC cá biệt phổ biến khác nhưng lại không được quy định tại văn bản pháp luật nào, cụ thể như: Văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư, văn bản chỉ đạo, văn bản cho phép, thông báo thuế, thông báo thu hồi, giới thiệu địa điểm đầu tư[7]. Như vậy, nếu quy định QĐHC chỉ được ban hành dưới hình thức văn bản có tên gọi là quyết định thì những văn bản mặc dù có tên gọi khác nhưng chứa đựng nội dung của QĐHC sẽ được điều chỉnh bởi cơ sở pháp lý nào.

Mặt khác, Luật Tố tụng hành chính năm 2010 cũng quy định QĐHC thuộc đối tượng khởi kiện phải đáp ứng bốn đặc điểm[8], trong đó đặc điểm đầu tiên là phải được thể hiện bằng văn bản. Theo khoản 1 Điều 28 Luật Tố tụng hành chính năm 2010 thì chỉ hình thức là văn bản mới là đối tượng khiếu kiện hành chính tại Tòa án. Luật Tố tụng hành chính năm 2010 và các văn bản pháp luật có liên quan không có quy định thế nào là văn bản, nhưng trong giáo trình Xây dựng văn bản pháp luật của Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm: “Văn bản là phương tiện ghi và truyền đạt thông tin bằng ngôn ngữ hay một loại ký hiệu nhất định”[9]. Như vậy, QĐHC thể hiện dưới hình thức bằng văn bản là những dạng thức tồn tại nội dung quyết định (ngôn ngữ hoặc một loại ký hiệu nhất định) có thể lưu giữ lại làm bằng chứng. Sở dĩ nhà làm luật quy định như vậy vì xuất phát từ bản chất của tố tụng là phải có chứng cứ để chứng minh, nên chỉ có hình thức văn bản mới là chứng cứ xác thực nhất.

Hình thức văn bản là yêu cầu bắt buộc để QĐHC là đối tượng khiếu kiện hành chính. Tuy nhiên, không phải chỉ có những văn bản tồn tại dưới tên gọi quyết định mới là đối tượng để khởi kiện vụ án hành chính, mà các QĐHC còn có thể được thể hiện dưới các hình thức khác như thông báo, kết luận, công văn do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành có chứa đựng nội dung của QĐHC thì vẫn được xem là thể hiện bằng hình thức văn bản (xem hướng dẫn tại khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Tố tụng hành chính). Điều này đã cho thấy quyền khiếu kiện được mở rộng hơn đối với yêu cầu tên gọi của QĐHC, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án trong việc xác định đối tượng khởi kiện để tiến hành thụ lý.

Như vậy, trường hợp cá nhân hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành một văn bản không có tên gọi là một QĐHC, nhưng nội dung là một QĐHC thì vẫn được xem là đối tượng khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân. Cũng theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính năm 2010 thì QĐHC mang tính cá biệt, vì nó “quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể”. Các QĐHC này không chỉ là sự cá biệt hóa các quy phạm pháp luật trong những trường hợp cụ thể mà còn là sự cá biệt hóa đối với những đối tượng xác định cụ thể với những đặc điểm riêng biệt về tên gọi, nơi cư trú[10]

Như vậy, mặc dù yêu cầu của QĐHC cũng phải được thể hiện dưới hình thức văn bản, nhưng QĐHC trong Luật Tố tụng hành chính năm 2010 có nội hàm rộng hơn do chủ thể có thẩm quyền ban hành QĐHC rộng hơn, không chỉ bao gồm các cơ quan hành chính nhà nước từ cấp Bộ trở xuống như Dự thảo. Đồng thời, QĐHC trong Luật Tố tụng hành chính năm 2010 mặc dù thể hiện dưới hình thức văn bản – quyết định cá biệt nhưng không nhất thiết phải mang tên gọi quyết định, mà có thể tồn tại dưới các hình thức khác như công văn, kết luận, thông báo có chứa nội dung của QĐHC.

1.3. Về thẩm quyền ban hành quyết định hành chính

Theo quan điểm của các học giả nghiên cứu về QĐHC và Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh thì các chủ thể sau đây có quyền ban hành QĐHC: Chính phủ (ban hành dưới hình thức nghị quyết, nghị định); Thủ tướng Chính phủ (ban hành dưới hình thức quyết định, chỉ thị); Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ (ban hành dưới hình thức thông tư, quyết định, chỉ thị); sự phối hợp giữa các chủ thể trong ban hành văn bản liên tịch theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 tồn tại dưới hình thức nghị quyết liên tịch hay thông tư liên tịch; Ủy ban nhân dân các cấp (ban hành dưới hình thức quyết định gồm quyết định quy phạm hoặc cá biệt, chỉ thị trên thực tế thường là quyết định cá biệt); Chủ tịch Ủy ban nhân dân (ban hành dưới hình thức quyết định cá biệt); thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân (ban hành dưới hình thức quyết định cá biệt); thủ trưởng các cơ quan thuộc Chính phủ, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị trực thuộc cơ quan hành chính nhà nước, những cá nhân được trao quyền (ban hành dưới hình thức quyết định, chỉ thị mang tính cá biệt là chủ yếu)[11].

Khái niệm QĐHC trong Dự thảo không chỉ thu hẹp để điều chỉnh một loại QĐHC duy nhất là QĐHC cá biệt tồn tại dưới hình thức văn bản, mà còn giới hạn là chỉ do các cơ quan hành chính nhà nước ban hành được nêu trong khoản 2 Điều 2 Dự thảo. Theo đó, các cơ quan ban hành QĐHC bao gồm: Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Bộ, trực thuộc cơ quan ngang Bộ; Ủy ban nhân dân các cấp; Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp; thủ trưởng các cơ quan chuyên môn trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, thủ trưởng cơ quan, tổ chức được giao thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước.

Quy định này vô hình trung đã “loại” các QĐHC của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành. Việc đưa ra khái niệm về QĐHC hẹp như trong Dự thảo không chỉ khác với quan điểm và cách hiểu trong khoa học pháp lý mà còn mâu thuẫn với khái niệm QĐHC trong các văn bản quy phạm pháp luật khác như Luật Tố tụng hành chính năm 2010 và Luật Khiếu nại năm 2011.

Trong Luật Tố tụng hành chính năm 2010, khiếu kiện QĐHC là một trong năm loại việc được khiếu kiện quy định tại Điều 28 Luật Tố tụng hành chính năm 2010[12]. Khoản 1 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính năm 2010 đưa ra khái niệm: QĐHC là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. QĐHC là loại việc đầu tiên được quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật Tố tụng hành chính năm 2010 thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, đây cũng là loại việc phổ biến nhất mà thực tiễn Tòa án đã thụ lý.

Như vậy, quan điểm của Luật Tố tụng hành chính năm 2010 về khái niệm QĐHC là rộng hơn, không chỉ bao gồm các QĐHC do cơ quan hành chính nhà nước ban hành như Dự thảo, mà còn cả các cơ quan, tổ chức khác và người có thẩm quyền trong cơ quan tổ chức đó ban hành.

Cũng theo khoản 8 Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011, QĐHC được định nghĩa là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành để quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. Theo quy định này thì QĐHC thuộc đối tượng khiếu nại rộng hơn so với Dự thảo, đó là không chỉ bao gồm các QĐHC do cơ quan hành chính nhà nước ban hành, mà còn bao gồm cả người có thẩm quyền trong các cơ quan hành chính nhà nước từ cấp Bộ trở xuống có QĐHC bị khiếu nại.

Việc không đưa QĐHC của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ vào đối tượng điều chỉnh của Luật Ban hành quyết định hành chính xuất phát từ quan điểm của Ban soạn thảo là so với QĐHC do các cơ quan hành chính khác ban hành, thì QĐHC của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ là không nhiều. Bên cạnh đó, các quyết định do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành thường là các quyết định mang tính định hướng, các chính sách phát triển kinh tế – xã hội hoặc trong các lĩnh vực cụ thể, các quyết định để phê duyệt, chấp thuận các chủ trương (bao gồm chủ trương đầu tư, chủ trương thực hiện dự án thuộc thẩm quyền, phê duyệt thu hồi đất trên một địa bàn cụ thể),phê duyệt kế hoạch, chiến lược… mà không trực tiếp tạo ra quyền và nghĩa vụ cho một hoặc một nhóm đối tượng xác định cụ thể. Đôi khi, các quyết định này còn mang tính chính trị hoặc đường lối, kế hoạch hành động của Chính phủ trong một giai đoạn. Do đó, các quyết định hành chính của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ được xác định không phải là đối tượng khiếu nại và khởi kiện ra Tòa. Hiện tại, Luật Tố tụng hành chính năm 2010 cũng chỉ điều chỉnh đến các QĐHC từ cấp Bộ trưởng ban hành trở xuống nên Luật Ban hành quyết định hành chính không điều chỉnh đối tượng này[13].

Tuy nhiên, theo ý kiến của tác giả, việc Dự thảo chỉ quy định điều chỉnh các QĐHC do các cơ quan hành chính ban hành chưa bao bao quát hết các chủ thể ban hành QĐHC (như Quốc hội phê duyệt các dự án đầu tư theo thẩm quyền, Tòa án ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính tại phiên tòa…). Đồng thời, chưa khẳng định được vai trò của Chính phủ là “cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (theo quy định tại Điều 94 của Hiến pháp năm 2013) khi loại trừ các QĐHC của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ ra khỏi phạm vi điều chỉnh của Dự thảo. Mặc dù số lượng các QĐHC do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ ban hành không nhiều so với các chủ thể khác, nhưng những quyết định này lại có vai trò quan trọng, vì nó được ban hành bởi cơ quan hành chính nhà nước cao nhất hoặc người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cao nhất ở nước ta và trong mối quan hệ giữa cơ quan cấp trên – cấp dưới thì khả năng tác động và mức ảnh hưởng của những QĐHC dù số lượng nhỏ” nhưng mang quyền lực không nhỏ” này. Do vậy, không thể loại trừ QĐHC của Chính phủ và Thủ tưởng Chính phủ ra khỏi đối tượng điều chỉnh của Dự thảo.

Bên cạnh đó, khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định về nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước, theo đó: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Có nhiều cách thức và cơ chế để các cơ quan thực hiện việc kiểm soát quyền lực lẫn nhau, trong đó, sự kiểm soát quyền lực của cơ quan lập pháp đối với nhánh quyền lực hành pháp, nhất là Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong việc ban hành các QĐHC, được xem là một nội dung quan trọng trong các hoạt động của Chính phủ. Do vậy, cần cụ thể hóa quy định này của Hiến pháp vào trong Luật Ban hành quyết định hành chính, coi đây như một ”kênh” để Quốc hội kiểm soát quyền lực của Chính phủ trong việc ban hành văn bản pháp luật.

2. Một số kiến nghị về khái niệm quyết định hành chính

Căn cứ vào điều kiện thực tiễn và sự phù hợp với pháp luật Việt Nam hiện nay, có tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm các quốc gia tiên tiến trong kỹ thuật lập pháp, tác giả có một số kiến nghị với Dự thảo như sau:

Một là, Dự thảo luật nên tập trung quy định và trở thành luật thủ tục thì phù hợp hơn là luật quy định về nội dung quyết định hành chính. Bởi trên thực tế, QĐHC được quy định rải rác trong các văn bản pháp luật chuyên ngành và nó phù hợp với đặc thù của từng ngành, lĩnh vực. Do vậy, Luật Ban hành quyết định hành chính chỉ nên là luật chung nhất xác định các tiêu chí cần có của một QĐHC và trình tự, thủ tục ban hành cũng như xử lý đối với các QĐHC khi có sai phạm ra sao. Theo đó, các tiêu chí này gồm: tính bắt buộc, mệnh lệnh hành chính đơn phương, tác động đến quyền và nghĩa vụ của các tổ chức cá nhân trong quá trình quản lý nhà nước, ban hành đúng trình tự pháp luật.

Về trình tự thủ tục ban hành, Dự thảo chỉ nên quy định một quy trình ngắn gọn, đơn giản, nhưng vẫn chặt chẽ để phù hợp với tính “hành chính” luôn biến động, thay đổi hàng ngày, hàng giờ:

– Bước 1: Xác định nhu cầu ban hành quyết định hành chính trên cơ sở yêu cầu quản lý nhà nước hoặc yêu cầu của cá nhân, tổ chức;

– Bước 2: Thu thập thông tin; xác định căn cứ pháp luật;

– Bước 3: Xây dựng dự thảo quyết định hành chính;

– Bước 4: Tham vấn ý kiến của đối tượng thi hành, của cơ quan, tổ chức có liên quan;

– Bước 5: Kiểm tra tính pháp lý của dự thảo quyết định hành chính;

– Bước 6: Ký, gửi, công bố quyết định hành chính.

Hai là, Dự thảo cần làm rõ khái niệm QĐHC, trong đó bao gồm ba loại QĐHC: Quyết định chủ đạo, quyết định quy phạm, quyết định cá biệt. Đối với quyết định quy phạm, Dự thảo nên dẫn chiếu áp dụng Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật còn Dự thảo chỉ điều chỉnh quyết định chủ đạo và quyết định cá biệt. Tác giả đề xuất khái niệm quyết định hành chính như sau: “QĐHC là kết quả của hoạt động quản lý nhà nước được thể hiện dưới hình thức văn bản hoặc các hình thức khác do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành có tính chất bắt buộc thi hành; làm phát sinh quyền, hoặc buộc thực hiện nghĩa vụ đối với cá nhân, tổ chức”. Đồng thời, xác định cơ quan hành chính nhà nước theo nghĩa rộng, bao gồm các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương (cả Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ) tới địa phương.

Ba là, Dự thảo nên có quy định dự liệu để điều chỉnh các văn bản mặc dù không tồn tại dưới hình thức văn bản có tên gọi là QĐHC, nhưng lại chứa đựng nội dung của QĐHC để phù hợp hơn với thực tiễn và quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2010.

Vũ Thị Ngọc Dung, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh

Châu Vĩ Tuấn, Phòng Tư pháp quận 1, TP. Hồ Chí Minh



[1]Nhiều quốc gia đã ban hành một đạo luật riêng có tên gọi là “Luật Thủ tục hành chính” như Cộng hòa liên bang Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ (bao gồm ở cả cấp liên bang và bang), Croatia, Serbia, Latvia, Hungary…; một số nước như Na Uy, Hà Lan, Đan Mạch ban hành “Luật Hành chính công”, trong đó có điều chỉnh một số nguyên tắc liên quan đến việc ban hành QĐHC. Xem thêm: Vụ Pháp luật Hình sự – Hành chính, Báo cáo kinh nghiệm quốc tế về ban hành quyết định hành chính, Tài liệu phục vụ góp ý Dự thảo Luật Ban hành quyết định hành chính.

[2]Dự thảo được đưa ra xin ý kiến tại phiên họp thứ 41 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIII, 9/2015, đăng trên http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=1057&TabIndex=1&LanID=1058.

[3]Xem thêm: PGS.TS. Nguyễn Cửu Việt: Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb.Chính trị quốc gia, 2008, tr.305.

[4] Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, PGS.TS. Nguyễn Cửu Việt (chủ biên), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, 2014.

[5] Xem thêm: Khái niệm quyết định chủ đạo, quyết định quy phạm, quyết định cá biệt, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, PGS.TS. Nguyễn Cửu Việt (chủ biên), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, 2014, tr.4 51 – 454.

[6] Xem thêm: Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Giáo trình môn Xây dựng văn bản pháp luật, TP. Hồ Chí Minh, 2014.

[7] Bộ Tư pháp, Báo cáo đánh giá tác động pháp luật Dự án Luật Ban hành quyết định hành chính, Tài liệu góp ý Dự án Luật Ban hành quyết định hành chính.

[8] Xem thêm: Vũ Thị Nga, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật, Thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tòa án nhân dân theo loại việc bị khiếu kiện, TP. Hồ Chí Minh, 2013.

[9] Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Xây dựng văn bản pháp luật, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 14.

[10] Lê Việt Sơn (2012), Bàn về thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân theo loại việc bị khiếu kiện, Tạp chí Khoa học pháp lý năm 2012 (số 6), tr. 16.

[11] Các chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật có sự thay đổi theo quy định tại Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, được Quốc hội thông qua vào tháng 6/2015, có hiệu lực từ ngày 01/7/2016.

[12] Bao gồm: Khiếu kiện QĐHC; khiếu kiện hành vi hành chính; khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân; khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc đối với công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống; và quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh.

[13] Xem thêm: Bộ Tư pháp, Báo cáo đánh giá tác động pháp luật Dự án Luật Ban hành quyết định hành chính, Tài liệu phục vụ góp ý Dự thảo.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Vấn đề cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính

26/11/2015

Cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính (TTQLHC) là những hành vi nguy hiểm cho xã hội có đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể xâm phạm TTQLHC được Bộ luật Hình sự quy định. Như vậy, trên cơ sở pháp lý quy định tại Điều 2 Bộ luật Hình sự năm 1999, chúng tôi cho rằng chỉ hành vi có đầy đủ các yếu tố cấu thành một tội phạm cụ thể xâm phạm TTQLHC được quy định tại Chương XX “Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính” Bộ luật hình sự năm 1999 thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về loại tội phạm này. Phân tích cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm xâm phạm TTQLHC thực chất là phân tích quy định của pháp luật hình sự về các dấu hiệu pháp lý cấu thành tội phạm cụ thể xâm phạm TTQLHC, những dấu hiệu có ý nghĩa định tội đối với các tội xâm phạm TTQLHC.

1. Khách thể của các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính

Khách thể loại của các tội xâm phạm TTQLHC là những quan hệ xã hội tồn tại trong các lĩnh vực của quản lý hành chính nhà nước, xâm phạm đến hoạt động bình thường, đúng đắn của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, làm giảm hiệu quả và hiệu lực quản lý hành chính nhà nước.

Trong khi đó, khách thể trực tiếp của các tội xâm phạm TTQLHC là quan hệ xã hội cụ thể bị tội phạm cụ thể trực tiếp gây thiệt hại hoặc đe dọa gây hại. Bất cứ tội phạm cụ thể nào xâm phạm TTQLHC cũng có khách thể trực tiếp. Nghiên cứu các tội phạm cụ thể xâm phạm TTQLHC, chúng tôi thấy khách thể trực tiếp của loại tội phạm này là quan hệ xã hội về: Hoạt động bình thường của người thi hành công vụ, của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước; các quy định của Nhà nước về thực hiện các quyền; quản lý việc thực hiện nghĩa vụ quân sự và việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của công dân; chế độ bảo vệ bí mật nhà nước; TTQLHC trong lĩnh vực quản lý chức vụ, cấp bậc và uy tín của cán bộ; trật tự quản lý nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý, sử dụng các giấy chứng nhận, tài liệu của cơ quan tổ chức; trật tự quản lý nhà nước về chấp hành các quyết định hành chính; TTQLHC nhà nước trong lĩnh vực quản lý nhà ở; TTQLHC nhà nước trong lĩnh vực xuất bản và phát hành sách, báo, đĩa âm thanh, băng âm thanh, đĩa hình hoặc các ấn phẩm khác; TTQLHC trong lĩnh vực bảo vệ quản lý và sử dụng các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh; chế độ quản lý nhà nước về khu vực biên giới quốc gia; TTQLHC trong lĩnh vực xuất nhập cảnh; TTQLHC trong quan hệ đối nội, đối ngoại và khách thể đặc biệt là quốc thể.

Tuy nhiên, mỗi quan hệ xã hội là khách thể trực tiếp của một nhóm tội phạm cụ thể xâm phạm TTQLHC như: Quan hệ xã hội trong TTQLHC của việc thực hiện nghĩa vụ quân sự là khách thể trực tiếp của tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự, tội làm trái các quy định về thực hiện nghĩa vụ quân sự; TTQLHC trong lĩnh vực quản lý chức vụ, cấp bậc và uy tín của cán bộ là khách thể trực tiếp của tội giả mạo chức vụ, cấp bậc… Do đó, việc xác định khách thể trực tiếp của các tội xâm phạm TTQLHC là căn cứ để chia những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến lĩnh vực này thành những nhóm tội phạm khác nhau. Căn cứ vào khách thể trực tiếp, có thể chia các tội xâm phạm TTQLHC thành những nhóm sau đây:

– Các tội xâm phạm hoạt động bình thường của người thi hành công vụ, của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội;

– Các tội xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân;

– Các tội xâm phạm TTQLHC việc thực hiện nghĩa vụ quân sự và việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của công dân;

– Các tội xâm phạm chế độ bảo vệ bí mật nhà nước;

– Các tội xâm phạm TTQLHC trong lĩnh vực quản lý chức vụ, cấp bậc và uy tín của cán bộ;

– Các tội xâm phạm trật tự quản lý nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý, sử dụng các giấy chứng nhận, tài liệu của cơ quan, tổ chức;

– Các tội xâm phạm về trật tự quản lý nhà nước về chấp hành các quyết định hành chính;

– Các tội xâm phạm về TTQLHC nhà nước trong lĩnh vực quản lý nhà ở; lĩnh vực xuất bản và phát hành;

– Các tội xâm phạm về TTQLHC trong lĩnh vực bảo vệ quản lý và sử dụng các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh;

– Các tội xâm phạm TTQLHC về khu biên giới, trong lĩnh vực xuất – nhập cảnh, quan hệ đối nội, đối ngoại;

– Các tội xâm phạm đến TTQLHC về Quốc kỳ, Quốc huy.

Bên cạnh đó, đối tượng tác động của các tội xâm phạm TTQLHC là bộ phận khách thể của nhóm tội phạm này, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ[1]. Vì thế, đối tượng của tội phạm cụ thể xâm phạm TTQLHC có thể là con người như tội chống người thi hành công vụ; là chính sách về nghĩa vụ quân sự như tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự, tội không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ, tội làm trái các quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự, tội cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự; là bí mật nhà nước bao gồm: Những tin tức về vụ, việc, tài liệu, địa điểm, vật, lời nói có nội dung quan trọng thuộc các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, khoa học, công nghệ hoặc các lĩnh vực khác mà Nhà nước chưa công bố hoặc không công bố như tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước, tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước và tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước, tội làm mất tài liệu bí mật của nhà nước; là chức vụ, cấp bậc mà Nhà nước quy định cho cán bộ, nhân viên trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị lực lượng vũ trang như tội giả mạo chức vụ, cấp bậc; hộ chiếu, thị thực, hộ khẩu, hộ tịch hoặc các loại giấy chứng nhận và tài liệu khác của cơ quan, tổ chức như tội sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của cơ quan, tổ chức, tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức…

2. Mặt khách quan của các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính

Mặt khách quan của các tội xâm phạm TTQLHC là những biểu hiện của các tội phạm này diễn ra bên ngoài, là những yếu tố thuộc về thế giới khách quan, trong đó, dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu bắt buộc trong các cấu thành tội phạm.

Trước hết, hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi xâm phạm tới các lĩnh vực TTQLHC. Hành vi phạm tội xâm phạm TTQLHC về cơ bản được thể hiện dưới dạng hành động, tức là bằng việc thực hiện hành vi cụ thể, người phạm tội đã tích cực thực hiện một việc làm trái pháp luật nào đó như chống người thi hành công vụ, làm lộ bí mật nhà nước… Ngoài ra, hành vi phạm tội xâm phạm TTQLHC còn có thể được thể hiện dưới dạng không hành động, tức là không làm một việc mà pháp luật bắt phải làm như không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, không chấp hành các quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh. Vì vậy, việc đánh giá hành vi nào là hành vi nguy hiểm cho xã hội tới mức bị coi là tội phạm khi xâm phạm TTQLHC phụ thuộc vào tình hình phát triển của xã hội và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Nếu trước đây, hành vi sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của cơ quan, tổ chức chưa bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính đã là hành vi nguy hiểm cho xã hội, thì nay Điều 266 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định hành vi trên đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính mà còn vi phạm, mới là hành vi nguy hiểm cho xã hội và được coi là hành vi phạm tội. Ngược lại, có hành vi trước đây chưa được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng nay lại coi là nguy hiểm cho xã hội và được coi là tội phạm, như việc không chấp hành lệnh gọi quân nhân nhập ngũ trước đây không bị coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nay hành vi này được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội và bị coi là tội phạm.

Trong từng tội phạm cụ thể xâm phạm TTQLHC, biểu hiện của hành vi khách quan cũng khác nhau. Dấu hiệu đã bị xử lý hành chính về hành vi đó mà còn vi phạm là dấu hiệu bắt buộc của một số cấu thành tội phạm được thể hiện trong Bộ luật Hình sự năm 1999 như: Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự (Điều 259); tội sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận các tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 266); tội vi phạm các quy định về quản lý nhà ở (Điều 270); tội vi phạm quy định về bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 272); tội vi phạm quy chế về biên giới (Điều 273)… Dấu hiệu “đã bị kết án về tội này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” là dấu hiệu cấu thành của một số tội phạm như: Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự (Điều 259); tội vi phạm các quy định về quản lý nhà ở (Điều 270); tội vi phạm quy định về bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 272)…

Ngoài ra, đa số các cấu thành tội phạm trong các tội xâm phạm TTQLHC có cấu thành hình thức, nghĩa là dấu hiệu hậu quả không được phản ánh là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội phạm. Dấu hiệu gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng là dấu hiệu định khung tăng nặng của các tội phạm ở các Điều 275, 262, 263, 264, 266, 276, 268, 272, 275 Bộ luật Hình sự năm 1999. Có 1/20 Điều luật trong Chương XX này có hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm là tội vi phạm các quy định về bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 214). Dấu hiệu “hậu quả nghiêm trọng” có thể là những thiệt hại về vật chất có thể tính toán, đo lường được, cũng có thể là thiệt hại phi vật chất như thiệt hại về chính trị, tinh thần, danh tiếng… không thể tính toán được. Xuất phát từ ngay tiêu đề tên gọi “Các tội xâm phạm TTQLHC” trong Bộ luật Hình sự năm 1999 nên các hành vi xâm phạm gây ra thiệt hại chủ yếu liên quan đến tổ chức, ngành hoặc Nhà nước mà ít liên quan đến cá nhân như các tội phạm khác trong Bộ luật như tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội vi phạm quy chế về khu vực biên giới; tội xúc phạm Quốc kỳ, Quốc huy…

Tính chất, mức độ của hậu quả do hành vi phạm tội cụ thể xâm phạm TTQLHC gây ra được xác định bởi: Tính chất và mức độ biến đổi đối tượng tác động của tội phạm hoặc những đặc điểm (về chất và lượng) của chính đối tượng tác động đã bị hành vi xâm phạm TTQLHC làm biến đổi tình trạng. Tính chất và mức độ của hậu quả do hành vi phạm tội cụ thể xâm phạm TTQLHC gây ra là căn cứ để chia các tội phạm này thành loại tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Ngoài những nội dung biểu hiện của mặt khách quan đã được trình bày ở trên, mặt khách quan của các tội xâm phạm TTQLHC còn có công cụ, phương tiện phạm tội, phương pháp, thủ đoạn phạm tội, địa điểm, thời gian phạm tội.

Công cụ, phương tiện phạm tội xâm phạm TTQLHC là những đối tượng được chủ thể của tội phạm sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội của mình như để thực hiện hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức, người phạm tội đã sử dụng máy in, mực in để làm ra các tài liệu giả đó…

Phương pháp, thủ đoạn thực hiện các tội xâm phạm TTQLHC rất đa dạng như phạm tội bằng cách dùng vũ lực đối với người thi hành công vụ; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm trái các quy định về nghĩa vụ quân sự; lén lút, gian dối, uy hiếp thể chất hoặc tinh thần đối với người quản lý tài liệu bí mật nhà nước để lấy các tài liệu đó; dùng giấy tờ giả; mặc trang phục giống với trang phục mà người phạm tội muốn giả mạo; đeo cấp hàm, cấp hiệu giống với cấp hàm, cấp hiệu mà người phạm tội muốn giả mạo; tẩy xóa, viết thêm làm sai lệch nội dung của hộ chiếu, thị thực, hộ khẩu, hộ tịch hoặc các loại giấy chứng nhận và tài liệu khác của cơ quan, tổ chức; in lậu, bán hoặc phân phối lậu các ấn phẩm đã in lậu; in và phát hành các ấn phẩm Nhà nước cấm… Do đó, tùy từng tội phạm cụ thể mà các nhà làm luật đã mô tả các phương pháp, thủ đoạn phạm tội trong từng cấu thành tội phạm cụ thể.

Thời gian phạm tội không phải là các dấu hiệu bắt buộc đối với các cấu thành cơ bản của các tội xâm phạm TTQLHC. Tuy nhiên, thời gian được Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định là những tình tiết định tội hoặc định khung hình phạt của một số tội phạm cụ thể xâm phạm TTQLHC. Chẳng hạn, “phạm tội trong thời chiến”, “có chiến tranh”, “có lệnh tổng động viên, có nhu cầu tăng cường cho lực lượng thường trực của quân đội” là những tình tiết loại này trong các tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự; tội không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ, tội làm trái quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự…

Bên cạnh đó, một số phương pháp, thủ đoạn phạm tội xâm phạm TTQLHC như “phạm tội có tổ chức”;lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội”; “phạm tội nhiều lần”gây hậu quả nghiêm trọng” được coi là các tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự của một số tội xâm phạm TTQLHC như tội chống người thi hành công vụ, tội cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự… Đối với một số tội xâm phạm TTQLHC, trong cấu thành cơ bản tình tiết “đã bị xử lý kỷ luật” hoặc “đã bị xử phạt hành chính” về hành vi xâm phạm TTQLHC được coi là dấu hiệu định tội như tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự; tội vi phạm các quy định về quản lý nhà ở…

4. Chủ thể của các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính

Một người sẽ trở thành chủ thể của tội phạm nếu họ có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự mà Bộ luật Hình sự quy định. Do đó, chủ thể của các tội phạm này có ba đặc điểm sau:

Một là, một số tội phạm xâm phạm TTQLHC được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999 có chủ thể đặc biệt. Đó là các tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự (Điều 259); tội không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ (Điều 260); tội làm trái các quy định về thực hiện nghĩa vụ quân sự (Điều 261); tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước (Điều 263); tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước; tội làm mất tài liệu bí mật nhà nước; tội không chấp hành các quyết định hành chính của cơ quan có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính (Điều 269).

Ngoài ra, đối với mỗi tội phạm này lại có những điểm lưu ý. Chẳng hạn, đối với tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự chỉ đối với những người ở một độ tuổi nhất định theo Luật Nghĩa vụ quân sự quy định mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Theo quy định tại Điều 30 Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015 thì, công dân nam giới đủ 18 tuổi được gọi nhập ngũ, công dân được đào tạo trình độ cao đẳng, đại học sẽ được tạm hoãn gọi nhập ngũ thì độ tuổi gọi nhập ngũ là 27 tuổi, nhưng không phải chỉ những người từ đủ 18 tuổi đến hết 27 tuổi mới là chủ thể của tội phạm này, vì đó là tuổi gọi nhập ngũ, còn theo quy định tại Điều 12 Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015 thì công dân nam giới đủ 17 tuổi trong năm đó phải đến cơ quan quân sự để đăng ký nghĩa vụ quân sự. Do đó, chủ thể của tội phạm này là công dân nam giới từ đủ 17 tuổi đến hết 27 tuổi… Hoặc đối với công dân nữ, chỉ có thể trở thành chủ thể của tội phạm này khi họ có chuyên môn cần cho quân đội, trong thời bình không chấp hành việc đăng ký nghĩa vụ quân sự hoặc không chấp hành lệnh gọi huấn luyện. Nếu trong thời chiến thì họ có thể trở thành chủ thể của tội phạm này đối với cả hành vi không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, còn trong thời bình họ chỉ được gọi nhập ngũ nếu họ tự nguyện, nên không phải là chủ thể của tội phạm này. Như vậy, việc xác định chủ thể của tội phạm này phải căn cứ vào các quy định của Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015.

Hai là, hầu hết các tội phạm xâm phạm TTQLHC là tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng nên chủ thể của các tội này không thể là người chưa đủ 16 tuổi. Chỉ có hai tội là tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước (khoản 2 và khoản 3 Điều 263 Bộ luật Hình sự 1999) và tội tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép (khoản 2 Điều 275 Bộ luật Hình sự năm 1999) thì chủ thể mới có thể là người dưới 16 tuổi.

Ba là, do Chương XX – Các tội xâm phạm TTQLHC không có tội danh nào là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nên người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi do vô ý xâm phạm đến các quan hệ xã hội trong TTQLHC thì không cấu thành tội phạm và không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

4. Mặt chủ quan các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính

Mặt chủ quan của các tội xâm phạm TTQLHC là diễn biến bên trong phản ánh trạng thái tâm lý của chủ thể các tội phạm này đối với hành vi nguy hiểm cho xã hộivà hậu quả do hành vi đó gây ra, bao gồm các yếu tố: Lỗi, động cơ và mục đích phạm tội. Trong đó:

– Yếu tố lỗi thường được định nghĩa là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu biện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Trong Chương XX – Các tội xâm phạm TTQLHC quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999, hình thức lỗi cố ý của tội phạm cụ thể được các nhà làm luật xác định rõ ngay trong tội danh như tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức hoặc được xác định thông qua dấu hiệu hành vi, động cơ, mục đích phạm tội như tội giả mạo chức vụ, cấp bậc. Về mặt lý luận, đa số các tội trong nhóm tội xâm phạm TTQLHC là lỗi cố ý, thậm chí thuộc dạng cố ý trực tiếp, trừ tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước, tội làm mất tài liệu bí mật nhà nước (Điều 264 Bộ luật Hình sự năm 1999). Các tội xâm phạm TTQLHC đều được thực hiện với động cơ vụ lợi, tư lợi hoặc vì động cơ cá nhân khác (để thực hiện hành vi trái pháp luật khác) được quy định trong cấu thành cơ bản của tội phạm hoặc dấu hiệu định khung tăng nặng như tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của công dân (Điều 258 Bộ luật Hình sự năm 1999) hoặc tội làm trái quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự (Điều 261 Bộ luật Hình sự năm 1999).

Đa phần các tội xâm phạm TTQLHC, mục đích phạm tội không cần thiết phải phản ánh trong cấu thành tội phạm vì nó đã được thể hiện rõ qua hành vi phạm tội hoặc qua hậu quả phạm tội.

Các tội xâm phạm TTQLHC là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định tại Chương XX Bộ luật hình sự hiện hành, do những người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy định của Nhà nước về TTQLHC. Vì vậy, việc làm sáng tỏ cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với nhóm tội phạm này để rút ra những nhận xét, đánh giá nhằm tiếp tục hoàn thiện Bộ luật Hình sự nước ta có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng.

ThS. Nguyễn Kim Chi

Học viện Tư pháp



[1] Xem: GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Khách thể của tội phạm – Chương V, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, tập I, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1998, tr.84.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bàn về một số điểm mới của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015

29/12/2015

1. Bối cảnh ra đời và bố cục của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015

Quá trình thực thiện các luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã bộc lộ những bất cập, hạn chế lớn sau đây: (1) Hệ thống pháp luật quá phức tạp, cồng kềnh với số lượng quá lớn và quá nhiều hình thức văn bản pháp luật có thứ bậc hiệu lực không thật rõ ràng do nhiều cơ quan có thẩm quyền từ trung ương đến chính quyền cấp xã ban hành, gây khó khăn cho việc tuân thủ, áp dụng, thi hành; (2) Hệ thống pháp luật thiếu tính ổn định do chất lượng nhiều văn bảnpháp luật còn hạn chế, tính khả thi chưa cao, phải sửa đi sửa lại nhiều lần, ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định của môi trường đầu tư – kinh doanh và cuộc sống người dân; (3) Hiệu lực thi hành của hệ thống pháp luật chưa cao, tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh vẫn đang là nguyên nhân hạn chế hiệu lực thực tế của cả hệ thống pháp luật; chưa có cơ chế kiểm soát chặt chẽ việc xây dựng, ban hành thông tư dẫn đến nhiều văn bản không phù hợp với thực tế, còn hiệu tượng thiên về thuận lợi cho cơ quan quản lý, chưa tôn trọng đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; (4) Nguyên tắc dân chủ trong hoạt động xây dựng, ban hành văn bản pháp luật chưa được bảo đảm một cách thực chất, do vậy chưa khuyến khích được sự tham gia tích cực của Nhân dân, cũng như chưa thực sự phát huy được vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với quá trình xây dựng và thi hành pháp luật; (5) Việc tổ chức thi hành pháp luật chưa được chú trọng đúng mức, văn bản pháp luật bị vi phạm nhiều nhưng xử lý chưa kịp thời, chưa nghiêm, làm giảm hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước và giảm niềm tin của Nhân dân vào sự tôn nghiêm, công bằng của pháp luật.

Để khắc phục những bất cập, hạn chế nêu trên, đồng thời nhằm bảo đảm cụ thể hóa kịp thời nội dung của Hiến pháp năm 2013, Quốc hội Khóa XIII đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật tại kỳ họp thứ 9 ngày 22/6/2015 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016. Sau đây gọi là Luật năm 2015).

Luật năm 2015 gồm 17 chương với 137 điều, cụ thể: Chương I –Những quy định chung (gồm 14 điều, từ Điều 1 đến Điều 14); Chương II – Thẩm quyền ban hành, nội dung văn bản quy phạm pháp luật (16 điều, từ Điều 15 đến Điều 30); Chương III, IV, V, VI, VII, VIII, IX, X và XI (gồm 115 điều, từ Điều 31 đến Điều 145) quy định trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng kiểm toán nhà nước, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch và văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp; Chương XII – Xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn (gồm 4 điều, từ Điều 146 đến Điều 149); Chương XIII – Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật, nguyên tắc áp dụng, công khai văn bản quy phạm pháp luật (gồm 8 điều, từ Điều 150 đến Điều 157); Chương XIV – Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh (gồm 4 điều, từ Điều 158 đến Điều 161); Chương XV – Giám sát, kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật (gồm 6 điều, từ Điều 162 đến Điều 167); Chương XVI – Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật, rà soát, hệ thống hoát văn băn quy phạm pháp luật (gồm 3 điều, từ Điều 168 đến Điều 170); Chương XVIII – Điều khoản thi hành (gồm 3 điều, từ Điều 171 đến Điều 173).

2. Một số điểm mới của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015

2.1. Thống nhất các đạo luật hiện hành về ban hành văn bản quy phạm pháp luật thành một luật duy nhất

Trước đây, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện theo hai luật, đó là: Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 (Luật năm 2008) và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2004 (Luật năm 2004). Mặc dù cùng điều chỉnh hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tuy nhiên nội dung của hai luật có những quy định không thống nhất, thậm chí mâu thuẫn nhau như khái niệm, hình thức văn bản quy phạm pháp luật, quy trình soạn thảo, lấy ý kiến, đăng tải, đưa tin về văn bản quy phạm pháp luật…Với sự ra đời của Luật năm 2015 đã khắc phục được những bất cấp này. Sau khi Luật năm 2015 có hiệu lực (thay thế Luật năm 2008 và Luật năm 2004) việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật sẽ được áp dụng thống nhất ở trung ương và địa phương.

2.2. Làm rõ hai khái niệm: Văn bản quy phạm pháp luật và Quy phạm pháp luật

Khái niệm “Văn bản quy phạm pháp luật” được quy định lần đầu tiên trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996, sau đó tiếp tục được quy định trong Luật năm 2008 và Luật năm 2004. Việc quy định khái niệm văn bản quy phạm pháp luật là căn cứ để các cơ quan có thẩm quyền phân biệt văn bản quy phạm pháp luật với văn bản hành chính và văn bản áp dụng pháp luật, góp phần hạn chế đáng kể số lượng văn bản hành chính có chứa quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, cách định nghĩa “văn bản quy phạm pháp luật” ở Luật năm 2008 và Luật năm 2004 còn nặng về tính học thuật, chung chung, thiếu sự cụ thể, rõ ràng nên đã gây khó khăn, lúng túng cho các cơ quan, tổ chức và người dân trong việc xác định văn bản nào là văn bản quy phạm pháp luật.

Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng của khái niệm văn bản quy phạm pháp luật, nhằm khắc phục hạn chế trong việc phân biệt khái niệm văn bản quy phạm pháp luật với văn bản hành chính thông thường và những văn bản khác của cơ quan nhà nước được ban hành trong thời gian qua, Luật năm 2015 đã tách khái niệm “văn bản quy phạm pháp luật” và khái niệm “quy phạm pháp luật”. Cụ thể, theo khoản 1 Điều 3 của Luật năm 2015 thì “quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan Nhà nước, người có thẩm quyền quy định trong Luật này ban hành và được Nhà nước bảo đảm thực hiện”. Đối với khái niệm “văn bản quy phạm pháp luật”, được quy định tại Điều 2 của Luật năm 2015, theo đó “văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này. Văn bản quy phạm pháp luật nhưng được ban hành không đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này thì không phải là văn bản quy phạm pháp luật”.

Bên cạnh đó, Luật năm 2015 cũng bổ sung thêm một quy định mới khẳng định: “Văn bản có chứa quy phạm pháp luật nhưng được ban hành không đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này thì không phải là văn bản quy phạm pháp luật” (đoạn 2, Điều 2). Đây là một trong những điểm mới đáng ghi nhận của Luật năm 2015. Với quy định mang tính chất pháp quyền mạnh mẽ như vậy sẽ hạn chế, loại từ khả năng cơ quan nhà nước không có thẩm quyền hoặc có thẩm quyền nhưng ban hành văn bản một cách tùy tiện, không tuân thủ hình thức, trình tự, thủ tục do luật định nhằm né tránh sự kiểm soát, kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản trong quá trình soạn thảo, ban hành.

2.3. Về hình thức văn bản quy phạm pháp luật

Theo quy định của Luật năm 2008 và Luật năm 2004 hệ thống văn bản quy phạm pháp luật gồm 26 hình thức do 18 chủ thể có thẩm quyền ban hành, ví dụ: Hiến pháp; Bộ luật, luật, nghị quyết của Quốc hội; Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Văn bản QPPL của chính quyền đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt…

So với Luật năm 2008 và Luật năm 2004 thì Luật năm 2015 đã bỏ 05 loại hình văn bản quy phạm pháp luật, gồm:

(1) Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị – xã hội (trừ nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam);

(2) Thông tư liên tịch giữa các Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ;

(3) Chỉ thị của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;

(4) Chỉ thị của Ủy ban nhân dân cấp huyện;

(5) Chỉ thị của Ủy ban nhân dân cấp xã;

Tuy nhiên, để phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật năm 2015 đã bổ sung hình thức văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt[1].

Như vậy, việc giảm bớt hình thức ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của Luật năm 2015 đã hạn chế được sự cồng kềnh, phức tạp, nhiều tầng nấc, thậm chí là chồng chéo, mâu thuẫn của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta hiện nay; đồng thời phù hợp với chủ trương tinh gọn hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.

2.4. Về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013 và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước như: Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015… Luật năm 2015 đã xác định lại nội dung ban hành văn bản quy phạm pháp luật của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. Cụ thể:

– Đối với luật, nghị quyết của Quốc hội: Điều 15 của Luật năm 2015 đã quy định rõ ràng, cụ thể những nội dung Quốc hội phải ban hành luật và những nội dung Quốc hội ban hành nghị quyết. Theo đó, Quốc hội ban hành luật để quy định về tổ chức, bộ máy nhà nước, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia… Quốc hội ban hành nghị quyết để quy định việc thực hiện thí điểm một số chính sách mới thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội nhưng chưa có luật điều chỉnh hoặc khác với quy định của luật hiện hành; tạm ngưng hoặc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần luật, nghị quyết của Quốc hội đáp ứng các yêu cầu cấp bách về phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quyền con người, quyền công dân…

– Đối với pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Nếu như Điều 12 Luật năm 2008 quy định “Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định những vấn đề được Quốc hội giao, sau một thời gian thực hiện trình Quôc hội xem xét, quyết định ban hành luật” thì nay, Điều 16 của Luật năm 2015 đã không còn quy định việc pháp lệnh sau một thời gian thực hiện phải trình Quốc hội xem xét, quyết định ban hành luật nữa. Đồng thời, bổ sung một số nội dung Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết gồm: Tạm ngưng hoặc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội đáp ứng các yêu cầu cấp bách về phát triển kinh tế – xã hội; Bãi bỏ pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội…

– Đối với lệnh, quyết định của Chủ tịch nước (Điều 17) so với Luật năm 2008, thẩm quyền ban hành lệnh, quyết định của Chủ tịch nước được quy định trong Luật năm 2015 rõ ràng hơn.

– Đối với nghị định của Chính phủ (Điều 19): Ngoài việc giữ nguyên Chính phủ ban hành Nghị định quy định chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước…Luật năm 2015 bổ sung một số nội dung Chính phủ ban hành nghị định để quy định về các vấn đề sau: Các biện pháp cụ thể để tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; Những vấn đề liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của hai bộ, cơ quan ngang bộ trở lên…

– Đối với văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: Luật năm 2015 đã phân định rõ thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền cấp tỉnh gồm: Quy định chi tiết những vấn đề được giao; tổ chức, bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định những vấn đề cụ thể tại địa phương. Nội dung nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được quy định cụ thể tại Điều 27 và Điều 28 của Luật năm 2015.

Ngoài ra, Luật cũng quy định rõ ràng hơn thẩm quyền ban hành lệnh, quyết định của Chủ tịch nước tại Điều 17; bổ sung một số nội dung Chính phủ phải ban hành Nghị định tại Điều 19; giới hạn nội dung ban hành văn bản quy phạm pháp luật của một số chủ thể như Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Điều 18), Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 25), Hội đồng nhân dân cấp huyện, Hội đồng nhân dân cấp xã (Điều 30).

2.5. Về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Luật năm 2015 đã bổ sung 01 điều (Điều 7) về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tham gia vào quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật từ khâu lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, chủ trì, tham gia soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, chỉnh lý, trình dự án, dự thảo đến ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trong trường hợp dự thảo văn bản không bảo đảm về chất lượng, chậm tiến độ, không bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo, cơ quan thẩm định, cơ quan trình, cơ quan thẩm tra và cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải chịu trách nhiệm về việc không hoàn thành nhiệm vụ và tùy theo mức độ mà bị xử lý theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và quy định khác của pháp luật có liên quan.

2.6. Về các hành vi bị nghiêm cấm trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Việc nghiêm cấm một số hành vi nhất định trong hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã được quy định trong một số lần sửa đổi, bổ sung Luật. Tuy nhiên, các hành vi bị nghiêm cấm chưa rõ ràng, đầy đủ, vì vậy Luật năm 2015 đã dành riêng 1 điều quy định về vấn đề này (Điều 14). Ngoài việc quy định cấm ban hành văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp, trái với văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp, trái với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên, ban hành văn bản không thuộc hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhưng có chứa quy phạm pháp luật, ban hành văn bản quy phạm pháp luật không đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục, Luật năm 2015 còn bổ sung quy định cấm rất mới, đó là cấm quy định thủ tục hành chính trong cac văn bản quy phạm pháp luật của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Tổng kiểm toán Nhà nước, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt, trừ trường hợp được giao trong luật.

2.7. Về văn bản quy định chi tiết

So với Luật năm 2008, Luật năm 2015 vẫn quy định việc giao quy định chi tiết được thực hiện trong trường hợp văn bản nội dung liên quan đến quy trình, quy chuẩn kỹ thuật nhưng bỏ quy định ban hành văn bản quy định chi tiết đối với những vấn đề chưa có tính ổn định cao, thay vào đso là quy định “những nội dung khác cần quy định chi tiết” (Điều 11).

Nhằm khắc phục tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết, bảo đảm khi Luật có hiệu lực thì phải được thi hành ngay, ngoài việc kế thừa quy định văn bản quy định chi tiết phải được ban hành để có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của văn bản hoặc điều, khoản, điểm được quy định chi tiết, Luật năm 2015 còn bổ sung quy định “Dự thảo văn bản quy định chi tiết phải được chuẩn bị và trình đồng thời với dự án luật, pháp lệnh…”(Điều 11)

Luật năm 2015 đã bổ sung một mục (Mục 1 Chương V gồm 02 điều quy định việc lập danh mục văn bản quy định chi tiết luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo và ban hành danh mục văn bản quy định chi tiết. Bộ Tư pháp theo dõi, đôn đốc việc ban hành văn bản quy định chi tiết, định kỳ hằng quý và hằng năm báo cáo Chính phủ.

2.8. Về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh

Điểm khác biệt giữa Luật năm 2015 so với Luật năm 2008 đó là Luật năm 2015 không quy định về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội mà chỉ giữ lại quy định về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm. Tuy nhiên, chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm cũng được sửa đổi, bổ sung theo hướng lồng ghép với quy trình xây dựng chính sách với nhiều điểm mới đột phá.

