Một số vấn đề cần sửa đổi, bổ sung trong Luật Thanh tra năm 2010

08/07/2015

 

Luật Thanh tra năm 2010 được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật; cũng như về tổ chức và hoạt động của lực lượng thanh tra ở Việt Nam theo hướng phát triển thành lực lượng chuyên nghiệp; hoạt động hiệu lực, hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng quản lý hành chính nhà nước, tằng cường bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

1. Những kết quả đạt được của hoạt động thanh tra thời gian qua

1.1. Về cơ sở pháp lý

Từ khi Luật Thanh tra năm 2010 ban hành có hiệu lực từ ngày 01/7/2011, Chính phủ và các bộ đã triển khai ban hành một loạt các văn bản hướng dẫn thi hành như: Nghị định số 86/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra năm 2010, Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 9/02/2012 quy định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành; Nghị định số 97/2011/NĐ-CP ngày 21/10/2011 quy định về thanh tra viên và cộng tác thanh tra viên; Nghị định số 82/2012/NĐ-CP ngày 9/10/2012 về tổ chức và hoạt động thanh tra Ngành Tài chính; Nghị định số 90/2012/NĐ-CP ngày 05/11/2012 về tổ chức và hoạt động thanh tra Ngành Nội vụ; Nghị định số 140/2013/NĐ-CP ngày 22/10/2013 về tổ chức và hoạt động của thanh tra Ngành Thông tin và Truyền thông; Nghị định 213/2013/NĐ-CP ngày 20/12/2013 về tổ chức và hoạt động của thanh tra Ngành Khoa học và Công nghệ; Nghị định số 17/2014/NĐ-CP ngày 11/3/2014 về tổ chức và hoạt động của thanh tra Ngành Ngoại giao; Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 07/04/2014 về tổ chức và hoạt động của thanh tra, giám sát Ngành Ngân hàng, Nghị định số 26/2013/NĐ-CP ngày 29/03/2013 về tổ chức và hoạt động thanh tra Ngành Xây dựng; Nghị định số 42/2013/NĐ-CP ngày 09/5/2013 về tổ chức và hoạt động thanh tra giáo dục; Nghị định số 57/2013/NĐ-CP ngày 31/5/2013 về tổ chức và hoạt động thanh tra Ngành Giao thông vận tải; Nghị định số 126/2013/NĐ-CP ngày 24/12/2013 về tổ chức và hoạt động thanh tra Ngành Kế hoạch và Đầu tư; Thông tư số 07/2011/TT-TTCP ngày 28/7/2011 của Thanh tra Chính phủ hướng dẫn quy trình tiếp công dân; Thông tư số 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính… Với hệ thống pháp luật về thanh tra tương đối hoàn chỉnh như vậy đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho tổ chức và hoạt động thanh tra.

1.2. Những kết quả đạt được

Sự hoàn thiện của pháp luật thanh tra đã tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh tra được thực hiện hiệu quả. Theo số liệu thống kê của Ngành Thanh tra, từ năm 2011 – 2013 toàn Ngành Thanh tra đã tiến hành 27.000 cuộc thanh tra hành chính, 4.000 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành; phát hiện trên 100.000 tỷ đồng vi phạm (riêng năm 2013 đã triển khai 8.921 cuộc thanh tra hành chính; 197.690 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành; phát hiện vi phạm 326.552 tỷ đồng, 4.520 ha đất trong đó kiến nghị thu hồi 25.225 tỷ đồng, 3.653 ha đất; xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 3.095 tỷ đồng; kiến nghị xử lý hành chính 1.586 tập thể, 2.675 cá nhân; chuyển cơ quan điều tra xử lý 72 vụ việc với 75 người[1].

Năm 2014, toàn Ngành đã triển khai 7.072 cuộc thanh tra hành chính và 233.811 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành;phát hiện nhiều vi phạm về kinh tế, đã kiến nghị thu hồi cho ngân sách nhà nước51.583tỷ đồng,1.682,6ha đất; xuất toán, loại khỏi giá trị quyết toán và đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý13.777tỷđồng,1.355,9ha đất; xử phạt vi phạm hành chính với số tiền3.280,5 tỷ đồng; kiến nghị xử lý kỷ luật hành chính đối với2.073tập thể,15.449cá nhân; chuyển cơ quan điều tra xử lý55vụ việc.

Đối với công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, các cơ quan nhà nước đã tiếp392.655 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo (tăng 3,2% so với năm 2013), với 4.876 đoàn đông người (tăng 8,8% so với năm 2013). Tổng Thanh tra Chính phủ và Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ đã tiếp 423 lượt người đến trình bày về 16 vụ việc, trong đó có 05 đoàn đông người. Theo báo cáo, có lãnh đạo 12 bộ, ngành và 61 tỉnh, thành phố đã trực tiếp tiếp công dân theo đúng quy định với 87.084 lượt người, 1.363 lượt đoàn đông người. Bên cạnh đó, các cơ quan hành chính nhà nước tiếp nhận 234.972 đơn thư, trong đó có 93.704 đơn thư khiếu nại, tố cáo. Các cơ quan hành chính nhà nước đã giải quyết 36.750/42.783 vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền, trách nhiệm được giao, đạt tỷ lệ trên 85,9%.

Đối với công tác phòng, chống tham nhũng, các ngành, các cấp tích cực đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng, trong đó đã tổ chức 43.910 lớp tuyên truyền, quán triệt pháp luật về phòng, chống tham nhũng cho 1.821.196 lượt người; phát hành 213.947 cuốn sách, tài liệu về phòng, chống tham nhũng; gắn với quán triệt việc thi hành Hiến pháp năm 2013, việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Ngoài ra, Ngành Thanh tra tiếp tục hướng dẫn, đôn đốc các ngành, các cấp thực hiện các giải pháp phòng ngừa tham nhũng. Qua công tác thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo đã phát hiện 93 vụ, 108 người có hành vi liên quan đến tham nhũng. Qua công tác tự kiểm tra nội bộ, các cơ quan nhà nước đã phát hiện 41 vụ, 72 người có hành vi liên quan đến tham nhũng[2].

2. Những hạn chế trong hoạt động thanh tra và nguyên nhân

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì hoạt động thanh tra thời gian qua còn có những khuyết điểm chủ yếu sau đây:

– Một số cuộc thanh tra kéo dài thời gian kết luận chưa đáp ứng các yêu cầu của quản lý, gây bức xúc trong nhân dân.

– Tỷ lệ thu hồi tiền, tài sản (kể cả đất đai) theo kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra tuy có chuyển biến so với các năm trước đây nhưng nhìn chung không cao.

– Cơ cấu tổ chức của các cơ quan được giao thực hiện thanh tra chuyên ngành và thanh tra địa phương (Thanh tra Nhà nước tỉnh, Thanh tra Nhà nước huyện) có nơi chưa hợp lý, thiếu đồng bộ, thống nhất.

– Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm, cơ quan thanh tra chỉ được chuyển cơ quan điều tra xem xét, xử lý mà tỷ lệ khởi tố các vụ việc này rất thấp…

Những khuyến điểm trên của hoạt động thanh tra xuất phát từ nhiều nguyên nhân, bao gồm cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan, trong đó có một nguyên nhân quan trọng là Luật Thanh tra năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật còn bộc lộ những hạn chế cần sửa đổi, bổ sung hoàn thiện, như:

– Cơ quan thanh tra còn quá phụ thuộc vào Thủ trưởng cơ quan hành chính cùng cấp nên gặp khó khăn trong chỉ đạo hoạt động điều hành thanh tra một cách tập trung, thống nhất.

– Cơ quan thanh tra chỉ có quyền kiến nghị, đề xuất mà không có thẩm quyền quyết định xử lý. Quyết định xử lý thuộc về người đứng đầu cơ quan hành chính cùng cấp trong khi chưa có chế tài cụ thể và đủ mạnh để buộc Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp với cơ quan thanh tra chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình trong việc ra các quyết định thanh tra, chỉ đạo thanh tra, xử lý kịp thời đúng đắn các kết luận, kiến nghị đã thể hiện trong Báo cáo thanh tra.

– Trong quá trình thanh tra, khi phát hiện có vi phạm pháp luật hình sự, cơ quan thanh tra chuyển cho cơ quan điều tra xử lý mà không có quyền khởi tố …

Chính những bất cập, hạn chế nêu trên trong các quy định pháp luật về thanh tra đã ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả, hiệu lực của hoạt động thanh tra.

3. Một số kiến nghị sửa đổi Luật Thanh tra năm 2010

Để khắc phục những bất cập và hạn chế trên đây, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra, trước mắt theo chúng tôi, cần phải: Công khai, minh bạch một cách thực sự hoạt động thanh tra; nâng cao chất lượng kết luận, kiến nghị của thanh tra; tăng cường sự giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước đối với các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện kết luận, kiến nghị thanh tra. Tuy nhiên, giải pháp quan trọng có tính chất lâu dài đó là cần sửa đổi, bổ sung Luật Thanh tra năm 2010 cũng như các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành (các nghị định của Chính phủ, thông tư của Thanh tra Chính phủ), các văn bản pháp luật khác có liên quan đến hoạt động thanh tra. Việc sửa đổi, bổ sung các văn bản trên cần tập trung vào các giải pháp sau:

Thứ nhất, quy định rõ ràng, cụ thể hơn về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của Thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp với cơ quan thanh tra trong việc phê duyệt chương trình thanh tra, ra quyết định thanh tra, kết luận, kiến nghị thanh tra cũng như việc kiểm tra, đôn đốc thực hiện kết luận, kiến nghị ấy; đồng thời phải tôn trọng, bảo đảm cho cơ quan thanh tra hoạt động đúng pháp luật.

Thứ hai, cần quy định về tổ chức, quyền và nghĩa vụ của các cơ quan thanh tra có tính độc lập cao hơn so với quy định hiện hành trong Luật Thanh tra năm 2010 để tránh việc cơ quan thanh tra phụ thuộc quá nhiều vào Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp như hiện nay.

Thứ ba, cần quy định việc thành lập Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục, Thanh tra Chi cục thuộc Sở có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể để đảm bảo điều kiện hoạt động.

Thứ tư, quy định cụ thể hơn về đối tượng thanh tra, nội dung thanh tra mà thanh tra chuyên ngành tiến hành thanh tra; cũng như đối tượng, nội dung mà thanh tra hành chính tiến hành thanh tra kinh tế – xã hội và thanh tra việc chấp hành pháp luật để tránh chồng chéo hoặc bỏ lọt các vi phạm không thanh tra.

Thứ năm, quy định Thanh tra nhà nước được khởi tố và điều tra ban đầu khi phát hiện các vi phạm pháp luật đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền được thanh tra (như quy định đối với bộ đội biên phòng, cơ quan thuế vụ, quản lý thị trường hiện nay được khởi tố và điều tra bước đầu về các vi phạm pháp luật).

ThS. Nguyễn Hữu Luận

Học viện Hành chính Quốc gia


 


[1]Chủ tịch Quốc hội làm việc với Thanh tra Chính phủ; Nguồn: https://www.kinhtetrunguong.vn ngày 01/4/2014.

[2] Hội nghị trực tuyến tổng kết công tác thanh tra năm 2014 và triển khai nhiệm vụ năm 2015; Nguồn: http://thanhtra.gov.vn/ ngày 23/01/2015.

 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Người chưa thành niên phạm tội – Các biện pháp hạn chế

25/08/2015

Trong những năm gần đây, các vụ án do người chưa thành niên phạm tội thực hiện đã tăng lên về số lượng và có chiều hướng diễn biến ngày càng phức tạp. Đây là hồi chuông cảnh báo đối với toàn xã hội về loại đối tượng tội phạm này. Do vậy, cần có chế định tăng cường hơn nữa vai trò của gia đình, nhà trường và tổ chức xã hội trong việc giáo dục những đối tượng là trẻ em và thanh thiếu niên, đặc biệt là những thanh thiếu niên phạm tội; đồng thời cần có hệ thống pháp luật hoàn thiện để điều chỉnh và áp dụng cho đối tượng tội phạm này.

1. Tình hình tội phạm do người chưa thành niên phạm tội thực hiện trong các năm qua

Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của Bộ Công an, trong năm 2010, trên địa bàn cả nước có 13.572 đối tượng phạm tội là người chưa thành niên, trong đó 1.600 vụ học sinh đánh nhau, tăng nhiều lần so với những năm trước về số lượng phạm tội và các vụ án nghiêm trọng. Đặc biệt, trong vài năm trở lại đây số vụ vi phạm pháp luật hình sự do người chưa thành niên gây ra tuy giảm so với năm 2010, nhưng mức độ phạm tội nghiêm trọng hơn, có thể chia thànhcác nhóm sau:

Một là,vềđộ tuổi phạm tội

Dựa theo báo cáo thống kê của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, hiện nay, tình hình tội phạm do người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện có chiều hướng gia tăng và chiếm tỷ lệ cao nhất, khoảng 60%; từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chiếm khoảng 32% và dưới 14 tuổi chiếm khoảng 8% trong tổng số các vụ phạm tội do người chưa thành niên và trẻ em thực hiện.

Theo báo cáo thống kê tình hình phạm tội trong lứa tuổi chưa thành niên trong 05 năm, giai đoạn từ (2006 đến 2010) cả nước có gần 500 nghìn vụ với gần 76 nghìn em vi phạm pháp luật, tăng hơn 3.000 vụ so với 05 năm trước đó. Trong đó đối tượng nam giới chiếm 73.000 em (96,4%), nữ giới chiếm hơn 2.700 em (3,6%). Số vụ án do người chưa thành niên gây ra chiếm 20% so với tổng số vụ vi phạm pháp luật hình sự trong cả nước.

Hai là, theo địa bàn tội phạm thực hiện

Số liệu thống kê từ Bộ Công an, các vụ vi phạm pháp luật và phạm tội do người chưa thành niên thực hiện không chỉ xảy ra ở trung tâm các thành phố lớn, thị xã mà còn xảy ra ở các vùng nông thôn, kể cả vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên, tỷ lệ người chưa thành niên phạm tội ở những thành phố lớn chiếm tỷ lệ cao hơn và có chiều hướng tăng nhanh. Địa phương xảy ra nhiều nhất là TP. HCM (hơn 3.300 vụ), Đồng Nai (hơn 2.200 vụ), tiếp đến là các tỉnh Khánh Hoà, Đắk Lắk và Hà Nội và nhiều các địa phương khác. Tính trung bình hàng năm xảy ra trên 10.000 vụ vi phạm pháp luật với trên 13.000 đối tượng. Trong số đó, tỷ lệ trẻ em vi phạm pháp luật ở độ tuổi 16 – 18 chiếm đến 67,1%.

Ba là, nguyên nhân dẫn tới việc phạm tội

Đa phần trẻ em phạm tội thường là những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt như: Trẻ em thiếu sự quan tâm của gia đình (bố mẹ ly hôn, thiếu tình thương yêu của gia đình); Trẻ em lang thang, không được quan tâm giáo dục, dễ làm thân và tụ tập thành băng nhóm tội phạm, đa phần tội phạm này là những em bỏ học, bỏ nhà sống lang thang (40,9%). Số thanh, thiếu niên tụ tập thành băng nhóm, tình trạng bạo lực trong học đường diễn ra liên tục và có chiều hướng phức tạp. Số vụ án do người chưa thành niên phạm tội lần 2 trở lên chiếm tỷ lệ cao (44,8%). Trẻ em nghiện ma tuý, trẻ bị nhiễm HIV, mang thai sớm, bỏ học, trẻ em có hành vi phạm đạo đức có lối sống lệch lạc, vi phạm pháp luật khác, vẫn diễn ra ở nhiều nơi, với diễn biến, tính chất và mức độ ngày càng nghiêm trọng.

Bốn là, cơ cấu loại tội phạm thực hiện

Theo thống kê mới nhất của VKSND tối cao và Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, thì hành vi vi phạm pháp luật hình sự của người chưa thành niên tập trung nhiều nhất vào các nhóm tội xâm phạm sở hữu; xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm và danh dự con người, một số tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng. Trong đó tội danh trộm cắp tài sản chiếm 38%, cố ý gây thương tích chiếm 11%, đặc biệt là giết người chiếm 1,4% trong tổng số tội phạm do người chưa thành niên thực hiện. Tình hình tội phạm ở lứa tuổi chưa thành niên tăng, một số loại án tăng cao là “cướp giật tài sản” chiếm 63,85%; giết người tăng 38,7% về số người vi phạm pháp luật. Thống kê năm 2012, trong số 122.277 bị can bị khởi tố thì có tới 9.904 bị can dưới 18 tuổi (chiếm 8,1%, tăng 7,4% so với năm 2011).

Dựa vào các con số thống kê nêu trên, có thể thấy rằng, tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện có tính chất nghiêm trọng và đang là vấn đề nhức nhối của toàn xã hội trong giai đoạn hiện nay. Đây là hồi chuông cảnh báo tới toàn xã hội về tội phạm là đối tượng chưa thành niên.

2.Quy định của pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, thực tiễn áp dụng

Khái niệm người chưa thành niên phạm tội là khái niệm được dùng sớm và phổ biến ở một số quốc gia như Đức, Anh, Pháp, Mỹ… nhưng được dùng cho nhiều ngành khoa học khác nhau như tâm lý, xã hội, giáo dục và pháp luật. Trong lĩnh vực khoa học pháp lý của Việt Nam thì khái niệm này được dùng để chỉ đối tượng tác động của tội phạm và chủ thể của tội phạm.

Trên thế giới, nhiều nước quy định độ tuổi của người chưa thành niên phạm tội rất khác nhau. Bộ luật Hình sự (BLHS) Việt Nam năm 1985 được sửa đổi bổ sung năm 1999 quy định người chưa thành niên phạm tội là những người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 18 tuổi là hoàn toàn hợp lý. Bởi lẽ dựa trên nhiều yếu tố về tâm sinh lý, thể chất, giai đoạn lứa tuổi này có nhiều điểm đặc biệt trong giai đoạn phát triển của một con người. Lứa tuổi này, là một giai đoạn vừa chuyển từ giai đoạn trẻ em sang giai đoạn người lớn, nên tâm lý bồng bột, nông nổi, cộng với việc thiếu kinh nghiệm sống, nên dễ bị lôi kéo và sa ngã bởi những phần tử xấu trong xã hội. Mặt khác, sự hiểu biết về xã hội, pháp luật còn hạn chế, dẫn đến lựa chọn thiếu chính xác, không phù hợp với chuẩn mực đạo đức chung của xã hội .

Dựa trên những đặc điểm, dấu hiệu chung về tâm sinh lý, về thể chất của lứa tuổi này, pháp luật hình sự Việt Nam không quy định người chưa thành niên phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự như những người ở tuổi trưởng thành. Do đó, với ý nghĩa khoa học pháp lý nêu trên, chúng tôi nhận thấy cần có đường lối xét xử đối với những tội phạm là người chưa thành niên phạm tội cũng phải được quy định riêng cho phù hợp. Điều này thể hiện tính chấtnhân đạo của Nhà nước ta đối với tội phạm ở lứa tuổi chưa thành niên.

Bộ Luật Hình sự sửa đổi bổ sung năm 1999 quy định một chương riêng (Chương X, Phần chung) áp dụng đối với những tội phạm chưa thành niên phạm tội. Bắt nguồn từ nguyên tắc nhân đạo của Luật hình sự và đường lối giáo dục thanh thiếu niên của Đảng và Nhà nước ta, Điều 68 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật không trái với những quy định tại chương này”. Như vậy, người chưa thành niên phạm tội chịu trách nhiệm hình sự không giống những người trưởng thành cùng thực hiện một hành vi phạm tội và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội như nhau.

So với Bộ luật Hình sự năm 1985, Bộ luật Hình sự năm 1999 có điểm tiến bộ hơn vì đã có sự phân biệt lứa tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Người đủ từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, người từ đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm do họ thực hiện quy định tại Chương X, Phần chung. Điều này hoàn toàn phù hợp với tâm sinh lý và nhận thức ở từng lứa tuổi.

Trong độ tuổi từ 14 đến dưới 16 tuổi là những người đã có năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ, nhưng trên thực tế xét xử đối với những đối tượng phạm tội, thì độ tuổi này mới chỉ nhận thức được tính chất nguy hiểm đối với một số hành vi nghiêm trọng như: Trộm cắp tài sản, cố ý gây thương tích, giết người, hiếp dâm… Đối với những hành vi đặc biệt nghiêm trọng thì nhận thức của họ còn hạn chế, chưa nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm của hành vi do mình thực hiện như các tội xâm phạm tới an ninh quốc gia.

Đối với độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, pháp luật hình sự coi họ đủ năng lực trách nhiệm hình sự, tuy nhiên ở độ tuổi này, so với tội phạm từ 18 tuổi trở lên thì họ còn ít tuổi, nhận thức còn nông nổi, kinh nghiệm sống chưa nhiều, trình độ nhận thức còn hạn chế, họ còn nhiều cơ hội để làm lại cuộc đời, nếu họ được giáo dục cải tạo tốt. Nên những người trong độ tuổi đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội của mình được quy định tại chương X, Phần chung là hoàn toàn có cơ sở, phù hợp với khoa học hình sự, khoa học tâm lý tội phạm và thực tiễn hiện nay về loại tội phạm này. Bởi vậy, những người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử cần tìm hiểu và phân biệt được những điểm khác biệt của hai độ tuổi này để quyết định hình phạt phù hợp với từng đối tượng phạm tội.

Thực tiễn xét xử của Tòa án hiện nay cho thấy, tình hình tội phạm chưa thành niên ngày càng gia tăng về số lượng và tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi. Trong thời gian qua, người chưa thành niên phạm tội đã gây ra nhiều vụ án thương tâm, làm nhức nhối trong dư luận xã hội. Tình trạng phạm tội do người chưa thành niên gây ra có nhiều diễn biến phức tạp. Nguyên nhân phạm tội ở những đối tượng này thường xuất phát từ những lý do bình thường, nhỏ nhặt hàng ngày trong đời sống xã hội, nhưng những đối tượng này lại có cách thức xử lý và hành động hết sức nguy hiểm và thiếu suy nghĩ, bồng bột, dẫn tới hậu quả mà bản thân đối tượng cũng không lường trước được. Đến khi đứng trước vành móng ngựa, có bản án của Tòa án tuyên, thì các em mới nhận thức được và ăn năn, hối hận, nhưng đã muộn.

Trong quá trình giải quyết vụ án, việc xử lý tội phạm là người chưa thành niên cần phải nghiên cứu, giải quyết những nguyên dẫn tới việc thực hiện tội phạm. Các biện pháp đặt ra đòi hỏi có sự chung tay của cá nhân, gia đình, nhà trường và toàn xã hộ qua đó góp phần ngăn chặn kịp thời, có hiệu quả đối với người chưa thành niên phạm tội nói riêng và các tội phạm khác nói chung.Những yếu tố như: Gia đình, nhà trường và xã hội là nền tảng lớn, ảnh hưởng tới việc hình thành nhân cách của những trẻ em và thanh thiếu niên, đặc biệt là những thanh thiếu niên phạm tội. Môi trường tốt sẽ góp phần quan trọng giáo dục, nuôi dưỡng lứa tuổi người chưa thành niên để góp phần đẩy lùi đối tượng tội phạm này trong xã hội.

3. Một số biện pháp để hạn chế, đẩy lùi tội phạm là người chưa thành niên

Với số lượng, tỷ lệ lớn các vụ án do người chưa thành niên phạm tội thực hiện trong thời gian vừa qua đã tạo nên sự bức xúc mạnh mẽ trong cộng đồng, xã hội. Nhiều ý kiến cho rằng, cần phải cân nhắc để sửa đổi luật, hoặc tăng mức hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, giảm độ tuổi như quy định hiện nay hoặc thống kê các tội phạm xảy ra nhiều và có tính chất phổ biến thì quy định phải chịu trách nhiệm như các tội phạm khác. Tuy nhiên, xuất phát từ bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta đã được cụ thể hoá trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và các văn bản pháp luật có liên quan thì việc xử lý những đối tượng người chưa thành niên phạm tội nhằm để giáo dục, cải tạo họ trở thành những công dân có ích cho xã hội là hoàn toàn đúng đắn và có cơ sở khoa học pháp lý.

Chúng tôi cho rằng, những ý kiến nêu trên chỉ là giải pháp trước mắt, chưa phải là biện pháp giải quyết cái gốc của vấn đề. Bởi lẽ hiện nay, trên thế giới nhiều quốc gia đã áp dụng biện pháp này, nhưng nghiên cứu kết quả thực tế ở các nước đó tội phạm trong độ tuổi này vẫn không ngừng tăng lên. Dựa trên nhiều khía cạnh pháp lý của các ngành luật, thực tiễn xã hội và tâm lý tội phạm, chúng tôi đưa ra một số kiến nghị như sau:

Thứ nhất, bắt nguồn từ nguyên nhân phạm tội, để tìm phương hướng giải quyết cho vấn đề này một cách có hiệu quả và đồng bộ cần phải xây dựng hệ thống giáo dục pháp luật tốt, trong đó giáo dục của các tổ chức xã hội, tổ chức đoàn thể và gia đình đóng vai trò cốt lõi. Lứa tuổi chưa thành niên cần có sự quan tâm cả về mặt vật chất và tinh thần, có sự giáo dục đầy đủ, qua đó hạn chế tội phạm do người chưa thành niên phạm tội thực hiện. Ở tuyến cơ sở xã, phường, thôn, bản cần có đội ngũ cán bộ làm công tác đoàn, công tác xã hội tìm hiểu và quan tâm tới những gia đình và thiếu niên có hoàn cảnh đặc biệt, các gia đình có xung đột, mâu thuẫn đã diễn ra lâu ngày nhưng chưa thể giải quyết được. Các tổ chức đoàn thể và xã hội này cần phải tiếp cận, tìm cách hạn chế, ngăn chặn xu hướng thiếu tích cực xảy ra. Đồng thời giáo dục trẻ em hướng các em thành người có ích cho xã hội. Điều này rất cần có sự chung tay phối hợp chặt chẽ giữa ba mắt xích quan trọng gồm: Gia đình, nhà trường và xã hội.

Thứ hai, có chính sách giáo dục thanh thiếu niên thông qua nhiều kênh thông tin đại chúng; xét xử công khai đối với những vụ án lớn có tính chất nỏi cộm, qua đó tăng cường tính chất giáo dục, phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng. Việt Nam đã tham gia vào Công ước quốc tế bảo vệ quyền trẻ em, do đó giải pháp để ngăn ngừa, phòng chống tội phạm đối với trẻ vị thành niên không phải bằng cách tăng hình phạt, mà chính là sự quản lý, giáo dục và các chính sách dành cho trẻ em. Đồng thời khi xét xử các vụ án do người chưa thành niên phạm tội cần có sự tham gia của Hội thẩm là cán bộ đoàn, cán bộ hội hoặc là giáo viên lâu năm có sự hiểu biết về pháp luật, hiểu biết về tâm lý lứa tuổi người chưa thành niên, để có phán quyết một cách công minh, bình đẳng.

Thứ ba, đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục pháp luật cho các em ở nhà trường, ở địa phương và tại các tổ chức sinh hoạt đoàn thể nơi các em tham gia. Các em nắm được pháp luật, nhận thức được tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội và hậu quả pháp lý của hành vi phạm tội sẽ hạn chế được việc thực hiện tội phạm, đảm bảo tính chất phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng.

Thứ tư, Nhà nước có chính sách tạo việc làm cho người lao động, ổn định kinh tế – chính trị – xã hội, nâng cao đời sống cho nhân dân, nâng cao chất lượng gia đình bởi lẽ gia đình chính là tế bào của xã hội. Giáo dục trong gia đình chính là giáo dục đầu tiên, quan trọng nhất đối với mỗi con người. Đồng thời, ở mỗi địa phương cần đẩy lùi những tụ điểm xấu của xã hội, có môi trường cho trẻ được tham gia vui chơi, học tập sinh hoạt tập thể lành mạnh…

Thứ năm,Nhà nước cần có chính sách quản lý hệ thống thông tin mạng internet tốt vì trẻ em hiện nay là đối tượng thường tiếp xúc sớm, nhanh với các thông tin văn hóa phẩm độc hại.

Thứ sáu, nên chăng cần phải nghiên cứu đề xuất thành lập Tòa án riêng đối với người chưa thành niên phạm tội như ý kiến đề xuất của một số nhà khoa học pháp lý hiện nay.

Mục tiêu của nước ta là xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, các biện pháp cưỡng chế hình sự, mục đích của hình phạt không chỉ nhằm trừng trị, mà còn nhằm mục đích giáo dục người phạm tội, giúp họ nhận ra sai lầm và tạo cho họ cơ hội để sửa chữa, sớm tái hòa nhập với cộng đồng xã hội. Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 quy định chính sách nhân đạo đối với người chưa thành niên phạm tội, họ là đối tượng đặc biệt được pháp luật bảo vệ dưới cả hai góc độ, khi họ là người bị hại và cả khi họ là chủ thể của tội phạm. Chính sách hình sự của Nhà nước ta hiện nay thể hiện rõ quan điểm nhất quán, đồng thời cũng phù hợp với Công ước quốc tế của Liên hợp Quốc về quyền trẻ em năm 1989 mà Việt Nam là thành viên.

Do đó, chúng tôi cho rằng, để việc đấu tranh phòng chống tội phạm chưa thành niên có hiệu quả, thì phải tìm ra những nguyên nhân, điều kiện làm nảy sinh hành vi phạm tội, từ đó tìm ra những giải pháp hữu hiệu để ngăn ngừa tội phạm chưa thành niên. Vì vậy, việc tăng mức hình phạt hay giảm tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên không phải là giải pháp tối ưu nhất hiện nay, mà có khi làm giảm hiệu quả công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm do người chưa thành niên phạm tội nói riêng.

ThS. Bùi Thị Chinh Phương

Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội

Tài liệu tham khảo:

1. Nghị quyết số 08 – NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ trọng tâm của của công tác tư pháp trong thời gian tới;

2. Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020;

3. Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân năm 2008, tái bản bổ sung;

4. TS. Nguyễn Ngọc Chí, Đề cương dành cho giảng dạy sau đại học ở Khoa Luật;

5. GS. TSKH. Lê Văn Cảm, Nghiên cứu so sánh luật hình sự một số nước Châu Âu, Tòa án nhân dân, số 19, năm 2005;

6. GS. TSKH. Lê Văn Cảm, Nghiên cứu so các quy định về Phần chung luật hình sự, Chuyên đề giảng dạy sau đại học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;

7. GS. TSKH. Lê Văn Cảm, Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền (sách chuyên khảo), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2009;

8. TS. Uông Chu Lưu (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 (Phần Chung), tập thể tác giả, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, năm 2001.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hoàn thiện một số nguyên tắc trong Bộ luật Tố tụng hình sự nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội

28/08/2015

Nguyên tắc suy đoán vô tội được thừa nhận là một trong những nguyên tắc cơ bản trong luật tố tụng hình sự của nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Tuy chưa được gọi tên một cách chính thức, nhưng nội dung của nguyên tắc này đã được quy định tại Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003… Việc thực hiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam liên quan đến nguyên tắc suy đoán vô tội trên thực tiễn đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, như chất lượng xét xử các vụ án hình sự đã được nâng lên rõ rệt, bảo đảm thực hiện triệt để hơn nguyên tắc hai cấp xét xử… góp phần quan trọng trong bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo với tính chất là người chưa có tội… Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, vẫn còn những tồn tại cần được giải quyết, khắc phục, đặc biệt là tình trạng oan, sai. Do đó, hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan trực tiếp đến việc thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội là đòi hỏi cấp thiết của pháp luật tố tụng hình sự trong Nhà nước pháp quyền.

Về vấn đề này, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết Hoàn thiện một số nguyên tắc trong Bộ luật Tố tụng hình sự nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội”đăng tải trên số 64 trang tháng 8/2015. Bài viết phân tích nội dung nguyên tắc suy đoán vô tội, những kết quả đạt được và hạn chế trong thực tiễn thực hiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam liên quan đến nguyên tắc này, từ đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện một số nguyên tắc trong tố tụng hình sự.

Ngô Huyền

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành về trách nhiệm hình sự trong đồng phạm

27/08/2015

Với sự thay đổi của tình hình tội phạm, sự xuất hiện nhiều vấn đề thực tiễn nổi cộm, những hạn chế về nội dung và kỹ thuật lập pháp của Bộ luật Hình sự (BLHS) hiện hành, sự phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội, cũng như một số vấn đề mới về lý luận của khoa học luật hình sự đang được phổ biến rộng rãi trên thế giới và dần được chấp nhận tại Việt Nam… đang đặt ra yêu cầu sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện những quy định của BLHS năm 1999 nhằm hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm hình sự (TNHS) nói chung và TNHS trong đồng phạm nói riêng, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm trong tình hình mới.

1. Các quy định pháp luật về trách nhiệm hình sự trong đồng phạm

Thứ nhất, về kết cấu điều luật: Điều 20 và Điều 53 Bộ luật Hình sự hiện hành quy định về trường hợp đồng phạm. Điều 20 mô tả trường hợp đồng phạm nói chung và một trường hợp đồng phạm đặc biệt. Với cách quy định này, đồng phạm được xác định là hình thức phạm tội cố ý đặc biệt so với hình thức phạm tội cố ý thông thường chỉ do một người thực hiện.

Bên cạnh đó, với việc xác định và mô tả các tội danh trong BLHS, nhà làm luật chỉ mới tạo cơ sở pháp lý cho việc truy cứu TNHS đối với người có hành vi thực hiện tội phạm. Trong khi đó, cùng với hành vi thực hiên tội phạm, còn có các hành vi tham gia thực hiện tội phạm và cũng có tính nguy hiểm cho xã hội cần phải truy cứu TNHS. Đó là hành vi tổ chức, hành vi xúi giục, hành vi giúp sức thực hiện tội phạm cố ý. Người thực hiện hành vi tổ chức, hành vi xúi giục, hành vi giúp sức thực hiện tội phạm cố ý có thể thực hiện dưới hình thức đồng phạm hoặc phạm tội cố ý, thông thường chỉ do một người thực hiện. Để có cơ sở pháp lý cho việc truy cứu TNHS của người tham gia thực hiện tội phạm cố ý, cần có quy định tại Phần chung BLHS. Trong điều luật chung này, nhà làm luật cần mô tả hành vi thực hiện tội phạm, hành vi tham gia thực hiện tội phạm để xác định đặc điểm của người thực hiện, từng loại người tham gia thực hiện tội phạm; quy định nguyên tắc xác định mức độ TNHS của từng loại người tham gia thực hiện tội phạm trong mối quan hệ với người thực hiện tội phạm. Điều 20 BLHS tuy có mô tả hành vi thực hiện tội phạm, hành vi tham gia thực hiện tội phạm, nhưng điều luật này chỉ là cơ sở pháp lý cho việc truy cứu TNHS đối với các trường hợp thỏa mãn dấu hiệu đồng phạm tại khoản 1, không quy định TNHS của những người tham gia thực hiện tội phạm trong trường hợp không có đồng phạm. Điều 20 BLHS không xác định rõ mức độ trách nhiệm của người tham gia thực hiện tội phạm so với người thực hiện tội phạm.

Do đó, cần sửa đổi, đưa nội dung xác định dấu hiệu của người thực hiện, những người tham gia thực hiện tội phạm và mức độ trách nhiệm của người tham gia thực hiện tội phạm trong mối quan hệ với người thực hành lên thành (điều) khoản đầu tiên. Tiếp đó là quy định hình thức phạm tội đồng phạm và trường hợp đặc biệt của hình thức phạm tội này là phạm tội có tổ chức.

Thứ hai, về nội dung điều luật: Định nghĩa đồng phạm tại Điều 20 BLHS không những không chính xác về mặt khoa học, mà còn không phù hợpvới thực tiễn[1]. Định nghĩa này mới chỉ đề cập được một trường hợp đồng phạm giản đơn, chỉ có người thực hành bởi vì sử dụng thuật ngữ “cùng thực hiện tội phạm” mà không đề cập đến trường hợp đồng phạm phức tạp còn có những loại người tổ chức, xúi giục, giúp sức – vì thực chất ba loại người đồng phạm này không trực tiếp thực hiện tội phạm mà chỉ “cùng tham gia” vào việc thực hiện tội phạm.

Thứ ba, về thuật ngữ luật hình sự trong chế định TNHS trong đồng phạm:

– Thuật ngữ “người thực hành” cần được sửa đổi thành “người thực hiện”. Bởi vì, thực hành có thể được hiểu theo hai nghĩa: Áp dụng lý thuyết vào thực tế và nghĩa vụ thực hiện. Thuật ngữ “người thực hành” theo BLHS được hiểu theo nghĩa “người thực hiện”. Do đó, việc sửa đổi thuật ngữ “người thực hành” thành “người thực hiện” làm cho thuật ngữ rõ ràng hơn[2].

– Thuật ngữ “phạm tội có tổ chức” cần được sửa đổi thành “đồng phạm có tổ chức”, bởi vì phạm tội có tổ chức là một trường hợp đặc biệt của hình thức phạm tội là đồng phạm.

Thứ tư, về nội dung điều luật quy định định nghĩa người đồng phạm: Còn quá đơn giản và chưa đầy đủ, cần bổ sung thêm, cụ thể như sau:

– Dạng người thực hiện tội phạm thông qua người khác mà người này không phải chịu TNHS đã có trong lý luận khoa học và thực tiễn, trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới, nhưng chưa chính thức được ghi nhận trong định nghĩa về người thực hành. Trong BLHS cũng chưa ghi nhận thuật ngữ “người đồng thực hiện” trong khi đó đây là loại người đồng phạm xảy ra tương đối phổ biến trong thực tiễn.

– Định nghĩa người tổ chức (Điều 20) liệt kê các dạng người tổ chức, nhưng tên gọi trừu tượng và cũng không được định nghĩa chính thức trong BLHS – chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy. Nhà làm luật đã sử dụng những thuật ngữ không rõ để định nghĩa cho thuật ngữ chưa biết.

– Định nghĩa người xúi giục (Điều 20) liệt kê một số thủ đoạn của người xúi giục có thể thực hiện: Kích động, dụ dỗ, thúc đẩy. Việc liệt kê như vậy chưa khái quát được các dấu hiệu cơ bản của người xúi giục mà chỉ phản ánh được một số biểu hiện cụ thể.

Thứ năm, về TNHS của các loại người tham gia thực hiện tội phạm thì hiện chưa có quy định về mức độ TNHS của từng loại người đồng phạm. Theo chúng tôi, cần khẳng định người xúi giục phải chịu TNHS như người thực hiện tội phạm; người giúp sức được giảm nhẹ TNHS hơn người thực hiện tội phạm; người tổ chức chịu trách nhiệm cao hơn người thực hiện tội phạm.

Thứ sáu, chưa có điều luật quy định về tổ chức tội phạm cũng như trách nhiệm của người thành lập và tham gia tổ chức tội phạm. Trong khi đó, ở Việt Nam, thực tiễn đấu tranh chống tội phạm nói chung và đặc biệt tội phạm do các băng, nhóm tội phạm gây ra ngày càng tăng. Bên cạnh đó, với trách nhiệm của quốc gia thành viên Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, Việt Nam không thể đi ngược với xu hướng chung của thế giới là tăng cường đấu tranh chống tội phạm có tổ chức bằng việc đưa vào BLHS quy định tổ chức tội phạm trong Phần chung, bổ sung tội danh thành lập và tham gia tổ chức tội phạm trong Phần các tội phạm, tại Chương quy định các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Theo đó, người thành lập, người tham gia tổ chức tội phạm phải chịu TNHS về hành vi thành lập hoặc tham gia tổ chức tội phạm được quy định trong Phần các tội phạm của BLHS. Ngoài ra, người thành lập, tham gia tổ chức tội phạm còn phải chịu TNHS về tội phạm cụ thể do tổ chức tội phạm thực hiện.

Thứ bảy, chưa có điều luật quy định về mặt lập pháp hình sự: Các nguyên tắc xác định TNHS trong đồng phạm, bao gồm:

Nguyên tắc chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm trong đồng phạm: Tất cả những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm trong đồng phạm, đều bị xét xử về cùng một tội phạm tương ứng của BLHS, chịu trách nhiệm về những tình tiết tăng nặng liên quan đến hành vi phạm tội chung nếu họ cùng cố ý thực hiện. Những nguyên tắc chung về truy cứu TNHS, quyết định hình phạt, về thời hiệu quy định đối với tội phạm tương ứng thực hiện bằng đồng phạm được áp dụng cho tất cả những người đồng phạm.

– Nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập về hành vi tham gia thực hiện tội phạm trong đồng phạm: Những người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá ý định phạm tội chung của người đồng phạm khác; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, miễn TNHS thuộc về riêng người đồng phạm nào thì chỉ áp dụng đối với người đồng phạm đó; việc miễn TNHS hoặc miễn hình phạt đối với người đồng phạm này không loại trừ TNHS cho những người đồng phạm khác.

– Nguyên tắc cá thể hóa TNHS của những người đồng phạm: việc xác định TNHS đối với người đồng phạm phải tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của mỗi người đồng phạm, phù hợp với đặc điểm nhân thân của người đồng phạm.

Thứ tám, trong BLHS chưa có điều luật nào trực tiếp quy định về TNHS của người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức trong các giai đoạn thực hiện tội phạm.

Thứ chín, chưa có điều luật quy định về tự ý nửa chứng chấm dứt việc phạm tội của người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức trong đồng phạm.

Thứ mười, chưa có quy định về chủ thể đặc biệt trong đồng phạm.

2. Mô hình lý luận

Từ những nhận xét trên, theo quan điểm của chúng tôi có thể xây dựng mô hình khoa học chế định TNHS trong đồng phạm với những quy phạm có nội dung như sau:

Chương …

Trách nhiệm hình sự trong đồng phạm

Điều… Hình thức thực hiện hoặc tham gia thực hiện tội phạm

1. Người thực hiện tội phạm là người trực tiếp thực hiện tội phạm hoặc trực tiếp tham gia vào việc thực hiện tội phạm cùng những người khác hoặc thực hiện tội phạm thông qua người khác mà theo các quy định của Bộ luật này không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Trong trường hợp có nhiều người cùng thực hiện, mỗi người thực hiện được gọi là người đồng thực hiện và phải chịu trách nhiệm hình sự như là người thực hiện tội phạm.

2. Người xúi giục phạm tội là người cố ý thúc đẩy nguời khác thực hiện hoặc tham gia thực hiện tội phạm do cố ý.

Người xúi giục phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự như người thực hiện tội phạm.

3. Người giúp sức phạm tội là người cố ý tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho người khác thực hiện hoặc tham gia thực hiện tội phạm do cố ý.

Người giúp sức phạm tội được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hơn so với người thực hiện tội phạm.

4. Người tổ chức phạm tội là người tập hợp, phân công hoặc điều hành người khác thực hiện hoặc tham gia thực hiện tội phạm do cố ý.

Người tổ chức phạm tội chịu trách nhiệm tăng nặng hơn nguời thực hiện tội phạm.

5. Người có hành vi thực hiện hoặc tham gia thực hiện tội phạm chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp đồng phạm nếu hành vi đó thỏa mãn dấu hiệu của đồng phạm hoặc chịu trách nhiệm hình sự độc lập.

Điều … Đồng phạm

1. Đồng phạm là hình thức phạm tội có hai người trở lên cố ý cùng tham gia thực hiện tội phạm do cố ý với vai trò là người thực hiện, người xúi giục, người giúp sức hoặc người tổ chức.

2. Đồng phạm có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ của những người cùng tham gia thực hiện tội phạm.

Điều … Nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự trong đồng phạm

1. Nguyên tắc chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm trong đồng phạm: Tất cả những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm trong đồng phạm, đều bị xét xử về cùng một tội phạm tương ứng của BLHS, chịu trách nhiệm về những tình tiết tăng nặng liên quan đến hành vi phạm tội chung nếu họ cùng cố ý thực hiện. Những nguyên tắc chung về truy cứu trách nhiệm hình sự, quyết định hình phạt, về thời hiệu quy định đối với tội phạm tương ứng thực hiện bằng đồng phạm được áp dụng cho tất cả những người đồng phạm.

2. Nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập về hành vi tham gia thực hiện tội phạm trong đồng phạm: Những người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá ý định phạm tội chung của người đồng phạm khác. Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, miễn trách nhiệm hình sự thuộc về riêng người đồng phạm nào thì chỉ áp dụng đối với người đồng phạm đó. Việc miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt đối với người đồng phạm này không loại trừ trách nhiệm hình sự cho những người đồng phạm khác.

3. Nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm: việc xác định trách nhiệm hình sự đối với người đồng phạm phải tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của mỗi người đồng phạm, phù hợp với đặc điểm nhân thân của người đồng phạm.

Điều … Đồng phạm hoàn thành

1. Hành vi thực hiện tội phạm hoàn thành khi trong hành vi do người thực hiện tội phạm thực hiện có đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể được quy định tại điều luật tương ứng tại Phần các tội phạm Bộ luật này.

2. Hành vi xúi giục phạm tội hoàn thành khi hành vi của người xúi giục phạm tội kích động, dụ dỗ, thúc đẩy được việc tham gia thực hiện một tội phạm cụ thể của một người đồng phạm cụ thể.

3. Hành vi giúp sức phạm tội hoàn thành khi hành vi của người giúp sức phạm tội tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần đã được sử dụng để tham gia thực hiện một tội phạm cụ thể.

4. Hành vi tổ chức phạm tội hoàn thành khi hành vi của người tổ chức phạm tội tập hợp, phân công hoặc điều hành người khác có hành vi tham gia thực hiện tội phạm trên thực tế.

Điều … Đồng phạm chuẩn bị phạm tội

1. Đối với trường hợp cùng thực hiện, hành vi thực hiện tội phạm ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội là khi tội phạm chung bị dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị. Đối với trường hợp chỉ có một người thực hiện thì hành vi chuẩn bị thực hiện phạm tội là những hành vi chuẩn bị cho việc thực hiện hành vi khách quan của cấu thành tội phạm cụ thể được quy định tại điều luật tương ứng trong Phần các tội phạm Bộ luật này hoặc người thực hiện tội phạm có những hành vi thể hiện sự chấp nhận thực hiện tội phạm theo đề nghị của người khác.

2. Hành vi chuẩn bị xúi giục thực hiện tội phạm là hành vi của người xúi giục tạo các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tham gia thực hiện tội phạm được dễ dàng hơn nhưng chưa thực hiện hành vi xúi giục hoặc người xúi giục thực hiện tội phạm chấp nhận đề nghị của người khác sẽ thúc đẩy một hoặc một số người nhất định thực hiện hành vi đồng phạm hoặc tội phạm cụ thể.

3. Hành vi chuẩn bị giúp sức thực hiện tội phạm là hành vi của người giúp sức tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện hành vi tạo điều kiện về vật chất và tinh thần cho việc thực hiện tội phạm chung được dễ dàng, thuận lợi hơn nhưng chưa thực hiện hành vi tạo điều kiện vật chất và tinh thần cho việc tham gia thực hiện tội phạm chung hoặc người giúp sức thực hiện tội phạm chấp nhận đề nghị của người khác sẽ tạo điều kiện về vật chất và tinh thần cho một hoặc một số người nhất định thực hiện hành vi đồng phạm hoặc tội phạm cụ thể.

4. Hành vi chuẩn bị tổ chức thực hiện tội phạm là hành vi của người tổ chức thực hiện tội phạm tạo điều kiện cần thiết cho việc tập hợp, phân công hoặc điều hành người khác tham gia thực hiện tội phạm cụ thể nhưng chưa có hành vi tập hợp, phân công hoặc điều hành người khác tham gia thực hiện tội phạm cụ thể hoặc người tổ chức thực hiện tội phạm chấp nhận đề nghị của người khác sẽ thành lập hoặc điều khiển cho một hoặc một số người nhất định thực hiện hành vi đồng phạm hoặc tội phạm cụ thể.

5. Người thực hiện tội phạm, người xúi giục phạm tội, người giúp sức phạm tội, người tổ chức phạm tội ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự trong vụ án đồng phạm có tổ chức. Trong các vụ án có đồng phạm khác, chỉ có người thực hiện tội phạm và người tổ chức phạm tội ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự.

Điều … Đồng phạm chưa đạt

1. Đối với trường hợp cùng thực hiện, hành vi thực hiện chưa đạt khi những người đồng thực hiện đã có hành vi bắt đầu thực hiện hành vi khách quan hoặc thực hiện hành vi liền trước hành vi khách quan của cấu thành tội phạm cụ thể được quy định tại điều luật tương ứng trong Phần các tội phạm Bộ luật nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội.

2. Hành vi xúi giục chưa đạt thực hiện tội phạm là hành vi của người xúi giục đã bắt đầu hành vi thực hiện hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tham gia thực hiện tội phạm được dễ dàng hơn nhưng do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người xúi giục, hành vi xúi giục chưa được thực hiện một cách trọn vẹn hoặc chưa đưa đến việc thực hiện hành vi phạm tội của người bị xúi giục.

3. Hành vi giúp sức chưa đạt thực hiện tội phạm là hành vi của người giúp sức đã bắt đầu thực hiện hành vi tạo điều kiện vật chất, tinh thần cho việc tham gia thực hiện tội phạm nhưng do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người giúp sức, người giúp sức không thực hiện được trọn vẹn hành vi giúp sức hoặc nguời được giúp sức không sử dụng sự giúp sức vào việc thực hiện tội phạm.

4. Hành vi tổ chức chưa đạt thực hiện tội phạm là hành vi của người tổ chức đã bắt đầu tập hợp, phân công hoặc điều hành người khác tham gia thực hiện tội phạm cụ thể nhưng do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người tổ chức mà chưa đạt đếnkết quả như cấu thành tội phạm của hành vi tổ chức thực hiện tội phạm đòi hỏi.

5. Người đồng phạm chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.

Điều … Trách nhiệm hình sự đối với trưòng hợp tự dừng việc phạm tội trong đồng phạm

1. Người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức thực hiện tội phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự nếu họ tự dừng việc phạm tội ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, tuy không có gì ngăn cản.

2. Người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức thực hiện tội phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự nếu họ tự dừng việc phạm tội ở giai đoạn phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và có hành động tích cực làm mất tác dụng của hành vi tổ chức, xúi giục, giúp sức việc phạm tội trước đó của mình.

Những hành động tích cực của người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức thực hiện tội phạm tuy không làm mất tác dụng của hành vi tổ chức, xúi giục, giúp sức việc phạm tội trước đó của mình thì vẫn có thể được xem xét để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Điều …Tổ chức tội phạm

1. Tổ chức tội phạm là nhóm gồm từ ba người trở lên có sự liên kết tương đối chặt chẽ, bền vững giữa các thành viên, được hình thành có tính chất lâu dài nhằm mục đích thực hiện các tội phạm.

2. Người thành lập, nguời tham gia tổ chức tội phạm phải chịu trách nhiệm về hành vi thành lập hoặc tham gia tổ chức tội phạm theo quy định tại Phần các tội phạm của Bộ luật này. Người thành lập còn phải chịu trách nhiệm hình sự là người tổ chức về các tội phạm cụ thể mà tổ chức tội phạm thực hiện. Người tham gia còn phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm cụ thể mà tổ chức tội phạm đã thực hiện và họ cũng là người thực hiện hoặc tham gia thực hiện.

Phí Thành Chung

Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội



[1]GS.TSKH. Lê Văn Cảm, sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật Hình sự (Phần chung), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005, tr.473, 474.

[2]Ban Chủ nhiệm đề tài cấp Bộ – Bộ Tư pháp, Kỷ yếu hội thảo xây dựng và chuẩn hóa các thuật ngữ luật hình sự, 18/8/2014, tr. 19.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bàn về khái niệm “Luật có mối quan hệ mật thiết nhất” trong quan hệ hợp đồng

13/08/2015

Xác định luật áp dụng điều chỉnh quan hệ hợp đồng có tính chất quốc tế (hợp đồng có yếu tố nước ngoài) là một vấn đề pháp lý khá phức tạp không chỉ dưới góc độ pháp lý mà cả trong trong thực tiễn. Một trong những nguyên tắc cơ bản để xác định luật áp dụng đối với hợp đồng được quy định trong Tư pháp quốc tế các nước hiện nay là nguyên tắc “Luật có mối quan hệ mật thiết nhất” với hợp đồng áp dụng trong trong trường hợp các bên không thỏa thuận chọn luật áp dụng.

Đây là một nguyên tắc phổ biến trong hệ thống pháp luật các nước và pháp luật quốc tế , nhưng chưa từng được quy định trong pháp luật Việt Nam. Cho đến bản Dự thảo Bộ Luật Dân sự (sửa đổi) để lấy ý kiến nhân dân năm 2015 , tại Phần thứ V về áp dụng pháp luật đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, khoản 1 Điều 702 về hợp đồng, Dự thảo lần đầu tiên đã quy định nguyên tắc này như sau: “Các bên trong quan hệ hợp đồng được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng đối với hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này. Trường hợp các bên không có thỏa thuận về pháp luật áp dụng, pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng đó được áp dụng”.

Nguyên tắc “luật có mối liên hệ mật thiết nhất” là một hệ thuộc khá đặc thù và trừu tượng trong tư pháp quốc tế, việc giải thích và áp dụng hệ thuộc luật này ở các nước cũng khá phức tạp, đặc biệt tại Việt Nam do chưa được nghiên cứu về lý luận cũng như áp dụng trong thực tiễn. Vì vậy, bài viết này sẽ nghiên cứu tìm hiểu khái niệm luật có mối quan hệ mật thiết nhất theo các quy định của luật pháp quốc tế, trên cơ sở tìm hiểu thực tiễn giải thích và áp dụng hệ thuộc luật này ở các nước nhằm đóng góp kinh nghiệm cho việc giải thích áp dụng quy định này tại Việt Nam trong tương lai.

1. Đặt vấn đề

Dưới góc độ lý luận của Tư pháp quốc tế, việc xác định luật áp dụng điều chỉnh các quan hệ pháp luật có xung đột (các quan hệ có liên quan đến nhiều hệ thống pháp luật khác nhau) luôn dựa trên nguyên tắc là áp dụng hệ thống pháp luật có mối liên hệ mật thiết nhất với quan hệ pháp luật đó (most closely). Nguyên tắc này được áp dụng trước hết xuất phát từ chính đặc trưng của Tư pháp quốc tế là ngành luật luôn mang tính khách quan, trung lập trong việc xây dựng các quy phạm chọn luật áp dụng (quy phạm xung đột) điều chỉnh các quan hệ của Tư pháp quốc tế[1].

Đặc biệt, các quan hệ hợp đồng có tính chất quốc tế (còn gọi là hợp đồng có yếu tố nước ngoài) là loại quan hệ khá phức tạp do liên quan đến nhiều bên ở các nước khác nhau. Khác với các hợp đồng nội địa (chỉ chịu sự điều chỉnh của một hệ thống pháp luật trong nước), các hợp đồng có tính chất quốc tế có thể được điều chỉnh bởi hai hoặc nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, không chỉ bao gồm hệ thống pháp luật quốc gia mà cả hệ thống pháp luật quốc tế). Do vậy, trong trường hợp các bên không thỏa thuận, việc xác định luật áp dụng đối với hợp đồng quốc tế được đặt ra.

Để hiểu về khái niệm Luật có mối liên hệ mật thiết nhất trong quan hệ hợp đồng có thể xem xét tình huống Tranh chấp Hợp đồng phân phân phối dầu nhớt nêu dưới đây:

Công ty X (Việt Nam) ký kết một hợp đồng làm đại lý phân phối dầu nhớt với công ty Y (Singapore) là bên phân phối độc quyền. Dầu nhớt được sản xuất tại Italia bởi nhà sản xuất (công ty M). Theo thỏa thuận trong hợp đồng, bên Việt Nam (công ty X) được phân phối dầu nhớt tại Việt Nam trong thời hạn 3 năm và có trách nhiệm xây dựng hệ thống khách hàng tại Việt Nam.

Tuy nhiên, sau 02 năm, công ty (Y) có hành vi cung ứng các mẫu mã hàng mới (có thay đổi về kiểu dáng vỏ hộp), khiến khách hàng tại thị trường Việt Nam không tiếp tục sử dụng loại sản phẩm mới này gây thiệt hại cho việc kinh doanh của X tại Việt Nam. Giả sử tranh chấp được đưa ra cơ quan tài phán Việt Nam, theo đó bên công ty X (Việt Nam) yêu cầu bên phân phối phải bồi thường thiệt hại.

Trong hợp đồng, các bên cũng không có thỏa thuận vấn đề chọn luật áp dụng giải quyết tranh chấp. Vấn đề pháp lý đặt ra đối với cơ quan tài phán là luật nào sẽ là luật được áp dụng để giải quyết tranh chấp hợp đồng? Luật nào được coi là luật có mối liên hệ mật thiết nhất với hợp đồng này?

Như vậy, đối với các hợp đồng có tính chất quốc tế, việc xác định luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng có ý nghĩa hết sức cần thiết bởi đây là cơ sở đảm bảo cho các cam kết, thỏa thuận của các bên được tôn trọng thực hiện, trong trường hợp hợp đồng quy định thiếu, không đầy đủ hoặc không rõ ràng… luật điều chỉnh hợp đồng cũng có ý nghĩa hoàn thiện hợp đồng. Đặc biệt, xác định luật áp dụng đối với hợp đồng có ý nghĩa quan trọng là cơ sở giải quyết các tranh chấp hợp đồng như trong các tình huống trên.

2. Hệ thuộc luật có mối quan hệ mật thiết nhất trong pháp luật và thực tiễn quốc tế

Dưới góc độ của luật pháp quốc tế, mô hình xác định luật áp dụng điều chỉnh quan hệ hợp đồng là luật có mối liên hệ mật thiết nhấtlần đầu xuất hiện tại Công ước Rome năm 1980 về Luật áp dụng đối với quan hệ nghĩa vụ hợp đồng của Hội đồng châu Âu[2] (Công ước Rome năm 1980). Tại Điều 4.1 Công ước Rome năm 1980 quy định về luật áp dụng đối với hợp đồng trong trường hợp các bên không thỏa thuận, theo đó: “Trong trường hợp các bên không thỏa thuận chọn luật áp dụng theo Điều 3 của công ước thì hợp đồng được điều chỉnh bởi luật có mối quan hệ gắn bó nhất với hợp đồng”.

Để xác định luật có mối liên hệ mật thiết nhất, Điều 4 Công ước Rome năm 1980 đã quy định các trường hợp xác định luật áp dụng đối với các hợp đồng cụ thể – các giả định (presumtion) theo đó đối với các hợp đồng cung ứng dịch vụ hoặc hợp đồng mua bán là “luật nơi cư trú của bên thực hiện nghĩa vụ đặc trưng” (khoản 2 Điều 4); đối với hợp đồng sử dụng bất động sản và quyền sở hữu đối với bất động sản“là luật nơi có bất động sản”(khoản 3 Điều 4); đối với hợp đồng vận tải là “luật nơi có trụ sở chính của bên vận chuyển”nếu đó cũng đồng thời là nước nơi bốc, xếp hàng và là nơi có trụ sở của bên giao hàng trong các hợp đồng vận tải (khoản 4 Điều 4). Tuy nhiên, tại khoản 5 Điều 4 lại đưa ra một trường hợp ngoại lệ không áp dụng các khoản 2, 3, 4 Điều 4 nói trên: “Nếu mọi yếu tố xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể cho thấy hợp đồng có mối liên hệ mật thiết với một hệ thống pháp luật khác”.

Thực tiễn áp dụng Công ước Rome năm 1980 đã gây ra nhiều tranh cãi khi Tòa án giải thích khái niệm luật có mối liên hệ mật thiết nhất với hợp đồng. Có thể xem xét thực tiễn án lệ áp dụng giải thích việc xác định luật có mối liên hệ mật thiết nhất ở các nước trong hai vụ việc sau:

Một là,vụ tranh chấp hợp đồng mua bán

Tranh chấp trong một hợp đồng mua bán hàng hóa được ký giữa một công ty X (Phần Lan) bên bán và công ty Y bên mua tại Pháp. Theo hợp đồng, công ty X mua bảo hiểm cho việc vận chuyển lô hàng của công ty Tapiola (công ty Đức). Tapiola chỉ định công ty Westra (Đức) có trách nhiệm giao hàng cho công ty vận tải (Danzas) của Pháp để giao cho người mua tại Pháp. Tuy nhiên, tranh chấp phát sinh khi lô hàng bị mất. Tapiola phải trả một khoản tiền bảo hiểm trị giá 68.360 USD cho người mua bảo hiểm nên đã khởi kiện 2 công ty Westra và Danzas vì việc mất hàng.

Tranh chấp được giải quyết tại Tòa án Pháp, các bên không có thỏa thuận về chọn luật áp dụng nên thẩm phán tòa Tối cao Pháp đã căn cứ vào khoản 1 Điều 4 Công ước Rome 1980 quy định rằng: “…hợp đồng được điều chỉnh bởi luật có mối quan hệ gắn bó nhất với hợp đồng”. Để xác định luật được coi là có mối liên hệ mật thiết nhất với hợp đồng này, thẩm phán đã áp dụng phối hợp khoản 2 Điều 4 và khoản 5 Điều 4 Công ước Rome 1980 để so sánh các yếu tố được coi là có mối liên hệ mật thiết nhất với hợp đồng. Thẩm phán cho rằng, hàng hóa được vận chuyển đến Pháp bởi công ty vận tải (Danzas) của Pháp, việc giao hàng cũng thực hiện tại Pháp, nên áp dụng khoản 5 Điều 4 Công ước Rome năm 1980 và luật được coi là có mối liên hệ mật thiết nhất là luật của Pháp[3].

Hai là,tranh chấp hợp đồng tư vấn giữa Ennstone Building Products Limited và Stanger Limited (Stanger Limited)

Trong vụ kiện hợp đồng được ký năm 1995, giữa công ty Ennstone Building Products Limited là một công ty của Anh (Nguyên đơn) và công ty Stanger Limited (Bị đơn) – công ty của Anh nhưng có trụ sở tại Scottland, liên quan đến cung ứng đá xây dựng giữa nguyên đơn là bên cung cấp đá cho các công trình xây dựng, bị đơn là bên cung cấp các dịch vụ về kiểm định chất lượng và tư vấn xây dựng.

Tranh chấp phát sinh khi nguyên đơn cung cấp đá cho công trình xây dựng tòa nhà the Standard Life building ở Edinburgh không đạt chất lượng yêu cầu. Tranh chấp được đưa ra Tòa án Anh. Một trong những vấn đề đặt ra với Tòa án là xác định pháp luật áp dụng đối với hợp đồng giữa các bên.

Kết luận cuối cùng thẩm phán đã chấp nhận áp dụng luật Anh là luật có mối liên hệ mật thiết nhất với hợp đồng, với lập luận rằng:

Hợp đồng có nhiều mối liên hệ với cả luật Scotland và luật của Anh… Mặc dù hợp đồng được soạn thảo, thông qua tại Scottland, nơi thực hiện một phần hợp đồng là nơi thanh toán các khoản phí dịch vụ tại Scotland, nhưng việc tư vấn về chất lượng đá xây dựng và các báo cáo đều được gửi về trụ sở chính của công ty tại Anh nên luật Anh được coi là có mối liên hệ gắn bó[4].

Do vậy luật được coi là có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng phải là luật Anh theo Điều 4, 5 Công ước Rome năm 1980.

Điều 4 của Công ước Rome năm 1980 đã gây nhiều tranh cãi trong lý luận cũng như thực tiễn giải quyết tranh chấp về luật áp dụng đối với hợp đồng trong trường hợp các bên không thỏa thuận chọn luật. Đặc biệt, quy định này đã gây khó khăn cho việc xác định luật có mối quan hệ gắn bó nhất đối với hợp đồng trong thực tiễn, vì mặc dù Công ước đã đưa ra các giả định xác định luật có mối quan hệ gắn bó trong các loại hợp đồng cụ thể tại khoản 2, 3, 4 nhưng các giả định này sẽ không được áp dụng nếu cơ quan tài phán chứng minh được một hệ thống pháp luật khác được coi là có mối quan hệ mật thiết hơn trong hợp đồng.

Quy định của khoản 5 Điều 4 Công ước Rome năm 1980 đã tạo ra cho thẩm phán một khoảng quyền hạn khá rộng trong việc xét các yếu tố được coi là có mối liên hệ mật thiết nhất với một hợp đồng cụ thể. Thẩm phán có thể không áp dụng các trường hợp giả định đã quy định đối với các hợp đồng cụ thể như hợp đồng mua bán, hợp đồng vận tải hay hợp đồng liên quan đến bất động sản theo các khoản 2, 3, 4 Điều 4 Công ước.

Như vậy, khái niệm luật nơi hợp đồng được coi là có mối liên hệ mật thiết nhất trong pháp luật và thực tiễn quốc tế về cơ bản được giải thích là nước nơi thường trú hoặc nơi có trụ sở của bên thực hiện nghĩa vụ đặc trưng[5] vào thời điểm giao kết hợp đồng. Việc xác định nơi thực hiện nghĩa vụ đặc trưng sẽ tùy thuộc vào từng loại hợp đồng cụ thể như hợp đồng mua bán sẽ áp dụng luật của bên bán, hợp đồng phân phối áp dụng luật của bên phân phối, hợp đồng vận tải áp dụng luật của bên vận tải…[6]

Để khắc phục điểm hạn chế của Công ước Rome năm 1980, ngày 17/6/2008 Hội đồng và Nghị viện EU đã ban hành Quy tắc (EC) số 593/2008, còn gọi là Quy tắc Rome I về luật áp dụng đối với nghĩa vụ hợp đồng[7] thay thế Công ước Rome năm 1980.

Một trong những điểm thay đổi của Quy tắc Rome I so với Công ước Rome 1980 trước đây là Quy tắc Rome I đã xây dựng các quy định để xác định luật có mối liên hệ mật thiết nhất trong quan hệ hợp đồng rõ ràng, hiệu quả hơn, nâng cao tính chắc chắn, ổn định của quy định này, trên cơ sở xác định lần lượt thứ tự ưu tiên của luật được coi có mối quan hệ mật thiết nhất với hợp đồng.

Cụ thể, khoản 1 Điều 4 Quy tắc Rome I quy định luật áp dụng đối với hợp đồng trong trường hợp các bên không thỏa thuận thông qua một hệ thống các quy tắc chọn luật áp dụng chặt chẽ và rõ ràng cho 8 loại hợp đồng cụ thể tại với tính chất đây là các hệ thống pháp luật được coi là có mối quan hệ gắn bó nhất[8]. Chỉ trong trường hợp, hợp đồng không thuộc 8 loại hợp đồng quy định tại khoản 1 hoặc trong trường hợp các yếu tố của hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi nhiều hơn một điểm (a) đến (h) của khoản 1 thì luật áp dụng mới được xác định theo khoản 2 Điều 4 dựa trên tiêu chí là luật nước nơi thực hiện nghĩa vụ đặc trưng. Như vậy, nếu đã xác định hợp đồng thuộc khoản 1 thì không được giải thích tùy nghi luật nơi thực hiện nghĩa vụ đặc trưng theo khoản 2 nữa.

Trường hợp rõ ràng từ tất cả các tình tiết của hợp đồng được coi là có quan hệ chặt chẽ hơn với một quốc gia khác theo quy định tại khoản 1 hoặc 2 Điều 4 pháp luật của nước khác đó sẽ được áp dụng.

Tóm lại, quy định của Điều 4 Quy tắc Rome I đã lần lượt xác định thứ tự ưu tiên của các luật được coi là có mối quan hệ mật thiết nhất với hợp đồng, Quy tắc Rome I đã loại trừ điều khoản cho phép xác định tùy nghi luật có mối liên hệ mật thiết nhất[9] như mô hình của Công ước Rome 1980 trước đây.

3. Kinh nghiệm đối với Việt Nam

Tiếp thu kinh nghiệm của pháp luật quốc tế, trong Dự thảo Bộ Luật Dân sự (sửa đổi) quy định về hợp đồng tại Điều 702,theo đó khoản 1 chỉ rõ: “Trường hợp các bên không có thỏa thuận về pháp luật áp dụng, pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng đó được áp dụng”. Cách quy định này có thể gây lúng túng cơ quan tài phán ngay khi phải xác định luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng khi đưa vị trí ưu tiên áp dụng luật có mối liên hệ mật thiết nhất lên khoản 1, vì quy định này đã đưa một nguyên tắc trừu tượng, chưa có tiền lệ tại Việt Nam. Do đó, cơ quan tài phán có thể bỏ qua khoản 1 và dựa vào khoản 2 Điều 702 Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) để tìm cách giải thíchvề luật được coi là có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng lần lượt trong 5 loại hợp đồng cụ thể là:

– Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa là pháp luật của bên bán;

– Đối với hợp đồng dịch vụ là pháp luật của bên cung cấp dịch vụ;

– Đối với hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ là pháp luật của bên nhận quyền;

– Đối với hợp đồng lao động là pháp luật nước nơi thực hiện công việc hoặc luật nước nơi người sử dụng lao động thường trú;

– Đối với hợp đồng tiêu dùng là pháp luật nước nơi người tiêu dùng thường trú;

Tuy nhiên, khoản 3 Điều 702 Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) lại quy định các trường hợp loại trừ không áp dụng khoản 2 trên đây trong 3 trường hợp sau:

Thứ nhất, trường hợp một hợp đồng thuộc nhiều loại được nêu từ điểm a đến điểm đ khoản 2 Điều này dẫn đến nhiều hệ thống pháp luật khác nhau có thể được áp dụng. Ví dụ nếu luật của bên bán là nước có nhiều hệ thống có thể được áp dụng như trong vụ việc áp dụng luật Anh hay Scotland nói trên thì lại phải xác định luật có mối liên hệ mật thiết nhất trong hai hệ thống này.

Thứ hai, hợp đồng không thuộc 5 loại hợp đồng nêu tại Khoản 2 thì thẩm phán sẽ chủ động xác định thế nào là luật có mối quan hệ mật thiết nhất trong tình huống cụ thể.

Thứ ba, nếu trong một vụ việc cụ thể, Tòa án chứng minh được pháp luật của nước khác với pháp luật được nêu tại khoản 2 Điều này có mối liên hệ gắn bó hơn với hợp đồng đó thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nướccó mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng đó.

Như vậy, khoản 3 Điều 702 của Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) đã theo hướng tiếp tục mở rộng thẩm quyền cho cơ quan tài phán trong việc giải thích và áp dụng nguyên tắc “Luật có mối liên hệ mật thiết nhất” theo mô hình của Công ước Rome 1980 hiện đã thay thế bởi Quy tắc Rome I năm 2008 nói trên.

Qua phân tích nội dung quy định của Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi), có thể trở lại ví dụ tình huống tranh chấp hợp đồng phân phối dầu nhớt của doanh nghiệp Việt Nam nói trên để minh chứng cho việc áp dụng quy định này như sau:

Trong vụ việc này, Tòa án Việt Nam nếu áp dụng khoản 2 Điều 702 thì luật áp dụng trong tranh chấp hợp đồng là luật của bên phân phối (Distributer). Trong tình huống này bên phân phối gồm hai công ty: công ty Y (Singapore) là bên phân phối độc quyền của nhà sản xuất (công ty M), công ty Italia. Trên thực tế, việc sản xuất dầu nhớt là tại Italia, nhưng việc thay đổi mẫu mã, sản phẩm lại được thực hiện bởi Đại lý (nhà phân phối Singapore). Nói cách khác công ty Singapore có hành vi trà trộn sản phẩm không chính hãng vào bán tại thị trường Việt Nam, gây thiệt hại cho doanh nghiệp Việt Nam.

Do vậy, Tòa án phải xác định luật có mối liên hệ mật thiết nhất với hợp đồng theo Khoản 3 điều 702 Dự thảo mà không phải là khoản 2. Điều này sẽ gây khó khăn cho Tòa án trong việc giải thích Khoản 3 trong tình huống này, trên cơ sở phân tích các yếu tố có mối liên hệ mật thiết nhất. Thực tiễn các nước có thể sử dụng nguồn án lệ để giải thích vấn đề này, tuy nhiên, tại Việt Nam sẽ gặp khó khăn cho cơ quan tài phán trong việc xác định luật áp dụng trong các tình huống cụ thể.

Tóm lại, việc xác định luật có mối liên hệ mật thiết nhất đối với hợp đồng trong thực tiễn sẽ tùy thuộc vào cách áp dụng và giải thích pháp luật của cơ quan tài phán, một mặt quy định của Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) sẽ mở rộng thẩm quyền cho thẩm phán nhưng đồng thời cũng gặp những khó khăn. Do vậy, tác giả tiếp tục đề xuất Ban Soạn thảo tiếp tục hoàn thiện quy định này theo hướng như sau:

Thứ nhất, nên sửa đổi cho phù hợp với Quy tắc Rome I, cụ thể rõ ràng hơn, theo thứ tự ưu tiên các luật được coi là có mối liên hệ mật thiết nhất, theo đó đưa khoản 2 Điều 702 thành khoản 1 Điều này.

Thứ hai, do Việt Nam chưa có nguồn án lệ về vấn đề này, nên Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) bổ sung một số tiêu chí để xác định luật có mối liên hệ mật thiết nhất. Cụ thể, quy định việc xác định luật của nước nơi có quan hệ gắn bó nhất được xác định trên cơ sở đánh giá mối liên hệ giữa toàn bộ các yếu tố của quan hệ cụ thể, bao gồm yếu tố các bên, đối tượng hợp đồng, nơi giao kết, thực hiện nghĩa vụ đặc trưng trong hợp đồng, nơi phát sinh tranh chấp (nơi có hành vi vi phạm hợp đồng) và các yếu tố khác có liên quan.

Việc đánh giá mối liên hệ này phải tính đến sự hài hòa về lợi ích, luật pháp của các nước có liên quan, nhưng cốt lõi là bảo vệ sự công bằng giữa các bên tham gia quan hệ, bảo vệ lợi ích của bên bị thiệt hại (trừ trường hợp do lỗi của bên đó), bảo vệ được lợi ích của bên “yếu hơn” trong hợp đồng. Các yếu tố sự thuận lợi trong việc xác định pháp luật áp dụng và việc áp dụng pháp luật đó cũng có thể tính tới nhưng đóng vai trò thứ yếu.

Thứ ba, cần sớm công nhận các án lệ trọng tài, án lệ quốc tế và khuyến khích công tác nâng cao nghiệp vụ, chất lượng xét xử cho Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Tiếp tục hoàn thiện các luật có liên quan như Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2011, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và các luật chuyên ngành khác, thống nhất về các nguyên tắc xác định luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng có yếu tố nước ngoài.

Bùi Thị Thu

Khoa Pháp luật quốc tế, Đại học Luật Hà Nội



[1]Xem Điều 2 Luật về áp dụng luật với các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài của Trung Quốc;Điều 1186Xác định pháp luật điều chỉnh quan hệ pháp luật dân sự của Nga; Điều 2 Bộ luật Tư pháp quốc tế Bungari về nguyên tắc quan hệ mật thiết nhất; Điều 17 Luật Tư pháp quốc tế Bỉ; Điều 15 Luật Tư pháp quốc tế Thụy sỹ…

[2]Công ước Rome số 80/934/ECC về luật áp dụng với các nghĩa vụ hợp đồng ngày 19/6/1980 (Convention on the law applicable to contractual obligations), có hiệu lực ngày 1/4/1991 (còn gọi là Công ước Rome năm 1980).

[3]Danzas et Westra c. Tapiola (Com. 19 décembre 2006), La Cour de Cassation, Chambre commerciale, financière et économique, 24 juin 2003, pourvoi n° 01-12.839.

[4] Royal Courts of Justice Strand, London, WC2A 2LL 28 June 2002, Case No: A1/2002/0023 England and Wales Court of Appeal (Civil Division) Decisionshttp://www.bailii.org/ew/cases/EWCA/Civ/2002/916.html

[5] Nguyên bản:The law of the country where the party required to effect the characteristic performance of the contract has his habitual residence”.

[6]Nicky Richardson – “The Concept of Characteristic Performance and the Proper Law Doctrine” Bond Law Review: Vol. 1: Iss. 2, Article 9 (1989) p 284-288.

[7] Regulation (EC) no 593/2008 of the European Parliament and of the Council of 17/6/2008 on the law applicable to contractual obligations (Rome I). Theo quy định tại Điều 29 của Quy định Rome I thì quy định này sẽ có hiệu lực và được áp dụng từ ngày 17/12/2009. Quy định Rome I sẽ ràng buộc toàn bộ và trực tiếp áp dụng tại các quốc gia thành viên (trừ Đan Mạch).

[8] Khoản 1 Điều 4 Quy tắc Rome I quy định về luật áp dụng trong trường hợp không có sự lựa chọn:

“1. Trong phạm vi mà luật áp dụng cho hợp đồng đã không được lựa chọn phù hợp với Điều 3 và không ảnh hưởng đến các Điều 5-8, luật điều chỉnh hợp đồng được xác định như sau:

(a) Một hợp đồng mua bán hàng hoá được điều chỉnh bởi pháp luật của nước mà người bán có nơi thường trú;

(b) Một hợp đồng cung cấp dịch vụ sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật của nước nơi mà các nhà cung cấp dịch vụ có nơi thường trú;

(c) Hợp đồng liên quan đến vật quyền vớibất động sản hoặc thuê bất động sản sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật nước nơi có tài sản;

(d)Hợp đồng thuêbất động sản cho sử dụng riêng tạm thời trong thời gian không quá sáu tháng liên tục sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật của nước nơi chủ bất động sản thường trú,

(f) Hợp đồng phân phối sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật của nước nơi mà các nhà phân phối có nơi thường trú;

(g) Hợp đồng mua bán hàng đấu giá sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật của nước nơi cuộc đấu giá diễn ra, nếu một nơi như vậy có thể được xác định;

(h) Hợp đồng mua, bán quyền lợi tài chính, theo quy định của Điều 4 (1), điểm (17) của Chỉ thị 2004/39/EC, phù hợp với quy định không tùy nghi và chi phối bởi một luật duy nhất, sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật đó”.

[9] Khoản 2, 3, 4 Điều 4 Quy tắc Rome I quy định:

“2. Trường hợp hợp đồng không thuộc khoản 1 hoặc trong trường hợp các yếu tố của hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi nhiều hơn một điểm (a) đến (h) của khoản 1, hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật của nước nơi bên được yêu cầu thực hiện hoạt động đặc trưng của hợp đồng có nơi thường trú.

3. Trường hợp rõ ràng từ tất cả các tình tiết của hợp đồng được coi là có quan hệ chặt chẽ hơn với một quốc gia khác với chỉ dẫn ghi trong đoạn 1 hoặc 2, pháp luật của nước khác đó sẽ được áp dụng.

4. Trường hợp pháp luật không thể được xác định theo khoản 1 hoặc 2, hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật của nước mà nó có quan hệ chặt chẽ nhất.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Pháp luật về phòng, chống phân biệt đối xử ở Việt Nam hiện nay

25/08/2015

Vấn đề quan tâm đến những nhóm người yếu thế trong xã hội, bảo đảm và thực hiện các quyền bình đẳng, phòng, chống phân biệt đối xử luôn là trách nhiệm của mỗi cá nhân, tổ chức và cộng đồng xã hội. Đây cũng là yếu tố thể hiện rõ nét nhất tinh thần nhân đạo cũng như mục tiêu mà Việt Nam đang hướng tới “xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.

Sự cần thiết của việc phòng, chống phân biệt đối xử xuất phát từ những hậu quả của nó gây ra với các cá nhân, cộng đồng và toàn nhân loại. Về phương diện cá nhân, phòng, chống phân biệt đối xử có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với việc bảo đảm cho mọi cá nhân được sống trong nhân phẩm và được hưởng thụ các quyền con người một cách bình đẳng như được luật pháp quốc tế và quốc gia ghi nhận. Theo nghĩa đó, phòng, chống phân biệt đối xử cũng chính là một biện pháp cơ bản để bảo đảm thực thi các quyền con người. Về phương diện cộng đồng, phòng, chống phân biệt đối xử đóng vai trò quan trọng để ngăn ngừa và xóa bỏ những nguy cơ gây ra với cộng đồng từ sự hận thù, khủng bố, nổi loạn… Nhiều nghiên cứu của các chuyên gia đã cảnh báo: Nếu không xóa bỏ được sự kỳ thị và phân biệt đối xử dẫn đến tình trạng người nhiễm HIV/AIDS bị hạn chế một số quyền cơ bản như quyền được chăm sóc sức khỏe, quyền được làm việc, quyền được học hành, quyền được tự do đi lại… thì con người không những không hạn chế được dịch HIV/AIDS mà còn làm cho dịch HIV/AIDS ngày càng trở nên khó kiểm soát hơn. Phân biệt đối xử đẩy người nhiễm HIV/AIDS vào bóng tối, tạo ra tâm lý thù địch xã hội với nhiều người trong số họ, vì thế họ trở nên rất nguy hiểm với cộng đồng. Do đó, việc chiến thắng đại dịch HIV/AIDS rất cần tinh thần và thái độ không kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS của tất cả mọi người, mọi cộng đồng trên toàn thế giới. Ở một góc độ khác, sự phân biệt đối xử làm hạn chế hay ngăn cản một nhóm hay cá nhân nhất định có những đóng góp cho cộng đồng. Ví dụ, trong vấn đề phân biệt đối xử với người khuyết tật, sự kỳ thị và phân biệt đối xử đã tạo ra một rào cản, làm hạn chế sự phát triển và khả năng cống hiến cho xã hội của đối tượng này, làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển chung của xã hội.

Về phương diện quốc tế, phân biệt đối xử, đặc biệt trên cơ sở chủng tộc, dân tộc, tôn giáo… đã và đang gây ra những xung đột gay gắt giữa nhiều quốc gia, thậm chí là giữa “các nền văn minh”. Hầu hết các cuộc chiến tranh đã và đang xảy ra từ thế kỷ XIX đến nay trên thế giới đều liên quan hoặc có nguồn gốc sâu xa từ sự phân biệt đối xử. Phân biệt đối xử có thể coi là một nguyên nhân quan trọng nhất với việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, là yếu tố kéo lùi sự phát triển mọi mặt của những giá trị tích cực, tiến bộ và cơ bản của con người, tạo nên một bức tường vô hình kéo rộng khoảng cách giữa các dân tộc và quốc gia trong thế giới ngày nay. Bên cạnh Liên Hợp Quốc, nhiều tổ chức quốc tế khác như Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên Hợp Quốc (UNESCO), Liên minh châu Âu (EU)… cũng đã ban hành những điều ước quốc tế chống phân biệt đối xử trên một số lĩnh vực.

Thực hiện chủ trương nhất quán của Nhà nước, Việt Nam đã tham gia nhiều công ước quốc tế quan trọng, trong đó có các công ước về nhân quyền: Công ước quốc tế về nhân quyền quan trọng đầu tiên Việt Nam ký kết là Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979 (CEDAW), Việt Nam ký Công ước này ngày 27/11/1981 và phê chuẩn tháng 02/1982; Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá năm 1966 (ICESCR), Việt Nam gia nhập 02 Công ước này ngày 24/9/1982; Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và nước thứ 02 trên thế giới trở thành thành viên Công ước về quyền trẻ em (CRC) sau khi ký Công ước này tháng 01/1990 và phê chuẩn ngày 20/02/1991. Việt Nam cũng đã phê chuẩn 02 Nghị định thư bổ sung Công ước về quyền trẻ em. Ngoài ra, Việt Nam còn là thành viên của một số công ước khác như: Công ước quốc tế về xoá bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc năm 1966 (ICERD) và Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội Apacthai năm 1973 (Việt Nam gia nhập 02 Công ước này ngày 09/6/1981).

Sau khi tái gia nhập ILO từ năm 1992 đến nay, Việt Nam đã phê chuẩn 18/188 công ước của ILO, trong đó có 5/8 công ước cơ bản là: Công ước số 29 về lao động cưỡng bức năm 1930; Công ước số 100 về trả công bình đẳng, năm 1951; Công ước số 111 về phân biệt đối xử năm 1958; Công ước số 138 về tuổi tối thiểu năm 1973; Công ước số 182 về các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất năm 1999.

Tính đến tháng 12/2014, Việt Nam đã tham gia 7/9 điều ước quốc tế cốt lõi về nhân quyền là: ICERD (ngày 09/6/1982); ICCPR (ngày 24/9/1982); ICESCR (ngày 24/9/1982); CEDAW (ngày 17/02/1982); CRC (ngày 28/02/1990); Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (CAT, ngày 28/11/2014); Công ước về các quyền của những người khuyết tật (CRPD, ngày 28/11/2014); và tham gia 02 Nghị định thư tùy chọn của CRC (ngày 20/12/2001). Hầu hết các quy định của pháp luật Việt Nam đều tương thích và phù hợp với nội dung của công ước nên số lượng các văn bản quy phạm pháp luật phải hủy bỏ, thay thế là không nhiều. Đồng thời, nước ta cũng đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để nội luật hóa một số quy định của công ước phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam.

Tuy nhiên, xét một cách tổng thể, so với nhiều quốc gia khác trên thế giới, hiện nay Việt Nam chưa có khung pháp lý rõ ràng và toàn diện về phòng, chống mọi hình thức phân biệt đối xử. Mặc dù một số văn bản pháp luật nêu trên của Việt Nam đã có những quy định về chống kỳ thị và phân biệt đối xử với một số nhóm xã hội, song vẫn còn một số nhóm xã hội dễ bị tổn thương khác chưa được đề cập và bảo vệ đúng mức. Thêm vào đó, các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan chưa quy định rõ cơ chế để một công dân hoặc tổ chức đại diện cho công dân có thể khiếu kiện vì bị kỳ thị và phân biệt đối xử. Đồng thời, một số hành vi (dạng) phân biệt đối xử hiện vẫn chưa được nhắc đến trong hệ thống pháp luật Việt Nam, dẫn tới chưa được ngăn ngừa và xử lý trong thực tế.

Thời gian qua, với việc Chính phủ Việt Nam chấp nhận một số khuyến nghị liên quan đến chống phân biệt đối xử của các quốc gia trong phiên kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR) tại Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc (trong phiên UPR lần thứ 2 năm 2013 của Hội đồng Nhân quyền tại Geneva) đã đặt ra yêu cầu và cơ sở cho việc xúc tiến nghiên cứu hoàn thiện khuôn khổ pháp luật hiện hành, tiến tới xây dựng một luật khung về bình đẳng, chống mọi hình thức phân biệt đối xử với mọi nhóm xã hội ở nước ta. Xét trên lĩnh vực nhân quyền, việc hoàn thiện khuôn khổ pháp luật và xây dựng một luật riêng về phòng, chống phân biệt đối xử không chỉ giúp Việt Nam hoàn thành cam kết với cộng đồng quốc tế, mà còn là cơ hội để thúc đẩy các quyền con người của mọi người dân một cách thực chất nhất. Trên cơ sở đó, việc hoàn thiện pháp luật phòng, chống phân biệt đối xử ở Việt Nam cần được triển khai theo hướng:

Một là, cần làm hài hòa hơn nữa pháp luật Việt Nam với các tiêu chuẩn quốc tế về chống phân biệt đối xử . Để hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam về phòng, chống phân biệt đối xử cần phải xác định rõ cơ sở lý luận và căn cứ để xây dựng là các tiêu chuẩn quốc tế về chống phân biệt đối xử.

Hai là, ưu tiên giải quyết những vấn đề cấp thiết về phân biệt đối xử đặt ra ở Việt Nam, đồng thời tính đến những yếu tố tiềm tàng xảy ra trong những năm tới xuất phát từ bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu, rộng, toàn diện vào quốc tế và khu vực.

Ba là, quán triệt các chính sách có liên quan của Đảng, Nhà nước như chính sách về bình đẳng dân tộc, giới, chính sách xã hội, chính sách về tôn trọng, bảo vệ nhân quyền…

Hiện tại, hệ thống pháp luật nước ta về vấn đề phòng, chống việc phân biệt đối xử vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện; tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh còn chậm, chất lượng các văn bản pháp luật chưa cao; việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa được quan tâm đầy đủ; hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn hạn chế; thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật còn thiếu và yếu. Nguyên nhân của những yếu kém nêu trên là do chưa hoạch định được một chương trình xây dựng pháp luật toàn diện, tổng thể, có tầm nhìn chiến lược; việc đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ pháp luật và công tác nghiên cứu lý luận về pháp luật chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn; việc tổ chức thi hành pháp luật còn thiếu chặt chẽ; ý thức pháp luật của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức và nhân dân còn nhiều hạn chế dẫn đến tình trạng phân biệt đối xử còn diễn ra khá phổ biến và chưa có dấu hiệu suy giảm. Vì vậy, để hoàn thiện pháp luật phòng, chống phân biệt đối xử ở Việt Nam hiện nay cần thiết phải lưu ý những nội dung sau:

Thứ nhất, cần có những nghiên cứu chuyên sâu về tinh thần và nội dung của bản Hiến pháp năm 2013, các điều khoản cụ thể của bản Hiến pháp này cũng như các quy định của các Công ước Liên Hợp Quốc về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, để từ đó, nhận thức và quán triệt đầy đủ các quy định của Hiến pháp và Công ước về quyền con người trong việc xây dựng và sửa đổi các quy định pháp luật tương thích với Hiến pháp năm 2013 và các cam kết của Việt Nam trong các Công ước về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia.

Thứ hai, khẩn trương tiến hành nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các luật hiện hành, đặc biệt là các luật đã nêu ở trên, nhằm kịp thời khắc phục những lỗ hổng pháp lý; trên cơ sở đó, tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề phòng, chống phân biệt đối xử; phải căn cứ đồng thời vào các quy định của Hiến pháp năm 2013 và các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập mà tiến hành sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành về quyền con người, quyền công dân.

Thứ ba, khẩn trương soạn thảo và ban hành Luật Phòng, chống phân biệt đối xử. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm bảo đảm thực hiện các mục tiêu, kế hoạch phòng, chống phân biệt đối xử ở Việt Nam; thể hiện được thái độ và sự quan tâm sâu sắc tới vấn đề này của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Thứ tư, phát huy vai trò của Quốc hội, các cơ quan Quốc hội trong giám sát việc thực hiện Báo cáo rà soát định kỳ phổ quát (UPR), nhất là thực hiện các khuyến nghị của cộng đồng quốc tế về vấn đề phòng, chống phân biệt đối xử. Tăng cường sự phối hợp giữa các Ủy ban chuyên môn của Quốc hội trong việc xây dựng Báo cáo quốc gia về nhân quyền để trình Hội đồng Nhân quyền, nhằm bảo đảm hạn chế tối đa tình trạng phân biệt đối xử trong mọi lĩnh vực xã hội.

Nguyễn Thị Phương Thanh

Trường Trung cấp Luật Đồng Hới

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Đàm phán là biện pháp tối ưu trong việc giải quyết tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông

25/09/2015

Trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng quyết đoán và ngang ngược trong việc đòi chủ quyền và làm thay đổi hiện trạng các đảo ở Biển Đông, thì vấn đề tranh chấp càng trở nên phức tạp, có nguy cơ thổi bùng xung đột địa chính trị. Hành động của Trung Quốc được thể hiện qua việc Quốc Vụ Viện Trung Quốc ra Nghị quyết thành lập thành phố Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam vào tháng 11 năm 2007; tuyên bố yêu sách đường lưỡi bò vào tháng 5 năm 2009 chiếm hơn 80 % diện tích Biển Đông. Cùng với đó là việc gia tăng tần suất sử dụng các biện pháp để hỗ trợ cho mục tiêu xác lập chủ quyền của Trung Quốc, như: Gây sức ép đến một số công ty đa quốc gia đang hợp tác thăm dò và khai thác dầu khí với Việt Nam và Phi-líp-pin, tiến hành nhiều cuộc tập trận với quy mô lớn trên Biển Đông, thực hiện lệnh cấm bắt cá hàng năm và quấy nhiễu ngư dân các nước hoạt động hợp pháp trên vùng biển của mình, hạ đặt giàn khoan trái phép tại vùng đặc quyền kinh tế và gần đây là những hành động “ráo riết” cải tạo, xây dựng đảo nhân tạo của Trung Quốc tại Hoàng Sa, Trường Sa,… Vì vậy, việc nghiên cứu, xác định một phương thức giúp các quốc gia tìm kiếm giải pháp khả quan trong giải quyết tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông đang là vấn đề hết sức cấp thiết ở thời điểm hiện nay.

Tính tới thời điểm hiện tại, có nhiều tranh chấp quốc tế trên biển, tuy nhiên, các tranh chấp phức tạp, kéo dài thường rơi vào những loại tranh chấp như: Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ; tranh chấp trong việc hoạch định ranh giới biển và thềm lục địa chồng lấn… Luật quốc tế chưa quy định cụ thể một giải pháp nhất định nào cho việc giải quyết tranh chấp quốc tế mà chỉ nêu lên một số phương thức thông dụng dành cho các quốc gia quyền tự do lựa chọn những phương pháp hòa bình khác hợp lý, có lợi và chấp nhận được. Một số phương thức nhằm giải quyết tranh chấp mà chúng ta có thể phân loại thành các nhóm sau: Thứ nhất, giải quyết tranh chấp thông qua phương thức phi tài phán. Ở phương thức này, các biện pháp thường được đề cập đến đó là: Đàm phán, thương lượng; môi giới, trung gian, hòa giải; ủy ban điều tra và ủy ban hòa giải quốc tế; trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế và biện pháp ngoại giao công chúng,… Thứ hai, giải quyết tranh chấp thông qua phương thức tài phán như trọng tài quốc tế, tòa án quốc tế. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của các tranh chấp trên biển, nên dưới góc độ bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến vấn đề giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ thông qua biện pháp đàm phán như một giải pháp tối ưu hiện nay cho các quốc gia tranh chấp ở biển Đông.