Mặt khác, Luật năm 2015 cũng quy định cụ thể việc điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Theo đó, việc điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh trong các trường hợp sau: Đưa ra khỏi chương trình các dự án luật, pháp lệnh không cần thiết phải ban hành do có sự thay đổi về tình hình kinh tế – xã hội hoặc điều chỉnh thời điểm trình trong trường hợp cần thiết; bổ sung vào chương trình các dự án luật, pháp lệnh không cần thiết phải ban hành do có sự thay đổi về tình hình kinh tế – xã hội hoặc điều chỉnh thời điểm trình trong trường hợp cần thiết; bổ sung vào chương trình các dự án luật, pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu cấp thiết phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, tính mạng, tài sản của Nhân dân; các dự án luật, pháp lệnh cần sửa đổi theo các văn bản mới được ban hành để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật hoặc để thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên (khoản 1 Điều 51).

2.9. Về quy trình xây dựng chính sách

Luật năm 2008 và Luật năm 2004 quy định về quy trình xây dựng văn bản, từ đề xuất sáng kiến, soạn thảo, xem xét cho đến ban hành và công bố văn bản quy phạm pháp luật, nhưng chưa tách bạch giữa quy trình xây dựng chính sách và quy trình soạn thảo văn bản. Do vậy, Luật năm 2015 bổ sung quy trình hoạch định, phân tích chính sách trước khi soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật theo hướng tách bạch với quy trình soạn thảo văn bản. Quy trình xây dựng chính sách được áp dụng đối với luật, pháp lệnh và một số nghị định của Chính phủ, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh

2.10. Về quyền kiến nghị về luật, pháp lệnh, quyền trình dự án luật, pháp lệnh của đại biểu Quốc hội

Để cụ thể hóa quy định tại khoản 2 Điều 84 Hiến pháp năm 2013 về quyền “trình kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và dự án luật, pháp lệnh” của đại biểu Quốc hội, Luật năm 2015 dành riêng 01 điều quy định về quyền kiến nghị về luật, pháp lệnh, đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của đại biểu Quốc hội (Điều 33) cụ thể như sau:

Thứ nhất, quy định rõ quyền sáng kiến lập pháp của đại biểu Quốc hội gồm quyền kiến nghị về luật, pháp lệnh và quyền trình dự án luật, pháp lệnh; đồng thời phân biệt rõ giữa hai quyền này dựa trên các tiêu chí về căn cứ lập, quy trình, hồ sơ. Yêu cầu đối với đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của đại biểu Quốc hội được quy định tương tự như các chủ thể khác có thẩm quyền đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh. Riêng đối với kiến nghị xây dựng luật, pháp lệnh, Luật năm 2015 quy định đơn giản hơn về căn cứ lập cũng như hồ sơ kiến nghị. Theo đó, kiến nghị về luật, pháp lệnh căn cứ vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước; yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; cam kết trong điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Về hồ sơ, đại biểu Quốc hội chỉ cần chuẩn bị văn bản kiến nghị, trong đó nêu rõ sự cần thiết ban hành luật, pháp lệnh; đối tượng, phạm vi điều chỉnh của luật, pháp lệnh; mục đích, yêu cầu ban hành luật, pháp lệnh; quan điểm, chính sách, nội dung chính của luật, pháp lệnh.

Thứ hai, bổ sung quy định cơ chế trợ địa biểu Quốc hội trong việc kiến nghị xây dựng luật, pháp lệnh, theo đó: Đối với việc hỗ trợ lập văn bản kiến nghị, đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, khoản 3 và khoản 4 Điều 33 của Luật năm 2015 quy định đại biểu Quốc hội có quyền tự mình hoặc đề nghị Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội, Viện nghiên cứu lập pháp hỗ trợ trong việc lập văn bản kiến nghị về luật, pháp lệnh hoặc hồ sơ đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh. Văn phòng Quốc hội có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện cần thiết để đại biểu Quốc hội thực hiện quyền kiến nghị về luật, pháp lệnh, quyền đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh. Trong quá trình tự mình soạn thảo dự án, dự thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết, khoản 1 Điều 56 quy định đại biểu Quốc hội có thể đề nghị Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội có thể đề nghị Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội, Viện nghiên cứu lập pháp, cơ quan, tổ chức có liên quan hỗ trợ trong quá trình soạn thảo…

2.11. Một số điểm mới khác

Bên cạnh những điểm mới nêu trên, Luật năm 2015 còn có một số điểm mới như: Đổi mới quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của một số cơ quan, người có thẩm quyền khác; Mở rộng dân chủ, tăng cường tính công khai, minh bạch trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; Nâng cao vai trò của Chính phủ trong xây dựng pháp luật; Sửa đổi, bổ sung một số quy định về thẩm định, thẩm tra văn bản quy phạm pháp luật; Quy định cụ thể, hợp lý hơn các trường hợp, các loại văn bản và quy trình, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn; Quy định hợp lý hơn về đăng Công báo, công bố, đăng tải, đưa tin văn bản quy phạm pháp luật; Bổ sung một số quy định về hiệu lực và nguyên tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật; Bổ sung một số quy định về giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; Sửa đổi, bổ sung một số nội dung khác…

Quỳnh Vũ (tổng hợp)

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Tư pháp, Những quy định mới của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Hà Nội 2015, Nxb. Tư pháp;

2. Kim Lân, Một số điểm mới của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, đăng tải trên trang web http://tuphaphatinh.gov.vn/home/default/explorer.html/news/548?folder_id=18



[1]Theo quy định tại Điều 4 của Luật năm 2015 thì hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của nước ta bao gồm:

“1. Hiến pháp

2. Bộ luật, luật (sau đây gọi chung là luật), nghị quyết của Quốc hội.

3. Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;

4. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.

5. Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

6. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

7. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

8. Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước.

9. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh)

10. Quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh.

11. Văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt.

12. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện)

13. Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện.

14. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã).

15. Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã”.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến đảng chính trị của Cộng hòa liên bang Đức

28/12/2015

Dưới góc độ so sánh pháp luật, việc tìm hiểu hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến đảng chính trị của các nước tư sản là cần thiết, giúp chúng ta có thêm thông tin bổ ích để góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Chúng tôi xin được giới thiệu hệ thống văn bản pháp luật về đảng chính trị của Cộng hòa liên bang Đức.

Để tạo lập khung pháp lý cần thiết cho tổ chức và hoạt động của các đảng chính trị, Cộng hòa liên bang Đức đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến đảng chính trị. Hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến đảng chính trị của Cộng hòa liên bang Đức bao gồm: Hiến pháp, Luật về đảng chính trị, Luật bầu cử liên bang, Luật Tòa án Hiến pháp, Quy chế hoạt động của Hạ nghị viện liên bang và một số văn bản pháp luật khác.

1. Hiến pháp Cộng hòa liên bang Đức

Hiến pháp Cộng hòa liên bang Đức được ban hành ngày 23/5/1949. Điều 21 Hiến pháp Cộng hòa liên bang Đức quy định:

“1. Các đảng chính trị tham gia vào sự hình thành các ý chí chính trị của người dân. Các đảng chính trị được tự do thành lập. Tổ chức nội bộ của các đảng chính trị phải tuân theo nguyên tắc dân chủ. Các đảng chính trị phải công khai nguồn gốc cũng như việc sử dụng các nguồn tài chính và các tài sản khác của họ.

2. Các đảng chính trị mà thông qua mục đích của đảng cũng như bằng hành động của các đảng viên, tìm cách phá hoại hoặc bãi bỏ trật tự dân chủ tự do hoặc gây nguy hiểm cho sự tồn tại của Cộng hòa liên bang Đức là vi hiến. Tòa án Hiến pháp liên bang có thẩm quyền phán quyết sự vi hiến của đảng.

3. Các chi tiết được quy định bởi luật liên bang.”

Như vậy, Hiến pháp Cộng hòa liên bang Đức không đưa ra định nghĩa về đảng chính trị mà chỉ quy định chức năng của đảng chính trị, quyền tự do thành lập đảng chính trị, nguyên tắc tổ chức nội bộ của đảng, vấn đề công khai tài sản của đảng, vấn đề đảng vi hiến và thẩm quyền của Tòa án Hiến pháp liên bang phán quyết sự vi hiến của đảng. Những quy định nêu trên của Hiến pháp là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng các văn bản pháp luật liên quan đến đảng chính trị ở Cộng hòa liên bang Đức.

2. Luật về đảng chính trị

Luật về đảng chính trị của Cộng hòa liên bang Đức được Nghị viện thông qua vào ngày 24/7/1967, có hiệu lực thi hành vào ngày 28/7/1967. Đạo luật này ra đời nhằm thể chế hóa Điều 21 Hiến pháp của Cộng hòa liên bang Đức năm 1949. Đạo luật này được sửa đổi nhiều lần. Lần sửa đổi gần đây nhất vào ngày 23/8/2011.

Luật về đảng chính trị của Cộng hòa liên bang Đức quy định tổ chức đảng chính trị rất chi tiết và Cộng hòa liên bang Đức được coi là “nước Tây Âu có Luật đảng thích hợp nhất”[1]. Luật về đảng chính trị của Cộng hòa liên bang Đức bao gồm 8 chương, 47 điều với những nội dung cơ bản sau:

2.1. Vị trí, vai trò và nhiệm vụ của đảng chính trị

Các đảng chính trị được hiến định là một phần cần thiết của trật tự dân chủ tự do cơ bản của Cộng hòa liên bang Đức. Các đảng chính trị tham gia vào sự hình thành ý chí chính trị của người dân trong tất cả các lĩnh vực của đời sống công cộng, khuyến khích giáo dục công dân, thúc đẩy sự tham gia tích cực của người dân trong đời sống chính trị. Các đảng chính trị có trách nhiệm giới thiệu các ứng cử viên trong cuộc bầu cử ở cấp liên bang, bang và địa phương, tác động đến những diễn biến chính trị tại Nghị viện và các quyết định của Chính phủ, đảm bảo sự liên kết lâu dài giữa nhân dân và các cơ quan nhà nước[2].

2.2. Khái niệm về đảng chính trị

Các đảng chính trị là các hiệp hội của công dân, gây ảnh hưởng thường xuyên hoặc trong thời gian dài đến sự hình thành các quyết định chính trị ở cấp liên bang hoặc bang, theo đuổi mục đích là đại diện cho nhân dân ở Hạ nghị viện liên bang Đức hoặc Hạ nghị viện của các bang, thỏa mãn các điều kiện về phạm vi, tiềm lực tổ chức, số lượng thành viên và cho thấy một cách công khai sự đảm bảo về tính chân thành của mục tiêu của đảng.

Thành viên của một đảng chính trị chỉ có thể là những cá nhân. Một tổ chức chính trị không được coi là một đảng nếu: (i) phần lớn các thành viên của nó hoặc phần lớn các thành viên điều hành của nó là người nước ngoài; hoặc (ii) địa điểm đặt trụ sở chính hoặc sự quản lý của tổ chức đó nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của Luật về đảng chính trị[3].

2.3. Quy chế nội bộ của đảng chính trị

Luật về đảng chính trị dành toàn bộ chương 2 với 11 điều quy định rất cụ thể quy chế nội bội bộ của đảng chính trị, cung cấp một khuôn khổ pháp lý cho cơ cấu tổ chức của đảng và các thủ tục trong nội bộ đảng. Chương này cũng đặt ra những tiêu chuẩn mà các đảng chính trị phải tuân thủ và thực hiện theo quy chế nội bộ của đảng.

Các đảng chính trị phải có điều lệ đảng và cương lĩnh chính trị bằng văn bản. Điều lệ đảng quy định những vấn đề cơ bản như: tên đảng, đảng viên, quyền và nghĩa vụ của đảng viên, Ban chấp hành của đảng và các tổ chức khác của đảng, thông qua các quyết định trong đảng, các hình thức và nội dung của một cơ cấu tài chính phù hợp với quy định pháp luật về tài chính đảng, kỷ luật đảng và cơ chế giải quyết tranh chấp trong nội bộ đảng…

Ban chấp hành của một đảng chính trị phải có ít nhất 3 thành viên và phải được bầu ít nhất là hai năm một lần. Ban chấp hành có thể bao gồm các nghị sĩ và những đảng viên tiêu biểu. Những người này là những thành viên đương nhiên của Ban chấp hành, không cần thông qua bầu cử. Tỷ lệ các thành viên không được bầu không được vượt quá một phần năm tổng số thành viên Ban chấp hành.

Luật về đảng chính trị quy định cụ thể về kỷ luật đảng và cơ chế giải quyết tranh chấp nội bộ đảng. Đảng chính trị và các tổ chức khu vực cấp cao của đảng phải thiết lập tòa án trọng tài để giải quyết và quyết định các tranh chấp trong nội bộ đảng, cũng như sự khác biệt về quan điểm về việc giải thích và thực hiện quy chế của đảng. Tòa án trọng tài còn có thẩm quyền theo quy định của tố tụng trọng tài quyết định việc khai trừ đảng viên ra khỏi đảng. Trong trường hợp khẩn cấp và nghiêm trọng, Ban chấp hành của đảng hay một tổ chức khu vực của đảng có thể loại loại trừ một đảng viên thực hiện quyền đảng viên cho đến khi tòa án trọng tài đạt đến một quyết định khai trừ đảng viên đó ra khỏi đảng. Đảng viên chỉ có thể bị khai trừ ra khỏi đảng khi người đó cố tình vi phạm điều lệ đảng hoặc vi phạm các nguyên tắc hoặc các quy định hợp pháp của đảng, qua đó gây thiệt hại nghiêm trọng cho đảng[4].

2.4. Lựa chọn ứng cử viên cho cuộc bầu cử Nghị viện

Chương 3 Luật về đảng chính trị quy định quy trình lựa chọn ứng cử viên của đảng chính trị cho cuộc bầu cử Nghị viện. Các ứng cử viên của các đảng chính trị cho cuộc bầu cử Nghị viện phải được lựa chọn bằng cách bỏ phiếu kín. Các thủ tục đề cử các ứng cử viên của đảng được điều chỉnh bởi luật bầu cử và các quy chế của đảng.

2.5. Tài chính của đảng chính trị

Luật về đảng chính trị dành đến 3 chương (Chương 4, 5, 6) quy định rất cụ thể các vấn đề liên quan đến tài chính đảng. Chương 4 quy định tài trợ nhà nước cho đảng chính trị. Chương 5 quy định trách nhiệm giải trình tài chính của đảng. Chương 6 quy định thủ tục xử lý trong trường hợp báo cáo tài chính không chính xác và các quy định về trách nhiệm hình sự đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực tài chính đảng.

Tài chính của đảng chính trị có được từ nhiều nguồn khác nhau: Đóng góp của đảng viên, quyên góp từ xã hội, hỗ trợ từ nhà nước và các nguồn hỗ trợ đặc biệt khác theo quy định của pháp luật. Nguyên tắc chung là nhà nước chỉ hỗ trợ một phần trong các hoạt động chung của đảng chính trị căn cứ vào số lượng thành viên của đảng và số lượng đại diện của đảng trong Nghị viện.

Luật về đảng chính trị quy định chế tài rất nghiêm khắc đối với những hành vi vi phạm trong lĩnh vực tài chính đảng. Bất kỳ ai mà có ý định che giấu nguồn gốc hoặc việc sử dụng kinh phí hoặc các tài sản của đảng như cung cấp thông tin không chính xác về thu nhập hay tài sản của một đảng trong báo cáo tài chính hàng năm gửi cho Chủ tịch Hạ nghị viện có thể bị phạt tù đến ba năm. Nếu người phạm tội có mục đích làm giàu cho bản thân hoặc làm giàu cho người khác hoặc gây tổn hại cho người khác, có thể bị phạt tù đến năm năm[5].

2.6. Thực hiện lệnh cấm đối với các đảng vi hiến

Trường hợp một đảng bị tuyên bố là vi hiến, các cơ quan chức năng của chính quyền bang thực hiện các biện pháp cần thiết trong khuôn khổ của pháp luật để thực hiện các phán quyết của Tòa án Hiến pháp liên bang. Trường hợp tổ chức và hoạt động của đảng bị tuyên bố vi hiến vượt ra ngoài biên giới lãnh thổ của một quốc gia, Bộ trưởng Bộ Nội vụ liên bang ban hành các quyết định cần thiết để bảo đảm thực hiện phán quyết của Tòa án Hiến pháp liên bang.

Điều 33 Luật về đảng chính trị quy định không được thành lập tổ chức thay thế và theo đuổi những mục đích trái với hiến pháp của một đảng chính trị bị Tòa án Hiến pháp liên bang tuyên bố vi hiến. Trường hợp tổ chức thay thế là một đảng chính trị đã tồn tại trước khi có phán quyết của Tòa án Hiến pháp liên bang đối với đảng nguyên thủy (đảng bị tuyên bố vi hiến) hoặc trường hợp tổ chức đó đã có đại diện trong Hạ nghị viện liên bang hoặc Nghị viện bang, Tòa án Hiến pháp liên bang thông qua một phán quyết tuyên bố rằng nó là một tổ chức thay thế bị cấm.

3. Luật Tòa án Hiến pháp liên bang

Luật Tòa án Hiến pháp liên bang Đức được ban hành ngày 12/3/1951 và được sửa đổi, bổ sung lần cuối vào ngày 16/7/1998.

Luật Tòa án Hiến pháp liên bang Đức dành 1 mục với 5 điều (từ Điều 43 đến Điều 47) quy định thủ tục xem xét đảng chính trị vi hiến. Tòa án Hiến pháp liên bang Đức có thể tiến hành thủ tục tố tụng để quyết định một đảng chính trị vi hiến hay không theo đơn kiện của Bundestag (Hạ nghị viện liên bang), Bundesrat (Thượng nghị viện liên bang) hoặc Chính phủ liên bang Đức. Chính phủ của một bang chỉ có thể đề nghị Tòa án Hiến pháp liên bang Đức quyết định một đảng chính trị vi hiến nếu tổ chức của đảng đó được giới hạn trong lãnh thổ của bang đó. Nếu Tòa án Hiến pháp liên bang tuyên bố một đảng chính trị vi hiến thì đảng đó sẽ bị giải thể và không được thành lập một tổ chức thay thế đảng đã bị giải thể. Tòa án Hiến pháp liên bang có thể quyết định tịch thu tài sản của đảng chính trị vi hiến để sử dụng vì lợi ích công cộng.

Chỉ một năm sau khi được thành lập, vào năm 1952, theo yêu cầu của Chính phủ liên bang, Tòa án Hiến pháp liên bang Đức đã tuyên bố Đảng xã hội Reich vi hiến với lý do là đảng này vi phạm Điều 21 Hiến pháp Đức vì đã chống lại trật tự dân chủ cơ bản thể hiện trong Hiến pháp. Đảng này đã bị giải thể và tài sản của đảng đã bị tịch thu[6].

Đầu năm 2001, Chính phủ Đức, Hạ nghị viện liên bang, Thượng nghị viện liên bang nộp yêu cầu tại Tòa án Hiến pháp liên bang khởi kiện nhằm giải thể Đảng Dân chủ quốc gia Đức, nhưng đã bị Tòa án Hiến pháp liên bang từ chối vì không đúng thủ tục[7].

4. Luật Bầu cử liên bang

Luật Bầu cử liên bang được ban hành ngày 23/7/1993 và được sửa đổi lần cuối vào 31/8/2015.

Điều 18, Luật Bầu cử liên bang quy định, các đảng chính trị với ý định tham gia vào một cuộc bầu cử được yêu cầu cung cấp một thông báo về ý định của mình cho quan chức bầu cử liên bang trước khi cuộc bầu cử tiến hành, trừ những đảng liên tục được đại diện bởi ít nhất năm người đại diện trong Hạ nghị viện liên bang hoặc trong Nghị viện bang kể từ cuộc bầu cử trước.

Thông báo phải bao gồm tên của các đảng và có chữ ký của ít nhất ba thành viên của Ủy ban điều hành quốc gia của đảng. Ngoài ra còn có các quy chế của đảng, chương trình của đảng và bằng chứng của một lãnh đạo chính thức.

Ủy ban bầu cử liên bang bao gồm quan chức bầu cử liên bang với tư cách là Chủ tịch và tám thành viên khác do quan chức bầu cử Liên bang bổ nhiệm theo đề nghị của các đảng chính trị. Ủy ban Bầu cử liên bang có quyền quyết định công nhận một hiệp hội chính trị là một “đảng chính trị” theo Luật về đảng chính trị.

Điều 21 của Luật Bầu cử liên bang quy định có ba cách mà một đảng chính trị có thể đề cử ứng cử viên trong cuộc bầu cử ở khu vực bầu cử. Một ứng cử viên đảng có thể được lựa chọn thông qua một Hội đồng các thành viên đảng, hoặc một Hội đồng đặc biệt của đại diện đảng, hoặc một Đại hội đại biểu đảng. Trong tất cả các trường hợp, các ứng cử viên và đại biểu phải được bầu bằng phiếu kín.

Danh sách ứng cử viên của các bang chỉ có thể được đệ trình bởi các đảng chính trị. Các thủ tục quy định đối với sự đề cử các ứng cử viên trong một khu vực bầu cử có thể áp dụng rộng rãi để đề cử các ứng cử viên trong một bang. Nếu đảng chính trị mà không được liên tục đại diện bởi ít nhất năm người đại diện trong Hạ nghị viện liên bang hoặc trong Nghị viện của một bang, mỗi ứng cử viên trong danh sách ứng cử viên của bang phải có chữ ký của ít nhất 1.000 cử tri và không nhiều hơn 2.000 cử tri đủ điều kiện[8].

6. Quy chế hoạt động của Hạ nghị viện liên bang

Ngoài các văn bản pháp luật nêu trên, hoạt động của các đảng chính trị ở Đức còn dựa trên quy chế hoạt động của Nghị viện với tên gọi là: Quy tắc về thủ tục của Bundestag (Hạ nghị viện liên bang).

Theo Quy tắc về thủ tục của Bundestag, nhóm nghị viện Đức được yêu cầu phải bao gồm ít nhất 5% tổng số thành viên của Bundestag. Các thành viên của một nhóm nghị viện phải thuộc về cùng một đảng hoặc thuộc về các đảng khác nhau nhưng có cùng mục tiêu chính trị tương tự và không cạnh tranh với nhau trong bất kỳ 16 bang của Cộng hòa liên bang Đức. Quy tắc về thủ tục của Bundestag trao một số quyền riêng cho các nhóm nghị viện. Chỉ có các nhóm nghị viện mới có quyền giới thiệu dự án luật, đệ trình kiến nghị; chuyển những sửa đổi dự án luật cho lần đọc thứ ba tại Hạ nghị viện; đặt câu hỏi về số lượng thành viên cần thiết của Bundestag để biểu quyết một vấn đề; yêu cầu một cuộc bỏ phiếu chính thức, một cuộc tranh luận về một vấn đề đang được quan tâm, thiết lập các ủy ban nghiên cứu hoặc các ủy ban điều tra[9].

7. Công ước châu Âu về nhân quyền (ECHR)

Một số công ước nhân quyền quốc tế và châu Âu cũng có ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của các đảng chính trị. Cộng hòa liên bang Đức đã ký Công ước châu Âu về nhân quyền (ECHR) trong năm 1950 và phê chuẩn vào năm 1952. ECHR đã được đưa vào hệ thống pháp luật Cộng hòa liên bang Đức với tư cách là một nguồn của pháp luật liên bang[10].

Điều 11 của ECHR bảo vệ quyền “tự do liên kết với những người khác”, theo đó công dân có quyền thành lập và tham gia các hiệp hội như các đảng chính trị.

Theo quy định của ECHR, quyền tự do lập hội có thể bị hạn chế chỉ theo các mục tiêu sau đây:

a) Vì lợi ích của an ninh quốc gia hoặc an toàn công cộng;

b) Để phòng ngừa sự hỗn loạn hoặc tội phạm;

c) Cho việc bảo vệ sức khỏe và đạo đức;

d) Để bảo vệ quyền lợi và tự do của những người khác.

Bất kỳ hạn chế đối với các đảng chính trị phải “theo quy định của pháp luật” và phải là “cần thiết trong một nền dân chủ” để đạt được một trong bốn mục tiêu nêu trên.

Theo Điều 34 của ECHR, các đảng chính trị và các hiệp hội khác có thể đưa vụ việc ra trước Tòa án Nhân quyền châu Âu (ECtHR) nếu họ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi sự hạn chế của pháp luật hoặc của nhà nước đối với các quyền được quy định tại ECHR. Các phán quyết của Tòa án Nhân quyền châu Âu sẽ tạo thành án lệ trong hệ thống pháp luật của các quốc gia tham gia Công ước châu Âu về nhân quyền.

Trong một án lệ của mình, Tòa án Nhân quyền châu Âu đã nhấn mạnh vai trò nguyên thủy được thể hiện trong một chế độ dân chủ của các đảng chính trị được hưởng các quyền tự do và quyền được quy định trong Điều 11 của Công ước châu Âu về nhân quyền. Tuy nhiên, Tòa án Nhân quyền châu Âu cho rằng các quyền tự do được bảo đảm bởi Điều 11, không thể bị lạm dụng nhằm tước đoạt chính quyền của một quốc gia[11].

Theo một án lệ khác của Tòa án Nhân quyền châu Âu, “một đảng chính trị có thể thúc đẩy một sự thay đổi trong luật pháp hay là cấu trúc luật pháp và hiến pháp của Nhà nước với hai điều kiện: Thứ nhất, các phương tiện sử dụng đó phải là hợp pháp và dân chủ; thứ hai, đề nghị thay đổi đó phải tương thích với các nguyên tắc dân chủ cơ bản. Nó nhất thiết phải tuân theo nguyên tắc sau đây: Một đảng chính trị có các nhà lãnh đạo, kích động bạo lực hoặc đưa ra một chính sách mà không tôn trọng dân chủ hay là nhằm phá hoại nền dân chủ… không thể đòi hỏi sự bảo vệ của Công ước chống lại các hình phạt đối với đảng chính trị và các nhà lãnh đạo của đảng chính trị đó…”[12].

Trong những năm gần đây, Tòa án Nhân quyền châu Âu đã có một số phán quyết liên quan đến Tòa án Hiến pháp của một số nước cấm các đảng phái chính trị. Những phán quyết này của Tòa án Nhân quyền châu Âu đã có ảnh hưởng đến hệ thống pháp luật liên quan đến đảng chính trị của Cộng hòa liên bang Đức.[13]

Kết luận: Hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến đảng chính trị ở Cộng hòa Liên bang Đức rất phong phú và đa dạng, đã tạo lập nên khung pháp lý cần thiết cho tổ chức và hoạt động của các đảng chính trị. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ các đảng chính trị dân chủ, đồng thời xử lý nghiêm minh những đảng chính trị vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Với tư cách là một tổ chức chính trị, các đảng chính trị phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật, phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Đánh giá về hệ thống pháp luật các nước tư sản, trong đó có hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến đảng chính trị ở Cộng hòa liên bang Đức, PGS.TS. Nguyễn Văn Giang và TS. Đinh Ngọc Giang nhận định: “Thực tế ở các nước tư bản, Hiến pháp và pháp luật khá ổn định. Bởi vậy dù đảng tư sản này hay đảng tư sản khác cầm quyền, hoặc liên minh này hay liên minh khác cầm quyền thì Hiến pháp và pháp luật hầu như không thay đổi lớn. Tất cả các chính đảng đều phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật, phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Đảng Cộng sản, theo Hiến pháp, pháp luật tư sản, được tồn tại và hoạt động trong xã hội, song hoạt động của Đảng không được vượt quá những quy định của Hiến pháp và pháp luật”[14].

ThS. Trần Việt Dũng

Trường Đại học Luật, Đại học Huế



[1] Wolfgang Müller, “Parties and the Institutional Framework,” in Kurt Richard Luther and Ferdinand Müller-Rommel, eds., Political Parties in the New Europe: Political and Analytical Challenges (New York: Oxford University Press, 2002), 262.

[2] Xem: Điều 1 Luật về đảng chính trị.

[3] Xem: Điều 2 Luật về đảng chính trị.

[4] Xem: Điều 10 Luật về đảng chính trị.

[5] Xem: Điều 31d Luật về đảng chính trị.

[6] Donald P. Kommers, The Constitutional Jurisprudence of the Federal Republic of Germany, 2nd ed., Durham: Duke University Press, 1997, pp. 217-24.

[7] Thilo Rensmann, “Procedure Fairness in a Militant Democracy: The “Uprising of the Decent” Fails Before the Federal Constitutional Court,”German Law Journal, Vol. 4, No.11, 2003, pp. 1117-36.

[8] Xem: Khoản 1 Điều 27 Luật bầu cử liên bang.

[9]http://www.legco.gov.hk/yr03-04/english/sec/library/0304rp05e.pdf.

[10]Xem: http://www.legco.gov.hk/yr03-04/english/sec/library/0304rp05e.pdf.

[11]Xem: http://www.echr.coe.int/Documents/FS_Political_parties_ENG.pdf.

[12]Xem: http://www.echr.coe.int/Documents/FS_Political_parties_ENG.pdf.

[13] Tháng 7/1991, Tòa án Hiến pháp Thổ Nhĩ Kỳ quyết định giải thể Liên minh Đảng Cộng sản Thổ Nhĩ Kỳ (TBKP) với lý do tên của đảng có cụm từ “cộng sản”, đó là chống lại luật pháp Thổ Nhĩ Kỳ, và nó đã khuyến khích chủ nghĩa ly khai và phân chia dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ.ECtHR đã tuyên bố Tòa án Hiến pháp Thổ Nhĩ Kỳ đã viphạm Điều 11 của Công ước châu Âu về nhân quyền. Bởi vì không có bất kỳ bằng chứng cụ thể cho thấy rằng trong việc lựa chọn để gọi tên riêng của mình “cộng sản,các TBKPđã chọn cho một chính sách thể hiện mối đe dọa thực sự cho xã hội và nhà nước Thổ Nhĩ Kỳ. Xem: Mustafa Koçak & Esin Örücü, “Dissolution of Political Parties in the Name of Democracy: Cases from Turkey and the European Court of Human Rights”European Public Law, Vol. 9(3), 2003, pp. 399-423.

[14]Nguyễn Văn Giang và Đinh Ngọc Giang (đồng chủ biên), Thực hiện nguyên tắc đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật ở Việt Nam giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2011, trang 30 – 31.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số vấn đề về triển khai Luật Hộ tịch

29/12/2015

Hộ tịch là những sự kiện như khai sinh, khai tử, kết hôn, ly hôn, giám hộ, xác định và nhận cha, mẹ, con… xác nhận tình trạng nhân thân của cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết; đăng ký hộ tịch là việc xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch những sự kiện hộ tịch. Trước đây, đăng ký và quản lý hộ tịch chủ yếu được điều chỉnh bởi Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch; Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về hộ tịch, hôn nhân và gia đình và chứng thực. Đến nay, Quốc hội đã thông qua Luật Hộ tịch vào ngày 20/11/2014 và Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2016. Đây là bước đột phá về thể chế của công tác hộ tịch, là cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ, là cơ sở quan trọng để xây dựng hệ thống đăng ký và quản lý hộ tịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại. Luật Hộ tịch năm 2014 có nhiều nội dung mới cải cách mạnh mẽ công tác đăng ký, quản lý hộ tịch nói riêng và quản lý dân cư nói chung.

Trong phạm vi bài viết, tác giả xin nêu những điểm mới nổi bật và đề cập một số vấn đề khi triển khai, thực hiện Luật Hộ tịch năm 2014.

1. Thủ tục đăng ký hộ tịch

Theo quy định tại Luật Hộ tịch năm 2014, thủ tục đăng ký hộ tịch được đơn giản, tạo nhiều thuận lợi cho người dân như:

Giảm nhiều giấy tờ không cần thiết, tăng cường xuất trình bản chính giấy tờ, hạn chế tối đa việc sao chụp, đặc biệt quy định chỉ cấp 02 loại bản chính Giấy khai sinh và Giấy chứng nhận kết hôn, còn các sự kiện hộ tịch khác sau khi hoàn tất thủ tục đăng ký, người yêu cầu đăng ký hộ tịch được cấp trích lục hộ tịch tương ứng với từng sự kiện hộ tịch đã đăng ký, bản chính trích lục hộ tịch được chứng thực bản sao.

Giảm thời hạn giải quyết đối với hầu hết các việc hộ tịch, những việc hộ tịch đơn giản, Luật quy định được giải quyết ngay trong ngày, trường hợp nhận hồ sơ sau 15 giờ mà không giải quyết được ngay thì trả kết quả trong ngày làm việc tiếp theo.

Người dân có thể lựa chọn cơ quan đăng ký hộ tịch mà không phụ thuộc vào nơi cư trú như trước đây: Có thể lựa chọn đăng ký hộ tịch tại cơ quan đăng ký hộ tịch nơi thường trú, tạm trú hoặc nơi đang sinh sống, không nhất thiết phải theo thứ tự ưu tiên nơi đăng ký thường trú. Bên cạnh đó, Luật cũng cho phép được lựa chọn đăng ký khai sinh tại Ủy ban nhân dân nơi cư trú của cha hoặc mẹ thay vì quy định ưu tiên nơi cư trú của mẹ như trước.

Việc nộp hồ sơ đăng ký hộ tịch có thể lựa chọn nộp trực tiếp cho cơ quan đăng ký hộ tịch hoặc gửi qua bưu chính hoặc qua hệ thống đăng ký trực tuyến. Khi Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử được hoàn thành và liên thông với nhau thì việc giải quyết các vấn đề hộ tịch qua hệ thống đăng ký hộ tịch trực tuyến sẽ bảo đảmnhanh chóng, gọn nhẹ và giảm thiểu chi phí, thời gian trong thực hiện thủ tục hành chính về hộ tịch

Tuy nhiên, những quy định của Luật Hộ tịch năm 2014 về thủ tục đăng ký hộ tịch cũng sẽ nảy sinh một số vấn đề:

Việc quy định được lựa chọn nơi đăng ký hộ tịch tạo ra áp lực không nhỏ đối với cơ quan hộ tịch ở những địa phương mà có nhiều người tạm trú, người đang sinh sống không có hộ khẩu thường trú. Đây là điều mà Ủy ban nhân dân cấp xã nhiều địa phương đang rất lo lắng. Theo đó, không những lượng công việc sẽ tăng lên đáng kể, mà độ phức tạp của công việc cũng vì thế mà tăng theo. Những người không có hộ khẩu thường trú sẽ dễ thường xuyên biến động, gây khó khăn cho công tác quản lý cũng như thực hiện việc đăng ký hộ tịch.

– Với tình trạng cán bộ và lượng công việc như hiện nay, thì quy định giảm thời hạn giải quyết đăng ký hộ tịch sẽ khó tránh khỏi việc trễ hẹn, tạo sự bức xúc cho người dân. Quy định rút ngắn thời hạn là quy định tích cực, mang tính cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho người dân, nhưng cùng với đó thì chúng ta cũng cần phải giải quyết phù hợp về số lượng, về khoản bồi dưỡng cho cán bộ để khuyến khích họ tâm huyết, nhiệt tình giải quyết tốt công việc.

– Thói quen của người đi đăng ký khai sinh thường là đồng thời đăng ký hộ khẩu thường trú tại nơi đó, nên khi quy định về việc được đăng ký khai sinh tại cơ quan đăng ký nơi tạm trú, nơi đang sinh sống thì nhiều khi người dân chỉ thực hiện đăng ký khai sinh mà quên làm thêm thủ tục về nơi đăng ký hộ khẩu thường trú.

– Việc quy định yêu cầu người đi đăng ký hộ tịch ký tên vào Sổ hộ tịch trong trường hợp nộp hồ sơ qua bưu chính, hệ thống trực tuyến mà không trực tiếp đi đăng ký cũng gây lúng túng cho cơ quan, cán bộ hộ tịch nếu không có hướng dẫn cụ thể.

Những khó khăn trên đòi hỏi cán bộ hộ tịch phải rất linh hoạt, có trách nhiệm thì mới có thể giải quyết những tốt việc hộ tịch, tạo thuận lợi cho người dân.

2. Miễn phí đăng ký hộ tịch

Luật Hộ tịch năm 2014 quy định miễn phí đăng ký hộ tịch trong những trường hợp: (i) Đăng ký hộ tịch cho người thuộc gia đình có công với cách mạng; người thuộc hộ nghèo; người khuyết tật; (ii) Đăng ký khai sinh, khai tử đúng hạn, giám hộ, kết hôn của công dân Việt Nam cư trú ở trong nước. Đây là quy định mới, vừa thể hiện tính nhân văn, vừa góp phần thúc đẩy, khuyến khích cho người dân đăng ký hộ tịch đúng hạn.

3. Cấp Số định danh cá nhân khi đăng ký khai sinh

Theo quy định tại khoản 2 Điều 16 Luật Hộ tịch năm 2014, nội dung khai sinh sẽ được cập nhật vào Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để lấy Số định danh cá nhân (số được cấp cho mỗi công dân Việt Nam, không lặp lại ở người khác), đối với người dưới 14 tuổi, số định danh cá nhân được ghi vào giấy khai sinh và đây là số thẻ căn cước công dân khi đủ 14 tuổi.

Cấp số định danh cá nhân khi đăng ký khai sinh được nhận định là quy định mang tính đột phá trong công tác quản lý hộ tịch và quản lý dân cư, là tiền đề quan trọng để tiến tới mục tiêu cắt giảm nhiều loại giấy tờ, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân khi tham gia giao dịch, thực hiện thủ tục hành chính.

Bộ Công an đang Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Căn cước công dân, theo đó, quy định trình tự, thủ tục cấp số định danh cá nhân đối với công dân đăng ký khai sinh, đã đăng ký khai sinh và đăng ký thường trú; cấp số định danh cá nhân cho trẻ em khi đăng ký khai sinh trong cả 2 trường hợp Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử đã kết nối và chưa kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.Dù được đánh giá quy định của Luật Hộ tịch năm 2014 sẽ giúp giải quyết việc hộ tịch cho người dân nhanh chóng, thuận tiện hơn, nhưng cũng có ý kiến cho rằng, với quy định thủ tục cấp số định danh cá nhân khi khai sinh tại Dự thảo Nghị định này trong trường hợp Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử chưa kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư sẽ là bước lùi so với quy định hiện hành, bởi phải mất 06 ngày mới cấp được Giấy khai sinh. Do đó, đã có ý kiến đề xuất cần có phương án giải quyết tốt hơn

Thực hiện Kế hoạch triển khai thi hành Luật Hộ tịch, bảo đảm đồng bộ với các quy định của Luật Căn cước công dân có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2016, đặc biệt là việc cấp số định danh cá nhân cho trẻ được khai sinh từ ngày 01/01/2016, Bộ Tư pháp sẽ triển khai đưa vào sử dụng thí điểm phần mềm đăng ký khai sinh tại Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã trên địa bàn 04 thành phố trực thuộc trung ương bao gồm Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh[1]. Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực – Bộ Tư pháp sẽ phối hợp với Cục Công nghệ thông tin xây dựng dự án khả thi Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc, đặc biệt, sẽ phối hợp để thí điểm việc thực hiện phần mềm đăng ký khai sinh và cấp số định danh cá nhân. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa chính thức có quy định hướng dẫn cấp số định danh cá nhân, hiện Cục Công nghệ thông tin mới thỏa thuận thống nhất với C72 Bộ Công an kết nối về kỹ thuật để từ ngày 01/01/2016 chính thức cấp số định danh cá nhân và số định danh là số căn cước. Đối với vấn đề thí điểm này, có ý kiến dự liệu, về mặt kỹ thuật, 1 ngày cấp được 70 nghìn số định danh cá nhân, nhưng thực tế chỉ có thể cấp được 2 nghìn, kể cả đối với việc đăng ký lại[2]. Khi thực hiện thí điểm, do Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Căn cước công dân chưa được ban hành, do đó, khi triển khai thí điểm cấp số định danh cá nhân khi đăng ký khai sinh, cần chú ý để tránh trường hợp thực hiện thí điểm nhưng lại mâu thuẫn, không phù hợp với quy định của Nghị định này khi nó được ban hành.

4. Việc phân cấp thẩm quyền cho chính quyền địa phương

Luật Hộ tịch năm 2014 quy định phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương. Theo đó, Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết toàn bộ các việc đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài;thay đổi, cải chính hộ tịch cho người từ đủ 14 tuổi trở lên cư trú trong nước, xác định lại dân tộc, trừ việc đăng kýkhai sinh cho trẻ em sinh ra tại Việt Nam có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam thường trú tại khu vực biên giới còn người kia là công dân của nước láng giềng thường trú tại khu vực biên giới với Việt Nam; kết hôn, nhận cha, mẹ, con của công dân Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng thường trú ở khu vực biên giới với Việt Nam, khai tử cho người nước ngoài cư trú ổn định lâu dài tại khu vực biên giới của Việt Nam. Ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký các việc hộ tịch còn lại.

Việc phân cấp thẩm quyền cho chính quyền địa phương, ngoài việc giúp người dân tiết kiệm thời gian và thuận lợi trong thực hiện thủ tục, thì cũng sẽ tạo cho chính quyền địa phương chủ động hơn, phát huy tối đa năng lực, trách nhiệm của chính quyền địa phương, tránh chồng chéo thẩm quyền, giúp chính quyền gần dân hơn, nắm chắc một cách toàn diện công tác hộ tịch tại địa phương bảo đảm tăng cường vai trò quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, tiến tới mục tiêu lâu dài là phân cấp triệt để thẩm quyền đăng ký hộ tịch cho chính quyền cơ sở khi điều kiện cho phép. Tuy nhiên, đây vừa là cơ hội nhưng cũng là thách thức đối với cơ quan đăng ký hộ tịch.

Nhiệm vụ được chuyển giao nhiều, nhiều việc không thể giải quyết ngay mà cần phải xác minh, thụ lý trong nhiều ngày, trong khi đó, sẽ là mâu thuẫn nếu công tác cán bộ không được giải quyết phù hợp.

Một vấn đề được Ủy ban nhân dân cấp huyện quan tâm nhiều nhất chính là việc tiếp nhận thẩm quyền đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài. Hầu hết các địa phương đều lo lắng về yêu cầu trình độ ngoại ngữ của cán bộ, những quy định về phỏng vấn, hay không có sự hỗ trợ đồng bộ từ các cơ quan chức năng liên quan (công an, ngoại vụ, công chứng, dịch thuật, sứ quan…), những bỡ ngỡ ban đầu khi thực hiện nhiệm vụ mới… Tuy nhiên, hiện nay, Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 quy định tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch(có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016) đã quy định tương đối cụ thể và thuận lợi cho cán bộ hộ tịch cấp huyện, giảm tối đa quy trình thủ tục như: Về vấn đề phỏng vấn kết hôn có yếu tố nước ngoài không phải được thực hiện trong mọi trường hợp mà chỉ khi “căn cứ tình hình cụ thể, khi cần thiết, Bộ Tư pháp báo cáo Thủ tướng Chính phủ quy định bổ sung thủ tục phỏng vấn khi giải quyết yêu cầu đăng ký kết hôn nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên và hiệu quả quản lý nhà nước” (khoản 3 Điều 31); bên cạnh đó, hồ sơ, giấy tờ có yếu tố nước ngoài thì trên thực tế tất cả các giấy tờ này đều được dịch ra tiếng Việt, hợp pháp hóa lãnh sự và có chứng thực hợp lệ nên không nhất thiết yêu cầu công chức hộ tịch phải học ngoại ngữ;khi giải quyết việc kết hôn có yếu tố nước ngoài thì trong giai đoạn đầu, đối với địa phương nào có nhiều việc, chắc chắn cũng sẽ có những bỡ ngỡ, khó khăn ban đầu, nhưng theo Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực – Bộ tư pháp, Cục đã lưu ý các địa phương căn cứ vào tình hình thực tế, Sở Tư pháp có thể biệt phái cán bộ xuống huyện một thời gian, khi nào ở cấp huyện làm tốt thì rút người lên hoặc tăng cường tập huấn, chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ cấp huyện[3].

Mặc dù vậy, đối với thủ tục phỏng vấn khi đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài, cũng đã có nhiều quan điểm xung quanh vấn đề này. Có nhiều ý kiến ủng hộ quy định bỏ thủ tục phỏng vấn như trong Nghị định số 123/2015/NĐ-CP, coi đây là “bước cải cách mạnh mẽ”, hướng tới bảo đảm quyền công dân, quyền con người trong việc thực hiện kết hôn, tránh được hình thức, phiền hà cho người dân. Quan điểm này cho rằng, việc triển khai quy định phỏng vấn có nhiều bất cập và dễ nảy sinh tiêu cực, theo phản ánh của nhiều địa phương, đây là thủ tục nặng về hình thức, thực tế, hãn hữu mới có trường hợp kết hôn bị từ chối thông qua kết quả phỏng vấn, mục đích phỏng vấn lại rất rộng, vượt ngoài khả năng hiểu biết của cán bộ làm công tác hộ tịch, bởi ngoài việc đánh giá mức độ hiểu biết hoàn cảnh gia đình, cá nhân của nhau, phỏng vấn còn để đánh giá mức độ hiểu biết của các bên về văn hóa, lịch sử, pháp luật, phong tục tập quán… mỗi nước. Chính vì vậy, việc bỏ thủ tục phỏng vấn là hợp lý và cần thiết. Trong khi đó, lại có quan điểm không đồng tình, còn băn khoăn về việc bỏ thủ tục phỏng vấn. Bởi theo quy định hiện hành, biện pháp “phỏng vấn” lại được xem như một “rào cản pháp lý” nhằm góp phần làm lành mạnh hóa quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài và bảo vệ quyền lợi của các bên khi kết hôn, việc bỏ thủ tục phỏng vấn có thể sẽ gây ra nhiều hệ lụy, thực tế cũng đã có địa phương đã thực hiện từ chối kết hôn nhiều trường hợp qua phỏng vấn do những cặp này chưa thực sự hiểu về nhau.

Dù vẫn còn những ý kiến trái chiều, nhưng có cần sửa đổi tiếp quy định về phỏng vấn hay không thì cần được kiểm nghiệm qua thực tiễn khi Luật Hộ tịch cũng như Nghị định số 123/2015/NĐ-CP có hiệu lực thi hành

5. Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử

Theo quy định của Luật Hộ tịch năm 2014, Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử được lập để lưu giữ, cập nhật, quản lý, tra cứu thông tin hộ tịch, phục vụ yêu cầu đăng ký hộ tịch trực tuyến; được kết nối để cung cấp, trao đổi thông tin hộ tịch cơ bản của cá nhân cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.Thông tin hộ tịch của cá nhân sẽ được quản lý tập trung, thống nhất; các Bộ, ngành, địa phương sử dụng thông tin công dân từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để phục vụ công tác quản lý của Bộ, ngành, địa phương mình (mà không phải nhập lại), cũng như giải quyết thủ tục hành chính cho người dân.Ở nước ta, việc ứng dụng công nghệ thông tin mới chỉ dừng ở mức in biểu mẫu hộ tịch từ máy tính. Tuy một số địa phương có sử dụng phần mềm đăng ký hộ tịch, nhưng chủ yếu ở mức độ đăng ký riêng lẻ từng loại việc, chưa có sự liên thông, thống nhất giữa các sự kiện hộ tịch của cùng một cá nhân, chưa kết nối giữa các cơ quan đăng ký hộ tịch với nhau và với cơ quan đăng ký hộ tịch cấp trên. Theo đánh giá của các địa phương, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký hộ tịch và xây dựng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử mang lại nhiều thuận lợi, khắc phục được tình trạng đăng ký và quản lý hộ tịch có sai sót, giảm thời gian thao tác, thuận tiện cho việc tra cứu, thống kê hộ tịch[4]. Hiện nay, Đề án “Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc” theo quy định tại Luật Hộ tịch đã được Bộ trưởng Bộ Tư pháp thông qua. Đây là một Đề án quan trọng nhằm ứng dụng đồng bộ công nghệ thông tin trong đăng ký và quản lý hộ tịch trên phạm vi toàn quốc, hình thành Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử tập trung, có sự quản lý thống nhất từ trung ương đến địa phương, từng bước hiện đại hóa công tác đăng ký hộ tịch, tiến tới đăng ký trực tuyến; bảo đảm kết nối để cung cấp thông tin hộ tịch cơ bản của cá nhân cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và cơ sở dữ liệu chuyên ngành có liên quan. Dự kiến là từ năm 2020 trở đi, chúng ta sẽ thực hiện đăng ký, quản lý hộ tịch điện tử, giải quyết thủ tục hành chính trực tuyến (mức độ 3 hoặc mức độ 4: Theo quy định tại điểm c, d khoản 4 Điều 3 Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước: “(c) Dịch vụ công trực tuyến mức độ 3: là dịch vụ công trực tuyến mức độ 2 và cho phép người sử dụng điền và gửi trực tuyến các mẫu văn bản đến cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ. Các giao dịch trong quá trình xử lý hồ sơ và cung cấp dịch vụ được thực hiện trên môi trường mạng. Việc thanh toán lệ phí (nếu có) và nhận kết quả được thực hiện trực tiếp tại cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ; (d) Dịch vụ công trực tuyến mức độ 4: là dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và cho phép người sử dụng thanh toán lệ phí (nếu có) được thực hiện trực tuyến. Việc trả kết quả có thể được thực hiện trực tuyến, gửi trực tiếp hoặc qua đường bưu điện đến người sử dụng”[5]). Các giải pháp thực hiện Đề án được đưa ra là:

Thứ nhất, cần xây dựng văn bản pháp luật quy định về quá trình vận hành, khai thác, quản lý cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử.