Hiện tại, chưa có một khái niệm nhất quán nào về đàm phán và pháp luật quốc tế cũng chưa có quy định cụ thể về quy trình, thủ tục pháp lý khi tiến hành quá trình đàm phán để giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biển. Tuy nhiên trong bối cảnh quốc tế hiện nay, thì đàm phán là một thuật ngữ thường được nhắc tới và sử dụng phổ biến trong đời sống quốc tế, nhất là trong quá trình đàm phán ngoại giao giữa các quốc gia trên thế giới bởi tính chất linh hoạt của biện pháp này. Các quốc gia có thể tiến hành đàm phán để giải quyết bất kỳ tranh chấp nào phát sinh với một hay nhiều quốc gia khác mà không phụ thuộc vào bản chất hay nội dung của tranh chấp là gì (có thể là kinh tế, chính trị, lãnh thổ hay biên giới). Hơn thế nữa, các quốc gia không bị ràng buộc bởi các quy trình, thủ tục nghiêm ngặt như đối với các biện pháp tài phán mà hoàn toàn có thể tiến hành theo mong muốn, ý chí của các bên có liên quan. Trong quá trình tiếp xúc trực tiếp, các bên hữu quan có khả năng tìm hiểu lập trường của nhau rõ ràng hơn và bằng thiện chí, có thể đi đến những giải pháp thỏa đáng cho tất cả các bên. Trong nhiều trường hợp, đàm phán không nhất thiết phải đi đến một giải pháp cuối cùng, mà đơn thuần đóng vai trò như một diễn đàn chung để các bên liên quan trao đổi ý kiến, xác định các vấn đề chưa đạt được nhất trí chung cũng như thảo luận, đàm phán những vấn đề cốt lõi và thủ tục cho việc áp dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp khác về sau. Chính sự linh hoạt và tự do khá lớn mà các quốc gia có được trong quá trình áp dụng, biện pháp đàm phán được áp dụng phổ biến hơn các biện pháp khác và thường mang lại hiệu quả trong việc giải quyết các tranh chấp giữa các bên. Có thể thấy được điều này thông qua thống kê các hiệp định (hay điều ước) phân định trên biển tính đến ngày 25/11/2014 dưới đây [1]:

– Khu vực Châu Phi: 29 hiệp định đã ký kết (chiếm 11,7%);

– Khu vực Châu Á: 53 hiệp định đã ký kết (chiếm 21,4%);

– Khu vực Châu Âu: 93 hiệp định đã ký kết (37,6%);

– Khu vực Châu Mỹ: 50 hiệp định đã ký kết (20,2);

– Khu vực Châu Đại Dương: 22 hiệp định đã ký kết (8,9).

Như vậy, rất nhiều tranh chấp về phân định trên biển đã được giải quyết thông qua con đường đàm phán và kết quả được thể hiện qua các hiệp định. Với việc nhận thức đúng về biện pháp đàm phán – một biện pháp phổ biến, hiệu quả và linh hoạt nhất, nên hầu hết các khu vực, đặc biệt khu vực Châu Âu đã sử dụng phổ biến biện pháp này.

Tại sao ở thời điểm hiện tại, đàm phán lại là một giải pháp tối ưu cho Việt Nam, một quốc gia đang sử sụng mọi biện pháp hòa bình để bảo vệ chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước các quốc gia và vùng lãnh thổ khác như: Trung Quốc, Phi-líp-pin, Mai-lai-xia, Bru-nây, Đài Loan? Có lẽ là bởi những lý do sau:

– Xuất phát từ thẩm quyền của Tòa án quốc tế, Việt Nam khó có thể khởi kiện các bên tranh chấp (đặc biệt là Trung Quốc) ra Tòa án quốc tế, (bao gồm: Tòa án quốc tế (ICJ), Tòa án Quốc tế về Luật biển (thành lập theo Phụ lục VI Công ước quốc tế về Luật Biển năm 1982) và Tòa án đặc biệt (phụ lục VIII Công ước quốc tế về Luật Biển năm 1982),… để yêu cầu giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông. Theo truyền thống, hầu hết những tranh chấp chủ quyền lãnh thổ của các quốc gia trên thế giới đều được đưa ra Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ). Tuy nhiên, theo quy định của Hiến chương Liên Hợp quốc và quy chế Tòa án quốc tế của Liên Hợp quốc, ICJ chỉ giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia khi có yêu cầu và các quốc gia đó đều đã chấp nhận thẩm quyền giải quyết của ICJ [2]. Trên thực tế, Việt Nam và các bên tranh chấp chưa ký kết điều ước quốc tế nào có quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp tại ICJ. Hơn nữa, kể cả việc khi đã đưa ra Tòa án quốc tế thì việc phải tuân thủ nguyên tắc pacta sunt servanda (tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế) thì khả năng rủi ro rất cao, có thể nếu thắng sẽ được tất cả nhưng cũng có thể bị thua và mất tất cả. Trong trường hợp này, có lẽ chúng ta chưa không nên mạo hiểm đặt cược chủ quyền của quốc gia vào sự phán xét của Tòa án và chắc chắn thời gian theo đuổi vụ kiện sẽ không phải là ngắn.

– Các biện pháp phi tài phán khác ngoài đàm phán như thương lượng; môi giới, trung gian, hòa giải; ủy ban điều tra và ủy ban hòa giải quốc tế; trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế và biện pháp ngoại giao công chúng cũng là những biện pháp quan trọng trong quá trình giải quyết tranh chấp, song chúng chỉ là một trong các biện pháp bổ trợ cho biện pháp đàm phán mà thôi. Thực tế thống kê về các vụ tranh chấp biển, thì chưa có vụ tranh chấp nào chỉ sử dụng đơn thuần một trong các biện pháp trên.

– Trong khi đó, việc sử dụng biện pháp đàm phán (có thể là song phương hoặc đa phương) trong việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông sẽ làm sáng tỏ những bất đồng, là cơ hội, điều kiện thuận lợi nhất để các bên tranh chấp bày tỏ quan điểm, lập trường, yêu sách của mình về vấn đề tranh chấp và cùng nhau thương lượng, nhượng bộ để giải quyết. Hơn thế nữa, trong quá trình đàm phán sẽ giúp Việt Nam hoàn toàn kiểm soát được nội dung, thủ tục và tiến trình giải quyết tranh chấp mà không bị cuốn vào quá trình tố tụng kéo dài. Và trong khi vấn đề chủ quyền giữa các quốc gia trên biển chưa được giải quyết triệt để thì sử dụng biện pháp đàm phán để giải quyết là một trong những hướng đi đúng đắn giúp Việt Nam tranh thủ sự ủng hộ của dư luận quốc tế, từ đó có thể xây dựng các đối sách phù hợp đồng thời có thời gian củng cố thêm cơ sở pháp lý để bảo vệ quan điểm chính đáng của mình và phản bác những lập luận, yêu sách sai trái của đối phương.

Chủ trương của Việt Nam là bảo vệ vững chắc chủ quyền và lợi ích của quốc gia trên Biển Đông; giữ gìn môi trường thuận lợi cho phát triển đất nước, giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc, Công ước quốc tế của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và “Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC). Thực tế, Việt Nam đã và đang thực hiện rất tích cực biện pháp đàm phán và cần tiếp tục kiên trì thực hiện trong tương lai

Để biện pháp đàm phán mang lại hiệu quả cao nhất trong quá trình giải quyết tranh chấp, chúng ta cần chú ý các vấn đề sau:

Một là, cần tôn trọng các nguyên tắc, tuân thủ quy định của pháp luật quốc tế một các đúng đắn, phù hợp dù muốn hay không, luật pháp hiện hành đóng vai trò chi phối trong việc giải quyết vấn đề phân định ranh giới biển là Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Đây là một bài học quan trọng đã được Đại sứ ArifHavas Oegroseno, nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Ngoại giao In-đô-nê-xi-a và hiện là Đại sứ của In-đô-nê-xi-a tại Bỉ rút ra từ kinh nghiệm giải quyết thông qua quá trình đàm phán để phân định biển giữa In-đô-nê-xi-a và Phi-lip-pin để đi đến một kết quả cuối cùng là Hiệp định phân định biển giữa hai quốc gia được ký kết vào ngày 23/5/2010 [3].

Hailà, việc đàm phán cần được tiến hành hết sức linh hoạt dựa trên điều kiện thực tế của việc giải quyết tranh chấp, không nên giữ quan điểm cứng nhắc. Trong các cuộc đàm phán để tiến tới giải pháp phân định cuối cùng, nếu cần thiết và dựa trên sự đồng ý của các bên, Việt Nam có thể cùng các nước lựa chọn tiến hành các biện pháp tạm thời theo tinh thần của Điều 74, Điều 83 Công ước Quốc tế về Luật Biển (về hoạch định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau và hoạch định ranh giới thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau).

Ba là, vận dụng và học hỏi kinh nghiệm thực tiễn từ việc phân định biển của các nước khác, cần phải nhận rõ những thách thức, nắm bắt đúng thời cơ để vận dụng cho phù hợp với hoàn cảnh thực tại.

Bốn là, khẩn trương nhưng không chủ quan, nóng vội trong đàm phán phân định biển để có thể tận dụng hết mọi khả năng cũng như cơ hội mà mình có được.

Năm là, thường xuyên tổ chức các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc giữa lãnh đạo cấp cao cũng như các cấp của hai nước, tăng cường mối quan hệ và hiểu biết lẫn nhau để có thể thông cảm và tạo điều kiện thuận lợi cùng nhau đi đến thống nhất chung.

Sáu là, tích cực tham gia vào các vòng đàm phán song phương cũng như đa phương để tìm kiếm các giải pháp hòa bình giúp giải quyết tranh chấp Biển Đông .

Bảy là, do hoàn cảnh hiện nay các nước khu vực Biển Đông đều có lợi ích từ vùng biển này nên trong đàm phán cần biết cân đối lợi ích giữa các bên để có thể đem đến một sự công bằng tương đối cũng như bảo vệ được lợi ích hợp pháp của quốc gia mình.

Tám là, trong đàm phán cần có lập trường vững vàng cũng như thái độ rõ ràng, dứt khoát để kiên quyết phản đối những hành vi vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia.

Chín là, cần thỏa thuận các điều khoản là chế tài ràng buộc nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia ký kết nhằm giúp các điều ước đó thực hiện và có ý nghĩa cũng như giá trị thật sự trên thực tế.

Cuối cùng, cần đặc biệt lưu ý chuẩn bị hồ sơ đàm phán, nhất là hồ sơ pháp lý một cách đầy đủ, chặt chẽ, khách quan, khoa học… nhằm có đủ luận cứ, luận chứng để bảo vệ các quan điểm chính đáng của mình và phản bác những lập luận, yêu sách sai trái của đối phương.

Nguyễn Thị Hải Yến

Nhà xuất bản Tư pháp

Tài liệu tham khảo:

[1]http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_maritime_boundary_treaties.

[2] Trong một phán quyết của mình, Tòa đã nêu rõ: “Tòa không thể thực hiện thẩm quyền tài phán của mình đối với một quốc gia nếu không có sự đồng ý của quốc gia đó” – Nguyễn Hồng Thao,Tòa án Công lý Quốc tế, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 60.

[3] Xem thêm: Hiệp định phân định biển In-đô-nê-xi-a – Phi-líp-pin: Những bài học cho các bên tranh chấp Biển Đông – Trang Nghiên cứu Biển Đông truy cập http://nghiencuuquocte.net/2014/06/20/hiep-dinh-phan-dinh-bien-indonesia-philippines/, truy cập ngày 20/6/2015.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Nâng cao chất lượng văn bản quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

18/09/2015

1. Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2005 – 2015

Cũng như nhiều địa phương của cả nước, trong giai đoạn 2005 – 2015 các cấp, các ngành của tỉnh Lạng Sơn đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các văn bản ban hành đa số phù hợp với đặc điểm của địa phương, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và có nhiều tác động tích cực trong hoạt động quản lý nhà nước của tỉnh[1],cụ thể:

Từ tháng 5/2005 đến tháng 5/2015, Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp của tỉnh đã ban hành một khối lượng lớn các văn bản quản lý nhà nước trên các lĩnh vực để thực hiện công tác quản lý nhà nước ở địa phương, cụ thể:

– UBND tỉnh đã ban hành 298 quyết định; 16 chỉ thị; trình HĐND tỉnh ban hành 176 nghị quyết;

– UBND cấp huyện đã ban hành 157 quyết định; 24 chỉ thị thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước của huyện, thành phố và tham mưu cho HĐND cấp huyện ban hành 710 nghị quyết;

– UBND cấp xã đã ban hành 951 quyết định; 28 chỉ thị thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước của cấp xã và tham mưu cho HĐND cấp xã ban hành 6.783 nghị quyết.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong thời gian qua, công tác xây dựng, ban hành và thi hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn vẫn còn một số tồn tại, hạn chế nhất định. UBND các cấp đã chỉ đạo cơ quan tư pháp phối hợp với các cơ quan chuyên môn thực hiện tốt việc giúp UBND tự kiểm tra các VBQPPL do UBND cùng cấp ban hành, chỉ đạo cơ quan tư pháp giúp Chủ tịch UBND cùng cấp kiểm tra theo thẩm quyền đối với các VBQPPL do HĐND, UBND cấp dưới trực tiếp thành lập các đoàn kiểm tra về tình hình soạn thảo, ban hành VBQPPL để kiểm tra và xử lý những tồn tại, hạn chế, nhằm nâng cao hiệu quả công tác này tại địa phương. Kết quả kiểm tra như sau:

Tại cấp tỉnh: Sở Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tham mưu, giúp UBND tỉnh kiểm tra 297 VBQPPL do UBND tỉnh ban hành từ tháng 5/2005 đến hết tháng 5/2015. Qua kiểm tra, đã phát hiện 11 văn bản có dấu hiệu không phù hợp với quy định của pháp luật và UBND tỉnh đã tiến hành xử lý theo quy định. Đồng thời, trong quá trình thực hiện nghiệp vụ, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh đã phát hiện và trình UBND tỉnh ban hành văn bản để sửa đổi, bổ sung, thay thế 62 VBQPPL do không phù hợp với các văn bản pháp luật do trung ương mới ban hành hoặc tình hình thực tiễn địa phương. Qua công tác kiểm tra theo thẩm quyền đối với 1.030 VBQPPL do HĐND, UBND cấp huyện ban hành (từ năm 2005 – 2015), Sở Tư pháp đã phát hiện 281 văn bản có dấu hiệu không phù hợp với quy định của pháp luật và có thông báo đến cơ quan đã ban hành văn bản có dấu hiệu không phù hợp để tổ chức tự kiểm tra, xử lý theo quy định. Đến nay, HĐND, UBND các huyện, thành phố thuộc tỉnh đã kiểm tra, tiến hành xử lý và có thông báo kết quả xử lý về Sở Tư pháp theo quy định.

Tại cấp huyện: Qua kiểm tra 172 VBQPPL do HĐND, UBND cấp huyện ban hành đã phát hiện 28 văn bản có dấu hiệu không phù hợp.

Phòng Tư pháp cấp huyện đã kiểm tra theo thẩm quyền trên 5.445 VBQPPL do HĐND, UBND cấp xã ban hành. Qua kiểm tra, đã phát hiện 2.087 văn bản có dấu hiệu không phù hợp với quy định của pháp luật (phần lớn sai sót về thể thức, kỹ thuật trình bày). Phòng Tư pháp đã có văn bản yêu cầu HĐND, UBND cấp xã tự kiểm tra và xử lý đối với các văn bản có dấu hiệu không phù hợp về thẩm quyền, nội dung; đối với những văn bản có sai sót về thể thức, kỹ thuật trình bày thì yêu cầu cấp xã rút kinh nghiệm chung. Cấp xã đã tiến hành tự kiểm tra, xử lý và rút kinh nghiệm đối với các văn bản bị kiến nghị theo quy định.

Tại cấp xã: Qua kiểm tra 2.081 VBQPPL đã phát hiện 873 VBQPPL có dấu hiệu không phù hợp với quy định của pháp luật và đã tiến hành tự xử lý theo quy định.

2. Một số tồn tại, hạn chế

2.1. Về xây dựng văn bản pháp luật

– Công tác xây dựng, ban hành VBQPPL: Một số ban, ngành chưa chủ động đề xuất hoặc điều chỉnh chương trình xây dựng VBQPPL của tỉnh, còn đưa vào chương trình những văn bản chưa thực sự cần thiết. Trong việc thực hiện quy trình xây dựng, ban hành VBQPPL còn có đơn vị chưa tổ chức được việc khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội, tổ chức lấy ý kiến nhưng đối tượng lấy ý kiến hẹp, chất lượng lấy ý kiến không cao. Việc thực hiện thẩm định ở cấp huyện, ý kiến đóng góp của công chức tư pháp – hộ tịch ở cấp xã còn hạn chế. Chất lượng ban hành VBQPPL của cấp xã chưa cao, chưa đảm bảo yêu cầu về thể thức, nội dung, kỹ thuật trình bày văn bản.

– Trong công tác rà soát, kiểm tra và xử lý VBQPPL: Một số sở, ban, ngành chưa chủ động tham mưu cho UBND tỉnh tự kiểm tra các VBQPPL do UBND tỉnh ban hành và rà soát các VBQPPL do HĐND, UBND tỉnh ban hành liên quan đến lĩnh vực quản lý mà chỉ thực hiện khi Sở Tư pháp đề nghị phối hợp nên chất lượng rà soát chưa cao. Cấp huyện chưa chủ động thường xuyên rà soát các VBQPPL do HĐND, UBND cấp huyện ban hành. Công tác kiểm tra theo thẩm quyền của cấp huyện đối với VBQPPL của cấp xã còn chưa có chiều sâu (chủ yếu kiểm tra về thể thức và kỹ thuật trình bày).

– Công tác giám sát, kiểm tra tình hình thực hiện văn bản pháp luật còn một số hạn chế nhất định như việc theo dõi, đôn đốc các cơ quan, đơn vị thực hiện các kết luận sau giám sát, kiểm tra chưa thực hiện quyết liệt.

2.2. Về tổ chức thi hành văn bản pháp luật

– Một số cấp ủy, chính quyền địa phương chưa chủ động, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thi hành văn bản pháp luật.

– Công tác chỉ đạo thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến các văn bản tại một số cơ quan, đơn vị chưa được thường xuyên; việc triển khai phổ biến các văn bản pháp luật mới tới cán bộ, nhân dân tại một số nơi chưa được kịp thời, một số sở, ban, ngành chưa thực hiện được vai trò của mình trong tổ chức phổ biến VBQPPL thuộc ngành, lĩnh vực quản lý của mình tới cán bộ, công chức và nhân dân trên địa bàn tỉnh. Công tác triển khai “Ngày pháp luật” còn mang tính hình thức, chất lượng chưa cao.

– Công tác phổ biến, tuyên truyền các văn bản quản lý nhà nước liên quan đến pháp luật tại các xã vùng sâu, vùng cao, vùng biên giới thực hiện chưa có hiệu quả, chưa tập trung vào đúng đối tượng cần phổ biến, chưa đi sâu vào các nội dung, lĩnh vực có nhiều sự quan tâm của xã hội, của các tầng lớp nhân dân để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và chính quyền. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật còn nặng về tổ chức hội nghị.

– Mặc dù hiểu biết pháp luật của nhân dân đã được nâng lên, nhưng một bộ phận nhân dân vẫn chưa có ý thức tuân thủ pháp luật, thậm chí còn cố tình vi phạm pháp luật (ví dụ: Các hành vi vi phạm pháp luật về an toàn giao thông, buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả…). Hầu hết, nhân dân vẫn chưa có thói quen chủ động tìm hiểu văn bản quản lý liên quan đến pháp luật mà chỉ khi có vướng mắc liên quan tới pháp luật mới tìm hiểu.

2.3. Về năng lực cán bộ, công chức

Năng lực của một số cán bộ, công chức từ tỉnh đến cơ sở nhìn chung còn hạn chế, một số cán bộ làm công tác pháp chế ở các sở, ngành vẫn chưa phát huy được vai trò, hiệu quả. Công chức làm công tác tham mưu soạn thảo văn bản ở cấp huyện, cấp xã vừa thiếu, vừa yếu, trong khi khối lượng công việc tham mưu xây dựng văn bản, tổ chức thực hiện tại cấp huyện, cấp xã rất lớn dẫn đến quá tải.

2.4. Về mặt nội dung, hình thức văn bản quy phạm pháp luật

Qua nghiên cứu, còn tồn tại đáng kể những văn bản chứa đựng những quy định không phù hợp với các hướng dẫn hoặc quy định có tính nguyên tắc của cấp trên. Thể thức văn bản thường không thống nhất. Các văn bản ít giá trị chỉ đạo thực hiện còn nhiều. Thậm chí, có những văn bản hình thức là quy phạm pháp luật, nhưng nội dung lại là văn bản hành chính thông thường và ngược lại.

Từ những tồn tại nêu trên cho thấy, hiệu quả của việc ban hành và sử dụng VBQPPL, văn bản quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn là chưa cao.

3. Nguyên nhân

3.1. Nguyên nhân khách quan

Tỉnh Lạng Sơn là một tỉnh miền núi, biên giới, nhiều dân tộc, xuất phát điểm nền kinh tế tỉnh thấp so với bình quân chung của cả nước, điều kiện kinh tế – xã hội còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí không đồng đều giữa các khu vực, nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Địa bàn rộng, địa hình chia cắt, đòi hỏi nguồn vốn đầu tư rất lớn cho xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển sản xuất, kinh doanh, tình hình thiên tai, dịch bệnh luôn diễn biến bất thường. Một số văn bản quản lý nhà nước quy định về chế độ, chính sách quản lý mang tầm vĩ mô chưa hoàn chỉnh và đồng bộ…

3.2. Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, công tác chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện ở một số cơ quan, đơn vị, các cấp, các ngành còn thiếu tập trung, quyết liệt, chưa có sự hướng dẫn, kiểm tra, giám sát, báo cáo để kịp thời xử lý những phát sinh mới. Sự phối kết hợp của các cấp, các ngành trong việc thực hiện các nhiệm vụ chung của tỉnh cũng như trong giải quyết các nhiệm vụ khó khăn, phức tạp còn nhiều bất cập; còn xảy ra tình trạng giải quyết không dứt điểm; một số đơn vị chưa chủ động tham mưu đề xuất, chưa tích cực trong tổ chức thực hiện.

Thứ hai, trình độ, năng lực của một số cán bộ, công chức còn hạn chế so với yêu cầu nhiệm vụ; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ còn bất cập, chưa thực sự đáp ứng nhu cầu đòi hỏi về công tác đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ trong tình hình mới. Cải cách thủ tục hành chính còn chậm, hiệu quả chưa cao.

Thứ ba, khả năng dự báo diễn biến tình hình thị trường còn hạn chế, không lường hết được những khó khăn, những yếu tố phát sinh, do đó khi xây dựng một số mục tiêu còn chủ quan, tính khả thi thấp.

Thứ tư, nhận thức chưa đầy đủ của không ít cán bộ, công chức quản lý lãnh đạo các cấp, các ngành về vai trò của văn bản quản lý nhà nước, chất lượng các văn bản ban hành. Chính vì nhận thức chưa đầy đủ mà việc đầu tư cải tiến loại công cụ này có nơi, có lúc chưa được quan tâm hoặc vẫn còn là hình thức.

Thứ năm, do các quy định và hướng dẫn về nghiệp vụ xây dựng, sử dụng văn bản quản lý của ta hiện còn ít, thiếu cụ thể và đặc biệt không được phổ biến, tập huấn, hướng dẫn đến nơi, đến chốn cho các cán bộ, công chức có nhiệm vụ xây dựng các văn bản. Có thể khẳng định rằng, trong lĩnh vực này, công tác nghiên cứu và triển khai ứng dụng của ta còn rất chậm, chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới.

Thứ sáu, một nguyên nhân khác là do chính lề lối làm việc thiếu khoa học còn tồn tại trong nhiều cơ quan. Khi làm việc chủ yếu còn theo kinh nghiệm, ít dựa vào thông tin, coi nhẹ vai trò của văn bản, văn bản cũng không được quan tâm như là một phương tiện giáo dục pháp luật nhằm nâng cao trình độ văn hóa quản lý của cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan, đơn vị.

Thứ bảy, công tác bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ không được thực hành thống nhất và thường xuyên cũng là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng soạn thảo văn bản kém chất lượng, sử dụng văn bản tùy tiện trong công việc.

Thứ tám, cần nhấn mạnh là do chế độ kiểm tra không thường xuyên, có nơi, có lúc còn lỏng lẻo của chúng ta. Chính việc kiểm tra thiếu chặt chẽ và không xử lý kịp thời, nghiêm khắc đã làm cho những thiếu sót trong các văn bản ở nhiều cấp, ngành có điều kiện tồn tại lâu dài.

Thứ chín, một số văn bản của các bộ, ngành trung ương ban hành còn có sự chồng chéo, thiếu linh hoạt, thiếu tính kịp thời…, điều đó ít nhiều gây ảnh hưởng tới quá trình ban hành văn bản thực thi của tỉnh.

4. Một số giải pháp nâng cao chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn trong thời gian tới

Một là, các cơ quan chức năng trung ương và các cơ quan chức năng của tỉnh Lạng Sơn cần ban hành các văn bản điều chỉnh những bất cập trong một số văn bản đã ban hành, trong chỉ đạo cần chặt chẽ, thực tế, kịp thời, tránh chồng chéo để công tác ban hành văn bản đạt hiệu quả.

Hai là, hàng năm các cấp, các ngành cần xây dựng kế hoạch, văn bản chỉ đạo để việc triển khai thực hiện kiểm tra, xử lý văn bản pháp luật, công tác theo dõi thi hành pháp luật kịp thời, thống nhất và đồng bộ từ trung ương đến địa phương.

Ba là, cần coi trọng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, từ đó góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, nhân dân trong việc chấp hành các văn bản pháp luật của các cơ quan nhà nước các cấp trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, việc đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất cho công tác xây dựng, ban hành văn bản, phổ biến, giáo dục pháp luật cũng cần được coi trọng.

Bốn là, tích cực đẩy mạnh việc cải cách bộ máy nhà nước đối với các cơ quan hành chính địa phương với các biện pháp cụ thể. Trong đó, có việc rà soát chức năng, quyền hạn của các cơ quan, rà soát lại đội ngũ cán bộ từng cấp và thực hiện chế độ trách nhiệm rõ ràng. Trong thời gian qua, trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn đã thực hiện rất tốt, song các biện pháp tiến hành vẫn còn đâu đó có sự thiếu đồng bộ và chưa kiên quyết nên vẫn còn tình trạng chồng lấn thẩm quyền giữa một số cơ quan chức năng nhất là đối với cấp huyện.

Năm là, phải thực hiện công tác rà soát văn bản thường xuyên và bảo đảm tính hệ thống. Khi đệ trình VBQPPL, bắt buộc phải theo quy trình và đúng quy định.

Sáu là, biện pháp có tính bắt buộc vẫn là công tác kiểm tra, giám sát, công tác này cần được đổi mới cách làm, đồng thời cần chỉ đạo xây dựng các quy chế kiểm tra, xử lý VBQPPL, quy chế phối hợp rà soát, hệ thống hóa văn bản, quy chế theo dõi thi hành pháp luật, đảm bảo cho công tác này không chồng chéo nhau, nhưng cũng không buông lỏng. Kiểm tra phải đi đôi với xử lý nghiêm các vi phạm đã được phát hiện thì mới mang lại hiệu quả thiết thực.

Bảy là, chất lượng đội ngũ công chức làm công tác theo dõi thi hành pháp luật, tham mưu xây dựng văn bản pháp luật cũng cần được quan tâm, bảo đảm yêu cầu là trung thành với Tổ quốc, tận tụy, trách nhiệm với công việc, có bản lĩnh, tư tưởng chính trị vững vàng, có lối sống lành mạnh. Bên cạnh đó, cũng đòi hỏi cần có trình độ chuyên môn giỏi, có kỹ năng, được tập huấn, bồi dưỡng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để đáp ứng được công việc một cách hiệu quả.

Văn bản quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nói riêng và các địa phương trên địa bàn cả nước nói chung đều là công cụ để quản lý, điều hành, chuyển tải thông tin… phục vụ cho công tác quản lý nhà nước và thi hành pháp luật. Trên thực tế, công tác ban hành và quản lý văn bản trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn trong thời gian qua đã có những tiến bộ, chuyển biến, không ngừng phát huy hiệu quả và có những tác động tích cực trong các mặt đời sống xã hội của địa phương. Tuy nhiên, so với yêu cầu mới, đặc biệt là các yêu cầu của quản lý nhà nước trong tình hình đất nước ta đang trên đà phát triển, hội nhập quốc tế, thì vai trò của văn bản quản lý nhà nước ngày càng trở nên quan trọng và hết sức cần thiết trong việc quản lý, điều hành đất nước.

Nguyễn Thanh Tú

Tài liệu tham khảo:

[1] Báo cáo của tỉnh Lạng Sơn tổng kết 10 năm thực Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay

03/09/2015

1. Những vấn đề lý luận về trách nhiệm giải trình

Trách nhiệm giải trình là nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức nhà nước và các cán bộ, công chức, người có thẩm quyền thực thi nhiệm vụ, công vụ phải công khai, giải thích và làm rõ các thông tin trong hoạt động công vụ của mình trước người dân và các tổ chức khác một cách thường xuyên hoặc/và khi có yêu cầu, đồng thời phải hứng chịu trách nhiệm khi để xảy ra hậu quả.

1.1. Nội dung, phương thức, chủ thể và đối tượng hướng tới của trách nhiệm giải trình

a) Nội dung của trách nhiệm giải trình

Trách nhiệm giải trình hướng tới việc làm rõ các nội dung liên quan đến hoạt động công vụ. Nghĩa là hầu hết các hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước đều phải gắn với trách nhiệm giải trình. Tuy nhiên, ngoại trừ các thông tin được xác định có nội dung liên quan đến bí mật quốc gia. Danh mục này phải được xác lập thông qua kênh của các nhà lập pháp để bảo đảm tính công bằng.

Ngoài ra, nguồn gốc tài sản, thu nhập và tài sản tăng thêm của nhân viên nhà nước cũng là nội dung của trách nhiệm giải trình. Nội dung này xuất phát từ vai trò của trách nhiệm giải trình đối với công tác phòng, chống tham nhũng. Tài sản cá nhân của nhân viên nhà nước phải được minh bạch hoá qua con đường giải trình bởi quy định về công khai thu nhập, tài sản là một lời nhắc nhở hiệu quả đối với các công chức về bảo đảm trách nhiệm giải trình đi kèm với chức trách[1].

b) Phương thức giải trình

Trách nhiệm giải trình có nhiều phương thức khác nhau. Tuy nhiên, có thể thấy tồn tại hai phương thức phổ biến nhất được ghi nhận, đó là giải trình thường xuyên và giải trình khi có yêu cầu.

Giải trình thường xuyên hay còn gọi là giải trình chủ động là hoạt động giải trình gắn liền với cơ quan, tổ chức được tiến hành chủ yếu theo định kỳ để cung cấp thông tin quản lý mang tính vĩ mô bên cạnh việc giải trình đột xuất nhằm kịp thời làm rõ các nội dung thông tin cụ thể liên quan đến các hiện tượng, vụ việc đang xảy ra. Ví dụ, các hoạt động giải trình chủ động được quy định tại khoản 1 Điều 12 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 gồm: Công bố tại cuộc họp của cơ quan, tổ chức, đơn vị; niêm yết tại trụ sở làm việc; thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan; phát hành ấn phẩm; thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; đưa lên trang thông tin điện tử.

Giải trình khi có yêu cầu hay còn gọi là giải trình bị động là hoạt động giải trình gắn liền với cá nhân trong quá trình thực thi công vụ, phải tiến hành làm rõ các thông tin liên quan khi có yêu cầu từ phía bên ngoài mà thường là người dân. Hoạt động này thực chất là sự hỏi đáp nhằm làm rõ các thông tin gắn liền với các vụ việc cụ thể khi thực thi công vụ.

c) Chủ thể giải trình

Chủ thể giải trình phải bao gồm cả tổ chức và cá nhân. Chủ thể tổ chức phải tiến hành giải trình nhân danh tổ chức, làm rõ các thông tin hoạt động của tập thể cũng như trách nhiệm khi để xảy ra hậu quả của cơ quan đó tới đâuthông qua người đứng đầu hay đại diện giải trình. Chủ thể cá nhân phải tiến hành giải trình cũng như hứng chịu trách nhiệm khi để xảy ra hậu quả nhân danh cá nhân trong việc thực hiện chức năng, quyền hạn cụ thể của mình. Cần phải phân biệt hai chủ thể này một cách rạch ròi nhằm xác định rõ trách nhiệm thuộc về ai. Đặc biệt đối với người lãnh đạo tổ chức phải phân biệt được là nhân danh ai trong các hoàn cảnh giải trình khác nhau.

d) Đối tượng hướng tới của trách nhiệm giải trình

Người dân là đối tượng hướng tới cơ bản nhất của trách nhiệm giải trình, vì đây là gốc của chu trình quyền lực và cũng là đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp rộng rãi nhất của các hoạt động quản lý nhà nước. Ngoài đối tượng này, trách nhiệm giải trình còn hướng tới các tổ chức ngoài nhà nước và các tổ chức quốc tế. Không những thế, trong phạm vi nội bộ nhà nước, trách nhiệm giải trình hướng tới còn phải kể đến cấp trên, bao gồm: Cơ quan dân cử, đại biểu dân cử, các cơ quan thuộc thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước như: Thanh tra, Toà án, Kiểm toán và cơ quan, cá nhân cấp trên trong hệ thống thứ bậc quyền lực nhà nước[2].

1.2. Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay

Trách nhiệm giải trình tuy mới được quy định bằng một văn bản quy phạm có tính chuyên biệt từ năm 2013, nhưng thể chế về trách nhiệm giải trình đã tồn tại trong nhiều văn bản pháp luật trước đó. Số lượng các văn bản hàm chứa các quy tắc xử sự liên quan đến trách nhiệm giải trình là khá lớn. Nhưng theo trình tự mốc thời gian và độ liên quan, có thể kể đến một số các văn bản sau:

Thứ nhất, Luật Báo chí năm 1989, được sửa đổi, bổ sung năm 1999 đã quy định về việc trả lời trên báo chí tại Điều 8 như sau: “Người đứng đầu cơ quan báo chí có quyền yêu cầu các tổ chức, người có chức vụ trả lời vấn đề mà công dân nêu ra trên báo chí; các tổ chức, người có chức vụ có trách nhiệm trả lời trên báo chí”. Như vậy, đây là cơ sở cho việc xác lập quyền được yêu cầu cơ quan, cá nhân có chức vụ phải giải trình trước báo chí – chủ thể quan trọng của việc yêu cầu giải trình, cũng như quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan, cá nhân có chức vụ trước báo chí là nghĩa vụ, trách nhiệm.

Thứ hai, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2012) quy định quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan, tổ chức và cá nhân, cụ thể là quy định tại Điều 31, Điều 32.

Thứ ba, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 là văn bản chứa đựng quy phạm pháp lý quan trọng về trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương, mà cụ thể là cấp xã. Pháp lệnh đã quy định rõ phạm vi điều chỉnh ngay ở Điều 1.

Thứ tư, Nghị định số 90/2013/NĐ-CP ngày 08/8/2013 của Chính phủ với ý nghĩa là một văn bản chính thức đầu tiên về trách nhiệm giải trình. Nghị định quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao, trong đó bao gồm cả cơ quan nhà nước ở địa phương. Nghị định này được hướng dẫn thực hiện bằng Thông tư số 02/2014/TT-TTCP ngày 29/4/2014 của Thanh tra Chính phủ, Thông tư chủ yếu làm rõ trình tự, thủ tục yêu cầu giải trình và tiến hành giải trình[3].

2. Thực trạng trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Trách nhiệm giải trình với người dân của chính quyền địa phương là một nội dung quan trọng thuộc trục nội dung thứ 3 củaChỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI). Chỉ số này được thực hiện từ năm 2011 đến nay thông qua việc đánh giá trách nhiệm giải trình với người dân của 63 tỉnh, thành ở Việt Nam theo phương pháp điều tra xã hội học ngẫu nhiên với ba nội dung chính bao gồm: Mức độ và hiệu quả trong tiếp xúc với chính quyền; hiệu quả của Ban Thanh tra nhân dân; và hiệu quả của Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng.

Cụ thể, ở số liệu điều tra mới nhất năm 2014 cho thấy, với thang điểm từ 0 đến 10, nhìn chung trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương ở Việt Nam đạt 5,73 điểm. Kết quả tổng quát này có được nhờ sự đánh giá bản đồ trách nhiệm giải trình với bốn cấp độ hiệu quả khác nhau bao gồm: Cao nhất; trung bình cao, trung bình thấp và thấp nhất. Kết quả cho thấy, có 16 tỉnh, thành phố đạt cấp độ cao nhất, trong đó Quảng Trị ở vị trí dẫn đầu với 6,67 điểm. Có 15 tỉnh đạt cấp độ trung bình cao và 15 tỉnh đạt cấp độ trung bình thấp. Còn lại 17 tỉnh thuộc cấp độ thấp nhất, trong đó Hải Phòng ở vị trí cuối cùng trên toàn quốc với 4,51 điểm. Như vậy có thể thấy rằng, tỷ lệ chính quyền địa phương đạt cấp độ giải trình cao nhất chiếm 25,4% trên tổng số 63 tỉnh, thành. Đổi lại, ở vị trí thấp gồm trung bình thấp và thấp nhất chiếm 50,7%.

Trách nhiệm giải trình từ năm 2011 đến 2014 theo khảo sát của PAPI không có những biến động tăng đáng kể. Cụ thể, điểm số trung bình của trách nhiệm giải trình lần lượt các năm như sau: Năm 2011 với 5,5 điểm, năm 2012 với 5,58 điểm, năm 2013 với 5,65 điểm và năm 2014 với 5,79 điểm. Thậm chí còn có xu hướng giảm xuống ở một số nội dung. Ví dụ như, điểm số cho tỉnh cao nhất năm 2014 là Quảng Trị với 6,67 điểm, giảm đáng kể so với vị trí này của Thái Bình năm 2013 với 7,15 điểm. Sự sụt giảm còn được biểu hiện rõ ràng hơn ở ba nội dung đánh giá chủ yếu của trách nhiệm giải trình.

Về mức độ và hiệu quả trong tiếp xúc với chính quyền: Đây là kết quả của việc “đo lường mức độ hiệu quả trong việc giải trình, tiếp xúc và tương tác với người dân của cán bộ, công chức các cấp chính quyền địa phương”[4]. Kết quả cho thấy, với tổng số 100% các tỉnh, thành trên toàn quốc chỉ có 16,7% số người dân đã tìm đến trưởng thôn/tổ trưởng tổ dân phố, lớn hơn 14,01% so với năm 2013 nhưng thấp hơn so với chỉ số này ở năm 2012 và năm 2011 với lần lượt là 18,07% và 18,24%; chỉ có 12% người dân tìm đến cán bộ xã, phường để giải quyết các khúc mắc cao hơn mức 8,77% của năm 2013 nhưng thấp hơn mức 12,2% và 12,01% của năm 2011 và năm 2012. Cá biệt, tỉnh Hưng Yên cả hai nội dung này đều là 0%. Con số này cho thấy “việc tương tác giữa chính quyền và người dân còn hạn chế và không thường xuyên”. Tuy nhiên, trong số ít ỏi người dân tìm đến trưởng thôn/tổ trưởng tổ dân phố và cán bộ xã, phường khi có khúc mắc cần giải quyết lại có tỷ lệ lớn cho rằng cuộc tiếp xúc này hiệu quả và khúc mắc được giải quyết (với 85% số người tiếp xúc với trưởng thôn/tổ trưởng tổ dân phố và 80% số người tiếp xúc với cán bộ xã, phường khẳng định điều đó).

Để làm rõ hơn khả năng giải trình của chính quyền cũng như mức độ và hiệu quả tiếp xúc giữa người dân và chính quyền, PAPI còn bổ sung thêm tiêu chí đánh giá mức độ người dân tham gia đóng góp ý kiến xây dựng chính quyền. Kết quả mang lại không mấy khả quan khi chỉ có khoảng 25% số người được hỏi khẳng định có đóng góp ý kiến xây dựng với chính quyền và con số này không có sự biến động nào lớn trong cả 4 năm khảo sát. Tuy nhiên, cũng như kết quả tiếp xúc với trưởng thôn, cán bộ xã, số lượng người dân đóng góp ý kiến cho chính quyền ít ỏi nhưng lại có sự hài lòng rất cao về việc ghi nhận ý kiến ấy từ phía chính quyền với trung bình 90% trên toàn quốc.

Về hiệu quả của Ban Thanh tra nhân dân: Đây là kết quả khảo sát một thiết chế quan trọng trong việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Điểm trung bình của chỉ số này trên phạm vi toàn quốc là 1,94 điểm trên khoảng giới hạn từ 0,33 điểm đến 3,33 điểm, giảm so với 1,97 điểm của năm 2013. Cụ thể, có 35,72% số người dân được hỏi cho rằng, ở xã, phường, thị trấn của họ ở có sự hiện diện của Ban Thanh tra nhân dân, giảm so với 36,56% của năm 2013. Tỉnh thấp nhất có tỷ lệ 13,27%. Trong số ít những người dân biết đến sự tồn tại của Ban Thanh tra nhân dân, có 44% cho biết, Ban Thanh tra nhân dân ở xã, phường, thị trấn của họ là được nhân dân bầu. Cá biệt như Ninh Thuận có 10,9% thừa nhận điều này. Tuy nhiên, cũng trong số ít những người thừa nhận có Ban Thanh tra nhân dân trên địa bàn họ sinh sống lại có một tỷ lệ rất cao những người cho rằng thiết chế này có hiệu quả với 81%. Tỷ lệ này thấp hơn 83% của năm 2013 nhưng cao hơn đáng kể so với 78,7 % của hai năm 2011 và 2012.

Về hiệu quả của Ban Giám sát đầu tư cộng đồng: Đo lường thiết chế dân chủ này cũng từ hai tiêu chí: Mức độ phổ biến và mức độ hiệu quả. Điểm số trung bình toàn quốc của chỉ số nội dung thành phần này là 1,94 trên thang điểm 0,33 đến 3,33. Như vậy, có sự tương đồng về độ phổ biến của hai thiết chế vừa nêu. Trong đó, kết quả thu được khi khảo sát người dân biết đến sự tồn tại của Ban Giám sát đầu tư cộng đồng chỉ nằm ở mức rất khiêm tốn với 19%. Sóc Trăng là tỉnh có chỉ số thấp nhất với 4%. Kết quả này có tăng lên so với 14,5% của năm 2011 nhưng thấp hơn đáng kể so với hiệu quả của Ban Thanh tra nhân dân (điều này được lý giải, do ở một số địa phương, Ban Thanh tra nhân dân thực hiện luôn cả chức năng giám sát của Ban Giám sát đầu tư cộng đồng) và quá thấp so với yêu cầu từ việc hiện diện của thiết chế này trong thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở. Tuy vậy, có tới 87% số người cho rằng, ở địa phương họ có Ban Giám sát đầu tư cộng đồng lại đồng ý rằng hoạt động của Ban này có hiệu quả tốt, thậm chí con số này là 100% ở Kiên Giang. Nhưng đây lại là kết quả có được với tỷ lệ người được hỏi rất thấp, do đó, tính tin cậy cần được cân nhắc[5].

Như vậy, qua kết quả khảo sát của PAPI và quan sát thực tiễn có thể nhận thấy một số vấn đề trong thực hiện trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay như sau:

Thứ nhất, việc thực hiện trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương ở Việt Nam chưa cao. Cụ thể, theo khảo sát chung của vấn đề này trên tổng số 63 tỉnh thành, chỉ có 15 tỉnh đạt chỉ số cao nhất và chiếm 25,4%. Điều đáng ngại là chỉ số này không tăng, thậm chí còn biểu hiện giảm khi năm 2013 có 17 tỉnh đạt chỉ số này chiếm 27%. Mức độ tương tác giữa người dân và chính quyền còn thấp. Không những thế, trong 05 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, ngoài Đà Nẵng thì bốn địa phương còn lại có điểm số rất thấp và Hải Phòng ở vị trí thấp nhất cả nước. Điều này cho thấy, dường như không có sự liên hệ mật thiết nào giữa việc phát triển kinh tế và sự gia tăng của trách nhiệm giải trình ở các địa phương. Thực trạng này xuất phát từ nguyên nhân định hình của trách nhiệm giải trình ở Việt Nam quá muộn màng, sự thiếu hụt các văn bản pháp lý cho hoạt động của chính quyền địa phương đã cản trở hoạt động giải trình trở thành một khâu trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước của cơ quan và cán bộ, công chức ở địa phương.

Thứ hai, việc giải trình đã khá hạn chế lại còn vấp phải thói quen hình thức, thiếu rõ ràng. Các hình thức giải trình chủ yếu của chính quyền địa phương hiện nay cơ bản thông qua kênh báo, đài địa phương và trang thông tin điện tử. Ở cấp cơ sở chủ yếu qua hệ thống loa phát thanh và bảng tin. Nhưng hiệu quả sử dụng các phương tiện này thấp, nội dung giải trình chưa phong phú và cách thức hoạt động thiếu khoa học, không gây được chú ý cho người dân, thậm chí hệ thống phát thanh xã, phường còn phản tác dụng.

Ở hầu hết các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều có bảng niêm yết thông tin nhưng là bảng tin đính giấy theo cách truyền thống, không gian hẹp, xếp chồng lên nhau và nhiều khi không đầy đủ do thất lạc, rách nát gây khó khăn cho việc tiếp cận thông tin của người dân. Nhiều cơ quan, đơn vị ứng dụng các hình thức giải trình thông tin qua trang mạng cơ quan, mạng nội bộ hay các thiết bị điện tử nhưng nội dung lại bao quát, làm chiếu lệ, không đi đúng vào vấn đề thắc mắc của người dân. Thậm chí, không ít văn bản giải trình còn cố gắng phức tạp hoá bằng nhiều từ ngữ chuyên môn, khoa học khó tiếp cận đối với phổ thông dân chúng. Điều này đã khiến cho hoạt động giải trình về hình thức tồn tại, nhưng lại không mang đến hiệu quả như mong muốn của xã hội.

Thứ ba, cán bộ, công chức trong thực thi công vụ còn nặng tính “cửa quyền”, ý thức của họ là người chấp hành luật và chỉ có nhiệm vụ báo cáo với cấp trên mà không có ý thức tự thân về việc giải trình trước dân chúng. Khoảng cách của nhân viên nhà nước đối với người dân còn khá lớn và nặng nề. Điều này được mô tả như việc nhân viên nhà nước “ích kỷ” giữ lại cho mình những thông tin mà lẽ ra họ phải giải trình cho dân chúng, nhằm tìm kiếm các cơ hội lợi ích bất hợp pháp từ đó. Tình trạng này rất phổ biến, đặc biệt đối với các lĩnh vực trực tiếp tiếp xúc với người dân như cảnh sát, kiểm lâm, hải quan, thanh tra, thị trường… và các phòng dịch vụ hành chính một cửa.