Thứ hai, tiếp tục sử dụng, nâng cấp thiết bị sẵn có tại các địa phương, chỉ trang bị mới khi thực sự cần thiết, bảo đảm mỗi cán bộ 01 máy có kết nối mạng Internet phục vụ riêng cho công tác hộ tịch; ưu tiên thuê hạ tầng công nghệ thông tin của doanh nghiệp.

Thứ ba, phần mềm đăng ký hộ tịch phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu cần thiết.

Thứ tư, sử dụng tối đa năng lực của đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch hiện nay, trên cơ sở cân đối bố trí đủ biên chế; tổ chức đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ.

Thứ năm, tạo lập cơ chế chỉ đạo điều hành thống nhất; khảo sát và đánh giá tổng thể thực trạng địa phương.

Thứ sáu, ưu tiên giải pháp thuê dịch vụ công nghệ thông tin.

Trong quá trình này, một số địa phương cũng đã đưa ra đề xuất, kiến nghị: Khi xây dựng phần mềm mẫu thì cần bảo đảm được sự kết nối với các phần mềm do các địa phương đã và đang ứng dụng, tránh việc không có sự tương tác dẫn đến phải hủy bỏ các phần mềm đó của địa phương; đồng thời hạn chế thấp nhất việc thay đổi hệ thống biểu mẫu hộ tịch để hạn chế việc phải cài đặt, thay đổi biểu mẫu trong phần mềm…

6. Công tác cán b

Khi triển khai thi hành Luật Hộ tịch năm 2014, công tác cán bộ là vấn đề đặc biệt quan trọng, ở chừng mực nào đó được coi là vấn đề mấu chốt ảnh hưởng tới hiệu quả của việc triển khai, thực hiện.

Luật hộ tịch quy định theo hướng tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho người dân nhưng song song với đó thì nó cũng sẽ tạo ra những áp lực cho các cơ quan, cán bộ thực hiện công tác hộ tịch.

Do việc tiếp nhận thêm nhiều việc, cũng như những quy định về tạo điều kiện cho người dân được lựa chọn cơ quan đăng ký hộ tịch, thời hạn giải quyết rút ngắn… nên không thể tránh khỏi yêu cầu về tăng cường số lượng công chức tư pháp – hộ tịch. Tuy nhiên, theo điều kiện cần phải tinh giản biên chế như hiện nay, việc bổ sung thêm biên chế là rất khó khăn. Trong khi công chức tư pháp – hộ tich ngoài thực hiện công tác tư pháp, có khi còn phải kiêm nhiệm thêm nhiều công việc khác nữa. Điều này dễ dẫn đến tình trạng quá tải trong công việc gây ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng của công việc và cũng sẽ cản trở việc học tập, trau dồi nâng cao kiến thức của các cán bộ.

Về chất lượng, cán bộ tư pháp – hộ tịch cần được chuẩn hóa theo quy định tại Điều 72 Luật Hộ tịch năm 2014. Theo đó, công chức tư pháp – hộ tịch cấp xã phải có có trình độ từ trung cấp luật trở lên và đã được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch; công chức làm công tác hộ tịch tại Phòng Tư pháp phải có trình độ cử nhân luật trở lên và đã được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch. Đối với một số địa phương, đây không phải là vấn đề lo ngại, bởi hầu hết các cán bộ đều đạt được tiêu chuẩn này hoặc tại địa phương đã có trường trung cấp luật, trường đại học đào tạo ngành luật nên sẽ tạo thuận lợi hơn cho việc đào tạo, bồi dưỡng. Tuy nhiên, đối với nhiều địa phương, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, những nơi trình độ dân trí thấp, kinh tế kém phát triển, những địa phương nhân lực vốn đã, đang bị quá tải trong công việc thì vấn đề bồi dưỡng để chuẩn hóa đội ngũ cán bộ theo quy định của Luật không phải đơn giản, sẽ khó khăn từ bố trí thời gian, bố trí người thay thế, kinh phí…

Bên cạnh đó, những nhiệm vụ mới, với những quy định trình tự, thủ tục thay đổi, với việc ứng dụng công nghệ… cũng đòi hỏi trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ. Do đó, cần phải thường xuyên có các lớp bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ này.

Từ vấn đề bổ sung biên chế, đến bồi dưỡng nghiệp vụ, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ đều cần phải có sự rà soát kỹ lưỡng và có kế hoạch thực hiện phù hợp. Để chuẩn hóa đội ngũ công chức tư pháp – hộ tịch theo quy định của Luật Hộ tịch năm 2014, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Ủy ban nhân dâncác tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương rà soát, bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch và kiện toàn đội ngũ này. Dự kiến đến năm 2016 sẽ chuẩn hóa đội ngũ công chức tư pháp – hộ tịch và đến trước ngày 01/01/2020 phải hoàn thành việc đào tạo lại đối với toàn bộ đội ngũ này. Cùng với đó, Bộ Tư pháp sẽ chủ trì, phố hợp với Bộ Ngoại giao tổ chức các lớp tập huấn cho viên chức ngoại giao, lãnh sự được phân công làm công tác hộ tịch tại các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài[6]. Từ ngày 01/01/2016 (ngày Luật Hộ tịch năm 2014 có hiệu lực thi hành) thì tất cả các địa phương trong cả nước chỉ tuyển dụng mới công chức làm công tác hộ tịch đáp ứng đủ tiêu chuẩn theo Luật Hộ tịch năm 2014, đây là tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 59/QĐ-TTg ngày 15/01/2015 ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật Hộ tịch.

Để triển khai thi hành Luật Hộ tịch đồng bộ, hiệu quả và thống nhất, các bộ, cơ quan trung ương, địa phương đều đang rất khẩn trương chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thực hiện. Về các văn bản hướng dẫn thi hành, hiện nay đã ban hành được Nghị định số 123/2015/NĐ-CP và Thông tư số 15/2015 ngày 16/11/2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP. Một số nghị định, thông tư hướng dẫn khác cũng đang trong quá trình dự thảo và đang quyết liệt để có thể được ban hành sớm. Đề án Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc đã được phê duyệt. Các công tác khác như việc rà soát các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành liên quan đến Luật Hộ tịch; tuyên truyền, phổ biến Luật và các văn bản hướng dẫn; rà soát, bồi dưỡng, tập huấn đội ngũ cán bộ có thể nói là đã và đang được thực hiện theo như Kế hoạch của Thủ tướng Chính phủ đã đề ra. Tất cả đều đang sẵn sàng cho việc triển khai, thi hành Luật Hộ tịch năm 2014.

Uyên Nhi



[1]Theo Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp, “Sẵn sàng cho việc triển khai Luật Hộ tịch từ 01/01/2016”, đăng trên http://moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/thong-tin-khac.aspx?ItemID=7086.

[2]Đăng trên Pháp luật Việt Nam plus, dốc sức triển khai thi hành Luật Hộ tịch, tại http://www.phapluatplus.vn/doc-suc-trien-khai-thi-hanh-luat-ho-tich-d2798.html.

[3]Theo “Thực hiện Luật Hộ tịch, cán bộ cần có tư duy đổi mới”, đăng trên http://baophapluat.vn/su-kien/thuc-hien-luat-ho-tich-can-bo-can-co-tu-duy-doi-moi-226027.html.

[4]Tài liệu phục vụ Hội nghị toàn quốc triển khai thi hành Luật Hộ tịch ngày 17/7/2015, tr. 16, 17.

[5]Điểm a, b khoản 4 Điều 3 Nghị định số 43/2011/NĐ-CP quy định:

(a) Dịch vụ công trực tuyến mức độ 1: là dịch vụ bảo đảm cung cấp đầy đủ các thông tin về thủ tục hành chính và các văn bản có liên quan quy định về thủ tục hành chính đó.

(b) Dịch vụ công trực tuyến mức độ 2: là dịch vụ công trực tuyến mức độ 1 và cho phép người sử dụng tải về các mẫu văn bản và khai báo để hoàn thiện hồ sơ theo yêu cầu. Hồ sơ sau khi hoàn thiện được gửi trực tiếp hoặc qua đường bưu điện đến cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ.

[6]Nâng chất lượng cán bộ làm công tác hộ tịch từ cấp cơ sở, Tạp chí điện tử Tổ chức nhà nước, đăng trên http://tcnn.vn/Plus.aspx/vi/News/125/0/1010072/0/20174/Nang_chat_luong_can_bo_lam_cong_tac_ho_tich_tu_cap_co_so.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Xây dựng pháp luật về án treo, nhìn từ góc độ xã hội học và xã hội học pháp luật

29/12/2015

Pháp luật nói chung và pháp luật về án treo nói riêng là lĩnh vực thuộc thượng tầng kiến trúc được quyết định bởi cơ sở hạ tầng, do các điều kiện kinh tế – xã hội quy định. Quá trình ra đời, phát triển của pháp luật và của án treo là một quá trình xã hội, do quá trình xã hội quyết định. Chế định về án treo được quy định trong Bộ luật Hình sự không đơn thuần là do các nhà làm luật tự đặt ra mà nó xuất phát từ thực tiễn các quan hệ xã hội, thông qua tri thức con người biến thành ý chí và quy định thành luật. Hay nói cách khác, quá trình phát triển của xã hội và thực tiễn các quan hệ xã hội quy định sự hình thành pháp luật về án treo và quy định tính chất của án treo. Nguồn gốc các quy định pháp luật về án treo (luật thực định) là trên cơ sở các quan hệ xã hội thực tế đang tồn tại (hay còn gọi là pháp luật tự nhiên), phản ánh đòi hỏi của cuộc sống. Vì vậy, việc duy trì hay bổ sung, thay đổi các quy định về án treo cũng đều xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đời sống xã hội. Việc xây dựng pháp luật về án treo là một hoạt động của pháp luật, một dạng của hoạt động xã hội, nó có mọi dấu hiệu của hoạt động xã hội. Do đó, nghiên cứu pháp luật về án treo không chỉ đơn thuần là lý luận, mà phải xem xét mối liên hệ giữa pháp luật về án treo với tư cách là một hiện tượng xã hội với xã hội, phải xuất phát từ xã hội học thì mới làm rõ được tính khoa học, giá trị thực tiễn về chế định án treo cũng như những mặt tích cực và hạn chế trong việc ban hành pháp luật về án treo.

1. Điều kiện hình thành và phát triển pháp luật về án treo

Dưới góc độ xã hội học và xã hội học pháp luật, pháp luật về án treo (hay còn gọi là pháp luật thực định) được hình thành và phát triển từ các điều kiện sau đây:

Một là: Điều kiện kinh tế – xã hội. Đây là tiêu chí quyết định đến mọi quan hệ xã hội khác và quyết định tính chất của kiến trúc thượng tầng, trong đó có pháp luật. Đất nước ta trải qua nhiều cuộc chiến tranh, hậu quả để lại rất nặng nề, đời sống nhân dân còn nhiều cơ cực, tình hình tội phạm diễn biến phức tạp. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường hội nhập quốc tế, tình hình tội phạm càng phức tạp, tinh vi hơn. Xã hội học pháp luật nghiên cứu từ mối quan hệ này trên nền tảng xã hội học thấy được rằng: Một con người phạm tội trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn sẽ khác với một con người phạm tội trong điều kiện no ấm, giàu có; vì thế, pháp luật cần phân loại, điều chỉnh cho phù hợp. Trên tinh thần đó, Đảng, Nhà nước ta thể hiện một chính sách khoan dung, độ lượng qua việc ban hành pháp luật về án treo bên cạnh các quy định khác của pháp luật để phản ánh và điều chỉnh các quan hệ nảy sinh từ thực tiễn đời sống kinh tế – xã hội. Điều đó có nghĩa là việc xây dựng pháp luật về án treo không thể thoát ly khỏi các quan hệ xã hội đang tồn tại thực tế.

Hai là: Điều kiện về địa lý. Việt Nam với 54 dân tộc anh em sinh sống trên mọi miền đất nước; đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội và hiểu biết pháp luật có sự chênh lệch lớn giữa vùng đồng bằng và vùng miền núi xa xôi, hẻo lánh. Mỗi một vùng, miền có một nét đặc trưng riêng về văn hóa. Thực tế xã hội cho thấy: Đồng bào các dân tộc thiểu số còn nhiều người nhận thức lạc hậu, kém hiểu biết về pháp luật, còn bị ảnh hưởng bởi những phong tục, tập quán lạc hậu và đó là những nguyên nhân dẫn đến việc phạm tội. Xã hội học cho thấy rõ điều đó, vì thế nghiên cứu xã hội học pháp luật sẽ có sự đánh giá cụ thể làm nền tảng cho việc xây dựng pháp luật, trong đó có pháp luật về án treo. Quan điểm nhân đạo của Đảng, Nhà nước ta là: Đối với những người nhận thức pháp luật hạn chế, văn hóa thấp mà phạm tội thì khi lượng hình Tòa án cần phải đánh giá một cách toàn diện để quyết định hình phạt, trong đó có việc áp dụng án treo nếu họ hội tụ đủ các điều kiện do pháp luật quy định.

Ba là:Điều kiện về nhân khẩu học. Trong đời sống vật chất của xã hội, yếu tố nhân khẩu học thể hiện ở độ tuổi, giới tính, tác động của họ đối với xã hội. Kết quả điều tra xã hội học chỉ ra rằng: Độ tuổi sẽ ảnh hưởng đến nhận thức và năng lực hành vi của con người, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khả năng nhận thức khác so với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, người chưa thành niên khả năng nhận thức khác với những người đã thành niên. Về giới tính thì nam giới khác nữ giới. Một người phụ nữ mang thai khi phạm tội hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội là những tình tiết giảm nhẹ để Tòa án quyết định hình phạt… Đây là một thực tiễn gắn liền với đời sống xã hội; đòi hỏi xã hội học pháp luật phải nghiên cứu, xây dựng các quy phạm pháp luật phù hợp để điều chỉnh. Quan điểm nhân đạo của Đảng, Nhà nước ta thể hiện rất rõ trong Bộ luật Hình sự đối với điều kiện này; đồng thời pháp luật về án treo cũng không nằm ngoài chương trình xây dựng pháp luật để điều chỉnh những nảy sinh từ thực tiễn của nhân tố nhân khẩu học trong đời sống xã hội. Các bị cáo vị thành niên, phụ nữ phạm tội khi mang khai… trong nhiều trường hợp được Tòa án cho hưởng án treo.

Bốn là: Điều kiện về môi trường sống của con người. Xã hội học pháp luật phải nghiên cứu con người sinh ra trong hoàn cảnh nào, chịu sự tác động của các nhân tố tích cực lẫn tiêu cực, trên cơ sở đó mới xây dựng những quy phạm pháp luật phù hợp, có khả năng điều chỉnh được quan hệ xã hội cụ thể của nó. Một con người sinh ra và lớn lên trong môi trường gia đình khá giả, học hành đến nơi đến chốn, được giáo dục nề nếp thì khả năng vi phạm pháp luật sẽ thấp hơn những người sinh ra và lớn lên trong môi trường nghèo khó, thiếu học hành, thiếu giáo dục. Một đứa trẻ mồ côi cha mẹ, sống lang thang nay đây mai đó, không được học hành thì khả năng vi phạm pháp luật cao hơn rất nhiều so với một đứa trẻ được nuôi dưỡng đầy đủ, học hành đến nơi đến chốn… Vì thế, việc xây dựng pháp luật phải tính tới môi trường sống của con người, một quan hệ xã hội có sự tác động rất lớn đến sự hình thành nhân cách và án treo được ban hành cũng không ngoài mục đích thể hiện tính nhân đạo của pháp luật đối với những người phạm tội trong môi trường này khi đủ các điều kiện do pháp luật quy định.

Như vậy, có thể nói rằng cùng với nhân tố kinh tế còn có các nhân tố địa lý, môi trường sống, nhân khẩu học đã tạo nên một tiểu hệ thống nhân tố hạ tầng cơ sở đã phản ánh một cách thực tế nhu cầu đời sống xã hội đòi hỏi phải có pháp luật điều chỉnh; trong đó các quy phạm pháp luật không chỉ chứa đựng nội dung trừng trị mà còn chứa đựng cả chính sách nhân đạo, khoan hồng. Thực tiễn xã hội chính là điểm xuất phát của nghiên cứu pháp luật để loại bỏ tình trạng tách rời thực tiễn, lạc hậu so với thực tiễn hay gọi là lý luận suông. Thực tiễn sẽ cung cấp các sự kiện, thực nghiệm cho lý luận. Vì vậy, hoạt động xây dựng pháp luật có hiệu quả đến đâu còn phải căn cứ vào thước đo phản ánh của thực tiễn. Một văn bản quy phạm pháp luật chất lượng, hiệu quả phải đáp ứng đầy đủ các mục đích cơ bản đặt ra; giải quyết tốt các nhân tố xã hội về kinh tế, chính trị, văn hóa, dân tộc…, phải làm sáng tỏ các nhu cầu và lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp, các cộng đồng dân cư… và nói chung là lợi ích của nhân dân. Án treo ra đời và phát triển về khía cạnh nhân đạo đã thỏa mãn các lợi ích đó.

Năm là: Các yếu tố trong tiểu hệ thống các nhân tố thượng tầng kiến trúc, đặc biệt là nhân tố chính trị có tác động rất lớn trong việc hoạch định chính sách pháp luật cũng như xây dựng pháp luật về án treo.

Hệ thống chính trị là một khái niệm rộng, tập hợp đa lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp xã hội; trong đó lợi ích của giai cấp cầm quyền có tính quyết định, chi phối việc xây dựng pháp luật và hỗ trợ, tạo điều kiện cho các giai tầng khác trong xã hội. Đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hơn 80 năm qua luôn thể hiện tính nhân đạo cao cả, khoan hồng, độ lượng đối với những người lầm đường lạc lối. Xã hội học pháp luật đã nghiên cứu và thể chế hóa tư tưởng của Đảng thành pháp luật; trong đó có việc xây dựng và ban hành chế định án treo trong Bộ luật Hình sự, để áp dụng đối với những người phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt, biết ăn năn hối cải, gây tác hại không lớn… Như vậy, bản thân chính trị cũng là một yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc do cơ sở hạ tầng quyết định; vì vậy sự chi phối của chính trị đối với pháp luật cũng có nguồn gốc từ thực tiễn đời sống xã hội. Đảng cầm quyền luôn theo dõi, quan tâm đến nhu cầu thực tế của các tầng lớp xã hội để có đường lối lãnh đạo đúng đắn, đáp ứng kịp thời và hài hòa các lợi ích đó, và lẽ dĩ nhiên pháp luật phải thể hiện ý chí của giai cấp thống trị thông qua sự quản lý của nhà nước pháp quyền.

2. Mối quan hệ giữa xã hội học pháp luật và xã hội học trong việc xây dựng pháp luật về án treo

Pháp luật ra đời từ trong xã hội, thực tiễn đời sống xã hội nảy sinh nhiều nhân tố mà việc nghiên cứu xây dựng pháp luật cần phải xem xét một cách đầy đủ. Thực tiễn đời sống xã hội cho thấy, cần phải có chế định về án treo để áp dụng đối với những người phạm tội khi đủ các điều kiện nêu trên. Vì thế, xã hội học pháp luật phải nghiên cứu, khảo sát và đánh giá có cần thiết phải ban hành chế định án treo hay không để phản ánh lại nhu cầu của xã hội. Trong hơn 70 năm qua, kể từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời cho đến nay, chế định án treo đã hình thành và phát triển theo chiều dài của lịch sử, luôn luôn có sự sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện. Điều đó chứng tỏ rằng, việc nghiên cứu, xây dựng và ban hành chế định án treo là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm, truyền tải được tư tưởng nhân đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đến nhân dân. Xã hội học pháp luật là một dạng của xã hội học, vì thế nó chịu sự quyết định của xã hội học. Bản thân các nhà khoa học, các đại biểu Quốc hội… khi nghiên cứu, xây dựng và ban hành pháp luật nói chung cũng như pháp luật về án treo nói riêng không phải muốn là được mà phải xem xét xã hội có cần pháp luật về án treo hay không. Vì thế, quan hệ giữa xã hội học pháp luật với xã hội học trong việc xây dựng và ban hành chế định án treo là mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại theo một quy luật: Các quan hệ xã hội quyết định việc nghiên cứu, ban hành pháp luật về án treo; còn việc nghiên cứu, ban hành pháp luật về án treo tác động trở lại đời sống xã hội, thúc đẩy các quan hệ xã hội phát triển. Cụ thể ở đây là: Làm cho người được hưởng án treo thấy được tính nhân đạo của pháp luật, yên tâm cải tạo, sớm hoàn lương và không tái phạm, đó chính là sự tác động tích cực. Trong trường hợp ngược lại, sự tác động tiêu cực sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội, cụ thể là sẽ làm cho người được hưởng án treo không thấy được tính nhân đạo của pháp luật, dễ tái phạm… Nhìn từ góc độ xã hội học và xã hội học pháp luật thì án treo trong hơn 70 năm qua tác động tích cực đến đời sống xã hội, vì thế nó luôn tồn tại và phát triển.

Ngoài ra, còn có những nhân tố như: Thực tiễn áp dụng pháp luật về án treo, thi hành án về án treo, ý thức pháp luật của công dân, truyền thống, văn hóa, dân tộc, trình độ dân trí cũng là những yếu tố mà xã hội học pháp luật cần phải nghiên cứu để xây dựng và hoàn thiện pháp luật về án treo.

Tựu trung lại, nhìn từ góc độ xã hội học và xã hội học pháp luật thì án treo không chỉ được nghiên cứu, xây dựng và ban hành tại Việt Nam mà nó còn được nghiên cứu, xây dựng và ban hành ở nhiều quốc gia trên thế giới như: Cộng hòa Liên bang Nga, Cộng hòa Liên bang Đức, Trung Quốc, Anh, Mỹ… Điều đó chứng minh được rằng, không chỉ có Việt Nam mà thực tế đời sống xã hội của nhiều nước trên thế giới đều có nhu cầu phải ban hành pháp luật về án treo để điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với nó, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật quốc gia đó. Xã hội học pháp luật dựa vào phương pháp so sánh thấy được ngay cả ở những nước tư bản đều có pháp luật về án treo; thì ở Việt Nam trong điều kiện hiện tại và cả tương lai việc duy trì và hoàn thiện pháp luật về án treo không chỉ là sự cần thiết, một nhu cầu cấp bách mà còn là một tất yếu khách quan.

Tuy nhiên, chúng ta đang ở trong một giai đoạn toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, trong đó có cả toàn cầu hóa pháp luật và nhiều vấn đề xã hội khác; đồng thời xuất phát từ thực tiễn áp dụng pháp luật trong hơn 70 năm qua có nhiều bất cập, chưa lan tỏa hết các nhu cầu đời sống xã hội. Vì thế trong lần sửa đổi Bộ luật Hình sự lần này theo hướng mở rộng các đối tượng được hưởng án treo, loại bỏ những điều kiện cho hưởng án treo không còn phù hợp với thực tiễn, bổ sung những điều kiện mới sát với thực tế hơn… sẽ bao quát hết các yếu tố thuộc nội hàm của án treo, đồng thời giảm tải được việc ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng và thi hành án treo.

ThS. Nguyễn Văn Bường

Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Nâng cao hiệu quả xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp ở Việt Nam

28/12/2015

1. Đặt vấn đề

Phát triển khu công nghiệp là tất yếu ở nước ta với mục tiêu tập trung các cơ sở sản xuất công nghiệp, sử dụng tiết kiệm tài nguyên và năng lượng, tập trung các nguồn thải ô nhiễm vào khu vực nhất định. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy hiện trạng môi trường trong các khu công nghiệp đang diễn biến xấu đi, tình hình ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng. Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường nói chung, trong khu công nghiệp nói riêng có vai trò quan trọng đối với việc răn đe, giáo dục chủ thể vi phạm, lập lại trật tự xã hội và bảo vệ môi trường. Trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, việc truy cứu trách nhiệm hình sự rất khó khăn, chủ yếu là truy cứu trách nhiệm hành chính. Nghị định số 179/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường hiện đang có hiệu lực thi hành. Nhằm tăng cường bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp, đảm bảo phát triển bền vững, một trong những hoạt động cần tiến hành kịp thời là nâng cao hiệu quả xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp ở nước ta.

2. Một số vấn đề lý luận về nâng cao hiệu quả xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp

2.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường

Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là một bộ phận của xử phạt vi phạm hành chính. Khái niệm này được quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Theo đó,“xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính”. Xử phạt vi phạm hành chính là một trong những hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Quan hệ pháp luật hành chính là quan hệ “quyền lực – phục tùng” giữa một bên có quyền nhân danh nhà nước ra những mệnh lệnh bắt buộc đối với bên kia là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có nghĩa vụ phục tùng các mệnh lệnh đó[1]. Cụ thể, trong quan hệ xử phạt vi phạm hành chính luôn có một bên chủ thể nhân danh quyền lực nhà nước ra những mệnh lệnh đơn phương (quyết định xử phạt), một bên chủ thể là cá nhân, tổ chức vi phạm các quy định pháp luật hành chính có nghĩa vụ phục tùng các quyết định xử phạt ấy. Trên cơ sở quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị định số 179/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Có thể định nghĩa, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là việc người có thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

2.2. Đặc trưng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp

Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp mang những đặc điểm chung của xử phạt vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường như: Chủ thể xử phạt phải là cơ quan nhà nước có thẩm quyền; đối tượng bị xử phạt là cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, quyết định xử phạt mang tính cá biệt; hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, các biện pháp xử lý hành chính khác, thủ tục xử phạt… áp dụng đối với chủ thể vi phạm phải căn cứ theo quy định của pháp luật… Bên cạnh những đặc điểm chung đó, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường còn mang những đặc trưng riêng. Cụ thể:

Thứ nhất, đối tượng bị xử phạt chủ yếu là các tổ chức, cụ thể là các doanh nghiệp. Khu công nghiệp là nơi tập trung của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Trong quá trình sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp có nhiều hành vi tác động tới môi trường khu công nghiệp và môi trường xung quanh khu công nghiệp. Vì vậy, nếu như ở các khu vực khác như làng nghề, bệnh viện, trường học, khu đô thị…, hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường có thể do cả tổ chức, cá nhân thực hiện, thì tại khu công nghiệp, hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường chủ yếu do các doanh nghiệp thực hiện.

Thứ hai, chủ thể có thẩm quyền tham gia vào quá trình xử phạt ngoài những chủ thể là cơ quan quản lý nhà nước về môi trường còn có sự tham gia của Ban quản lý khu công nghiệp. Hiện nay, chủ thể này được trao quyền phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về môi trường để phát hiện và xử lý kịp thời những doanh nghiệp có hành vi gây ô nhiễm môi trường.

Thứ ba, mức xử phạt áp dụng đối với chủ thể vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp thường cao. Chủ thể vi phạm thường là các doanh nghiệp (tổ chức), vì thế, mức phạt tiền áp dụng gấp đôi so với cá nhân có cùng hành vi vi phạm. Mặt khác, trong lĩnh vực bảo vệ môi trường mức xử phạt thường dựa vào hậu quả mà hành vi gây ra cho môi trường. Hành vi gây ô nhiễm môi trường của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp thường gây ra hậu quả nghiêm trọng bởi lượng chất thải, đặc biệt chất thải nguy hại do chủ thể này xả thải ra môi trường thường lớn. Ngoài ra, doanh nghiệp là nơi tập trung sản xuất, doanh nghiệp này gây ô nhiễm môi trường ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp khác.

2.3. Các yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp

Muốn nâng cao hiệu quả công tác thực hiện pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp, chúng ta cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. Các giải pháp đó phải đáp ứng các yêu cầu cơ bản như sau:

Thứ nhất, hệ thống pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường phải hoàn thiện, phù hợp với thực tiễn

Hiện nay, không có quy định riêng về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp. Khi xử phạt các chủ thể có hành vi vi phạm hành chính lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào các quy định pháp luật, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra đầu tiên để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp là hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Nếu không giải quyết được yêu cầu này thì những giải pháp khác không phát huy được tác dụng. Bởi lẽ: Các chủ thể thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật. Khi hoàn thiện hệ thống pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường cần phải thống nhất với Hiến pháp năm 2013, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Các nhà làm luật cần phải xem xét tình hình thực tế và dự đoán trước những thay đổi trong xã hội để xây dựng các quy phạm pháp luật đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh. Ngoài ra, các quy phạm pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường phải thống nhất với nhau. Đặc biệt, các nhà làm luật cần cân nhắc kỹ mức xử phạt sao cho tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi vi phạm.

Thứ hai, trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp phải đáp ứng được yêu cầu xử phạt

Trình độ chuyên môn, đạo đức của cán bộ có thẩm quyền có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hiệu quả công tác thực hiện pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Muốn nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật không thể bỏ qua khâu nâng cao trình độ chuyên môn, bồi dưỡng đạo đức cho đội ngũ cán bộ có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp. Vì thế, hàng năm, ngân sách nhà nước cần trích ra một khoản nhất định để chi phí cho hoạt động tập huấn cán bộ có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp. Bên cạnh việc tập huấn để nâng cao trình độ chuyên môn phải chú trọng bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Bởi vì, nếu có trình độ chuyên môn nhưng thiếu đạo đức nghề nghiệp thì cán bộ có thẩm quyền cũng không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ. Việc nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp phải được thực hiện thường xuyên, liên tục. Văn bản quy phạm pháp luật liên tục được thay thế, sửa đổi, bổ sung và thực tế luôn biến động không ngừng. Một trong những chủ thể cần được quan tâm tập huấn là Ban quản lý khu công nghiệp. Thực tế cho thấy, Ban quản lý khu công nghiệp là chủ thể có điều kiện để phát hiện ra sai phạm kịp thời. Khi Ban quản lý khu công nghiệp được tập huấn về trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp, họ được nhận thức đầy đủ hơn về quyền và trách nhiệm của mình đối với việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp.

Thứ ba, nâng cao trình độ nhận thức của người dân, doanh nghiệp trong khu công nghiệp về vai trò của pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp và nghĩa vụ chấp hành các quyết định xử phạt

Người dân với tư cách là chủ thể bị gây tổn hại về quyền trong lĩnh vực môi trường. Mặc dù khu công nghiệp tương đối cách biệt với các khu dân cư nhưng môi trường có tính lan truyền nên có thể hành vi gây ô nhiễm môi trường trong khu công nghiệp nhưng vẫn ảnh hưởng tới đời sống dân sinh khu vực xung quanh. Ngoài ra, môi trường là tài sản chung của mọi cá nhân, tô chức trong xã hội. Vì vậy, quyền và nghĩa vụ bảo vệ môi trường cũng thuộc mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội.

Doanh nghiệp với tư cách là chủ thể vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường khu công nghiệp, bị xử phạt và phải tuân thủ các quyết định xử phạt. Nếu họ nhận thức đúng đắn về vai trò của pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, biết được nghĩa vụ của mình là một trong những điều kiện nâng cao tinh thần tự giác thực hiện các quyết định xử lý.

Để nâng cao hiệu quả công tác thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường phải nâng cao nhận thức của người dân, doanh nghiệp trong khu công nghiệp về vai trò của pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Các hoạt động nhằm nâng cao nhận thức của người dân về vai trò của pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường phải đa dạng, phong phú, phù hợp với từng đối tượng trong xã hội.

Thứ tư, phải có cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp hợp lý, hiệu quả

Thanh tra, kiểm tra là một trong những hoạt động quan trọng nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp. Bên cạnh vai trò phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm, công tác thanh tra, kiểm tra còn có tác dụng phòng ngừa những hành vi vi phạm pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp. Công tác thanh tra, kiểm tra tác động đến cả chủ thể vi phạm với lỗi vô ý và chủ thể vi phạm với lỗi cố ý. Đối với chủ thể do thiếu hiểu biết nên đã vi phạm, thì công tác thanh tra, kiểm tra có tác dụng giúp chủ thể này nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp và làm thay đổi hành vi xử sự của chủ thể. Đối với chủ thể có ý thức chống đối lại pháp luật thì công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm sẽ có tác dụng răn đe, giáo dục và chủ thể dần phải thay đổi hành vi theo hướng thực hiện nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp.

3. Giải pháp nâng cao hiệu quả xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp ở Việt Nam

Trong thời gian qua, hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp đã thu được nhiều thành tựu đáng kể góp phần giữ gìn trật tự xã hội, bảo vệ môi trường hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn tồn tại nhiều khuyết điểm, hạn chế. Để nâng cao hiệu quả công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp, tác giả đề xuất một số giải pháp cụ thể như sau:

3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường

Hệ thống pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường có hoàn chỉnh, đồng bộ và thống nhất mới tạo tiền đề để nâng cao hiệu quả công tác xử phạt. Trên cơ sở tìm hiểu pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường (Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và Nghị định số 179/2013/NĐ-CP), tác giả đưa ra một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường:

Thứ nhất, hoàn thiện các quy định pháp luật về xác định thẩm quyền xử lý. Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính cần xác định thứ tự ưu tiên các nguyên tắc. Theo đó, người thụ lý vụ việc đầu tiên có quyền áp dụng các biện pháp xử phạt là nguyên tắc ưu tiên trước để đảm bảo mọi hành vi vi phạm hành chính đều được phát hiện kịp thời và xử phạt nghiêm minh. Tránh tình trạng, trong khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền đùn đẩy trách nhiệm cho nhau và chủ thể vi phạm vẫn ngang nhiên thực hiện hành vi gây tổn hại cho môi trường.

Thứ hai, pháp luật cần bổ sung quy định về trả lại Giấy phép môi trường, cho hoạt động trở lại trong trường hợp chủ thể hoàn thành nghĩa vụ khắc phục hậu quả vi phạm sớm. Nên chăng pháp luật quy định theo hướng: Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải ghi ấn định thời gian cụ thể tước quyền sử dụng Giấy phép môi trường, thời gian đình chỉ hoạt động trong quyết định xử phạt. Tuy nhiên, nếu thời gian bị tước quyền sử dụng Giấy phép môi trường hoặc đình chỉ hoạt động đã đủ mức tối thiểu theo quy định của pháp luật hiện hành, cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét để trả lại Giấy phép môi trường và cho hoạt động trở lại sớm hơn thời hạn đã ấn định (tại thời điểm hoàn thành nghĩa vụ khắc phục hậu quả vi phạm). Quy định như vậy vừa đảm bảo được mục đích răn đe, giáo dục của biện pháp xử phạt này, đồng thời khuyến khích chủ thể vi phạm nhanh chóng khắc phục hậu quả đối với môi trường.

Thứ ba, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 có quy định về cam kết bảo vệ môi trường nhưng Luật bảo vệ môi trường năm 2014 không còn quy định về nội dung này, thay vào đó có nội dung quy định về kế hoạch bảo vệ môi trường. Hiện nay, Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 179/2013/NĐ-CP đang được soạn thảo nên chưa có quy định về nội dung kế hoạch bảo vệ môi trường. Vì vậy, cần có hướng dẫn cụ thể theo hướng: Các hành vi vi phạm quy định về thực hiện cam kết bảo vệ môi trường theo Luật bảo vệ môi trường năm 2005 và các hành vi vi phạm quy định về thực hiện kế hoạch bảo vệ môi trường theo Luật bảo vệ môi trường năm 2014 được điều chỉnh tại Điều 8 Nghị định số 179/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

Thứ tư, Điều 17 Nghị định số 179/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường quy định về hình thức, mức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm quy định về tiếng ồn. Khoản 8, khoản 9 của Điều này có quy định như sau:

“8. Phạt tiền từ 120.000.000 đồng đến 140.000.000 đồng đối với hành vi gây tiếng ồn vượt quy chuẩn kỹ thuật về tiếng ồn từ 35 dBA đến dưới 40 dBA.

9. Phạt tiền từ 140.000.000 đồng đến 160.000.000 đồng đối với hành vi gây tiếng ồn vượt quy chuẩn kỹ thuật về tiếng ồn trên 40 dBA”.

Vậy, trường hợp gây tiếng ồn vượt quy chuẩn kỹ thuật về tiếng ồn 40 dBA thì xử phạt như thế nào? Đây là trường hợp thuộc về lỗi kỹ thuật lập pháp, sự thiếu thận trọng trong việc sử dụng từ ngữ dẫn đến hậu quả khá nghiêm trọng. Chủ thể có thẩm quyền không có căn cứ để xử lý những chủ thể gây tiếng ồn vượt quy chuẩn kỹ thuật về tiếng ồn 40 dBA.

Vì vậy, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần sửa đổi khoản 9 Điều 17 như sau: “Phạt tiền từ 140.000.000 đồng đến 160.000.000 đồng đối với hành vi gây tiếng ồn vượt quy chuẩn kỹ thuật về tiếng ồn từ 40 dBA trở lên” tạo cơ sở để chủ thể có thẩm quyền xử phạt những hành vi gây tiếng ồn vượt quy chuẩn kỹ thuật về tiếng ồn 40 dBA, tránh tình trạng bỏ lọt vi phạm.

3.2. Tuyên truyền, giáo dục để nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường của người dân, doanh nghiệp tại khu công nghiệp

Việc tuyên truyền, giáo dục hướng tới hai đối tượng là người dân và doanh nghiệp tại khu công nghiệp. Vị trí, vai trò trong xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp của hai chủ thể này là khác nhau nên nội dung, hình thức tuyên truyền, giáo dục khác nhau. Đối với người dân, nội dung chính cần tuyên truyền là quyền và nghĩa vụ của họ trong bảo vệ môi trường nói chung, bảo vệ môi trường khu công nghiệp nói riêng; trong trường hợp có vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo, người dân cần thực hiện các hành vi hợp pháp gì để bảo vệ môi trường, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pkháp của mình. Đối với doanh nghiệp trong khu công nghiệp, việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức sẽ có tác dụng theo hai hướng:

Thứ nhất, khi biết được các chế tài nghiêm khắc áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, họ thường có thái độ cẩn trọng hơn khi khai thác, sử dụng các yếu tố của môi trường để tránh rơi vào trường hợp vi phạm.

Thứ hai, khi đã có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, họ sẽ tuân thủ nghiêm chỉnh các quyết định xử phạt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, khắc phục những hậu quả đã gây ra cho môi trường. Nội dung tuyền truyền đối với doanh nghiệp trong khu công nghiệp nên chú trọng tới các hành vi bị coi là vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm quyền xử phạt…

Hình thức tuyên truyền, giáo dục rất đa dạng như: Đưa vào chương trình học tại các cơ sở giáo dục – đào tạo, phổ biến trên Đài Truyền hình, Truyền thanh của Trung ương và địa phương, thành lập các website, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, treo các băng rôn, áp phích với các khẩu hiệu tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường…

3.3. Tập huấn chuyên sâu để nâng cao trình độ chuyên môn, bồi dưỡng đạo đức cho chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường

Cơ quan nhà nước có chủ thể được trao thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là đơn vị chủ trì việc thực hiện hoạt động tập huấn chuyên sâu về chuyên môn và bồi dưỡng đạo đức cho cán bộ. Thông thường, trên thực tế, chủ thể có vai trò quan trọng nhất trong việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan công an, thanh tra chuyên ngành bảo vệ môi trường. Vì thế, cơ quan tiến hành tập huấn cán bộ nên là Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan công an, cơ quan thanh tra chuyên ngành bảo vệ môi trường. Nội dung cơ bản nhất cần phải tập huấn là các quy định về những hành vi bị coi là vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường; các biện pháp xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, biện pháp xử phạt vi phạm hành chính khác áp dụng đối với từng hành vi vi phạm, từng chủ thể; giới hạn thẩm quyền của mỗi chủ thể; trình tự, thủ trong kiểm tra, lập biên bản, chuẩn bị các hồ sơ liên quan đến việc ra quyết định xử phạt nhằm bảo đảm các vụ việc vi phạm hành trong lĩnh vực bảo vệ môi trường được xử phạt đúng quy định của pháp luật.

Trong nhiều trường hợp cán bộ có thẩm quyền xử phạt buông lỏng quản lý, để mặc cho chủ thể vi phạm, gây tổn hại cho môi trường. Có trường hợp khác, cơ quan có thẩm quyền đã nhận lợi ích vật chất của chủ thể vi phạm và bao che cho hành vi sai phạm của chủ thể đó. Vì thế, bên cạnh việc tập huấn chuyên sâu về trình độ chuyên môn, còn phải bồi dưỡng về đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Có thể gắn thi đua, khen thưởng đối với cán bộ công chức, viên chức vào vấn đề này. Việc gắn thi đua khen thưởng phải tuân thủ quy định của pháp luật và nên được thể chế hóa thành nội quy, quy chế của mỗi cơ quan.

3.4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, công khai thông tin thực hiện các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp

Cơ quan có thẩm quyền thanh tra cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp. Chúng ta cần lưu ý ở đây, chức năng thanh tra việc thực hiện pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường khác với thanh tra việc tuân thủ pháp luật bảo vệ môi trường. Thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật bảo vệ môi trường nhằm ngăn ngừa, phát hiện những hành vi gây tổn hại cho môi trường. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường nhằm đảm bảo cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử phạt kịp thời, đúng người, đúng hành vi vi phạm, đúng mức và đảm bảo chủ thể bị xử phạt tuân thủ nghiêm chỉnh các quyết định xử phạt. Bên cạnh đó cơ quan có trách nhiệm cần phải xử phạt nghiêm chỉnh những chủ thể vi phạm việc thực hiện pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường để răn đe, giáo dục chính chủ thể đó và chủ thể khác. Cơ quan thanh tra, kiểm tra và cơ quan xử phạt vi phạm nêu làm tốt nhiệm vụ của mình sẽ đảm bảo việc thực hiện pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường hiệu quả.

Một giải pháp nữa có thể kể tới đó là tăng cường vai trò của công cụ thông tin. Công khai việc thực hiện pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Nội dung của việc công khai thông tin là biểu dương những chủ thể thực hiện tốt, phê bình những chủ thể thực hiện chưa tốt, có hành vi sai phạm. Hình thức của việc công khai thông tin khá đa dạng như báo, đài, trang điện tử, bảng tin… Mục đích của việc công khai thông tin nhằm tạo sức ép đối với chủ thể thực hiện chưa nghiêm chỉnh và khuyến khích những chủ thể thực hiện tốt pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Đối với khu công nghiệp, chịu trách nhiệm công khai thông tin việc thực hiện pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường của doanh nghiệp có thể giao cho Ban Quản lý khu công nghiệp.

3.5. Phát huy vai trò của Ban quản lý khu công nghiệp trong kiểm tra, phát hiện và xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp

Ban quản lý khu công nghiệp có vai trò đặc biệt trong việc theo dõi, quản lý các doanh nghiệp trên nhiều phương diện, trong đó có việc tuân thủ pháp luật bảo vệ môi trường. Phát huy vai trò của Ban quản lý khu công nghiệp trong kiểm tra, phát hiện và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp là cần thiết. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường (Ủy ban nhân dân các cấp, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường…) cần có kế hoạch phối hợp với Ban quản lý khu công nghiệp để thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra và xử phạt doanh nghiệp vi phạm. Trong hoạt động này, Ban quản lý khu công nghiệp đóng vai trò:

Một là, kiểm tra, theo dõi việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ môi trường cùa các doanh nghiệp, chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp và các cơ sở sản xuất kinh doanh khác trong khu công nghiệp.

Hai là, tiếp nhận, giải quyết bước đầu đơn thư khiếu kiện (xác nhận nội dung đơn thư khiếu kiện có đúng hay không) về bảo vệ môi trường trong khu công nghiệp.

Ba là, phối hợp với các cơ quan được trao quyền xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực bảo vệ môi trường trong việc thanh tra, kiểm tra (đột xuất hoặc có kế hoạch) việc tuân thủ pháp luật bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp.

Bốn là, đôn đốc, kiểm tra các doanh nghiệp trong khu công nghiệp có hành vi phạm hành chính lĩnh vực bảo vệ môi trường thực hiện nghiêm chỉnh các quyết định xử phạt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Việc phát triển khu công nghiệp là tất yếu trong sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, thực tế hiện nay môi trường trong các khu công nghiệp đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường nước ta thời gian qua đã thể hiện vai trò trong công tác đấu tranh phòng, ngừa những hành vi gây tổn hại cho môi trường, lập lại trật tự công bằng xã hội nói chung, tại khu công nghiệp nói riêng. Để đảm bảo phát triển bền vững, bảo vệ môi trường khu công nghiệp cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp và một trong những giải pháp là nâng cao hiệu quả công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp.

PGS.TS. Doãn Hồng Nhung, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội

ThS. Nguyễn Thị Bình, Trường Đại học Tài nguyên & Môi trường Hà Nội

Tài liệu tham khảo:

1. Báo cáo kết quả kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, môi trường, xây dựng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng năm 2013, Website: Sở Tư pháp thành phố Đà Nẵng, cập nhật thứ 4, ngày 16/10/2013, 02:10;

2. Nguyễn Thị Bình (2015), Nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội.

3. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2009), Báo cáo môi trường Quốc gia – Môi trường khu công nghiệp Việt Nam, Hà Nội.

4. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2015), Thông tư 35/2015/TT-BTNMT ngày 30/6/2015 về bảo vệ môi trường khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, Hà Nội.

5. Chính phủ (2009), Nghị định số 117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009 về xử lí vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, Hà Nội.

6. Chính phủ (2013), Nghị định số 164/2013/NĐ-CP ngày 12/11 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/03/2008 quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế, Hà Nội.

7. Chính phủ (2013), Nghị định số 179/2013/NĐ-CP ngày 14/11 về xử lí vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, Hà Nội.

8. Chính phủ (2013), Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 18/03/2013 về một số vấn đề cấp bách trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, Hà Nội.

9. Chính phủ (2015), Nghị định số 19/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật bảo vệ môi trường năm 2013, Hà Nội.

10. Công ty Hào Dương vẫn chưa chịu nộp hơn 6,3 tỉ đồng tiền bị phạt, Website Tin nhanh về môi trường Việt Nam, cập nhật 21:34:32 PM, ngày 07/01/2015.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Nghị quyết số 41/NQ-TW ngày 15/11/2004 về bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.

12. Kết quả công tác thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm hành chính năm 2013 của Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thừa Thiên Huế, Website: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thừa Thiên Huế, cập nhật ngày 14/01/2014.

13. Trần Hồng Hà (2009), Quản lý nhà nước về môi trường – thực trạng và giải pháp, Tạp chí Quản lý nhà nước số 157/2009.

14. Vũ Quốc Huy, Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng và triển khai quy hoạch phát triển các khu công nghiệp tại Việt Nam, Website: Khu công nghiệp Việt Nam, cập nhật: 26/12/2014, 5:19 CH.

15. Nông Trung Kiên, Kết quả xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tài nguyên môi trường năm 2014, Website: UBND tỉnh Cao Bằng – Sở Tài nguyên và Môi trường Cao Bằng, cập nhật: Thứ hai ngày 16/02/2015, 10:16.

16. Mai Luận, Khắc phục ô nhiễm môi trường do Công ty cổ phần Nicotex Thanh Thái gây ra, Báo Nhân dân điện tử, cập nhật thứ Tư, ngày 24/09/2014 – 05:09 PM (GMT+7).

17. Quốc hội (2012), Luật Xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13, Hà Nội

18. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội.

19. Quốc hội (2014), Luật Bảo vệ môi trường số 52/2014/QH13, Hà Nội

20. Quốc hội (2014), Luật Đầu tư số 67/2014/QH13, Hà Nội.

21. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự số 15/1999/QH10, Hà Nội.

22. Quyết định xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đối với Công ty TNHH xây dựng và thương mại Thái Bình Minh, Website: Cổng thông tin điện tử tỉnh Lào Cai – Sở Tài nguyên và Môi trường, cập nhật ngày 02/7/2014, 3:19:03 CH.

23. Xử lí nghiêm các doanh nghiệp xả thải chưa qua xử lí môi trường, Cổng thông tin điện tử thành phố Đà Nẵng, cập nhật ngày 28/06/2012, 10:33:00 AM.

24. Xử lý nghiêm doanh nghiệp xả thải gây ô nhiễm môi trường, Báo Nhân dân điện tử, Cập nhật thứ Ba, ngày 06/01/2015, 12:49PM (GMT+7).

25. Xử lý vi phạm về môi trường: Tìm “thuốc giải”!, Cổng thông tin POPS Việt Nam, cập nhật ngày 12/04/2013, 10:09:00 SA.



[1]Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb. Công an Nhân dân, Tr.21.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Cần quy định thống nhất về độ tuổi trẻ em trong hệ thống pháp luật Việt Nam

28/12/2015

1. Quy định của pháp luật quốc tế về độ tuổi của trẻ em

Trong các văn bản quốc tế và các chương trình của Liên Hợp quốc sử dụng đồng thời cả hai khái niệm trẻ em và người chưa thành niên. Điều 1 Công ước của Liên Hợp quốc về Quyền trẻ em (United Nations Convention on the rights of the child – CRC) có quy định như sau: Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn. Và tại Điều 2 trong Công ước số 182 – Công ước Nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xoá bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, năm 1999 có quy định: Trong Công ước này, thuật ngữ “trẻ em” sẽ áp dụng cho tất cả những người dưới 18 tuổi.

2. Quy định của pháp luật Việt Nam về độ tuổi của trẻ em

Về khái niệm “trẻ em” và độ tuổi của trẻ em ở Việt Nam hiện nay được quy định trong nhiều văn bản luật và dưới luật, nhưng không có sự thống nhất, rõ ràng, thậm chí còn chồng chéo nhau khi định nghĩa về độ tuổi của trẻ em, đến khi nào thì không còn là trẻ em? Điều này cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, cụ thể:

– Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Việt Nam năm 2004 quy định thì: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” [1]. Như vậy, quy định về tuổi trẻ em trong Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em của Việt Nam đã có độ vênh tới 2 tuổi so với Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em.

– Theo Luật Thanh niên năm 2005 quy định thì: “Thanh niên quy định trong Luật này là công dân Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi” [2].

– Theo Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định thì: Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây: Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên. Trong khi đó, tại Điều 18 của Bộ luật dân sự hiện hành thì: Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Như vậy, với nữ thì chỉ cần đủ 18 tuổi trở lên là có quyền được kết hôn, nhưng nam thì phải đợi đến đủ 20 tuổi mới được thực hiện quyền được kết hôn của mình? Vậy phải chăng đối với nam thì đến 20 tuổi mới hết là trẻ em? Chỉ riêng quy định này cũng đã cho chúng ta thấy, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, tuy mới ban hành, nhưng đã bộc lộ bất cập, không thống nhất với Bộ luật Dân sự [3].

– Bộ luật Dân sự quy định [4]: Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên. Với quy định này, có thể hiểu rằng, người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa trưởng thành, tức cũng có nghĩa là người chưa đủ 18 tuổi vẫn còn là trẻ em.

– Luật Lao động năm 2012 quy định về người lao động như sau: Người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động” [5]. Theo quy định trên thì người lao động có thể là người chưa thành niên, nói cách khác là có thể vẫn còn là trẻ em.

– Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 cũng xác định đối tượng xử phạt hành chính phải từ đủ 14 tuổi trở lên, cụ thể là: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính” [6], quy định này đồng nghĩa với việc coi trẻ em là 14 thay vì 16 như quy định chung.

Cách đây hơn 25 năm, vào ngày 20/02/1990, Việt Nam đã chính thức trở thành nước đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước Quốc tế về Quyền Trẻ em, Việt Nam cũng là một trong số ít quốc gia trên thế giới đã ban hành Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Tuy nhiên, đến nay, Việt Nam lại là nước còn lại duy nhất trong khối ASEAN; thứ 4 ở châu Á và thứ 11 trên thế giới chưa nâng độ tuổi pháp lý của trẻ em lên 18.

Việc quy định không thống nhất, không rõ ràng về độ tuổi trẻ em như trên đã gây ra không ít khó khăn, bất cập trong công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

3. Cần quy định thống nhất về trẻ em và độ tuổi của trẻ em trong hệ thống pháp luật Việt Nam phù hợp với Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em và Hiến pháp năm 2013

Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15/6/2004 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2005. Qua hơn 10 năm đi vào cuộc sống, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 đã bộc lộ nhiều hạn chế, nhiều quy định đã không phát huy được hiệu lực, hiệu quả và nhiệm vụ trong việc bảo vệ trẻ em, chưa phù hợp với Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em, trong khi đó, đời sống hiện nay đã nảy sinh nhiều vấn đề liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Trong những năm qua, thực tế đã phản ánh, vẫn còn có rất nhiều trẻ em phải bỏ học, phải lang thang, vất vả lao động kiếm sống, mặc dù chưa đến tuổi lao động, nhiều trẻ em bị bạo lực, bóc lột xâm hại tình dục “… Theo thống kê của Cục Bảo vệ chăm sóc trẻ em (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội), số trẻ bị xâm hại tình dục nhiều lần chiếm 28,2% và số trẻ em bỏ học, sống lang thang, bị xâm hại tình dục chiếm 11,6%. Bên cạnh đó, theo báo cáo của 63 tỉnh, thành phố cho thấy, trung bình mỗi năm, cả nước xảy ra 1.000 vụ xâm hại tình dục, năm sau thường cao hơn năm trước. Trong đó, số trẻ em bị hiếp dâm chiếm đến 65%. Năm 2014, cả nước đã xảy ra 839 vụ xâm hại tình dục đối với người vị thành niên (tăng 1,2% so với năm 2013 và chiếm 60% số vụ xâm hại trẻ em)… Đáng lo ngại tình trạng loạn luân (bố đẻ hiếp dâm con gái; bố dượng hiếp dâm con gái riêng của vợ; anh trai hiếp dâm em gái) hay tình trạng hiếp dâm tập thể, hiếp dâm trẻ em dưới 5 tuổi, hiếp dâm rồi giết trẻ em, thầy giáo xâm hại học sinh… đang có chiều hướng gia tăng” [7]..

Như đã phân tích ở trên, việc quy định không thống nhất, rõ ràng về độ tuổi trẻ em giữa một số luật, văn bản luật đã gây rất nhiều khó khăn trong công tác quản lý nhà nước và xác định một trong những chủ thể cần được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục là trẻ em khi tham gia các quan hệ của đời sống, xã hội.

Trước thực tế này, thời gian qua, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã tiến hành lấy ý kiến các cơ quan chức năng và trẻ em về việc sửa đổi Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII vừa qua Dự thảo Luật Bảo vệ và chăm sóc, giáo dục trẻ em đã được trình Quốc hội thảo luận và xem xét, dự kiến sẽ được thông qua tại kỳ thứ 11, Quốc hội khóa XIII. Dự thảo Luật lần này có nhiều quy định mới được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện dựa trên những quan điểm đem lại lợi ích tốt nhất cho trẻ em. Một trong những chế định được đề xuất sửa đổi đó là quy định nâng độ tuổi của trẻ em Việt Nam từ 16 tuổi lên 18 tuổi.

Theo Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em quy định thì trẻ em là người dưới 18 tuổi. Qua khảo sát của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp quốc tại Việt Nam cho thấy: ở châu Á chỉ có Việt Nam, Myanmar, Singapore còn quy định tuổi của trẻ em thấp hơn 18. Campuchia và Lào đã quy định tuổi trẻ em dưới 18 tuổi. Myanmar đang sửa đổi Luật Trẻ em theo hướng nâng độ tuổi trẻ em lên 18 tuổi… Tuy nhiên, hiện nay, bên cạnh một số luật, văn bản luật chưa có sự thống nhất về độ tuổi trẻ em cần được chăm sóc, bảo vệ, giáo dục, thì cũng có một số luật đã quy định ngưỡng thành niên và chưa thành niên là 18 tuổi như: Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Bầu cử Quốc hội, Luật Bầu cử Hội đồng nhân dân và đặc biệt là những quy định của Hiến pháp năm 2013, như quy định về việc: Công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử, công dân từ đủ 18 tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân [8]… Như vậy, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013, nếu quy định tuổi trẻ em là dưới 18 tuổi và công dân từ đủ 18 tuổi là người thành niên và có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực dân sự, sẽ bảo đảm và củng cố tính thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam về ngưỡng tuổi trưởng thành đầy đủ, tức là tuổi thành niên và chưa thành niên.

Theo kết quả nghiên cứu về “Nâng độ tuổi pháp lý của trẻ em lên dưới 18 trong bối cảnh Việt Nam hiện nay – lợi ích, tác động và một số giải pháp” do Hội Bảo vệ Quyền trẻ em Việt Nam phối hợp cùng Tổ chức Plan tại Việt Nam thực hiện đã chỉ rõ, về cơ sở khoa học, tâm sinh lý của trẻ em từ 16 – 18 tuổi còn non nớt, chưa hoàn thiện, có những thay đổi lớn trong giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ em lên người trưởng thành với nhận thức xã hội, hành vi chưa chín chắn. Do vậy, trẻ em trong lứa tuổi này thường dễ bị tổn thương, dễ bị lợi dụng và lệch lạc về hành vi, thái độ, nhận thức; đồng nghĩa với việc dễ bị vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp cũng như có nguy cơ thực hiện các hành vi trái pháp luật khá cao [9].

Việc Dự thảo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (sửa đổi) đã mở rộng khái niệm “trẻ em” cả về độ tuổi và phạm vi, cụ thể: Điều 1 Dự thảo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (sửa đổi) quy định: Trẻ em là người dưới 18 tuổi, mà không giới hạn phải là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi như quy định tại Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 [10]. Quy định này nhằm bảo đảm phù hợp hơn với Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em, phù hợp với quy định về quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Theo đó, ngoài việc bảo đảm quyền của trẻ em là công dân Việt Nam, Việt Nam còn ghi nhận các quyền trẻ em đồng thời là quyền con người của mọi trẻ em, không phân biệt quốc tịch và đang sinh sống tại Việt Nam. Khi tăng độ tuổi trẻ em lên 18 tuổi thì trẻ em sẽ là người được hưởng lợi rất nhiều. Đơn cử như 18 tuổi vẫn là trẻ em thì các em sẽ được hưởng lợi từ các chính sách ưu đãi dành cho người chưa thành niên trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, phúc lợi xã hội. Đặc biệt, trong lĩnh vực y tế, trẻ em sẽ được bảo đảm việc cung ứng các loại thuốc thiết yếu chữa bệnh cho trẻ em; bảo đảm điều kiện và chất lượng khám bệnh, chữa bệnh, được tiêm chủng phòng bệnh, phòng dịch… Đồng thời, việc nâng độ tuổi của trẻ em cũng sẽ mở rộng phạm vi áp dụng quyền trẻ em đối với người chưa thành niên trong độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, tạo điều kiện cho các em phát triển đầy đủ cả về thể chất và tinh thần, tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước trong tương lai.

Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước. Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong điều kiện tốt nhất là nhiệm vụ của toàn xã hội, và là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong việc đảm bảo an sinh xã hội, vì mục tiêu phát triển ổn định và lâu dài của đất nước. Bởi vậy, việc “Tạo dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh mà ở đó tất cả trẻ em đều được bảo vệ. Chủ động phòng ngừa, giảm thiểu, loại bỏ các nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em, giảm thiểu tình trạng trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt và trẻ em bị xâm hại, trẻ em bị bạo lực. Trợ giúp, phục hồi kịp thời cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và trẻ em bị xâm hại, bị bạo lực, tạo cơ hội để các em được tái hòa nhập cộng đồng và bình đẳng về cơ hội phát triển” [11] là một trong những mục tiêu quan trọng, là mối quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước ta, của toàn xã hội và của mỗi gia đình. Việc nâng độ tuổi pháp lý của trẻ em lên 18 tuổi cũng không vi phạm quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; ngược lại, đây là cách Việt Nam thể hiện cam kết của Nhà nước trong việc bảo đảm và thực hiện quyền trẻ em; đồng thời khẳng định vai trò tích cực, chủ động của Việt Nam trong quá trình hội nhập các thể chế khu vực và quốc tế nhằm xây dựng, hoàn thiện cơ chế thúc đẩy quyền con người trong đó có quyền trẻ em.

Cùng với việc phát triển kinh tế, trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, văn bản pháp luật trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến bảo vệ các quyền trẻ em. Từ các bản Hiến pháp, các Bộ luật, các Luật, đến các văn bản dưới luật đã tạo thành một hệ thống pháp luật bảo vệ trẻ em phù hợp với các Công ước Quốc tế về Quyền con người và truyền thống văn hoá của dân tộc. Hiến pháp năm 2013 là thành tựu của gần 30 năm đổi mới đất nước, đã thể hiện rõ hơn trách nhiệm của Nhà nước ta trong việc đảm bảo thực hiện quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung nhiều quy định về quyền con người trong Chương II là một bước tiến đáng kể về tư duy Nhà nước pháp quyền và thực hiện quyền con người ở Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên quy định quyền sống; quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa, nghiên cứu và thụ hưởng các kết quả khoa học; quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp; quyền được sống trong môi trường trong lành… phù hợp với các Công ước Quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.

Hiến pháp năm 2013 đã có hiệu lực thi hành được gần 02 năm, theo đó nhiều đạo luật đã được xây dựng mới, sửa đổi, bổ sung và đang được triển khai thực hiện [12], nhiều đạo luật mới mang tính “rường cột” cụ thể hóa tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân đã được thông qua và sẽ có hiệu lực thi hành trong năm 2016 [13] và những năm tiếp theo [14]. Theo chúng tôi, việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 là cần thiết, trong đó, cần ghi nhận quy định nâng độ tuổi trẻ em lên 18 tuổi [15] phù hợp với nội dung và quy định của Hiến pháp năm 2013 về đảm bảo quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền của trẻ em. Bên cạnh đó, hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam cũng cần thống nhất định nghĩa về “trẻ em” và độ tuổi của trẻ em.

Vũ Hải Việt, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật

Nguyễn Thị Thanh Bình, Học Viện hành chính quốc gia



[1]Điều 1 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004.

[2] Điều 1 Luật Thanh niên năm 2005.

[3] Điểm a khoản 1 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2014.

[4] Điều 18 Bộ Luật Dân sự năm 2005 và Điều 20, Điều 21, Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2017.

[5]Khoản 1 Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2012.

[6] Điểm a khoản 1 Điều 5 Luật Xử lý vi phạmhành chính năm 2012.

[7]Xem: Ngô Xuân Tính – Nguyễn Thị Ngọc Dung: “Tình trạng trẻ em bị xâm hại tình dục– Những vấn đề cần quan tâm”-http://csnd.vn/Home/Print/1104/Tinh-trang-tre-em-bi-xam-hai-tinh-duc-Nhung-van-de-can-quan-tam

[8] Điều 27, Điều 29 Hiến pháp năm 2013.

[9] Việt Hà – TTXVN: Xem xét nâng độ tuổi pháp lý của trẻ em Việt Nam lên dưới 18 tuổi

http://news.go.vn/phap-luat/tin-1434514/xem-xet-nang-do-tuoi-phap-ly-cua-tre-em-viet-nam-len-duoi-18-tuoi.htm

[10] Điều 1 – Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004

[11]Tiết a mục 1 Điều 1 Quyết định số 67/QĐ-TTg, ngày 22/2/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011 –2015.

[12] Hiến pháp năm 2013; Luật Nhà ở; Luật Kinh doanh bất động sản; Luật Doanh nghiệp; Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp; Luật Đầu tư; Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự; Luật Giáo dục nghề nghiệp; Luật Công an Nhân dân; Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam; Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam.

[13] Bộ Luật Hình sự năm 2015; Luật Căn cước công dân; Luật Hộ tịch; Luật Bảo hiểm xã hội…

[14] Bộ luật Dân sự năm 2015, có hiệu lực thi hành 01/01/2017.

[15] Điều 1 Dự thảo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (sửa đổi)

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hoàn thiện Điều 117 Bộ luật Hình sự năm 2015

27/01/2016

Ngày 25/11/2015, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã chính thức thông qua Bộ luật Hình sự năm 2015 (Bộ luật Hình sự năm 2015 sẽ có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2016). Theo Bộ luật Hình sự năm 2015 trong Chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia, điểm thay đổi lớn nhất đó là Tội tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam[1] đã được sửa đổi bổ sung thành Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam[2].

Qua số liệu thống kê của Cục an ninh điều tra – Bộ Công an, từ năm 2005 đến nay, Cơ quan An ninh điều tra các cấp đã điều tra, khởi tố 104 vụ án, với 155 bị can về tội tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tội tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là loại tội xâm phạm an ninh quốc gia có tỷ lệ phạm tội đứng thứ hai trong các tội xâm phạm an ninh quốc gia (chỉ sau Tội phá hoại chính sách đoàn kết). Do vậy, việc nghiên cứu làm rõ cấu thành tội phạm Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong Bộ luật Hình sự năm 1999, so sánh, đối chiếu quy định về loại tội này với quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015 có ý nghĩa lớn về lý luận, thực tiễn trong đấu tranh phòng chống tội phạm.

Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi làm rõ những điểm mới trong quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về hành vi tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, qua đó chỉ ra vấn đề cần hoàn thiện của Bộ luật Hình sự năm 2015 dưới góc độ lý luận.

Điều 88 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định có 3 nhóm hành vi cấu thành Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trên thực tế các hành vi tuyên truyền chống nhà nước rất đa dạng như: Xuyên tạc, đả kích các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý xã hội; phỉ báng công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, bôi nhọ lãnh tụ, cán bộ, công chức nhà nước; sử dụng những luận điệu chiến tranh tâm lý của địch để tuyên truyền, kích động, xuyên tạc… đánh vào tâm lý của nhân dân, gieo rắc tư tưởng nghi ngờ, bất mãn, tạo sự sợ hãi, hoang mang trong nhân dân, kích động tư tưởng, hành động chống đối, oán ghét, căm thù, từ đó cổ vũ cho những hành vi làm suy yếu chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam… Chính vì điều luật quy định các hành vi theo cách liệt kê nên khó mô tả hết các hành vi phạm tội, hơn nữa trên thực tế, các đối tượng phạm tội thường thực hiện đồng thời hai hay nhiều hành vi cùng một lúc, ít khi có sự rạch ròi như các hành vi trong điều luật quy định. Chẳng hạn, khi tiến hành tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân, các đối tượng cũng đồng thời phao tin, bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân. Để tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân, các đối tượng phải thực hiện các hành vi viết bài, viết sách in, vẽ truyền đơn, băng rôn, khẩu hiệu… cất giấu, lưu trữ trong các phương tiện như máy tính, máy ảnh, ổ cứng, đĩa mềm… Như vậy đã đồng thời thực hiện hành vi làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hóa phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều đó đặt ra cho các nhà làm luật hướng sửa đổi bổ sung, hoàn thiện điều luật này cần xây dựng mô hình hành vi có tính bao quát hơn, phản ánh được các dạng hành vi tuyên truyền chống Nhà nước phát sinh trong thực tiễn, tránh việc liệt kê dẫn đến tình trạng chồng chéo hoặc vừa thừa, vừa thiếu, vừa khó áp dụng.

Mặt khác, cách quy định của về hành vi phạm tội của các điểm a, b, c khoản 1 Điều 88 Bộ luật Hình sự 1999 cũng không đồng nhất. Điểm a và b quy định về hành vi phạm tội một cách chung chung (tuyên truyền), nhưng lại liệt kê cụ thể nội dung của thông tin tài liệu tuyên truyền là xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin, bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân. Ngược lại, điểm c khoản 1 Điều 88 lại quy định cụ thể về hành vi phạm tội (làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm) nhưng lại quy định chung chung về nội dung (có nội dung chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Việc quy định không đồng nhất như vậy đã gây khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch can thiệp, cản trở hoạt động phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

So với Bộ luật Hình sự hiện hành, Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về hành vi tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam một cách rõ ràng, cụ thể hơn, và đưa luôn những hành vi cụ thể này vào tên Điều luật[3]. Có thể thấy, so với cách quy định về hành vi phạm tội của Bộ luật Hình sự năm 1999, cách quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có tính thống nhất ở cả 3 nhóm hành vi phạm tội, các nhà làm luật đều liệt kê cụ thể, chi tiết về hành vi phạm tội, và các nhóm hành vi phạm tội ở các điểm a, b, c khoản 1 Điều 117 Bộ luật Hình sự năm 2015 chỉ khác nhau về nội dung của thông tin, tài liệu, vật phẩm phục vụ cho việc tuyên truyền chống nhà nước, cụ thể:

Thứ nhất, làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân: Đây là hành biên soạn, in, viết, vẽ, cất giữ, cất giấu, phát ra, truyền ra rộng rãi, truyền miệng, phao tin, thông qua hội giảng, bài viết… để xuyên tạc, đả kích các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý cán bộ, nói xấu công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nói xấu lãnh tụ, cán bộ, công chức nhà nước, xuyên tạc lịch sử, kích động kêu gọi tiến hành các hoạt động chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam…

Thứ hai, làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân: Đây là hành biên soạn, in, viết, vẽ, cất giữ, cất giấu, phát ra, truyền ra rộng rãi, truyền miệng, phao tin, thông qua hội giảng, bài viết… để kích động, xuyên tạc đánh vào tâm lý của nhân dân, tạo ra sự sợ hãi, tư tưởng cầu an hoặc bịa đặt, tung tin thất thiệt gây hoang mang, nghi ngờ trong nhân dân.

Thứ ba, làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm gây chiến tranh tâm lý: Đây là hành vi biên soạn, in, viết, vẽ, cất giữ, cất giấu, phát ra, truyền ra rộng rãi, truyền miệng, phao tin, thông qua hội giảng, bài viết… và hành vi sử dụng những luận điệu chiến tranh tâm lý của địch để tuyên truyền, kích động, xuyên tạc… đánh vào tâm lý của nhân dân như tuyên truyền luận điệu chiến tranh tâm lý của đài BBC; tuyên truyền lối sống hiện sinh, sống gấp; tuyên truyền các học thuyết tư sản, phản động…

Từ quy định của Điều 117 Bộ luật Hình sự năm 2015 có thể rút ra một số vấn đề hạn chế sau đây:

Một là, các hành vi phạm tội về tuyên truyền chống nhà nước đã được quy định một cách thống nhất về cách thức, các nhóm hành vi phạm tội tại các điểm a, b, c khoản 1 Điều 117 được quy định giống nhau về các hành vi phạm tội và khác nhau về nội dung thông tin, tài liệu, vật phẩm được sử dụng trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, việc tách thành 3 điểm a, b, c khoản 1 Điều 117 chỉ dựa vào nội dung thông tin, tài liệu, vật phẩm được sử dụng trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội là không cần thiết. Đặc biệt nội dung thông tin, tài liệu, vật phẩm được sử dụng trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội ở điểm b và điểm c rất khó phân biệt trong thực tiễn áp dụng, nếu không muốn nói là trùng nhau. Bởi lẽ, việc gây chiến tranh tâm lý cũng là nhằm vào nhân dân, cũng là gây tâm lý sợ hãi, hoang mang trong nhân dân.

Hai là, qua công tác điều tra, truy tố, xét xử số đối tượng phạm tội này cho thấy, ngoài hành vi làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng còn có hành vi tuyên truyền chống Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc tuyên truyền chống Đảng Cộng sản Việt Nam chính là hành vi làm mất uy tín, làm suy yếu lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Tuyên truyền với nội dung chống Đảng thậm chí còn nguy hiểm hơn một số nội dung tuyên truyền được quy định tại Điều 117 Bộ luật Hình sự năm 2015. Việc điều tra, xử lý số đối tượng phạm tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã góp phần bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Do vậy, theo chúng tôi, việc Bộ luật Hình sự năm 2015 chỉ quy định về hành vi làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà chưa có quy định nào về hành vi tuyên truyền chống Đảng Cộng sản Việt Nam là chưa đầy đủ. Vấn đề này gây khó khăn cho thực tiễn đấu tranh phòng chống loại tội phạm này.

Ba là, khoản 2 Điều 117 quy định “Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm”. Vậy hiểu thế nào là phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng? Hành vi nào trong các hành vi làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được coi là phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Vấn đề này cho đến nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật hình sự nào hướng dẫn một cách rõ ràng, gây khó khăn cho thực tiễn áp dụng pháp luật. Qua nghiên cứu kỹ thuật lập pháp ở một số tội danh cùng nhóm xâm phạm an ninh quốc gia như “Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”; “Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ”; “Tội bạo loạn”… cho thấy, trong cấu thành cơ bản (khung hình phạt nặng nhất) của các điều luật này đều có quy định trường hợp “Người tổ chức, người xúi dục, người hoạt động đắc lực hoặc gây hậu quả nghiêm trọng” là những yếu tố định khung. Như vậy, với cấu thành cơ bản (khung hình phạt nhẹ nhất) của Điều 117 là: “a) Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân; b) Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; c) Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm gây chiến tranh tâm lý” thì tình tiết định khung tăng nặng “phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng” quy định tại khoản 2 Điều này cần được xác định là các trường hợp sau đây: Người tổ chức; người xúi dục; người hoạt động đắc lực; phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

Từ những phân tích trên, mặc dù Bộ luật Hình sự năm 2015 chưa có hiệu lực thi hành, nhưng để góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự, chúng tôi đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 117, Bộ luật Hình sự năm 2015 như sau:

Điều 117. Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

a) Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung xuyên tạc, phỉ báng Đảng Cộng sản Việt Nam, chính quyền nhân dân;

b) Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung bịa đặt, gây chiến tranh tâm lý, gây hoang mang trong nhân dân;

2. Người tổ chức; người xúi dục; người hoạt động đắc lực; phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.

3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

ThS. Hoàng Duy Hiệp

Khoa Luật, Học viện An ninh nhân dân



[1] Điều 88 Bộ luật Hình sự năm 1999.

[2] Điều 117 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bộ luật này sẽ chính thức có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2015.

[3] Xem Điều 117 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bàn về căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

27/01/2016

Căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can là vấn đề quan trọng trong pháp luật tố tụng hình sự (TTHS). Việc nhận thức sâu sắc căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can là tiền đề để triển khai và áp dụng có hiệu quả trong thực tế chế định khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung trao đổi, bàn về căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bi can theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015[1].

1. Khởi tố vụ án là giai đoạn mở đầu của TTHS trong đó các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định kiểm tra thông tin, tài liệu thu được, xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án. Khởi tố bị can là hoạt động áp dụng pháp luật TTHS của cơ quan có thẩm quyền trong đó xác định một người, pháp nhânđã thực hiện tội phạm để bắt đầu tiến hành điều tra, áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo trình tự, thủ tục của TTHS.

Căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can có vai trò quan trọng trong giai đoạn khởi tố. Việc tiến hành khởi tố chỉ được khởi động nếu xác định có căn cứ khởi tố. Việc khởi tố đúng pháp luật hay không phụ thuộc vào căn cứ khởi tố.

2. Căn cứ khởi tố vụ án được quy định tại Điều 143 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Từ quy định của điều luật trên có thể khẳng định về mặt pháp lý, căn cứ khởi tố vụ án hình sự đã được xác định là “dấu hiệu của tội phạm” nghĩa là chỉ được khởi tố khi đã xác định có dấu hiệu của tội phạm.

Mặc dù đã được quy định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, nhưng nhận thức và giải thích về căn cứ khởi tố vụ án hình sự hiện đang có nhiều ý kiến khác nhau: Có được những thông tin thực tế khác quan về hành vi phạm tội[2], có sự việc xảy ra và sự việc đó có dấu hiệu tội phạm[3]; căn cứ để xác định dấu hiệu của tội phạm[4]; có được những thông tin thực tế khách quan về hành vi phạm tội[5].

Theo tác giả, các nhà nghiên cứu đều xuất phát từ lý luận triết học về cặp phạm trù nội dung – hình thức để phân tích, lý giải căn cứ khởi tố, nhưng do đặt trong mối quan hệ khác nhau và phương diện tiếp cận khác nhau nên dẫn đến sự giải thích khác nhau. Trên cơ sở lý luận chứng cứ và đặt căn cứ khởi tố trong mối quan hệ với nguồn tài liệu chứa đựng phản ánh nó (theo quy định từ khoản 1 đến khoản 6 Điều 143 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) thì căn cứ khởi tố được giải thích là chứng cứ chứng minh (xác định) có dấu hiệu tội phạm. Đặt trong mối quan hệ giữa Luật Hình sự và Luật Tố tụng hình sự thì căn cứ khởi tố được giải thích là dấu hiệu của tội phạm. Nếu đặt trong mối quan hệ giữa chứng cứ với đối tượng chứng minh thì nội dung quy định tại Điều 143 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cho thấy rằng, cơ sở khởi tố là nguồn chứng cứ, do đó, cái được rút ra từ nguồn chứng cứ phải là chứng cứ; dấu hiệu tội phạm (căn cứ khởi tố) là đối tượng chứng minh, là vấn đề mà chứng cứ có nhiệm vụ phải làm rõ.

Những quan điểm và cách giải thích trên chỉ có ý nghĩa về lý luận, học thuật. Trong thực tiễn, đối với hoạt động áp dụng pháp luật, hai cách giải thích trên đều có thể chấp nhận vì đều làm rõ được nội dung, bản chất của quy phạm pháp luật về căn cứ khởi tố và đều tạo cơ sở cho việc áp dụng đúng pháp luật. Dấu hiệu tội phạm được chứng cứ chứng minh (xác định) hay nói ngược lại có chứng cứ xác định dấu hiệu tội phạm, về bản chất được hiểu giống nhau. Trong quy định của luật về căn cứ khởi tố, nói đến chứng cứ không thể không nói đến đối tượng chứng minh của nó (là dấu hiệu tội phạm) vì nếu không có đối tượng chứng minh thì sẽ không có chứng cứ; ngược lại nói đến dấu hiệu tội phạm cũng không thể không đề cập đến chứng cứ xác định nó, vì dấu hiệu tội phạm không tự bộc lộ mà phải được xác định bằng chứng cứ. Khi giải thích về căn cứ khởi tố nếu tách dấu hiệu tội phạm ra khỏi mối quan hệ với chứng cứ xác định nó sẽ siêu hình, phiến diện.

Trong quy định về căn cứ khởi tố bị can, khoản 1 Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã ghi rõ: “Khi có đủ căn cứ để xác định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can”. Quy định trên phản ánh rõ hai khía cạnh của căn cứ khởi tố và mối quan hệ giữa chúng, đó là, chứng cứ (căn cứ để xác định đối tượng chứng minh…) và vấn đề cần làm rõ (đối tượng chứng minh – hành vi phạm tội).

Khi giải thích về căn cứ khởi tố vụ án thì vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là hiểu đúng nội dung, phạm vi của quy định “dấu hiệu tội phạm”. Theo tác giả, dấu hiệu tội phạm trong căn cứ khởi tố vụ án quy định tại Điều 143 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 được hiểu không hoàn toàn giống các dấu hiệu của tội phạm trong khái niệm tội phạm và dấu hiệu của các yếu tố cấu thành tội phạm trong lý luận về cấu thành tội phạm.

Các dấu hiệu của tội phạm được rút ra từ khái niệm tội phạm (tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự, tính chịu hình phạt…) là những thuộc tính của tội phạm. Các dấu hiệu của tội phạm được rút ra từ khái niệm tội phạm thì một hành vi chỉ bị coi là tội phạm khi có đủ các dấu hiệu, thuộc tính này nếu thiếu một dấu hiệu nào đó không phải là tội phạm. Dấu hiệu trong cấu thành tội phạm được hiểu là một biểu hiện, một nội dung của các yếu tố cấu thành tội phạm (như dấu hiệu hành vi, dấu hiệu hậu quả… trong mặt khách quan; dấu hiệu lỗi, dấu hiệu động cơ, dấu hiệu mục đích… trong mặt chủ quan của tội phạm…). Trong lý luận về cấu thành tội phạm cũng phải đầy đủ các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm không thể chỉ dựa vào một vài dấu hiệu trong cấu thành tội phạm để kết luận một chủ thể đã thực hiện tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự.

Theo tác giả, “dấu hiệu tội phạm” trong căn cứ khởi tố vụ án quy định tại Điều 143 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 khác các dấu hiệu của tội phạm trong khái niệm tội phạm và dấu hiệu của các yếu tố cấu thành tội phạm trong lý luận về cấu thành tội phạm. Đối với dấu hiệu tội phạm với ý nghĩa là căn cứ khởi tố vụ án phải được hiểu theo nghĩa chung, khái quát. Đó là những biểu hiện, những “khía cạnh” của tội phạm được chứng minh, xác định bằng chứng cứ cụ thể. Sự khác nhau về dấu hiệu tội phạm trong căn cứ khởi tố vụ án hình sự với dấu hiệu tội phạm trong khái niệm tội phạm và dấu hiệu của các yếu tố cấu thành tội phạm trong lý luận về cấu thành tội phạm là ở tính đầy đủ chứ không phải tính khách quan. Khi khởi tố vụ án chỉ cần xác định biểu hiện tội phạm, chưa cần thiết phải xác định đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm được rút ra từ khái niệm tội phạm và các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm. Tại thời điểm ra quyết định khởi tố vụ án chưa yêu cầu xác định ngay người thực hiện tội phạm là ai, hành vi thực hiện tội phạm diễn ra như thế nào. Mặt khác, những biểu hiện của tội phạm trong căn cứ khởi tố là có thật, tồn tại khách quan và đã được xác định (chứng minh). Căn cứ khởi tố vụ án trả lời câu hỏi đặt ra là dựa vào đâu, vào cái gì để quyết định mở cuộc điều tra theo trình tự, thủ tục TTHS. Do đó, căn cứ khởi tố vụ án không thể cùng nội dung với căn cứ xác định có tội trong khái niệm tội phạm (xác định một hành vi là tội phạm) và trong cấu thành tội phạm.

Căn cứ khởi tố vụ án và căn cứ khởi tố bị can có mối liên hệ chặt chẽ. Việc xác định đúng căn cứ khởi tố bị can, trong nhiều trường hợp là yếu tố góp phần khắc phục những thiếu sót khi khởi tố vụ án hoặc góp phần làm cho nhiệm vụ của khởi tố được thực hiện đầy đủ (trường hợp thay đổi quyết định khởi tố, khởi tố bổ sung).

Khoản 1 Điều 179 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định “Khi có đủ căn cứ để xác định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can”.

Như vậy, khởi tố vụ án và khởi tố bị can có điểm giống nhau, đều là quyết định bắt đầu điều tra công khai theo trình tự thủ tục TTHS, nhưng khác nhau về thời điểm, yêu cầu và căn cứ khởi tố. Nếu như tại thời điểm ra quyết định khởi tố vụ án chưa yêu cầu xác định ngay người thực hiện tội phạm là ai, pháp nhân nào; hành vi thực hiện tội phạm diễn ra như thế nào thì khi quyết định khởi tố bị can phải xác định chính xác một người hoặc pháp nhân cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội. Khởi tố bị can không chỉ được tiến hành ở giai đoạn khởi tố vụ án mà còn được thực hiện trong giai đoạn điều tra hay trong giai đoạn truy tố nếu phát hiện có người thực hiện tội phạm.

3. Để có căn cứ khởi tố thì Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát phải thông qua các hoạt động kiểm tra, xác minh thu thập chứng cứ, đánh giá sơ bộ để xác định có hay không có một tội phạm tương ứng với một tội danh đã được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự xảy ra trên thực tế. Khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự thì không bắt buộc phải chứng minh đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm. Thông thường, chỉ cần làm rõ khách thể trực tiếp của tội phạm, các dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan và chủ quan của tội phạm. Vì thế khi xác định có dấu hiệu của tội phạm dù chưa rõ người thực hiện hành vi phạm tội là ai, pháp nhân nào… việc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự vẫn được tiến hành.

Mặt khác, không phải tất cả các vụ việc sau khi đã xác định có dấu hiệu của tội phạm thì bắt buộc đều phải khởi tố vụ án hình sự. Tội phạm là một hiện tượng xã hội luôn gắn với một thời điểm, một hoàn cảnh cụ thể, do đó việc khởi tố hay không khởi tố phải gắn với rất nhiều các yếu tố như: chính sách hình sự của nhà nước, yêu cầu của công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm. Do vậy, khi khởi tố vụ án hình sự ngoài việc xác định các dấu hiệu của tội phạm, còn phải kết hợp với một số điều kiện như: Cơ sở của trách nhiệm hình sự (Điều 3); nguyên tắc xử lý (Điều 3); thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 27); miễn trách nhiệm hình sự (Điều 29); tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12) và một số quy định khác ở một số tội danh ở từng thời điểm cụ thể theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Để xác định căn cứ khởi tố được chính xác, khách quan, cơ quan có thẩm quyền khởi tố cần thận trọng cân nhắc, đối chiếu các dấu hiệu của tội phạm với các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015[6] để xác định chính xác tội danh, hành vi phạm tội cần khởi tố để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Để khắc phục tình trạng khởi tố vụ án hình sự không có căn cứ pháp lý, việc khởi tố kéo dài không chứng minh được tội phạm và người phạm tội dẫn đến việc bắt oan, bắt sai hoặc bỏ lọt tội phạm, người phạm tội, làm giảm uy tín của cơ quan có thẩm quyền khởi tố với công dân, thì các cơ quan có thẩm quyền khởi tố phải quán triệt nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong việc khởi tố. Việc khởi tố phải đảm bảo có căn cứ theo luật định, các quyết định khởi tố phải gửi đến Viện Kiểm sát để kiểm sát việc khởi tố. Ngoài ra, việc xác định căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can phải dựa trên các nguồn theo quy định tại Điều 143 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, cụ thể: Tố giác của cá nhân; tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân; tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng; kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước; cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm; người phạm tội tự thú.

ThS. Lưu Thanh Hùng

Trường Đại học An ninh nhân dân



[1]Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi) đã được thông qua tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa 13 ngày 27/11/2015. Bộ luật này chính thức có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2016.

[2] Xem: Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1995), Tội phạm học, Luật Hình sự và Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 76.

[3] Xem: Viện Thông tin khoa học xã hội (1981), Sưu tập chuyên đề những vấn đề lý luận về Luật Hình sự, Luật Tố tụng hình sự và tội phạm học, Hà Nội, tr 154.

[4] Xem: Viện Khoa học pháp lý (1999), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng Hình sự, Nxb. Thành phố HồChíMinh, tr.463.

[5] Xem: Viện khoa học pháp lý (2005), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng Hình sự, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr 347.

[6] Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được thông qua tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa 13 ngày 27/11/2015. Bộ luật này chính thức có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2016.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Báo cáo thống kê thi hành án dân sự – Một số vấn đề từ thực tiễn

22/01/2013

Theo Từ điển Tiếng Việt, báo cáo được hiểu là “trình bày cho biết tình hình, sự việc” (1). Trong hoạt động của mình các chủ thể quản lý thông qua báo cáo nhằm nắm bắt tình hình các hoạt động của mình hoặc hoạt động của người khác. Vì vậy, trong thực tiễn đời sống xã hội có rất nhiều loại báo cáo khác nhau nhằm phục vụ cho các hoạt động của cá nhân, tổ chức.

Thi hành án dân sự cũng không là ngoại lệ. Để nắm bắt các thông tin về công tác thi hành án, thực tiễn cũng đòi hỏi phải có các loại báo cáo khác nhau nhằm phục vụ các hoạt động khác nhau. Trước đây, khi công tác thi hành án dân sự thực thi theo Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989 và Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993, thì ngoài báo cáo lời chỉ kèm theo 02 biểu mẫu báo cáo thống kê về việc thi hành án và về tiền thi hành án. Khi đó, chủ yếu phân loại theo loại việc dân sự, hôn nhân gia đình, hình sự,… và thi hành án cho nhà nước hay người dân. Đến Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, có sự đổi mới cơ bản về công tác báo cáo thống kê.

Thực hiện Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 02/2006/QĐ-BTP ngày 14/4/2006 ban hành chế độ báo cáo thống kê thi hành án dân sự (sau đây gọi tắt là Quyết định số 02). Cho đến nay, những biểu mẫu được ban hành kèm theo Quyết định này vẫn đang được sử dụng để báo cáo thống kê.

Công tác báo cáo thống kê thi hành án dân sự từ khi được thực hiện theo Quyết định số 02 đã mang lại nhiều hiệu quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, vì được ban hành theo Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, cho nên một số mục quy định theo Quyết định số 02 đã không còn phù hợp so với Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Xét về mặt hình thức, thì biểu mẫu báo cáo này phải hết hiệu lực thi hành ngay khi Luật Thi hành án dân sự có hiệu lực thi hành. Nhưng đến nay, chưa có văn bản nào được ban hành để sửa đổi, bổ sung hay thay thế Quyết định số 02 nên nghiễm nhiên các biểu mẫu báo cáo này vẫn được thực thi. Vì được ban hành trước khi có Luật Thi hành án dân sự, nên trong Quyết định và phần phụ lục còn có nhiều từ, cụm từ không còn phù hợp và một số quy định đã lỗi thời.

Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi phân tích một số vấn đề đã và đang gây không ít khó khăn cho cá nhân, đơn vị thực hiện báo cáo thống kê. Từ đó, có những kiến nghị về giải pháp nhằm sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế các quy phạm pháp luật, hướng đến một trật tự pháp luật phù hợp với thực tiễn công tác thi hành án dân sự.

Thứ nhất, một số mục trong biểu mẫu đã không còn phù hợp so với Luật Thi hành án dân sự năm 2008

Có thể nêu ra đây một ví dụ minh họa là trong các biểu mẫu báo cáo của chấp hành viên, cũng như của đơn vị cấp huyện, cấp tỉnh về việc, về giá trị của các quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu và biểu mẫu tổng hợp như 02-TK/THA.T1,04-TK/THA.T1, 05-TK/THA.T1, 06-TK/THA.T1 và 02-TK/THA.H,04-TK/THA.H, 05-TK/THA.H,06-TK/THA.H(2),… mục trả đơn yêu cầu thi hành án đều được thống kê vào mục án chưa có điều kiện thi hành. Điều này theo chúng tôi là chưa thật sự phù hợp với Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Điều 52 quy định đương nhiên kết thúc thi hành án khi “… có quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án”(3). Như vậy, việc thi hành án phải được xóa sổ thụ lý, báo cáo thi hành xong và thống kê vào phần giải quyết xong, chứ không thể thống kê tại mục chưa có điều kiện thi hành án.

Thực hiện biểu mẫu báo cáo thống kê hiện hành, cũng làm giảm hiệu quả công việc của chấp hành viên, của đơn vị báo cáo. Vì vụ việc đã được xử lý xong nhưng lại không được tính vào tỷ lệ thi hành xong. Đơn vị chúng tôi, thi hành án trong năm 2012 với tổng số việc có điều kiện thi hành án theo biểu mẫu báo cáo là 1.784 việc, số việc thi hành xong là 1.532 việc, số chưa có điều kiện thi hành án là 454 việc (trong đó có 64 việc trả lại đơn yêu cầu thi hành án), tỷ lệ đạt 85,87%(4). Nếu như báo cáo số trả đơn yêu cầu thi hành án vào mục thi hành xong thì số liệu các mục có sự thay đổi như sau: Mục số có điều kiện thi hành tăng lên 1.848 việc, mục số thi hành xong là 1.596 việc và mục số chưa có điều kiện thi hành giảm còn 390 việc, tỷ lệ tăng lên là 86,37%.

Tương tự như vậy, về giá trị số có điều kiện thi hành là 83.729.003.000 đồng, số thi hành xong + miễn giảm nghĩa vụ thi hành án + đình chỉ thi hành án là 66.016.928.000 đồng, số chưa có điều kiện thi hành là 89.031.557.000 đồng (trong đó có 24.519.386.000 đồng trả đơn yêu cầu thi hành án), tỷ lệ đạt 78,85%(5). Nếu báo cáo mục trả đơn lên mục số có điều kiện thi hành thì số liệu có sự thay đổi như sau: Số có điều kiện thi hành tăng lên là 108.248.389.000 đồng, số thi hành xong + miễn giảm nghĩa vụ thi hành án + đình chỉ thi hành án + trả đơn yêu cầu thi hành án là 82.595.409.000 đồng và số chưa có điều kiện thi hành án giảm xuống còn 64.512.171.000 đồng, tỷ lệ tăng lên là 83,64%.

Như vậy, dù đã được kết thúc việc thi hành, xóa sổ thụ lý, thì công sức của chấp hành viên, của đơn vị bỏ ra để thi hành đã không được ghi nhận đầy đủ. Bên cạnh đó, nhìn vào báo cáo thống kê, chúng ta không thể thấy được số liệu chuyển kỳ sau, mà để có được số liệu này, chấp hành viên phải thực hiện phép tính tiếp theo sau khi đã hoàn tất báo cáo là trừ đi số việc, số tiền trả đơn. Báo cáo thống kê không thể hiện số liệu chuyển kỳ sau, buộc chấp hành viên bằng cách này hay cách khác phải ghi nhớ số liệu chuyển kỳ sau mà đa phần phải ghi chú ngay trên báo cáo để nắm bắt được số liệu chính xác.

Theo chúng tôi, cần thiết sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới thay thế biểu mẫu báo cáo được ban hành kèm theo Quyết định số 02 theo hướng ghi nhận kết quả trả đơn yêu cầu thi hành án vào mục giải quyết xong để phù hợp với quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, tránh mất nhiều công sức, lòng vòng trong công tác báo cáo và nâng cao hiệu quả công việc của chấp hành viên của đơn vị thi hành.

Thứ hai, về số liệu thi hành đều

Theo quy định của Ngành Thi hành án dân sự hiện nay, thì đối với những vụ việc thi hành đều, đơn vị báo cáo phải xóa sổ thụ lý, vụ việc được coi như đã thi hành xong.

Theo chúng tôi, cách làm trên là chưa hoàn toàn thống nhất với tinh thần của Quyết định số 02/2006/QĐ-BTP ngày 14/4/2006 của Bộ Tư pháp về việc ban hành chế độ báo cáo thống kê thi hành án dân sự. Tại điểm 2 Phần I của Phụ lục II Quyết định số 02 quy định việc thi hành án đều “là việc mà theo quyết định của bản án, quyết định của Tòa án hoặc trọng tài thương mại, thì người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ của mình theo định kỳ, hoặc thỏa thuận của các bên đương sự được cơ quan thi hành án chấp nhận” (6). Hiện nay, việc thụ lý án cấp dưỡng nuôi con, trả theo định kỳ, thường thì người được thi hành án yêu cầu trả theo định kỳ và cho toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án. Vì vậy, cơ quan thi hành án chưa thể xóa sổ thụ lý khi thi hành xong một kỳ, hai kỳ,… mà chỉ khi thi hành xong kỳ cuối cùng mới kết thúc và xóa sổ thụ lý. Ví dụ: Ông Nguyễn Văn A yêu cầu ông Nguyễn Văn B bồi thường 10.000.000 đồng, trong quá trình thi hành án các đương sự thỏa thuận mỗi năm ông B trả ông A 2.000.000 đồng, bắt đầu từ năm 2011 cho đến khi hết nợ (năm 2015). Như vậy, khi thi hành xong phần 2.000.000 đồng của năm 2011, thì chấp hành viên báo là xong về tiền 2.000.000 đồng, còn việc báo vào mục thi hành đều và vụ việc phải được chuyển tiếp sang năm 2012 để tiếp tục thi hành. Nếu xóa sổ thụ lý thì thiếu cơ sở, căn cứ vì vụ việc vẫn đang được tổ chức thi hành và sau đó cũng không có cơ sở pháp lý vững chắc để thụ lý mới vụ việc lại.

Theo chúng tôi, đối với những vụ việc thi hành án đều không cần thiết phải xóa sổ thụ lý, mà chỉ cần ghi chú thi hành đều vào mục kết quả thi hành trong sổ thụ lý là được. Khi khóa sổ vụ việc được chuyển tiếp sang kỳ sau để tổ chức thi hành án. Về lâu dài, khi sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành thay thế các biểu mẫu về thi hành án, nên quy định có sổ theo dõi riêng đối với án thi hành đều.

Thứ ba, về thời hạn báo cáo

Theo quy định tại Điều 12 của Quyết định số 02 thì:

“1. Chấp hành viên thống kê kết quả thi hành án của mình và báo cáo Trưởng thi hành án dân sự nơi công tác chậm nhất vào ngày mùng hai (02) của kỳ báo cáo kế tiếp.

2. Thi hành án dân sự cấp huyện lập và gửi báo cáo thống kê 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng và 12 tháng của đơn vị mình về thi hành án dân sự cấp tỉnh chậm nhất vào ngày mùng bốn (04) của kỳ báo cáo kế tiếp.

3. Thi hành án dân sự cấp tỉnh lập và gửi báo cáo thống kê 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng và 12 tháng cho Cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp chậm nhất vào ngày mùng sáu (06) của kỳ báo cáo kế tiếp”(7).