Thứ tư, mặc dù được định hình từ những quy định đầu tiên về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 1997 và được ghi nhận là hai thiết chế quan trọng để người dân tham gia giám sát và yêu cầu trách nhiệm giải trình của các cấp chính quyền với người dân. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân và Ban Giám sát đầu tư cộng đồng còn rất thấp, người dân dường như không biết sự tồn tại của hai thiết chế này. Nguyên nhân chủ yếu do tính hình thức khi hoạt động của hai thiết chế đó cũng như tác động của nó đến hoạt động của bộ máy chính quyền thấp làm cho niềm tin của người dân vào hai thiết chế không cao. Ban Thanh tra nhân dân và Ban Giám sát đầu tư cộng đồng đều có chung đặc điểm là thiết chế bán chính thức do người dân lập nên nhằm kiểm soát các hoạt động của chính quyền cấp cơ sở. Tuy nhiên, hoạt động của hai thiết chế trên thường chỉ dừng lại ở việc kiến nghị kết luận hoạt động lên chính quyền địa phương mà không có quyền giải quyết, do đó thường chỉ tồn tại dưới danh nghĩa và ít mang tính răn đe vốn có của một cơ quan thanh tra, giám sát. Bên cạnh đó, bản thân hai thiết chế này ra đời ở cấp cơ sở, nơi có sự chi phối mạnh mẽ của các quan hệ làng xã, dòng tộc, do đó, tính khách quan yếu, sự ái ngại trong việc chỉ ra các sai sót trong quản lý nhà nước ở cấp cơ sở từ hai thiết chế không nhiều. Đây là những nguyên nhân quan trọng nhất làm cho chỉ một tỷ lệ rất thấp người dân biết đến sự tồn tại của nó.

Thứ năm, người dân dường như chưa ý thức được về quyền yêu cầu giải trình của mình cũng như chưa có nhu cầu về việc tham gia vào quản lý nhà nước. Điều này có căn nguyên từ hai phía. Bản thân dân trí chưa cao, đặc biệt khả năng nhận thức về vai trò của mình trong chu trình quyền lực của người dân còn hạn chế, điều này cộng với tâm lý e ngại chốn công quyền vốn có sự bắt rễ sâu sắc từ lịch sử đã khiến cho việc can dự vào hoạt động nhà nước của người dân rất thấp, nhu cầu về việc nắm bắt các thông tin quản lý thông qua một cơ chế giải trình minh bạch của chính quyền dường như không mấy quan trọng. Việc đặt mình ra ngoài chu trình quyền lực cũng có một phần nguyên nhân từ sự kém hiệu quả của các hoạt động giải trình.

3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, cần hoàn thiện hệ thống pháp lý về trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương. Cụ thể, cần thống nhất lại về mặt pháp lý đối với trách nhiệm giải trình nói chung và quy định cụ thể trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương theo hướng xem hoạt động này như một khâu bắt buộc trong thực thi công vụ đối với cán bộ, công chức. Đồng thời, cũng cần quy định cơ chế hứng chịu trách nhiệm của cá nhân một cách rõ ràng và công khai. Không những thế, sự thông thoáng về mặt pháp lý khi luật hoá quyền tiếp cận thông tin sẽ giúp người dân có cơ sở trong việc yêu cầu trách nhiệm giải trình và tiến hành quy định theo hướng đơn giản hoá thủ tục yêu cầu giải trình của người dân.

Thứ hai, nâng cao hiệu quả thực chất của Ban Giám sát đầu tư cộng đồng và Ban Thanh tra nhân dân. Đối với hai thiết chế này, điều quan trọng nhất là gia tăng được khả năng ảnh hưởng của nó đối với hoạt động của chính quyền cơ sở thông qua hoạt động giám sát. Đồng thời, cũng cần chú trọng việc quảng bá hình ảnh nhằm thu hút được sự chú ý của người dân về đặc điểm và vai trò quan trọng của hai thiết chế dân chủ này. Mặt khác, quy định tăng thời hạn nhiệm kỳ cho Ban Thanh tra nhân dân thay vì chỉ 02 năm như hiện nay. Điều này cho phép những thành viên của Ban có thể có được kinh nghiệm nhờ quá trình giám sát lâu dài, điều quan trọng hơn những người được đào tạo công tác thanh tra, giám sát một cách bài bản.

Thứ ba, đa dạng hoá các phương tiện giải trình và thay đổi cách thức sử dụng một số công cụ truyền thống cho hoạt động giải trình. Đối với cấp tỉnh và huyện, chú trọng hơn nữa việc khai thác các kênh thông tin trực tuyến bằng việc sử dụng trang thông tin điện tử nhưng có bổ sung thêm khả năng tương tác giữa người dân và chính quyền qua hỏi đáp, bỏ phiếu tín nhiệm hay phản ánh nhanh. Sự ghi nhận, giải thích hay đối đáp trực tiếp này phù hợp với xu hướng phát triển của mạng truyền thông hiện nay và giúp thông tin giải trình được phủ rộng mà không hạn chế sự tiếp cận của bất kỳ ai. Trong khi đó, ở cấp xã, điều kiện xây dựng trang thông tin điện tử chưa có, phương tiện hiệu quả nhất vẫn là hệ thống phát thanh. Tuy nhiên, cần đổi mới để có được kết quả tích cực hơn. Cụ thể, cần cân nhắc lại các nội dung phát thanh, hạn chế phát lại các thông tin từ các kênh có thể dễ dàng tiếp cận ở phạm vi huyện, tỉnh và trung ương. Thay thế vào đó là các giải trình về hoạt động quản lý của chính quyền xã theo định kỳ hoặc thông qua hình thức trả lời các câu hỏi của người dân, đặc biệt là những thông tin liên quan đến tài chính, khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện và đất đai. Việc truyền tải cũng cần xem xét lại mật độ trong ngày và thời gian của mỗi lần phát không quá dài, khung giờ nên từ sau 6 giờ 30 phút sáng và trước 18 giờ tối hàng ngày, lúc người dân có thể tập trung lắng nghe tốt nhất trong ngày. Kênh truyền thông xã sẽ vẫn là yếu tố quan trọng nhất cho giải trình của chính quyền cấp cơ sở, bất chấp sự phổ cập của các phương tiện khác do có được những lợi thế của nó.

Trần Quyết Thắng, Hoàng Thị Thuý Vân

Đại học Nội vụ Hà Nội



[1] Chương trình Sáng kiến thu hồi tài sản thất thoát (StAR), ấn phẩm: “Việc công, lợi ích tư bảo đảm trách nhiệm giải trình thông qua công khai thu nhập, tài sản”, tr. 7.

[2] Xem thêm tại: Trần Quyết Thắng, Trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 1, năm 2015, tr. 14.

[3] Xem chi tiết tại: Trần Quyết Thắng, Trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội.

[4]PAPI 2014, tr. 61.

[5]Xem chi tiết: PAPI 2014.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Sự tham gia của Viện kiểm sát trong các phiên tòa xét xử sơ thẩm và phúc thẩm vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn

15/09/2015

Bản dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi được trình ra Quốc hội xem xét tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIII vừa qua diễn ra vào tháng 5/2015 . Một trong số những nội dung được xây dựng hoàn toàn mới trong dự thảo Bộ luật này chính là việc bổ sung chế định thủ tục rút gọn (TTRG) giải quyết vụ án dân sự. Hàng loại các vấn đề được đặt ra, đó là vai trò của Viện kiểm sát (VKS) trong các vụ án dân sự được áp dụng TTRG có gì khác so với các vụ án dân sự giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường, pháp luật tố tụng dân sự (TTDS) sẽ quy định vấn đề này như thế nào, sự tham gia phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm của VKS trong các vụ án dân sự có cần thiết hay không…

Theo quan điểm của chúng tôi, dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi sắp tới nên quy định cụ thể về vai trò kiểm sát trong TTDS. Theo đó, vai trò này có thể thông qua việc kiểm tra, giám sát các giai đoạn của quá trình tố tụng bằng nghiên cứu hồ sơ, thực hiện hành vi yêu cầu, kiến nghị và đặc biệt là kháng nghị theo quy định của pháp luật (quy định tại khoản 1 Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành) và chỉ tham gia giới hạn trong một số phiên tòa. Chính vì vậy, không cần có sự tham gia của đại diện VKS trong các phiên tòa sơ thẩm đối với vụ án được giải quyết theo TTRG và đại diện Viện kiểm sát chỉ tham gia phiên tòa phúc thẩm trong trường hợp có kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát.

1. Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự

Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013[1] quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Ở đại đa số các nước trên thế giới, cơ quan công tố không có vai trò trong các vụ án dân sự. Tuy nhiên ở Việt Nam, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì VKS có nhiệm vụ “thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp”.

Đối với chức năng “kiểm sát hoạt động tư pháp” của VKS được quy định trong các đạo luật về tố tụng. Phạm vi pham gia của VKS trong hoạt động TTDS vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau. Trong quá trình lấy ý kiến dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, có ý kiến nêu rằng VKS thực hiện việc giám sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án chỉ nên thông qua quyền năng kháng nghị. Nhưng có quan điểm khác cho rằng nên giữ nguyên quy định sự tham gia của VKS như tại khoản 2 Điều 21 của Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành, cụ thể: “Viện kiểm sát nhân dân tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; các phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần”.

Như vậy, dựa trên nền tảng nguyên tắc hiến định, nguyên tắc kiểm sát hoạt động xét xử trong TTDS nói chung và trong việc xét xử theo TTRG nói riêng là vấn đề phụ thuộc vào quy định của pháp luật TTDS.

2. Sự tham gia của Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết theo thủ tục rút gọn

Vai trò, chức năng của VKS trong TTDS nói chung và tại phiên tòa sơ thẩm được quy định cụ thể tại Điều 21, Điều 207 và Điều 234 Bộ luật Tố tụng dân sự. Theo đó, VKS tham gia hầu hết các phiên tòa sơ thẩm (khoản 2 Điều 21).

Phiên tòa sơ thẩm có thể bị hoãn nếu vắng mặt đại diện VKS trong các trường hợp VKS phải có mặt (quy định tại Điều 207 và Điều 208). Hoạt động của VKS tại phiên tòa sơ thẩm thể hiện qua bước “hỏi” của phiên tòa, tiếp theo đó tại bước “tranh luận”. VKS chỉ phát biểu ý kiến về việc chấp hành pháp luật của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án mà không phát biểu về quan điểm giải quyết vụ án (theo quy định tại Điều 234).

Như vậy, đối với các phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án dân sự nói chung hiện nay (trong đó có các vụ án dân sự có tiêu chí để áp dụng TTRG), theo quy định tại khoản 2 Điều 21 có thể nhận thấy, hầu hết các phiên tòa này đều phải có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát (vì đối với vụ án mà Tòa án thu thập chứng cứ là khá phổ biến trong thực tiễn xét xử hiện nay). Vì vậy, lẽ dĩ nhiên, nếu đại diện VKS vắng mặt thì Tòa án phải hoãn phiên tòa.

Xung quanh vấn đề cần quy định về sự tham gia của VKS trong các phiên tòa sơ thẩm dân sự hiện nay còn có nhiều ý kiến khác nhau.

Có quan điểm cho rằng, cần có sự tham gia của VKS trong tố tụng dân sự theo như quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự hiện nay để cơ quan này kiểm sát tất cả các hành vi tố tụng của Tòa án và những người tham gia tố tụng trước, trong và sau khi tòa diễn ra. Vì theo yêu cầu của cải cách tư pháp, hoạt động xét xử tại phiên tòa, phiên họp là trọng tâm trong giải quyết các vụ việc dân sự. Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, phiên họp. Do đó, nếu VKS không tham gia phiên tòa, phiên họp sẽ không giải quyết tốt được quyền kiểm sát của mình. Có ý kiến chỉ rõ rằng: “Trong các phương thức kiểm sát thì hoạt động kiểm sát tại phiên tòa là phương thức hiệu quả nhất. Nếu chỉ tham gia nghiên cứu hồ sơ, quyết định, bản án thì VKS rất khó phát hiện vi phạm. Điều này đã được chứng minh qua thực tiễn”[2].

Quan điểm khác ngược lại cho rằng, việc quy định VKS tham gia các phiên tòa sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự như hiện nay là không cần thiết. Chính điều này trên thực tế đã làm cho nhiều phiên tòa sơ thẩm phải bị hoãn vì lý do vắng mặt của VKS. Ngoài ra, không quy định bắt buộc phải có đại diện VKS tham gia các phiên tòa sơ thẩm cũng không làm mất đi hoặc hạn chế quyền giám sát hoạt động tư pháp của VKS. Bởi lẽ, theo quy định hiện nay, VKS có thể thực hiện quyền kiểm sát của mình thông qua kiểm tra hồ sơ vụ án để thực hiện quyền kháng nghị, kiến nghị hoặc yêu cầu (theo quy định tại khoản 1 Điều 21).

Như vậy, cần cân nhắc bản chất vụ việc dân sự cốt là ở hai bên đương sự tự định đoạt[3] khi xem xét vấn đề có cần thiết quy định sự tham gia của VKS ở mức độ nào. Nên chăng giới hạn sự tham gia của VKS trong các phiên tòa sơ thẩm, đặc biệt đối với những vụ án áp dụng TTRG[4] nhằm tránh sự can thiệp quá sâu và không cần thiết của VKS và tránh việc kéo dài thời hạn giải quyết tranh chấp. Đây là vấn đề cần phải được cân nhắc, xem xét và quy định cho phù hợp bởi lẽ “nếu có VKS tham gia là vi phạm nguyên tắc lợi ích tư đang được tố tụng thế giới tôn trọng. Nếu cho VKS tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm dân sự chỉ để nhận định về tố tụng xem tòa xử đúng hay sai thì không có ý nghĩa”[5].

Trong thực tiễn xét xử khá nhiều các vụ án dân sự nói chung đã có sự thừa nhận hoàn toàn nghĩa vụ từ phía bị đơn nhưng Tòa án vẫn phải gửi hồ sơ cho VKS nghiên cứu và chỉ có thể tiến hành phiên tòa khi có mặt của VKS. Nhưng trên thực tế, qua nghiên cứu của chúng tôi, với tính chất của các vụ án như vậy thì “đóng góp” của VKS dường như rất hạn chế. Khi tham gia vụ án này tại phiên tòa sơ thẩm, ý kiến của VKS cũng chỉ giới hạn như sau: “Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án thấy rằng Thẩm phán đã thực hiện đúng nội dung quy định tại Điều 41 Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án về thẩmquyền thụ lý vụ án, xác định tư cách pháp lý và mối quan hệ của những người tham gia tố tụng cũng như thời hạn gửi các văn bản tố tụng, hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu”.

Như vậy, việc gửi hồ sơ cho VKS nghiên cứu và sự tham gia của VKS tại phiên tòa cũng chỉ giới hạn ở việc kiểm tra các trình tự, tố tụng đã tuân thủ hay chưa chứ không có ý kiến gì về nội dung và đề xuất về phương án giải quyết vụ án vì bị đơn đã thừa nhận nghĩa vụ ngoài việc VKS có thể cho ý kiến về tính hợp pháp của các yêu cầu khởi kiện.

Thiết nghĩ, khi giải quyết những vụ án dân sự có tiêu chí áp dụng TTRG như khi bị đơn đã thừa nhận hoàn toàn nghĩa vụ nhưng vì nhiều lý do khác nhau bị đơn không thực hiện nghĩa vụ nhưng Tòa án vẫn phải tiến hành các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật, vẫn phải bảo đảm việc hòa giải cho dù đa số trường hợp mang tính hình thức… Đặc biệt vẫn phải bảo đảm sự tham gia của VKS mà vai trò và sự đóng góp không thực sự là cần thiết trong những trường hợp này.

Dự thảo của Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi hoàn toàn không đề cập đến sự tham gia của VKS tại phiên tòa sơ thẩm có áp dụng đặc thù của các vụ án áp dụng TTRG. Theo quy định tại Điều 22 của dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự về nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS vẫn ghi nhận hai phương án sửa đổi: Một phương án giữ nguyên như Điều 21 của Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành[6] và một phương án khác thu hẹp sự tham gia của VKS trong các phiên tòa sơ thẩm[7]. Tuy nhiên, cả hai phương án đều không quy định đối với vụ án áp dụng TTRG thì VKS có tham gia phiên tòa sơ thẩm hay không.

Tác giả cho rằng để hài hòa giữa việc bảo đảm nguyên tắc hiến định là Viện kiểm sát thực hiện chức năng giám sát hoạt động xét xử và hiệu quả công tác xét xử, nên xác định vai trò tham gia của VKS tại giai đoạn sơ thẩm đối với các vụ án được giải quyết theo TTRG ở mức đủ để bảo đảm việc thực hiện chức năng giám sát của VKS.

Như vậy, đối với các vụ án dân sự áp dụng TTRG, thì ở cấp sơ thẩm vai trò của VKS chỉ nên giới hạn trong việc thực hiện quyền kiểm sát của mình thông qua kiểm tra hồ sơ vụ án để thực hiện quyền kháng nghị, kiến nghị hoặc yêu cầu (theo quy định tại khoản 1 Điều 21). Bởi lẽ, các vụ án được giải quyết theo TTRG thì về cơ bản các tình tiết của vụ án đã rõ, cũng không phức tạp kể cả về mặt xác định sự thật khách quan của vụ án và áp dụng pháp luật nên VKS không cần thiết phải tham gia phiên tòa để giám sát trực tiếp hoạt động xét xử của Tòa án.

Như vậy, nếu lựa chọn phương án giữ nguyên như quy định tại Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành, khi đó vụ án áp dụng TTRG mà đáp ứng một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 21thì vẫn phải có sự tham gia của VKS tại phiên tòa sơ thẩm để giải quyết đối với vụ án đó. Chúng tôi cho rằng, quy định này là không phù hợp. Quan điểm của chúng tôi, dù có lựa chọn phương án nào cho sự tham gia của VKS tại các phiên tòa dân sự nói chung thì cũng không thể áp dụng tương tự cho những vụ án dân sự áp dụng TTRG.

3. Về vai trò và phạm vi tham gia của Viện kiểm sát tại cấp phúc thẩm

Theo quy định tại Điều 264 Bộ luật Tố tụng dân sự (tương ứng với Điều 293 dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi), kiểm sát viên VKS cùng cấp phải tham gia các phiên tòa phúc thẩm. Cũng tương tự như sự phân tích vai trò của VKS khi thực hiện chức năng kiểm tra và giám sát hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động TTDS nói riêng. Theo tác giả, nếu theo hướng quy định hạn chế sự tham gia của VKS ở thủ tục sơ thẩm thì cần thiết ở phiên tòa phúc thẩm cũng cần phải có quy định hạn chế sự tham gia của VKS. Chúng tôi cho rằng, không nên quy định đại diện VKS tham gia phiên tòa phúc thẩm trừ trường hợp việc xét xử phúc thẩm được thực hiện do có kháng nghị của VKS.

Khác với sự tham gia của VKS tại phiên tòa sơ thẩm không được quy định cụ thể, Điều 321 dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi hiện nay đã có ghi nhận rõ về việc VKS chỉ tham gia phiên tòa phúc thẩm khi có kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với vụ án áp dụng TTRG. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với quy định này.

Kết luận

Khi xây dựng các quy định liên quan đến việc tham gia của VKS trong quá trình tố tụng giải quyết những vụ án dân sự áp dụng TTRG cần nghiên cứu và sửa đổi để làm sao vừa bảo đảm vai trò và chức năng kiểm sát của VKS trong TTDS nhưng đồng thời vẫn đảm bảo nguyên tắc tự do quyết định và định đoạt của đương sự trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự nói chung và đặc biệt làm sao để đảm bảo cho việc giải quyết những vụ án dân sự có tiêu chí để áp dụng TTRG được nhanh chóng, rút gọn thời gian mà vẫn hiệu quả và đảm bảo công lý.

Từ đây, chúng tôi nhận thấy cần xem xét và cân nhắc khi quy định sự tham gia của VKS tại các phiên tòa dân sự áp dụng TTRG tại Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi sắp tới, làm sao đảm bảo hài hòa giữa mục tiêu công lý với quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; tránh việc kéo dài thời hạn giải quyết tranh chấp gây lãng phí thời gian, chi phí cho các đương sự và cho toàn xã hội. Cụ thể, tác giả đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 21 và khoản 2 Điều 264 Bộ luật Tố tụng dân sự (tương ứng Điều 232, Điều 22 và khoản 5 Điều 321 dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi) về sự tham gia phiên tòa của VKS đối với những vụ án áp dụng TTRG theo hướng VKS chỉ tham gia phiên tòa phúc thẩm trong trường hợp có kháng nghị của VKS.

Đặng Thanh Hoa



[1]Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Hiến pháp này vào ngày 28/11/2013.

[2]Xem ý kiến phát biểu của Nguyễn Xuân Thủy, “Viện Kiểm sát cần có mặt tại tòa dân sự” trên trang web http://www.thesaigontimes.vn/131616/Dai-bieu-QH-Vien-Kiem-sat-can-co-mat-tai-toa-dan-su.html.

[3]Xem ý kiến phát biểu của Nguyễn Thị Hoài Phương, Sửa đổi bộ luật tố tụng dân sự: Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa dân sự, không cần thiết? trên trang web https://luatminhkhue.vn/dan-su/sua-doi-bo-luat-to-tung-dan-su-vien-kiem-sat-tham-gia-phien-toa-dan-su,-khong-can-thiet-.aspx.

[4]Điều 314 dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi quy định điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn: “1. Tranh chấp có giá trị dưới 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) được áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Vụ án đơn giản, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ rõ ràng, đủ cơ sở giải quyết Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ; b) Các đương sự đều có nơi cư trú rõ ràng; c) Không có yếu tố nước ngoài;

2. Tranh chấp có giá trị từ 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) trở lên được áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Các đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ rõ ràng và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ; b) Các đương sự đều có nơi cư trú rõ ràng; c) Không có yếu tố nước ngoài; d) Các đương sự đề nghị hoặc đồng ý áp dụng thủ tục rút gọn”.

[5]Xem ý kiến phát biểu của Nguyễn Thị Hoài Phương, Sửa đổi bộ luật tố tụng dân sự: Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa dân sự, không cần thiết? trên trang webhttps://luatminhkhue.vn/dan-su/sua-doi-bo-luat-to-tung-dan-su-vien-kiem-sat-tham-gia-phien-toa-dan-su,-khong-can-thiet-.aspx.

[6]… 2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; các phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần; 3. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.

[7]… 2. Viện kiểm sát nhân dân tham giacácphiên tòasơ thẩm đối với những vụ án đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, hoặc có đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần; 3. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa phúc thẩm đối với các vụ án mà Viện kiểm sát tham gia phiên tòa sơ thẩm và những vụ án mà Viện kiểm sát kháng nghị, phiên họpgiám đốc thẩm, tái thẩm.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Giải quyết tranh chấp lao động ở Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

01/10/2015

Với lịch sử phát triển của Luật Lao động Hoa Kỳ cho thấy, những quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp lao động bao gồm cả cơ chế giải quyết tranh chấp lao động của Nhà nước và tư nhân, trong đó khuyến khích cơ chế giải quyết tư nhân, đồng thời cũng đảm bảo hài hòa giữa tính bắt buộc và tính tự nguyện trong giải quyết tranh chấp lao động. Đây là những yếu tố có thể tham khảo trong việc thiết lập các cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

1. Cơ chế giải quyết tranh chấp lao động ở Hoa Kỳ

1.1. Những đặc trưng cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tại Hoa Kỳ

Thứ nhất, cơ chế giải quyết tranh chấp tư nhân được ưu tiên hơn cơ chế giải quyết tranh chấp nhà nước

Phần lớn các nước trên thế giới hiện nay có xu hướng vừa duy trì các cơ chế giải quyết tranh chấp lao động của Nhà nước, vừa thừa nhận và khuyến khích các cơ chế giải quyết tranh chấp lao động do các bên tranh chấp tự thiết lập[1]. Ở Hoa Kỳ, cơ chế giải quyết tranh chấp tư nhân đóng vai trò quan trọng hơn so với cơ chế giải quyết tranh chấp của Nhà nước. Cơ chế giải quyết tranh chấp do các bên tự thiết lập được khuyến khích vì những lý do sau:

– So với cơ chế giải quyết tranh chấp do Nhà nước thiết lập, các cơ chế do các bên thỏa thuận tỏ ra phù hợp với hoàn cảnh thực tế và yêu cầu của các bên tranh chấp;

– Cơ chế giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận có ưu điểm đó là được tự do lựa chọn người giải quyết tranh chấp có kiến thức, kinh nghiệm trên cơ sở sự tin tưởng của cả hai bên;

– Các cơ chế giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận góp phần ngăn ngừa và hạn chế các “hành động công nghiệp” (được hiểu là các hành động của 01 trong 02 bên nhằm gây sức ép với bên còn lại như đình công, bế xưởng của bên người lao động hay việc cho thôi việc hàng loạt, cấm tăng ca của bên người sử dụng lao động). Với ý nghĩa đó, cơ chế giải quyết tranh chấp này vừa tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, vừa giúp giảm bớt gánh nặng của Nhà nước trong việc hỗ trợ, can thiệp giải quyết các “hành động công nghiệp”.

Nhiều nước trên thế giới đã có những biện pháp khác nhau để khuyến khích cơ chế giải quyết tranh chấp lao động có tính tư nhân. Những biện pháp là ghi nhận cơ chế trong pháp luật lao động; quy định bắt buộc các bên phải thỏa thuận về cơ chế giải quyết tranh chấp trong thỏa ước lao động tập thể (có nước yêu cầu thỏa ước tập thể phải quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp nói chung, nhưng có nước chỉ đòi hỏi thỏa ước lao động tập thể có quy định về giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng thỏa ước hoặc các tranh chấp về lợi ích[2]); sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý lao động. Tại Hoa Kỳ, do coi trọng cơ chế giải quyết tranh chấp tư nhân, cơ quan trung gian và hòa giải liên bang (Federal Mediation and Conciliation Service) đã thực hiện nhiều chương trình hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho các cơ chế giải quyết tranh chấp lao động mang tính tư nhân.

Thứ hai, tính tự nguyện của cơ chế giải quyết tranh chấp lao động được đề cao.

Trong cơ chế giải quyết tranh chấp lao động, yếu tố bắt buộc và tự nguyện phụ thuộc vào quan điểm của Nhà nước. Nhà nước càng tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên và khuyến khích việc giải quyết tranh chấp thông qua thỏa thuận, yếu tố tự nguyện càng được đề cao. Trái lại, nếu Nhà nước càng nhấn mạnh mục tiêu ngăn ngừa các hành động công nghiệp thì yếu tố bắt buộc càng biểu hiện rõ nét[3]. Điều cần chú ý là, cơ chế giải quyết tranh chấp của Nhà nước không nhất thiết phải là cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc. Ở Hoa Kỳ, thủ tục hòa giải và trọng tài do các cơ quan giải quyết tranh chấp của Nhà nước tiến hành có tính tự nguyện rất cao[4]. Trong khi đó, thủ tục giải quyết tranh chấp bằng cơ quan giải quyết tranh chấp do các bên thiết lập cũng có thể hàm chứa yếu tố bắt buộc. Bởi như đã nêu trên, pháp luật nhiều nước đòi hỏi các bên phải thỏa thuận về phương thức giải quyết tranh chấp lao động khi ký kết thỏa ước lao động tập thể hoặc phải thiết lập cơ quan giải quyết tranh chấp trong doanh nghiệp.

Đối với hòa giải bắt buộc, là trường hợp các bên tranh chấp không có quyền lựa chọn việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp và không được thỏa thuận về cách thức tiến hành hòa giải. Còn trường hợp các bên tranh chấp có quyền định đoạt việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp hoặc có thể thỏa thuận về cách thức tiến hành hòa giải, đó là hòa giải tự nguyện.

1.2. Nhận định một số đặc điểm trong cơ chế giải quyết tranh chấp lao động ở Hoa Kỳ

Nghiên cứu những đặc trưng của cơ chế giải quyết tranh chấp lao động của Hoa Kỳ cho thấy:

Thứ nhất, cơ chế giải quyết tranh chấp lao động ở Hoa Kỳ dựa trên sự phân biệt hai loại tranh chấp: Tranh chấp về quyền và tranh chấp về lợi ích. Phương thức chủ yếu để giải quyết tranh chấp về lợi ích là thương lượng tập thể. Nếu không giải quyết được tranh chấp qua thương lượng, thông thường các phương thức có tính hỗ trợ như trung gian hay hòa giải sẽ được sử dụng. Trong khi đó, tranh chấp lao động về quyền chủ yếu được giải quyết thông qua thủ tục giải quyết khiếu nại (grievances) hoặc trọng tài và đôi khi được đưa đến Tòa án để giải quyết[5].

Thứ hai, cơ chế giải quyết tranh chấp lao động ở Hoa Kỳ có tính tự nguyện cao. Ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt khi tranh chấp lao động xảy ra trong khu vực nhà nước, các bên tranh chấp có toàn quyền trong việc lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp, phương thức giải quyết tranh chấp, cũng như trình tự, thủ tục tiến hành giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, cơ chế giải quyết tranh chấp ở Hoa Kỳ cũng hàm chứa một số yếu tố có tính bắt buộc.

Theo Luật Quan hệ lao động quốc gia năm 1935 (NLRA), thương lượng tập thể là trách nhiệm của người sử dụng lao động và đại diện của tập thể lao động. NLRA cũng có những quy định về các nội dung bắt buộc của thương lượng tập thể (mục 158 (d)). Tuy vậy, tính tự nguyện vẫn là yếu tố nổi trội, bởi lẽ các bên tranh chấp hoàn toàn tự do trong việc quyết định trình tự và cách thức tiến hành thương lượng tập thể, và điều quan trọng là Nhà nước hiếm khi can thiệp vào nội dung của thương lượng tập thể. Khi thương lượng tập thể bất thành, ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt, người lao động và người sử dụng lao động được toàn quyền lựa chọn phương thức để giải quyết dứt điểm tranh chấp lao động. Hơn nữa, pháp luật Hoa Kỳ cũng không đòi hỏi các bên phải tìm ra được giải pháp cuối cùng cho những vấn đề thương lượng.

Thứ ba, cơ chế giải quyết tranh chấp lao động của Hoa Kỳ dựa trên việc sử dụng đa dạng nhiều phương thức giải quyết tranh chấp. Tranh chấp lao động tập thể về quyền có thể được giải quyết thông qua thủ tục khiếu nại, trọng tài hay Tòa án. Trong khi đó, tranh chấp lao động tập thể về lợi ích thường được giải quyết bằng thương lượng, trung gian hay hòa giải. Đối với tranh chấp lao động tập thể xảy ra trong khu vực nhà nước, trọng tài bắt buộc hoặc điều tra sự việc cũng có thể được áp dụng. Trong những thập niên gần đây, phương thức trọng tài tự nguyện với phán quyết có tính khuyến nghị hay bắt buộc cũng bắt đầu được sử dụng rộng rãi để giải quyết các tranh chấp lao động tập thể về lợi ích trong khu vực tư nhân. Tính đa dạng còn thể hiện ở chỗ, pháp luật không đặt ra một trình tự giải quyết tranh chấp lao động tập thể chung, thống nhất mà để cho các bên tranh chấp tự thỏa thuận và quyết định vấn đề này (thường là trong thỏa ước lao động tập thể). Chính vì vậy, cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tập thể của các doanh nghiệp, các ngành kinh tế – kỹ thuật khác nhau cũng rất khác nhau.

Thứ tư, tuy có vai trò nhất định trong cơ chế tranh chấp lao động tập thể, song mức độ can thiệp của Nhà nước vào quá trình giải quyết tranh chấp lao động là không nhiều. Về cơ bản, Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào quá trình giải quyết tranh chấp lao động, mà chỉ thiết lập hành lang pháp lý cho quá trình đó (chẳng hạn như thông qua các quy định về trách nhiệm thương lượng tập thể, đại diện của các bên trong thương lượng, nội dung thương lượng…). Theo NLRA, Ủy ban quan hệ lao động quốc gia có nhiệm vụ ngăn ngừa các thông lệ lao động không công bằng trong thương lượng tập thể. Trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình, cơ quan này cũng hầu như không can thiệp vào nội dung của quá trình thương lượng tập thể. Ngay cả Tòa án cũng rất hiếm khi giải quyết các tranh chấp lao động tập thể về quyền. Trên thực tế, Cơ quan trung gian và hòa giải Liên bang (FMCS) cũng tham gia giải quyết khá nhiều tranh chấp lao động tập thể, song trong những trường hợp như vậy, cơ quan này thường đóng vai trò như là một cơ quan giải quyết tranh chấp tư nhân do các bên lựa chọn, chứ không phải là một cơ quan nhà nước.

Thứ năm, cơ chế giải quyết tranh chấp lao động ở Hoa Kỳ dựa trên các quy định khá đơn giản và linh hoạt về đại diện của người lao động và người sử dụng lao động. Khác với nhiều nước trên thế giới, pháp luật Hoa Kỳ không đòi hỏi đại diện của tập thể lao động phải là một tổ chức công đoàn có đăng ký. Điều quan trọng là đại diện đó phải là người được tập thể lao động bầu chọn (mục 157 và 159 NLRA). Pháp luật Mỹ cũng không đòi hỏi các tổ chức của người sử dụng lao động phải tiến hành một thủ tục riêng biệt nào đó (chẳng hạn như đăng ký) để được thừa nhận là đại diện của người sử dụng lao động.

2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc xây dựng quan hệ lao động lành mạnh đảm bảo quyền lợi của người sử dụng lao động và người lao động đòi hỏi việc giải quyết các tranh chấp lao động cần phải được hội nhập với quốc tế và học hỏi những quốc gia có lịch sử phát triển quan hệ lao động lâu đời. Phân tích cơ chế giải quyết tranh chấp lao động của Hoa Kỳ, liên hệ với tình hình Việt Nam hiện nay, có thể đưa ra một số khuyến nghị:

Thứ nhất, cần có một cơ quan hòa giải cấp quốc gia

Trước yêu cầu thực tế của Việt Nam, cần xây dựng một cơ quan hòa giải quốc gia (CQHGQG) là cơ quan thống nhất toàn quốctrong việc xử lý và quản lý hòa giải các tranh chấp lao động. CQHGQG không phải là cơ quan xây dựng hay thực thi pháp luật, vì vậy, hòa giải viên ở cơ quan này không có vai trò thực thi luật lao động, thanh tra các vấn đề lao động hay hướng dẫn thực hiện luật lao động như các cán bộ Sở Lao động, Thương binh và Xã hội. Thay vào đó, họ được coi là các cán bộ trung gian, làm việc với công đoàn và doanh nghiệp khi được các bên yêu cầu. Những hòa giải viên chuyên trách của CQHGQG trước hết là các chuyên gia có kinh nghiệm thực tế về quan hệ lao động là tiêu chí quan trọng nhất.

CQHGQG đóng vai trò như là một cơ quan giải quyết tranh chấp tư nhân do các bên lựa chọn. Là cơ quan độc lập cung cấp dịch vụ hòa giải và giải quyết các xung đột khác, cơ quan này có thể chịu sự quản lý của các cơ quan hành chính nhưng hoạt động độc lập và được thiết kế nhằm giúp đỡ các bên trong quá trình hòa giải. Các dịch vụ của CQHGQG có thể được sử dụng bởi bất kỳ bên nào liên quan đến tranh chấp lao động. CQHGQG cũng cung cấp các hòa giải viên trong trường hợp tranh chấp khẩn cấp mang tính quốc gia theo quy định pháp luật hoặc nếu các bên có mong muốn.

Thứ hai, làm rõ 2 cơ chế giải quyết tranh chấp lao động (cơ chế nhà nước và cơ chế tư nhân), trong đó cần có biện pháp hữu hiệu khuyến khích cơ chế tư nhân

Theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2012, có thể hiểu cơ chế giải quyết tranh chấp lao động của Nhà nước được thể hiện bởi cơ chế giải quyết tranh chấp lao động của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân; cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tư nhân có thể được hiểu là cơ chế giải quyết tranh chấp lao động thông qua hòa giải viên lao động hoặc trọng tài lao động. Tuy nhiên, việc xác định hoặc thiết lập những ranh giới hay mục tiêu của từng cơ chế giải quyết tranh chấp chưa được thể hiện rõ ràng. Vì vậy, cần có các quy định ghi nhận các cơ chế như vậy trong pháp luật lao động; quy định bắt buộc các bên phải thỏa thuận về cơ chế giải quyết tranh chấp trong thỏa ước lao động tập thể.

Bên cạnh việc xây dựng CQHGQG, việc thành lập các trung tâm hòa giải tranh chấp lao động mang tính tư nhân cần phải được tính đến những đặc điểm sau:

– Là cơ quan dịch vụ mang tính nghề nghiệp được thành lập hợp pháp theo các quy định của pháp luật và có tư cách pháp nhân. Cơ quan này chịu sự quản lý về nghề nghiệp của CQHGQG.

– Hòa giải viên tư nhân (người làm việc tại trung tâm hòa giải tư nhân) là người có trình độ, tiêu chuẩn hòa giải viên, được cấp giấy chứng nhận hòa giải viên do CQHGQG cấp. Giấy chứng nhận này như một chứng chỉ nghề nghiệp chỉ được cấp cho người đạt đủ những tiêu chuẩn mà Nhà nước quy định.

– Tại đây, có một hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý về thỏa ước lao động tập thể mà trung tâm hòa giải có thể sử dụng và các hòa giải viên có thể tiếp cận. Những hòa giải viên thuộc cơ quan hòa giải tư nhân nằm trong khu vực địa giới hành chính nào có quyền tiếp cận với cơ sở dữ liệu về thỏa ước tập thể tại nơi đó để có thể chủ động liên lạc hay giới thiệu về dịch vụ hòa giải của mình.

– Trung tâm hòa giải và hòa giải viên tư nhân có đầy đủ chức năng, nhiệm vụ hòa giải tranh chấp lao động theo quy định của pháp luật, dựa theo những trình tự tối thiểu, có thể lập những trình tự hòa giải mang đặc trưng riêng và có hiệu quả trong hoạt động hòa giải.

– Chi phí cho hoạt động của cơ quan hòa giải theo cơ chế tự quản, có thể xây dựng theo mô hình doanh nghiệp. Chi phí cho việc hòa giải có thể do người sử dụng lao động, người lao động là người yêu cầu hòa giải hoặc do 02 bên cùng nhau chi trả theo thỏa thuận của mỗi bên.

Thứ ba, xây dựng mô hình hòa giải đảm bảo cả hòa giải chủ động và hòa giải bị động phụ thuộc vào yếu tố bắt buộc hay tự nguyện trong cơ chế giải quyết tranh chấp

Hệ thống hòa giải của Việt Nam hiện hành chỉ thực hiện hòa giải khi có yêu cầu. Đây là cơ chế hòa giải bị động. Mặc dù tại Điều 72 của Bộ luật Lao động năm 2012 có quy định về vai trò của cơ quan nhà nước trong việc hỗ trợ thương lượng tập thể, và điều này có thể coi hoạt động hòa giải được thực hiện bởi hòa giải viên một cách chủ động khi phát hiện quan hệ lao động có thể dẫn đến tranh chấp, tuy nhiên, chưa có quy định cụ thể. Nghị định số 46/2013/NĐ-CP ngày 10/05/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về tranh chấp lao động cũng không cụ thể hóa được tinh thần này. Vì vậy, về cơ bản, cần có các quy định cụ thể, đầy đủ thể hiện tinh thần đảm bảo về một cơ chế hòa giải có cả “bị động” và “chủ động”. Để có được cơ chế hòa giải chủ động, theo chúng tôi, cần giải quyết một số vấn đề sau:

(i) Cơ quan hòa giải có nhiệm vụ hòa giải các nội dung trong thỏa ước lao động tập thể và giải quyết các vụ việc gây mâu thuẫn. Nhiệm vụ này thể hiện tính “bị động” trong việc thực hiện hòa giải. Ở Việt Nam hiện nay, người lao động, tập thể người lao động và người sử dụng lao động khi gặp bế tắc trong quá trình thương lượng để đạt đến một thỏa thuận, thỏa ước lao động tập thể hoặc trước khi có cuộc đình công, hòa giải viên thường không được mời đến bởi bất kỳ bên nào trong tranh chấp. Ngay cả trong trường hợp các bên có sự vi phạm hoặc hiểu sai các nội dung trong hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, người sử dụng lao động và người lao động thường chọn các giải pháp đơn phương, và trong trường hợp nghiêm trọng hơn, bên người lao động thường tổ chức đình công một cách tự phát mà không có sự lãnh đạo của công đoàn, còn bên người sử dụng lao động thường dùng các “hành động công nghiệp” như bế xưởng hay đình chỉ công việc hoặc cắt giảm nhân công … điều này dẫn đến quan hệ lao động càng trở nên xấu đi. Vì vậy, việc cơ quan hòa giải được mời đến ngay cả trước khi có tranh chấp hay khi tranh chấp có khả năng xảy ra sẽ giúp giải quyết tranh chấp lao động chủ động hơn.

(ii) Tạo ra nhiệm vụ “hòa giải phòng ngừa”[6] là một trong các biện pháp thể hiện sự “chủ động” của hòa giải. Theo đó, Cơ quan hòa giải khuyến khích công đoàn và doanh nghiệp tham gia các khóa đào tạo miễn phí hoặc có phí được tiêu chuẩn hóa và tăng cường năng lực của các bên trong thương lượng, đối thoại và giải quyết các vấn đề tại nơi làm việc. Các khóa đào tạo có thể được thiết kế theo nhiều chủ đề nhằm xử lý các vấn đề khác nhau có thể xảy ra tại nơi làm việc và những vấn đề khác liên quan trực tiếp đến quan hệ giữa các bên trong quá trình lao động.

(iii) Bên cạnh “hòa giải phòng ngừa”, một nhiệm vụ thể hiện tính “chủ động” của mô hình hòa giải là trao cho cơ quan hòa giải hay hòa giải viên nhiệm vụ truyền thông và đào tạo cho cộng đồng. Một cơ quan hòa giải được thiết lập ra nhưng chỉ ở một nơi và chỉ thực hiện hòa giải khi có yêu cầu của một bên là một cơ quan thiếu tính chủ động. Cơ quan hòa giải phải giao nhiệm vụ cho các hòa giải viên đến thăm các đối tác để phổ biến các thông tin về các dịch vụ hòa giải, xây dựng quan hệ với các đối tác là doanh nghiệp (nơi mà họ có thể đã thực hiện các nhiệm vụ hòa giải trong quá khứ và có thể sẽ thực hiện trong tương lai) các cơ quan quản lý nhà nước, công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên. Việc thực hiện nhiệm vụ này, giúp cho hòa giải viên (và cơ quan hòa giải) nắm được thông tin có thể có đang diễn ra tại doanh nghiệp, thông tin từ công đoàn, thông tin chính sách từ cơ quan quản lý, bên cạnh đó cũng tạo ra sự tin cậy cho họ mỗi khi có nhu cầu về tư vấn hay giải quyết tranh chấp lao động.

ThS. Đào Xuân Hội

Khoa Luật, Đại học Lao động – Xã hội



[1]International Labour Office, Conciliation and Arbitration Procedures in Labour Disputes: A Comparative Study, 1980, tr.16.

[2]Xem thêm: TS. Trần Hoàng Hải (chủ biên), Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể – Kinh nghiệm của một số nước đối với Việt Nam (Sách chuyên khảo), Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 92 – 93.

[3]Malaysia và Singapore là những ví dụ điển hình.

[4]T. Hanami & R. Blanpain (1989), Industrial Conflict Resolution in Market Economies: A Study of Australia, the Federal Republic of Germany, Italy, Japan and the USA, tr. 267, 273.

[5]T. Hanami & R. Blanpain (1989), Industrial Conflict Resolution in Market Economies: A Study of Australia, the Federal Republic of Germany, Italy, Japan and the USA, tr. 256-273.

[6] Jan Jung-Min Sunoo, Phân tích các nhân tố chính là nên một hệ thống giải quyết tranh chấp lao động thành công: câu chuyện của Cơ quan Hòa giải Liên bang Hoa Kỳ, Dự án Siir/USAID, Hà Nội, 2013.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh từ những nguyên lý trái quyền

28/08/2015

Trái quyền còn gọi là quyền đối nhân, là quyền cho phép một người gọi là trái chủ đòi hỏi một người khác – gọi là người thụ trái, thực hiện một việc . Trong ngôn ngữ thông dụng, trái quyền còn được gọi là quyền đòi nợ. Điều đó có nghĩa rằng, để quan hệ trái quyền vận hành hoàn hảo, nhất thiết phải có sự hợp tác của cả trái chủ và thụ trái, chứ một mình trái chủ thực hiện thì khó đạt hiệu quả. Về mặt cấu trúc kỹ thuật, trái quyền được hình thành từ ba yếu tố: Trái chủ (chủ thể có), người thụ trái (chủ thể nợ) và đối tượng. Cũng như đối với vật quyền, trong khoa học pháp lý, có nhiều cách phân loại trái quyền. Với cách phổ biến nhất, người ta chia các trái quyền thành hai nhóm: (i) Trái quyền có đối tượng là làm hoặc không làm một việc và (ii) Trái quyền có đối tượng là chuyển giao một vật quyền.

Trái quyền có đối tượng làm một việc là một quan hệ nghĩa vụ trong đó người thụ trái cam kết thực hiện một công việc vì lợi ích của trái chủ, ví dụ: Người chủ ga-ra cam kết sửa chữa hoàn chỉnh một chiếc ô tô; kiến trúc sư cam kết hoàn thành đồ án xây dựng một căn nhà… Trái quyền có đối tượng không làm một việc là loại quan hệ nghĩa vụ trong đó, người thụ trái cam kết giữ thái độ thụ động về một phương diện nào đó, vì lợi ích của trái chủ. Chẳng hạn: Người bán một sản nghiệp thương mại cam kết không mở một cơ sở kinh doanh cùng ngành nghề trong khu vực lân cận trong một khoảng thời gian nào đó để tránh không là đối thủ cạnh tranh của người mua sản nghiệp…

Trái quyền có đối tượng là chuyển giao một vật quyền là một quan hệ nghĩa vụ trong đó thụ trái cam kết trao cho trái chủ một vật quyền vốn thuộc về mình, đặc biệt là quyền sở hữu đối với một tài sản. Ví dụ, trong một vụ mua bán vật cùng loại với một số lượng nào đó, người mua muốn nhận được tài sản, thì cần có sự hợp tác của người bán, thể hiện qua việc người bán tiến hành cá thể hoá đối tượng mua bán bằng cách tách đối tượng này ra khỏi khối các vật cùng loại, rồi đóng gói để sẵn sàng giao cho người mua.

Về chế độ pháp lý, trái quyền không phải là quan hệ pháp lý giữa chủ thể và vật, mà là quan hệ pháp lý giữa các chủ thể. Các quy tắc chi phối quan hệ ấy đặc trưng bằng việc chỉ định hành vi ứng xử trong giao tiếp giữa hai bên. Để quan hệ trái quyền vận hành suôn sẻ, sự hợp tác tích cực của trái chủ và người thụ trái là điều kiện cần thiết. Quá trình diễn tiến quan hệ trái quyền có thể được mô tả như sau: Người có trái quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ; người thụ trái thực hiện và người có trái quyền tiếp nhận việc thực hiện.