Quy định là như vậy, nhưng trong thực tế, chấp hành viên đã phải thực hiện báo cáo từ những ngày 25 của kỳ báo cáo và chậm nhất cấp huyện gửi về cấp tỉnh là ngày 27 của kỳ báo cáo. Điều này xét về mặt thực tế thì không có khó khăn vướng mắc gì lớn – chấp hành viên chỉ chốt số liệu vào ngày nào của kỳ báo cáo này và ghi nhớ để làm ngày đầu tiên của kỳ báo cáo tiếp theo là được. Nhưng xét về tính hiệu lực của quy phạm pháp luật thì thời hạn báo cáo trên thực tế khác với quy định của pháp luật cũng là điều đáng phải xem xét. Vì một quy phạm pháp luật khi ban hành cần phải được tôn trọng và thực hiện. Nếu vì lý do nào đó quy phạm pháp luật không thể thực hiện được thì phải được xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản khác thay thế. Có như thế mới bảo đảm tính hiệu lực, tính nghiêm minh của các quy phạm pháp luật và hơn nữa bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Theo chúng tôi, nếu xét thấy cần thiết phải thực hiện báo cáo thống kê sớm hơn quy định của Quyết định số 02, thì cũng đã đến lúc đặt ra xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành thay thế Quyết định số 02.

Thứ tư, về khó khăn trong công tác báo cáo thống kê

Chúng tôi đồng tình với quan điểm báo cáo thống kê cần phải phản ánh được hết các hoạt động trên thực tế, tuy nhiên việc ban hành có quá nhiều biểu mẫu như hiện nay cũng rất tốn kém thời gian, công sức của người thực hiện. Một tháng, chấp hành viên phải dành không ít thời gian cho công tác này, nhanh thì một ngày, chậm thì hai đến ba ngày. Chính vì vậy, mà hiện tại đang có khá nhiều phần mềm tự sáng chế nhằm phục vụ công tác báo cáo thống kê giúp giảm đi một phần nào đó khó nhọc cho người và đơn vị thực hiện. Tuy nhiên, những phần mềm này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ, vẫn còn những hạn chế nhất định và còn tản mạn, mỗi nơi thực hiện một kiểu.

Vì vậy, theo chúng tôi, để giải quyết bớt những khó khăn cho người thực hiện báo cáo, đáp ứng yêu cầu nhanh gọn, hiệu quả, sát thực tế, rất cần một nghiên cứu sửa đổi toàn diện biểu mẫu báo cáo thống kê theo hướng xác lập phần mềm báo cáo thống kê gắn liền, tương thích với phần mềm kế toán thi hành án. Từ đó có số liệu chính xác, thống nhất giữa số liệu của chấp hành viên với số liệu kế toán và giảm tải công việc cho chấp hành viên, đơn vị thực hiện báo cáo thống kê.

Nguyễn Thị Nguyệt

(1) Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb. Đà Nẵng, năm 2006, tr. 40.

(2) Xem phụ lục được ban hành kèm theo Quyết định số 02/2006/QĐ-BTP ngày 14/4/2006.

(3) Xem khoản 3 Điều 52 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

(4) Xem Báo cáo tổng hợp kết quả thi hành án về việc 12 tháng năm 2012 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

(5) Xem Báo cáo tổng hợp kết quả thi hành án về giá trị 12 tháng năm 2012 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

(6) Xem điểm 2 Phần I Phụ lục II Ban hành kèm theo Quyết định số 02/2006/QĐ-BTP ngày 14/4/2006.

(7) Xem khoản 1, 2, 3 Điều 12 của Quyết định số 02/2006/QĐ-BTP ngày 14/4/2006.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Những điểm mới cơ bản trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương

23/02/2016

Sau hơn 10 năm thi hành Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, tổ chức chính quyền địa phương được cũng cố, hoàn thiện, thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Tuy nhiên, trong tổ chức hoạt động cần bổ sung các quy định để hoàn thiện hơn tổ chức chính quyền địa phương như: Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể trong tổ chức chính quyền địa phương; gắn kết trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể; nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền theo từng địa bàn; phân định thẩm quyền giữa trung ương và địa phương, phân cấp, phân quyền, ủy quyền của các cấp chính quyền; việc giám sát của nhân dân trong hoạt động chính quyền… Để đáp ứng yêu cầu trên, Hiến pháp năm 2013 đã xác định cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương trong các văn bản luật quy định cụ thể.

Trên cơ sở kế thừa các quy định về cấu trúc các đơn vị hành chính và bổ sung quy định về đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt, đơn vị hành chính tương đương quận, huyện, thị xã thuộc thành phố trực thuộc trung ương, Hiến pháp năm 2013 quy định “Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương;Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường; Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập” (Điều 110, Hiến pháp năm 2013).

Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, ngày 19/6/2015 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương và có hiệu lực vào ngày 01/01/2016. So với Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, Luật Tổ chức chính quyền địa phương có một số quy định mới sau:

1. Về kỹ thuật: Bố cục Luật gồm 8 chương và 143 điều, tăng 2 chương và 3 điều so với Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003.

2. Phạm vi điều chỉnh: Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định “Luật này quy định về đơn vị hành chính và tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính” (Điều 1, Luật Tổ chức chính quyền địa phương). Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định cơ cấu tổ chức Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, và các chủ thể liên quan, như: Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân. Bổ sung một số quy định về thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính.

3. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương

Luật tổ chức Chính quyền địa phương quy định nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương “Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; Hiện đại, minh bạch, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân; Hội đồng nhân dân làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số; Ủy ban nhân dân hoạt động theo chế độ tập thể Ủy ban nhân dân kết hợp với trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân (Điều 5, Luật Tổ chức chính quyền địa phương).

Đây là quy định mới, điều luật này bao quát từ việc tổ chức thực hiện, mục đích thực hiện nhiệm vụ của chính quyền, tổ chức thực hiện và xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể trong việc thực hiện nhiệm vụ, trong đó trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân được nêu rõ hơn trong tổ chức và hoạt động. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, nguyên tắc tổ chức và hoạt động quy định trong văn bản luật, nhưng chưa quy định thành một điều luật trong cơ cấu tổ chức mà quy định một khoản trong cơ cấu tổ chức của các chủ thể.

4. Phân định thẩm quyền, phân cấp, phân quyền, ủy quyền cho chính quyền địa phương

Trong nền hành chính nhà nước thì việc chấp hành và điều hành trên phương pháp mệnh lệnh quyền uy, trên cơ sở quy định pháp luật chính quyền địa phương có nhiệm vụ cơ bản, hàng đầu là tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương. Để đảm bảo sự vận hành đồng bộ của chính quyền địa phương, tạo cơ chế cho chính quyền địa phương có thể ủy quyền cho cấp dưới khi thực hiện những nhiệm vụ nhất định. Luật tổ chức Chính quyền địa phương bổ sung quy định mới như: Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương (Điều 11, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); phân quyền cho chính quyền địa phương (Điều 12, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); phân cấp cho chính quyền địa phương (Điều 13, Luật tổ chức Chính quyền địa phương); ủy quyền cho cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương (Điều 14, Luật tổ chức Chính quyền địa phương), quy định các điều kiện thực hiện phân cấp, phân quyền, ủy quyền cho cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương thực hiện.

5. Cơ cấu tổ chức chính quyền địa phương

Theo Hiến pháp năm 2013 xác định “Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do luật định” (Điều 111, Hiến pháp năm 2013). Quy định khái quát này là cơ sở để văn bản luật cụ thể phù hợp với chính quyền địa phương ở từng địa bàn nông thôn, đô thị, hải đảo và đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt.

Trên cơ sở Hiến pháp, Luật tổ chức Chính quyền địa phương quy định chính quyền địa phương gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (quy định tại các điều: Điều 16, Điều 23, Điều 30; Điều 44; Điều 37; Điều 51; Điều 58; Điều 65, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); trong cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân có Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân; Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân; bộ máy giúp việc của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân.

5.1. Hội đồng nhân dân. Theo Hiến pháp năm 2013, “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên; Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân” (Điều 113, Hiến pháp năm 2013). Trên cơ sở Hiến pháp, Luật tổ chức Chính quyền địa phương quy định “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên (khoản 1, Điều 6, Luật Tổ chức chính quyền địa phương).

– Thường trực Hội đồng nhân dân: Thường trực Hội đồng nhân dân thành lập ở cả 03 cấp chính quyền địa phương: Cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã.

+ Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có Chủ tịch Hội đồng nhân dân, hai Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, các Ủy viên là Trưởng ban của Hội đồng nhân dân, Chánh Văn phòng Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (khoản 2, Điều 18; khoản 2, Điều 39; khoản 2, Điều 53, Luật Tổ chức chính quyền địa phương).

+ Thường trực Hội đồng nhân dân cấp huyện có Chủ tịch Hội đồng nhân dân, hai Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Ủy viên là Trưởng ban của Hội đồng nhân dân (khoản 2, Điều 25; khoản 2, Điều 46; khoản 2, Điều 53, Luật Tổ chức chính quyền địa phương).

+ Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã có Chủ tịch Hội đồng nhân dân và một Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách (khoản 2, Điều 32; khoản 2, Điều 60; khoản 2, Điều 67, Luật Tổ chức chính quyền địa phương).

+ Tăng cường vai trò của Thường trực Hội đồng nhân dân “Thường trực Hội đồng nhân dân họp thường kỳ mỗi tháng một lần” (khoản 2, Điều 106, Luật tổ chức Chính quyền địa phương). Đối với cấp xã khi có đơn yêu cầu có chữ ký của trên mười phần trăm tổng số cử tri trên địa bàn thì Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức kỳ họp Hội đồng nhân dân bất thường (khoản 3, Điều 78, Luật Tổ chức chính quyền địa phương).

– Các Ban của Hội đồng nhân dân: Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thành lập Ban Pháp chế; Ban Kinh tế – Ngân sách; Ban Văn hóa – xã hội, nơi nào có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số thì thành lập Ban Dân tộc (khoản 3, Điều 18, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); thành phố trực thuộc trung ương thành lập Ban Đô thị (khoản 3, Điều 39, Luật Tổ chức chính quyền địa phương).

+ Hội đồng nhân dân cấp huyện thành lập Ban pháp chế, Ban kinh tế – xã hội, nơi nào có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số thì thành lập Ban Dân tộc (khoản 3, Điều 25; khoản 3, Điều 46; khoản 3, Điều 53, Luật Tổ chức chính quyền địa phương).

+ Đối với Hội đồng nhân dân cấp xã thành lập ban Pháp chế và Ban Kinh tế – Xã hội, các Trưởng ban, Phó Trưởng Ban của Hội đồng nhân dân hoạt động kiêm nhiệm (khoản 3, Điều 32; khoản 3, Điều 60; khoản 3, Điều 67, Luật Tổ chức chính quyền địa phương).

– Phê chuẩn kết quả bầu cử Hội đồng nhân dân: Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng ban, Phó Trưởng ban Hội đồng nhân dân, Chánh Văn phòng Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn ngay sau khi được bầu. Áp dụng phê chuẩn đối với các chức danh Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân. Thẩm quyền phê chuẩn kết quả bầu cử như sau: Ủy ban thường vụ Quốc hội “Phê chuẩn kết quả bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương” (khoản 5, Điều 53, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2015). Thẩm quyền phê chuẩn các cấp như sau “Kết quả bầu cử Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phải được Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn; kết quả bầu cử Hội đồng nhân dân cấp dưới do Thường trực Hội đồng nhân dân cấp trên phê chuẩn” (khoản 6, Điều 83, Luật Tổ chức chính quyền địa phương).

– Số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân: Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định tiêu chuẩn của đại biểu Hội đồng nhân dân tại Điều 7. Số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp được quy định cụ thể mỗi cấp: Đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh từ 50 đại biểu trở lên theo số dân, địa bàn nhưng không quá 95 đại biểu (khoản 1, Điều 18, Luật Tổ chức chính quyền địa phương), riêng thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh bầu 105 đại biểu Hội đồng nhân dân (khoản 1, Điều 39, Luật tổ chức Chính quyền địa phương); Hội đồng nhân dân cấp huyện số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân từ 30 đại biểu đến không quá 45 đại biểu (khoản 1, Điều 25; khoản 1, Điều 46; khoản 1, Điều 53, Luật tổ chức Chính quyền địa phương); Hội đồng nhân dân cấp xã từ 15 đến không quá 35 đại biểu (khoản 1, Điều 32; khoản 1, Điều 60; khoản 1, Điều 67, Luật tổ chức Chính quyền địa phương).

– Tổ đại biểu: Thực tiễn trong hoạt động của Hội đồng nhân dân đã cho thấy cần tổ chức đại biểu thành tổ để nâng cao hiệu quả hoạt động, trao đổi chuyên môn và phối hợp trong công tác. Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã bổ sung tổ đại biểu trong cơ cấu của Hội đồng nhân dân. Tổ đại biểu thành lập ở Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (khoản 4, Điều 18; khoản 4, Điều 39, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); và Hội đồng nhân dân cấp huyện (khoản 4, Điều 25; khoản 4, Điều 46; khoản 4, Điều 53, Luật Tổ chức chính quyền địa phương). Đối với Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn không thành lập Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân.

– Đại biểu hoạt động chuyên trách: Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng ban Hội đồng nhân dân có thể là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách; Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Trưởng ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách (quy định tại khoản 3 các Điều: Điều 18, Điều 67, Điều 25, Điều 46, Điều 53, Luật Tổ chức chính quyền địa phương). Đối với cấp xã Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách, Trưởng ban, Phó Trưởng ban của Hội đồng nhân dân cấp xã hoạt động kiêm nhiệm (quy định tại khoản 3 các Điều: Điều 32, Điều 60, Điều 67).

5.2. Ủy ban nhân dân: Theo Hiến pháp năm 2013 “Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên; Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao” (Điều 114, Hiến pháp năm 2013).

Trên cơ sở Hiến pháp, Luật Tổ chức chính quyền địa phương xác định, Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương “Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương, Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Ủy ban nhân dân gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Ủy viên, số lượng cụ thể Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp do Chính phủ quy định” (Điều 8, Luật Tổ chức chính quyền địa phương).

– Tổ chức Ủy ban nhân dân: Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định mức tối đa số Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân như sau: Đối với Ủy ban nhân dân tỉnh loại I không quá bốn Phó Chủ tịch, tỉnh loại II và tỉnh loại III không quá ba Phó Chủ tịch; Ủy viên Ủy ban nhân dân gồm các Ủy viên là người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, Ủy viên phụ trách quân sự, Ủy viên phụ trách Công an (Điều 20, Luật Tổ chức chính quyền địa phương). Đối với thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh không quá năm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân (khoản 1, Điều 41, Luật Tổ chức chính quyền địa phương). Đối với Ủy ban nhân dân cấp huyện gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên. Ủy ban nhân dân cấp huyện loại I không quá 03 Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, cấp huyện loại II, cấp huyện loại III không quá hai Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân (Điều 27, Điều 48, Điều 55, Luật Tổ chức chính quyền địa phương). Đối với Ủy ban nhân dân cấp xã gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên; cấp xã loại I bố trí không quá hai Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, cấp xã loại II và cấp xã loại III bố trí một Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân (Điều 34, Điều 62, Điều 69, Luật Tổ chức chính quyền địa phương).

– Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Ủy viên Ủy ban nhân dân thực hiện nhiệm vụ ngay sau khi được bầu. Áp dụng chế độ phê chuẩn đối với các chức danh Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ “Phê chuẩn việc bầu, miễn nhiệm và quyết định điều động, đình chỉ công tác, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh” (khoản 7, Điều 28, Luật Tổ chức chính phủ năm 2015). Thẩm quyền phê chuẩn các cấp quy định trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương như sau “Kết quả bầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh phải được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn; kết quả bầu cử Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới phải được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn” (khoản 7, Điều 83, Luật Tổ chức chính quyền địa phương).

– Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định tối đa số lượng Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân mỗi cấp, mở rộng Ủy viên Ủy ban nhân dân là các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân, không thực hiện việc phê chuẩn chức danh Ủy viên Ủy ban nhân dân. Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, giao cho Chính phủ quy định “Số lượng thành viên và số Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân của mỗi cấp do Chính phủ quy định” (Điều 122, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003) và các thành viên Ủy ban nhân dân phải được phê chuẩn của cơ quan có thẩm quyền.

5.3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Chủ tịch Ủy ban nhân dân được xác định “là người đứng đầu Ủy ban nhân dân”, đề cao trách nhiệm cá nhân Chủ tịch Ủy ban nhân dân trong công tác lãnh đạo, điều hành công việc Ủy ban nhân dân, Ủy viên Ủy ban nhân dân. Điều này thể hiện trong nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Chính quyền địa phương; nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Ủy ban nhân dân “Ủy ban nhân dân hoạt động theo chế độ tập thể Ủy ban nhân dân kết hợp với trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân” (khoản 4, Điều 5, Luật Tổ chức chính quyền địa phương).

Để thống nhất trong công tác quản lý hành chính Thủ tướng Chính phủ có quyền “…yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đình chỉ công tác, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới khi không hoàn thành nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao hoặc vi phạm pháp luật” (khoản 7, Điều 28, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015). Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh “…yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện đình chỉ, cách chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới khi không hoàn thành nhiệm vụ được giao hoặc vi phạm pháp luật…”(khoản 2, Điều 22, Luật Tổ chức chính quyền địa phương). Đây là điểm mới trong công tác tổ chức chính quyền địa phương để thực hiện nguyên tắc phân cấp, phân quyền, ủy quyền trong tổ chức thực hiện các quy định pháp luật.

6. Quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể

Theo Hiến pháp năm 2013 nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương “Chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên; Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương; Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó” (Điều 112, Hiến pháp năm 2013). Theo Luật tổ chức Chính quyền địa phương, tổ chức chính quyền địa phương được xác định là Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân được tổ chức trên các địa bàn nông thôn, đô thị, hải đảo, nhưng nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể ở mỗi lĩnh vực là quy định trên cơ sở địa bàn hoạt động. Luật tổ chức Chính quyền địa phương xác định nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể trong tổ chức chính quyền địa phương như: Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, trên cơ sở phân định thẩm quyền, phân cấp, phân quyền, ủy quyền cho chính quyền địa phương phù hợp với từng địa bàn: Nông thôn, đô thị, hải đảo và đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt; phù hợp với từng chủ thể trong cùng cấp chính quyền.

– Xét theo tính chất nhiệm vụ, quyền hạn. Các chủ thể trong tổ chức chính quyền địa phương thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn ở địa bàn thể hiện rõ tính chất đặc thù của địa bàn đô thị và địa bàn nông thôn. Luật tổ chức Chính quyền địa phương quy định theo hướng, trên cơ sở các quy định về chính quyền địa phương ở địa bàn nông thôn, Chính quyền địa phương ở địa bàn đô thị quy định thêm một số lĩnh vực về quản lý, quy hoạch đô thị. Chủ thể trong tổ chức chính quyền theo địa bàn đô thị thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nhiều và mang tính chuyên ngành hơn chính quyền địa bàn nông thôn. Ví dụ: Hội đồng nhân dân tỉnh thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn 09 lĩnh vực (Điều 19, Luật Tổ chức chính quyền địa phương), nhưng Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc trung ương, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn 13 lĩnh vực (Điều 40, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn 08 lĩnh vực (Điều 21, Luật Tổ chức chính quyền địa phương), nhưng Ủy ban nhân dân thành phố trực thuộc trung ương thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn 14 lĩnh vực (Điều 42, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn 11 lĩnh vực (Điều 22, Luật Tổ chức chính quyền địa phương), nhưng Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố trực thuộc trung ương thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn 18 lĩnh vực (Điều 43, Luật Tổ chức chính quyền địa phương)…

– Để thấy được sự khác nhau về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở các địa bàn; nhiệm vụ, quyền hạn của cấp trên với cấp dưới có thể tiếp cận theo số học và theo mô hình “đường tròn đồng tâm”. Theo số học cho chúng ta thấy nội dung quản lý thể hiện qua nhiệm vụ, quyền hạn của cấp trên nhiều hơn cấp dưới, đô thị nhiều hơn nông thôn; tiếp cận theo đường tròn đồng tâm cho ta thấy được thẩm quyền của mỗi cấp chính quyền địa phương trong cùng một nội dung quản lý.

+ Về số học: Tính theo nội dung quản lý thì nhiệm vụ, quyền hạn thì Luật tổ chức Chính quyền địa phương quy định theo hướng tăng trách nhiệm quyền hạn của cấp trên đối với cấp dưới; nhiệm vụ, quyền hạn tập trung ở cấp tỉnh trong cùng địa bàn nông thôn, đô thị, hải đảo. Ví dụ, quy định chung về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương các cấp như sau: Chính quyền địa phương cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn 07 lĩnh vực (Điều 17, Điều 38, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); chính quyền địa phương cấp huyện thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn 06 lĩnh vực (Điều 24, Điều 45, Điều 52, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); chính quyền địa phương ở xã thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn 05 lĩnh vực (Điều 31, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); chính quyền ở phường thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn 06 lĩnh vực (Điều 59, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); chính quyền ở thị trấn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn 05 lĩnh vực (Điều 66, Luật Tổ chức chính quyền địa phương). Quy định nhiệm vụ chính quyền ở địa bàn đô thị nhiều hơn so với chính quyền ở địa bàn nông thôn trong cùng cấp, thể hiện sự khác nhau trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền ở địa bàn đô thị và chính quyền ở địa bàn nông thôn.

+ Tiếp cận theo mô hình đường tròn đồng tâm. Tiếp cận theo mô hình này sẽ thấy rõ nhất về thẩm quyền thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp trong tổ chức chính quyền địa phương. Đặt các lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý trên địa giới hành chính địa phương là một phần tương ứng của vòng tròn, và các cấp chính quyền địa phương là các vòng trong có diện tích to, nhỏ theo cấp hành chính, có thể thấy ngoài những cụm từ dùng để thực hiện các nhiệm vụ cụ thể như: Phê chuẩn, thực hiện, điều hành …thì các cụm từ thể hiện thẩm quyền, như: Hội đồng nhân dân dùng nhiều cụm từ “quyết định biện pháp”, “quyết định chủ trương”; Ủy ban nhân dân sử dụng các cụm từ “thực hiện”, “tổ chức thực hiện”, “xây dựng và tổ chức thực hiện”…; Chủ tịch Ủy ban nhân dân sử dụng các cụm từ mang tính thực hiện điều hành như: “lãnh đạo”, “điều hành”, “chỉ đạo”, “tổ chức việc phối hợp”, “quản lý”…

6.1. Nhiệm vụ, quyền hạn các cấp chính quyền như sau: Chính quyền địa phương cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong 07 lĩnh vực (Điều 17, Điều 38, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); Chính quyền địa phương cấp huyện thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong 06 lĩnh vực (Điều 24, Điều 45, Điều 52, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); Chính quyền địa phương cấp xã thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong 05 lĩnh vực (Điều 31, Điều 59, Điều 66, Luật Tổ chức chính quyền địa phương).

6.2 Hội đồng nhân dân: Hội đồng nhân dân tỉnh thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong 09 lĩnh vực (Điều 19, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); Hội đồng nhân dân huyện thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong 05 lĩnh vực (Điều 26, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); Hội đồng nhân dân xã thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong 08 lĩnh vực (Điều 33, Luật Tổ chức vhính quyền địa phương); Hội đồng nhân dân thị trấn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong 07 lĩnh vực (Điều 68, Luật Tổ chức chính quyền địa phương)

– Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc trung ương thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong 13 lĩnh vực (Điều 40, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); Hội đồng nhân dân quận thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn 11 lĩnh vực (Điều 47, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); Hội đồng nhân dân ở thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong 08 lĩnh vực (Điều 54, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); Hội đồng nhân dân phường thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong 07 lĩnh vực (Điều 61, Luật Tổ chức chính quyền địa phương).

6.3 Ủy ban nhân dân: Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn ở 08 lĩnh vực (Điều 21, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); Ủy ban nhân dân huyện thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong 08 lĩnh vực (Điều 28, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); Ủy ban nhân dân xã thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong 05 lĩnh vực (Điều 35, Luật Tổ chức chính quyền địa phương).

– Ủy ban nhân dân thành phố trực thuộc trung ương thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong 14 lĩnh vực (Điều 42, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); Ủy ban nhân dân quận thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn ở 09 lĩnh vực (Điều 49, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); Ủy ban nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong 13 lĩnh vực (Điều 56, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); Ủy ban nhân dân phường, thị trấn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong trong 04 lĩnh vực (Điều 63, Điều 70, Luật Tổ chức chính quyền địa phương).

6.4 Chủ tịch Ủy ban nhân dân: Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong 11 lĩnh vực (Điều 22, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong 10 lĩnh vực (Điều 29, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong 07 lĩnh vực (Điều 36, Luật Tổ chức chính quyền địa phương).

– Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố trực thuộc trung ương thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong 18 lĩnh vực (Điều 43, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong trong 11 lĩnh vực (Điều 50, Luật tổ chức Chính quyền địa phương); Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong 14 lĩnh vực (Điều 57, Luật tổ chức Chính quyền địa phương); Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong 09 lĩnh vực (Điều 64, Luật Tổ chức chính quyền địa phương) và Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong 09 lĩnh vực (Điều 71, Luật Tổ chức chính quyền địa phương).

7. Thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính

Theo Hiến pháp năm 2013, Quốc hội có thẩm quyền “…thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt…” (khoản 9, Điều 70, Hiến pháp năm 2013). Ủy ban Thường vụ Quốc hội “Quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương” (khoản 8, Điều 74, Hiến pháp năm 2013). Đối với việc thay đổi địa giới hành chính Hiến pháp quy định phải lấy ý kiến nhân dân “Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến Nhân dân địa phương theo trình tự, thủ tục do luật định” (khoản 2, Điều 110, Hiến pháp năm 2013). Trên cơ sở Hiến pháp, tại Chương VII, Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định cụ thể nguyên tắc, điều kiện thẩm quyền; quy trình lấy ý kiến nhân dân và tổ chức chính quyền địa phương trong việc thay đổi địa giới hành chính. Luật quy định, sau khi lấy ý kiến nhân dân về thay đổi địa giới hành chính mà có trên năm mươi phần trăm tổng số cử tri trên địa bàn tán thành thì cơ quan xây dựng đề án hoàn chỉnh hồ sơ gửi cơ quan có thẩm quyền (khoản 1, Điều 132, Luật Tổ chức chính quyền địa phương).

8. Ngoài ra, Luật tổ chức Chính quyền địa phương còn quy định về chính quyền địa phương ở hải đảo (Chương IV, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt (Chương V, Luật Tổ chức chính quyền địa phương), thẩm quyền và trình tự thủ tục thành lập, giải thể đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt.

9. Tổ chức hoạt động của bộ máy giúp việc chính quyền địa phương

Bộ máy giúp việc của chính quyền địa phương gồm có Văn phòng Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp huyện (gọi chung là Văn phòng). Luật quy định “Chính phủ quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, biên chế của Văn phòng Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp huyện và việc tổ chức công tác tham mưu, giúp việc, phục vụ hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã” (khoản 4, Điều 127, Luật Tổ chức chính quyền địa phương).

Văn phòng được xác định là “cơ quan tham mưu, giúp việc, phục vụ” của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân. Hiện nay, chưa có văn bản quy định mô hình tổ chức bộ máy của Văn phòng theo Luật tổ chức Chính quyền địa phương, nhưng trên cơ sở thẩm quyền nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, tính chất của Bộ máy Văn phòng, thực tiễn giải quyết công việc bài viết có ý kiến sau:

– Về thực tiễn thấy rằng: Hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân có đóng góp của công tác tham mưu của bộ máy giúp việc. Trên cơ sở quy định của văn bản pháp luật[1], hiện nay Văn phòng được xem là cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân hoạt động theo chế độ thủ trưởng và tổ chức thành các phòng chức năng, các phòng chuyên môn. Khi giải quyết công việc đúng theo quy trình từ trên xuống dưới: Lãnh đạo Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân giao cho lãnh đạo Văn phòng, Lãnh đạo văn phòng giao cho phòng chuyên môn, phòng chuyên môn giao cho công chức. Và khi ký phát hành văn bản theo quy trình từ dưới lên trên: công chức trình cho lãnh đạo phòng, lãnh đạo phòng trình lãnh đạo Văn phòng, lãnh đạo Văn phòng trình lãnh đạo Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Nhưng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ hiện nay nhiều địa phương xây dựng quy chế nội bộ theo “cơ chế trực tuyến”, nghĩa là lãnh đạo có thể giao trực tiếp cho một công chức thực hiện việc tham mưu vấn đề cụ thể, quy trình thực tế này đã phát huy được hiệu quả cao trong công việc ở một số địa phương. Từ thực tế này đã tồn tại khái niệm “siêu giám đốc” dành cho đội ngũ công chức Văn phòng. Ở góc độ chuyên môn khái niệm này cho thấy công chức Văn phòng phải biết được toàn bộ chuyên môn của một hoặc một số sở, ban, ngành của địa phương mới tham mưu cho lãnh đạo Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Qua công tác cho thấy thì đây là yêu cầu tối thiểu để công chức có thể “sàng lọc” trình lên lãnh đạo Ủy ban nhân dân phương án tối ưu nhất trong thực hiện nhiệm vụ. Nhưng xét về cơ cấu tổ chức, thực hiện nhiệm vụ: Đây là cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân với đầy đủ các phòng chức năng, có cơ cấu lãnh đạo hàm giám đốc, có lãnh đạo các phòng chức năng. Khi cơ quan chuyên môn tham mưu một nội dung trình lên lãnh đạo Ủy ban nhân dân, khi đó công chức Văn phòng “tham mưu lại” thì có thể chồng chéo trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và có trường hợp vô hiệu các ý kiến tham mưu của cơ quan chuyên môn. Về quy định các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân là các cơ quan tham mưu chuyên sâu về ngành, lĩnh vực do pháp luật và Ủy ban nhân dân giao, lãnh đạo cơ quan chuyên môn chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước Chủ tịch Ủy ban nhân dân về thực hiện nhiệm vụ.

– Về tính chất tham mưu: Cùng thực hiện chức năng “tham mưu”, nhưng tham mưu của công chức Văn phòng so với các cơ quan chuyên môn cần phải nhìn nhận và thực hiện công tác tham mưu khác nhau về chất. Vì, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương; Chủ tịch Ủy ban nhân dân là các chủ thể thực hiện các chức năng quản lý thuộc thẩm quyền chung; thực hiện chức năng cơ năng cơ bản hàng đầu của chính quyền địa phương là đảm bảo thực hiện Hiến pháp, pháp luật tại địa phương, đồng thời thực hiện các nhiệm vụ xuất phát từ đặc thù địa phương, thì việc tham mưu cần mang tính chất “tổng hợp tham mưu” thì mới thể hiện được tính “siêu giám đốc”, còn như “tham mưu lại” theo đúng quy trình xử lý trong cơ quan thực hiện theo chế độ thủ trưởng, thì công tác Văn phòng có thể chồng chéo với các cơ quan chuyên môn.

– Về công tác cải cách hành chính cho thấy: Văn phòng là cơ quan tiếp nhận, giải quyết nhiều nhiệm vụ liên quan đến cải cách hành chính, hiệu quả công tác cải cách hành chính địa phương phụ thuộc nhiều vào quy trình giải quyết của Văn phòng. Thực tiễn cho thấy, Văn phòng là một trong những cơ quan có tác động lớn đến công tác cải cách hành chính địa phương, hiệu quả của nền hành chính, tiến trình cải cách hành chính nhà nước.

Từ thẩm quyền các chủ thể trong tổ chức chính quyền địa phương, thực tiễn công tác, hiệu quả trong giải quyết công việc, để phù hợp với tiến trình trong công tác cải cách hành chính, bài viết có ý kiến sau:

Thứ nhất, về mô hình Văn phòng. Xuất phát từ thẩm quyền của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân là thực hiện quản lý theo thẩm quyền chung; trên cơ sở cơ cấu, tổ chức bộ máy của các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân, trách nhiệm của thủ trưởng các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân, thì tính chất trong công tác tham mưu của Văn phòng cũng phải xuất phát từ thẩm quyền của chủ thể đó là thực hiện mang tính “tổng hợp tham mưu”. Để phát huy trách nhiệm trong công tác chuyên môn của thủ trưởng cơ quan chuyên môn, phát huy tối đa năng lực công chức Văn phòng, nâng cao hiệu quả trong xử lý công việc và đáp ứng được yêu cầu công tác cải cách hành chính, thì công tác Văn phòng hoạt động theo chế độ thủ trưởng và có các phòng chức năng, nhưng trong công tác chuyên môn thành lập phòng quản lý chuyên môn chung giúp việc cho lãnh đạo Văn phòng để có thể tham mưu được những vấn đề mang tính tổng hợp trên địa bàn.

Thứ hai, đối với văn bản triển khai, hướng dẫn thực hiện. Khi triển khai thực hiện các quy định của cấp trên, trên cơ sở hiệu lực thứ bậc văn vản quy phạm pháp luật thì văn bản của các Bộ, ban, ngành trung ương cần sử dụng những cụm từ sát với thẩm quyền của các chủ thể có thẩm quyền của địa phương, những chủ thể nào thẩm quyền triển khai thực hiện, chủ thể nào trình, chủ thể nào quyết định cần căn cứ vào thẩm quyền của các chủ thể quy định ở Luật Tổ chức chính quyền địa phương và các văn bản pháp luật liên quan. Có nhiều phương pháp để tiếp cận thẩm quyền về nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể có thẩm quyền tổ chức chính quyền địa phương, nhưng tiếp cận theo mô hình vòng tròn đồng tâm sẽ thấy rõ nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp chính quyền, từng chủ thể trong tổ chức thực hiện.

Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể có thẩm quyền trong tổ chức chính quyền địa phương, nhưng công tác Văn phòng góp phần quan trọng vào việc thực hiện chính sách, pháp luật trên địa bàn, trong đó có công tác cải cách hành chính ở địa phương, nên mô hình và tổ chức hoạt động của Văn phòng cần chú trọng phát huy các kiến thức chuyên ngành của cơ quan chuyên môn, năng lực công chức Văn phòng trong công tác; hiệu quả trong xử lý công việc và đáp ứng được yêu cầu công tác cải cách hành chính của nhà nước.

ThS. Trần Đức Thú

Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh Gia Lai



[1]Hiện nay các văn phòng địa phương đang thực hiện theo các văn bản sau: Nghị quyết 545/2007/NQ-UBTVQH12 về việc Thành lập và quy định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;

Nghị định số 24/2014/NĐ-CP, ngày 04 tháng 04 năm 2014 của Chính phủ Quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;

Nghị định 37/2014/NĐ-CP, ngày 05 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ định quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Pháp chế Công an TP. Cần Thơ góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho nhân dân địa phương

07/12/2015

Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta có ý nghĩa rất quan trọng và đang là vấn đề cấp thiết để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Để củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa phải áp dụng nhiều biện pháp đồng bộ trong đó có các biện pháp cơ bản như: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế; đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa; tăng cường công tác tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật, mà trong đó, quan trọng nhất là nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật cho người dân thông qua công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL).

1. Những kết quả đạt được

Xác định công tác tuyên truyền, PBGDPL là một trong những mặt công tác có ý nghĩa to lớn trong công tác bảo đảm an ninh trật tự ở Cần Thơ, giúp cho cán bộ chiến sỹ và nhân dân hiểu biết thêm và nắm vững các quy định của pháp luật hiện hành, từ đó nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật, đề cao tinh thần cảnh giác, phát hiện tố giác tội phạm, góp phần quan trọng trong công tác phòng ngừa, đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật. Vì vậy, trong những năm qua Phòng Pháp chế và cải cách hành chính tư pháp, Công an thành phố Cần Thơ đã chủ động tham mưu cho Đảng ủy, Ban Giám đốc ban hành nhiều chương trình, kế hoạch, công văn hướng dẫn chỉ đạo Công an các địa phương tăng cường công tác tuyên truyền, PBGDPL tại đơn vị mình và mở rộng tuyên truyền cho quần chúng nhân dân trên địa bàn nhằm nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, chiến sĩ và người dân; phối hợp tổ chức nhiều cuộc thi tìm hiểu pháp luật, trong đó có cuộc thi tìm hiểu Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tìm hiểu pháp luật về thi hành án hình sự, tìm hiểu pháp luật về biển đảo Việt Nam…, đã thu hút trên 18.000bài dự thi thông qua nhiều hình thức thi trắc nghiệm, tự luận. Ngoài ra, Phòng Pháp chế và cải cách hành chính tư pháp, Công an thành phố Cần Thơ còn cử báo cáo viên đến các khu dân cư, trường học, cơ quan, xí nghiệp, công ty kinh doanh vận tải… tổ chức các buổi tuyên truyền, PBGDPL cho nhân dân bằng nhiều hình thức, nội dung tập trung vào các lĩnh vực: Phòng chống tội phạm mua bán người; phòng chống tội phạm mua bán, sử dụng chất ma túy; phòng chống bạo lực học đường, các tệ nạn xã hội, môi trường, an toàn giao thông… Đặc biệt, Ban Giám đốc Công an thành phố đã thống nhất cho Phòng Pháp chế và cải cách hành chính tư pháp tổ chức thí điểm thành công và hiện nay đang nhân rộng chương trình “Giao lưu giáo dục ý thức công dân khi tôi 18”cho các đối tượng học sinh trường phổ thông trung học, sinh viên các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn thành phố Cần Thơ, thu hút hàng nghìn học sinh, sinh viên, thầy, cô giáo, cùng với các sở, ban, ngành tham gia như: Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Tư pháp, Sở Nội vụ, Thành đoàn Cần Thơ và các cơ quan truyền thông tham gia tuyên truyền.

Được sự đồng ý của Đảng ủy, Ban Giám đốc, Phòng Pháp chế và cải cách hành chính tư pháp, Công an thành phố Cần Thơ còn phối hợp với Đài truyền hình Việt Nam và Đài phát thanh và Truyền hình thành phố Cần Thơ thực hiện 38 chương trình phát thanh – truyền hình định kỳ tập trung đưa tin về tình hình an ninh trật tự, trật tự an toàn giao thông đường bộ và hoạt động của các lực lượng chức năng trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm; thực hiện 12 bản tin Công an thành phố với số lượng 3.600 quyển, tập trung phản ánh tình hình tội phạm cũng như phương thức, âm mưu thủ đoạn của bọn tội phạm để quần chúng nhân dân biết và tự đề ra các biện pháp phòng chống. Đặc biệt, Phòng Pháp chế và cải cách hành chính tư pháp, Công an thành phố Cần Thơ còn phối hợp với các đơn vị chức năng xây dựng mô hình “Tổ phòng chống tội phạm – Cổng An ninh, trật tự”trên các địa bàn trọng điểm về an ninh trật tự. Đây là mô hình có tổ chức và hoạt động chặt chẽ với sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân trong công tác phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống các loại tội phạm, tệ nạn xã hội dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chính quyền địa phương và lực lượng công an. Định kỳ hàng tháng, Tổ phòng chống tội phạm trên tất cả địa bàn phải tổ chức sinh hoạt, thông báo về tình hình tội phạm, tuyên truyền giáo dục cho các thành viên và quần chúng nhân dân tại địa phương nắm rõ các quy định của pháp luật, đồng thời đề ra các kế hoạch để thực hiện mô hình có hiệu quả.

Kết quả công tác tuyên truyền, PBGDPL và xây dựng các mô hình trong thực hiện phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc trong thời gian qua đã góp phần giảm tỷ lệ tội phạm, tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững, không để xảy ra các tình huống bị động, bất ngờ; nâng cao chất lượng công tác điều tra, khám phá các loại án, góp phần quan trọng thúc đấy kinh tế, xã hội ổn định và phát triển.

2. Một số tồn tại, hạn chế

Thứ nhất, một số đơn vị, địa phương chưa thật sự quan tâm đúng mức đến công tác tuyên truyền, PBGDPL, còn tập trung nặng cho công tác chuyên môn, nên việc tuyên truyền, PBGDPL rộng ra quần chúng nhân dân chưa đạt được hiệu quả cao.

Thứ hai, lực lượng báo cáo viên pháp luật của Công an thành phố Cần Thơ đa số là kiêm nhiệm, thực hiện cùng lúc nhiều công việc, nên việc đầu tư thời gian để trau dồi, nâng cao kiến thức pháp luật và kỹ năng PBGDPL còn hạn chế, từ đó phần nào đã ảnh hưởng đến hiệu quả công tác này.

Thứ ba, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác tuyên truyền còn thiếu, chế độ bồi dưỡng cho báo cáo viên còn thấp cũng một phần là nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng công tác tuyên truyền, PBGDPL.

3. Một số giải pháp nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật cho nhân dân ở thành phố Cần Thơ trong thời gian tới

Một là, tập trung rà soát, đánh giá đúng thực chất đội ngũ cán bộ pháp chế (kể cả cán bộ pháp chế kiêm nhiệm ở công an các đơn vị, địa phương), đội ngũ báo cáo viên pháp luật trong Công an thành phố Cần Thơ, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ bảo đảm về số lượng, chất lượng. Việc đánh giá phải toàn diện thông qua các tiêu chí như: Trình độ chuyên môn, trình độ văn hóa, trình độ lý luận chính trị, khả năng ngoại ngữ, khả năng thực thi công việc (nghiên cứu, tham mưu tư vấn, tuyên truyền…).

Hai là, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Để bảo đảm thực hiện được vấn đề này, trước hết, mỗi cán bộ làm công tác tuyên truyền, PBGDPL phải tự cập nhật, bổ sung kiến thức chuyên môn, kiến thức xã hội nhằm phục vụ tốt các nhiệm vụ chuyên môn và công tác kiêm nhiệm được giao; tiếp theo, tổ chức đào tạo và đào tạo lại những cán bộ còn yếu về chuyên môn và nghiệp vụ để thực hiện tốt các nhiệm vụ của cơ quan bảo vệ pháp luật.

Ba là, tiếp thu và tổ chức thực hiện tốt sự chỉ đạo hướng dẫn nghiệp vụ pháp chế của Bộ Công an, Sở Tư pháp, Đoàn đại biểu Quốc hội, Ban pháp chế Hội đồng nhân dân, các ngành trong khối nội chính của tỉnh Cần Thơ; chủ động rà soát, đề xuất, sửa đổi, bổ sung chính sách liên quan đến cán bộ làm công tác pháp chế trong lực lượng Công an nhân dân.

Bốn là,tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đối với công tác tuyên truyền, PBGDPL trong Công an nhân dân,bảo đảm cho công tác này đạt mục đích, yêu cầu đề ra. Các cấp ủy phải coi đây là nội dung quan trọng trong công tác lãnh đạo của tổ chức đảng; kết hợp lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chung với xác định những vấn đề trọng tâm, trọng điểm, có tính đặc thù trên từng lĩnh vực công tác.

Năm là, Hội đồng Phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật Công an thành phố Cần Thơ khuyến khích các cơ quan, đơn vị thông qua thực tiễn hoạt động tìm ra nhiều mô hình, cách làm mới hơn nữa để thu hút đông đảo cán bộ chiến sỹ và quần chúng nhân dân tham gia; nâng cao hiệu quả hoạt động của Tủ sách pháp luật ở các đơn vị, thường xuyên cập nhật nhiều nội dung mới, phong phú, có tính giáo dục cao; tổ chức tuyên truyền sinh động, đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung, qua đó cần đánh giá cụ thể về hiệu quả đạt được trong việc triển khai thực hiện; ghi nhận và biểu dương những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc, nhân rộng những cách làm hay, mô hình hiệu quả để tổng kết, rút kinh nghiệm và nhân rộng mô hình hiệu quả cho những năm tiếp theo. Đồng thời, cần đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đề cao ý thức tự giác, lối sống kỷ cương, kỷ luật, tác phong chính quy, khoa học.

Sáu là, tạo điều kiện về thời gian, cơ sở vật chất, kinh phí cho hoạt động tuyên truyền pháp luật nhằm nâng cao nhận thức của người dân. Cấp ủy các cấp phải phân công cán bộ phụ trách công tác tuyên truyền, PBGDPL và chịu trách nhiệm trước cấp ủy về kết quả tổ chức thực hiện.

Bảy là, tích cực hưởng ứng và thực hiện hiệu quả, nghiêm túc Ngày pháp luật hàng năm, nhằm chuyển tải pháp luật đến các tầng lớp nhân dân, đồng thời, cần xem đây là kênh rất quan trọng và hiệu quả trong việc tuyên truyền, PBGDPL. Việc lựa chọn chủ đề để tổ chức Ngày pháp luật cần phải gắn với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị và đối tượng tuyên truyền sao cho nội dung sinh hoạt pháp luật gần gũi nhất, cần thiết đối với đối tượng quan tâm.

ThS. Trịnh Duy Thuyên

Công an thành phố Cần Thơ

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bàn về thẩm quyền đề nghị miễn thi hành án khoản tiền phạt theo Bộ luật Hình sự

22/01/2013

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, miễn, giảm mức hình phạt đã tuyên là sự thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội khi đáp ứng đầy đủ một số điều kiện nhất định.

Chính sách này của Nhà nước nhằm khuyến khích người bị kết án cải tạo tốt, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra. Việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự cũng không nằm ngoài ý nghĩa và mục đích nói trên. Tuy nhiên, đứng trên góc độ các quy định của pháp luật hiện nay liên quan đến việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự, còn nhiều vấn đề chưa rõ ràng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Xin nêu ra một số bất cập và phân tích để các đồng nghiệp cùng trao đổi.

Về thẩm quyền xem xét, quyết định miễn giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự đã được quy định rõ tại Điều 63 Luật Thi hành án dân sự năm 2008: “Việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Toà án quân sự khu vực (sau đây gọi chung là Toà án cấp huyện) nơi cơ quan thi hành án dân sự đang tổ chức việc thi hành án có trụ sở”.

Thẩm quyền xét miễn, giảm hình phạt tiền được quy định tại đoạn 3 khoản 1 Điều 269 Bộ luật Tố tụng hình sự: “… Việc giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành các hình phạt khác hoặc giảm thời gian thử thách thuộc thẩm quyền quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực nơi người bị kết án chấp hành hình phạt hoặc chịu thử thách”.

Về trình tự, thủ tục lập hồ sơ, đề nghị miễn giảm cũng đã được quy định tương đối rõ ràng từ Điều 61 đến Điều 64 Luật Thi hành án dân sự; Điều 26 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự. Cụ thể hơn nữa là Thông tư số 10/2010/TTLT-BTP-BTC-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 25/5/2010 của liên Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với các khoản thu nộp ngân sách nhà nước.

Theo quy định tại Điều 2 của Thông tư số 10 thì các khoản thuộc diện được xét miễn, giảm thi hành án bao gồm:

“1. Phần tiền phạt còn lại quy định tại khoản 2 Điều 58 Bộ luật Hình sự.

2. Phần tiền phạt còn lại quy định tại khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự.

3. Các khoản truy thu tiền, tài sản thu lời bất chính, án phí, tịch thu sung quỹ nhà nước và các khoản tiền phạt khác được xác định trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án”.

Trong quy định trên, chúng ta thấy có sự phân biệt giữa khoản tiền phạt được xác định trong bản án và khoản tiền phạt còn lại theo quy định của Bộ luật Hình sự. Điều này có ý nghĩa và mục đích như thế nào, xin phân tích thêm như sau: Theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Hình sự, hình phạt bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung: “1. Hình phạt chính bao gồm: a) Cảnh cáo; b) Phạt tiền… 2. Hình phạt bổ sung bao gồm: … đ) Tịch thu tài sản; e) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính…”. Như vậy, có thể thấy rằng, phạt tiền trong bản án, quyết định về hình sự có thể được áp dụng với vai trò là hình phạt chính và cũng có thể được áp dụng là hình phạt bổ sung. Xuất phát từ việc hình phạt tiền được áp dụng với vai trò nào sẽ dẫn đến sự khác nhau về thẩm quyền đề nghị xét miễn, giảm. Xung quanh vấn đề này, theo chúng tôi, cần làm rõ quy định của một số điều luật có liên quan để thực hiện việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án một cách chính xác, tránh tình trạng các cơ quan có liên quan né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, dẫn đến việc người bị kết án có thể không được hưởng chính sách khoan hồng của Nhà nước chính từ việc làm của các cơ quan công quyền.

Tại Điều 4 Thông tư số 10 quy định về thẩm quyền đề nghị xét miễn, giảm thi hành án như sau:

“1. Trong quá trình tổ chức thi hành án, nếu xét thấy người phải thi hành án có các điều kiện quy định tại Điều 61 Luật Thi hành án dân sự; khoản 2 Điều 58, khoản 3 Điều 76 của Bộ luật Hình sự thì chấp hành viên được giao thi hành vụ việc tiến hành xác minh, lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm thi hành án và báo cáo thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có văn bản đề nghị Toà án có thẩm quyền xét miễn, giảm thi hành án.

Trường hợp, người phải thi hành án có đơn đề nghị xét miễn, giảm thi hành án, thì trong thời hạn mười ngày kể từ ngày nhận được đơn, chấp hành viên được giao thi hành vụ việc phải xác minh, nếu đủ điều kiện để xét miễn, giảm thì lập hồ sơ xét miễn, giảm thi hành án theo quy định. Trường hợp chưa đủ điều kiện xét miễn, giảm thi hành án thì trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn phải thông báo bằng văn bản cho người có đơn đề nghị xét miễn, giảm thi hành án biết.