Theo pháp luật một số quốc gia có nền tảng lâu đời về dân luật, lý thuyết về vật quyền và trái quyền được quy định khá mạch lạc và nó chính là nền tảng để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng cũng như việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Theo pháp luật của Cộng hòa Liên bang Đức, trái quyền được hiểu là hành vi của một người có năng lực pháp luật làm phát sinh một hậu quả pháp lý nhất định. Luật Trái quyền của Cộng hòa Liên bang Đức chia làm 2 phần chính: Thứ nhất, những quy định chung (thực hiện quyền như thế nào, trách nhiệm do không thực hiện, thực hiện không đúng, chậm…) áp dụng chung cho các quan hệ trái vụ khác ở phần sau; Thứ hai, những quy định riêng (dạng quan hệ trái vụ cụ thể gồm các hợp đồng cụ thể). Phần quy định riêng chỉ quy định những gì do tính chất đặc thù của nó mà khác với những quy định ở phần chung[1].

Có thể nói, trong tư duy và phương thức lập pháp nói chung, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là mối quan hệ pháp lý được thiết lập giữa một bên là người cam kết bảo đảm và bên kia là người thụ hưởng biện pháp bảo đảm. Đó là một quan hệ nghĩa vụ đích thực, nghĩa là, ở góc nhìn của pháp luật Latinh, có tác dụng tạo ra một trái quyền mà người thụ hưởng biện pháp bảo đảm được phép thực hiện chống lại người cam kết bảo đảm.

Tính chất đối nhân của quan hệ bảo đảm nghĩa vụ được ghi nhận cả trong trường hợp biện pháp bảo đảm được xác lập trên các tài sản đặc định, gọi là thế chấp hoặc cầm cố. Chủ nợ có bảo đảm bằng cầm cố, thế chấp được thừa nhận có quyền ưu tiên được thanh toán nợ bằng giá bán tài sản cầm cố, thế chấp; tuy nhiên, tính chất ưu tiên của của quyền không được làm rõ trong mối quan hệ với người cầm cố, thế chấp, người mà theo giả thiết là chủ sở hữu tài sản. Riêng trong trường hợp bảo đảm bằng thế chấp tài sản, thì để thực hiện quyền ưu tiên đó, chủ nợ cần có sự hợp tác của chủ sở hữu tài sản. Một khi nợ được bảo đảm không được trả, thì chủ nợ nhận thế chấp phải làm động tác yêu cầu chủ sở hữu giao tài sản cho mình xử lý (khoản 5 Điều 351 Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005). Nếu chủ sở hữu không chịu giao, mà điều này lại thường xảy trong thực tiễn, thì chủ nợ chỉ còn mỗi cách ứng xử phù hợp với pháp luật là đề nghị Toà án cưỡng chế theo thủ tục chung về tố tụng dân sự chứ không có cách nào khác.

Trong trường hợp bảo đảm nghĩa vụ bằng cầm cố tài sản, thì pháp luật thừa nhận cho chủ nợ nhận cầm cố một số quyền có thể khiến người ta liên tưởng đến người có vật quyền trong Luật Latinh. Chẳng hạn, nếu nợ không được trả, thì chủ nợ nhận cầm cố có quyền yêu cầu xử lý tài sản cầm cố theo phương thức đã thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật (khoản 2 Điều 333 Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005), nghĩa là không cần đến vai trò của chủ sở hữu. Tuy nhiên, sự thừa nhận đó không hề có nghĩa rằng, chủ nợ nhận cầm cố có quyền năng tác động trực tiếp lên vật như người có vật quyền. Đơn giản, trong tình huống đặc thù, chủ nợ đang nắm giữ, kiểm soát tài sản về phương diện vật chất và việc nắm giữ đó là hợp pháp, được nhà chức trách bảo vệ. Tình trạng đó làm hình thành lợi thế tự nhiên của chủ nợ trong mối quan hệ với chủ sở hữu tài sản trong việc xử lý tài sản bảo đảm để thực hiện việc thu hồi nợ. Người làm luật, về phần mình, chỉ làm mỗi việc là quy định trao cho chủ nợ một số quyền để phát huy lợi thế tự nhiên đó, nhằm giải quyết vấn đề thu hồi nợ theo cách giản đơn và ít tốn kém nhất[2].

Không thực hiện đúng nghĩa vụ phụ cũng là một dạng thực hiện không đúng nghĩa vụ và người vi phạm cũng phải chịu trách nhiệm. Đối chiếu với các quy định của pháp luật dân sự hiện hành ở Việt Nam, thì Bộ luật Dân sự năm 2005 có rất nhiều quy định về nghĩa vụ phụ và những chế tài nhất định. Ví dụ như Điều 444, 445, 446, 447… Để quy định tập trung lại thành nguyên tắc, thì Bộ luật Dân sự Việt Nam có thể sửa đổi những quy định này theo hướng: Trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ phụ, thì người vi phạm nghĩa vụ phụ cũng phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm của mình. Điều này có thể áp dụng trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ về bảo lãnh.

Nghiên cứu Bộ luật Dân sự Pháp cho thấy, các biện pháp bảo đảm cũng được thiết kế theo nguyên lý vật quyền và tráiquyền và được chia thành hai loại là vật quyền bảo đảm và trái quyền bảo đảm. Trái quyền bảo đảm là bảo đảm theo đó một trái quyền được tăng cường bởi một trái quyền khác. Tiêu biểu là biện pháp bảo lãnh. Bảo lãnh là hợp đồng theo đó một người nhận bảo lãnh cho nghĩa vụ của một người khác và cam kết thực hiện nghĩa vụ đó nếu người này không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đủ nghĩa vụ. Trên thực tế, ngoài hợp đồng bảo lãnh, giữa người có nghĩa vụ và người bảo lãnh thường có một hợp đồng trong đó, người bảo lãnh cam kết bảo lãnh cho người có nghĩa vụ. Một số trường hợp bảo lãnh phổ biến như:

– Bảo lãnh do quan hệ bạn bè hoặc gia đình;

– Bảo lãnh có thu phí trong trường hợp ngân hàng bảo lãnh cho khách hàng của mình và khách hàng phải trả phí bảo lãnh;

– Bảo lãnh của lãnh đạo công ty đối với các khoản nợ của công ty[3].

Có thể bảo lãnh cho một nghĩa vụ hiện tại hoặc nghĩa vụ hình thành trong tương lai hoặc có thể bảo lãnh đối với tất cả các khoản nợ của con nợ hoặc chỉ bảo lãnh đối với một hoặc một số khoản nợ cụ thể. Cũng có thể thực hiện bảo lãnh có giới hạn hoặc không giới hạn mức trần mà người bảo lãnh phải trả trong trường hợp người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ. Bảo lãnh liên đới.

Quyền trả nợ sau của người bảo lãnh được quy định trong trường hợp chủ nợ phải cố gắng khai thác hết khả năng thanh toán của người có nghĩa vụ trước khi yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ. Điều đó có nghĩa là, trước khi yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ, chủ nợ phải yêu cầu người được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ. Nếu như các yêu cầu này không có kết quả, thì phải tiến hành kê biên, bán tài sản nếu người có nghĩa vụ có tài sản. Người bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ nếu người được bảo lãnh không có khả năng thanh toán. Tuy nhiên, người bảo lãnh có thể từ bỏ quyền trả nợ sau của mình.

Khuynh hướng của pháp luật nói chung là phải bảo vệ người bảo lãnh (khác với pháp luật hiện hành của Việt Nam là quan tâm nhiều đến quyền lợi của người nhận bảo lãnh). Hợp đồng bảo lãnh phải được lập thành văn bản. Trong hợp đồng, người bảo lãnh phải viết bằng tay một câu là “đã hiểu nội dung, phạm vi cam kết bảo lãnh của mình”. Chủ nợ có nghĩa vụ thông tin, tư vấn và cảnh báo cho người bảo lãnh, đặc biệt là về tình hình nghĩa vụ được bảo đảm.

Bảo lãnh không thiết lập quan hệ liên đới giữa người bảo lãnh và người được bảo lãnh. Như đã nêu ở trên, người bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp người được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình và người nhận bảo lãnh đã tiến hành các thủ tục cần thiết mà không có kết quả. Vì nghĩa vụ bảo lãnh là nghĩa vụ bổ trợ cho nghĩa vụ được bảo lãnh, nên người bảo lãnh có thể viện dẫn tất cả các căn cứ mà người được bảo lãnh có thể viện dẫn để không phải thực hiện nghĩa vụ của mình.

Các loại bảo lãnh chủ yếu được áp dụng bao gồm:

Bảo lãnh độc lậplà biện pháp bảo đảm rất hiệu quả và phổ biến trong thương mại quốc tế theo đó bên bảo lãnh cam kết trả cho bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) một số tiền xác định theo yêu cầu của bên có nghĩa vụ (bên ra lệnh thanh toán). Trong trường hợp này, nghĩa vụ bảo lãnh độc lập với nghĩa vụ được bảo lãnh.

Vì nghĩa vụ bảo lãnh độc lập với nghĩa vụ được bảo lãnh, nên bên bảo lãnh không có quyền viện dẫn các căn cứ mà bên được bảo lãnh có thể viện dẫn để không phải thực hiện nghĩa vụ của mình. Bảo lãnh độc lập được lập dưới hình thức thư bảo lãnh, trong đó nêu rõ số tiền mà bên bảo lãnh phải trả và thời hạn bảo lãnh. Khi được yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, bên bảo lãnh phải thanh toán ngay lập tức, kể cả khi chưa đến hạn thực hiện nghĩa vụ chính của bên được bảo lãnh. Tuy nhiên, trong trường hợp gian lận hoặc nghĩa vụ được bảo đảm không tồn tại nữa, thì bên bảo lãnh không phải thanh toán. Do tính độc lập của biện pháp bảo đảm này nên nếu quyền yêu cầu được chuyển giao, thì nghĩa vụ bảo lãnh không đi theo quyền yêu cầu đó, vì nó được xác lập căn cứ vào tư cách cá nhân của bên có quyền.

– Thư bảo trợ là cam kết theo đó một người cam kết trợ giúp cho người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của mình. Đó không phải là cam kết trả một khoản tiền mà là cam kết giúp đỡ người có nghĩa vụ. Ví dụ, sự giúp đỡ này có thể được thực hiện dưới hình thức tư vấn hoặc không tiến hành hoạt động cạnh tranh với người có nghĩa vụ. Đó là nghĩa vụ thực hiện một hành vi ứng xử nào đó[4]. Biện pháp bảo đảm này có nguồn gốc từ hệ thống pháp luật Anh – Mỹ và có thể được áp dụng trong quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con. Ví dụ, công ty mẹ phát hành thư bảo trợ cho ngân hàng, trong đó nêu rõ rằng công ty mẹ sẽ giúp đỡ công ty con thực hiện các cam kết của mình. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thanh toán thì bên bảo trợ không phải thanh toán thay.

Thư bảo trợ được quy định trong một điều luật của Bộ luật Dân sự vì các nhà làm luật cho rằng đây là một biện pháp bảo đảm quan trọng. Tuy nhiên, cách thức thực hiện cụ thể việc bảo trợ do các chủ thể tự xác định trong thực tiễn.

Bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm nghĩa vụ được Bộ luật Dân sự Việt Nam quy định, nhưng bản chất của nó là biện pháp bảo đảm đối nhân. Vì vậy, cần phải hoàn thiện chế định này sao cho khi áp dụng để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng, biện pháp bảo lãnh phát huy được hết giá trị nhân văn của nó nhưng vẫn an toàn cho các hoạt động tín dụng.

Trên thực tế, pháp luật cũng đã có những quy định cho vay không cần biện pháp bảo đảm như: Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ quy định về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, trong đó quy định cụ thể về mức cho vay tối đa trong trường hợp cho vay không có bảo đảm đối với cá nhân, tổ chức; hoặc Quyết định số 92/2009/QĐ-TTg ngày 8/7/2009 của Thủ tướng Chính phủ quy định về tín dụng đối với thương nhân hoạt động thương mại tại vùng khó khăn, theo đó mức cho vay tối đa không có bảo đảm tiền vay… Điều này được dẫn ra để minh chứng rằng, nếu chế định về bảo lãnh được quy định cụ thể, chặt chẽ, rõ ràng, “bản chất đối nhân” sẽ được phát huy và uy tín của bên bảo lãnh vẫn đủ để bảo đảm an toàn cho các quan hệ tín dụng ngân hàng. Đặc biệt trong xu thế hiện nay, nhằm khuyến khích sự phát triển của hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ gia đình tiếp cận nguồn vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, Nhà nước ta đã tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn, chất lượng tín dụng, đảm bảo cung ứng vốn cho nền kinh tế. Ưu tiên tập trung tín dụng cho các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Nới hạn mức cho vay không cần tài sản bảo đảm, mở rộng đối tượng tham gia như các hợp tác xã, tổ hợp tác chỉ cần tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh là có thể được cấp tín dụng ngân hàng mà không cần ngay tại địa bàn nông thôn. Đồng thời, các doanh nghiệp cung ứng đầu vào cho sản xuất nông nghiệp, sản xuất, chế biến các phụ phẩm nông nghiệp cũng nằm trong đối tượng thụ hưởng chính sách.

Bên cạnh việc sửa đổi các quy định về biện pháp bảo lãnh trong Bộ luật Dân sự – với tư cách là các quy định nòng cốt để áp dụng và thực thi biện pháp bảo lãnh trong bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng, trong đó, nhất thiết cần phải xây dựng chế định bảo lãnh dựa trên những nguyên lý của trái quyền, mà còn phải rà soát, bổ sung một số quy định về bảo lãnh mà Bộ luật Dân sự Việt Nam hiện còn thiếu. Ví dụ như quy định nhằm bảo vệ người bảo lãnh; quy định về việc bên có quyền phải có nghĩa vụ thông tin đối với bên bảo lãnh, nghĩa vụ này có thể là tư vấnhoặc thậm chí là cảnh báo;bên bảo lãnh có thể viện dẫn tất cả những vi phạm về hình thức mà bên được bảo lãnh có thể viện dẫn để không phải thực hiện nghĩa vụ đối với người có quyền; các trường hợp làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt đối với biện pháp bảo lãnh; giới hạn của biện pháp bảo lãnh so với giá trị của nghĩa vụ được bảo lãnh; trường hợp bên bảo lãnh không có tài sản để bù trừ nghĩa vụ được bảo lãnh thì giải quyết hậu quả pháp lý như thế nào… Xác định rõ quyền của bên bảo lãnh được bồi hoàn và quyền được thế quyền bên nhận bảo lãnh sau khi đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Đặc biệt là cần bổ sung cơ chế bảo vệ bên bảo lãnh đặc biệt khi bên bảo lãnh là cá nhân – đây vốn được coi là các mảng tối của pháp luật về bảo lãnh hiện hành.

ThS. Phạm Văn Đàm

Văn phòng Công chứng Đống Đa



[1] Một số vấn đề về cấu trúc, vật quyền và trái quyền trong Bộ luật Dân sự Đức mà Việt Nam có thể tham khảo trong quá trình sửa đổi Bộ luật Dân sự năm 2005, ThS. Nguyễn Thị Hạnh, Vụ Pháp luật Dân sự – Kinh tế, Tàiliệu của Ban soạn thảo và Tổ biên tập Dự án Bộ luật Dân sự sửa đổi, Bộ Tư pháp.

[2] Xem: Tài liệu Tọa đàm do Nhà Pháp luật Việt – Pháp tổ chức về sửa đổi Bộ luật Dân sự, Giáo sư Michel Grimaldi của Đại học Paris II, Cộng hòa Pháp đã có bài trình bày tổng quát về pháp luật thực định của Cộng hòa Pháp về các biện pháp bảo đảm, trong đó có bàn đến các vấn đề về bảo lãnh.

[3] Tài liệu của Nhà Pháp luật Việt – Pháp: Tổng hợp một số quy định pháp luật Cộng hòa Pháp về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, http://moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=4454.

[4]Xem: Tài liệu Tọa đàm do Nhà Pháp luật Việt – Pháp tổ chức về sửa đổi Bộ luật Dân sự, Giáo sư Michel Grimaldi của Đại học Paris II, Cộng hòa Pháp đã có bài trình bày tổng quát về pháp luật thực định của Cộng hòa Pháp về các biện pháp bảo đảm, trong đó có bàn đến các vấn đề về bảo lãnh.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Phạm vi điều chỉnh của Luật Phí và lệ phí trong mối quan hệ với luật có liên quan

01/10/2015

 

Năm 2001, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Phí và lệ phí, bên cạnh đó, nhiều văn bản pháp luật được ban hành trong đó cũng có quy định về phí và lệ phí. Tuy nhiên đến nay, các quy định này không còn đáp ứng với tình hình mới, đặt ra yêu cầu cần phải ban hành Luật Phí và lệ phí. Bài viết này đề cập đến phạm vi điều chỉnh của Luật Phí và lệ phí với 04 điểm cơ bản sau: (i) Biểu phí và lệ phí; (ii) Chủ thể quyết định mức phí, lệ phí; (iii) Cơ sở để hình thành một loại phí hay lệ phí; (iv) Tính tương thích và thống nhất giữa Luật Phí và lệ phí với Luật Ngân sách Nhà nước.

Phạm vi điều chỉnh của một văn bản luật là một trong những yếu tố cốt lõi của văn bản cần ban hành. “Đây là vấn đề quan trọng và tương đối khó khăn nên việc xác định cần được tiến hành dựa trên những cơ sở khoa học thì mới đảm bảo phát huy vai trò của văn bản trên thực tế”[1].Dự thảo Luật Phí và lệ phí ghi nhận “quy định về danh mục phí, lệ phí; người nộp phí, lệ phí; tổ chức thu phí, lệ phí; nguyên tắc xác định mức thu; miễn, giảm, chế độ thu, nộp, quản lý, sử dụng phí, lệ phí; thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức trong quản lý phí, lệ phí”. Có bốn vấn đề lớn sau đây cần tiếp tục đánh giá để điều chỉnh:

Một là, về biểu phí và lệ phí

– Nếu xác định các loại phí thuộc ngân sách nhà nước được thể hiện toàn bộ trong Phụ lục, vậy các loại phí và lệ phí được quy định tại các Luật chuyên ngành khác, có thực hiện hay không? Chẳng hạn như lệ phí tuyên bố phá sản, chi phí phá sản (thực chất là phí) được quy định trong Luật Phá sản có tiếp tục áp dụng nữa hay không?

– Thực tế, nhiều khoản tiền phí phải trả khi nhận được lợi ích từ các đơn vị sự nghiệp công lập, nhưng không được nộp vào ngân sách nhà nước (chẳng hạn như các học phí thu từ đào tạo ngắn hạn, đào tạo liên kết) do các đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện, chưa được phân biệt so với các loại phí khác của chính đơn vị đó.

– Vì Luật chỉ điều chỉnh đến phí và lệ phí, nên các nội dung liên quan đến giá dịch vụ có quản lý của Nhà nước không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Phí và lệ phí mà thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Giá.

– Đối với hệ thống danh mục phí và lệ phí đính kèm, phần phí về lĩnh vực tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, chúng tôi nhận thấy không có các khoản phí liên quan đến thẩm định việc cấp giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng, trong khi các khoản phí tương tự áp dụng cho các chủ thể kinh doanh các lĩnh vực đặc thù như kinh doanh bất động sản, xây dựng, vận tải vẫn được ghi nhận đầy đủ. Vì vậy, cần thống nhất về phạm vi tác động của Luật Phí và lệ phí đối với lĩnh vực tài chính ngân hàng (theo hướng bổ sung nhóm phí áp dụng cho nhóm lĩnh vực này) đồng thời sửa đổi Luật Giá liên quan đến việc xác định và quản lý giá các dịch vụ cần có cơ chế kiểm soát của Nhà nước.

Hai là, về chủ thể quyết định mức phí, lệ phí

Một trong những nội dung quan trọng của Dự thảo Luật đã thể hiện là thẩm quyền quyết định mức thu phí, lệ phí, tuy nhiên lại chưa được phản ảnh trong phạm vi điều chỉnh. Theo biểu phí và lệ phí đính kèm, chủ thể quyết định mức phí và lệ phí thuộc về Chính phủ, Bộ Tài chính, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Nếu xem xét Pháp lệnh Phí và lệ phí năm 2001, có thể thấy, Dự thảo đã thể hiện tính kế thừa của Pháp lệnh này. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, mức thu cho lệ phí cần phải được quyết định bởi Chính phủ mà không phải thuộc Bộ Tài chính và cần quy định rõ Chính phủ không được ủy quyền lại cho Bộ Tài chính thực hiện nhiệm vụ này.

Đề xuất này của chúng tôi liên quan đến đặc điểm của lệ phí là mang tính chất bắt buộc cao, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, mang tính phổ biến và lặp đi lặp lại, diện áp dụng rộng. Nói khác đi, từng loại lệ phí có thể nhỏ so với một sắc thuế lớn nhưng tính chất và mục tiêu ban hành của chúng không khác biệt nhiều. Nếu Quốc hội quyết định từng loại thuế, mức thu thuế từ loại thuế có tỷ trọng lớn trong kết cấu nguồn thu đến các loại thuế mang tính quản lý nhiều hơn như thuế sử dụng đất, thì không thể để cho một Bộ quản lý ngành quyết định mức thu cho từng lệ phí. Những loại lệ phí có thể chỉ ra như lệ phí cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, lệ phí cấp giấy phép xây dựng, lệ phí cấp giấy phép quy hoạch và rất nhiều loại lệ phí khác. Vì vậy, cần phải xem xét lại thẩm quyền quyết định mức cụ thể cho một loại phí hay lệ phí được ghi nhận trong biểu thuế theo hướng không giao Bộ Tài chính quyết định các loại lệ phí có tính chất như thuế.

Ba là, chúng ta chưa đề cập đến cơ sở để hình thành một loại phí hay lệ phí để được đưa vào danh mục phí và lệ phí thuộc diện điều chỉnh của Luật này.

Điều 8 của Dự thảo Luật chỉ đề cập đến nguyên tắc xác định mức thu mà không đưa ra nguyên tắc xác định một loại phí hay lệ phí được đưa vào danh mục biểu phí, lệ phí. Điều này dường như chưa đảm bảo đúng tính minh bạch trong quá trình quản lý và sử dụng nguồn thu của ngân sách nhà nước. Điều 4 khoản 1 của Dự thảo có đề cập “Phí, lệ phí theo quy định tại Luật này là khoản thu thuộc ngân sách nhà nước, không chịu thuế” (mặc dù chúng tôi chưa hiểu mục đích của Ban soạn thảo khi đề cập đây là khoản không chịu thuế” trong điều luật này) và kết quả báo cáo cũng đã chỉ ra rằng, tỷ trọng khoản thu bắt buộc là phí và lệ phí là quan trọng[2].

Các khoản thu từ thuế, dù là nhỏ nhất, đều được cân nhắc rất kỹ lưỡng và được Quốc hội – người đại diện cao nhất của nhân dân xem xét quyết định. Mọi nội dung liên quan đến thuế, đặc biệt để ban hành một loại thu là thuế được tính toàn một cách cẩn trọng, và được đưa ra lấy ý kiến từ dân chúng. Một dự án Luật thuế phải được xem xét tại hai kỳ họp hoặc ba kỳ họp Quốc hội (Điều 75, 76 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015), nhưng đối với các khoản thu từ phí, lệ phí trong dự luật này, người dân/đại biểu Quốc hội xem xét để ban hành hàng loạt các khoản thu cũng mang tính chất bắt buộc với độ dài của các loại phí và lệ phí này là 20 trang. Vấn đề đặt ra ở chỗ số phí và lệ phí đó quá lớn nhưng lại không có căn cứ để xác định chúng nằm trong danh mục hay không nằm trong danh mục biểu phí và lệ phí.

Một ví dụ đơn giản, nếu nhìn vào cơ cấu danh mục thu ngân sách nhà nước, lệ phí trước bạ luôn được ghi nhận trong hệ thống kết cấu thu từ thuế, hoàn toàn thiếu đi sự lý giải cần thiết của việc tiếp tục ghi nhận là lệ phí trong Dự thảo Luật Phí và lệ phí. Thiết nghĩ, việc ghi nhận một khoản thu là phí hay lệ phí, cần phải được xem xét cẩn trọng về khả năng gánh chịu của người dân. Đối với các khoản là phí, cần xác định rõ những yếu tố nào để xác định là chi phí cho từng nhóm phí; phải đảm bảo phí không được cao hơn số chi phí đã tính và đảm bảo người dân bình thường cũng có thể gánh chịu được. Tương tự như vậy là những vấn đề về lệ phí.

Bốn là,tính tương thích và thống nhất giữa Luật phí và lệ phí với Luật Ngân sách Nhà nước

Nếu việc quản lý và sử dụng phí, lệ phí được quy định ngay trong luật này sẽ mâu thuẫn với nguyên tắc hình thành và sử dụng phí và lệ phí, đặc biệt là lệ phí. Lệ phí tạo nguồn cho ngân sách nhà nước cùng với thuế và đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu chung của nhà nước, không phân biệt mục đích sử dụng và phù hợp với nguyên tắc cân đối ngân sách. Khoản 1 và 2 Điều 7 Luật Ngân sách Nhà nước 2015 quy định rõ: “Các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật được tổng hợp đầy đủ vào cân đối ngân sách nhà nước, theo nguyên tắc không gắn với nhiệm vụ chi cụ thể” và “Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao để chi đầu tư phát triển”. Như vậy, nếu ghi nhận việc sử dụng phí và lệ phí tại Luật này sẽ mâu thuẫn với Luật Ngân sách Nhà nước và các Luật chuyên ngành, mâu thuẫn với quy định về quỹ tài chính ngoài ngân sách hoạt động độc lập với quỹ ngân sách nhà nước (theo Luật Ngân sách Nhà nước).

Trường hợp phí và lệ phí theo Luật Ngân sách Nhà nước thuộc nguồn thu ngân sách nhưng được xác định để hình thành cho các quỹ tài chính công ngoài ngân sách khác, cơ chế sử dụng chắc chắn khác biệt so với các khoản thu đưa vào kết cấu nguồn thu ngân sách nhà nước nói chung và thiết nghĩ, cơ chế xác định nguồn thu từ phí cần phải được sự giám sát của dân chúng. Thêm nữa, việc phân tách phần phí tạo lập nguồn thu ngân sách nhà nước và phần phí hình thành các quỹ tài chính ngoài ngân sách khác cũng cần phải được làm rõ trong Luật này nếu xác định đây là Luật “chuyên ngành” về phí và lệ phí.

PGS.TS Phạm Thị Giang Thu

Đại học Luật Hà Nội


 


[1] Giáo trình Xây dựng văn bản pháp luật, Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội 2009, tr. 104.

[2] Theo dự toán ngân sách Nhà nước 2015, thuế bảo vệ môi trường dự thu 12.939 tỷ; thuế thu nhập cá nhân 51.266 tỷ, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp 1.330 tỷ cần được so sánh vơi dự thu Lệ phí trước bạ 15.425 tỷ, thu từ phí và lệ phí 14.037 tỷ. Ở đây chúng tôi lưu ý thêm rằng, trong nguồn thu được thể hiện trên dự toán không đề cập đến nguồn thu từ các loại phí đã được chuyển để hình thành các quỹ tài chính ngoài ngân sách nhà nước, như Quỹ Bảo trì đường bộ, quỹ Bình ổn xăng dầu,

 

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số kiến nghị về dự thảo Luật Phí và lệ phí

29/09/2015

Phí và lệ phí là các vấn đề luôn thu hút được sự quan tâm của dư luận xã hội và người dân trong bối cảnh không ít các địa phương đưa ra quá nhiều các khoản thu phí, lệ phí (đặc biệt là ở khu vực nông thôn) khiến người dân rất bức xúc. Việc xây dựng, ban hành một đạo luật về vấn đề này khiến người dân tin tưởng tình trạng lạm thu các khoản phí, lệ phí sẽ chấm dứt. Để góp phần hoàn thiện và nâng cao chất lượng của pháp luật về phí và lệ phí, bài viết này đưa ra những góp ý về một số nội dung quy định của dự thảo Luật Phí và lệ phí. Những góp ý chỉ là quan điểm cá nhân của các tác giả nhằm cung cấp thêm thông tin đa chiều để Ban soạn thảo cân nhắc và xem xét…

Dự thảo Luật Phí và lệ phí (sau đây gọi là dự thảo Luật) tác động, liên quan trực tiếp đến lợi ích của người dân, bởi lẽ, họ là một chủ thể nộp phí và lệ phí khi được cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập cung cấp các dịch vụ, thực hiện công việc mà pháp luật quy định được thu phí, lệ phí trong danh mục phí, lệ phí do pháp luật quy định. Để nâng cao chất lượng dự thảo Luật, chúng tôi có một số ý kiến đóng góp về các nội dung sau đây:

1. Chương I: Những quy định chung

1.1. Góp ý về phạm vi điều chỉnh (Điều 1)

Điều 1 dự thảo Luật quy định: “Luật này quy định về danh mục phí, lệ phí; người nộp phí, lệ phí; tổ chức thu phí, lệ phí; nguyên tắc xác định mức thu; miễn, giảm, chế độ thu, nộp, quản lý, sử dụng phí, lệ phí; thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức trong quản lý phí, lệ phí”.

Chúng tôi cho rằng cần bổ sung vào nội dung Điều 1 dự thảo Luật một số vấn đề cụ thể sau:

Thứ nhất, quy định về quyền và nghĩa vụ của người nộp phí, lệ phí; bởi lẽ, Luật phí và lệ phí điều chỉnh nhóm các quan hệ xã hội về thu và nộp phí, lệ phí phát sinh giữa người nộp phí, lệ phí và cơ quan, tổ chức thu phí, lệ phí. Đây là mối quan hệ tương tác giữa hai chủ thể này. Vì vậy, dự thảo Luật quy định thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức thu phí và lệ phí mà không quy định quyền và nghĩa vụ của người nộp phí, lệ phí là không tương thích, không bình đẳng về địa vị pháp lý trong quan hệ thu nộp phí, lệ phí. Người nộp phí, lệ phí có quyền được biết khoản tiền phí, lệ phí mà mình nộp được quản lý ra sao, sử dụng như thế nào; có sử dụng đúng mục đích mà pháp luật quy định không …. Đây là quyền lợi chính đáng của người nộp phí, lệ phí và cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình” (Điều 25). Hơn nữa, nếu không đề cập quyền và nghĩa vụ của người nộp phí, lệ phí vào nội dung Điều 1 sẽ dễ làm cho mọi người khi tìm hiểu điều luật này lầm tưởng rằng, việc quy định về phí và lệ phí mang tính áp đặt từ ý chí chủ quan của Nhà nước và dự thảo Luật được soạn thảo nhằm phục vụ sự quản lý của các cơ quan nhà nước hơn là chú trọng bảo vệ lợi ích của người dân.

Mặt khác, Điều 14 quy định trách nhiệm, quyền hạn của người nộp phí, lệ phí song tại Điều 1 về phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật lại không đưa nội dung này vào phạm vi điều chỉnh thì đây là sự bất hợp lý, bất tương thích.

Thứ hai, bổ sung cụm từ “thu nộp vào ngân sách nhà nước” sau cụm từ “danh mục phí, lệ phí” nhằm làm rõ hơn phạm vi điều chỉnh và phân biệt với các khoản thu mang tính chất dân sự như thu các loại quỹ do nhân dân tự nguyện đóng góp theo thỏa thuận hoặc theo biên bản ghi nhận sự tự nguyên đóng góp của hội nghị thôn, tổ dân phố như đóng góp quỹ xây dựng nhà văn hóa cộng đồng, xây dựng đình, chùa… Như vậy, Điều 1 của dự thảo Luật được sửa đổi, bổ sung như sau:

Dự thảo Luật Phí và lệ phí

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

“Luật này quy định về Danh mục phí, lệ phí; người nộp phí, lệ phí; tổ chức thu phí, lệ phí; nguyên tắc xác định mức thu; miễn, giảm, chế độ thu, nộp, quản lý, sử dụng phí, lệ phí; thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức trong quản lý phí, lệ phí”.

Dự thảo Luật Phí và lệ phí sau khi được góp ý kiến

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

“Luật này quy định về Danh mục phí, lệ phí thu nộp vào ngân sách nhà nước; người nộp phí, lệ phí; tổ chức thu phí, lệ phí; nguyên tắc xác định mức thu; miễn, giảm, chế độ thu, nộp, quản lý, sử dụng phí, lệ phí; quyền và nghĩa vụ của người nộp phí, lệ phí[1]; thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức trong quản lý phí, lệ phí”.

1.2. Gộp Điều 4 và Điều 5 vào nội dung Điều 6 – Giải thích từ ngữ

Nội dung Điều 4 và Điều 5 đề cập thế nào là người nộp phí, lệ phí và thế nào là tổ chức thu phí, lệ phí. Chúng tôi cho rằng, hai điều luật này dường như thuần túy giải thích về người nộp phí, lệ phí và tổ chức thu phí, lệ phí. Do vậy, nội dung Điều 4 và Điều 5 nên đưa vào Điều 6. Giải thích từ ngữ sẽ hợp lý hơn. Như vậy, Điều 6 dự thảo Luật được sửa đổi, bổ sung như sau:

Dự thảo Luật phí và lệ phí

Điều 6. Giải thích từ ngữ

“Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1. Phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập (hoặc tổ chức được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao) cung cấp dịch vụ, được quy định trong Danh mục phí ban hành kèm theo Luật này.

2. Lệ phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải nộp khi được cơ quan hành chính nhà nước phục vụ công việc quản lý nhà nước, được quy định trong Danh mục lệ phí ban hành kèm theo Luật này”.

Dự thảo Luật Phí và lệ phí sau khi được góp ý kiến

Điều 6. Giải thích từ ngữ

“Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1. Phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập (hoặc tổ chức được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao) cung cấp dịch vụ, được quy định trong Danh mục phí ban hành kèm theo Luật này.

2. Lệ phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải nộp khi được cơ quan hành chính nhà nước phục vụ công việc quản lý nhà nước, được quy định trong Danh mục lệ phí ban hành kèm theo Luật này.

3. Người nộp phí, lệ phí là các tổ chức, cá nhân được cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập (hoặc tổ chức được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao) cung cấp dịch vụ, thực hiện công việc mà pháp luật quy định được thu phí, lệ phí trong Danh mục phí, lệ phí ban hành kèm theo Luật này.

4. Tổ chức thu phí, lệ phí, bao gồm: Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập (hoặc tổ chức được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao) cung cấp dịch vụ, thực hiện công việc mà pháp luật quy định được thu phí, lệ phí”.

2. Chương II: Nguyên tắc xác định mức thu, miễn, giảm phí, lệ phí

2.1. Góp ý về Điều 7 và Điều 8

– Nội dung Điều 7, Điều 8 và Điều 9 Chương II quy định nguyên tắc chung trong xác định mức thu, miễn, giảm phí, lệ phí. Việc quy định chi tiết nguyên tắc xác định mức thu phí, lệ phí được giao cho Chính phủ[2]. Do đó, nên đưa các điều này vào nội dung Chương I sẽ phù hợp hơn.

– Cần bổ sung nội dung “phù hợp với khả năng tài chính và thu nhập của người nộp phí, lệ phí” vào nguyên tắc xác định mức thu phí (Điều 7), mức thu lệ phí (Điều 8), bởi lẽ, trên thực tế có những khoản lệ phí mà mức nộp với số tiền không hề nhỏ như lệ phí trước bạ nhà, đất; lệ phí đăng ký ô tô v.v. Nếu việc xác định mức thu phí và lệ phí với số tiền vượt khả năng tài chính, thu nhập của người nộp thì sẽ không khuyến khích, động viên họ tự giác thực hiện nghĩa vụ tài chính này vào ngân sách nhà nước. Với lý lẽ trên, nội dung các Điều 7 và Điều 8 dự thảo Luật được sửa đổi, bổ sung như sau:

Dự thảo Luật phí và lệ phí

Điều 7. Nguyên tắc xác định mức thu phí

“Mức thu phí được xác định đảm bảo bù đắp chi phí, có lợi nhuận phù hợp và tính đến chính sách của Nhà nước trong từng thời kỳ”.

Điều 8. Nguyên tắc xác định mức thu lệ phí

“Mức thu lệ phí được ấn định trước đối với từng công việc, không nhằm mục đích bù đắp chi phí; riêng mức thu lệ phí trước bạ được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên giá trị tài sản trước bạ”.

Dự thảo Luật phí và lệ phí sau khi được góp ý kiến

Điều 7. Nguyên tắc xác định mức thu phí

“Mức thu phí được xác định đảm bảo bù đắp chi phí, có lợi nhuận phù hợp và tính đến chính sách của Nhà nước trong từng thời kỳ; phù hợp với khả năng tài chính và thu nhập của người nộp phí”.

Điều 8. Nguyên tắc xác định mức thu lệ phí

“Mức thu lệ phí được ấn định trước đối với từng công việc, không nhằm mục đích bù đắp chi phí; phù hợp với khả năng tài chính và thu nhập của người nộp lệ phí; riêng mức thu lệ phí trước bạ được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên giá trị tài sản trước bạ”.

2.2. Góp ý về Điều 9

Điều 9 quy định các đối tượng được miễn, giảm phí, lệ phí; theo đó, trẻ em, hộ nghèo, người cao tuổi, người khuyết tật, người có công với cách mạng thuộc đối tượng miễn, giảm phí, lệ phí. Để có cách hiểu thống nhất và tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng việc miễn, giảm phí, lệ phí đối với hộ nghèo, người khuyết tật, người có công với cách mạng thì cần bổ sung vào Điều 6 giải thích từ ngữ về giải thích thuật ngữ đối với các đối tượng này.

3. Chương IV: Trách nhiệm của tổ chức thu và người nộp phí, lệ phí

Thứ nhất, tên Chương IV có phạm vi hẹp hơn so với nội dung của Điều 14 và chưa tương thích với nội dung các điều trong chương. Chương IV với tên gọi là trách nhiệm của tổ chức thu và người nộp phí, lệ phí. Như vậy, Chương này chỉ đề cập trách nhiệm của tổ chức thu và người nộp phí, lệ phí mà không đề cập đến quyền hạn của người nộp phí, lệ phí. Trong khi đó, Điều 14 lại quy định trách nhiệm, quyền hạn của người nộp phí, lệ phí. Để đảm bảo đúng kỹ thuật soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật và đảm bảo sự tương thích, rõ ràng hơn giữa tên chương với nội dung các điều luật của chương, chúng tôi đề nghị đổi tên Chương IV. Theo đó, Chương IV sẽ có tên mới là “Trách nhiệm của tổ chức thu và trách nhiệm, quyền hạn của người nộp phí, lệ phí”.

Thứ hai, gộp khoản 2 và khoản 3 Điều 14 thành một điều khoản chung; bởi lẽ, hai khoản này đều có nội dung tương tự nhau là quyền của người nộp phí, lệ phí được nhận chứng từ xác nhận số phí, lệ phí đã nộp.

Thứ ba, bổ sung vào nội dung Điều 14 một số quyền của người nộp phí, lệ phí; cụ thể: (i) Quyền được yêu cầu tổ chức thu phí, lệ phí giải thích rõ thắc mắc về khoản phí, lệ phí phải nộp. Bởi lẽ, việc quy định tổ chức thu phí, lệ phí có trách nhiệm giải thích rõ thắc mắc của người nộp phí, lệ phí về khoản phí, lệ phí phải nộp thể hiện sự tôn trọng quyền lợi của người nộp phí, lệ phí và tạo sự đồng thuận, động viên người nộp tự giác nộp phí, lệ phí; (ii) Bổ sung vào Điều 13 trách nhiệm của tổ chức thu phí, lệ phí về việc giải thích rõ thắc mắc của người nộp phí, lệ phí về khoản phí, lệ phí mà họ phải nộp; (iii) Bổ sung vào Điều 14 quyền khiếu nại của người nộp về các khoản phí và lệ phí mà họ phải nộp. Bởi vì, nếu Dự thảo Luật không quy định về nội dung này sẽ dẫn đến việc nảy sinh hai tình huống cụ thể sau mà không xử lý được, đó là: (a) Trong trường hợp mức phí và lệ phí tính sai hoặc việc thu không theo đúng quy định của pháp luật thì người nộp có được quyền khiếu nại không. Rõ ràng trong trường hợp này, họ phải có quyền khiếu nại để tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình; (b) Nếu không bổ sung quy định quyền này vào Điều 14 thì sẽ mâu thuẫn với quy định tại khoản 2 điểm đ Điều 17.

Thẩm quyền và trách nhiệm của Bộ Tài chính tại Chương V; theo đó, Bộ Tài chính có thẩm quyền xét, giải quyết, khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về phí, lệ phí (điểm đ khoản 2). Vậy nếu người nộp phí không có quyền khiếu nại, tố cáo vi phạm pháp luật về phí, lệ phí thì làm sao Bộ Tài chính có thẩm quyền xét, giải quyết, khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về phí, lệ phí. Rõ ràng, sự mâu thuẫn giữa hai Điều luật này cần phải được sửa đổi, bổ sung bằng việc quy định quyền khiếu nại, tố cáo đối với vi phạm pháp luật về phí, lệ phí của người nộp phí, lệ phí nhằm đảm bảo sự tương thích. Như vậy, Điều 13 và Điều 14 dự thảo Luật sẽ được sửa đổi, bổ sung như sau:

Dự thảo Luật Phí và lệ phí

Điều 13. Trách nhiệm của tổ chức thu phí, lệ phí

“1. Niêm yết hoặc thông báo công khai tại địa điểm thu về tên phí, lệ phí, mức thu, phương thức thu và cơ quan quy định thu.

2. Lập và cấp chứng từ thu cho người nộp phí, lệ phí theo quy định của Bộ Tài chính.

3. Thực hiện chế độ kế toán; định kỳ báo cáo quyết toán thu, nộp, sử dụng phí, lệ phí; thực hiện chế độ công khai tài chính theo quy định của pháp luật.

4. Hạch toán riêng từng loại phí, lệ phí.

5. Báo cáo tình hình thu, nộp, quản lý, sử dụng phí, lệ phí”.

Điều 14. Trách nhiệm, quyền hạn của người nộp phí, lệ phí

“1. Nộp đúng, đủ phí, lệ phí theo quy định của pháp luật.

2. Được nhận chứng từ xác nhận số phí, lệ phí đã nộp.

3. Có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân thu phí, lệ phí cấp chứng từ thu phí, lệ phí theo quy định của pháp luật”.

Dự thảo Luật Phí và lệ phí sau khi được góp ý kiến

Điều 13. Trách nhiệm của tổ chức thu phí, lệ phí

“1. Niêm yết hoặc thông báo công khai tại địa điểm thu về tên phí, lệ phí, mức thu, phương thức thu và cơ quan quy định thu.

2. Lập và cấp chứng từ thu cho người nộp phí, lệ phí theo quy định của Bộ Tài chính.

3. Thực hiện chế độ kế toán; định kỳ báo cáo quyết toán thu, nộp, sử dụng phí, lệ phí; thực hiện chế độ công khai tài chính theo quy định của pháp luật.

4. Hạch toán riêng từng loại phí, lệ phí.

5. Báo cáo tình hình thu, nộp, quản lý, sử dụng phí, lệ phí.

6. Giải thích thắc mắc của người nộp phí, lệ phí về khoản phí, lệ phí phải nộp”.

Điều 14. Trách nhiệm, quyền hạn của người nộp phí, lệ phí

“1. Nộp đúng, đủ phí, lệ phí theo quy định của pháp luật.

2. Có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân thu phí, lệ phí cấp chứng từ thu phí, lệ phí theo quy định của pháp luật.

3. Có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân thu phí, lệ phí giải thích rõ thắc mắc về khoản phí, lệ phí phải nộp.

4. Có quyền khiếu nại, tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật về phí, lệ phí”.

Thứ tư, Điều 15 quy định các hành vi bị cấm mà không đề cập đến nguyên tắc xử lý đối với các hành vi này thì dường như là chưa hợp lý. Chúng tôi góp ý bổ sung vào Điều này một số nội dung cụ thể sau:

(i) Bổ sung thêm một số hành vi bị cấm trong lĩnh vực phí và lệ phí như hành vi gian lận, trốn nộp phí, lệ phí; hành vi khai man, khai khống hồ sơ để được miễn, giảm nộp phí, lệ phí; hành vi sử dụng tiền phí, lệ phí sai quy định; hành vi lập chứng từ khống; hành vi sử dụng chứng từ giả; hành vi cho, bán chứng từ thu phí, lệ phí…

(ii) Quy định cụ thể các hành vi vi phạm pháp luật về phí, lệ phí, bao gồm: Hành vi vi phạm quy định đăng ký, kê khai phí, lệ phí; hành vi vi phạm quy định công khai chế độ thu phí, lệ phí; hành vi vi phạm quy định về nộp phí, lệ phí; hành vi vi phạm quy định về mức phí, lệ phí; hành vi vi phạm quy định về miễn, giảm phí, lệ phí; hành vi sử dụng tiền phí, lệ phí sai quy định của pháp luật; hành vi vi phạm quy định về in chứng từ thu phí, lệ phí; hành vi vi phạm quy định về sử dụng chứng từ thu phí, lệ phí; hành vi vi phạm quy định về quản lý chứng từ thu phí, lệ phí; hành vi làm mất, cho, bán chứng từ thu phí, lệ phí…

(iii) Bổ sung quy định mang tính nguyên tắc về xử lý vi phạm pháp luật về phí, lệ phí.

4. Chương V: Thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước về quản lý phí và lệ phí

4.1. Góp ý về tên Chương V

Tên Chương V nên đổi thành “Quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước về quản lý phí và lệ phí”; bởi lẽ, trong khoa học về kỹ thuật soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật thì các cặp thuật ngữ được sử dụng là “quyền và nghĩa vụ” và “quyền hạn và trách nhiệm”… Hơn nữa, trong Dự thảo Luật cần sử dụng thống nhất một thuật ngữ “phí, lệ phí” hoặc “phí và lệ phí”. Trong nội dung các điều luật của Dự thảo Luật phí và lệ phí việc sử dụng thuật ngữ không thống nhất,khi thì sử dụng thuật ngữ “phí và lệ phí” khi thì sử dụng thuật ngữ “phí, lệ phí”. Chúng tôi đề nghị trong nội dung các chương, điều, điều khoản cần sử dụng thống nhất thuật ngữ “phí và lệ phí” theo đúng tên gọi của dự thảo luật – Dự thảo Luật phí và lệ phí.

4.2. Góp ý về tên, nội dung Điều 16 và Điều 17 trong Chương V

4.2.1. Góp ý về tên điều luật

Nếu như tên Chương V được đổi thành “Quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước về quản lý phí và lệ phí” thì tên Điều 16 cần đổi thành “Quyền hạn và trách nhiệm của Chính phủ” và tên Điều 17 đổi thành “Quyền hạn và trách nhiệm của Bộ Tài chính” cho tương thích với tên của Chương V.

4.2.2. Góp ý về nội dung Điều 17

Bổ sung cụm từ “trong phạm vi cả nước” vào cuối nội dung quy định tại điểm c khoản 2 Điều 17 nhằm nhấn mạnh vai trò cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về phí, lệ phí; trong đó có theo dõi, kiểm tra hoạt động thu, quản lý, sử dụng phí, lệ phí của Bộ Tài chính; đồng thời, phân biệt với trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; theo đó, các cơ quan này chỉ có trách nhiệm tổ chức kiểm tra, theo dõi tình hình thực hiện việc thu, nộp, quản lý, sử dụng phí, lệ phí thuộc ngành, lĩnh vực quản lý. Như vậy điểm c khoản 2 Điều 17 được sửa đổi như sau: “c) Theo dõi, kiểm tra hoạt động thu, quản lý, sử dụng phí, lệ phí trong phạm vi cả nước”.

Bỏ cụm từ “Bộ Tài chính” ở cuối nội dung điểm g khoản 2 Điều 17 và được sửa đổi thành “g) Trình Chính phủ quyết định miễn, giảm phí, lệ phí thuộc thẩm quyền của Chính phủ” cho tương thích với nội dung khoản 3 Điều 16. Vì theo khoản 3 Điều 16, Chính phủ mới có thẩm quyền quyết định việc miễn, giảm phí, lệ phí.

PGS.TS. Nguyễn Quang Tuyến, Đại học Luật Hà Nội

& ThS. Lê Văn Đức, Khoa Luật – Đại học Vinh



[1] Phần chữ bôi đen là ý kiến đóng góp vào nội dung Dự thảo Luật Phí và lệ phí.

[2] Khoản 2 Điều 16 Dự thảo Luật Phí và lệ phí.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bình luận và kiến nghị về “thiệt hại khi tính mạng bị xâm phạm” trong chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

27/08/2015

Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong các chế định trụ cột của Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên, xuất phát từ bản chất của chế định này là không có sự tồn tại thỏa thuận trước của các bên đương sự nên việc xác định khoản bồi thường khi có thiệt hại xảy ra là một vấn đề khó khăn cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng, đặc biệt với trường hợp bồi thường thiệt hại khi tính mạng bị xâm phạm. Tính mạng là một trong các quyền nhân thân cao nhất được Hiến pháp bảo vệ. Khi tính mạng bị xâm phạm, người bị hại sẽ mất đi tất cả, đặc biệt khoản thiệt hại lớn nhất là thu nhập của người bị thiệt hại. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự hiện hành và Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) [1] (Dự thảo) dường như chưa đề cập đúng mức đến khoản thiệt hại đó. Bằng việc phân tích và giải thích điều luật trong mối quan hệ với quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và so sánh với pháp luật Nhật Bản, tác giả làm rõ cơ sở lý luận và đề xuất để tham khảo trong quá trình xây dựng và hoàn thiện chế định này.

Dự thảo quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau: “Người nào có hành vi trái pháp luật xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác” (Điều 600).

Xem xét điều khoản trên, có thể nhận thấy rõ mối quan hệ giữa “hành vi trái pháp luật” và việc “xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân” (dưới đây gọi là “quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm”) với “thiệt hại”. Mối quan hệ này thể hiện rằng, nội dung của thiệt hại được quyết định bằng chất và lượng của hai yếu tố nêu trước đó. Đồng thời, thiệt hại được xác định để bồi thường phải cân bằng với “quyền và lợi ích bị xâm phạm” và phải đủ để khôi phục được quyền và lợi ích đó. Theo đó, thiệt hại cũng là một giá trị trừu tượng và nó bằng với “quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm” nhưng việc bồi thường trên thực tế thì không thể thực hiện đối với một giá trị trừu tượng nên người ta phải hữu hình hóa thiệt hại bằng những thiệt hại cụ thể quy ra bằng tiền để bồi thường (thiệt hại này gọi là thiệt hại cụ thể). Dù vậy, bản chất của thiệt hại cũng không bị biến dạng và nó vẫn phải được cân đong bằng quyền và lợi ích bị xâm phạm. Do đó, việc bồi thường phải bảo đảm nguyên tắc bồi thường đầy đủ và thực tế sao cho khôi phục được nguyên trạng quyền và lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm.

Với ý nghĩa đó, thiệt hại được phân loại thành thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần (nếu như người bị xâm phạm là pháp nhân thì đây không hẳn là thiệt hại về tinh thần mà là hư tổn về uy tíntrong quá trình kinh doanh nên được có cách gọi khác là “thiệt hại vô hình”). Thiệt hại về vật chất được chia thành hai loại: Thiệt hại về người và thiệt hại về tài sản. Cả hai loại thiệt hại này lại được cấu thành từ: (i) Thiệt hại tích cực và (ii) Thiệt hại tiêu cực.

(i) Thiệt hại tích cực là sự mất mát cụ thể về những tài sản mà người bị thiệt hại đang sở hữu (như: Tiền nhập viện, tiền chữa bệnh, tiền sửa chữa tài sản hay giá trị hư tổn của các loại tài sản so với tài sản ban đầu…). Những tài sản (khoản chi phí) nêu trên vốn là tài sản mà người bị thiệt hại đang có nhưng do xảy ra thiệt hại nên phải chi ra để khắc phục thiệt hại.

(ii) Thiệt hại tiêu cực là lợi ích mà người bị xâm phạm lẽ ra sẽ có được trong tương lai nhưng do bị thiệt hại nên những lợi ích đó cũng mất đi. Ví dụ: Sự mất hoặc giảm thu nhập lẽ ra có được nếu không bị rơi vào hoàn cảnh bị xâm phạm, hoa lợi, lợi tức lẽ ra thu được từ tài sản nếu tài sản đó không bị hư hỏng.

Dựa trên nền tảng lý luận trên, tác giả sẽ phân tích một trường hợp cụ thể về thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm để làm rõ hơn các vấn đề lý luận đó. Điều 607 Dự thảo quy định về thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm như sau:

“1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

a) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

b) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng”.

Thứ nhất, đối với “chi phí hợp lý cho việc mai táng”

Theo cách phân loại như đã đề cập trên, chi phí này được chi trả cho tài sản của người bị xâm phạm và có thể xếp vào loại thiệt hại tích cực. Tuy nhiên, việc đưa chi phí này vào các khoản thiệt hại được bồi thường khi tính mạng bị xâm phạm là một điều không hợp lý về mặt lý luận. Bởi lẽ, bất cứ ai đến một thời điểm nhất định cũng sẽ phải đối mặt với cái chết. Khi chết, đương nhiên sẽ phải bỏ ra chi phí tổ chức tang lễ và mai táng. Do đó, chi phí mai táng là chi phí chắc chắn sẽ mất trong tương lai đối với tất cả mọi người, đây không phải chi phí chỉ xuất hiện khi có thiệt hại về tính mạng xảy ra. Như vậy, sự cố gây thiệt hại xâm phạm tính mạng của người chết chỉ có tác động nhân quả đến thời điểm chi trả chi phí mai táng sớm hơn so với bình thường chứ không có tác động nhân quả đối với việc phải chi trả mai táng phí. Tức là, về mặt lý thuyết, chi phí mai táng không phải là thiệt hại trong việc tính mạng bị xâm phạm.

Thứ hai, đối với “tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng”

Xem xét khoản tiền này với các thiệt hại đã trình bày ở trên, có thể thấy khoản tiền này không thuộc một trong hai thiệt hại tích cực hoặc thiệt hại tiêu cực. Trong trường hợp này, quyền được cấp dưỡng không phải là quyền của người bị xâm phạm tính mạng mà là trái quyền của người có quyền yêu cầu cấp dưỡng đối với người bị xâm phạm tính mạng. Do vậy, về nguyên tắc, không có căn cứ để liệt kê khoản tiền này vào khoản tiền được bồi thường theo quy định tại Điều 600 Dự thảo. Trừ trường hợp người gây thiệt hại cố tình xâm phạm tính mạng của người bị thiệt hại và cố ý ngăn cản việc nhận cấp dưỡng của người được người bị thiệt hại cấp dưỡng thì người gây thiệt hại phải bồi thường cả khoản tiền này theo một phạm trù độc lập, bằng cách áp dụng Điều 600 một cách riêng biệt.

Từ những phân tích trên đây, có một hoài nghi rất rõ là thiệt hại vật chất được quy định trong điều 607 Dự thảo đều không liên quan hoặc khó có thể liên quan đến những thiệt hại thực tế của người bị thiệt hại.

Vậy những thiệt hại thực tế của người bị thiệt hại trong trường hợp tính mạng bị xâm phạm là những khoản thiệt hại nào?

Vấn đề mấu chốt trong những thiệt hại về thực tế của người bị xâm phạm tính mạng chính là “thu nhập thực tế bị mất của người bị thiệt hại”. Khi có thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm thì thiệt hại tiêu cực chính là thu nhập mà lẽ ra người chết sẽ thu được nếu còn sống. Vậy khoản thu nhập này có được tính là khoản thiệt hại được bồi thường hay không?

Vấn đề này hầu như không được nhắc đến trong các giải thích cho đến nay của các học giả Việt Nam. Nguyên nhân có thể là do khi chia tách “thiệt hại” và “quyền và lợi ích bị xâm phạm” thành hai phạm trù khác nhau. Tuy nhiên, như những gì đã trình bày, “thiệt hại” chính là biểu hiện của “quyền và lợi ích bị xâm phạm”. Do đó, chúng có quan hệ tỷ lệ thuận với nhau, “quyền và lợi ích bị xâm phạm” càng cao, càng nghiêm trọng thì “thiệt hại” càng lớn và ngược lại. Hoàn toàn vô lý nếu như “tính mạng” bị xâm phạm lại được bồi thường thấp hơn so với “sức khỏe” bị xâm phạm. Theo Điều 19 Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”. Tại đây, Hiến pháp công nhận giá trị cao nhất của quyền sống và tính mạng của con người. Quy định này được bố trí trước quy định về quyền bất khả xâm phạm về thân thể (Điều 20 Hiến pháp2 [2]). Bên cạnh đó, Điều 16 Hiến pháp cũng nhấn mạnh: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. Từ những quy định của Hiến pháp có thể thấy, quyền được bảo hộ về tính mạng của con người là quyền dân sự cơ bản và được ghi nhận cao hơn so với quyền về thân thể và sức khỏe dựa trên nguyên lý bình đẳng trước pháp luật. Do đó, một điều đương nhiên phải thừa nhận là thiệt hại khi “tính mạng” bị xâm phạm phải ở mức cao hơn so với thiệt hại khi “sức khỏe” bị xâm phạm. Tuy nhiên, xem xét một số bản án của Việt Nam thì giá trị của tính mạng khi bị xâm phạm lại được bồi thường một cách không đầy đủ, thậm chí thấp hơn giá trị của thân thể và sức khỏe. Có ý kiến cho rằng: “Theo Điều 610 [3] Bộ luật Dân sự và hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán tại Nghị quyết 03 [4] nói trên khi nạn nhân bị thương tật, người gây thiệt hại cũng phải bồi thường các chi phí cứu chữa, chăm sóc, thu nhập thực tế bị mất của nạn nhân trong thời gian điều trị và trường hợp nạn nhân chết cũng phải bồi thường tương tự. Tuy nhiên, thực tế cho thấy khi nạn nhân bị thương tật thì thời gian nạn nhân được hưởng bồi thường kéo dài hơn so với khi nạn nhân bị chết rất nhiều, thậm chí là suốt đời nếu như nạn nhân đó bị mất hoàn toàn khả năng lao động. Trong khi đó, trường hợp nạn nhân bị chết mặc dù có thêm khoản tiền mai táng phí nhưng so với khi nạn nhân bị thương thì thời gian hưởng bồi thường, mức bồi thường thấp hơn rất nhiều lần. Thứ hai: Từ kẽ hở nêu trên, nên xảy ra hiện tượng với các lái xe ô tô hiện nay… các tài xế sau khi đã đâm vào nạn nhân làm cho nạn nhân bị thương nhưng đã cho xe cán qua người nạn nhân để nạn nhân chết luôn” [5].

Do đó, cần có cách giải thích đúng đắn quy định về “thiệt hại” trong mối quan hệ với “quyền và lợi ích bị xâm phạm” để xác định một cách chính xác và hợp lý các khoản thiệt hại phải bồi thường và xem xét tính hợp lý và công bằng của việc đưa thu nhập thực tế bị mất của người bị thiệt hại về tính mạng vào các khoản thiệt hại được bồi thường. Liên quan đến vấn đề này, tác giả xin được đưa ra 03 căn cứ dưới đây làm nền tảng cho quan điểm khẳng định sự đúng đắn của việc thừa nhận thu nhập của người chết là khoản thiệt hại phải được bồi thường.

Thứ nhất, so sánh hai hoàn cảnh trước và sau khi quyền và lợi ích bị xâm phạm để xác định thiệt hại nhằm bảo đảm mục đích của chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Đối với trường hợp thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm, dựa trên định nghĩa về thiệt hại tích cực như đã đề cập, “là lợi ích mà người bị xâm phạm lẽ ra sẽ có được trong tương lai nhưng do bị thiệt hại nên những lợi ích đó cũng mất đi”, cần thiết phải xem xét đến hoàn cảnh nếu không bị xâm phạm về tính mạng. Nếu không có sự kiện chết thì người bị thiệt hại sẽ sống và làm việc như bình thường. Mức thu nhập mà họ sẽ nhận được ít nhất là ngang bằng với thu nhập ngay trước khi qua đời. Nhưng vì tử vong nên người bị thiệt hại bị mất thu nhập đó. Khoản thu nhập bị mất chính là khoản chênh lệch giữa hai hoàn cảnh: Bị mất tính mạng và nếu không bị mất tính mạng.

Có một vài ý kiến của các học giả Việt Nam cho rằng, người đã chết thì sẽ không thể đi làm được nên không có thu nhập và không phải bồi thường đối với khoản thu nhập mà họ có thể nhận được nếu còn sống. Quan điểm này chỉ nghĩ đến hoàn cảnh hiện tại (người bị thiệt hại đã chết) mà không đặt trong sự so sánh hai hoàn cảnh trước khi bị xâm phạm và sau khi bị xâm phạm. Đồng thời, việc xử lý bồi thường như vậy vô hình trung đã xa rời mục đích, vai trò của chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là khôi phục lại nguyên trạng đối với quyền và lợi ích bị xâm phạm. Một điều không ai có thể phủ định đó là nếu người bị thiệt hại không mất đi tính mạng thì họ nhất định có thu nhập thông qua lao động. Nếu khoản thu nhập đó không được bồi thường thì làm sao có thể đạt được mục đích khôi phục nguyên trạng quyền và lợi ích lẽ ra người bị thiệt hại sẽ được hưởng.

Thứ hai, mối tương quan giữa “thiệt hại” với “quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm”

Trong khi đó, theo cách giải thích của Điều 606 và Điều 607 Dự thảo thì khi một ai đó bị xâm phạm về sức khỏe và thu nhập thực tế mất hoặc bị giảm sẽ được bồi thường khoản thiệt hại đó. Tuy nhiên, khi một ai đó bị xâm phạm tính mạng thì lại có vẻ không được bồi thường về thu nhập thực tế lẽ ra sẽ có được nếu không bị mất đi tính mạng. Giống như những gì đã đề cập, “tính mạng” là giá trị cao cả được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ và “sức khỏe” chỉ là nền tảng của “tính mạng”. Nên không có lý do nào mà ý nghĩa và giá trị của “tính mạng” lại bị coi thường hoặc rẻ mạt hơn so với “sức khỏe”.

Thứ ba, giải thích về quy định của Điều 607 Dự thảo

Như đã trình bày, thiệt hại là sự so sánh hai hoàn cảnh: Nếu còn sống và khi chết. Khi đặt phép trừ cho hai hoàn cảnh này thì đương nhiên sẽ nhận được kết quả là thu nhập thực tế lẽ ra thu được trong tương lai của người bị thiệt hại. Nhưng Điều 607 Dự thảo có vẻ chưa liệt kê về khoản thu nhập này. Tại sao lại như vậy? Theo tác giả, cần phải hiểu Điều 607 Dự thảo là danh sách liệt kê mở và khoản thu nhập thực tế của người chết vốn dĩ đã bao hàm trong đó.

Xem xét cấu trúc các điều luật trong Chương XIX của Dự thảo có thể thấy: Trong Chương XIX “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, Mục 1 “Quy định chung”, Điều 600 được bố trí đầu tiên làm nền tảng cho toàn bộ chế định. Mục 2 “Xác định thiệt hại” được thiết kế với 05 điều luật từ Điều 605 đến Điều 609, đây là những quy định liệt kê cụ thể dựa trên quan điểm chỉ đạo của Điều 600. Do đó, khi áp dụng và giải thích các quy định từ Điều 605 đến Điều 609 phải đặt trong sự phù hợp với bản chất của Điều 600. Nói cách khác, Điều 600 sẽ quyết định cách giải thích và áp dụng các điều trên. Theo đó, Điều 600 về mối quan hệ giữa “quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm” với “thiệt hại” thì “thiệt hại” chính là biểu hiện của “quyền và lợi ích bị xâm phạm” và “thiệt hại” được tính toán dựa trên sự so sánh hai hoàn cảnh trước và sau khi “quyền và lợi ích bị xâm phạm”. Dựa trên quan điểm chỉ đạo này, mọi “quyền và lợi ích bị xâm phạm” được biểu hiện thông qua thiệt hại trên thực tế đều là đối tượng được bồi thường. Đây là nguyên tắc chung và các quy định từ Điều 605 đến Điều 609 (trong đó có Điều 607) chỉ là các danh sách liệt kê mang tính đại diện đối với các thiệt hại khó nhận biết nếu nhìn từ Điều 600. Theo đó, nó không có ý nghĩa thay thế cho quy định nền tảng tại Điều 600. Do vậy, khi quy định tại Điều 605 đến Điều 609 liệt kê không đầy đủ các thiệt hại thì sẽ dựa trên Điều 600 để xác định thiệt hại.

Như vậy, xét trên cả phương diện lý luận về mục đích của chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và cách giải nghĩa quy định của Bộ luật Dân sự thì khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại về tính mạng thuộc thiệt hại tiêu cực và phải được bồi thường. Nếu như không thừa nhận thiệt hại lớn nhất của người bị xâm phạm tính mạng là thu nhập của người đó, cộng với những phân tích trên đây về sự bất hợp lý trong các khoản thiệt hại được liệt kê trong Điều 607, việc không thừa nhận này sẽ đồng nghĩa với việc Bộ luật Dân sự Việt Nam không truy cứu trách nhiệm dân sự của người đã “tước đoạt tính mạng” trái luật.

Tham khảo pháp luật Nhật Bản về bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

Như trình bày trên, thiệt hại về vật chất có hai loại là thiệt hại tích cực và thiệt hại tiêu cực, khi tính mạng bị xâm phạm thì sẽ phát sinh cả hai khoản thiệt hại đó. Trong đó, thiệt hại tiêu cực chiếm phần lớn là thu nhập lẽ ra thu được mà không thu được của người chết. Khoản thu nhập này được tính như sau:

(i) Đối với những người đang hưởng lương hoặc có thu nhập sẽ được tính toán trên cơ sở của thu nhập ngay khi sự cố xảy ra. Trong trường hợp này, phía người bị hại phải chứng minh thu nhập thực tế đang được hưởng.

(ii) Đối với những người không hưởng lương hoặc không có thu nhập đều đặn như trẻ em, học sinh, sinh viên, những người nội trợ không đi làm hay những người thất nghiệp thì sẽ căn cứ theo thu nhập bình quân của thống kê thu nhập cả nước cũng như thu nhập bình quân theo trình độ học vấn.

Sau khi tính thu nhập của người chết bằng cách trên, thì nhân thời gian có thể làm việc được để tính ra tổng thu nhập mà người chết có thể thu được nếu sống bình thường. Thời gian có thể làm việc được cũng sẽ tính dựa vào tuổi thọ của người chết, tình hình sức khỏe trước khi chết và tính chất nghề nghiệp của người chết. Nguyên tắc là cao nhất là 67 tuổi [6]. Tuy nhiên, cũng có trường hợp khi một người sức khỏe tốt làm nghề giặt ủi chết lúc 60 tuổi thì bản án đã tuyên là người này có thể làm việc đến 74 tuổi [7].

Khoản thu nhập theo tháng nhân với thời gian có thể làm việc sẽ thành tổng thu nhập của người chết. Tuy nhiên, tính ra như vậy vẫn chưa đủ vì thông thường có thu nhập thì sẽ phải bỏ ra các chi phí cho cuộc sống nên phải khấu trừ đi chi phí sinh hoạt. Vì thế theo cách thức tính và án lệ của Nhật Bản thì thiệt hại chính đáng của người chết là tổng thu nhập trừ đi tổng chi phí sinh hoạt. Theo thực tiễn xét xử cũng như xử lý bảo hiểm nhân thọ đối với tai nạn giao thông hiện nay của Nhật Bản, nếu như trường hợp người chết là trụ cột trong gia đình hoặc nữ giới thì 30% đến 40% của tổng thu nhập, trường hợp nam giới độc thân hoặc trẻ em nam thì 50% tổng thu nhập được coi là chuẩn mực chi phí sinh hoạt để khấu trừ [8]. Bên cạnh đó, Nhật Bản còn có một loại khấu trừ khác là khấu trừ chiết khấu lãi suất trung gian (bởi vì thu nhập bình thường được chi trả định kỳ theo tháng, năm trong khi đó, khi bồi thường thì được trả một lần cho tất cả thu nhập trong tương lai, vì thế cần chiết khấu lãi suất trung gian đối với phần thu nhập tương lai).

Như vậy, theo pháp luật Nhật Bản, thu nhập của người chết là nội dung, khoản được bồi thường đối với thiệt hại xâm phạm tính mạng. Khi tính toán tiền được bồi thường đối với khoản thiệt hại này thì thực tiễn của Nhật Bản cho thấy: Nguyên tắc là tất cả tiền thu nhập của người chết sẽ tính theo thực tế của người chết được phía người bị hại chứng minh, còn đối với phần nào mà phía người bị xâm phạm không thể chứng minh được một số yếu tố như thu nhập của trẻ em, học sinh, sinh viên, những người nội trợ không đi làm hay những người thất nghiệp thì tuy không có tài liệu để chứng minh thu nhập cố hữu của những người bị xâm phạm hoặc cơ sở tính toán chính xác thu nhập này, nhưng dựa theo các tài liệu khách quan như tài liệu thống kê về thu nhập và tiêu chí đánh giá về khả năng và thời gian có thể làm việc để đưa ra mức thiệt hại tương đối khiêm tốn cho người bị xâm phạm.

Trên đây là những phân tích liên quan đến việc xác định thiệt hại khi tính mạng bị xâm phạm trong Dự thảo, đồng thời, tác giả xem xét cách tính thu nhập của người chết với ý nghĩa là một tài liệu tham khảo. Trong bài viết này, tác giả đã tập trung nhấn mạnh về bản chất của thiệt hại. Đó chính là sự liên quan mật thiết của thiệt hại với giá trị trừu tượng của “quyền và lợi ích bị xâm phạm”. Điều này rất quan trọng để bảo đảm chức năng của chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là “đền bù những thiệt hại gây ra để khôi phục nguyên trạng, bảo vệ quyền và lợi ích được pháp luật quy định và bảo vệ”. Mong rằng, Dự thảo sẽ cân nhắc về vấn đề này sao cho phù hợp với công lý phổ thông và nguyên tắc tối cao mà Hiến pháp quy định.

Fushihara Hirota

Tài liệu tham khảo:

[1]. Bản Chính phủ trình, xin ý kiến Quốc hội khóa XIII tại kỳ họp thứ 9, đăng tại website: http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=588.

[2]. Điều 20 Hiến pháp quy định:

“1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”.

[3]. Điều này theo Bộ luật Dân sự năm 2005 tương đương với Điều 607 Dự thảo.

[4]. Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

[5]. An Văn Khoái, “Những bất cập trong quy định về bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm hại”, Tạp chí Tòa án nhân dân kỳ I tháng 12/2010 (số 23), tr. 24, 25.

[6]. Shiomi Yoshio, “Bài giảng cơ bản: Các quy định riêng về trái quyền II – Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, Nxb. Shinseisha, Nhật Bản, 2005, tr. 57.

[7]. Kato Masanobu, “Đại hệ thống luật dân sự mới – Quyển V: Thực hiện công việc không có ủy quyền, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, Nxb. Yuhikaku, Nhật Bản, 2004, tr. 287.

[8]. Kato Masanobu, “Đại hệ thống luật dân sự mới – Quyển V: Thực hiện công việc không có ủy quyền, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, Nxb. Yuhikaku, 2004, tr. 289.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Cơ sở pháp lý thực hiện trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay

07/10/2015

1. Trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước

Tính chịu trách nhiệm là đặc điểm, yêu cầu có tính nguyên tắc của các chủ thể quyền lực. “Trách nhiệm giải trình” (hay tính chịu trách nhiệm, tiếng Anh là Accountable, accountability) được xác định: “Có nghĩa vụ giải thích và chấp nhận trách nhiệm cho các hành vi của một người. Một chính quyền được bầu lên có trách nhiệm chính trị (ít nhất là thông qua bầu cử) đối với cử tri; trong một hệ thống nghị viện có chịu trách nhiệm đối với nghị viện; một công chức chịu trách nhiệm trước pháp luật”[1].

Trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước được nhắc tới nhiều hơn cũng xuất phát từ vị trí vai trò của các cơ quan này trong hệ thống các cơ quan nhà nước. Nhà nước được tổ chức theo thông lệ 3 cành quyền lực: Lập pháp – Quốc hội; Hành pháp – Chính phủ; Tư pháp – Tòa án. Cành quyền lực hành pháp bao gồm các cơ quan hành chính nhà nước được tổ chức từ trung ương đến địa phương luôn được xem như là trung tâm của quyền lực nhà nước. Tất cả 3 cành quyền lực lập pháp – hành pháp – tư pháp đều phải chịu trách nhiệm về phần việc của mình, nhưng tựu chung lại, các cơ quan hành chính nhà nước phải chịu trách nhiệm là quan trọng bậc nhất của sự hạn chế quyền lực và trách nhiệm của Nhà nước. Sự chịu trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước chính là điều kiện tiên quyết của chế độ dân chủ. Tiêu điểm của việc Hiến pháp hạn chế quyền lực nhà nước chính là nằm ở hệ thống các cơ quan này mà cao nhất chính là trách nhiệm của Chính phủ.

Trách nhiệm giải trình dường như là một khái niệm mới được thảo luận ở Việt Nam trong thời gian gần đây. Hiện có rất nhiều quan điểm, cách tiếp cận khác nhau của nhiều học giả trong nước, nước ngoài, các tổ chức quốc tế đưa ra quan niệm về trách nhiệm giải trình. Một số tác giả cho rằng trách nhiệm giải trình là trách nhiệm đạo đức, chính trị. Có tác giả lại quan niệm một cách đơn giản cho rằng trách nhiệm giải trình thực ra chỉ là vấn đề trách nhiệm. Hoặc trách nhiệm giải trình là quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức nhà nước và các cán bộ, công chức phải công khai, giải thích và làm rõ các thông tin trong hoạt động công vụ của mình trước nhân dân và các tổ chức khác, đồng thời chịu trách nhiệm khi để xảy ra hậu quả[2]. Bản chất trách nhiệm giải trình cũng thuộc về hình thức thể hiện tính chịu trách nhiệm của Nhà nước. Về quan niệm này, nếu cho rằng trách nhiệm giải trình là “quyền” của các cơ quan hành chính nhà nước thì sẽ không đảm bảo được tính chịu trách nhiệm của Nhà nước, bởi khi đã nói đến quyền thì việc sử dụng hay không sử dụng sẽ tùy thuộc vào ý chí chủ quan của chủ thể giải trình, như vậy mục tiêu đảm bảo tính trách nhiệm của Nhà nước đã không thật sự trọn vẹn.

Đề tài cấp bộ “Thực hiện trách nhiệm trách nhiệm giải trình trong thực thi công vụ nhằm phòng ngừa tham nhũng ở Việt Nam” của Viện Khoa học Thanh tra đưa ra quan niệm trách nhiệm giải trình là trách nhiệm của người được ủy quyền thực hiện nhiệm vụ trước người ủy quyền thực hiện nhiệm vụ bao gồm: (i) Trách nhiệm cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác về quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao; (ii) Trách nhiệm báo cáo, giải thích, chứng minh về kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao và (iii) Trách nhiệm đối với kết quả thực hiện nhiệm vụ (bao gồm khả năng gánh chịu hình phạt khi để xảy ra hậu quả xấu)…

Trách nhiệm giải trình luôn là đòi hỏi đối với tất cả các cơ quan hiến định, các cơ quan nhà nước nói chung chứ không chỉ riêng đối với các cơ quan hành chính nhà nước. Đây cũng xuất phát từ tính chính đáng của Nhà nước, thể hiện bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa của Nhà nước ta.

Chúng tôi cho rằng trách nhiệm giải trình chỉ xuất hiện, phát sinh khi có sự yêu cầu của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền theo luật định. Ngoài ra, để xác định trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước, chúng ta phải đặt chúng trong các mối quan hệ tương tác về kiểm soát và giám sát hoạt động thực thi, mà trọng tâm chính là hệ thống các thiết chế giám sát bên ngoài và bên trong các nhánh quyền lực nhà nước. Do đó, chúng tôi đề xuất định nghĩa trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước như sau:

Trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước là nghĩa vụ của các cơ quan hành chính nhà nước và người đứng đầu cơ quan đó phải cung cấp thông tin và báo cáo các phương diện hoạt động thuộc phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình một cách trung thực và công khai cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có chức năng giám sáttheo định kỳ và khi có yêu cầu theo luật định.

2. Vai trò của việc thực hiện trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước

Trách nhiệm giải trình có nhiều ý nghĩa, nó tạo ra tính chính đáng cho bộ máy nhà nước, là công cụ quan trọng để xây dựng, giữ gìn và phát huy nền dân chủ. Ở các nước phương tây có nền dân chủ phát triển, chính quyền ngày càng phải đối mặt với công chúng. Công chúng ngày càng nhận thức được rằng việc thực hành thẩm quyền công không phải sự ban ơn. Lòng tin của công chúng vào chính quyền là yếu tố quan trọng để chính quyền tồn tại và hoạt động, lòng tin ấy thường rất mong manh. Thực tế đã cho thấy, có rất nhiều nền dân chủ công nghiệp hoá đã trải qua những biến động lớn làm sụt giảm lòng tin của công chúng, sự ủng hộ chính trị bị sói mòn dần dần và lâu dài dẫn đến những hậu quả vô cùng nghiêm trọng.

Thực hiện trách nhiệm giải trình chính là một phương thức để kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm phòng ngừa tham nhũng. Có một thực tế là việc hành pháp của các cơ quan hành chính nhà nước luôn luôn có khả năng tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân quy định chức năng nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan hành chính nhà nước luôn không bao giờ đủ so với phạm vi điều chỉnh, tác động của các cơ quan này lên các mối quan hệ của đời sống xã hội. Và thực hiện trách nhiệm giải trình sẽ giúp cho người dân, tập thể, cá nhân, cơ quan tổ chức có thẩm quyền giám sát có được thông tin để thực hiện hoạt động giám sát đối với hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước.

Thực hiện trách nhiệm giải trình là một biểu hiện rõ rệt cho những nỗ lực xây dựng một nhà nước dân chủ của Đảng và Nhà nước ta. Việc được tiếp cận thông tin thông qua hoạt động giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước như là một yếu tố quan trọng giúp cho người dân tham gia vào đời sống quản lý nhà nước một cách có hiệu quả. Sự công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước cũng được xác định là một trong những yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nước ta hiện nay.

Trách nhiệm giải trình luôn gắn liền với sự minh bạch, công bằng, dân chủ, tính hiệu quả, khả năng đáp ứng, trách nhiệm hay tính toàn vẹn. Bởi vậy, trách nhiệm giải trình là mục tiêu mà một nền quản lý công tốt cần có, là cơ sở đánh giá tính hiệu quả, hiệu lực của nền hành chính nhà nước, là khả năng đáp ứng, ý thức trách nhiệm hay mong muốn thực hiện nhiệm vụ theo cách minh bạch, công bằng. Trách nhiệm giải trình còn được coi như một biểu tượng, mục tiêu hướng tới. Trách nhiệm giải trình giúp truyền tải hình ảnh quản lý tốt, gợi lên một hình ảnh đáng tin cậy, trung thực, công bắng và tính chịu trách nhiệm của người đứng đầu trong quản lý nhà nước[3].

3. Thực trạngpháp luật về trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước hiện nay

Báo cáo giải trình là phương thức hoạt động của các cơ quan nhà nước đã được ghi nhận và thực hiện trong thực tiễn tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước ta từ trước đến nay.Tuy nhiên, phải đến Hiến pháp năm 2013, thuật ngữ giải trình lần đầu tiên được Hiến pháp quy định. Mặc dù không quy định cụ thể thuật ngữ giải trình, nhưng các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan hành chính nhà nước đều đã thể hiện rõ trách nhiệm giải trình trước các chủ thể có thẩm quyền giám sát[4].

Có thể thấy hầu hết các quy định liên quan đến trách nhiệm giải trình hiện nay vẫn chỉ mang tính chất chung chung, dừng lại ở hình thức “báo cáo”, hoặc “cung cấp thông tin, tài liệu liên quan” đến hoạt động thực thi công cụ của các cơ quan hành chính.

Luật Giám sát của Quốc hội năm 2003 quy định cách thức, quy trình thực thi quyền giám sát tối cao của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội cũng như trách nhiệm báo cáo, giải trình trở lại của Chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh. Đây được xem như một sự ghi nhận về trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước đối với cơ quan dân cử; Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 ghi nhận quyền giám sát của Hội đồng nhân dân đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước trên từng đơn vị hành chính lãnh thổ nhất định, cụ thể Hội đồng nhân dân có thẩm quyền giám sát đối với Ủy ban nhân dân cùng cấp, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp dưới[5]. Đối với quyền giám sát bên ngoài, Điều 9 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2003 cũng mới chỉ quy định mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân với các thiết chế bên ngoài dừng lại ở việc “phối hợp chặt chẽ”, chứ cũng chưa quy định rõ trách nhiệm giải trình đối với các cơ quan này[6].

Luật Kiểm toán nhà nước năm 2005 quy định các cơ quan hành chính nhà nước là một trong những chủ thể có trách nhiệm báo cáo giải trình những vấn đề liên quan đến việc thu, chi thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 (Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 sẽ có hiệu lực từ năm 2017), kèm theo đó là trình tự, thủ tục tiến hành kiểm toán, cũng như quyền hạn, nghĩa vụ của kiểm toán nhà nước; cũng như nghĩa vụ báo cáo, giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước. Luật Phòng chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi bổ sung năm 2007, năm 2012), Luật Thanh Tra năm 2010, Luật Báo chí năm 1989 (sửa đổi bổ sung năm 1998 và 1999) cũng quy định trách nhiệm cung cấp thông tin về hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước theo quy định của pháp luật[7].

Khiếu nại, tố cáo chính là một trong những cách thức thể hiện quyền làm chủ, quyền tiếp cận thông tin của người dân. Điều 5 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định trách nhiệm cung cấp thông tin tài liệu, liên quan đến việc giải quyết khiếu nại của cơ quan có thẩm quyền. Luật Khiếu nại năm 2011 cũng quy định quyền của người khiếu nại yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin liên quan đến việc khiếu nại của mình và nghĩa vụ của người bị khiếu nại phải cung cấp thông tin tài liệu liên quan đến nội dung khiếu nại[8]; Điều 42 Luật Tố cáo năm 2011 quy định trách nhiệm của các cơ quan hành chính báo cáo với cơ quan có thẩm quyền vềcông tác giải quyết tố cáo thuộc phạm vi quản lý của mình[9]. Riêng đối với Luật Khiếu nại năm 2011, chúng tôi cho rằng việc quy định nghĩa vụ của người bị khiếu nại, người giải quyết khiếu nại cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung khiếu nại “khi có yêu cầu[10]” là không hợp lý. Bởi một thực tế đang diễn ra đó là nhiều khi người dân đi khiếu nại cũng không thể biết rõ thông tin, tài liệu nào liên quan trực tiếp đến nội dung khiếu nại của mình, dẫn đến sự bị động trong việc đề xuất yêu cầu cung cấp thông tin. Do đó, nhất thiết cần phải sự chủ động cung cấp thông tin từ phía người bị khiếu nại, người giải quyết khiếu nại liên quan đến nội dung khiếu nại, có như vậy mới đảm bảo được quyền dân chủ của người dân.

Vấn đề đặt ra ở đây đó là: Cần phải quy định cụ thể, chi tiết trình tự giải trình như thế nào? bằng những hình thức nào? Thực tế quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước bao phủ hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, và mỗi lĩnh vực quản lý lại được phân cấp cho các cơ quan chuyên biệt quản lý, từ đó đặt ra yêu cầu mỗi lĩnh vực hoạt động cần có hình thức giải trình tương ứng. Văn bản pháp luật quy định trực tiếp cụ thể về trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước hiện nay chỉ có duy nhất có Nghị định số 90/2013NĐ-CP của Chính phủ ngày 08/08/2013. Tuy nhiên, Nghị định này cũng chưa thể hiện rõ được các hình thức yêu cầu giải trình cụ thể, cơ sở phát sinh quyền yêu cầu giải trình của các chủ thể giám sát tương ứng với đó là giới hạn phạm vi giải trình đến đâu của các cơ quan hành chính nhà nước. Việc này tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến sự tùy tiện trong việc giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước, từ đó làm giảm hiệu quả phản biện xã hội của người dân, cũng như hiệu quả giám sát của các thiết chế có thẩm quyền.

Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định nguyên tắc công khai, minh bạch, đúng thẩm quyền và có sự kiểm tra, giám sát trong thi hành công vụ, đồng thời quy định nghĩa vụ của cán bộ, công chức với tư cách là người đứng đầu phải chịu trách nhiệm về hoạt động của cơ quan, đơn vị mình phụ trách[11]. Tuy nhiên, Luật Cán bộ, công chức năm 2008 cũng không quy định cụ thể trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước gắn liền với trách nhiệm của người đứng đầu, thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị, cũng như tách bạch rõ trách nhiệm giải trình với tư cách người đứng đầu với trách nhiệm giải trình đại diện chung các lĩnh vực hoạt động của cơ quan, tổ chức mình phụ trách. Thêm nữa, việc quy định trách nhiệm giải trình những vấn đề liên đới thuộc quản lý, phụ trách của nhiều cơ quan, đơn vị, nhiều cán bộ phụ trách cũng chưa được làm rõ. Từ đó, tiềm ẩn nguy cơ gây khó khăn cho việc quy trách nhiệm chính thuộc về cơ quan nào, dấn đến tình trạng đùn đẩy trách nhiệm như hiện nay.

3. Một số kiến nghị, đề xuất hoàn thiện cơ sở pháp lý đảm bảo cho hoạt động giải trình của cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, để đảm bảo trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước cần phải gắn với vai trò của người đứng đầu hành pháp, cũng như vai trò của thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước, thủ trưởng các đơn vị. Cụ thể hơn, Luật Cán bộ, công chức nên quy định rõ trách nhiệm giải trình về hoạt động của đơn vị cũng như của cá nhân với tư cách là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị. Như vậy, việc báo cáo giải trình của các cơ quan sẽ dễ dàng hơn rất nhiều và cũng đảm bảo được nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước. Bên cạnh đó, để đảm bảo tính chịu trách nhiệm của Nhà nước nói chung, trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng, tác giả cho rằng việc thực hiện trách nhiệm giải trình nên gắn với trách nhiệm chính trị[12] của những người đứng đầu, cũng là thể hiện văn hóa tôn trọng người dân của một nhà nước dân chủ thực sự.

Thứ hai, xét về tổng thể thì tình trạng “thiếu luật”, hay tình trạng lỗ hổng về mặt pháp lý liên quan đến quy định sự tham gia phản biện của người dân vẫn đang là một tồn tại chưa được khắc phục. Sự thiếu sót này là rào cản lớn cho sự phát triển của xã hội dân sự, nơi tạo ra một kênh phản biện hữu hiệu đối với hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước, cũng như bù đắp những thiếu sót, giới hạn trong điều chỉnh pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, chúng tôi cho rằng Nhà nước cần sớm ban hành các đạo luật về các thiết chế, phương thức giám sát của nhân dân đối với các cơ quan nhà nước, giữa các cơ quan, tổ chức quyền lực nhà nước với nhau, ví dụ như: Luật về trưng cầu ý dân, Luật về thông tin, quyền tiếp cận thông tin, luật về hội, luật về giám sát và phản biện xã hội, và nhiều luật khác…

Thứ ba, cần thay đổi tư duy trong hoạt động giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước. Việc giải trình cần phải gắn liền với trách nhiệm báo cáo, giải trình của người đứng đầu, thủ trưởng cơ quan, đơn vị. Đặc biệt, giải trình không chỉ dừng lại ở việc “biết gì nói nấy”. Hoạt động giải trình luôn phải gắn với phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan hành chính nhà nước. Có như vậy mới đảm bảo hoạt động giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước là sự thể hiện rõ tính chịu trách nhiệm của Nhà nước trước nhân dân.

Thứ tư, cần quy định thêm quyền yêu cầu giải trình cho các chủ thể có chức năng giám sát đối với hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước. Điều này sẽ giúp cho các thiết chế giám sát thuận lợi trong việc tiếp cận thông tin phục vụ phản biện xã hội; tạo điều kiện cho người dân tham gia ý kiến vào các quyết định của các cơ quan hành chính nhà nước trước khi quyết định được ban hành. Đây cũng là giúp cho nhân dân thực sự tham gia vào quản lý nhà nước một cách đúng nghĩa[13]. Bên cạnh đó, những lĩnh vực thuộc sự điều chỉnh, quản lý của nhiều cơ quan, đơn vị chúng tôi cho rằng, cần quy định rõ trách nhiệm giải trình liên đới của các chủ thể này, tránh tình trạng đá bóng trách nhiệm, không truy xuất được trách nhiệm cụ thể thuộc về ai, ai sẽ là người phải đứng ra giải trình về nội dung liên quan[14].

Nguyễn Thanh Tùng

Viện Nhà nước và Pháp luật



[1]Xây dựng và sửa đổi Hiến pháp: Những lựa chọn cho quy trình, Nxb Hồng Đức, HN, 2013, Phụ lục B: Thật ngữ, tr. 469.

[2]Trần Quyết Thắng,Trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 1/2015.

[3] Đề tài cấp bộ “Thực hiện trách nhiệm trách nhiệm giải trình trong thực thi công vụ nhằm phòng ngừa tham nhũng ở Việt Nam của Viện Khoa học Thanh tra.

[4] Xem Điều 94;khoản 3, khoản 6 Điều 98; khoản 2 Điều 99; khoản 2 Điều 115, Điều 116 Hiến pháp năm 2013.

[5] Xem điều 1, Điều 2 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003.

[6] Xem Điều 9, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003.

[7]Xem Điều 31, Luật Phòng chống tham nhũng năm 2005.

[8]Xem khoản 2 điều 13 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định về Nghĩa vụ của người bị khiếu nại.

[9] Xem Điều 42 Luật Tố cáo năm 2011.

[10]Xem Điều 13, Điều 14, Điều 15 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định về quyền và nghĩa vụ của người bị khiếu nại, người giải quyết khiếu nại lần 1 và lần 2.

[11]Xem điều 32 Luật Phòng chống tham nhũng năm 2005

[12]Trách nhiệm chính trị ở đây được hiểu là trách nhiệm về chính sách, kế hoạch do những người đứng đầu khởi xướng, đề ra.

[13]Ví dụ như quy định về thiết chế giám sát Ban thanh tra nhân dân chỉ có chức năng giám sát, chưa quy định rõ quyền yêu cầu cung cấp thông tin đối với các cơ quan hành chính nhà nước.

[14]Có những lĩnh vực cùng thuộc điều chỉnh, quản lý của nhiều cơ quan, đơn vị. Ví dụ như việc quản lý đô thị thì liên quan đến sự quản lý của các cơ quan giao thông, môi trường đô thị, bưu chính viễn thông…

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quyền có việc làm của người lao động – Tiếp cận dưới góc độ quyền con người

06/10/2015

Quyền có việc làm của người lao động (NLĐ) là một trong những quyền cơ bản của con người. Vì vậy, việc nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận pháp lý về quyền con người, quyền của NLĐ, quyền có việc làm của NLĐ là vấn đề cần thiết nhằm giúp cho mọi người có cách nhìn tổng quan, toàn diện hơn về các quyền của con người, đặc biệt là quyền của NLĐ và quyền có việc làm của NLĐ trong giai đoạn hiện nay.

1. Khái niệm quyền con người

Quyền con người có quá trình phát triển rất lâu đời trong lịch sử nhân loại, có nội dung rộng lớn, là một vấn đề khá phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực như đạo đức, chính trị, pháp lý…, là sự kết hợp của các yếu tố quốc tế và dân tộc, giai cấp và nhân loại. Đến nay, có khoảng 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố, mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng không định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người. Tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về quyền con người phụ thuộc vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân. Học thuyết Nhân quyền tự nhiên cho rằng: “Con người có những quyền cố hữu do tạo hóa ban tặng như quyền sống, quyền tự do, quyền sở hữu; quyền con người là thiêng liêng, cao quý và phải được xếp cao hơn pháp luật của nhà nước; nhân dân trao quyền cho nhà nước vì vậy quyền lực nhà nước là có giới hạn và nhà nước có nghĩa vụ đối với người dân”[1]. Nhà tư tưởng tiêu biểu cho Học thuyết nhân quyền đó là John Locke (1632 – 1704). Hiến pháp năm 1791 của Pháp viết: Quyền con người là “quyền tự do, sở hữu, được an toàn và chống lại áp bức”; Tuyên ngôn độc lập của Mỹ viết: “Quyền con người đó là các quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; Hai học giả người Trung Quốc có quan niệm khác về quyền con người, học giả Đồng Vân Hồ quan niệm: “Có thể nói gọn lại, nhân quyền là quyền tồn tại, phát triển một cách tự do, bình đẳng”[2], còn học giả Từ Sùng Ôn viết: “Nhân quyền suy cho cùng bắt nguồn từ điều kiện kinh tế – xã hội, phản ánh lợi ích cơ bản của một giai cấp nhất định”[3].