2. Đối với phần tiền phạt còn lại quy định tại khoản 2 Điều 58 Bộ luật Hình sự; khoản tiền phạt quy định tại khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự, căn cứ hồ sơ thi hành án do cơ quan thi hành án dân sự cung cấp, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp huyện nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc đề nghị Toà án cùng cấp xét miễn, giảm thi hành án…”.

Khoản 2 Điều 58 Bộ luật Hình sự quy định: “…2. Người bị kết án phạt tiền đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục chấp hành được phần hình phạt còn lại hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Toà án có thể quyết định miễn việc chấp hành phần tiền phạt còn lại…”.

Khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự quy định: “…3. Người chưa thành niên bị phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Toà án có thể quyết định giảm hoặc miễn việc chấp hành phần tiền phạt còn lại…”.

Hai quy định nêu trên của Bộ luật Hình sự bản chất cùng quy định về điều kiện để được xét miễn chấp hành hình phạt tiền còn lại, chỉ khác nhau ở đối tượng áp dụng. Nội dung bài viết không đi vào phân tích đối tượng được xét miễn, giảm là người đã thành niên hay chưa thành niên, mà chỉ tập trung làm rõ về thẩm quyền đề nghị miễn, giảm đối với người phải thi hành án khi có đủ các điều kiện đã nêu trong nội dung khoản 2 Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Trên thực tế, có các quan điểm liên quan đến thẩm quyền đề nghị xét miễn, giảm thi hành khoản tiền phạt khác nhau như sau:

Quan điểm thứ nhất, Viện kiểm sát nhân dân chỉ có văn bản đề nghị Toà án nhân dân nơi người bị kết án đang chấp hành hình phạt (tiền) vụ việc xét miễn thi hành đối với khoản tiền phạt còn lại khi hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính trong bản án, quyết định. Nếu trường hợp hình phạt tiền là hình phạt bổ sung, thì cơ quan thi hành án căn cứ tại đoạn 1 khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch số 10 để làm văn bản trực tiếp đề nghị Toà án nhân dân nơi cơ quan thi hành án dân sự đang tổ chức thi hành vụ việc có trụ sở xét miễn.

Quan điểm thứ hai, việc đề nghị miễn thi hành khoản tiền phạt còn lại khi có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 58 và khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự là thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân không phụ thuộc vào việc hình phạt tiền đó là hình phạt chính hay hình phạt bổ sung. Và đối với khoản tiền phạt, cơ quan thi hành án dân sự chỉ có thẩm quyền đề nghị Toà án nhân dân xét miễn, giảm theo quy định của Luật Thi hành án dân sự (khi có các căn cứ tại Điều 61) chứ không được đề nghị xét miễn, giảm theo các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 58, khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự.

Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ nhất, bởi những lý do như sau:

Một là, theo khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch số 10, thì ngoài các điều kiện quy định tại Điều 61 Luật Thi hành án dân sự thì khi có căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 58, khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự, thì thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền đề nghị Toà án nhân dân xét miễn, giảm phần còn lại theo báo cáo đề xuất của chấp hành viên được phân công tổ chức thi hành vụ việc.

Hai là, mặc dù tại khoản 2 Điều 58 và khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự chỉ sử dụng cụm từ “người bị kết án phạt tiền” mà không phân biệt hoặc có hướng dẫn thực hiện rằng khoản tiền phạt đó phải là hình phạt chính, nhưng phân tích một cách có logic nội dung các điều luật nói trên có thể thấy rằng, việc quy định cứng thẩm quyền đề nghị xét miễn, giảm trong trường hợp này thuộc về Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân là hoàn toàn có cơ sở để xác định đó phải là hình phạt chính. Vì trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ về kiểm sát việc thi hành án hình sự, hàng năm, Viện kiểm sát phải tiến hành phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành rà soát, đề nghị xem xét miễn, giảm chấp hành hình phạt đối với những đối tượng có đủ điều kiện. Và chỉ khi hình phạt tiền là hình phạt chính thì Viện kiểm sát mới có thể đề nghị Toà án xem xét miễn, giảm cũng giống như đề nghị miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, giảm thời gian thử thách theo thủ tục tố tụng hình sự. Đây chính là tinh thần quy định tại khoản 2 Điều 58 và khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự. Trong trường hợp hình phạt tiền là hình phạt bổ sung, thì Viện kiểm sát nhân dân có thể yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự đang tổ chức thi hành vụ việc phải lập hồ sơ và trực tiếp đề nghị Toà án nhân dân xét miễn, giảm theo quy định của Luật Thi hành án dân sự và Thông tư liên tịch số 10.

Trong thực tế, việc miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù hoặc giảm thời gian thử thách được thực hiện thường xuyên, một năm ít nhất là 3 lần vào các dịp lễ, tết. Thủ tục và trình tự được hướng dẫn kỹ, nên khi thực hiện không có gì vướng mắc. Đối với các hình phạt bổ sung mà cụ thể là hình phạt tiền (khi không áp dụng là hình phạt chính) thì lại không có hướng dẫn cụ thể. Bằng phép suy diễn mới có thể hiểu rằng, nếu khoản tiền phạt là hình phạt bổ sung và chưa đáp ứng đủ điều kiện để được xét miễn theo quy định tại Điều 61 Luật Thi hành án dân sự, thì phải áp dụng Luật Thi hành án dân sự và Thông tư liên tịch số 10 đồng thời kèm theo điều kiện “đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục chấp hành được phần hình phạt còn lại hoặc lập công lớn”, thì mới có thể được xét miễn toàn bộ nghĩa vụ còn lại. Còn nếu phạt tiền là hình phạt chính trong bản án, quyết định thì chỉ cần có đủ điều kiện quy định duy nhất tại nội dung khoản 2 Điều 58 và khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự là người phải thi hành án đã có thể được xét miễn toàn bộ nghĩa vụ còn lại theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân.

Trước đây, tại Thông tư liên ngành số 05/TT-LN ngày 26/12/1986 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ hướng dẫn về giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành hình phạt và chấm dứt thời hạn chấp hành biện pháp tư pháp có hướng dẫn về miễn hoặc giảm thời hạn chấp hành hình phạt bổ sung theo Bộ luật Hình sự năm 1985 như sau:

– Giảm thời hạn chấp hành hình phạt bổ sung (Điều 50): Người đang chấp hành hình phạt cư trú hoặc quản chế nếu có đủ 2 điều kiện sau đây thì được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại:

+ Đã chấp hành được 1/2 thời hạn hình phạt. Thời hạn chấp hành hình phạt quản chế tính từ ngày người bị kết án trình diện với chính quyền cơ sở là đã chấp hành xong hình phạt tù. Thời hạn chấp hành hình phạt cấm cư trú tính từ ngày người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt tù.

+ Đã có nhiều tiến bộ thể hiện ở việc tích cực lao động, học tập và nghiêm chỉnh chấp hành các chính sách và pháp luật các quy định về cấm cư trú hoặc quản chế.

– Giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt (Điều 51): Theo khoản 1 Điều 51, đối với người bị kết án có lý do đáng được khoan hồng thêm thì có thể được xét giảm sớm hơn hoặc mức cao hơn so với thời gian và mức quy định ở Điều 49 và Điều 50,lý do đáng được khoan hồng thêm là:

+ Người bị kết án đã lập công như tố cáo giúp trại cải tạo hoặc cơ quan điều tra phát hiện tội phạm; có sáng kiến hoặc cải tiến kỹ thuật có giá trị trong sản xuất; cứu được tính mạng của người khác trong tình thế hiểm nghèo; cứu được tài sản của Nhà nước, của tập thể hoặc của công dân khi có bão lụt, hỏa hoạn v.v…

+ Người bị kết án đã quá già yếu hoặc đang mắc bệnh hiểm nghèo. Người quá già yếu là người đã 70 tuổi trở lên hoặc trên 60 tuổi mà thường xuyên ốm yếu. Mắc bệnh hiểm nghèo nghĩa là mắc một trong những bệnh nguy hiểm đến tính mạng như lao nặng, ung thư, bại liệt…

Bộ luật Hình sự quy định thời hạn sớm hơn và mức cao hơn không đáng kể so với thời hạn quy định ở Điều 49 và Điều 50. Tuy nhiên, ít nhất thì người bị kết án cũng phải đã chấp hành được 1/4 thời hạn của hình phạt; các hình phạt được miễn chấp hành bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung.

Đến nay, đối chiếu quy định tại các Điều 49, 50 và 51 Bộ luật Hình sự năm 1985 và các Điều 57, 58, 59 Bộ luật Hình sự năm 2000, sửa đổi năm 2009, về cơ bản không có gì thay đổi, bởi vì: Điều 49 chuyển thành Điều 58; Điều 50 được chuyển thành khoản 5 Điều 57; khoản 2 Điều 51 chuyển thành Điều 57, khoản 1 chuyển thành Điều 59, khoản 3 chuyển thành khoản 4 Điều 58.

Tuy nhiên, đến nay Thông tư liên ngành số 05/TT-LN ngày 26/12/1986 đã hết hiệu lực pháp luật. Do đó, không thể áp dụng tinh thần Thông tư này để cho rằng, khoản tiền phạt được xét miễn theo khoản 2 Điều 58 và khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự bao gồm cả tiền phạt là hình phạt chính và tiền phạt là hình phạt bổ sung.

Như vậy, có thể thấy rằng, hiện nay trong hệ thống các quy định của pháp luật còn nhiều quy định gây khó khăn về cách hiểu, cách thực hiện. Trong quy định về thẩm quyền đề nghị xét miễn, giảm ở trên gây ra tình trạng giữa cơ quan thi hành án dân sự và Viện kiểm sát nhân dân không thống nhất quan điểm trong việc cơ quan nào có thẩm quyền đề nghị Toà án nhân dân xét miễn đối với khoản tiền phạt còn lại khi có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 58, khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự. Để hiểu một cách đúng đắn và áp dụng thống nhất đòi hỏi phải phân tích, đánh giá và đặt trong mối quan hệ với các quy định pháp luật khác. Tuy nhiên, để thực hiện không phải là điều dễ dàng. Qua bài viết này, chúng tôi mong muốn góp phần làm rõ quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền đề nghị xét miễn thi hành đối với khoản tiền phạt còn lại để các cơ quan thi hành án dân sự và Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình thực hiện tránh được những cách hiểu khác nhau, gây ảnh hưởng đến quyền của người bị kết án hoặc người phải thi hành án khi có đủ điều kiện để được hưởng sự khoan hồng của Nhà nước.

Lương Thanh Tùng

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Tăng cường vai trò của các tổ chức phi Nhà nước trong thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam

29/12/2015

1. Khái niệm, vai trò và thực trạng của tổ chức phi Nhà nước trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

Tổ chức phi Nhà nước cho đến nay vẫn chưa có một quan niệm thống nhất chính thức, do chưa được ghi nhận bằng một cơ sở pháp lý cụ thể do Nhà nước ban hành. Trong thời gian gần đây, cùng với sự gia tăng về số lượng, vai trò của các tổ chức phi Nhà nước cũng đang dần được hình thành trong đời sống hàng ngày, đặc biệt là trong việc hỗ trợ và thúc đẩy phát triển trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) ở Việt Nam. Theo cách hiểu chung hiện nay, tổ chức phi Nhà nước nên được hiểu một cách đơn giản nhất đó là những tổ chức hoạt động phi chính trị, tồn tại bên cạnh và hỗ trợ hoạt động quản lý của Nhà nước. Trong số đó, nổi bật lên là các quan điểm về hình thành, tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự – như một đại diện tiêu biểu trong lĩnh vực quản lý phi Nhà nước.

Trong bài viết tựa đề “Một số vấn đề lý luận về xã hội dân sự” năm 2008, GS.TS. Võ Khánh Vinh cho rằng: Xã hội dân sự là một hệ thống các quan chế và thiết chế xã hội đa dạng, phong phú và ở nhiều mức độ có mối liên hệ lẫn nhau không thông qua (không phụ thuộc vào) Nhà nước của cá nhân tự do và có toàn quyền tồn tại và hoạt động trong điều kiện nền kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền[1]. Nếu được thừa nhận chung, các tổ chức xã hội dân sự cần được hiểu như những cánh tay nối dài của Nhà nước, thay mặt cho Nhà nước thực hiện các công tác giám sát, đánh giá và quản lý ở địa phương, cộng đồng nơi quyền lực Nhà nước không thể bao quát được do sự hạn chế về nhân sự hoặc khó khăn trong việc triển khai, thực thi và giám sát các chính sách, pháp luật.

Có ý kiến cho rằng, mục đích hoạt động của các tổ chức phi Nhà nước, tổ chức xã hội dân sự là yếu tố để phân biệt với tổ chức quản lý nhà nước và tổ chức tư nhân khác. Trong khi mục đích của cơ quan nhà nước là quyền lực để quản lý nhà nước, các tổ chức tư nhân khác có mục đích lợi nhuận thì các tổ chức phi Nhà nước như xã hội dân sự không đặt mục tiêu quyền lực hay lợi nhuận lên hàng đầu mà điều các tổ chức này cũng như các thành viên của họ hướng tới là các lợi ích cho xã hội, lợi ích công cộng.

Như vậy, loại hình tổ chức phi Nhà nước như tổ chức xã hội dân sự về bản chất thuộc sự điều chỉnh của pháp luật dân sự là chủ yếu, xuất phát từ bản chất của sự hình thành tự nguyện của nhân dân (hay còn được gọi là “đoàn thể nhân dân”). Và về cơ bản, tổ chức xã hội dân sự cũng chính là một loại tổ chức xã hội, được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005. Tổ chức xã hội dân sự như vậy được hiểu một cách khái quát là tổ chức độc lập tương đối với Nhà nước, hình thành trên cơ sở tự nguyện và các thành viên tham gia hoạt động vì một mục đích chung đó là vì lợi ích của thành viên, lợi ích của người dân và lợi ích công cộng.

Các tổ chức xã hội dân sự hay các tổ chức phi Nhà nước được xem như những phương tiện thực hiện sự liên kết giữa mối quan hệ của Nhà nước với doanh nghiệp và với các tổ chức phi Nhà nước vì mục tiêu phát triển bền vững. Điều này được đúc kết xuất phát từ thực tế hoạt động của các tổ chức phi Nhà nước trong thời gian qua. Về cơ sở pháp lý, có thể thấy, các tổ chức này về cơ bản là tổ chức xã hội, do đó việc thành lập và hoạt động dựa trên cơ sở nguyên tắc hiến định và luật định. Cụ thể tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật dân sự năm 2005 các điều từ Điều 110 đến Điều 115 và Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 quy định các điều khoản liên quan đến hình thức và cơ chế hoạt động của các tổ chức này.

Dù không được cụ thể bằng các quy định pháp luật, nhưng dựa trên mục đích chung khi thành lập và hoạt động của các tổ chức phi Nhà nước là vì lợi ích của thành viên, lợi ích chung của cộng đồng, xã hội. Do đó, trên cơ sở mục đích được ghi nhận chung đó, cũng như dựa trên điều lệ hoạt động của tổ chức, vai trò của các tổ chức này trong việc thúc đẩy CSR cũng được xác lập và thừa nhận chung. Thứ nhất, vai trò của các tổ chức này là mang tính chất đại diện kêu gọi, bảo vệ quyền lợi cho cộng đồng, dân cư cũng như người lao động, người tiêu dùng nói riêng hay những nhóm người yếu thế trong xã hội nói chung. Thứ hai, thay mặt cộng đồng, người dân, các tổ chức này đóng vai trò giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động quản lý của Nhà nước, tiến tới xây dựng xã hội dân sự có chất lượng, thực sự phục vụ lợi ích cho dân cư, cộng đồng. Thứ ba, các tổ chức phi Nhà nước còn có các vai trò khác trong thúc đẩy hoạt động CSR như tư vấn, tuyên truyền và tổ chức tập huấn về quyền và nghĩa vụ trong từng lĩnh vực pháp luật có liên quan đến CSR, đặc biệt là đóng góp ý kiến cho việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về CSR.

Với số lượng các tổ chức phi Nhà nước không nhỏ như hiện nay, điều cần thiết làphải thiết lập được mạng lưới và cách thức tổ chức, hoạt động. Nhân tố chính trong quá trình đảm bảo thực hiện CSR ở Việt Nam hiện nay có thể kể đến đầu tiên là Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI). Tuy nhiên, cho đến nay dường như vai trò và hiệu quả tích cực của VCCI mang lại cho CSR tại Việt Nam vẫn còn mờ nhạt, ngoại trừ một vài khóa tập huấn cũng như việc tổ chức trao giải thưởng CSR Việt Nam hàng năm. Tiếp đến, Mạng lưới Global Compact Việt Nam được thiết lập năm 2007 với mục tiêu “trở thành trung tâm hàng đầu về CSR” với hơn 95 thành viên bao gồm các công ty trong và ngoài nước, các tổ chức phi Chính phủ, các cơ sở đào tạo, Liên Hợp Quốc và các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, đến năm 2010 khi Liên Hợp Quốc ngừng hỗ trợ, hoạt động của Mạng lưới cũng bị đình trệ, và có vẻ như Mạng lưới đã không thể hoàn thành sứ mệnh của mình như mục tiêu đã đặt ra trong việc xây dựng và phát triển CSR ở Việt Nam. Hay vai trò của Văn phòng vì sự phát triển bền vững của Việt Nam, có quan điểm cho rằng, cần phải xem xét để định hướng, xây dựng chức năng của tổ chức này như một cơ quan quản lý phi Nhà nước về CSR, vì thực ra CSR về bản chất hiện nay vẫn được ghi nhận là hoạt động tự nguyện do đó cũng cần phải có những cơ chế quản lý và đảm bảo thực thi bằng các thực thể phi Nhà nước.

Trong các lĩnh vực nội dung cụ thể, số lượng các tổ chức hỗ trợ việc thực hiện bảo vệ quyền của các bên hữu quan cũng đang được tăng cường. Hỗ trợ cho hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được tổ chức theo hệ thống bao gồm: Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam (VINASTAS) và Văn phòng phía nam của VINASTAS(và 48 Hội được tổ chức ở các tỉnh/ thành phố); ngoài ra, còn có các hiệp hội ngành nghề trong từng lĩnh vực cụ thể (ví dụ như Hiệp hội Da giày Việt Nam LEFASO, Hiệp hội Dệt may Việt Nam VITAS, Hiệp hội Doanh nghiệp điện tử Việt Nam VEIA…). Nhìn chung, hiện nay có khoảng 990 tổ chức phi Chính phủ và hiệp hội kinh doanh hoạt động trên toàn lãnh thổ Việt Nam[2], trong đó số lượng hiệp hội ngành nghề của Việt Nam theo thống kê trên website Bộ Công thương là 179 hội, hiệp hội và liên hiệp[3].

Cuối cùng, phải kể đến là các cơ quan, tổ chức định chuẩn cũng đóng góp vai trò không nhỏ trong việc thực hiện CSR của doanh nghiệp. Rõ ràng, những quy tắc xử sự của doanh nghiệp có thể được xây dựng và ban hành bởi các cơ quan, tổ chức khác nhau. Vì vậy, tương ứng với mỗi bộ quy tắc thường sẽ có cơ quan, tổ chức đã ban hành sẽ chịu trách nhiệm trong việc đánh giá tình hình, mức độ thực hiện CSR của doanh nghiệp theo các tiêu chuẩn đã ban hành trong các bộ quy tắc ấy. Ví dụ, đối với tiêu chuẩn SA8000 thì tổ chức SA hoặc cơ quan, tổ chức được ủy quyền sẽ có thẩm quyền trong việc thực hiện việc đánh giá mức độ hoàn thành tiêu chuẩn SA8000 của doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, việc xem xét quy định vai trò của các cơ quan này trong việc hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện CSR cũng chưa được đề cập đến, hầu hết các cơ quan định chuẩn này chỉ thực hiện vai trò của mình theo các mức độ nhỏ, lẻ hay trong các lĩnh vực có yêu cầu về đánh giá CSR của doanh nghiệp. Điều quan trọng là cần phải xây dựng được hệ thống các cơ quan định chuẩn phối kết hợp giúp đánh giá việc thực hiện CSR của doanh nghiệp, đặc biệt đối với việc thực hiện tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội theo ISO 26000 hiện nay.

Đánh giá sơ bộ, có thể thấy Việt Nam đã có một hệ thống các tổ chức phi Nhà nước đủ điều kiện để có thể thúc đẩy thực hiện CSR. Tuy nhiên, cần xác định được nhu cầu thiết lập một mạng lưới tổ chức, hoạt động có hiệu quả hơn, tránh sự rời rạc như hiện nay. Mặt khác, cần phải xem xét nhu cầu thiết lập cũng như vai trò, địa vị pháp lý của các tổ chức phi Nhà nước trong việc hỗ trợ thúc đẩy thực hiện CSR ở nước ta.

2. Tình hình thực hiện vai trò của các tổ chức phi Nhà nước đối với trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp về bản chất là sự cam kết đơn phương của doanh nghiệp trong việc nâng cao chất lượng đời sống cho người lao động cũng như cộng đồng, xã hội vì sự phát triển bền vững. Do đó, để đánh giá được tình hình thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam thì cần đánh giá sự tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến các trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, bên cạnh số lượng không nhiều các doanh nghiệp có chế độ chính sách CSR tốt thì tình trạng doanh nghiệp vi phạm các quy định pháp luật có liên quan đến CSR lại ngày càng tăng lên. Nói cách khác, vi phạm pháp luật dường như vẫn còn là một thực trạng phổ biến của một bộ phận doanh nghiệp Việt Nam.

Đối với lĩnh vực bảo vệ quyền của người lao động, các hành vi vi phạm phổ biến liên quan đến quyền được bảo hiểm xã hội của người lao động, vi phạm quy định liên quan đến chế độ tiền lương, liên quan đến thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi của người lao động và các quyền cơ bản khác của người lao động.

Đối với lĩnh vực bảo vệ quyền của người tiêu dùng, doanh nghiệp vẫn còn vi phạm các quyền cơ bản của người lao động như quyền được an toàn về sức khỏe, quyền được thông tin, quyền được bảo hành sản phẩm, quyền được bảo mật về thông tin cá nhân, hiện tượng độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh vẫn còn nhiều.

Đối với lĩnh vực bảo vệ môi trường, vẫn còn nhiều hành vi vi phạm do doanh nghiệp gây ô nhiễm trầm trọng, đó là các hành vi liên quan đến việc không thực hiện các báo cáo đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường, thực hiện các kế hoạch bảo vệ môi trường, có nhiều hành vi xả thải trực tiếp ra môi trường…

Trong số đó, có các vi phạm điển hình như sự việc Công ty bột ngọt Vê Đan làm ô nhiễm dòng sông Thị Vải[4]; công ty Hào Dương làm ô nhiễm dòng sông Đồng Điền[5] và công ty Nicotek Thanh Thái[6] chôn hóa chất gây ô nhiễm môi trường đất, không khí; nhiều vi phạm khác về an toàn vệ sinh thực phẩm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người dân như vụ việc vật thể lạ trong nước ngọt của công ty Tân Hiệp Phát[7], trong chai sữa Susu, nước uống tăng lực, nước giải khát C2; gần đây nhất là việc thanh tra đột xuất những cơ sở làm bánh trung thu truyền thống, lâu đời được người dân Hà Nội ưa chuộng và các kết luận về quy trình làm bánh không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng. Và còn nhiều nữa những vi phạm về trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp theo các nội dung khác nhau thuộc đối tượng bảo vệ của CSR.

Rõ ràng, mặc dù đã được pháp luật quy định và nhiều doanh nghiệp đã bị xử phạt, tuy nhiên, dường như các chế tài của Nhà nước vẫn chưa đủ tính răn đe nên tình trạng doanh nghiệp vi phạm không những không giảm mà còn có xu hướng gia tăng. Ngoài nguyên nhân do hệ thống pháp luật quy định chưa có hiệu quả, hiệu lực thi hành chưa cao, còn rất nhiều lý do khác, xuất phát từ cả phía doanh nghiệp và phía quản lý nhà nước. Có thể rút gọn lại thành những nguyên nhân chủ yếu như sau: Thứ nhất, do CSR hiện nay vẫn là sự lựa chọn, chưa phải là quy định bắt buộc nên doanh nghiệp không có trách nhiệm ràng buộc việc thực hiện CSR; thứ hai, chất lượng quản lý của Nhà nước chưa cao vì nhiều nguyên nhân như do thiếu cơ sở pháp lý quy định bắt buộc thực hiện CSR, do chưa phân định được rõ ranh giới giữa vi phạm CSR và vi phạm pháp luật nói chung. Điều này dẫn đến sự cần thiết phải xem xét đến vai trò tích cực của các tổ chức phi nhà nước. Rõ ràng, khi quyền lực nhà nước và pháp luật không bao quát được hết, thì vai trò của các tổ chức phi Nhà nước chính là yếu tố giúp phủ kín sự quản lý, giám sát việc thực hiện CSR.

Tuy nhiên thực tế hiện nay có thể thấy, các tổ chức phi Nhà nước ở Việt Nam do đặc điểm hình thành và tổ chức hoạt động còn có một số hạn chế nhất định nên còn cản trở việc phát huy vai trò tích cực của mình đối với việc thực hiện CSR.

Qua nghiên cứu vụ việc của công ty Nicotek Thanh Thái, có thể rút ra một số hạn chế của các tổ chức phi Nhà nước như sau: Vai trò của các tổ chức xã hội chưa thể hiện rõ sự phối kết hợp cả trong công tác quản lý và cả nhiệm vụ đại diện cho quyền lợi của cộng đồng, dân cư. Pháp luật bảo vệ môi trường quy định trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc trong vai trò quản lý và giám sát việc thực hiện bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, trong vụ việc này, rõ ràng bóng dáng và vai trò của Mặt trận Tổ quốc cũng không được thể hiện như mong đợi của người dân. Bên cạnh đó, các tổ chức xã hội về môi trường cũng không thể hiện được sự đoàn kết cùng nhau nhập cuộc, đấu tranh đòi công lý để bảo vệ cộng đồng dân cư đang bị ô nhiễm môi trường đe dọa. Mặc dù đây thực chất là trách nhiệm của họ, tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, trong đó, có lẽ lý do chính là thiếu cơ sở pháp lý về tổ chức hoạt động và nguồn tài chính đã ngăn cản họ tham gia. Sự việc chỉ được xử lý với vai trò của Hội Nông dân đứng ra đại diện khởi kiện, phối kết hợp với hơn 1000 chữ ký của người dân kêu gọi bảo vệ môi trường và sự tấn công mạnh mẽ của truyền thông, báo chí. Rõ ràng, các tổ chức xã hội được xem là hạt nhân của tổ chức xã hội dân sự, đã không làm tròn vai trò của mình, do những hạn chế nhất định, mà quan trọng nhất đó là thiếu cơ sở pháp lý cho việc hoạt động.

Tương tự như vậy, trong vụ việc của Hào Dương, việc phát hiện sai phạm đã diễn ra từ lâu nhưng không có tổ chức xã hội nào thay mặt, hay cộng đồng dân cư đại diện để khởi kiện. Việc xử lý hành chính xuất phát từ báo cáo của Ban điều hành khu công nghiệp Hiệp Phước nơi Hào Dương đặt trụ sở. Hào Dương lúc đó chỉ là bị đơn trong vụ kiện của cơ quan Bảo hiểm xã hội thành phố Hồ Chí Minh khởi kiện yêu cầu trả nợ bảo hiểm xã hội. Còn trong vụ việc của Nicotex Thanh Thái, đã có Hội Nông dân đại diện khởi kiện và sử dụng cả sức mạnh của áp lực của cộng đồng, quần chúng từ hơn 1000 chữ ký yêu cầu xử lý hình sự đối với Nicotex Thanh Thái. Có thể nói, đây là một trong số rất ít lần ra quân hiếm hoi của các tổ chức xã hội để đại diện bảo vệ quyền lợi cho những đối tượng chịu tác động của hoạt động do doanh nghiệp tiến hành. Vì nhiều lý do khác nhau như hạn chế về trình độ chuyên môn, hiểu biết về pháp luật chưa nhiều, thiếu nguồn kinh phí hoạt động, chưa đủ cơ sở pháp lý để hoạt động mà các tổ chức xã hội chưa thực hiện được hiệu quả vai trò tích cực của mình trong CSR. Đặc biệt, trong vụ việc như thế này, có thể thấy sức mạnh của áp lực từ cộng đồng cũng như truyền thông cũng được xem là những nhân tố hoạt động hiệu quả để thúc đẩy CSR. Tuy vậy, như đã phân tích trong vụ việc của Tân Hiệp Phát, ranh giới giữa sức mạnh của cộng đồng và truyền thông trong việc thúc đẩy chất lượng hay làm giảm chất lượng CSR là rất gần. Vì vậy, vai trò nhạc trưởng điều hành vẫn còn chưa có chủ thể nào lấp được chỗ trống đó, có thể là Nhà nước bằng các quy định pháp luật, cũng có thể là các tổ chức phi Nhà nước với các cơ sở pháp lý rõ ràng và hiệu quả.

Tình hình thực hiện CSR trong thời gian qua đã cho thấy được bên cạnh nhiều hạn chế khác nhau thì vai trò của xã hội dân sự và các tổ chức phi Chính phủ chưa thực sự được phát huy cũng là một trong những lý do đem lại chế độ CSR kém chất lượng. Tổ chức phi Nhà nước có đại diện là các tổ chức xã hội, các tổ chức dân sự khác – là đại diện hợp pháp cho các bên yếu thế trong cộng đồng, xã hội để khởi kiện, khiếu nại khi có các vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, việc đại diện để thực hiện các khiếu kiện đó gần như chưa được tiến hành trên thực tế, điều đó đã được thực tế chứng minh. Ngoài ra việc tổ chức tập huấn, tuyên truyền cho doanh nghiệp cũng như các bên hữu quan về các nội dung, vấn đề của CSR cũng chưa được thực hiện đồng bộ. Tập huấn cho doanh nghiệp thì tập trung chủ yếu ở một số ngành nghề nhất định, chưa có sự tham gia của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ngoài ra, việc tập huấn cho các bên hữu quan đặc biệt như người lao động, người tiêu dùng hay dân cư chưa được quan tâm thực hiện. Thực tế, các tổ chức này còn có một số vai trò tạo điều kiện, cơ sở vật chất và hỗ trợ về tài chính cho công cuộc thực hiện và thúc đẩy chất lượng CSR. Tuy nhiên, việc hỗ trợ này cũng chưa được phủ đều và đến được những nơi doanh nghiệp thật sự cần do sự hạn chế trong khâu tổ chức, hợp tác cũng như nguồn tài chính của bên tài trợ.

Những tồn tại nói trên cũng có nguyên nhân nhân nhất định, cụ thể:

Thứ nhất, cơ sở thành lập và hoạt động của các tổ chức này là điều lệ, quy chế hoạt động dựa trên sự thỏa thuận, vì vậy, tính cưỡng chế chưa cao, việc bảo vệ các đối tượng hữu quan vì thế chưa triệt để. Ngoài ra, xã hội dân sự chỉ có thể hiệu quả khi có được cơ sở pháp lý hoạt động, được sự nhất trí của Nhà nước. Tuy nhiên, thuật ngữ này hiện nay còn khá mới mẻ, thậm chí, nếu không tường tận về nó, có thể hiểu ý nghĩa của xã hội dân sự là sự tự do, dân chủ quá mức cho phép. Vì vậy, cần phải làm rõ vai trò của xã hội dân sự cũng như hiệu quả của nó với việc giám sát, thúc đẩy CSR trong giai đoạn hiện nay.

Thứ hai, muốn thành lập và hoạt động thì phải có điều kiện tài chính vì các tổ chức này hưởng cơ chế của pháp nhân nên có tài sản riêng và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó. Thực tế hiện nay nguồn tài chính cấp cho các tổ chức hoạt động này chủ yếu là của các doanh nghiệp, tương tự như nguồn kinh phí hoạt động của tổ chức công đoàn do chủ sử dụng lao động chi trả, nên việc đi ngược lại với quyền lợi của người cấp vốn hoạt động cho mình là điều không mấy khi được lựa chọn.

Thứ ba, một vấn đề nữa đó là nhân sự quản lý các hội, hiệp hội chủ yếu là các đại diện quản lý của Nhà nước, hoặc doanh nghiệp, điều này không có tính khách quan và độc lập về lợi ích. Hơn nữa, nếu nhân sự được lấy từ dân cư hay các bên có liên quan sẽ có sự đồng cảm về cách nhìn của những bên yếu thế nhiều hơn, hoạt động thực sự vì lợi ích đối kháng với việc tìm kiếm lợi nhuận của doanh nghiệp nhiều hơn.

3. Giải pháp tăng cường vai trò của các tổ chức phi Nhà nước trong việc thúc đẩy hoạt động trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

Thứ nhất, để thực hiện tốt vai trò của các tổ chức này, cần phải xây dựng cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của các hiệp hội ngành nghề, các tổ chức phi Chính phủ. Đối với vấn đề này, có thể thấy kinh nghiệm ở một số quốc gia như Anh, Canada và Nhật Bản… vai trò của tổ chức phi Chính phủ giữ vị trí rất quan trọng trong việc giám sát, phản biện xã hội và đóng góp vào quá trình xây dựng chính sách, pháp luật liên quan đến CSR. Hoạt động của các tổ chức phi Chính phủ ở Anh, Pháp đã góp phần thúc đẩy trách nhiệm giải trình xã hội của các doanh nghiệp nhằm cung cấp thông tin minh bạch và công khai cho cộng đồng. Sự hợp tác của các tổ chức phi Chính phủ của Nhật Bản và Canada là nhằm mục đích tư vấn, đóng góp ý kiến cho Chính phủ trong quá trình lập pháp và xây dựng chính sách thông qua các diễn đàn thường xuyên của họ. Việc tư vấn, góp ý cho chính sách công về CSR là một hoạt động hiệu quả nhất mà các tổ chức phi Chính phủ có thể làm được để thúc đẩy CSR tại quốc gia đó.

Các tổ chức phi Nhà nước nếu có sự liên kết tốt sẽ hỗ trợ hiệu quả cho Nhà nước và doanh nghiệp trong việc thực hiện CSR. Để làm được điểu này, cần quy định rõ hơn vai trò và vị trí để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của các tổ chức phi Nhà nước.

Thứ hai, cần phát huy vai trò tích cực của các tổ chức thuộc xã hội dân sự, để một mặt bổ trợ cho vai trò của Nhà nước, mặt khác giám sát các hoạt động của Nhà nước và doanh nghiệp trong hoạt động CSR, nhằm hạn chế các hành vi tư lợi, lạm dụng chức quyền của Nhà nước hay những hành vi đi ngược lại với văn hóa, đạo đức của doanh nghiệp. Điều này dẫn đến sự giám sát của cộng đồng, xã hội có thể được thể hiện thông qua các báo cáo mà doanh nghiệp phải hoàn thành đó là báo cáo về hạch toán xã hội, kiểm toán xã hội và báo cáo xã hội. Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa có khung pháp lý về trách nhiệm xây dựng các loại báo cáo nói trên đối với doanh nghiệp. Có thể tham khảo thêm kinh nghiệm xây dựng báo cáo trách nhiệm xã hội của Pháp hay quy định về trách nhiệm báo cáo trong hướng dẫn của tiêu chuẩn ISO 26000. Việc quy định trách nhiệm cung cấp các loại báo cáo nói trên nhằm mục đích củng cố nhận thức của cả doanh nghiệp lẫn cộng đồng về việc thực hiện CSR, đồng thời cung cấp cơ sở pháp lý cụ thể để đánh giá mức độ, chất lượng thực hiện CSR của doanh nghiệp. Thay mặt các bên hữu quan, các tổ chức phi Nhà nước sẽ là những tổ chức có trách nhiệm kiểm tra và giám sát việc thực hiện CSR thông qua các báo cáo giải trình xã hội này.

Thứ ba, cần xem xét đến cơ chế giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh từ việc không tôn trọng và thực hiện CSR của doanh nghiệp bằng con đường phi Nhà nước, thông qua các thực thể phi Nhà nước. Kinh nghiệm của Chính phủ Canada cho thấy, việc thiết lập Hội đồng tư vấn và giải quyết tranh chấp về CSR do các tổ chức phi Chính phủ quản lý là điều cần thiết để tạo điều kiện hỗ trợ cho các bên hữu quan có quyền và lợi ích bị xâm phạm do việc không thực hiện CSR tham gia vào quy trình giải quyết tranh chấp. Ngoài ra, theo hướng dẫn của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đối với các công ty xuyên quốc gia, việc thiết lập các mạng lưới Điểm liên lạc quốc gia (National contact Point) ở các quốc gia với nhau cũng là biện pháp hỗ trợ để giải quyết những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình thực hiện CSR của doanh nghiệp. Một quy trình giải quyết tranh chấp liên quan đến CSR được xây dựng cụ thể thông qua việc phối kết hợp giữa các tổ chức phi Nhà nước với sự hỗ trợ của Điểm liên lạc quốc gia nhằm liên kết hoạt động với các quốc gia khác sẽ được xem là đầy đủ và cần thiết, đó cũng chính là mô hình nước ta cần xem xét, tránh để việc giải quyết các vấn đề liên quan đến CSR bằng các con đường truyền thống như Tòa án hay tố tụng trọng tài. Ở góc độ này, vai trò của các tổ chức phi Chính phủ lại càng chứng tỏ sự thuyết phục và hợp lý hơn do bản chất của những cam kết đơn phương, tự nguyện của doanh nghiệp về việc thực hiện CSR.

Ngoài ra, sự hỗ trợ của các tổ chức phi Nhà nước còn đòi hỏi nhiều yếu tố khác nhau như sự cam kết hỗ trợ dài hạn, kinh nghiệm và thâm niên hoạt động, yếu tố con người, và đặc biệt là vấn đề tài chính để duy trì hoạt động. Những vấn đề này cũng cần phải được nhanh chóng khắc phục, xử lý để tạo hành lang pháp lý thông thoáng hơn cho các tổ chức phi Nhà nước thực hiện đúng vai trò hỗ trợ và thúc đẩy CSR của mình.

Bên cạnh đó, bản thân các tổ chức phi Nhà nước cũng cần phải hoạt động mạnh hơn nữa để thực hiện vai trò phản biện xã hội, giám sát và đánh giá xã hội cho doanh nghiệp cũng như các bên hữu quan để thúc đẩy việc thực hiện CSR tốt hơn. Hay nói cách khác, ngoài những tác động bên ngoài tạo cơ sở hoạt động, các tổ chức phi Nhà nước cần phải nhận thức và nỗ lực phát huy nội lực của mình trong vai trò là một chủ thể của CSR.

Kết luận

Có thể thấy được rằng, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp từ khi xuất hiện ở Việt Nam cho đến nay vẫn còn là một sự lựa chọn khiên cưỡng của doanh nghiệp, ngoại trừ một số doanh nghiệp đặc biệt do yêu cầu bắt buộc phải cam kết thực hiện các bộ quy tắc xử sự. Nếu nhận thức được đầy đủ vai trò và ý nghĩa của việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, chắc chắn sẽ giúp nâng cao vị thế doanh nghiệp của mình, từ đó đạt được mục đích “vì lợi nhuận”.

Quá trình để đưa trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp từ nhận thức đến áp dụng và thực hiện quy chuẩn, đồng bộ ở các doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay thực tế gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại. Điều đóthực sự đã trì hoãn doanh nghiệp trong việc tôn trọng và thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý đối với quyền của người lao động, người tiêu dùng và cộng đồng, xã hội. Vì vậy, yêu cầu bức thiết nhất hiện nay, đó là cần phải tìm ra các giải pháp, cách thức để khắc phục được những khó khăn này, nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam. Giải pháp tăng cường vai trò của các tổ chức phi Nhà nước nếu được quan tâm thực hiện đúng cách sẽ góp phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Phạm Thị Huyền Sang

Khoa Luật, Đại học Vinh

Tài liệu tham khảo:

1. Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2014), Trách nhiệm xã hội của Doanh nghiệp: kinh nghiệm của Nhật Bản, truy cập tại: http://www.ciem.org.vn/tabid/81/articletype/ArticleView/articleId/1590/default.aspx, ngày 5/6/2014.

2. Nguyen Dinh Tai, Le Thanh Tu (2009), Enhancing corporate social responsibility to employees and consumers by incorporating public-private efforts – the case of Vietnam, APEC Symposium “Enhancing public-private partnership on Corporate social responsibility”, Hanoi, October 2009.

3. Michael Torrance – Norton Rose Fulbright (2014), What you need to know in Canadian government’s corporate social responsibility initiative, truy cập tại: http://www.mining.com/web/what-you-need-to-know-about-the-governments-new-corporate-social-responsibility-initiative/, ngày 16/7/2015.

4. Luu Trong Tuan (2011), CSR lessons from Vedan deeds, Business and Economic Research, vol.1, no.1.

5. GS.TS. Võ Khánh Vinh (2008), Một số vấn đề lý luận về xã hội dân sự, Tạp chí Khoa học xã hội, số 4 -2008.

6. Nigel Twose and Tara Rao (2003), Strengthening Development Country Governments’ Engagement with corporate social responsibility: Conclusions and Recommendations from Technical Assistance in Vietnam, Final report.

7. Halina Ward and Craig Smith (2008), Corporate social responsibility at the crossroads: Futures for the CSR in the UK to 2015, International Institute for Environment and Development.



[1]GS.TS. Võ Khánh Vinh (2008), Một số vấn đề lý luận về xã hội dân sự, Tạp chí Khoa học xã hội, số 4 -2008.

[2]L.Thư(2013), 990 tổ chức phi chính phủ quốc tế hoạt động tại Việt Nam, truy cập tại: http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/151491/990-to-chuc-phi-chinh-phu-quoc-te-hoat-dong-tai-vn.html, truy cập ngày 12/7/2014.

[3]Danh sách các hiệp hội Việt Nam, truy cập tại: http://hiephoi.moit.gov.vn/, truy cập ngày 10/7/2015.

[4]Vụ Vedan “giết” sông Thị Vải: thành công suốt 14 năm, truy cập tại: http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20080916/vu-vedan-giet-song-thi-vai-thanh-cong-suot-14-nam/278743.html, truy cập ngày 12/7/2014.

[5]Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt công ty cổ phần thuộc da Hào Dương hơn 6,39 tỷ đồng, truy cập tại: http://vov.vn/xa-hoi/tp-hcm-xu-phat-cong-ty-co-phan-thuoc-da-hao-duong-hon-639-ty-dong-365491.vov, truy cập ngày 20/4/2015.

[6]Hồng Đức (2013) Vụ chôn trộm hóa chất: công ty có “truyền thống” chôn trộm thuốc trừ sâu, truy cập tại: http://danviet.vn/xa-hoi/vu-chon-thuoc-tru-sau-cty-co-truyen-thong-chon-trom-hoa-chat-164952.html, truy cập ngày 10/8/2014.

[7]Nam Phương (2015),Bộ Y tế thanh tra toàn diện Công ty Tân Hiệp Phát,truy cập tại http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/bo-y-te-thanh-tra-toan-dien-cong-ty-tan-hiep-phat-3185123.html,truy cập ngày 14/4/2015.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Cần xây dựng pháp luật về chuyển đổi giới tính trước khi Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực

26/02/2016

Nhóm người chuyển giới có số lượng không nhiều trong xã hội. Nếu quyền lợi chính đáng của họ không được Nhà nước và xã hội quan tâm một cách đúng mực, dẫn đến việc nhiều người phải sống trong sự kỳ thị của xã hội và chính gia đình họ. Vì vậy, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có nhiều quy định mới, trong đó có quy định về giới tính. Cụ thể, Bộ luật Dân sự năm 2015 có hai điều riêng biệt: (i) Xác định lại giới tính (Điều 36 quy định: Cá nhân có quyền xác định lại giới tính. Việc xác định lại giới tính của một người được thực hiện trong trường hợp giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ giới tính. Cá nhân đã thực hiện việc xác định lại giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có các quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được xác định lại theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan) và (ii) Chuyển đổi giới tính (Điều 37 quy định: Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có các quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan). Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi của những người đồng tính và người chuyển giới sẽ góp phần bảo đảm tốt hơn quyền con người nói chung, đáp ứng nhu cầu của một bộ phận trong xã hội, đồng thời cũng bảo đảm tính thận trọng, phù hợp với thông lệ quốc tế và không trái với truyền thống, phong tục tốt đẹp của dân tộc, thì vấn đề chuyển đổi giới tính cần được quy định cụ thể, rõ ràng và riêng biệt để đưa vào thực hiện.

Việc xác định lại giới tính áp dụng với người sinh ra không rõ ràng là nam hay nữ, còn chuyển đổi giới tính áp dụng với những ai có nhu cầu thay đổi giới tính bẩm sinh của mình. Như vậy, về cơ bản thì những ai có nhu cầu đều có thể thực hiện chuyển đổi giới tính. Do Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định, việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật, nên phải tới khi Quốc hội ban hành luật về chuyển đổi giới tính thì các cá nhân mới được thực hiện.

Trước khi Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành (ngày 01/01/2017) thì vấn đề xác định lại giới tính vẫn phải thực hiện theo Bộ luật Dân sự năm 2005 và Nghị định số 88/2008/NĐ-CP ngày 05/8/2008 của Chính phủ về xác định lại giới tính: Khoản 1 Điều 4 Nghị định số 88/2008/NĐ-CP quy định nghiêm cấm “thực hiện việc chuyển đổi giới tính đối với những người đã hoàn thiện về giới tính”. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã ghi nhận về quyền này (cụ thể tại Điều 37). Vì vậy, cá nhân muốn bảo đảm được quyền lợi của mình khi chuyển đổi giới tính thì những cá nhân đó vẫn phải trong tư thế “chờ đợi”. Trong khi đó, tới ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành mà Quốc hội chưa ban hành luật về chuyển đổi giới tính thì quyền này của nhiều người vẫn bị “treo” để chờ luật và văn bản hướng dẫn mới có thể thực hiện.

Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ quy định khái quát về xác định lại giới tính và chuyển đổi giới tính tại Điều 36, Điều 37, vì vậy cần có các văn bản hướng dẫn thi hành quy định chi tiết để giải quyết những vướng mắc về vấn đề chuyển giới, cụ thể như:

Thứ nhất,nếu chưa phẫu thuật chuyển giới sẽ không thể thay đổi giới tính trên giấy tờ, việc thay đổi giấy tờ hộ tịch chỉ áp dụng với người đã chuyển đổi giới tính. Trong khi đó, trên thế giới việc thay đổi giới tính trên giấy tờ không phụ thuộc vào việc phẫu thuật hay chưa.

Thứ hai, chưa có định nghĩa rõ thế nào thì được công nhận là “đã chuyển đổi giới tính”, toàn phần hay một phần. Ví dụ, một người chỉ phẫu thuật một phần ngực thì người đó có thể thay đổi giới tính trên giấy tờ hay không? Xu hướng trên thế giới là chỉ cần giấy xác nhận tâm lý về giới tính và sử dụng hoóc-môn liên tục ít nhất 12 tháng là có thể thay đổi giới tính trên giấy tờ.

Thứ ba, Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ quy định chung về chế độ hôn nhân gia đình. Các quy định chi tiết nằm ở Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014,theo đó thì hôn nhân cùng giới không còn bất hợp pháp, nhưng cũng chưa được thừa nhận và thực thi. Với quy định mới, “cá nhân đã chuyển đổi giới tính có các quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi”, nghĩa là họ sẽ có các quyền, nghĩa vụ theo đúng như giới tính mới, bao gồm quyền kết hôn với người khác giới. Vấn đề đặt ra là đến bao giờ họ mới được thực hiện quyền này nếu như họ chưa hoàn tất thủ tục chuyển giới cả về giấy tờ và y khoa.

Thứ tư, với quy định “việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật”, đồng nghĩa sẽ phải có một luật về chuyển đổi giới tính ban hành cụ thể hóa các điều kiện, trình tự, thủ tục, hoặc các văn bản hướng dẫn thi hành. Thời điểm chính thức mà người chuyển giới có thể thực hiện quyền của mình sẽ được quy định trong luật chuyên ngành đó.

Để giải quyết được những vấn đề trên cần gấp rút xây dựng pháp luật về chuyển đổi giới tính quy định cụ thể về trình tự, thủ tục cũng như các nguyên tắc phải tuân thủ trong lĩnh vực chuyển giới, hậu quả pháp lý của vấn đề này như thế nào… trước khi Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành (ngày 01/01/2017) nhằm bảo đảm được đầy đủ các quyền của người chuyển giới, tránh tình trạng điều luật quy định cụ thể nhưng chưa thể thực hiện.

Vũ Ngân

Tài liệu tham khảo:

– Tư liệu Nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường iSEE;

– Bộ luật Dân sự năm 2005 và Bộ luật Dân sự năm 2015;

– Nghị định số 88/2008/NĐ-CP ngày 05/8/2008 của Chính phủ về xác định lại giới tính.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bất cập trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo Bộ luật Tố tụng dân sự

22/01/2013

Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung một số điều được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/3/2011, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2012.

Bộ luật này đã góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; giáo dục mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng dân sự vẫn còn một số bất cập nhất định trong việc quy định các biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Thứ nhất: Theo quy định tại khoản 3 Điều 117 Bộ luật Tố tụng dân sự thì: “Đối với trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều 99 của Bộ luật này thì sau khi nhận được đơn yêu cầu cùng với đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo, Chánh án Toà án chỉ định ngay một thẩm phán thụ lý giải quyết đơn yêu cầu. Trong thời hạn 48 giờ kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu, thẩm phán phải xem xét và ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; nếu không chấp nhận yêu cầu, thì thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết”. Như vậy, trong thời hạn 48 giờ để thẩm phán xem xét quyết định có áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hay không, có lẽ là quá dài. Đặc biệt là đối với các yêu cầu về việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp như: Kê biên tài sản đang tranh chấp; cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp; cấm mua bán, tặng cho, trao đổi tài sản; phong toả tài khoản. Sự chậm trễ trong việc ra quyết định áp dụng các biện pháp tạo điều kiện cho đương sự tẩu tán tài sản, lẫn tránh nghĩa vụ thi hành án, đồng nghĩa với việc bản án chỉ có hiệu lực trên giấy, mà không có hiệu lực trong thực tế, vì bị đơn dân sự không còn tài sản để thi hành án.

Mặt khác, khoản 3 Điều 117 Bộ luật Tố tụng dân sự không quy định rõ ràng là trong trường hợp thực sự khẩn cấp Toà án có thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời vào các ngày lễ hoặc ngày nghỉ hay không? Như vậy, về mặt chủ quan hay khách quan, thì đương sự vẫn có điều kiện về mặt thời gian để tẩu tán tài sản, vì theo luật công chứng và theo quy định của một số tổ chức tín dụng, không nhất thiết phải ngừng hoạt động vào những ngày nghỉ lễ.

Thứ hai: Theo quy định tại khoản 1 Điều 120 Bộ luật Tố tụng dân sự thì: “Người yêu cầu Toà án áp dụng một trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 6, 7, 8, 10 và 11 Điều 102 của Bộ luật này phải gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Toà án ấn định nhưng phải tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện để bảo vệ lợi ích của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và ngăn ngừa sự lạm dụng quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có quyền yêu cầu…”.

Theo chúng tôi, vấn đề này không đúng với thực tế, gây khó khăn cho người yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Để làm sáng tỏ sự bất cập của điều luật, chúng tôi xin đưa ra ví dụ như sau:

Bà Nguyễn Thị Hương cho ông Quách Thành Sơn vay số tiền 2.000.000.000 đồng (hai tỷ đồng) không có lãi suất, do ông Sơn không trả cho bà Hương đúng thời gian quy định trong hợp đồng, nên bà Hương khởi kiện ông Sơn theo thủ tục dân sự và đã được Tòa án thụ lý giải quyết. Trong quá trình giải quyết, ông Sơn đã treo bảng bán nhà (là tài sản duy nhất). Do vậy, bà Hương đã có đơn đề nghị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để đảm bảo cho việc thi hành án. Tòa đã xem xét, định giá ngôi nhà của ông Sơn khoảng 3.000.000.000 đồng (ba tỷ đồng). Do vậy, Tòa án đề nghị bà Hương phải nộp 3.000.000.000 đồng (ba tỷ đồng) vào ngân hàng để Tòa mới có cơ sở ra quyết định khẩn cấp tạm thời không cho ông Sơn trao đổi, mua bán, chuyển nhượng đối với ngôi nhà nói trên dưới bất kỳ hình thức nào, nhưng trong thực tế, sau khi cho ông Sơn vay 2.000.000.0000 đồng (hai tỷ đồng), thì bà Hương không còn khoản tiền nào khác. Do vậy, bà Hương không thực hiện được yêu cầu của Tòa án. Kết quả là ông Sơn đã bán ngôi nhà là tài sản duy nhất nhằm tẩu tán tài sản trước khi Tòa án có bản án.

Trên đây, là một số ý kiến từ việc nghiên cứu các quy định về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Bộ luật Tố tụng dân sự, thiết nghĩ, các cơ quan chức năng cần sớm có những nghiên cứu, hướng dẫn cụ thể để các quy định về buộc thực hiện biện pháp bảo đảm khi vận dụng trong thực tiễn có thể đảm bảo được sự công bằng và quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.

Nguyễn Trọng Tài

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Những vướng mắc trong phối hợp thực hiện quy định về “cưỡng chế trả giấy tờ”

22/01/2013

Pháp lệnh Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành trước đây không quy định biện pháp xử lý cụ thể đối với việc trả giấy tờ. Trước khi Luật Thi hành án dân sự năm 2008 có hiệu lực thi hành, người phải thi hành án không tự nguyện giao trả giấy tờ theo án tuyên thì chấp hành viên áp dụng khoản 6 Điều 37, Điều 55 và Điều 56 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 để ra quyết định “cưỡng chế thi hành nghĩa vụ buộc làm công việc nhất định theo bản án, quyết định của Toà án”, nếu người phải thi hành án vẫn không thực hiện thì “chấp hành viên ra quyết định xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật và ấn định cho người phải thi hành án trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày đương sự nhận được quyết định xử phạt hành chính để thực hiện. Nếu họ vẫn không chấm dứt thực hiện công việc không được làm thì chấp hành viên đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự”. Việc sử dụng biện pháp này chỉ được thực hiện khi không còn giải pháp nào khác, vì thực tế việc cưỡng chế buộc thực hiện hành vi theo quy định trên không mang lại hiệu quả đương sự không những không thực hiện quyết định cưỡng chế buộc thực hiện hành vi mà còn không nộp phạt vi phạm hành chính. Quy định về đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự nêu trên thể hiện sự nghiêm khắc, nhưng thực tế không khả thi, vì hành lang pháp lý để truy cứu hình sự đối với hành vi này chưa được hướng dẫn và chưa có sự thống nhất giữa cơ quan công an, Viện kiểm sát, Tòa án. Vì vậy, đến nay mặc dù pháp luật về thi hành án có quy định chế tài này (1) nhưng cũng chưa có trường hợp nào bị xử lý khi không thực hiện quyết định cưỡng chế buộc thực hiện hành vi của chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự.

Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi muốn nêu và phân tích vướng mắc trong phối hợp thi hành án dân sự liên quan đến cưỡng chế trả giấy tờ (theo Điều 116 Luật Thi hành án dân sự năm 2008) khi người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án.

Thực tế việc nhận thế chấp, cầm cố, giao dịch bằng giấy tờ là giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản như: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, giấy đăng ký xe ô tô… diễn ra ngày càng nhiều, các tranh chấp đòi lại giấy tờ đã được các Tòa án giải quyết, dẫn đến việc thời gian qua và hiện nay các cơ quan thi hành án dân sự đã thụ lý, thi hành đối với loại việc này.

Trước thực tế ấy, thì việc có điều luật riêng để điều chỉnh và giải quyết tranh chấp này là điều cần thiết, vì vậy Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã dành Điều 116 để quy định cụ thể, chi tiết cách xử lý loại việc này, theo quy định này thì khi bản án tuyên trả giấy tờ mà người phải thi hành án không tự nguyện thực hiện thì:

“1. Chấp hành viên ra quyết định cưỡng chế buộc người phải thi hành án trả giấy tờ cho người được thi hành án. Trường hợp người phải thi hành án không thực hiện thì chấp hành viên cưỡng chế buộc người đó trả giấy tờ để thi hành án.

Trường hợp xác định người thứ ba đang giữ giấy tờ phải trả thì chấp hành viên yêu cầu người đó giao giấy tờ đang giữ, nếu người thứ ba không tự nguyện giao thì chấp hành viên cưỡng chế buộc người đó giao giấy tờ để thi hành án.

2. Trường hợp giấy tờ không thể thu hồi được nhưng có thể cấp lại thì chấp hành viên yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ra quyết định hủy giấy tờ đó và cấp giấy tờ mới cho người được thi hành án.

Đối với giấy tờ không thể thu hồi và cũng không thể cấp lại được thì thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án và hướng dẫn đương sự khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết”.

Quy định trên rất cụ thể và chặt chẽ, tưởng chừng giải tỏa được khó khăn trong giải quyết việc thi hành án đối với việc cưỡng chế trả giấy tờ. Nhưng quá trình thực hiện đã nảy sinh một số vướng mắc, ví dụ: Quyết định số 85/2011/QĐST-DS ngày 25/7/2011 của Tòa án nhân dân quận T tuyên: “Buộc Công ty A phải giao trả bản chính giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 6321/2003 của Ủy ban nhân quận T cấp ngày 09/6/2003 cho ông B và bà C”, quá trình thi hành án, Công ty A không tự nguyện thi hành án, nên chấp hành viên căn cứ khoản 1 Điều 116 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 ban hành quyết định cưỡng chế thi hành án “buộc Công ty A trả bản chính Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 6321/2003 của Ủy ban nhân quận T cấp ngày 09/6/2003 cho ông B và bà C”, Công ty A vẫn không thực hiện quyết định cưỡng chế trả giấy tờ cho ông B và bà C.

Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 116 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự quận T đã gửi văn bản nêu lý do không thu hồi được giấy tờ trả cho ông B và bà C và đề nghị Uỷ ban nhân dân quận T ra quyết định hủy giấy tờ đó và cấp giấy tờ mới cho ông B, bà C. Nhưng Uỷ ban nhân dân quận T gửi văn bản từ chối việc hủy và cấp mới giấy tờ theo yêu cầu của chấp hành viên với lý do là khoản 2, khoản 3 Điều 42 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 19/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2003 và khoản 2, khoản 3 Điều 25 Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đã quy định: “… Việc thu hồi giấy chứng nhận đã cấp chỉ được thực hiện khi có bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực thi hành…”. Như vậy, cơ quan thi hành án dân sự không thể căn cứ đoạn 1 khoản 2 Điều 116 Luật Thi hành án dân sự để giải quyết việc thi hành án theo yêu cầu của người dân, vấn đề đặt ra như sau:

Thứ nhất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở là loại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản mà Uỷ ban nhân dân cấp huyện (nơi đã cấp cho ông B và bà C) có thể cấp lại nếu ông B và bà C làm mất giấy tờ này (hủy giấy tờ đó và cấp mới cho người được thi hành án) nhưng Luật Đất đai và văn bản hướng dẫn thi hành Luật này quy định: “… Chỉ được thực hiện khi có bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực thi hành…” là chưa có sự thống nhất trong quy định của pháp luật để giải quyết vấn đề phát sinh khi cơ quan thi hành án dân sự không thể áp dụng khoản 1 và đoạn 1 khoản 2 Điều 116 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 để buộc người phải thi hành án giao trả giấy tờ theo án tuyên.

Thứ hai, theo các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai nêu trên, thì có thể hiểu giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong tất cả các trường hợp (kể cả trường hợp thi hành án trên) là giấy tờ không thể thu hồi và cũng không thể cấp lại được. Nếu hiểu theo cách này, thì cơ quan thi hành án dân sự phải căn cứ đoạn 2 khoản 2 Điều 116 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 là “đối với giấy tờ không thể thu hồi và cũng không thể cấp lại được thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án và hướng dẫn đương sự khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết” để trả lại đơn yêu cầu cho đương sự và hướng dẫn người dân khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, như vậy người dân lại phải quay lại điểm khởi đầu, phải làm đơn khởi kiện để kết quả có được Tòa án tuyên “đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản hủy giấy chứng nhận đã cấp và cấp giấy tờ mới cho người được thi hành án”. Người dân có đủ niềm tin nữa hay không khi mà đã có được bản án có hiệu lực pháp luật tuyên “buộc B phải trả lại giấy tờ cho A” nhưng cơ quan thi hành án dân sự vẫn không thực hiện được họ phải đi tìm một bản án khác phù hợp pháp luật hơn?

Thứ ba, Tòa án ban hành bản án, quyết định “buộc B trả lại giấy tờ cho A” có tiếp tục giải quyết lại tranh chấp này hay chuyển tranh chấp này thành loại việc khác để giải quyết? Câu trả lời là “không”, vì Công văn số 141/TANDTC-KHXX ngày 21/9/2011 của Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn:

“1. Các giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở; giấy đăng ký xe mô tô, xe máy; giấy đăng ký xe ô tô…) không phải là “giấy tờ có giá” quy định tại Điều 163 Bộ luật Dân sự năm 2005. Do đó, nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết buộc người chiếm giữ trả lại các giấy tờ này thì Tòa án không thụ lý giải quyết.

2. Trường hợp người khởi kiện chỉ đòi lại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản do người khác đang chiếm giữ (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở; giấy đăng ký xe mô tô, xe máy; giấy đăng ký xe ô tô…) thì Tòa án giải quyết như sau:

a) Trường hợp chưa thụ lý vụ án thì Tòa án áp dụng điểm e khoản 1 Điều 168 Bộ luật Tố tụng dân sự trả lại đơn kiện cho người khởi kiện. Trong văn bản trả lại đơn khởi kiện, Tòa án phải ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện là yêu cầu khởi kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

b) Trường hợp đã thụ lý vụ án thì Tòa án căn cứ vào khoản 2 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, xóa tên vụ án đó trong sổ thụ lý; trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho đương sự; căn cứ khoản 3 Điều 193 Bộ luật Tố tụng dân sự ra quyết định trả lại tiền tạm ứng án phí cho đương sự.

c) Khi trả lại đơn khởi kiện hoặc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự nêu trên, Tòa án phải hướng dẫn cho người khởi kiện có thể yêu cầu cơ quan chức năng giải quyết theo thẩm quyền buộc người chiếm giữ bất hợp pháp giấy tờ nêu trên phải trả lại cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp đối với loại giấy tờ đó. Trong trường hợp giấy tờ bị mất thì chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp đối với loại giấy tờ nêu trên có quyền đề nghị cơ quan chức năng có thẩm quyền cấp lại giấy tờ bị mất theo quy định của pháp luật. (Ví dụ: Yêu cầu cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở bị mất theo quy định tại Điều 24 Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ “về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”). Bên có lỗi trong việc làm mất giấy tờ phải chịu toàn bộ chi phí, lệ phí trong việc cấp lại giấy tờ mới.

Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sau khi nhận được Công văn này cần tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện”.

Hướng dẫn trên của Tòa án nhân dân tối cao, khẳng định việc người dân không thể khởi kiện đòi các loại giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản gắn liền với quyền tài sản của mình, mà nếu có tranh chấp hoặc người dân thực hiện theo hướng dẫn của cơ quan thi hành án dân sự “khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền”, thì Tòa án cũng không thụ lý giải quyết, Tòa án sẽ hướng dẫn người dân yêu cầu cơ quan chức năng giải quyết theo thẩm quyền buộc người chiếm giữ bất hợp pháp giấy tờ nêu trên phải trả lại cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp.

Đến đây, vụ việc gần như bế tắc, việc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền buộc người chiếm giữ bất hợp pháp giấy tờ nêu trên trả lại cho chủ sở hữu theo hướng dẫn của Tòa án là cơ quan nào? Cơ quan công an thì không thể giải quyết, vì đây là giao dịch dân sự không thể hình sự hóa; cơ quan đã cấp giấy tờ đó như Uỷ ban nhân dân cấp quận, cấp tỉnh cũng không thể cấp lại giấy chứng nhận cho chủ sở hữu, vì chủ sở hữu không bị mất giấy tờ và không thuộc trường hợp Tòa án tuyên hủy giấy tờ theo quy định tại khoản 3 Điều 42 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP và khoản 3 Điều 25 Nghị định số 88/2009/NĐ-CP.

Hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao tại Công văn số 141/TANDTC-KHXX ngày 21/9/2011 nêu trên cần xem xét lại, vì ngoài việc không phù hợp giữa Luật Thi hành án dân sự năm 2008 với các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai, vấn đề quan trọng hơn là không đảm bảo được quyền khởi kiện tại Tòa án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong quan hệ dân sự của người dân (2).

Nhiều vụ việc “cưỡng chế trả giấy tờ” đến nay chưa thực hiện được, cho thấy quan điểm của các cơ quan nhà nước có liên quan trong giải quyết việc thi hành án đối với loại việc này cần có sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan có thẩm quyền liên quan.

Một vài kiến nghị:

Tòa án có thẩm quyền thụ lý đơn khởi kiện của người dân về tranh chấp dân sự liên quan đến giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản khi có yêu cầu của người dân, cơ quan, tổ chức. Cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản có trách nhiệm hủy giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản khi cơ quan thi hành án dân sự không thể thu hồi để trả cho chủ sở hữu theo bản án tuyên để cấp giấy tờ mới cho chủ sở hữu.

Luật Thi hành án dân sự năm 2008 có hiệu lực thi hành đã góp phần giải quyết nhiều khó khăn trong công tác tổ chức và nghiệp vụ của cơ quan thi hành án, giúp giải quyết được nhiều hồ sơ từ đơn giản đến phức tạp, thế nhưng hiện vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc. Để việc thi hành án dân sự đạt hiệu quả, không chỉ hoàn thiện một số nội dung bất cập trong Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành; hoàn thiện một số nội dung chưa đồng bộ giữa pháp luật về thi hành án dân sự và các quy định pháp luật khác có liên quan, mà còn rất cần có sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan, tổ chức liên quan.

(1) Điều 118, Điều 119, Điều 120 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định: “… Chấp hành viên đề nghị cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không chấp hành án”.

(2) Xem thêm, PGS. TS. Nguyễn Thị Hoài Phương, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 03(70) 2012, tr.31-35.

ThS. Tê Thị Lệ Duyên

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

 TS. NGUYỄN VĂN NĂM – Khoa Hành chính – Nhà nước, Đại học Luật Hà Nội

1. Hành vi của con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như tâm lí học, xã hội học, luật học… Là hình thức biểu hiện của ý thức con người ra ngoài thế giới khách quan, hành vi là xử sự của con người trong hoàn cảnh, điều kiện cụ thể, “được biểu hiện ra ngoài bằng những lời nói, cử chỉ nhất định hoặc bằng sự thiếu vắng những lời nói, cử chỉ nhất định”. (1) Theo cách hiểu này, hành vi có hai hình thức biểu hiện là hành động hoặc không hành động và khi nói đến hành vi của con người là bao gồm cả hành vi có ý thức và hành vi vô thức.(2)

Trong đời sống xã hội, các cá nhân có hoàn cảnh, điều kiện sống khác nhau với những nhu cầu, lợi ích khác nhau. Để thoả mãn nhu cầu, lợi ích của mình, mỗi chủ thể có những phương pháp, cách thức riêng. Trong cùng điều kiện, hoàn cảnh, các chủ thể khác nhau sẽ có thể có những cách xử sự khác nhau. Thực tế cho thấy có những hành vi vừa đáp ứng nhu cầu, mục đích của chủ thể đồng thời cũng phù hợp với lợi ích của người khác cũng như toàn thể cộng đồng. Ngược lại, có những hành vi chỉ thoả mãn nhu cầu của chủ thể nhất định nhưng lại xâm phạm tới lợi ích của người khác, xâm phạm tới lợi ích chung của cộng đồng, đi ngược với mong muốn chung của xã hội. Điều đó làm cho đời sống xã hội mất đi sự ổn định, trật tự, thậm chí trở nên hỗn loạn.

Sự phân tích trên đây cho thấy trong đời sống cộng đồng, để bảo đảm một cách hài hoà các lợi ích thì hành vi của con người cần phải được điều chỉnh. “Điều chỉnh” theo nghĩa của từ là sửa đổi, sắp xếp lại ít nhiều cho đúng hơn, cân đối hơn, phù hợp hơn. (3) Như vậy, điều chỉnh hành vi con người là hướng dẫn cách xử sự cho chủ thể, làm thay đổi hành vi của họ, làm giảm thiểu những hành vi tiêu cực, tăng cường những hành vi tích cực, làm cho nó trở nên phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của xã hội. Khi đó, các chủ thể không thể xử sự theo ý chí chủ quan của mình mà phải thực hiện theo những quy tắc nhất định của xã hội. Bằng các phương tiện điều chỉnh, xã hội xác định cho các cá nhân, tổ chức những hành vi được thực hiện, không được thực hiện, phải thực hiện… trong những điều kiện hoàn cảnh nhất định. Có nhiều phương tiện để điều chỉnh hành vi của con người như đạo đức, pháp luật, phong tục, tập quán, tín điều tôn giáo, quy định của các cộng đồng dân cư, các tổ chức xã hội… (gọi chung là các quy phạm xã hội), trong đó, đạo đức và pháp luật là những công cụ điều chỉnh quan trọng nhất. Hành vi cụ thể có thể chịu sự tác động bởi một hoặc nhiều quy phạm xã hội khác nhau. Khi xác định hành vi cụ thể nào đó là hành vi pháp luật, hành vi đạo đức hay hành vi tôn giáo… cần phải dựa vào đặc điểm, tính chất của loại quy phạm xã hội điều chỉnh chúng.

2. Sự phân tích trên đây cho thấy hành vi pháp luật là hành vi được pháp luật quy định (điều chỉnh). Sự quy định trước của pháp luật là cơ sở để đánh giá hành vi cụ thể nào đó là hợp pháp hay bất hợp pháp. Tương tự, chúng ta cũng có thể quan niệm rằng hành vi đạo đức là hành vi được điều chỉnh bởi đạo đức. Dựa trên các chuẩn mực đạo đức, chúng ta có thể đánh giá hành vi nào đó là thiện hay ác, thật hay giả, tốt hay xấu, cao quý hay thấp hèn…

SOURCE: TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 12/2011

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử

25/02/2016

Bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực thương mại điện tử là nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan quản lý nhà nước vì đặc điểm của thương mại điện tử cho thấy mức độ ảnh hưởng, sự tác động, tính phổ biến của phương thức thương mại điện tử đối với người tiêu dùng là rất lớn. Bên cạnh đó, do hình thức thương mại điện tử có sự khác biệt so với thương mại truyền thống như sử dụng các phương tiện điện tử, hạ tầng viễn thông, thông tin như hệ thống lưu trữ, máy chủ, chứng thực chữ ký số… vì vậy, để bảo đảm quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để buộc các chủ thể cung cấp hàng hóa, dịch vụ trong thương mại điện tử phải tuân theo các nguyên tắc nhất định hoặc không được thực hiện một số hành vi có thể xâm hại tới quyền và lợi ích của người tiêu dùng. Tuy nhiên, trên thực tế, pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có tính khả thi không cao và công tác tuyên truyền pháp luật cũng chưa đạt được hiệu quả cần thiết để thúc đẩy thương mại điện tử phát triển, bảo vệ được lợi ích chính đáng của người tiêu dùng khi họ tham gia các hoạt động thương mại điện tử.

Trong bài viết “Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử”, tác giả Lê Văn Thiệp đã nêu lên những bất cập của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử và đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử như: Cần xây dựng Luật Thương mại điện tử; bổ sung các chế tài nghiêm khắc hơn để xử lý các vi phạm xâm hại đến quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử; hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực thương mại điện tử…

Kính mời độc giả đón đọc bài viết này trên Số định kỳ 64 trang tháng 2/2016 của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.

Bùi Huyền

 
 
 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Lợi ích, khó khăn và một số kiến nghị cho Việt Nam trong quá trình hài hòa hóa pháp luật ASEAN

03/03/2016

Việt Nam đang ngày càng chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, có hiệu quả với trọng tâm là hội nhập kinh tế. Bên cạnh việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và gần đây vừa ký Hiệp định thương mại tự do (FTA) với Liên minh kinh tế Á – ÂU (EAEU), đặc biệt đang nỗ lực cho việc hội nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và xây dựng Cộng đồng ASEAN[1].

Trong quá trình hội nhập quốc tế nói chung và đặc biệt hội nhập ASEAN nói riêng, hệ thống pháp luật Việt Nam sẽ không tránh khỏi những tác động nhất định về kinh tế, chính trị cũng như pháp luật. Vì vậy, thay đổi và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia cho phù hợp với tiến trình hài hòa hóa pháp luật trong Cộng đồng ASEAN là một yêu cầu tất yếu hiện nay ở Việt Nam. Tuy nhiên, làm thế nào để hài hòa hóa pháp luật trong Cộng đồng ASEAN một cách hiệu quả nhất, vừa phù hợp với hệ thống pháp luật Việt Nam, đồng thời, hài hòa với pháp luật chung của các quốc gia trong khu vực ASEAN đang là ván đề cấp thiết đặt ra.

1. Hài hòa pháp luật và lợi ích với Việt Nam

Hài hòa hóa pháp luật (legel harmonization) là sự kiện các quốc gia thống nhất các mục tiêu chung cần đạt được; sau đó mỗi quốc gia có quyền tự sửa đổi, ban hành pháp luật mới trong nước của mình để đạt được các mục tiêu chung đó[2].

Hài hòa hóa pháp luật là một trong những khuynh hướng quan trọng nhất trong các khuynh hướng phát triển chung của pháp luật trên thế giới. Bởi lẽ, với quá trình mở rộng hợp tác lẫn nhau trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực hợp tác kinh tế thì pháp luật đóng vai trò quan trọng, là yếu tố đảm bảo tính “liên kết ổn định”, vì vậy nhu cầu pháp luật chung ngày càng chiếm ưu thế trong pháp luật quốc tế.

Hài hòa hóa pháp luật giúp cho các quốc gia xích lại gần nhau hơn về mặt pháp luật, góp phần vào việc thúc đẩy các quốc gia trong khu vực hợp tác với nhau về phương diện chính trị, kinh tế một cách dễ dàng hơn, tạo thuận lợi cho sự phát triển chung của các quốc gia trong cùng một cộng đồng.

Nhận thức được tầm quan trọng của việc hài hòa hóa pháp luật, trên thế giới có những khu vực không chỉ thành công với chủ trương hài hòa hóa pháp luật từ rất sớm, đưa lại nhiều giá trị thực tiễn cao, mà đỉnh cao nhất các khu vực này còn đạt được trong tiến trình đàm phán là nhất thể hóa pháp luật, góp phần thành công nhất định trong sự phát triển bền vững chung của từng quốc gia trong cộng đồng khu vực đó. Điển hình như Cộng đồng kinh tế chung Bắc Âu, từ đầu thế kỷ 19 đã bắt đầu chú trọng tới quá trình nhất thể hóa pháp luật, ban hành những văn bản chung cho 5 quốc gia trong Cộng đồng kinh tế chung Bắc Âu, sự hợp tác này chính thức vào năm 1872, khi các nhà luật học Bắc Âu tổ chức đại hội với mục đích hỗ trợ cho việc nhất thể hóa pháp luật. Đại hội đã thông qua về sự cấp thiết của việc nhất thể hóa pháp luật hối phiếu và sau đó hàng loạt các văn bản luật chung đã có hiệu lực trong khu vực như Luật về nhãn hiệu hàng hóa, Luật về Công ty thương mại, Luật Hàng hải… Không chỉ Bắc Âu mà Liên minh châu Âu (European Union – EU) còn được coi là một trong những mô hình tiến bộ nhất có thể tham khảo về hài hòa hóa pháp luật, bởi sự tiến bộ của việc hài hòa hóa được xác định dựa trên sự thỏa hiệp về chính sách giữa các nước thành viên hay những quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động hài hòa hóa được thể hiện bằng ngôn ngữ có thể tạo ra sự linh hoạt hay thỏa hiệp…

Thực tế, 2 trường hợp hài hòa hóa pháp luật trong Cộng đồng chung Bắc Âu và EU không chỉ mang lại thành công về hạn chế xung đột pháp luật trong khu vực mà còn giúp các quốc gia trong cộng đồng chung phát triển bền vững về mọi mặt: Cộng đồng kinh tế chung châu Âu, với sự thành công trong quá trình hài hòa hóa pháp luật đã giúp đạt được mục tiêu: i) Thiết lập một liên minh thuế quan với thuế suất nội địa chung; ii) Kiện toàn các chính sách chung về nông nghiệp, hàng hải, thương mại; iii) Mở rộng cộng đồng tới các nước châu Âu còn lại[3]. Còn đối với Cộng đồng chung Bắc Âu, các quốc gia như: Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy và Phần Lan là các quốc gia đang phát triển tốt nhất thế giới. Các quốc gia này luôn ở phía trên bảng xếp hạng từ cạnh tranh kinh tế, y tế đến chỉ tiêu về hạnh phúc. Mô hình kinh tế tư bản Bắc Âu đã thu hút sự chú ý của thế giới[4]. Để tạo nên sự thành công đó phần lớn nhờ vào sự thành công của quá trình hài hòa hóa pháp luật trong khu vực Cộng đồng chung Bắc Âu. Vì vậy, trong thời gian tới, khi Việt Nam tham gia vào Cộng đồng ASEAN, đồng thời tiến tới xây dựng chính sách hài hòa hóa pháp luật trong khu vực, sẽ đưa đến cho Việt Nam nhiều lợi ích. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, về chính trị, hài hòa hóa pháp luật góp phần vào việc thúc đẩy hợp tác về mặt chính trị giữa các quốc gia trong cộng đồng một cách gần gũi hơn. Bởi, pháp luật là công cụ quản lý của Nhà nước, khi các công cụ quản lý đó có sự tương đồng về mặt nội dung, sẽ quyết định đến một số tương đồng trong chính sách quản lý Nhà nước của cộng đồng đó, hạn chế được xung đột trong các chiến lược quản lý của các quốc gia. Khi không có sự xung đột giữa các chính sách quản lý của mỗi một quốc gia, góp phần tạo một môi trường hợp tác chính trị bền vững và thống nhất.

Thứ hai, về kinh tế, hài hòa hóa pháp luật của Việt Nam với các thành viên ASEAN, đặc biệt trong lĩnh vực pháp luật thương mại, góp phần giúp Việt Nam hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường – một trong ba khâu đột phá chiến lược của Việt Nam hiện nay. Công việc hài hòa này làm gia tăng tính dự đoán trước và làm giảm tính không chắc chắn của việc áp dụng pháp luật Việt Nam. Điều đó đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, giảm chi phí giao dịch, kinh doanh và rủi ro pháp lý ở Việt Nam. Qúa trình này giúp quan hệ kinh tế cũng như quan hệ văn hóa – xã hội và an ninh quốc phòng của Việt Nam ngày càng gắn kết với các thành viên khác trong khu vực ASEAN[5].

Thứ ba,về pháp luật quốc gia: (i) Hài hòa hóa pháp luật giúp cho các quốc gia xích lại gần nhau hơn về pháp luật; (ii) giải quyết được tình trạng xung đột pháp luật giữa các quốc gia; (iii) giúp cho các quốc gia tiếp thu, học hỏi lẫn nhau trong quá trình lập pháp để hoàn thiện hơn pháp luật của quốc gia mình. Đặc biệt, Việt Nam, một quốc gia đang phát triển, pháp luật cũng đang ngày một hoàn thiện để phù hợp với bối cảnh kinh tế, chính trị đang thay đổi hiện nay, nên việc tham gia vào Cộng đồng chung ASEAN và tham gia vào tiến trình hài hóa hóa pháp luật giữa các quốc gia trong khu vực sẽ giúp Việt Nam có một cái nhìn tổng thể giữa bức tranh pháp luật các quốc gia trong khu vực, giúp cho việc tiếp thu có chọn lọc những giá trị pháp lý của những quốc gia có hệ thống pháp luật tiến bộ, tiến tới hoàn thiện hơn pháp luật của quốc gia.

2. Khó khăn đối với Việt Nam trong quá trình hài hòa hóa pháp luật và một số nguyên nhân

Mặc dù, có những thuận lợi cơ bản nêu trên, quá trình hài hòa hóa pháp luật trong ASEANcủa Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn do các nguyên nhân khách quan và chủ quan.

2.1. Nguyên nhân khách quan

Một là, mặc dù các quốc gia ASEAN đang quyết tâm xây dựng một cộng đồng kinh tế chung, đồng thời cũng tiến tới hài hòa hóa pháp luật với chủ trương xây dựng một hệ thống pháp luật chung, thống nhất giữa các quốc gia trong khu vực. Tuy nhiên, một khó khăn đặt ra đối với Cộng đồng ASEAN hiện nay là pháp luật của các quốc gia trong khu vực, từ Hiến Pháp đến văn bản luật đều khác nhau giữa các hệ thống pháp luật. Điều này sẽ gây ra nhiều khó khăn đối với Việt Nam nói riêng và đối với Cộng đồng ASEAN nói chung trong vấn đề xây dựng một luật chung thống nhất. Ví dụ, nghiên cứu về quy định tính hiệu lực trong Hiến pháp của các quốc gia ASEAN cho thấy hoàn toàn không có sự thống nhất giữa các quốc gia trong việc quy định tính hiệu lực của Hiến pháp. Ở góc độ chung, dựa trên sự đáp ứng các tiêu chí đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp (Hiến pháp là đạo luật pháp lý cao nhất; quy định mọi cơ quan nhà nước, cá nhân, tổ chức đều phải tuyệt đối tuân thủ Hiến pháp; quy định bất kỳ văn bản pháp luật nào trái với Hiến pháp đều phải bị bãi bỏ hoặc không có hiệu lực thi hành) có thể chia thành 3 nhóm: Nhóm 1, các bản Hiến pháp trực tiếp quy định tính hiệu lực tối cao của Hiến pháp (bao gồm Hiến pháp Liên Bang Malaysia, Vương quốc Thái Lan và Cộng hòa Singapore); nhóm 2, các bản Hiến pháp gián tiếp quy định tính hiệu lực tối cao của Hiến pháp (bao gồm Hiến pháp các quốc gia như Cộng Hòa Indonesia và Cộng hòa Philippines); nhóm 3, các bản Hiến pháp ghi nhận không rõ ràng về tính hiệu lực của Hiến pháp (bao gồm Hiến pháp các quốc gia: Vương quốc Brunei; Cộng hòa liên bang Myanmar, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và Hiến pháp Vương quốc Campuchia)[6].

Hai là, mặc dù nội bộ ASEAN đã có các cơ chế giải quyết tranh chấp nhưng chưa được áp dụng trên thực tế một cách hiệu quả. Theo quy định tại Hiến chương ASEAN năm 2007, các tổ chức và cơ chế của ASEAN gồm Hội đồng thượng đỉnh ASEAN; Hội đồng điều phối ASEAN (ACC); Hội đồng về cộng đồng ASEAN; các cuộc họp cấp Bộ trưởng ASEAN; Uỷ ban đại diện thường trực của ASEAN; Tổng thư ký và Ban thư ký của ASEAN. Tuy nhiên, cơ chế giải quyết tranh chấp chủ yếu thông qua đối thoại, đàm phán và tham vấn, bên cạnh đó biện pháp hòa giải hoặc trung gian là cơ chế thường được lựa chọn áp dụng. Thực tế, các tổ chức của ASEAN trong vấn đề giải quyết tranh chấp chưa phát huy hiệu qủa vai trò của mình.

Nhìn chung, việc áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN trong thực tế để giải quyết các tranh chấp xảy ra giữa các quốc gia thành viên ngày càng khiêm tốn. Ngoài lý do xuất phát từ truyền thống văn hóa pháp luật Đông Nam Á như đã nói ở trên, thì một trong những nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ bất cập của chính cơ chế giải quyết tranh chấp. Ví dụ như quy trình giải quyết tranh chấp thương mại theo Nghị định thư Viêng Chăn năm 2004 bị đánh giá là chưa đảm bảo tính minh bạch, thời gian quá dài…; ngoài ra, pháp luật về giải quyết tranh chấp của ASEAN luôn tôn trọng tự do thỏa thuận. Vì vậy, việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN không phải là nghĩa vụ và là lựa chọn duy nhất của các quốc gia thành viên[7].

Ba là, Cộng đồng ASEAN chưa có một hệ thống các thiết chế xây dựng các quy định pháp lý cho cộng đồng như Liên minh châu Âu (gồm: Nghị viện EU, Hội đồng EU và Ủy ban EU). Hiện nay, trong 209 công cụ pháp lý ASEAN, có 147 công cụ có hiệu lực, 21 công cụ chưa có hiệu lực, 39 công cụ bị bãi bỏ hoặc hết hiệu lực pháp luật. Trong đó, mỗi hội đồng của Cộng đồng ASEAN và các cơ quan cấp bộ trưởng, các cơ quan giúp việc đang hoàn thiện cơ chế pháp lý theo lĩnh vực mà họ phụ trách[8].

2.2. Nguyên nhân chủ quan

Một là,hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành còn nhiều hạn chế: Thiếu cụ thể, rõ ràng; trùng lặp, chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn nhau; nhiều văn bản thiếu tính khả thi; tính ổn định của hệ thống quy phạm còn yếu. Một thời gian dài công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật chưa được chú trọng, do đó, thực tế có tình trạng khó phân biệt văn bản nào còn hiệu lực, văn bản nào hết hiệu lực. Hệ thống pháp luật như vậy gây khó khăn trong việc hài hòa hóa pháp luật với các quốc gia khác trong khu vực. Đặc biệt, trong chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến 2020 đặt ra yêu cầu “xác định rõ quy trình, cơ chế “nội luật hóa” các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên”, tuy nhiên Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, cũng như dự thảo mới nhất hiện nay của Luật sửa đổi vẫn tồn tại 2 thực trạng: (i) Một số quy định về trình tự, danh nghĩa ký kết điều ước quốc tế chưa phù hợp với Hiến pháp Việt Nam năm 2013; (ii) Vị trí của điều ước quốc tế chưa được thể hiện rõ trong thứ tự các nguồn của hệ thống pháp luật Việt Nam[9].

Hai là, địa vị pháp lý của Việt Nam trên trường quốc tế chưa cao, nên trong quá trình hài hòa hóa pháp luật, chúng ta khó có thể bảo vệ được quan điểm của mình trong việc đưa ra các quan điểm thống nhất các mục tiêu chung cần đạt được với các quốc gia trong khu vực để hoàn thiện pháp luật phù hợp với những mục tiêu chung nói riêng và đạt kết quả cao trong quá trình hài hòa hóa pháp luật trong Cộng đồng ASEAN nói chung. Quan trọng hơn, năng lực cán bộ, chuyên gia nghiên cứu, xây dựng pháp luật còn thiếu và yếu, chưa có đủ điều kiện nghiên cứu đầy đủ, toàn diện các luật mẫu, các chuẩn mực pháp lý chung có liên quan. Điều này dẫn đến thực tế là việc nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế liên quan trong quá trình xây dựng luật, pháp lệnh đa phần mang tính hình thức[10].

Ba là, một trong những khó khăn nhất là vấn đề ý thức chấp hành pháp luật của người dân, của các cơ quan, tổ chức. Có thể nói, phần lớn người dân Việt Nam thường cho rằng “pháp luật” là những mệnh lệnh mà người ta cần phải tuân thủ, là hình phạt, là trừng trị… Một số người lại quan niệm rằng, pháp luật chỉ là để giải quyết các tranh chấp. Người dân thường chỉ quan tâm tới pháp luật khi bản thân họ phải rơi vào tình thế sự việc miễn cưỡng, lợi ích bị xâm hại… dính líu tới pháp luật (kiện cáo, tranh chấp, bị phạt, bị cưỡng chế…)[11]. Với ý thức chấp hành pháp luật như vậy, khó có thể triển khai thực hiện luật chung của khu vực trên thực tế đối với Việt Nam, điều này sẽ là mối lo ngại lớn khi Việt Nam hài hòa với pháp luật các quốc gia trong khu vực.

3. Một số kiến nghị

3.1. Kiến nghị đối với các quốc gia ASEAN

Thứ nhất, các quốc gia trong khu vực cần hoàn thiện pháp luật quốc gia mình theo hướng tương đồng và phù hợp với pháp luật lẫn nhau trong cộng đồng ASEAN, quan trọng nhất là hài hòa về các quy định trong Hiến pháp, vì trong nền dân chủ hiện đại thì Hiến pháp giữ vị trí tối thượng về giá trị pháp lý trong hệ thống pháp luật quốc gia. Hiến pháp phù hợp sẽ giúp các quốc gia dễ dàng sửa đổi luật thực định theo hướng hài hòa pháp luật lẫn nhau.

Thứ hai, cần phát huy hiệu quả, vai trò của các tổ chức ASEAN trong việc giải quyết tranh chấp, đặc biệt là tăng cường hơn nữa vai trò của Ban Thư ký ASEAN. Quan trọng nhất, trong thời gian tới cần thành lập nhóm cấp cao ASEAN để hoạt động sát sao hơn trong Cộng đồng ASEAN. Cần trao chức năng chính của nhóm này chủ yếu về chính trị và yếu tố pháp luật. Nhóm này phải có cuộc họp hàng tháng để trao đổi về vấn đề hợp tác sau năm 2015 của Cộng đồng ASEAN. Bởi yếu tố chính trị giúp các quốc gia trong khu vực hợp tác một cách hòa bình, ổn định. Yếu tố pháp luật là công cụ pháp lý mang đến yếu tố công bằng trong quyền, lợi ích giữa các quốc gia trong cùng một cộng đồng. Duy trì được 2 yếu tố này sẽ giúp chúng ta xây dựng được một cồng đồng chung ASEAN hợp tác, vững mạnh về mọi mặt.

3.2. Kiến nghị đối với Việt Nam

Có thể khẳng định, hài hòa hóa pháp luật trong cộng đồng chung ASEAN không chỉ tạo cơ hội thuận lợi cho các quốc gia trong khu vực xích lại gần nhau hơn về kinh tế, chính trị và pháp luật, mà còn giúp cho các quốc gia thành viên trong cộng đồng chung thể hiện được tiếng nói của mình trước cộng đồng chung để tiến tới xây dựng một đất nước phát triển. Do đó, trong quá trình tiến tới hài hòa hóa pháp luật ASEAN, Việt Nam cần phải tích cực, chủ động hơn trong quá trình này. Cụ thể:

Thứ nhất, muốn quá trình hài hòa hóa pháp luật khu vực ASEAN diễn ra với nhiều thuận lợi và đạt hiệu quả cao, thời gian tới phải đảm bảo các yếu tố đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch theo đúng tinh thần của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Đặc biệt, cần chủ động hoàn thiện pháp luật quốc gia theo tinh thần của pháp luật chung trong cộng đồng. Điều quan trọng nhất, cần chú trọng sửa đổi quy định vị trí của Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế trong vị trí nguồn của hệ thống pháp luật Việt Nam.

Thứ hai, nâng cao năng lực cán bộ, chuyên gia pháp lý am hiểu pháp luật quốc tế. Các cán bộ, chuyên gia pháp lý cần được tạo điều kiện để giao lưu, học hỏi kinh nghiệm trong khu vực một cách hiệu quả.

Thứ ba, phải cố gắng khẳng định được vị trí của Việt Nam về mặt kinh tế, chính trị, xã hội trên trường quốc tế và trong khu vực ASEAN để tạo dựng tiếng nói về pháp luật Việt Nam trong tiến trình đàm phán, xây dựng một luật chung thống nhất trong cộng đồng ASEAN.

Thứ tư,phải chú trọng đến tuyên truyền ý thức của người dân, của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp… trong việc tôn trọng và thực hiện luật chung thống nhất khi quá trình hài hòa hóa pháp luật thành công. Bởi hài hòa hóa pháp luật trên thực tế mới là thước đo đánh giá sự thành công của quá trình hài hòa hóa pháp luật trong khu vực.

ThS. Trần Thị Diệu Hương

Khoa Luật Quốc tế, ĐH Luật Huế



[1] Cộng đồng ASEAN sẽ được chính thức hình thành vào cuối năm 2015. Sự kiện này đặt ra cho các nước thành viên cộng đồng nhiều vấn đề, cả các vấn đề chính trị, kinh tế và pháp lý, trong đó có vấn đề hài hòa hóa pháp luật các nước ASEAN.

[2] Xem thêm: Nguyễn Thanh Tú (2015), Thuận lợi, khó khăn và lợi ích đối với Việt Nam trong tiến trình hài hòa pháp luật của khu vực Asean, Kỷ Yếu Hội thảo quốc tế Hài hòa pháp luật trong xây dựng cộng đồng Asean những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam và kinh nghiệm từ EU, tr.1.

[3]Xem thêm tại: vi.wikipedia.org/wiki/cộng-đồng-kinh-tế-châu-Âu.

[4] Xem thêm tại: www.nhipcauwto.com/Bắc-Âu-mô-hình-kinh-tế-xã-hội-kiểu-mẫu.

[5] Xem thêm: Nguyễn Thanh Tú, (2015), Thuận lợi, khó khăn và lợi ích đối với Việt Nam trong tiến trình hài hòa pháp luật của khu vực Asean, Kỷ Yếu Hội thảo quốc tế Hài hòa pháp luật trong xây dựng cộng đồng Asean những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam và kinh nghiệm từ EU, tr.5.

[6] Xem thêm tại: Trần Thị Diệu Hương (2015), Bàn về Quy định tính hiệu lực của Hiến Pháp Việt Nam trong góc nhìn đối chiếu với Hiến Pháp một số quốc gia Đông Nam Á, Tạp chí Nghề luật, số 6/2015, tr.71

[7] Xem thêm tại: Đỗ Mạnh Hồng, Chương VI (2014), Giáo trình Pháp luật cộng đồng ASEAN, Nxb. Công an nhân dân, tr. 382 và tr. 383.

[8] Xem thêm: Bài viết Cộng đồng theo nguyên tắc pháp quyền (2015), Kỷ yếu Hội thảo quốc tế hài hòa hóa pháp luật trong xây dựng cộng đồng ASEAN những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam và kinh nghiệm từ EU, tr.4 và tr.5.

[9] Xem thêm: Điều 6, LuậtKý kết, Gia nhập và Thực hiện điều ước quốc tế năm 2005.

[10] Xem thêm: Nguyễn Thanh Tú (2015), Thuận lợi, khó khăn và lợi ích với Việt Nam trong tiến trình hài hòa hóa pháp luật của khu vực ASEAN, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế hài hòa pháp luật trong cộng đồng ASEAN những vấn đề đặt ra với Việt Nam và kinh nghiệm từ EU.

[11]Xem thêm: Nguyễn Tất Viễn (2014), Một số biện pháp tăng cường phổ biến giáo dục pháp luật trong tình hình mới, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, số chuyên đề 60 năm Ngành Tư pháp.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bảo lưu quyền sở hữu là một hình thức bảo đảm được pháp luật công nhận song Bộ luật dân sự 2005 chỉ đề cập sơ qua về bảo lưu quyền sở hữu tại điều 461 BLDS 2005. Khi Bộ luật dân sự 2015 được ban hành, bảo lưu quyền sở hữu trở thành hình thức bảo đảm được pháp luật công nhận với những quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn.

1. Khái niệm, đặc điểm bảo lưu quyền sở hữu

1.1. Khái niệm

     Bảo lưu là “Giữ lại ý kiến riêng của mình khác với ý kiến của đa số nghị quyết để tiếp tục làm sang tỏ sự đúng, sai trong những lần sau.Bảo lưu là cách tránh sự áp đặt ý kiến vẫn phải phục tùng tuyệt đối và hành động theo quyết định của tập thể và không được chống lại.”

1.2. Đặc điểm

– Bên mua đã nhận vật nhưng quyền sở hữu vật vẫn thuộc bên bán. Lúc này việc mua bán vẫn chưa làm phát sinh quyền sở hữu với người mua mà chỉ xảy ra khi bên mua đã đồng ý lấy vật và thực hiện xong nghĩa vụ.

– Khi nhận được tài sản mua bán và có quyền đưa tài sản vào khai thác công dụng, còn bên bán vẫn được sở hữu tài sản.

– Theo đó bên bán có thể bán được tài sản, còn bên mua có cơ hội có được tài sản mà mình mong muốn khi họ chưa thể đủ tiền mua ngay.

– Khác với các biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ khác (cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược, kỹ quỹ, bảo lãnh, tín chấp, cầm giữ) bên nhận vật lại là bên có nghĩa vụ phải thực hiện công việc, hành vi  nào đó.

     Việc quy định vấn đề bảo lưu quyền sở hữu nhằm giúp cho bên mua khi nhận được tài sản họ phải sử dụng tài sản một cách có hiệu quả, có ý thức bảo vệ tài sản và có trách nhiệm thanh toán tiền cho bên bán khi đến hạn. Còn bên bán được quyền ưu tiên thanh toán khi mà bên mua có rủi ro, đảm bảo quyền lợi cho bên bán có thể nhận được đầy đủ giá trị tài sản khi giao tài sản cho bên mua.

2.  Quyền và nghĩa vụ của các bên trong bảo lưu quyền sở hữu.

Ngoài quyền và nghĩa vụ chung của các bên trong việc giao kết và thực hiện hợp đồng, tuân thủ các quy định chung về hợp đồng mua bán tài sản, thì các bên trong hợp đồng  co quyền và nghĩa vụ cụ thể sau đây:

2.1. Bên mua

– Có nghĩa vụ thanh toán đúng theo thỏa thuận (trả tiền đủ, đúng hạn). Ngoài ra còn phải chịu rủi ro khi sử dụng sản phẩm.

– Bên mua có quyền sử dụng khai thác công dụng của tài sản là đối tượng mua bán.

 2.2. Bên bán 

– Có quyền đòi lại tài sản đã bán nếu bên mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán (như không trả tiền, trả tiền không đầy đủ, trả tiền không đúng hạn…). bên bán còn quyền sở hữu với tài sản.

      Như vậy, trong biện pháp bảo lưu quyền sở hữu bên bán là bên nhận bảo đảm vì thông qua biện pháp này bên bán được bảo đảm là chắc chắn sẽ bán được hàng cho bên mua, chắc chắn giao dịch mua bán sẽ được diễn ra, sự trì hoãn quyền bảo lưu của bên bán đối với tài sản là đối tượng mua bán để đảm bảo cho người bán bán được hàng và thu được đúng số tiền mà bên mua phải trả. Trong khi đó bên bảo đảm là bên mua, biện pháp bảo lưu quyền sở hữu vẫn làm cho bên bảo đảm tuy chưa chính thức trở thành chủ sở hữu tài sản bảo đảm nhưng được giữ tài sản và khai thác công dụng của tài sản đó, và nghĩa vụ trả tiền thuộc về bên bảo đảm, rủi ro trong thời gian sử dụng đối tượng bảo đảm thuộc về bên bảo đảm.

 3. Phương thức thực hiện:

– Hợp đồng được lập thành văn bản với hình thức được quy định chặt chẽ. Do việc thực hiện nghĩa vụ của các bên không phát sinh và chấm dứt ngay mà đó là cả một quá trình rất phức tạp dễ xảy ra tranh chấp.

– Hợp đồng ngoài quy dịnh về đối tượng, giá cả, thời gian chậm thanh toán, các bên phải thỏa thuận về hậu quả pháp lý khi bên mua vi phạm nghĩa vụ với bên bán.

– Đối tượng thường là những tài sản có đăng ký quyền sở hữu (như ô tô, xe máy, nhà…).

– Bên bán chọn một trong hai phương thức: không tạo điều kiện để bên mua làm thủ tục đăng ký quyền sở hữu hoặc cùng bên mua làm thủ tục đăng ký quyền sở hữu tài sản cho bên mua nhưng bên bán giữ lại bản gốc.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hoàn thiện thẩm quyền của hội đồng giám đốc thẩm theo tinh thần cải cách tư pháp

23/01/2013

1. Vài nét về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam

Giám đốc thẩm nói chung, thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm nói riêng là những thủ tục tố tụng quan trọng trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước ta về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm ở mỗi giai đoạn cho thấy có những sửa đổi, bổ sung, phù hợp với nhận thức, mức độ phát triển xã hội và đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn đặt ra trong từng giai đoạn lịch sử của đất nước.

Trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1980, thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm được quy định tại Thông tư số 02/TT ngày 13/1/1959 của Bộ Tư pháp như sau: Toà án nhân dân tối cao có thẩm quyền: Đối với những vụ án xử oan thì ra quyết định vừa tiêu án vừa tha ngay cho can phạm; đối với những vụ án tội nặng xử nhẹ thì ra quyết định tiêu án và giao cho Toà án nhân dân cấp tỉnh xử lại để tăng mức án lên cho thoả đáng (ví dụ đáng xử 20 năm nhưng chỉ xử 15 năm); đối với những vụ án tội nhẹ xử nặng thì chỉ xử tiêu án trong trường hợp có sự chênh lệch đáng kể, ít nhất là trên 2 năm.

Đến năm 1980, Quốc hội thông qua Hiến pháp mới, năm 1981 Luật Tổ chức Toà án nhân dân và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân cũng được sửa đổi, bổ sung. Theo các văn bản pháp luật này, Uỷ ban thẩm phán và các Toà chuyên trách của Toà án nhân dân tối cao có thẩm quyền: Bác kháng nghị và giữ nguyênbản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan xét xử cũ; huỷ bỏ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, đình chỉ vụ án hoặc chuyển vụ án về điều tra lại hoặc xét xử lại theo trình tự sơ thẩm; huỷ bỏ bản án, quyết định phúc thẩm và mọi quyết định tiếp theo để đưa ra xét xử lại một lần nữa. Riêng Uỷ ban thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao còn có thẩm quyền huỷ bỏ bản án, quyết định giám đốc thẩm của Toà chuyên trách để xét xử lại theo trình tự giám đốc thẩm.

Năm 1988, Quốc hội thông qua Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên của nhà nước ta. Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm được quy định tại Điều 254 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 như sau: Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật; hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án; hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại; sửa bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật.

Năm 2003, Bộ luật Tố tụng hình sự được sửa đổi, bổ sung toàn diện, trong đó có quy định về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm. Theo Điều 285 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng giám đốc thẩm có quyền ra quyết định: Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật; hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án; hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại.

Như vậy, quy định pháp luật tố tụng hình sự về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm đều có sự thay đổi qua các giai đoạn phát triển của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Thời kỳ đầu, Hội đồng giám đốc thẩm chỉ có thẩm quyền huỷ án và đình chỉ vụ án hoặc huỷ án để xét xử lại; đến giai đoạn 1980 – 1988 có thêm thẩm quyền huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại; giai đoạn 1988 – 2003 có thêm thẩm quyền sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; giai đoạn từ 2003 đến nay, Hội đồng giám đốc thẩm không còn thẩm quyền sửa bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật.

2. Vấn đề hoàn thiện thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm

Từ khi có Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị “về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, vấn đề hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự, trong đó có yêu cầu hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm nói chung và vấn đề hoàn thiện thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm nói riêng được các cơ quan lập pháp, tư pháp và các chuyên gia tố tụng hình sự quan tâm. Hiện nay có nhiều quan điểm về vấn đề này.

Quan điểm thứ nhất cho rằng, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành, thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm không chỉ giới hạn ở việc kiểm tra tính hợp pháp của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới khi “có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi điều tra, truy tố hoặc xét xử” (khoản 3 Điều 273) hoặc “khi có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ luật Hình sự” (khoản 4 Điều 273) mà còn kiểm tra tính có căn cứ của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới khi “việc điều tra, xét hỏi tại phiên toà phiến diện hoặc không đầy đủ” (khoản 1 Điều 273) hoặc khi “kết luận của bản án hoặc quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án” (khoản 2 Điều 273). Điều này có nghĩa, Hội đồng giám đốc thẩm không chỉ xem xét vấn đề áp dụng pháp luật (cả pháp luật về nội dung và pháp luật về tố tụng) mà còn xem xét cả vấn đề đánh giá chứng cứ của vụ án. Thực tiễn hoạt động giám đốc thẩm thời gian qua cho thấy nếu áp dụng triệt để thẩm quyền giám đốc thẩm trong việc đánh giá lại chứng cứ của vụ án như hiện nay thì sẽ dẫn đến thủ tục giám đốc thẩm được thực hiện không còn nguyên nghĩa là thủ tục đặc biệt nữa mà gần giống với thủ tục của một cấp xét xử, dẫn đến trong thực tế nhiều người coi giám đốc thẩm là cấp xét xử thứ ba. Đó cũng là một phần lý do tại sao thủ tục giám đốc thẩm của nhiều nước trên thế giới chỉ xem xét vấn đề áp dụng pháp luật mà hầu như không xem xét lại các tình tiết thực tế của vụ án. Từ phân tích trên, quan điểm này cho rằng pháp luật tố tụng hình sự nước ta cần sửa đổi theo hướng bỏ căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 273, cũng như bỏ thẩm quyền huỷ bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Hội đồng giám đốc thẩm khi có căn cứ quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 273.

Quan điểm thứ hai cho rằng, việc sửa đổi thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm cần đặt trọng tâm vào việc xem xét lại việc áp dụng pháp luật, còn việc xem xét vấn đề đánh giá chứng cứ chỉ nên đặt ra trong trường hợp đặc biệt, ví dụ trường hợp “kết luận trong bản án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án”. Do đó, cần bỏ căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm và thẩm quyền huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật trong trường hợp “việc điều tra xét hỏi tại phiên toà phiến diện hoặc không đầy đủ” để điều tra lại hoặc xét xử lại quy định tại khoản 1 Điều 273. Việc bỏ căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm này sẽ có tác dụng kép: Một mặt góp phần tăng cường tính chất đặc biệt của thủ tục giám đốc thẩm; mặt khác là cơ sở để nâng cao vai trò, trách nhiệm xét xử của Toà án, bảo đảm việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa (1)…

Quan điểm thứ ba lại cho rằng, giám đốc thẩm là một hình thức đặc biệt của hoạt động giám đốc xét xử, là việc giám sát xét xử của Toà án cấp trên đối với hoạt động xét xử của Toà án cấp dưới nên đối tượng của giám đốc thẩm được xác định là bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, chỉ có những sai lầm nghiêm trọng về mặt pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án thể hiện trong bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật mới là căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm; còn những vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong giai đoạn điều tra không phải là căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm và không phải là đối tượng xem xét của Toà án cấp giám đốc thẩm. Do đó, cần sửa đổi thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm theo hướng bỏ thẩm quyền huỷ bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại(2).

Chúng tôi cho rằng, việc hoàn thiện thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm thời gian tới phải căn cứ vào những yếu tố sau:

– Phải xuất phát từ quan điểm về cải cách tư pháp được thể hiện trong văn kiện, nghị quyết của Đảng. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị “về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” xác định phương hướng hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp là “bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”. Về nhiệm vụ hoàn thiện pháp luật tố tụng Nghị quyết chỉ rõ: “Từng bước hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của người ra kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật; khắc phục tình trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ”. Như vậy, định hướng hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm theo tinh thần cải cách tư pháp được xác định rõ là: Quy định chặt chẽ căn cứ kháng nghị, khắc phục tình trạng kháng nghị tràn lan và đảm bảo dân chủ, công khai, tôn trọng và bảo vệ quyền con người.

– Phải căn cứ vào thực tiễn thi hành quy định của Bộ luật Tố tụng hình sựnăm 2003 về thủ tục giám đốc thẩm. Qua nghiên cứu 259 quyết định giám đốc thẩm của các Toà án: Toà án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh trong những năm gần đây, chúng tôi rút ra một số nhận xét sau:

+ Hội đồng giám đốc thẩm của các Toà án không chỉ ra ba loại quyết định như quy định tại Điều 285 Bộ luật Tố tụng hình sự mà còn ra những loại quyết định khác, không được quy định trong điều luật. Cụ thể: Huỷ một phần bản án, không đình chỉ, không điều tra, xét xử lại mà để tổng hợp lại hình phạt theo khoản 3 Điều 51 Bộ luật Hình sự; chỉ huỷ quyết định kê biên tài sản. Đặc biệt, một số quyết định giám đốc thẩm lại huỷ án để truy tố, xét xử lại.

+ Những trường hợp huỷ bản án đã có hiệu lực pháp luật để đình chỉ vụ án rất ít khi xảy ra và chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Trong 259 vụ án giám đốc thẩm được khảo sát chỉ có 6 vụ bị huỷ và đình chỉ, trong đó: 2 vụ huỷ và đình chỉ theo khoản 2 Điều 107 Bộ luật Tố tụng hình sự (hành vi không cấu thành tội phạm); 1 vụ bị huỷ và đình chỉ theo khoản 4 Điều 107 (người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án có hiệu lực pháp luật); 1 vụ huỷ do người bị kết án chết; 1 vụ huỷ quyết định về dân sự; 1 vụ huỷ quyết định xử lý vật chứng. Một số vụ kháng nghị yêu cầu huỷ án và đình chỉ vụ án nhưng Hội đồng giám đốc thẩm lại huỷ án để điều tra lại.

+ Số án bị huỷ để điều tra lại chiếm khoảng 1/5 trong tổng số án giám đốc thẩm. Lý do huỷ để điều tra lại phần lớn là: Việc truy tố, xét xử không đúng tội danh dẫn đến đường lối xử lý có sai lầm nghiêm trọng hoặc bỏ lọt người, lọt tội phạm; việc điều tra chưa đầy đủ dẫn đến thiếu căn cứ kết tội; kết luận trong bản án không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án hoặc các chứng cứ mâu thuẫn với nhau dẫn đến sai lầm trong việc áp dụng Bộ luật Hình sự. Điều đáng chú ý là trường hợp truy tố, xét xử sai tội danh, nếu Uỷ ban thẩm phán Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh giám đốc thẩm thì huỷ án để truy tố, xét xử lại; còn nếu Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm thì huỷ án để điều tra lại.

+ Đa số án bị huỷ để xét xử lại (chiếm 2/3). Lý do huỷ là do Toà án cấp dưới xử sai tội danh, trong khi Viện kiểm sát truy tố đúng hoặc áp dụng điều khoản của Bộ luật Hình sự không đúng dẫn đến đường lối xử lý có sai lầm nghiêm trọng; xử phạt người phạm tội quá nhẹ hoặc quá nặng; cho hưởng án treo không có căn cứ; sai lầm trong việc áp dụng biện pháp tư pháp hoặc xử lý vật chứng; vi phạm thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử; cấp phúc thẩm vi phạm quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm.

Xuất phát từ yêu cầu hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm theo tinh thần cải cách tư pháp và thực tiễn hoạt động giám đốc thẩm ở Việt Nam như nêu trên, chúng tôi có một số ý kiến về việc hoàn thiện thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm như sau:

Thứ nhất, chúng tôi không đồng tình với quan điểm bỏ căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm và thẩm quyền huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật trong trường hợp “việc điều tra xét hỏi tại phiên toà phiến diện hoặc không đầy đủ” cũng như quan điểm bỏ thẩm quyền huỷ bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại. Bởi lẽ, trong bối cảnh mô hình tố tụng tư pháp ở nước ta chưa được khẳng định, điều kiện, phương tiện thu thập chứng cứ khi có tội phạm xảy ra của cơ quan và người tiến hành tố tụng còn gặp nhiều khó khăn, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của không ít điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán còn hạn chế thì những sai lầm trong việc thu thập chứng cứ, điều tra xét hỏi làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án chưa thể khắc phục. Vì vậy, quy định về thẩm quyền của của Hội đồng giám đốc thẩm được huỷ bản án đã có hiệu lực pháp luật khi phát hiện việc điều tra xét hỏi còn phiến diện hoặc không đầy đủ vẫn rất cần thiết, bởi điều này sẽ tạo cơ sở pháp lý cho Toà án cấp giám đốc thẩm có thể kiểm tra cả tính có căn cứ và tính hợp pháp của bản án đã có hiệu lực pháp luật, qua đó khắc phục sai lầm của Toà án cấp dưới một cách triệt để. Tuy nhiên, thực tiễn giám đốc thẩm của Toà án các cấp nhiều năm qua cho thấy có những bản án đã có hiệu lực pháp luật bị huỷ không phải do việc điều tra xét hỏi tại phiên toà còn phiến diện hoặc chưa đầy đủ mà do việc điều tra xét hỏi trong giai đoạn điều tra không đầy đủ, toàn diện. Vì vậy, chúng tôi đề nghị sửa đổi căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm quy định tại khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng hình sự theo hướng bỏ ba chữ “tại phiên tòa”. Nội dung của căn cứ này sẽ là: Việc điều tra xét hỏi phiến diện hoặc không đầy đủ. Tương tự như thẩm quyền của Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại khi thấy việc điều tra ở cấp sơ thẩm (chứ không phải chỉ có tại phiên toà) không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể tự bổ sung được.

Thứ hai, về thẩm quyền huỷ bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án (Điều 286 ), chúng tôi cho rằng quy định này có những điểm chưa hợp lý, cần được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung. Trong bảy căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự quy định tại Điều 107 thì căn cứ thứ nhất (không có sự việc phạm tội) và căn cứ thứ hai (hành vi không cấu thành tội phạm) có tính chất khác biệt so với các căn cứđược quy định từ khoản 3 đến khoản 7. Những căn cứ quy định từ khoản 3 đến khoản 7 Điều 107là những căn cứ nặng về mặt khách quan, ít phụ thuộc hoặc không phụ thuộc vào sự xem xét, đánh giá của các cơ quan và người tiến hành tố tụng. Ngược lại, căn cứ được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 107 Bộ luật Tố tụng hình sự là những căn cứ nặng về yếu tố chủ quan, phụ thuộc nhiều vào việc xem xét, đánh giá của cơ quan và người tiến hành tố tụng. Có hành vi Viện kiểm sát cho rằng đủ yếu tố cấu thành tội phạm nhưng Toà án lại cho rằng chưa đủ yếu tố. Trong trường hợp này, nếu ở giai đoạn chuẩn bị xét xử thì thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà có quyền ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Nếu Viện kiểm sát không điều tra bổ sung, vẫn giữ quan điểm là có tội thì Toà án không được đơn phương ra quyết định đình chỉ vụ án mà phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trên cơ sở xét hỏi và tranh luận công khai tại phiên toà, nếu Hội đồng xét xử thấy không có sự việc phạm tội hoặc hành vi của bị cáo không cấu thành tội phạm thì phải ra bản án tuyên bố bị cáo vô tội. Trường hợp bị cáo bị Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố là có tội nhưng Toà án cấp phúc thẩm thấy không có tội thì cũng phải ra bản án tuyên bố bị cáo vô tội. Như vậy, khi một người bị Viện kiểm sát buộc tội, truy tố trước Toà án bằng bản cáo trạng, nếu không có tội thì Toà án phải tuyên bố bị cáo không có tội bằng một bản án; hoặc nếu bản án sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội thì khi không có sự việc phạm tội hay hành vi của bị cáo không cấu thành tội phạm, Toà án cấp phúc thẩm cũng phải ra bản án, huỷ bản án sơ thẩm, tuyên bố bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án (Điều 251). Trong khi đó, Điều 286 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định cả trường hợp nếu Hội đồng giám đốc thẩm thấy không có sự việc phạm tộihoặc hành vi của người bị kết án không cấu thành tội phạm (khoản 1, khoản 2 Điều 107) đều chỉ ra quyết định huỷ bản án đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án. Việc chỉ ra quyết định huỷ bản án đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án, chấm dứt tố tụng đối với vụ án bằng thủ tục đơn giản, mức độ công khai hạn hẹp, không khẳng định sự vô tội của người bị kết án theo chúng tôi là không thoả đáng, không đảm bảo sự công bằng giữa trường hợp huỷ án và đình chỉ vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng làm oan người vô tội với các trường hợp khác, không tạo cơ sở đầy đủ để khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kết án, đồng thời chưa đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.

Từ sự phân tích trên, chúng tôi cho rằng cần sửa đổi, bổ sung Điều 286 Bộ luật Tố tụng hình sự theo hướng khi có căn cứ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 107 thì Hội đồng giám đốc thẩm phải ra quyết định huỷ bản án đã có hiệu lực pháp luật, tuyên bố người bị kết án không phạm tội và đình chỉ vụ án; nếu có một trong những căn cứ quy định tại các điểm 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 107 thì huỷ bản án đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án.

Thứ ba, bỏ căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm và thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm khi phát hiện “Kết luận của bản án hoặc quyết định không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án” quy định tại khoản 2 Điều 273 với những lý do sau:

– Nội dung căn cứ này không rõ ràng, khó áp dụng, có phần “trùng” với căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm, và căn cứ kháng nghị quy định tại khoản 4 Điều 273 . Việc Hội đồng xét xử (sơ thẩm hoặc phúc thẩm) kết luận trong bản án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án có thể do nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Nếu Hội đồng xét xử (thẩm phán, hội thẩm) ra kết luận không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án do nguyên nhân chủ quan thì đó lại là căn cứ kháng nghị tái thẩm “…Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân có kết luận không đúng làm cho vụ án bị xét xử sai” quy định tại khoản 2 Điều 291 Bộ luật Tố tụng hình sự. Nếu do nguyên nhân khách quan (như do vụ án phức tạp, nhiều chứng cứ, giữa các chứng cứ lại có mâu thuẫn hoặc việc điều tra bổ sung không làm rõ được gây khó khăn cho việc đánh giá chứng cứ…), Hội đồng xét xử đã làm hết trách nhiệm nhưng vẫn để xảy ra sai sót trong nhận định, kết luận, dẫn đến sai lầm nghiêm trọng về đường lối xử lý thì đây chính là căn cứ thứ tư của kháng nghị giám đốc thẩm “có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ luật Hình sự”.

– Thực tiễn hoạt động giám đốc thẩm thời gian qua cho thấy, các Toà án cấp giám đốc thẩm chỉ viện dẫn căn cứ này khi đồng thời viện dẫn căn cứ thứ tư “có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ luật Hình sự” để huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới. Ví dụ, Bản án sơ thẩm số 03/2007/HSST ngày 17/01/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương và Bản án hình sự phúc thẩm số 359/2007/HSPT ngày 27/4/2007 của Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đều xét xử Nguyễn Thắng Cần cùng đồng bọn về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ theo khoản 2 Điều 281 Bộ luật Hình sự. Các bản án này đều bị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, đề nghị Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao huỷ để điều tra, truy tố, xét xử lại với lý do hành vi phạm tội của các bị cáo cấu thành tội tham ô tài sản theo Điều 278 Bộ luật Hình sự chứ không phải tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 09/2008/HS-GĐT của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định: “Tuy Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm kết án Nguyễn Thắng Cần và đồng bọn không theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố, tức là chưa đúng với hành vi khách quan của các bị cáo nhưng về đường lối xét xử là đúng; do đó, việc xét xử của Toà án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm là không có sai lầm nghiêm trọng” và quyết định không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, giữ nguyên các bản án sơ thẩm và phúc thẩm nói trên. Như vậy, chỉ khi việc kết luận của bản án không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ luật Hình sự thì Hội đồng giám đốc thẩm mới huỷ bản án đã có hiệu lực pháp luật; nếu kết luận trong bản án tuy không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án nhưng không dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ luật Hình sự thì bản án không bị huỷ.

Ngoài những nội dung trên, chúng tôi đề nghị sửa đổi, bổ sung một số vấn đề sau:

– Thực tiễn hoạt động giám đốc thẩm cho thấy có bản án đã có hiệu lực pháp luật mắc sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự dẫn đến quyết định sai về phần dân sự, ảnh hưởng lớn đến lợi ích của các bên tham gia tố tụng. Do phần dân sự này không liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm và xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo nên khi giám đốc thẩm, Toà án chỉ phải huỷ quyết định của bản án về phần dân sự, không “đụng” đến các quyết định về hình sự. Tuy nhiên, khi so chiếu với nội dung các căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm quy định tại Điều 273 Bộ luật Tố tụng hình sự thì không có căn cứ nào quy định về sai lầm trong việc áp dụng Bộ luật Dân sự. Trong thực tế thì người kháng nghị thường áp dụng khoản 4 Điều 273nhưng việc áp dụng này rõ ràng chỉ là giải pháp tình thế. Vì vậy, để việc quy định thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm được chặt chẽ cần bổ sung cụm từ “Bộ luật Dân sự” vào khoản 4 Điều 273 như sau: “Có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ luật Hình sự và Bộ luật Dân sự”.

– Từ thực tiễn hoạt động giám đốc thẩm cũng cho thấy những trường hợp bản án đã có hiệu lực pháp luật định sai tội danh dẫn đến sai lầm nghiêm trọng về đường lối xử lý, bị kháng nghị, khi giám đốc thẩm có Hội đồng giám đốc thẩm tuyên huỷ bản án đã có hiệu lực pháp luật để điều tra, xét xử lại, có Hội đồng lại tuyên huỷ bản án đã có hiệu lực pháp luật để truy tố, xét xử lại. Đến nay, chưa thấy Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Toà án nhân dân tối cao nhận xét cách tuyên nào đúng, cách nào sai. Nghiên cứu nội dung khoản 3 Điều 285 Bộ luật Tố tụng hình sự thấy không có quy định nào cho phép Hội đồng giám đốc thẩm huỷ bản án đã có hiệu lực pháp luật để truy tố, xét xử lại. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng trong trường hợp chứng cứ của vụ án đã đầy đủ, hợp pháp, chỉ do nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng cấp dưới không đúng nên định sai tội danh dẫn đến sai lầm về đường lối xử lý mà phải huỷ án để điều tra lại là không hợp lý, làm cho việc giải quyết vụ án bị kéo dài; nhưng nếu chỉ huỷ án để xét xử lại cũng không ổn vì nếu không truy tố lại mà cứ xử lại sẽ vi phạm thủ tục tố tụng và nếu xử lại theo tội danh nặng hơn còn vi phạm cả về giới hạn của việc xét xử. Vì vậy, để quy định về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm phù hợp với thực tiễn, chúng tôi đề nghị bổ sung cụm từ “truy tố lại” vào khoản 3 Điều 285 Bộ luật Tố tụng hình sự như sau: “Huỷ bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại, truy tố lại hoặc xét xử lại”.

ThS. Nguyễn Văn Trượng

(1) Nguyễn Ngọc Khánh (2007), “Cần một cách nhìn mới về thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự”. Tạp chí Kiểm sát, số 20/2007, tr. 23.

(2) Phan Thị Thanh Mai (2006), “Giám đốc thẩm trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam”. Luận án Tiến sĩ, tr. 141, 177.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Các nguyên tắc giám định tư pháp là những quan điểm, tư tưởng chủ đạo mà hoạt động giám định tư pháp phải tuân theo. Các nguyên tắc thực hiện giám định tư pháp thể hiện các đặc điểm, bản chất của hoạt động giám định. Các nguyên tắc giám định tư pháp được ghi nhận tại Điều 3 Pháp lệnh giám định tư pháp. Hoạt động giám định phải tuân thủ các nguyên tắc sau: Nguyên tắc tuân thủ pháp luật, tuân theo các quy chuẩn chuyên môn; nguyên tắc trung thực, chính xác, khách quan; nguyên tắc chỉ kết luận về chuyên môn những vấn đề liên quan đến vụ án trong phạm vi được yêu cầu giám định và nguyên tắc chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật.

 



 

1. Nguyên tắc tuân thủ pháp luật, tuân theo các quy chuẩn chuyên môn



 

Giám định tư pháp là việc sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn các vấn đề có liên quan đến vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự do người giám định thực hiện theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nhằm phục vụ cho việc giải quyết các vụ án, vụ việc đó.



 

Giám định tư pháp phải tuân thủ pháp luật bắt nguồn từ nguyên tắc bảo đảm pháp chế trong tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành chính. Thông qua các kết luận chuyên môn, giám định cung cấp những chứng cứ khách quan, khoa học, có ý nghĩa rất quan trọng, đôi khi có còn có tính quyết định đến việc giải quyết đúng đắn vụ án, vụ việc. Vì vậy, hoạt động giám định phải tuân thủ pháp luật.



 

Nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động giám định tư pháp phải được quy định chặt chẽ, cụ thể, khả thi trong Bộ luật Tố tụng Hình sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, Pháp lệnh Giám định tư pháp và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan và các quy định của pháp luật về giám định tư pháp phải được tuân thủ một cách nghiêm chỉnh, thống nhất.



 

Nguyên tắc này đòi hỏi Nhà nước phải quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn, địa vị pháp lý của người giám định, trình tự, thủ tục trưng cầu giám định, thực hiện giám định. Điều đó có nghĩa rằng tiêu chuẩn, địa vị pháp lý của người giám định, trình tự, thủ tục trưng cầu giám định, thực hiện giám định phải được pháp luật quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan.



 

Ở khía cạnh áp dụng pháp luật, nguyên tắc này đòi hỏi những người giám định, các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng khác phải tuân thủ triệt để, nghiêm chỉnh và thống nhất chế định giám định tư pháp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, hành chính và vụ việc dân sự. Trong trường hợp việc giám định tư pháp có vi phạm pháp luật thì các cơ quan có trách nhiệm phải áp dụng các biện pháp để khắc phục vi phạm đó. Điều 60 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định: Người giám định từ chối kết luận giám định mà không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của Bộ luật Hình sự. Người giám định kết luận gian dối thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 307 của Bộ luật Hình sự.



 

Để đảm bảo cho nguyên tắc này, khoản 2 Điều 23 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định: Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này.



 

Tại khoản 1 Điều 21 Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định:Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.



 

Tại Điều 10 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính quy định: Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hành chính theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và của Pháp lệnh này.



 

Bản chất của giám định là sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến vụ án hình sự, hành chính và vụ việc dân sự. Hoạt động giám định mang tính khoa học và chuyên môn chuyên sâu. Các hoạt động chuyên môn rất đa dạng và phong phú, do đó chuyên môn của các tổ chức giám định cũng rất đa dạng. Trong một số lĩnh vực, tổ chức giám định phát triển trở thành hệ thống từ Trung ương xuống địa phương như: Lĩnh vực kỹ thuật hình sự, lĩnh vực pháp y, lĩnh vực pháp y tâm thần. Để giám định mang tính khoa học, đảm bảo chính xác, khách quan, thống nhất, hoạt động giám định phải tuân theo các quy chuẩn chuyên môn. Quy chuẩn chuyên môn về giám định tư pháp là yêu cầu về quy trình kỹ thuật, phương pháp kỹ thuật và phương tiện kỹ thuật phải tuân thủ trong quá trình thực hiện giám định nhằm đảm bảo kết luận giám định được chính xác, khách quan. Tuân thủ quy chuẩn chuyên môn đòi hỏi, các bộ, ngành cần xây dựng những quy chuẩn chuyên môn giám định tư pháp, đồng thời khi tiến hành giám định, người giám định thuộc chuyên ngành nào phải tuân theo quy chuẩn chuyên môn của chuyên ngành đó. Quy chuẩn chuyên môn do các Bộ, ngành ban hành bắt buộc những người giám định thuộc lĩnh vực đó phải tuân theo. Giám định phải được tiến hành theo một trình tự nhất định, không chủ quan, võ đoán, hay bỏ qua một bước, một khâu nào trong quá trình giám định.



 

Tuân theo quy chuẩn chuyên môn là cơ sở để đánh giá kết luận giám định, đảm bảo tính đúng đắn, khách quan để làm căn cứ giải quyết vụ án.



 

2. Nguyên tắc trung thực, chính xác, khách quan



 

Trung thực là một phẩm chất tốt đẹp của con người. Trung thực có thể hiểu là ngay thẳng, thật thà, nói đúng sự thật, không sai lệch sự thật, chân lý, lẽ phải. Giám định cung cấp cho các cơ quan tiến hành tố tụng những chứng cứ mang tính khoa học. Nhiều trường hợp, kết luận giám định có ý nghĩa quyết định đối với vụ án, vụ việc. Nếu hoạt động giám định không trung thực, hoạt động tố tụng có thể sẽ đi chệch hướng. Do đó, trung thực là đòi hỏi khách quan trong quá trình giám định.



 

Trung thực đòi hỏi người giám định có nghĩa vụ thực hiện giám định theo đúng trưng cầu. Người giám định từ chối kết luận giám định mà không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội từ chối kết luận giám định. Nếu người giám định kết luận gian dối thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cung cấp tài liệu sai sự thật.



 

Trung thực cũng đòi hỏi người giám định phải từ chối giám định nếu đã là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến vụ án; là người đại diện hợp pháp, người thân thích của những người đó hoặc của bị can, bị cáo; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc đã tiến hành tố tụng với tư cách là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên toà hoặc đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người phiên dịch trong vụ án đó; có người thân thích đã tham gia tố tụng cùng một vụ án hành chính ở cấp xét xử khác; hoặc có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.



 

Trung thực đòi hỏi người giám định phải kết luận đúng với những gì hiện có, không thêm bớt, võ đoán. Khi thực hiện giám định phải ghi nhận kịp thời, đầy đủ và trung thực toàn bộ quá trình thực hiện giám định bằng văn bản. Văn bản ghi nhận quá trình thực hiện giám định phải được lưu trong hồ sơ giám định. Hồ sơ giám định phải được xuất trình theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đang giải quyết vụ án.



 

Kết luận giám định phần lớn dựa trên các phương pháp, phương tiện khoa học. Chính xác vừa là bản chất vừa là đòi hỏi của kết luận giám định. Nếu kết luận giám định không chính xác, thì kết luận đó không có giá trị.



 

Chính xác đòi hỏi khi tiến hành giám định, người giám định phải sử dụng những phương pháp chính xác, hoàn hảo đã được khoa học và pháp luật thừa nhận. Khi cần thiết, người giám định phải tiến hành thực nghiệm để đối chiếu kết quả giám định.



 

Khách quan đòi hỏi hoạt động giám định phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng sự thật khách quan, thái độ khách quan của người giám định khi thực hiện giám định. Khách quan cũng là thể hiện nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của người tham gia tố tụng trong hoạt động tố tụng hình sự. Sự công tâm, vô tư của người giám định có ý nghĩa rất quan trọng. Điều 14 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định: Người giám định không được tham gia tố tụng, nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình. Nếu không vô tư thì họ phải từ chối hoặc bị thay đổi.



 

Để đảm bảo sự vô tư của người giám định trong hoạt động giám định lại, Điều 159 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 quy định: Giám định lại phải do người giám định khác tiến hành.



 

3. Nguyên tắc chỉ kết luận về chuyên môn những vấn đề liên quan đến vụ án trong phạm vi được yêu cầu giám định



 

Trong tố tụng hình sự, trách nhiệm xác định sự thật khách quan của vụ án hình sự thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Trong tố tụng dân sự, đánh giá chứng cứ thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Còn trong tố tụng hành chính, trách nhiệm thu thập, đánh giá chứng cứ cũng thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Mặt khác, kết luận giám định chỉ là kết luận về chuyên môn những vấn đề liên quan đến vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự. Do đó, khi kết luận giám định, người giám định chỉ kết luận về chuyên môn những vấn đề liên quan đến vụ án trong phạm vi được yêu cầu giám định, không kết luận về mặt pháp lý đối với những vấn đề được trưng cầu giám định, không kết luận hành vi phạm tội và người phạm tội, lỗi của các bên đương sự.



 

Khi trình bày, giải thích kết luận giám định, người giám định chỉ trình bày, giải thích vấn đề chuyên môn được trưng cầu, không trình bày, giải thích thêm các vấn đề khác, hoặc kết luận về hành vi phạm tội và người phạm tội, lỗi của các bên đương sự. Nếu phát sinh những vấn đề khác thuộc chuyên môn của mình, thì phải tiến hành giám định theo thủ tục giám định bổ sung.



 

Nguyên tắc chỉ kết luận về chuyên môn những vấn đề liên quan đến vụ án, vụ việc trong phạm vi được trưng cầu còn thể hiện trong giám định tập thể thuộc nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau thì mỗi người giám định thực hiện phần việc giám định và kết luận vấn đề thuộc chuyên môn của mình.



 

Giám định là hoạt động hỗ trợ tư pháp, do đó người giám định không thể làm thay cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Nguyên tắc này cũng đòi hỏi, cơ quan trưng cầu giám định không trưng cầu giám định những vấn đề pháp lý, hay đặt những câu hỏi mang tính định tội hoặc gỡ tội, xác định lỗi trong quyết định trưng cầu giám định đối với người giám định.



 

4. Nguyên tắc chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về kết luận giám định



 

Giám định là các hoạt động chuyên môn đặc thù mang tính độc lập. Mặt khác, kết luận giám định là nguồn chứng cứ khách quan, đôi khi rất quan trọng có tính quyết định đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án, vụ việc. Nếu kết luận không đúng sự thật, có thể làm cho các hoạt động tố tụng đi chệch hướng, dẫn đến để lọt tội phạm, hoặc làm oan người vô tội, gây thiệt hại quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Chính vì vậy, khi tham gia tố tụng, người giám định phải chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về kết luận giám định. Nguyên tắc trách nhiệm cá nhân đề cao trách nhiệm của người giám định khi tham gia tố tụng.



 

Nguyên tắc chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về kết luận giám định thể hiện việc người giám định có quyền độc lập đưa ra kết luận của mình. Đối với trường hợp giám định cá nhân, thì người giám định phải chịu trách nhiệm trước kết luận giám định của mình. Trong trường hợp kết luận tập thể về một lĩnh vực chuyên môn thì những người giám định cùng chịu trách nhiệm về kết luận đó. Trong trường hợp có ý kiến khác nhau, thì mỗi người giám định ghi riêng ý kiến của mình vào bản kết luận giám định chung và chịu trách nhiệm về các ý kiến đó.



 

Trong trường hợp giám định tập thể thuộc nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau thì mỗi người thực hiện giám định phần việc thuộc lĩnh vực chuyên môn của mình và chịu trách nhiệm về kết luận giám định của mình.



 

Nếu người giám định cố ý đưa ra kết luận giám định sai sự thật gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức liên quan, thì người giám định phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra và phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cung cấp tài liệu sai sự thật theo Điều 307 của Bộ luật Hình sự.

Hải Nam

 
 
 
 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Sáng ngày 27-11, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII, các đại biểu Quốc hội đã thông qua Bộ luật Hình sự (sửa đổi) với tỷ lệ tán thành hơn 84%. Bộ luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2016. Bộ luật hình sự 2015 có một số điểm mới nổi bật sau:

Thêm quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân

Bộ luật Hình sự (BLHS) 2015 quy định về tội phạm và hình phạt, gồm 26 chương, 426 điều.

Về TNHS của pháp nhân bổ sung quy định TNHS và phạm vi chịu TNHS của pháp nhân.Cụ thể, sửa đổi quy định về cơ sở TNHS (Điều 2), về khái niệm tội phạm (Điều 8); quy định các hình phạt đối với pháp nhân (Điều 33); điều kiện chịu TNHS của pháp nhân (Điều 75).Điều 76 dự thảo quy định 31 tội danh mà pháp nhân bị xử lý hình sự thuộc Chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (Chương XVIII) và Chương các tội phạm về môi trường (Chương XIX).

Bổ sung thêm tội danh đối với người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi

Bổ sung thêm các tội danh mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS gồm: Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142); Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144); Tội mua bán người (Điều 150); Tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151); Tội tổ chức đua xe trái phép (Điều 265)

Bỏ hình phạt tử hình đối với bảy tội danh

Cụ thể là: Tội cướp tài sản; Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm; Tội tàng trữ trái phép chất ma túy; Tội chiếm đoạt chất ma túy; Tội phá huỷ công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; Tội chống mệnh lệnh; Tội đầu hàng địch.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com


Qua nghiên cứu Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh số 336 ra ngày 10/12/2010 có nêu trường hợp bà Phạm Thị H., ngụ tại quận 10 (TP. Hồ Chí Minh) lỡ mua phải căn nhà của bà C là người phải thi hành án, tại Bà Rịa – Vũng Tàu. Trong thời gian thông báo tự nguyện thi hành án, người phải thi hành án đã bán nhà (hoặc tài sản cho người khác) và hoàn tất thủ tục, được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà. Đây là trường hợp có thể xảy ra nhiều trong thực tiễn, nếu không có quy định thống nhất thì sẽ làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên mua. Tôi xin nêu một số bất cập trong giải quyết các giao dịch liên quan đến tài sản của người phải thi hành án để độc giả cùng tham khảo.



Thông tư Liên tịch số 12/TTLT-BTP-VKSNDTC ngày 26/12/2001; và tại khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thủ tục thi hành án dân sự quy định về kê biên, xử lý tài sản để thi hành án như sau: “Kể từ thời điểm có bản án, quyết định sơ thẩm mà người phải thi hành án bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố tài sản của mình cho người khác, không thừa nhận tài sản là của mình mà không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên để thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu có tranh chấp thì Chấp hành viên hướng dẫn đương sự thực hiện việc khởi kiện tại Toà án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo mà không có người khởi kiện thì Cơ quan thi hành án xử lý tài sản để thi hành án.



Kể từ thời điểm có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc trong trường hợp đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án mà tài sản bị bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố cho người khác, người phải thi hành án không thừa nhận tài sản là của mình thì bị kê biên, xử lý để thi hành án”.



1. Tài sản giao dịch của người phải thi hành án là bất động sản



Tài sản giao dịch của người phải thi hành án là nhà ở. Chẳng hạn, trường hợp bà Minh bị Toà án thành phố H. tuyên phải bồi thường 80 triệu đồng cho bà Sơn (bản án sơ thẩm số 17/DSST có hiệu lực pháp luật từ ngày 15/9/2010). Trong quá trình Toà án đang giải quyết vụ án bồi thường thiệt hại bà Minh rao bán nhà nên vợ chồng ông Hùng đã đặt cọc 50 triệu đồng. Hợp đồng mua bán nhà ở được công chứng vào ngày 22/9/2010, các bên đã giao nhà ở, giấy tờ nhà và giao đủ tiền cho nhau. Như vậy, ông Hùng đã mua phải căn nhà của người phải thi hành án nên cơ quan có thẩm quyền áp dụng Thông tư liên tịch để giải quyết? Các quy định của pháp luật về vấn đề này như thế nào?



Theo quy định tại khoản 1 Điều 91 Luật nhà ở năm 2005 về điều kiện của nhà ở tham gia giao dịch: “Trong các giao dịch về mua bán, tặng cho, đổi, thừa kế, thế chấp, cho mượn, cho ở nhờ, uỷ quyền quản lý nhà ở thì nhà ở phải có các điều kiện sau đây: a) Có giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với nhà ở theo quy định của pháp luật; b) Không có tranh chấp về quyền sở hữu; c) Không bị kê biên để thi hành án hoặc để chấp hành quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Như vậy, tính từ thời điểm “có quyết định kê biên của Cơ quan thi hành án, chấp hành quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự” thì mới không được phép giao dịch về nhà ở. Thông tư Liên tịch số 14 quy định mở rộng hơn “kể từ thời điểm có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật” mặc dù trong Thông tư có thuật ngữ “trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” nhưng cũng rất dễ bị lạm dụng nếu không hiểu biết pháp luật. Theo quy định của Thông tư liên tịch thì mọi người dân khi tham gia giao dịch về tài sản với một chủ thể nào đó thay vì phải tìm hiểu xem “tài sản đó có đủ điều kiện để giao dịch hay không” thì phải tìm hiểu chủ sở hữu có bị Toà án nào kết án bằng bản án có hiệu lực mà chưa thi hành không? Nếu không lỡ mua phải nhà của người đang phải thi hành án thì hết sức phiền toái. Đây là điều mà khó có thể thực hiện được trong thực tế bởi lẽ khi mua ngôi nhà ở này ông Hùngkhông bắt buộc phải có nghĩa vụ tìm hiểu bà Minh đang phải chấp hành bản án liên quan đến tài sản nào hay không (trừ khi có quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định kê biên… gửi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để họ ngăn chặn giao dịch đó).



Tài sản giao dịch của người phải thi hành án là quyền sử dụng đất, tài sản trên đất. Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005, thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với bất động sản kể từ thời điểm đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền. Chẳng hạn, trường hợp bà Hoàchuyển nhượng cho bà Bình diện tích đất 500 m2 với giá 2 tỷ đồng, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được công chứng ngày 15/8/2010. Theo thoả thuận trong hợp đồng, bà Bình có nghĩa vụ làm thủ tục đăng ký và thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật. Toàn bộ hồ sơ hợp lệ về đăng ký quyền sử dụng đất đã được được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất nhận, tuy nhiên sau đó Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất đã thông báo không thể đăng ký được do bà Hoà là người phải thi hành bản án dân sự có hiệu lực ngày 20/8/2010 phải trả nợ cho một số người là 1,2 tỷ đồng. Trong suốt quá trình chuyển nhượng các cơ quan có thẩm quyền đều xác định đất không có tranh chấp, thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà Hoà và đủ điều kiện chuyển nhượng. Theo hướng dẫn, bà Bình khởi kiện ra Toà án thì Toà án xác định quyền sử dụng đất hợp pháp thuộc quyền sử dụng của bà Hoà (chưa được đăng ký quyền sử dụng). Trong thực tế, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc tài sản trên đất đã có hiệu lực pháp luật nhưng thời điểm đó bên chuyển nhượng lại bị bản án buộc phải thực hiện nghĩa vụ tài sản (chưa có hiệu lực pháp luật), bên nhận chuyển nhượng hoàn toàn ngay tình nhưng các cơ quan có thẩm quyền lại căn cứ vào Thông tư liên tịch từ chối làm thủ tục đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc từ chối thu lệ phí trước bạ là đúng hay sai? Theo chúng tôi, cơ quan có thẩm quyền khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ phải tiến hành các thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với bất động sản để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia giao dịch ngay tình. Trường hợp tài sản bị kê biên bán đấu giá thì dù người ngay tình có được giải quyết quyền lợi cũng chỉ là trên giấy vì người phải thi hành án không còn tài sản. Bà Hoà có thể khởi kiện về hành vi hành chính (không thực hiện của cơ quan hành chính trong khi làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất của mình làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp).



2. Mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự và tổ chức hành nghề công chứng



Trước đây về tổ chức của phòng công chứng và cơ quan thi hành án đều thuộc sở tư pháp và điều hành các hoạt động giống như cơ quan nhà nước nên bị ràng buộc bởinguyên tắc mệnh lệnh, phục tùng. Hiện nay, tổ chức hành nghề công chứng đã được xã hội hoá, cạnh tranh và hoạt động khá độc lập theo quy định của Luật công chứng nên Công chứng viên khi thực hiện phải căn cứ vào luật (cho phép hay không cho phép). Cơ quan thi hành án dân sự và tổ chức hành nghề công chứng hoạt động chỉ tuân theo pháp luật. Chẳng hạn, trường hợp đã có bản án của Toà án huyện P, tỉnh H. có hiệu lực pháp luật buộc bà Chanh phải trả 500 triệu đồng theo hợp đồng vay tài sản, Chấp hành viên ra thông báo tự nguyện thi hành án và gửi Phòng công chứng nơi có bất động sản. Công chứng viên thuộc Văn phòng Công chứng Hà Thành vẫn công chứng hợp đồng mua bán nhà ở với lý do tài sản bán là nhà ở đủ điều kiện theo quy định của Luật nhà ở và văn bản thông báo của cơ quan thi hành án (không phải quyết định kê biên), Toà án không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Khi hợp đồng đã được công chứng thì thời điểm chuyển quyền sở hữu căn cứ theo Luật nhà ở và Nghị định số 71/2010/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật nhà ở (thay thế Nghị định 90) về thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở đối với các giao dịch về mua bán, tặng cho, đổi, thuê mua, thừa kế nhà ở “Thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở đối với trường hợp mua bán nhà ở được tính từ ngày hợp đồng mua bán nhà ở được công chứng hoặc chứng thực. Trường hợp mua bán nhà ở mà bên bán là doanh nghiệp có chức năng kinh doanh bất động sản thì thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở là thời điểm bên bán bàn giao nhà ở cho bên mua theo thỏa thuận trong hợp đồng”.



Trường hợp người phải thi hành án đã chuyển dịch tài sản hợp pháp cho chủ thể khác (nhà ở đã chuyển dịch bằng hợp đồng có công chứng), tài sản khác đã đăng ký quyền sở hữu nhưng Chấp hành viên vẫn kê biên tài sản đó. Vậy, hoặc là tranh chấp quyền sở hữu sẽ phát sinh để xác định tài sản đó thuộc sở hữu của chủ thể nào để xác định kê biên đúng hay sai, hoặc là tranh chấp về hợp đồng để xem xét hợp đồng đó có tuân thủ đầy đủ các điều kiện pháp luật quy định hay không. Theo chúng tôi, một người bị Toà án xử bằng bản án có hiệu lực về tài sản hoặc đang phải thi hành án (chưa có quyết định nào của cơ quan có thẩm quyền về tài sản của người đó) thì việc giao dịch tài sản của họ không vi phạm điều cấm của pháp luật nên Toà án khó có thể viện dẫn căn cứ để tuyên bố hợp đồng đó vô hiệu. Theo chúng tôi, mục đích của Thông tư nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án. Tuy nhiên, giải pháp này thì việc bảo vệ quyền lợi của người này lại xâm phạm quyền, lợi ích chính đáng của chủ thể khác. Do đó, các chủ thể khi khởi kiện tại Toà án cần cân nhắc yêu cầu áp dụng những biện pháp ngăn chặn để không những bảo vệ quyền tài sản của chính mình mà ngăn chặn những giao dịch làm ảnh hưởng đến người thứ ba.



Đoàn Đức Lương

___________________

Tài liệu tham khảo

1. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2005), Bộ luật Dân sự, NXB. Chính trị Quốc gia Hà Nội.

2. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2006), Luật Công chứng,NXB. Chính trị Quốc gia Hà Nội.

3. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2005), Luật Nhà ở, NXB. Chính trị Quốc gia Hà Nội.

4. Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT – BTP- TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thủ tục thi hành án dân sự.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com