Ngày nay, khoa học pháp lý phát triển đã cho chúng ta nhiều căn cứ để đưa ra định nghĩa về quyền con người đầy đủ hơn trong sự vận động biện chứng của lịch sử. Một định nghĩa rất phổ biến thường được trích dẫn bởi các học giả theo học thuyết quyền tự nhiên: “Quyền con người là những quyền cơ bản, không thể tước bỏ mà một người vốn được thừa hưởng đơn giản vì họ là con người”[4]. Ở cấp độ quốc tế, theo định nghĩa của Văn phòng cao ủy Liên Hợp quốc thường xuyên được trích dẫn: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người”[5]. Ở Việt Nam, chưa có một văn bản pháp luật nào quy định định nghĩa về quyền con người. Tuy nhiên, nội hàm của khái niệm quyền con người được thể hiện trong những quy định cụ thể. Tại Nghị quyết về giành chính quyền được thông qua tại Đại hội Đại biểu Quốc dân do Tổng bộ Việt Minh triệu tập ngày 16/8/1945 đã ghi:

Ban bố những quyền của dân, cho dân:

a) Nhân quyền;

b) Tài sản (quyền sở hữu);

c) Dân quyền: Quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ (tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, ngôn luận, hội họp, đi lại), dân tộc bình quyền, nam nữ bình quyền[6].

Trên phương diện nghiên cứu khoa học pháp lý, một số cơ quan nghiên cứu, tác giả cũng đưa ra định nghĩa về quyền con người. Tuy không hoàn toàn giống nhau, nhưng xét chung, quyền con người được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế[7]. Quyền con người được cấu thành bởi hai yếu tố: (i) Quyền con người được hiểu là những đặc quyền vốn có tự nhiên của con người và chỉ con người mới có; (ii) Quyền tự nhiên vốn có đó khi được pháp luật ghi nhận và điều chỉnh, thì sẽ trở thành các quyền con người. Quyền con người chính là sự thống nhất giữa hai yếu tố khách quan và chủ quan được ghi nhận trong pháp luật của mỗi quốc gia và pháp luật quốc tế.

Quyền con người luôn được xác định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ. Những chuẩn mực này kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, chỉ áp dụng với con người, cho tất cả mọi người. Nhờ có những chuẩn mực này, mọi thành viên trong gia đình nhân loại mới được bảo vệ nhân phẩm và mới có điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư cách là một con người[8]. Cho dù cách nhìn nhận có những khác biệt nhất định, nhưng đó lại là những quyền tự nhiên của con người và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào. Chính vì vậy, quyền con người và việc bảo đảm thực hiện quyền con người luôn là mối quan tâm hàng đầu, là mục tiêu phấn đấu của các quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế.

Liên Hợp Quốc luôn coi quyền con người là vấn đề cấp thiết trên toàn thế giới, với mục tiêu duy trì hòa bình và an ninh thế giới, Liên Hợp quốc đã soạn thảo hàng trăm văn kiện quốc tế về quyền con người. Trong bản Hiến chương của mình, tuy không có điều khoản riêng nào đề cập đến quyền con người, nhưng trong nhiều đoạn, mục, Liên Hợp Quốc đã đề cập đến các quyền tự do cơ bản của con người. Ngay trong phần mở đầu đã nêu rõ “… sự tin tưởng vào những quyền cơ bản, nhân phẩm và giá trị của con người, ở quyền bình đẳng giữa nam và nữ, ở quyền bình đẳng giữa các nước lớn và nhỏ”[9]. Hiến chương còn khẳng định, các quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc cam kết “thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, văn hóa và nhân đạo và khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền của con người và các tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”[10].

Có thể nói, lần đầu tiên quyền con người được chính thức ghi nhận và tôn trọng trong một văn bản quốc tế có giá trị pháp lý và được thừa nhận rộng rãi. Trên cơ sở Hiến chương, năm 1948, Liên Hợp Quốc đã thông qua Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền gồm 30 điều, ghi nhận tất cả các quyền con người trên các lĩnh vực. Tuyên ngôn này được đánh giá không chỉ là văn kiện đầu tiên khẳng định các nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người đã được ghi nhận trong Hiến chương Liên Hợp Quốc, mà còn ghi nhận các quyền và tự do của con người một cách cụ thể như các quyền liên quan đến chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, dân sự. Trên cơ sở Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948, quyền con người đã được thể hiện cụ thể hơn trong Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội và Công ước quốc tề về các quyền dân sự, chính trị (năm 1966) [11].

Ở Việt Nam quyền con người, quyền công dân được quy định đầy đủ và chi tiết tại Chương 2 Hiến pháp năm 2013 với 36 điều. Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định:“Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Việt Nam cũng đã và đang tích cực tham gia Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966, Công ước về quyền trẻ em năm 1989, Công ước về quyền của người khuyết tật năm 2006… Nội dung của các Công ước đều được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật Việt Nam. Điều này cho thấy việc coi trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là mục tiêu nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam, là yêu cầu quan trọng trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; là động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

2. Quyền của người lao động

Quyền của NLĐ là vấn đề có ý nghĩa rất lớn cả về lý luận và thực tiễn không chỉ đối với cá nhân con người, tập thể NLĐ, mà còn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước, dân tộc và toàn nhân loại. Quyền của NLĐ là những quyền liên quan đến NLĐ và người sử dụng lao động (NSDLĐ). Các quyền của NLĐ được ghi nhận trong các Điều ước quốc tế như: Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và các khuyến nghị của ILO.

Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 ghi nhận các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa, trong đó ghi nhận rõ quyền lao động của con người bao gồm: quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 22), quyền làm việc, tự do chọn nghề và được trả lương ngang nhau cho những công việc như nhau, được trả lương xứng đáng và hợp lý để bảo đảm cho một cuộc sống có đầy đủ giá trị nhân phẩm, được thành lập hoặc gia nhập công đoàn (Điều 23), quyền được nghỉ ngơi, giải trí (Điều 24).

Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 đã cụ thể hóa các quyền của NLĐ, cụ thể là: Quyền làm việc (Điều 6); quyền được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi như được trả lương thỏa đáng và trả thù lao bằng nhau, quyền được hưởng những điều kiện làm việc an toàn và vệ sinh, sự nghỉ ngơi, thời gian rảnh rỗi (Điều 7); quyền được thành lập và gia nhập công đoàn, quyền được đình công (Điều 8); quyền được hưởng an toàn xã hội, kể cả bảo hiểm xã hội (Điều 9).

Các quyền của NLĐ mặc dù được ghi nhận trong các văn bản pháp lý quốc tế, nhưng đó chỉ là sự ghi nhận mang tính nguyên tắc chung. Các quyền trong lĩnh vực lao động còn được ghi nhận và bảo vệ bởi rất nhiều văn kiện do Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) khởi xướng. Một chức năng cơ bản của ILO là thiết lập các chuẩn mực lao động quốc tế bằng việc thông qua các Công ước và khuyến nghị bao trùm các lĩnh vực liên quan đến lao động, việc làm, đôi lúc chúng được nhắc đến như là Bộ luật Lao động quốc tế (International Labour Code). ILO đã xây dựng các tiêu chuẩn lao động quốc tế nhằm quy định và bảo vệ các quyền của người lao động thông qua việc ban hành nhiều Công ước và khuyến nghị. Đến nay, ILO đã thông qua 189 công ước và 203 khuyến nghị, đây chính là những công cụ pháp lý chủ yếu, quan trọng nhằm khuyến trợ công bằng xã hội và bảo đảm các quyền cho NLĐ. Theo các văn bản này, quyền của NLĐ gồm các quyền: Quyền làm việc, quyền công đoàn độc lập, quyền không bị ép làm việc không lương, quyền nam nữ hưởng lương bằng nhau, quyền không bị phân biệt đối xử, quyền không bị phân biệt đối xử nếu có con cái, quyền được giúp đỡ và có việc làm thích hợp nếu bệnh tật, quyền được đào tạo, bồi dưỡng có ăn lương, quyền không bị đuổi việc, quyền được trả lương bằng tiền, quyền hưởng lương trên hoặc bằng mức tối thiểu, quyền được trả lương nếu chủ sử dụng lao động bị phá sản, quyền được nghỉ ít nhất nguyên một ngày mỗi tuần, quyền an toàn lao động, quyền được bồi thường nếu có tai nạn, quyền được nghỉ khi bị bệnh và chữa bệnh, quyền của phụ nữ mang thai hoặc cho con bú sữa mẹ, quyền của lao động xuất khẩu, quyền được có tiếng nói tham gia vào công việc phát triển đơn vị, cơ sở, bộ phận…, nơi mình đang lao động thông qua công đoàn, quản đốc hoặc cá nhân có ý kiến.

Ngoài việc ghi nhận hàng loạt các quyền của NLĐ, ILO còn có cơ chế để theo dõi, giám sát việc thực hiện các quyền này. Theo đó mọi quốc gia thành viên của ILO, ngay cả khi quốc gia đó chưa phê chuẩn các công ước vẫn phải có nghĩa vụ nộp báo cáo quốc gia hàng năm cho ILO. ILO còn yêu cầu các quốc gia thành viên cần phê chuẩn và sau khi phê chuẩn các công ước phải có nghĩa vụ thi hành nhằm đảm bảo các quyền của NLĐ không bị xâm hại.

Qua nghiên cứu các văn bản pháp luật quốc tế có thể thấy rằng, các quyền của NLĐ là một trong những quyền hết sức quan trọng của con người thuộc nhóm các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa. Các quyền của NLĐ có vai trò quan trọng đối với người lao động hoặc tập thể NLĐ. Các quyền này không chỉ được ghi nhận trong các văn bản pháp luật quốc tế (tuyên ngôn, công ước, khuyến nghị), mà còn được cụ thể hóa và quy định trong các văn bản pháp luật quốc gia như Hiến pháp, Bộ luật, Luật và được thể hiện dưới hai khía cạnh là quyền và nghĩa vụ, bởi để bảo đảm các quyền của NLĐ các quốc gia buộc phải ban hành các quy định về nghĩa vụ thông qua việc ban hành các chính sách, chương trình để thúc đẩy việc thực hiện các quyền của NLĐ, đồng thời phải đưa ra các quy định mang tính chế tài xử lý khi các quyền này bị xâm phạm.

2. Quyền có việc làm

Quyền có việc làm (hay quyền được làm việc) là nhóm quyền cơ bản trong luật lao động và là một trong rất nhiều quyền khác của NLĐ. Quyền được làm việc có vị trí rất quan trọng vì “quyền được làm việc là cốt lõi để thực hiện các quyền con người khác và tạo nên một phần quan trọng không thể tách rời tự nhiên của nhân phẩm”[12]. Quyền có việc làm là yếu tố cơ bản để bảo đảm sự tồn tại thực tế của con người, đồng thời cũng là yếu tố để bảo đảm nhân phẩm và lòng tự trọng của NLĐ. Quyền có việc làm được coi là quyền hiến định trong pháp luật quốc tế, cụ thể, Điều 23 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 ghi nhận: “Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm…”; trong các Điều 6, 7, 8 của Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966 cũng xác định các yếu tố của quyền có việc. So với quyền của NLĐ, quyền có việc làm hẹp hơn, tuy nhiên, đây lại là một quyền cơ bản nhất, quan trọng nhất trong lĩnh vực lao động việc làm. Quyền có việc làm chính là tiền đề, điều kiện quan trọng để thực hiện các quyền khác của NLĐ nói riêng và các quyền của con người nói chung, như quyền về nhà ở, quyền về giáo dục, văn hoá….. Chỉ khi quyền có việc làm được đảm bảo thực hiện, thì các quyền khác của con người mới có ý nghĩa.

Ở Việt Nam, cho đến nay chưa có công trình nào đưa ra khái niệm về quyền có việc làm. Quyền có việc làm cũng được ghi nhận và nội luật hóa các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực lao động, đặc biệt là quyền có việc làm của NLĐ trong Hiến pháp và văn bản pháp luật luật lao động như: Điều 30 Hiến pháp năm 1959: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền làm việc…”; Điều 58 Hiến pháp năm 1980: “Công dân có quyền có việc làm…”; Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc”[13]; “Có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo[14], “được làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và ở bất kỳ nơi nào mà pháp luật không cấm”[15].

Như vậy, kể cả pháp luật quốc tế hay Hiến pháp và các văn bản pháp luật lao động của nước ta hiện nay đều chưa đưa ra khái niệm mang tính chất tổng quát về quyền có việc làm của NLĐ. Tuy nhiên, trên cơ sở nghiên cứu, tác giả xin đưa ra quan điểm cá nhân về quyền có việc làm của NLĐ trên cơ sở tiếp cận quyền này dưới góc độ quyền con người như sau: “Quyền có việc làm quyền cơ bản và quan trọng của con người trong lĩnh vực lao độngđược ghi nhận vàbảo vệ trong Hiến pháp, pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế”.

ThS. Trần Thị Tuyết Nhung

Học viện Thanh Thiếu niên Việt Nam



[1] Bộ Tư pháp, Một số kiến thức về quyền con người, tập 1 Quyền dân sự và chính trị, 2012 tr17.

[2] Đồng Vân Hồ, Nguồn gốc của khái niệm nhân quyền và diễn biến lịch sử của nó. Tạp chí Thế giới tri thức – Trung Quốc, số 13/1992.

[3] Từ Sùng Ôn, Về phương pháp luận nghiên cứu vấn đề nhân quyền. Tạp chí Nghiên cứu triết học – Trung Quốc số 12/1992.

[4].http://en.wikipedia.org/wiki/Human_rights.

[5]OHCHR, Freequently Asked Questions on a Human Rights-based Approach to Development Cooperation, New York and Geneva, 2006, trang 1.

[6]Quốc hội Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người, sđd, tr 99.

[7]Khoa Luật Đại Học Quốc gia Hà Nội – Giáo trình Lý luận và pháp luật về Quyền con người, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2011, tr38.

[8] Khoa Luật Đại Học Quốc gia Hà Nội – Giáo trình Lý luận và pháp luật về Quyền con người, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2011, tr 38.

[9] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh – Các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia, 1998, tr.19.

[10] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh – Các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia, 1998, tr.20.

[11] Trần Thị Thúy Lâm – Thực trạng việc bảo đảm quyền con người trong pháp luật lao động ở Việt Nam và khuyến nghị, 2011.

[12] Lê Thị Hoài Thu (2013), Bảo đảm quyền con người trong pháp luật lao động Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2013, tr 23.

[13] Điều 35 khoản 1, Hiến pháp năm 2013.

[14] Điều 5 khoản 1, Bộ luật Lao động năm 1994.

[15] Điều 10 khoản 1, Bộ luật Lao động năm 2012.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền của người lao động trong xử lý kỷ luật lao động

25/11/2015

Xử lý kỷ luật lao động (XLKLLĐ) là một chế định có vai trò quan trọng trong pháp luật về lao động với hậu quả pháp lý cao nhất là chấm dứt quan hệ lao động giữa các bên. Vì vậy, XLKLLĐ đúng pháp luật là mục tiêu của pháp luật về lao động luôn mong muốn các bên tham gia quan hệ lao động hướng tới. Tuy nhiên, nội hàm các quy định về XLKLLĐ hiện hành đang có những bất cập và hạn chế đối với người lao động – một bên yếu thế trong quan hệ lao động. Trong phạm vi bài viết này, tác giả sẽ trình bày một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về XLKLLĐ nhằm bảo đảm quyền của người lao động.

Áp dụng khiếu nại lao động hay yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động: Người bị kỷ luật “rối”

Ông A làm việc cho Công ty B có trụ sở tại quận 7, TP. Hồ Chí Minh với vị trí là quản lý nhà hàng từ năm 2012. Tháng 6/2015, ông A nhận được quyết định cách chức quản lý, chỉ làm việc ở vị trí nhân viên phục vụ nhà hàng. Ông A làm đơn khiếu nại quyết định của Công ty B và gửi đến Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận 7. Tuy nhiên, hòa giải viên lao động khuyên ông A nên làm lại đơn với tiêu đề và nội dung là đơn đề nghị hòa giải để giải quyết tranh chấp lao động cá nhân thông qua thủ tục hòa giải trước khi khởi kiện ra Tòa. Ông A rất băn khoăn và cảm thấy “rối” với lời khuyên này vì chỉ muốn khiếu nại để Công ty xem xét lại quyết định cách chức, chứ ông không có tranh chấp gì với Công ty, tại sao phải làm đơn đề nghị hòa giải. Vậy pháp luật hiện hành quy định như thế nào trong trường hợp này?

Theo quy định của Bộ luật Lao động hiện hành, cách chức là một trong ba hình thức XLKLLĐ[1]. Người bị XLKLLĐ nếu thấy không thỏa đáng có quyền khiếu nại với người sử dụng lao động, với cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động theo trình tự do pháp luật quy định[2]. Như vậy, tùy thuộc vào ý chí của mình, người lao động có thể lựa chọn quyền khiếu nại hoặc quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động với cơ quan có thẩm quyền.

Đối với quyền khiếu nại, đây là quyền yêu cầu người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại về lao động xem xét lại quyết định, hành vi về lao động của người sử dụng lao động khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó vi phạm pháp luật lao động, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình[3]. Để thực hiện quyền khiếu nại, người lao động phải chỉ ra được hai vấn đề: (1) Quyết định, hành vi về lao động của người sử dụng lao động vi phạm pháp luật lao động; (2) Quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại của người lao động được phân chia như sau: (i) Người sử dụng lao động có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định, hành vi của mình bị khiếu nại; (ii) Chánh Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, nơi người sử dụng lao động đặt trụ sở chính có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai đối với khiếu nại về lao động khi người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu hoặc đã hết thời hạn mà khiếu nại không được giải quyết[4].

Đối với quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động, đây là quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao động[5]. Điều kiện thực hiện quyền này là khi một trong hai bên có đơn yêu cầu do bên kia từ chối thương lượng, thương lượng nhưng không thành hoặc thương lượng thành nhưng một trong hai bên không thực hiện[6]. Pháp luật tôn trọng, bảo đảm quyền tự thương lượng của các bên, tôn trọng quyền và lợi ích của hai bên tranh chấp và khuyến khích hai bên trực tiếp thương lượng nhằm giải quyết hài hòa lợi ích của hai bên tranh chấp, ổn định sản xuất, kinh doanh, bảo đảm trật tự và an toàn xã hội[7]. Nói một cách khác, thương lượng được xem là vấn đề “xương sống” trong giải quyết tranh chấp lao động.

Bộ luật Lao động hiện hành định nghĩa kỷ luật lao động là những quy định về việc tuân theo thời gian, công nghệ và điều hành sản xuất, kinh doanh trong nội quy lao động[8]. Khi vi phạm các quy định này thì người lao động sẽ bị XLKLLĐ theo trình tự, thủ tục do luật định. Theo đó, người sử dụng lao động buộc phải chứng minh lỗi của người lao động và người lao động được quyền tự bào chữa cho mình[9]. Có thể nhận thấy không tồn tại yếu tố thương lượng khi XLKLLĐ. Bản chất của XLKLLĐ dựa trên việc xem xét, chứng minh yếu tố “lỗi” của người lao động, còn tranh chấp lao động xoay quanh vấn đề “thương lượng về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên”. Và nếu phải gặp nhau trong phiên hòa giải do hòa giải viên lao động tổ chức thì tỷ lệ khả năng hòa giải thành gần như bằng không, bởi điều cốt lõi ở đây là người sử dụng lao động sẽ không thể thương lượng với người lao động về yếu tố “lỗi” của người đó khi XLKLLĐ vì điều này ảnh hưởng đến trật tự tại nơi làm việc, quản lý, điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

Như vậy, thủ tục hòa giải khi áp dụng quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động trong XLKLLĐ sẽ chỉ còn là hình thức, là thủ tục buộc phải thực hiện do luật định, không có ý nghĩa đối với các bên tham gia hòa giải nói chung, người lao động nói riêng. Hơn nữa, hòa giải viên lao động chỉ hướng dẫn các bên tham gia hòa giải thương lượng hoặc đưa ra phương án hòa giải để các bên xem xét[10] chứ không có quyền đánh giá, cho ý kiến các khía cạnh pháp lý của quyết định XLKLLĐ. Kết cục ở phía trước dành cho người lao động là một quá trình tố tụng kéo dài mà không phải ai cũng đủ kiên nhẫn và thời gian theo đuổi để làm cho ra lẽ vấn đề XLKLLĐ. Rõ ràng là với thủ tục hòa giải trong XLKLLĐ mang đầy tính hình thức, quyền của người lao động đã không được bảo đảm trong giai đoạn này như mong muốn của nhà lập pháp.

Quyền khiếu nại và những “ngõ cụt” cho người lao động

Khi bị XLKLLĐ, nếu có căn cứ cho rằng quyết định XLKLLĐ của người sử dụng lao động là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người lao động thực hiện khiếu nại đến người giải quyết khiếu nại lần đầu[11]; hoặc khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền mà không cần phải trải qua thủ tục khiếu nại[12].

Việc khiếu nại có thể được thực hiện bằng hình thức gửi đơn khiếu nại hoặc khiếu nại trực tiếp. Theo đó, thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu dành cho người sử dụng lao động không quá 30 ngày hoặc 45 ngày đối với vụ việc phức tạp, kể từ ngày thụ lý. Người sử dụng lao động cần tiến hành kiểm tra, xác minh nội dung khiếu nại, gặp gỡ, đối thoại với người khiếu nại và ra quyết định giải quyết khiếu nại. Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu phải ghi rõ về quyền khiếu nại lần hai, quyền khởi kiện vụ án tại Tòa án.

Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì người khiếu nại được lựa chọn thực hiện một trong hai quyền sau đây: Thứ nhất, quyền khiếu nại đến Chánh Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, nơi người sử dụng lao động đặt trụ sở chính. Thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai không quá 45 ngày hoặc 60 ngày đối với vụ việc phức tạp, kể từ ngày thụ lý. Sau khi kiểm tra, xác minh nội dung khiếu nại, người giải quyết khiếu nại lần hai phải ra quyết định giải quyết khiếu nại lần hai. Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai phải ghi rõ về quyền khiếu nại theo quy định của Luật Khiếu nại, quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án. Thứ hai, quyền khởi kiện vụ án tại Tòa án: Người khiếu nại có quyền khởi kiện vụ án tại Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong trường hợp: (i) Không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu; hoặc (ii) Đã hết thời hạn quy định mà khiếu nại lần đầu không được giải quyết.

Nhìn vào các quy định trên, có vẻ như tồn tại nhiều cơ chế pháp lý bảo đảm quyền của người lao động, nhưng sự bất cập của hệ thống quy phạm pháp luật đã tạo nên những “ngõ cụt” cho người lao động, cụ thể:

– Không phải bất cứ trường hợp nào người lao động cũng được quyền khởi kiện ngay tại Tòa án có thẩm quyền. Bộ luật Lao động và Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành đều quy định người lao động chỉ có thể có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết khi bị XLKLLĐ theo hình thức sa thải. Đối với các hình thức XLKLLĐ khác, người lao động không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết nếu chưa thực hiện thủ tục hòa giải[13]. Lưu ý là, pháp luật bắt buộc người lao động phải thông qua thủ tục hòa giải do hòa giải viên lao động tổ chức chứ không phải thực hiện thủ tục khiếu nại đến người sử dụng lao động.

– Mặc dù pháp luật quy định quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu phải ghi rõ về quyền của người lao động được khởi kiện vụ án tại Tòa án, nhưng với quy định vừa nêu trên của Bộ luật Lao động và Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành, người lao động không có quyền khởi kiện quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của người sử dụng lao động. Tòa án sẽ không thụ lý mà buộc người lao động phải thực hiện bước “tiền tố tụng” là thủ tục hòa giải trước khi khởi kiện ra Tòa.

– Nếu khiếu nại quyết định giải quyết khiếu nại lần hai, pháp luật đã “đẩy” người lao động sang góc độ khiếu nại về một quyết định hành chính, không liên quan đến quan hệ lao động và vấn đề XLKLLĐ. Còn nếu muốn khởi kiện vụ án tại Tòa án đối với quyết định XLKLLĐ (không phải là quyết định sa thải), người lao động vẫn phải thực hiện thủ tục hòa giải trước khi khởi kiện.

Tóm lại, sau một khoảng thời gian dài, nếu không đồng ý với (các) quyết định giải quyết khiếu nại, hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại về quyết định XLKLLĐ (không phải là quyết định sa thải) không được giải quyết thì người lao động đã đi tới “ngõ cụt”, không còn con đường nào khác để được yêu cầu pháp luật bảo vệ quyền lợi của mình, trừ khi quay trở lại thực hiện thủ tục hòa giải – một thủ tục phải làm cho có và gần như không có ý nghĩa như đã phân tích ở mục trên, trước khi đi tới bước khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền. Đây cũng là một quan điểm lý giải vì sao hòa giải viên lao động quận 7, TP. Hồ Chí Minh khuyên ông A nên viết lại là đơn đề nghị hòa giải để giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, tránh gặp phải các thủ tục giải quyết khiếu nại rườm rà mà ít hiệu quả và không có giá trị nếu ông A không đồng ý với (các) quyết định giải quyết khiếu nại như ví dụ ban đầu đã nêu.

Sau 20 năm sửa đổi, quyền của người lao động “lùi” thêm một bước

Để XLKLLĐ người lao động, người sử dụng lao động phải tuân thủ đúng và đủ các trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Lao động. Ngay từ khi ban hành, Bộ luật Lao động năm 1994[14] đã có một chương riêng quy định về kỷ luật lao động và nhấn mạnh, khi xem xét XLKLLĐ phải có mặt đương sự và phải có sự tham gia của đại diện ban chấp hành công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp[15]. Thực tế đã nảy sinh nhiều vấn đề liên quan đến việc bắt buộc phải có mặt đương sự nói chung và người lao động nói riêng. Trong nhiều trường hợp, người sử dụng lao động không thể liên lạc hoặc gửi thông báo XLKLLĐ cho người lao động do không có các phương thức liên lạc hoặc không thể tìm được địa chỉ hoặc do chính người lao động cố tình né tránh, dẫn đến hậu quả người lao động không có mặt khi họp xem xét XLKLLĐ. Vì vậy, văn bản hướng dẫn dưới luật đã phải ghi nhận thực trạng này và hướng dẫn rằng, nếu người sử dụng lao động đã 3 lần thông báo bằng văn bản mà người lao động vẫn vắng mặt thì người sử dụng lao động có quyền xử lý kỷ luật và thông báo quyết định kỷ luật cho người lao động biết[16]. Có nghĩa là, pháp luật cho phép người sử dụng lao động được quyền xử lý kỷ luật vắng mặt người lao động – một quy định đầy bất lợi đối với quyền của người lao động, dẫu rằng, trong một chừng mực nhất định, đó là giải pháp pháp lý tình thế giải quyết những vướng mắc về XLKLLĐ tại thời điểm điều kiện kinh tế – xã hội kém phát triển, không có nhiều phương tiện liên lạc hữu hiệu và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật còn sơ khai.

Mặc dù, Bộ luật Lao động năm 1994 đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần nhưng các quy định về thủ tục XLKLLĐ này vẫn tồn tại gần 20 năm cho đến khi Bộ luật Lao động năm 2012 ra đời, có hiệu lực từ ngày 01/5/2013. Theo đó, không ghi chung chung là “đương sự” như Bộ luật Lao động năm 1994, Bộ luật Lao động năm 2012 khẳng định rõ ràng, việc XLKLLĐ phải bảo đảm nguyên tắc: Người lao động phải có mặt và có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa; trường hợp là người dưới 18 tuổi thì phải có sự tham gia của cha, mẹ hoặc người đại diện theo pháp luật[17]. Tuy nhiên, sau hai năm, một Nghị định hướng dẫn đã “xé bỏ” sự khẳng định đó của Bộ luật Lao động năm 2012, tiếp tục cho phép người sử dụng lao động được tiến hành cuộc họp XLKLLĐ vắng mặt người lao động trong trường hợp đã 03 lần thông báo bằng văn bản mà người lao động không có mặt[18]. Không những thế, Nghị định này còn quy định, sau khi người có thẩm quyền ra quyết định XLKLLĐ đối với người lao động, quyết định XLKLLĐ chỉ được gửi đến những người tham dự phiên họp XLKLLĐ[19], không buộc phải thông báo cho người lao động biết nếu vắng mặt. Do đó, nếu người lao động vắng mặt trong cuộc họp XLKLLĐ thì người lao động cũng không được quyền nhận quyết định XLKLLĐ, tức là người bị XLKLLĐ hoàn toàn không được biết những gì xảy ra liên quan trực tiếp đến quyền lợi của mình. Như vậy, ngoài việc Nghị định đó đưa ra những quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý “cao hơn” Bộ luật, thì những quy phạm pháp luật của Nghị định này còn thể hiện một “bước lùi” lớn trong tiến trình cải cách thể chế Nhà nước bảo đảm quyền con người nói chung, quyền của người lao động nói riêng.

Những kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Từ những phân tích trên, chúng tôi nhận thấy cần phải có những bước cải cách, hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm quyền của người lao động trong XLKLLĐ:

Một là, người lao động phải có mặt trong cuộc họp XLKLLĐ và có một trường hợp ngoại lệ

Khi XLKLLĐ, người sử dụng lao động buộc phải chứng minh lỗi của người lao động và người lao động được quyền tự bào chữa cho mình. Nếu như người lao động vắng mặt thì họ không còn được quyền tự bào chữa cho mình. Vì vậy, quy định về việc người lao động phải có mặt trong cuộc họp XLKLLĐ là điều bắt buộc để bảo đảm quyền của người lao động. Tuy nhiên, cũng để bảo đảm cho người sử dụng lao động không bị bế tắc, không thể XLKLLĐ khi người lao động cố tình trốn tránh, pháp luật về lao động cần sửa đổi theo hướng: (i) Phải có các quy định chi tiết về thủ tục gửi thông báo XLKLLĐ, bao gồm thời gian gửi, phương thức gửi…; (ii) Quy định trường hợp ngoại lệ duy nhất cho phép người sử dụng lao động được tiến hành cuộc họp XLKLLĐ vắng mặt người lao động trong trường hợp XLKLLĐ theo hình thức sa thải vì lý do người lao động tự ý bỏ việc 05 ngày cộng dồn trong 01 tháng hoặc 20 ngày cộng dồn trong 01 năm mà không có lý do chính đáng. Khi đó, sau khi hoàn thành các thủ tục gửi thông báo theo quy định của pháp luật mà người lao động vẫn cố tình trốn tránh thì người sử dụng lao động được tiến hành cuộc họp XLKLLĐ vắng mặt người lao động theo hình thức sa thải vì lý do người lao động tự ý bỏ việc.

Hai là, thủ tục khiếu nại cũng phải được xem là thủ tục “tiền tố tụng”, tương tự thủ tục hòa giải

Như đã phân tích, thủ tục hòa giải trong XLKLLĐ gần như không có ý nghĩa nên pháp luật về lao động và pháp luật về tố tụng cần sửa đổi theo hướng bổ sung thủ tục khiếu nại cũng là một thủ tục do người lao động lựa chọn trước khi muốn khởi kiện quyết định XLKLLĐ ra Tòa án có thẩm quyền. Điều này bảo đảm người lao động không bị mất thời gian thực hiện thêm thủ tục hòa giải, trong khi vẫn được quyền đề nghị người sử dụng lao động xem xét lại một lần nữa quyết định XLKLLĐ của mình theo thủ tục khiếu nại.

Ba là, người lao động được quyền khởi kiện quyết định XLKLLĐ tại Tòa án có thẩm quyền mà không nhất thiết phải thông qua thủ tục hòa giải hoặc thủ tục khiếu nại

Đối với các tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh trong quan hệ lao động, nhà làm luật mong muốn các bên thương lượng để bảo đảm lợi ích được hài hòa. Vì vậy, thủ tục hòa giải đối với tranh chấp lao động là điều cần thiết. Nhưng đối với XLKLLĐ, các bên đã gặp nhau, đối thoại, chứng minh lỗi và bào chữa trong cuộc họp XLKLLĐ. Do đó, nếu không muốn thực hiện thủ tục hòa giải hoặc thủ tục khiếu nại, người lao động cần được quyền khởi kiện quyết định XLKLLĐ tại Tòa án có thẩm quyền như là một trong các quyền mà người lao động có thể lựa chọn.

Bốn là, xây dựng thiết chế trọng tài lao động độc lập

Pháp luật hiện hành ghi nhận hai thiết chế về hòa giải tranh chấp lao động, gồm có hòa giải viên lao động và Hội đồng trọng tài lao động[20]. Theo đó, hòa giải viên lao động do cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp huyện cử để hòa giải tranh chấp lao động; còn Hội đồng trọng tài lao động được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập để tiến hành hòa giải một số tranh chấp lao động tập thể. Các thủ tục hòa giải do hai thiết chế này tiến hành đều là những thủ tục bắt buộc do luật định. Do vậy, nếu các bên tham gia vào quan hệ lao động mong muốn thực hiện thủ tục khác thì hai thiết chế hòa giải sẽ không thể tiến hành thực hiện. Trở lại ví dụ ban đầu, nếu ông A khiếu nại Công ty B. thì Công ty B giải quyết khiếu nại lần đầu, Chánh Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội giải quyết khiếu nại lần hai, hòa giải viên lao động hoàn toàn không tham gia trong suốt quá trình áp dụng thủ tục khiếu nại. Hơn nữa, nhiều vấn đề hàng ngày phát sinh trong mối quan hệ lao động, ví dụ như tranh chấp, mâu thuẫn, thương lượng các điều kiện lao động, an toàn vệ sinh lao động… mà không phải lúc nào các bên cũng đủ điều kiện để mời cơ quan chức năng giải quyết hoặc tham dự.

Chính vì vậy, để xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ lao động thông qua đối thoại, thương lượng, thỏa thuận theo nguyên tắc tự nguyện, thiện chí, bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau, Nhà nước cần xây dựng thiết chế trọng tài lao động độc lập nhằm phục vụ mục tiêu này. Trọng tài viên lao động là người có chứng chỉ hành nghề trọng tài, có sự am hiểu sâu sắc pháp luật lao động, có kiến thức, kinh nghiệm giải quyết tranh chấp lao động (cá nhân, tập thể), khiếu nại lao động… Thiết chế trọng tài lao động có thể tổ chức hoặc tham gia giải quyết khiếu nại lao động, hòa giải lao động hoặc mở phiên họp giải quyết tranh chấp lao động theo tố tụng trọng tài lao động… Khi sử dụng thiết chế trọng tài lao động, các bên tham gia quan hệ lao động được tạo điều kiện bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, được một cơ quan độc lập tổ chức giải quyết sự việc bất kỳ theo đề nghị của các bên vào bất cứ thời điểm nào.

ThS. Nguyễn Bình An

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội



[1] Điều 125 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định, hình thức xử lý kỷ luật lao động bao gồm: 1. Khiển trách; 2. Kéo dài thời hạn nâng lương không quá 06 tháng; cách chức; 3. Sa thải.

[2] Điều 132 Bộ luật Lao động năm 2012.

[3] Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 119/2014/NĐ-CP ngày 17/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Bộ luật Lao động, Luật Dạy nghề, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng về khiếu nại, tố cáo.

[4] Điều 15 Nghị định số 119/2014/NĐ-CP.

[5] Khoản 7 Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2012.

[6]Khoản 6 Điều 194 Bộ luật Lao động năm 2012.

[7] Khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 194 Bộ luật Lao động năm 2012.

[8] Điều 118 Bộ luật Lao động năm 2012.

[9] Khoản 1 Điều 123 Bộ luật Lao động năm 2012.

[10] Khoản 3 Điều 201 Bộ luật Lao động năm 2012.

[11] Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 119/2014/NĐ-CP.

[12] Đoạn thứ nhất của điểm a khoản 2 Điều 10 Nghị định số 119/2014/NĐ-CP.

[13] Điểm a khoản 1 Điều 201 Bộ luật Lao động năm 2012 và điểm a khoản 1 Điều 31 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011.

[14] Bộ luật Lao động năm 1994 được thông qua ngày 23/6/1994 và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/1995.

[15] Khoản 3 Điều 87 Bộ luật Lao động năm 1994.

[16] Điểm c khoản 1 Điều 11 Nghị định số 41/CP của Chính phủ ban hành ngày 06/7/1995 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất.

[17] Điểm c khoản 1 Điều 123 Bộ luật Lao động năm 2012.

[18] Khoản 2 Điều 30 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động, quy định: “Cuộc họp xử lý kỷ luật lao động được tiến hành khi có mặt đầy đủ các thành phần tham dự được thông báo theo quy định tại khoản 1 Điều này. Trường hợp người sử dụng lao động đã 03 lần thông báo bằng văn bản, mà một trong các thành phần tham dự không có mặt thì người sử dụng lao động tiến hành cuộc họp xử lý kỷ luật lao động, trừ trường hợp người lao động đang trong thời gian không được xử lý kỷ luật quy định tại khoản 4 Điều 123 của Bộ luật Lao động”.

[19] Khoản 5 Điều 30 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP.

[20] Ngoài ra, pháp luật còn ghi nhận một thiết chế khác là hòa giải viên thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở theo quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013. Tuy nhiên, thiết chế hòa giải viên này không được quyền thực hiện hoạt động hòa giải tranh chấp về lao động căn cứ theo quy định tại Điểm đ, Khoản 2, Điều 5, Nghị định số 15/2014/NĐ-CP ngày 27/02/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về thủ tục tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm

24/11/2015

1. Thực trạng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về thủ tục tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm

1.1. Về trình tự phát biểu khi tranh luận

Điều 217 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định về trình tự phát biểu khi tranh luận. Theo đó, khi bắt đầu phiên tranh luận, kiểm sát viên trình bày lời luận tội, sau đó đến lượt bị cáo trình bày lời bào chữa, nếu bị cáo có người bào chữa thì người này bào chữa cho bị cáo, sau đó mới đến lượt các chủ thể tham gia tranh luận khác đưa ra ý kiến tranh luận. Một số vấn đề cần lưu ý:

Một là, về lời luận tội: Khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa, kiểm sát viên trình bày lời luận tội, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng…”. Theo đó, quy định kiểm sát viên đề nghị kết tội theo toàn bộ hay một phần cáo trạng là chưa hợp lý. Vì nó không những là làm cho kiểm sát viên bị bó hẹp vào cáo trạng, trong khi diễn biến tại phiên tòa có thể theo chiều hướng cần kết luận tội danh, khung hình phạt không những là nhẹ hơn, mà còn có thể nặng hơn, hoặc là tội danh khác mà có khung hình phạt bằng với tội đã truy tố. Trong khi bản cáo trạng bao giờ cũng được lập trong đó được đề xuất tội danh và khung hình phạt truy tố, dù Điều 217 không quy định rõ là đề nghị kết tội có bao gồm là cả đề xuất khung hình phạt hay không? Thực tế bản luận tội của ngành kiểm sát lại hoàn toàn khác với quy định tại Điều 217, vì ở đó không những là đề xuất tội danh, khung hình phạt, mà còn đề xuất mức án, hình phạt, trách nhiệm dân sự và những vấn đề cần phải giải quyết khác trong vụ án. Như vậy, trong khi chưa làm sáng tỏ các tình tiết, chứng cứ còn mâu thuẫn nhưng đã đề xuất cụ thể, chi tiết về mức án, chắc chắn sẽ chi phối đến hoạt động xét xử và tuyên án của Hội đồng xét xử. Hơn nữa, nó còn tạo lợi thế cho kiểm sát viên và gây áp lực cho việc thực hiện quyền bào chữa. Điều đó còn làm cho phiên tòa thiếu tính sinh động.

Mặt khác, còn thấy rằng thủ tục tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm đã rất coi trọng bản luận tội của kiểm sát viên – nó được xem là cơ sở cho các bên dựa vào đó tranh biện. Ngay cả trong thủ tục đối đáp, bị cáo, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác khi trình bày ý kiến cũng được luật đặt ra là xoay quanh bản luận tội. Điều này chưa hẳn đã tích cực, vì nếu như người tham gia tố tụng đưa ra ý kiến tranh luận mà phụ thuộc, xoay quanh lời luận tội thì họ bị bó hẹp trong vấn đề đánh giá chứng cứ và bị giảm đi lợi thế. Bên cạnh đó, Điều 217 không quy định hình thức luận tội phải bằng văn bản, mà có thể bằng lời nói. Đáng quan tâm là trên thực tế không ít trường hợp kiểm sát viên đọc bản luận tội đã chuẩn bị sẵn, không dựa vào diễn biến của phiên tòa.

Hai là, về lời bào chữa: Lời bào chữa được thực hiện sau lời luận tội của kiểm sát viên. Nếu người bào chữa có mặt tại phiên tòa thì người bào chữa sẽ trình bày lời bào chữa cho bị cáo, bị cáo bào chữa bổ sung. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 217 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã không đặt ra trường hợp có nhiều người bào chữa cho một bị cáo, thì thực hiện việc trình bày lời bào chữa ra sao? Trường hợp người bào chữa cho bị cáo không có mặt tại phiên tòa, nhưng quan điểm của họ vẫn được thực hiện thông qua bản bào chữa được gửi trước, tuy nhiên lại xảy ra trường hợp quan điểm trong bản bào chữa không phù hợp với quan điểm của bị cáo tại phiên tòa thì giải quyết như thế nào?

Cần lưu ý là trường hợp bị cáo không nhờ người bào chữa, thì họ phải tự bào chữa hoặc lựa chọn phương thức từ chối bào chữa và chủ tọa phiên tòa không buộc bị cáo phải trình bày lời bào chữa. Bên cạnh đó, lưu ý đến trường hợp bào chữa bắt buộc theo khoản 2 Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự, đó là bị cáo được nhà nước cử người bào chữa, nhưng vẫn cố tình từ chối, mà vẫn không yêu cầu thay đổi, lựa chọn người bào chữa khác. Trường hợp này Bộ luật Tố tụng hình sự chưa đưa ra phương thức xử lý.

1.2. Về thủ tục đối đáp

Sau lời luận tội của kiểm sát viên, lời bào chữa của người bào chữa và ý kiến của bị cáo, người tham gia tố tụng khác, các bên thực hiện việc đối đáp về những tình tiết, chứng cứ còn có mâu thuẫn, xung đột trong quan điểm. Nếu không có hoạt động đối đáp thì mâu thuẫn không được làm rõ, dẫn đến không thể đưa ra các kết luận, đánh giá về những vấn đề cần phải giải quyết trong vụ án. Đối đáp còn tạo cơ hội thuận lợi cho bị cáo và người tham gia tố tụng được lập luận không bị hạn chế về thời gian, được trình bày hết ý kiến và đưa đề xuất của mình; đặc biệt là bên buộc tội phải có trách nhiệm trả lời, giải thích lý do buộc tội, sự khác biệt trong quan điểm từ phía người bào chữa và người bị buộc tội và người tham gia tố tụng khác. Điều 218 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định bắt buộc kiểm sát viên phải đưa ra lập luận đối với từng ý kiến. Về phía người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác tại phiên tòa. Về phía chủ tọa phiên tòa không được can thiệp vào quá trình tranh luận của các bên, nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án.

Không thể không lưu ý đến mặt kỹ thuật lập pháp qua việc sử dụng các thuật ngữ tại Điều 218 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 có mâu thuẫn. Đó là Hội đồng xét xử (HĐXX) có quyền đề nghị” và kiểm sát viên phải đáp lại”. Nếu chủ tọa phiên tòa đề nghị thì không bắt buộc kiểm sát viên phải thực hiện, nhưng đi đôi với đề nghị lại buộc kiểm sát viên phải đáp lại. Rõ ràng là không hợp lý, vì với nhiệm vụ điều khiển phiên tòa thì HĐXX phải có thẩm quyền độc lập, trực tiếp yêu cầu kiểm sát viên phải đáp lại ý kiến của người tham gia tố tụng, nếu như kiểm sát viên chưa thực hiện đầy đủ. Mặt khác, nội hàm của thuật ngữ “có quyền trình bày ý kiến về luận tội” tại Điều 218 Bộ luật Tố tụng hình sự đã không phản ánh đầy đủ tính chất của cuộc tranh biện gay cấn của người bào chữa đối với luận điểm truy tố của kiểm sát viên.

1.3. Trở lại việc xét hỏi

Trong quá trình tranh luận các bên không được xét hỏi, nhưng HĐXX vẫn có thể quyết định trở lại việc xét hỏi khi cần xem xét thêm chứng cứ. Xét hỏi xong phải tiếp tục tranh luận. Thủ tục này là hết sức cần thiết, vì nếu việc xét hỏi thiếu sót thì phần tranh luận sẽ không toàn diện. Điều 219 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thể hiện sự bất cập, đó là chỉ xác lập quyền quyết định trở lại xét hỏi thuộc về HĐXX mà không quy định kiểm sát viên, người bào chữa được yêu cầu HĐXX thực hiện việc đó.

1.4. Xem xét việc rút truy tố

Theo quy định tại Điều 221, Điều 217 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì cùng với việc luận tội nếu kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn thì HĐXX vẫn tiếp tục xét xử vụ án. Nếu kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì trước khi nghị án HĐXX yêu cầu những người tham gia tố tụng trình bày ý kiến về việc rút đó. Khi nghị án, nếu HĐXX cho rằng việc rút quyết định truy tố đúng đắn thì ra bản án tuyên bị cáo vô tội; nếu thấy bị cáo có tội và rút quyết định truy tố không đúng, thì quyết định tạm đình chỉ việc xét xử và kiến nghị lên kiểm sát viên cấp trên. Điểm bất cập là, khi kiểm sát viên rút quyết định truy tố, nhưng HĐXX vẫn tiếp tục xét xử vụ án hoặc kiến nghị lên kiểm sát viên cấp trên. Đáng lẽ ra, kiểm sát viên rút quyết định truy tố phần nào, thì HĐXX chỉ được xét xử phần còn lại, và nếu kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì vụ án phải được tuyên bố bị cáo vô tội, chứ không phải HĐXX lựa chọn là tiếp tục xét xử. Như vậy thẩm quyền của Tòa án trong vấn đề rút quyết định truy tố đã mâu thuẫn với chức năng xét xử. Vì giới hạn xét xử và quyền công tố của kiểm sát viên đặt ra yêu cầu nếu không có buộc tội thì không phát sinh việc xét xử. Ở cơ sở thực tiễn, không nên lo ngại việc rút quyết định truy tố tùy tiện, bởi vì pháp luật tố tụng hình sự đã tạo ra nhiều quy phạm tổng hợp, như quyền kháng cáo, kháng nghị, chế độ kiểm tra, giám sát, trách nhiệm pháp lý ràng buộc đối với người tiến hành tố tụng.

2. Hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về các quy định thủ tục tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm

Một là, kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 217 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về trình tự phát biểu khi tranh luận: Khoản 1 Điều này quy định rõ kiểm sát viên trình bày lời luận tội trong đó kết luận về tội danh và khung phạt mà bị cáo đã phạm, thay vì quy định cũ là kết tội dựa theo nội dung cáo trạng. Dùng thuật ngữ pháp lý “kết luận” thay cho “đề nghị” là hợp lý hơn, nhằm tránh cho việc kiểm sát viên tạo ra áp lực đến HĐXX và việc thực hiện quyền bào chữa. Vì thực hiện chức năng buộc tội, qua một quá trình đưa ra luận điểm truy tố, hay nói cách khác là bảo vệ cáo trạng, thì kiểm sát viên chỉ nên đưa ra ý kiến kết luận, còn việc kết tội nên để HĐXX cân nhắc một cách khách quan, mà trước đó không nên tạo ra áp lực hay định kiến nào. Cần đề cập thêm rằng trên thực tế tất cả các bản luận tội của kiểm sát viên được trình bày tại phiên tòa hình sự sơ thẩm đều có nội dung đề xuất với HĐXX cả về mức án, cách thức xử lý trách nhiệm dân sự, vật chứng vụ án…, trước khi bước vào cuộc tranh luận, đã gây ra áp lực cho việc thực hiện quyền bào chữa; đồng thời, bổ sung vào khoản 2 Điều 217 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thủ tục trình bày lời bào chữa đối với nhiều người bào chữa bảo vệ cho một bị cáo. Cụ thể khoản 1, khoản 2 Điều 217 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 217. Trình tự phát biểu khi tranh luận

1. Sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa. Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, kết luận tội danh, khung hình phạt và hành vi bị cáo đã thực hiện; Kiểm sát viên có thể kết luận bị cáo phạm tội khác và khung hình phạt khác với quyết định truy tố, nhưng phải tuân thủ Điều 196 của Bộ luật này về giới hạn của việc xét xử; nếu thấy không có căn cứ buộc tội thì kết luận bị cáo không phạm tội và rút toàn bộ quyết định truy tố.

2. Bị cáo trình bày lời bào chữa, nếu bị cáo có người bào chữa thì người này bào chữa cho bị cáo. Trường hợp bị cáo có nhiều người bào chữa thì chủ tọa phiên tòa yêu cầu người bào chữa cử một người trình bày lời bào chữa, người bào chữa khác bổ sung. Bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa”.

Hai là, kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 218 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về đối đáp. Theo đó khắc phục thực trạng quy định của Điều luật này đã không ràng buộc được kiểm sát viên phải đáp lại đầy đủ ý kiến của người bào chữa và người tham gia tố tụng khác trong quá trình tranh luận; cũng như nội hàm của thuật ngữ “có quyền trình bày ý kiến về luận tội” đã không phản ánh đầy đủ tính chất của cuộc tranh biện gay cấn của người bào chữa đối với luận điểm truy tố của kiểm sát viên, do đó cần phải thay đổi thuật ngữ này cho phù hợp. Cụ thể Điều 218 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 218. Đối đáp

Bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền đưa ra ý kiến tranh biện trở lại lời luận tội của kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của mình; kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến.

Chủ tọa phiên tòa có quyền yêu cầu kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được kiểm sát viên đáp lại đầy đủ”.

Ba là, kiến nghị bổ sung Điều 219 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về trở lại việc xét hỏi. Theo đó bổ sung quy định kiểm sát viên, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác được đề nghị HĐXX trở lại việc xét hỏi. Thẩm quyền này không nên chỉ do HĐXX đơn phương áp dụng, mà phải dựa vào đề nghị của các chủ thể đảm trách việc xét hỏi, tranh luận như kiểm sát viên và người bào chữa. Vì họ là các bên chịu trách nhiệm chứng minh tại tòa, do đó họ trực tiếp phát hiện và cần thiết phải trở lại xét hỏi hay không, do đó họ có quyền đề nghị HĐXX quay trở lại xét hỏi, để khắc phục việc xét hỏi thiếu sót, phiến diện. Cụ thể, Điều 219 được bổ sung như sau:

“Điều 219. Trở lại việc xét hỏi

Theo đề nghị của kiểm sát viên, người bào chữa hoặc nếu qua tranh luận mà thấy cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử có thể quyết định trở lại việc xét hỏi. Xét hỏi xong phải tiếp tục tranh luận”.

Bốn là, kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 221 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về “Xem xét việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn”, trên cơ sở loại bỏ Điều 195 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về “Kiểm sát viên rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa”. Vì cùng một vấn đề được điều chỉnh tản mạn ở nhiều điều luật là không bảo đảm kỹ thuật lập pháp. Theo đó khắc phục mâu thuẫn về thẩm quyền của Tòa án trong vấn đề rút quyết định truy tố. Đó là kiểm sát viên đã rút quyết định truy tố nhưng HĐXX vẫn tiến hành xét xử là mâu thuẫn với chức năng xét xử. Vì giới hạn xét xử và quyền công tố của Viện kiểm sát đặt ra yêu cầu, nếu không có buộc tội thì không phát sinh việc xét xử. Cụ thể Điều 221 được sửa đổi, bổ sung theo hướng: Nếu kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố thì Tòa án xét xử phần còn lại, nếu kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì Tòa án phải tuyên bố bị cáo không phạm tội. Điều 221 được thiết kế như sau:

“Điều 221. Xem xét việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn

1. Khi kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử xét xử phần còn lại không bị rút; nếu kiểm sát viên kết luận về tội nhẹ hơn tội đã truy tố bị cáo, thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án.

2. Trong trường hợp kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử yêu cầu những người tham gia phiên tòa trình bày ý kiến về việc rút truy tố đó; sau khi những người này đưa ra ý kiến Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không phạm tội và giải thích cho bị cáo và người tham gia tố tụng khác về quyền được kháng cáo quyết định tuyên bố bị cáo không phạm tội”.

ThS. Nguyễn Ngọc Kiện

Trường Đại học Luật – Đại học Huế

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Cần bổ sung khái niệm nhầm lẫn và nhầm lẫn về chủ thể vào dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)

07/10/2015

Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 127 Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) (Dự thảo) quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn. Tuy nhiên, ở cả hai quy định này đều còn thiếu khái niệm nhầm lẫn và nhầm lẫn về chủ thể. Bài viết này sẽ tập trung nghiên cứu thực tiễn xét xử của Tòa án về giao dịch vô hiệu do nhầm lẫn, so sánh với pháp luật nước ngoài để từ đó kiến nghị bổ sung khái niệm nhầm lẫn và nhầm lẫn về chủ thể vào Dự thảo.

1. Cách hiểu về khái niệm nhầm lẫn

Khi có khiếm khuyết của sự tự nguyện là nhầm lẫn trong hợp đồng thì hợp đồng sẽ bị vô hiệu. Đối với hai khiếm khuyết lừa dối và đe dọa thì từ Điều 142 Bộ luật Dân sự năm 1995 cho đến Điều 132 Bộ luật Dân sự năm 2005 đều có các khái niệm này. Còn nhầm lẫn, mặc dù cũng được quy định là khiếm khuyết của sự ưng thuận nhưng lại chưa có một văn bản luật nào định nghĩa về khái niệm đó.

Chính vì luật không có khái niệm nhầm lẫn và không có tiêu chí rõ ràng khi đánh giá mức độ nghiêm trọng của nhầm lẫn, nên trong thực tiễn, Tòa án gặp nhiều khó khăn khi giải quyết, việc xác định yếu tố nhầm lẫn có thể là đúng hoặc sai hay không hợp lý. Cụ thể:

– Trường hợp Tòa án xác định đúng yếu tố nhầm lẫn trong hợp đồng

Vụ việc trong thực tiễn: Tháng 10/2009, biết vợ chồng bà H bán hai cái sạp liền kề tại chợ Tân Bình (TP. Hồ Chí Minh) là sạp X và X./1, bà L đến mua một cái với giá 1,5 tỷ đồng, đặt cọc trước 100 triệu đồng. Sau khi hợp đồng được giao kết, bà L phát hiện trước cửa sạp có nắp cống thường xuyên bốc mùi hôi thối. Do vậy, bà khởi kiện đòi lại tiền đặt cọc vì cho rằng người bán lừa dối khi giao kết hợp đồng. Tại phiên xét xử sơ thẩm, Tòa án nhân dân quận Tân Bình nhận định nắp cống khá lớn và cao hơn so với mặt đường, ở phía trước cống còn có nước chảy nên người bán không thể che kín bưng. Hơn nữa, trước khi thỏa thuận và đặt cọc tiền thì bên mua nhiều lần đến xem xét thực tế vị trí sạp cho nên Tòa án đã không chấp nhận có hành vi gian dối trong giao dịch và bên mua không chịu nhận sạp theo như giao kết là có lỗi nên bị mất tiền đặt cọc là đúng. Không đồng ý với quyết định trên trong bản án của tòa sơ thẩm, bà L đã tiếp tục kháng cáo lên Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh. Tại phiên xét xử phúc thẩm, hội đồng xét xử đã nhận định, trong hợp đồng ghi rõ chủ thể mua bán là sạp X nhưng tài sản mà các bên tranh chấp trên thực tế lại là sạp X./1. Xét về mặt pháp lý thì hợp đồng không đúng về đối tượng, xét về mặt thực tế thì không đúng về chủ thể nên hợp đồng không phát sinh hiệu lực. Vì lẽ đó, Tòa tuyên hợp đồng mua bán sạp vô hiệu và yêu cầu bên bán hoàn trả lại 100 triệu đồng mà bên mua đã đặt cọc[1].

Như vậy, giữa các bên trong hợp đồng đã có sự nhầm lẫn về đối tượng của hợp đồng. Cụ thể hai bên mua bán sạp X (trong ý chí của bên mua và bên bán là sạp X) nhưng thực tế lại tiến hành giao nhận sạp X./1. Nghĩa là cả hai bên đều không có sự thỏa thuận thống nhất trong nhận thức và có sự khác nhau với thực tế, không xuất phát từ ý chí tự nguyện của các bên nên việc tuyên hợp đồng mua bán trên vô hiệu do nhầm lẫn là có cơ sở hợp lý.

– Trường hợp Tòa án xác định sai khi cho rằng có yếu tố nhầm lẫn trong hợp đồng

Vụ việc: Ngày 22/9/2005, ông T và ông H ký kết hợp đồng thuê căn nhà 4A6 cư xá 307, giá thuê mỗi tháng là 5.000.000 đồng, tiền thuê nhà thanh toán 3 tháng một lần và đặt cọc 3 tháng tiền thuê để bảo đảm thực hiện hợp đồng. Trước khi ký và giao kết hợp đồng, ông H đều nói rõ với ông T về tình trạng căn nhà hiện tại vẫn do cha mẹ ông đứng tên chủ sở hữu nhưng cha mẹ ông đã chết nên không thể ra công chứng được. Ông T đồng ý thuê nhà và đã đặt cọc 100USD, hẹn đến ngày 22/9/2005 tiến hành lập hợp đồng. Đúng hẹn, ngày 22/9/2005, ông T đến ký hợp đồng với ông H, ông H có nhắc lại một lần nữa về tình trạng không thể đem ra công chứng, nhưng ông T trả lời không sao, chỉ cần ông H cung cấp giấy tờ nhà cho ông T thì ông T ra công chứng được. Ông H đã cung cấp đủ giấy tờ nhà và giao chìa khóa nhà cho ông T. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, hai bên xảy ra tranh chấp. Tại phiên tòa phúc thẩm, Tòa án đã xét rằng, khi ông H ký kết hợp đồng với ông T để cho thuê căn nhà và ký nhận đặt cọc thuê nhà mà ông H chưa có sự ủy quyền của bà Tr và bà A (hai người thừa kế ngôi nhà), nên giao dịch giữa ông T và ông H là giao dịch vô hiệu do nhầm lẫn, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm xác lập dựa vào Điều 141 và khoản 2 Điều 146 Bộ luật Dân sự năm 1995[2].

Ở vụ việc này, nếu ông H là một trong những người thừa kế ngôi nhà do bố mẹ chết không để lại di chúc, nhưng khi chưa có sự đồng ý của hai người thừa kế còn lại mà ông H tự tiện cho thuê ngôi nhà và cũng không nói cho ông T biết về hiện trạng ngôi nhà, thì điều này làm cho ông T bị nhầm lẫn. Nhưng với lời khai của ông H cho thấy, mặc dù ông T biết là ngôi nhà không thuộc sở hữu của ông H và đồng nghĩa với việc khó có thể đi công chứng được, nhưng ông T vẫn đồng ý thuê. Như vậy, trong nhận thức của ông T không có sự nhầm lẫn, bởi lẽ nhận thức của ông đã biết về hiện trạng của ngôi nhà, đã không có sự khác nhau giữa nhận thức của ông với thực tế ngôi nhà, cho nên đây không thể coi là có sự nhầm lẫn được. Việc Tòa án áp dụng điều luật về nhầm lẫn là không có cơ sở.

– Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm cho rằng có yếu tố nhầm lẫn nhưng đến khi tiến hành theo thủ tục giám đốc thẩm thì lại khẳng định chắc chắn rằng việc xác định có yếu tố nhầm lẫn ở đây là chưa có đủ căn cứ vững chắc

Vụ việc: Ngày 06/01/1993, Công ty xây dựng và kinh doanh nhà, nay là Công ty cổ phần địa ốc Sài Gòn (sau đây viết tắt là Công ty) và ông N có ký kết hợp đồng liên doanh xây dựng nhà số 02/93, theo đó, ông N giao toàn bộ khu đất với diện tích là 552m2 cho Công ty đầu tư xây dựng 12 căn nhà. Đến cuối năm 1993, Công ty đã đầu tư xây dựng hoàn chỉnh khu nhà nhưng không đưa vào kinh doanh được vì Công ty phát hiện ông N đã gian dối khi sửa chữa Quyết định số 02 ngày 10/11/1986 của Lữ đoàn thông tin 596 (về việc giao đất cho ông N) từ diện tích đất là 342m2 thành 942m2 và sử dụng phần diện tích đất lấn chiếm trái phép này để góp vốn kinh doanh với Công ty. Do việc Bộ Tư lệnh thông tin ra Quyết định số 206G3/QĐ ngày 18/6/1997 thu hồi phần đất do ông N lấn chiếm, sử dụng trái phép là 666m2, nên một số căn nhà mà Công ty đã đầu tư xây dựng bị hoang phế, vốn đầu tư bị tồn đọng. Đến ngày 10/3/2000, Bộ Quốc phòng cùng Bộ Tư lệnh thông tin mới có Biên bản bàn giao nhà, đất số 507/BB-TTLL bàn giao 619,6m2 đất và 11 căn hộ cho Công ty, trong khi đó, ông N không có trách nhiệm cùng Công ty giải quyết hậu quả. Vì vậy, Công ty đã khởi kiện ra Tòa án. Tòa án các cấp sơ thẩm, phúc thẩm đều nhận định hợp đồng ký kết giữa ông N và Công ty là vô hiệu do nhầm lẫn. Khi được xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm thì nhận định, việc Tòa án các cấp sơ thẩm, phúc thẩm tuyên hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn là chưa có đủ căn cứ vững chắc[3].

Có thể thấy rằng, việc Tòa án các cấp sơ thẩm, phúc thẩm tuyên hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn là chưa đủ căn cứ, vì vẫn chưa có sự xác định trong diện tích đất mà ông N dùng để góp vốn đầu tư xây dựng, diện tích đất lấn chiếm của Nhà nước thì Công ty có biết hay không? Khi nào thì Công ty biết việc này? Những vấn đề đó vẫn chưa được làm rõ mà đã kết luận hợp đồng trên là vô hiệu do nhầm lẫn và ông N vô ý làm cho Công ty hiểu nhầm là chưa hợp lý.

– Trường hợp, Tòa cấp sơ thẩm, phúc thẩm xác định không có nhầm lẫn nhưng đến khi tiến hành theo thủ tục giám đốc thẩm thì mới phát hiện có yếu tố nhầm lẫn

Vụ việc: Ngày 03/01/2002, ông L đã nhận chuyển nhượng của bà P quyền sử dụng một nền đất có diện tích 64m2 (kích thước 4m ngang, 16m dài) thuộc khu dân cư Rạch Miễu, quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh mang số 16 lô C1, có mặt tiền là đường Phan Xích Long với giá 16.500.000 đồng/m2, thành tiền là 1.056.000.000 đồng. Bà P nói với ông L là bà mua nền đất này của Công ty Sài Gòn Viễn Đông (Công ty SG). Ông L đã trả cho bà P tổng cộng 983.040.000 đồng. Ngày 27/01/2002, ông H (chồng bà P) dẫn ông L đến trụ sở Công ty SG để nhận hợp đồng sang tên. Khi nhận bản hợp đồng, ông L không thấy có tờ họa đồ vị trí nền đất, nhưng vì đã biết vị trí nền đất qua bản vẽ ngày 27/3/2001 của Văn phòng Kiến trúc sư trưởng thành phố nên ông không thắc mắc. Công ty SG đã chuyển tên chủ hợp đồng từ tên bà P sang tên ông L. Tháng 3/2002, Công ty SG mời ông L lên nhận đất nhưng lại giao cho ông nền đất số 25 lô C1 có mặt tiền ở đường Hoa Cúc. Ông L đồng ý nhận nền đất có mặt tiền ở đường Hoa Cúc, nhưng yêu cầu Tòa án buộc Công ty SG và bà P phải bồi hoàn giá trị chênh lệch giữa nền đất mặt tiền đường Phan Xích Long và nền đất mặt tiền đường Hoa Cúc[4]. Tòa án cấp sơ thẩm buộc Công ty SG phải bồi thường thiệt hại cho ông L; đến Tòa án cấp phúc thẩm thì bác hoàn toàn yêu cầu đòi bồi thường của ông L đối với Công ty SG và quyết định người phải bồi thường thiệt hại cho ông L là bà P.

Ở đây, việc giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm là không đúng vì chưa phát hiện có sự nhầm lẫn. Đến khi giám đốc thẩm đã nhận định có yếu tố nhầm lẫn bởi bà P làm cho ông L nhầm lẫn về đối tượng nên mới ký hợp đồng với Công ty SG, còn Công ty SG không có lỗi trong việc ông L bị nhầm lẫn.

Vậy, pháp luật nước ngoài quy định thế nào là nhầm lẫn?

Trong Luật La Mã, “nhầm lẫn được hiểu như một quan niệm chưa đúng về những hoàn cảnh thực tế, điều đã làm cho người ký hợp đồng bị nhầm lẫn khi thể hiện ý chí. Và khẳng định, nhầm lẫn là sự xác định sai về sự việc”[5].

Bộ nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế và Bộ nguyên tắc Luật hợp đồng châu Âu đã có quy định rất rõ về sự nhầm lẫn trong giao kết hợp đồng. Tại Điều 3.4: “Nhầm lẫn là một giả thiết sai lầm liên quan đến sự việc hoặc luật lệ tồn tại vào thời điểm giao kết hợp đồng”[6]. Điều 4:104 cũng quy định nhầm lẫn là một giả thiết sai lầm liên quan đến sự việc hoặc luật lệ tồn tại vào thời điểm giao kết hợp đồng.

Các luật gia thuộc hệ thống thông luật (Common Law) coi nhầm lẫn “là sự nhận thức không đúng của một hoặc nhiều bên của hợp đồng và có thể được sử dụng làm căn cứ để vô hiệu hóa hợp đồng”[7].

Dân luật Pháp có quan niệm về nhầm lẫn như là trường hợp nhầm lẫn về bản chất của vật hoặc công việc và trường hợp chủ thể đánh giá sai về thực tế khách quan trong giao kết hợp đồng, tuy nhiên không phải tình huống nào cũng dẫn tới việc hủy bỏ hợp đồng (Điều 1110 Bộ luật Dân sự Pháp).

Theo Bộ luật Dân sự Nhật Bản thì nhầm lẫn “là sự không trùng hợp giữa ý chí được thể thiện với mong muốn thật sự của người thể hiện ý chí”[8].

Hiện nay, Điều 127 Dự thảo quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn nhưng không quy định thế nào là nhầm lẫn, do đó cần phải được bổ sung khái niệm này. Trên cơ sở kinh nghiệm thực tế và các định nghĩa đã được nghiên cứu cùng với việc tham khảo Bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế và Bộ nguyên tắc Luật hợp đồng châu Âu, theo đó, Điều 127 Dự thảo cần bổ sung như sau: “Nhầm lẫn là một giả thiết sai lầm liên quan đến sự việc hay hệ thống pháp luật khác nhau tại thời điểm giao kết hợp đồng”.

2. Nhầm lẫn về chủ thể

Nhầm lẫn về chủ thể của hợp đồng là sự nhầm lẫn của một hoặc hai bên chủ thể tham gia hợp đồng về chủ thể tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng. Trong quá trình xác lập hợp đồng thì việc xác lập đúng chủ thể trong hợp đồng là hết sức cần thiết, không những giúp dễ thực hiện hợp đồng mà còn xác định quan hệ tranh chấp phát sinh (nếu có) sau này.

Theo pháp luật dân sự hiện hành, nhầm lẫn được xem là yếu tố dẫn đến vô hiệu hợp đồng cũng chỉ giới hạn ở sự nhầm lẫn về nội dung mà không quy định nhầm lẫn về chủ thể.

Trong thực tiễn, có một số vụ việc có nhầm lẫn nhưng không phải nhầm lẫn về nội dung của hợp đồng mà là nhầm lẫn về chủ thể, như:

Vụ việc thứ nhất: Ngày 21/4/2006, giữa ông T và bà K có ký hợp đồng thỏa thuận hợp tác thành lập Công ty cổ phần đầu tư thẩm mỹ Xuân Trường (Công ty), địa chỉ tại số 139 AB Nguyễn Trãi, quận 1, TP. Hồ Chí Minh với các điều khoản như sau: Bà K góp vốn bằng căn nhà số 139 AB nguyễn trãi, quận 1, TP. Hồ Chí Minh, còn ông T góp vốn bằng tiền sửa chữa mặt bằng, đầu tư trang thiết bị và đầu tư thành lập công ty. Công ty đi vào hoạt động được khoảng 2 tháng, thì đầu tháng 7/2006, bà K tự ý đóng cửa Công ty, ngưng hợp đồng với ông T trước thời hạn, tự ý cất giấu toàn bộ hồ sơ giấy phép, dấu mộc của công ty và khoá cửa không cho nhân viên của nguyên đơn vào làm việc. Nay do bà K vi phạm hợp đồng gây thiệt hại đến quyền lợi của ông T, nên ông T khởi kiện ra Tòa án yêu cầu đồi bồi thường thiệt hại phát sinh. Sau khi xem xét vụ việc, Tòa án cấp phúc thẩm đã tuyên hợp đồng hợp tác giữa ông T và bà K là vô hiệu do nhầm lẫn do ông Trường không phải là bác sĩ nên bị nhầm lẫn y ngoại tổng quát với phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ ngay từ khi xác lập hợp đồng thỏa thuận hợp tác[9].

Từ vụ việc cho thấy, bà K trong nhận thức của mình đã tưởng rằng ông T là bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ nên mới giao kết hợp đồng, còn nếu ông T không phải là bác sỹ phẫu thuật thẩm mỹ thì sẽ không giao kết hợp đồng trên, tức là có sự khác nhau giữa nhận thức với thực tế và đây là sự nhầm lẫn về chủ thể chứ không thể như nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm khẳng định là có yếu tố nhầm lẫn nhưng lại là nhầm lẫn về nội dung giao dịch: “Có cơ sở để xác định hợp đồng hợp tác ngày 21/4/2006 bị vô hiệu toàn bộ do bị nhầm lẫn ngay từ thời điểm xác lập vì nguyên đơn đã cố ý làm cho bị đơn nhầm lẫn về nội dung giao dịch mà xác lập việc giao dịch trên với nguyên đơn”.

Vụ việc thứ hai: Ngày 18/01/2003, bà A cho vợ chồng ông D, bà H vay 30 lượng vàng SJC không tính lãi suất, hạn trả vào tháng 4/2003. Ông D xin khất nợ và cam kết trả lãi 0,5%/tháng. Tuy nhiên, đến nay ông D và bà H chưa trả nợ. Bà A yêu cầu hai người phải trả ngay cho bà 30 lượng vàng SJC và lãi tính từ ngày 01/6/2003 đến ngày 01/6/2005 là 3,6 lượng vàng, tổng cộng là 33,6 lượng vàng SJC.

Ở vụ việc này, trong nhận thức của bà A thì bà cho cả hai vợ chồng ông D và bà H vay nên nên mới đồng ý, còn nếu như không phải là cả hai vợ chồng thì chắc chắn bà sẽ không cho vay. Nhưng trên thực tế, ông D và bà H đã ly hôn, khi ông D vay tiền thì vẫn có chữ ký của bà H, điều này dẫn đến việc bà A bị nhầm lẫn về người cho vay, đúng như Tòa án đã nhận định: “Bà A nêu bà chỉ đồng ý cho hai vợ chồng vay chứ không cho ông D vay, vì ông D và bà H muốn giấu tình trạng hôn nhân giữa hai người nên bà H dù không vay nợ nhưng vẫn ký thì bà cũng có một phần lỗi làm bà A nhầm tường mà cho vay nên đây là giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn và phải tuyên bố giao dịch này vô hiệu, bà H phải có một phần trách nhiệm”[10].

Cả 2 vụ việc trên, Tòa án đều vận dụng Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2005 để giải quyết. Điều luật này mới chỉ quy định nhầm lẫn về nội dung của giao dịch, trong khi cả 2 vụ việc trên đều nhầm lẫn về chủ thể. Cho nên việc áp dụng này cho thấy sự thiếu sót của luật cũng như của cơ quan xét xử.

Pháp luật một số nước đã có quy định hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn về chủ thể nhưng chỉ trong trường hợp nhất định, khi yếu tố chủ thể đóng vai trò quyết định đến việc giao kết hợp đồng.

Một số nước theo hệ thống thông luật có một quy tắc chung liên quan tới nhầm lẫn là “một người bị ràng buộc bởi hợp đồng mà trong đó có yếu tố nhầm lẫn, trừ khi người đó có thể chứng minh được rằng sự nhầm lẫn đó thuộc một trong các loại nhầm lẫn mà hợp đồng có thể bị tiêu hủy”[11]. Còn theo quy định tại Điều 119(2) Bộ luật Dân sự Đức thì “sự nhầm lẫn về tư cách chủ thể hoặc sự việc chỉ là căn cứ tuyên bố giao dịch vô hiệu nếu như mang tính quyết định trong giao lưu dân sự”. Điều 120 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan cũng quy định đến năng lực của chủ thể tham gia giao dịch: “Một tuyên bố ý định có thể bị vô hiệu nếu tuyên bố đó được làm do có nhầm lẫn về năng lực của người hay phẩm chất của vật mà năng lực hay phẩm chất đó được coi là quan trọng trong những giao dịch bình thường”.

Theo Luật La Mã, “nhầm lẫn về người là một tì ố của sự ưng thuận, theo đó chủ thể giao kết với người này mà lại tưởng giao kết với người khác và được xem là một nguyên nhân làm cho hợp đồng vô hiệu bởi không có sự phù hợp giữa ý chí và thể hiện ý chí của chủ thể”[12].

Theo Bộ luật Dân sự Pháp, không phải sự nhầm lẫn nào về người nào cũng gây ra việc vô hiệu của hợp đồng như Luật La Mã, mà chỉ cho phép tuyên bố hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn về chủ thể nếu đó là nhầm lẫn về những yếu tố quan trọng của đối tác và khi nhân thân của đối tác có vai trň quan trọng đối với quyết định của giao kết hợp đồng. Các giải thích về điều luật này và án lệ của Pháp cho thấy có những loại hợp đồng có thể bị vô hiệu bởi nhầm lẫn về người như hợp đồng không có đền bù, hợp đồng ủy quyền có thù lao, hợp đồng lao động, hợp đồng bán hàng trả chậm…

“Ở Bỉ, Luxembourg, Áo, Tây Ban Nha, Anh… nhầm lẫn về chủ thể tham gia giao kết hợp đồng cũng là một lý do làm cho hợp đồng vô hiệu khi nhân thân của chủ thể có ảnh hưởng tới quyết định giao kết hợp đồng”[13].

Như vậy, nhiều nước trên thế giới đã có quy định về chủ thể của sự nhầm lẫn, cụ thể coi các yếu tố tư cách, phẩm chất của chủ thể là yếu tố quyết định quan trọng cho việc giao kết hợp đồng.

Điều 127 Dự thảo quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn nhưng không quy định nhầm lẫn về chủ thể. Vì vậy, tác giả kiến nghị Điều 127 Dự thảo cần bổ sung như sau: “Một bên hoặc các bên có quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn về chủ thể khi yếu tố nhân thân của chủ thể là quan trọng trong việc giao kết hợp đồng”.

3.Kết luận

Nhầm lẫn là một trong những khiếm khuyết của sự ưng thuận khi giao kết hợp đồng. Vì vậy, Việc tiến hành rà soát, hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành, nâng cao nhận thức về lý luận và thực tiễn sẽ tạo hành lang pháp lý về giao dịch vô hiệu do nhầm lẫn được hoàn thiện hơn, phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế thế giới.

Phạm Thị Hồng Mỵ

Trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang



[1]Dương Hằng, Cái cống hôi trước cửa sạp, http: vietbao.vn, truy cập ngày 10/8/2014.

[2] Bản án số 97/2007/DS-PT ngày 19/01/2007 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh.

[3]Quyết định giám đốc thẩm số 10/2009/KDTM-GĐT ngày 03/9/2009 của Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp về hợp đồng liên doanh xây dựng nhà”.

[4] Quyết định giám đốc thẩm số 03/2009/DS-GĐT ngày 11/02/2009 về vụ án “Tranh chấp hợp đồng liên kết đầu tư xây dựng”.

[5] Lê Nết, Luật La Mã, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, năm 1999.

[6] Lê Nết, Những nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, năm 1999.

[7] Ngô Huy Cương, Về yếu tố ưng thuận của hợp đồng, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7, tr. 23 – 28, 39.

[8] Bộ Tư pháp, Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1995.

[9] Bản án số 2007/KDTM-ST ngày 18/10/2007 về việc tranh chấp giữa thành viên công ty về hợp đồng góp vốn.

[10] Bản án số 18/2007/DSPT ngày 04/01/2007 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh.

[11]R. Keith Yorston and Edward E. Fortescue, Australian Mercantile Law, The Law Book Co. of Australia PTY LTD, Sydney, Melbourne, Brisbane, 1943, p. 31.

[12]Vũ Tam Tư, Luật Rôma: Khế ước & Nghĩa vụ, Trường Đại học tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, tr. 52 – 53.

[13] Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2013, tr. 437.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bảo đảm quyền bào chữa tại phiên tòa sơ thẩm

23/11/2015

1. Thực trạng một số quy định về bảo đảm quyền bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm

– Quy định về quyền triệu tập người làm chứng, lời khai của người làm chứng trong hoạt động chứng minh tại phiên toà có ý nghĩa làm rõ nhiều tình tiết của vụ án. Vì vậy thủ tục xét xử quy định tại phiên toà các bên có quyền đề nghị hội đồng xét xử (HĐXX) được triệu tập thêm người làm chứng. Đáng quan tâm là thủ tục xét xử không quy định kiểm sát viên và người bào chữa được triệu tập người làm chứng để chuẩn bị cho phiên tranh tụng, mà chỉ khi diễn ra phiên toà thì họ được đề nghị triệu tập thêm người làm chứng và việc này phải được sự chấp thuận của HĐXX. Do đó không tránh khỏi sự tuỳ nghi của HĐXX. Có trường hợp người bào chữa đề nghị HĐXX triệu tập thêm người làm chứng, nhưng HĐXX cho rằng người đó phải có lời khai trong hồ sơ (để đảm bảotính khách quan) thì mới được chấp nhận.

Vấn đề khác đặt ra là nếu người làm chứng đã được triệu tập nhưng vắng mặt tại phiên toà thì HĐXX giải quyết như thế nào? Trường hợp vắng mặt nhưng đã có lời khai thể hiện trong hồ sơ vụ án và có đơn xin vắng mặt trong đó thể hiện giữ nguyên lời khai của mình thì HĐXX vẫn tiến hành xét xử mà không cần phải hoãn phiên toà. Tuy nhiên, trong trường hợp vụ án phức tạp đòi hỏi phải có người làm chứng tại phiên toà, dù họ có đơn xin vắng mặt như đã nêu, nhưng Toà án vẫn phải triệu tập họ đến tham dự phiên toà. Mặt khác, các bên có quyền nhờ người làm chứng cho mình hoặc có quyền triệu tập hoặc đề nghị Tòa án triệu tập ra phiên tòa bất kỳ thời điểm nào trong quá trình tranh tụng, chứ không thể phụ thuộc vào Tòa án và không cần họ phải có lời khai trước đó trong giai đoạn điều tra. Mặt khác, khoản 4 Điều 211 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định, người làm chứng phải ở lại phòng xử án cho đến khi kết thúc phiên tòa để có thể được hỏi thêm. Quy định này là chưa phù hợp, vì nhiều trường hợp người làm chứng trình bày xong thì có thể cho họ rời phòng xử án, không bắt buộc họ ở lại.

– Quy định về quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa, điểm a khoản 2 Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa đã hạn chế quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa trong giai đoạn điều tra. Điều này đã ảnh hưởng đến chất lượng tranh tụng của người bào chữa trước phiên tòa. Cụ thể: Người bào chữa không được tham gia nhiều vào các hoạt động điều tra, như hoạt động lấy lời khai, hoạt động hỏi cung, đối chất, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi… Hơn nữa, người bào chữa chưa được cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án giao các quyết định tố tụng và lịch xét xử; cũng như hoạt động nghiệp vụ của họ vẫn bị cản trở vì các cơ quan tổ chức có thẩm quyền không hợp tác đầy đủ trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc bào chữa của họ.

– Quy định về trình bày lời bào chữa, khoản 2 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định về trình tự phát biểu khi tranh luận đã không đặt ra trường hợp có nhiều người bào chữa cho một bị cáo, thì thực hiện việc trình bày lời bào chữa ra sao? Tính chất của lời bào chữa rất quan trọng. Ở đó tập trung các lập luận của người bào chữa, qua một quá trình nghiên cứu đánh giá chứng cứ công phu, nhằm bảo vệ quan điểm bào chữa, bảo vệ lợi ích hợp pháp của bị cáo. Mâu thuẫn của tình tiết, chứng cứ vụ án có được sáng tỏ hay không phụ thuộc vào quan điểm và khả năng lập luận của người bào chữa. Mức độ thuyết phục HĐXX đến đâu cũng phải phụ thuộc nhiều vào lời bào chữa. Cần phải thấy rằng, trên thực tế dù người bào chữa cho bị cáo không có mặt tại phiên tòa, nhưng quan điểm của họ vẫn đươc thực hiện thông qua bản bào chữa được gửi trước. Tại phiên tòa, HĐXX công bố bản bào chữa do người bào chữa gửi trước, thế nhưng lại xảy ra trường hợp quan điểm ở đó không phù hợp với quan điểm của bị cáo tại phiên tòa, ví dụ như đánh giá tình tiết giảm nhẹ, tình tiết làm cơ sở yêu cầu mức bồi thường thiệt hại… Do đó có sự mâu thuẫn giữa quan điểm của người bào chữa với bị cáo, gây lúng túng cho HĐXX và bị cáo.

Cần lưu ý là trường hợp bị cáo không nhờ người bào chữa, thì họ phải tự bào chữa hoặc lựa chọn phương thức từ chối bào chữa, và chủ tọa phiên tòa không buộc bị cáo phải trình bày lời bào chữa. Bên cạnh đó, lưu ý đến trường hợp bào chữa bắt buộc theo khoản 2 Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, đó là bị cáo được Nhà nước cử người bào chữa, nhưng vẫn cố tình từ chối, màkhông yêu cầu thay đổi, lựa chọn người bào chữa khác. Trường hợp này Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 chưa đưa ra phương thức xử lý. Có thể nói từ chối người bào chữa là quyền của bị cáo. Một mặt họ thích tự bào chữa cho dù họ có thể gặp bất lợi, nhưng họ thấy mình có đủ khả năng để tự bào chữa, hoặc vì một chiến thuật để dành lợi thế mà họ không thích người bào chữa can thiệp vào quá trình tố tụng.

Quy định về thành phần Hội đồng xét xử tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, Điều 185 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định thành phần HĐXX sơ thẩm gồm 01 thẩm phán và 02 hội thẩm; nếu là vụ án phức tạp có thể gồm 02 thẩm phán và 03 hội thẩm. Mục đích của quy định này là khi xét xử bắt buộc phải có hội thẩm tham gia, vì hội thẩm là người đại diện cho ý chí của nhân dân tham gia tố tụng, biểu quyết của họ sẽ làm cho vụ án được khách quan hơn, có lợi cho bị cáo và hạn chế sự lạm quyền của thẩm phán chuyên nghiệp. Song điều này chưa hẳn đã hoàn toàn là ưu điểm, vì ở đó bị cáo không có quyền lựa chọn thành phần HĐXX. Nếu mở rộng quyền lựa chọn HĐXX chỉ có thẩm phán cũng là một phương thức bảo đảm quyền cho bị cáo. Nếu HĐXX chỉ có thẩm phán thì tính chuyên nghiệp trong hoạt động áp dụng pháp luật triệt để hơn, hay là có hội thẩm tham gia nhằm đảm bảo tính khách quan hơn trong việc đưa ra phán quyết của Tòa án, tránh lạm quyền từ thẩm phán; hoặc họ muốn tạo ra cho mình một lợi thế nào đó trong quá trình tranh tụng mà không yêu cầu phải có hội thẩm tham gia.

– Quy định về xét xử vắng mặt bị cáo tại phiên tòa, Điều 187 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định bắt buộc bị cáo phải có mặt tại phiên tòa. Tòa án chỉ có thể xét xử vắng mặt họ ở ba trường hợp: Bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả, bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa, và nếu sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử và họ đã được giao giấy triệu tập hợp lệ. Trường hợp thứ ba cho phép xét xử vắng mặt bị cáo, nhưng như thế nào là sự vắng mặt không trở ngại cho việc xét xử thì chưa được giải thích. Do đó hầu như trên thực tiễn Tòa án không vận dụng trường hợp này. Nếu bị cáo vắng mặt thì Tòa án tìm cách áp giải hoặc bắt tạm giam họ với lý do để đảm bảo cho việc xét xử hoặc để bảo đảm thi hành án.

Quy định tại Điều 187 nêu trên là cứng nhắc, không đảm bảo quyền được xét xử vắng mặt của bị cáo. Nghĩa là bị cáo có quyền lựa chọn phương thức có mặt hay không chỉ đơn giản đó là quyền họ được hưởng hoặc là họ muốn tạo lợi thế cho mình tại phiên tranh tụng, vì họ cho rằng họ không bắt buộc phải tự buộc tội mình. Chúng ta không cần phải lo ngại là phải có bị cáo tại phiên tòa thì vụ án mới được chứng minh đầy đủ, khách quan, bởi vì bên cạnh bị cáo còn có thể có người đại diện, có người bào chữa của họ.

2. Kiến nghị hoàn thiện một số quy định về bảo đảm quyền bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm

Một là,kiến nghị bổ sung một điều luật vào Chương XVIII của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003(Quy định chung về thủ tục tố tụng tại phiên tòa) về “Triệu tập người làm chứng”, nhằm khắc phục thực trạng việc triệu tập người làm chứng ra phiên tòa chỉ do Tòa án quyết định, kiểm sát viên và người bào chữa không có quyền triệu tập người làm chứng của riêng mình, ảnh hưởng đến việc chứng minh của họ. Giải pháp này mang yếu tố tranh tụng cao, nó sẽ cân bằng lợi thế và tạo ra sự bình đẳng, dân chủ giữa các bên trong phiên tranh tụng. Lưy ý là Điều luật mới bổ sung sẽ không còn giao quyền triệu tập người làm chứng cho Tòa án, mà chuyển sang cho kiểm sát viên và người bào chữa. Đồng thời mở rộng phạm vi về thời gian triệu tập người làm chứng không những ở giai đoạn chuẩn bị xét xử, mà trong thời gian đang diễn ra phiên tòa, nếu có yêu cầu thì HĐXX phải thực hiện việc hoãn phiên tòa để thực hiện.

“Điều … Triệu tập người làm chứng

Căn cứ vào lịch xét xử của Tòa án, kiểm sát viên và người bào chữa xem xét quyết định việc triệu tập người làm chứng ra phiên tòa để thực hiện việc chứng minh. Trong quá trình diễn ra phiên tòa cho đến trước khi nghị án hội đồng xét xử xem xét hoãn phiên tòa để triệu tập thêm người làm chứng theo đề nghị của kiểm sát viên, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác”.

Hai là,kiến nghị bổ sung khoản 2 Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về lựa chọn và thay đổi người bào chữa. Đó là bổ sung thủ tục giải quyết đối với trường hợp bị cáo được Nhà nước cử người bào chữa, nhưng vẫn cố tình từ chối, mà vẫn không yêu cầu thay đổi, lựa chọn người bào chữa khác. Trong trường hợp này cần phải quy định rõ là Tòa án phải giải thích cho bị cáo hiểu về quyền lợi của họ và ghi ý kiến từ chối của bị cáo vào biên bản phiên tòa và vẫn tiến hành giải quyết vụ án có mặt của người bào chữa đã cử. Cụ thể khoản 2 Điều 57 được bổ sung như sau:

Điều 57. Lựa chọn và thay đổi người bào chữa

1. …

2. …

Trong các trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa. Tòa án phải có trách nhiệm giải thích cho bị cáo hiểu về quyền lợi của họ và ghi ý kiến từ chối người bào chữa của họ vào biên bản phiên tòa và vẫn tiến hành giải quyết vụ án với sự có mặt của người bào chữa đã cử”.

Ba là, kiến nghị sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 2 Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, theo đó cho phép người bào chữa có quyền thực sự trong việc thu thập chứng cứ. Cụ thể người bào chữa được lấy lời khai của người bị tạm giữ, bị can, người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án; được thu thập tài liệu, đồ vật và yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp vật chứng, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án; người bào chữa được tham dự và ghi nhận dấu vết trong cuộc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, chứng kiến việc bắt người, việc khám xét. Người bào chữa tham gia các hoạt động thu thập chứng cứ nêu trên chỉ cần thông báo cho cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát biết mà không cần phải được sự chấp thuận trước và phải có yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như quy định tại Điều 58 hiện hành, ngoại trừ trường hợp thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác và phải giữ bí mật điều tra theo quy định tại điểm e của Điều khoản này. Đồng thời kiến nghị bổ sung quyền của người bào chữa được nhận bản kết luận điều tra, bản cáo trạng, bản án và lịch xét xử do cơ quan tiến hành tố tụng giao theo thời hạn luật định. Nhằm khắc phục thực trạng người bào chữa phải “xin phô tô”, phải phụ thuộc hoặc thông qua bị cáo thì họ mới biết được thông tin buộc tội của bản kết luận điều tra, cáo trạng, nội dung bản án được tuyên, thời gian mở phiên tòa. Cụ thể loại bỏ điểm d (đưa nội dung quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tài liệu vào thiết kế chung vào điểm a để tránh tản mạn, rườm rà); sửa đổi, bổ sung điểm a; và bổ sung điểm b của khoản 2 Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, cụ thể như sau:

“Điều 58. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa

2. Người bào chữa có quyền:

a) Có mặt khi cơ quan điều tra, viện kiểm sát lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can; được lấy lời khai của người bị tạm giữ, bị can, người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án; được thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến vụ án; được yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp vật chứng, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án; được tham dự và ghi nhận dấu vết trong cuộc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, chứng kiến việc bắt người, việc khám xét; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa và được giao bản kết luận điều tra.

Người bào chữa có thể bị cơ quan điều tra và Viện kiểm sát hạn chế hoặc không được thực hiện các hoạt động thu thập chứng cứ đối với vụ án liên quan đến bí mật quốc gia, bí mật công tác và phải giữ bí mật điều tra theo yêu cầu của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát;

b) Người bào chữa tham gia tố tụng được nhận bản kết luận điều tra, cáo trạng, bản án, lịch xét xử do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án giao theo thời hạn luật định;

…”.

Bốn là,kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 190 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về sự có mặt của người bào chữa theo dịch vụ pháp lý. Theo đó làm rõ chủ thể bào chữa bao gồm: Người bào chữa theo dịch vụ pháp lý và người bào chữa do Nhà nước cử, và bỏ đi quy định người bào chữa được gửi trước bản bào chữa cho Tòa án. Vì đây là lý do người bào chữa theo dịch vụ pháp lý thường xuyên vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm do vướng nhiều vào hợp đồng dịch vụ pháp lý khác, làm cho phiên tòa bị hoãn, gây ra rất nhiều phiền hà và hao tốn thời gian, chi phí tố tụng. Cụ thể Điều 190 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 190. Sự có mặt của người bào chữa

Người bào chữa theo dịch vụ pháp lý có nghĩa vụ tham gia phiên tòa. Người bào chữa theo dịch vụ pháp lý vắng mặt, Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử.

Người bào chữa do Nhà nước cử theo quy định tại khoản 2 Điều 57 của Bộ luật này nếu vắng mặt, thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa”.

Năm là,kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 187 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa, theo hướng bảo đảm quyền được vắng mặt khi xét xử của bị cáo trong những trường hợp nhất định. Nghĩa là bị cáo có quyền lựa chọn phương thức có mặt hay không tại phiên tòa. Mở rộng quyền được vắng mặt tại phiên tòa cho bị cáo, mà Tòa án vẫn xét xử ở các trường hợp như: Bị cáo là người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng; bị cáo có đơn xin xét xử vắng mặt trong các vụ án đơn giản, vụ án khởi tố theo yêu cầu người bị hại, hoặc vụ án mà chứng cứ đã rõ ràng bị cáo đã nhận tội, hoặc họ đã bồi thường xong phần trách nhiệm dân sự hoặc đã chấp nhận yêu cầu bồi thường dân sự của bên bị hại đưa ra trước khi xét xử. Cụ thể khoản 2 Điều 187 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 được sửa đổi, bổ sung như sau (lưu ý là loại bỏ điểm c của điều khoản này, vì quy phạm này thiếu tính khả thi, đó là trường hợp sự vắng mặt của bị cáo không cản trở việc xét xử):

“Điều 187. Sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa

2. Tòa án chỉ có thể xử vắng mặt bị cáo trong những trường hợp sau đây:

a) Bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả;

b) Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa;

c) Bị cáo là người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng có đơn xin xét xử vắng mặt;

d) Bị cáo có đơn xin xét xử vắng mặt trong các vụ án phạm tội ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, bị cáo nhận tội, đã bồi thường xong phần trách nhiệm dân sự hoặc đã chấp nhận yêu cầu bồi thường dân sự của bên bị hại đưa ra trước khi xét xử; hoặc vụ án thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại”.

Sáu là, kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 185 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về thành phần HĐXX theo hướng mở rộng quy định cho bị cáo quyền được lựa chọn xét xử bởi thẩm phán và hội thẩm hoặc chỉ bởi thẩm phán. Cụ thể Điều 185 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 185. Thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm

Bị cáo có quyền lựa chọn hội đồng xét xử bởi một thẩm phán và hai hội thẩm hoặc chỉ bởi một thẩm phán xét xử. Bị cáo đề nghị việc này với Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử”.

ThS. Nguyễn Ngọc Kiện

Giảng viên Trường Đại học Luật – Đại học Huế

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Các hình thức thực thi dân chủ trực tiếp trên thế giới và ở Việt Nam

20/11/2015

1. Một số hình thức thực thi dân chủ trực tiếp trên thế giới

1.1. Về trưng cầu ý dân

Trưng cầu ý dân là việc các cử tri bỏ phiếu trực tiếp quyết định các vấn đề chính trị, xã hội, pháp lý quan trọng của đất nước hay địa phương hoặc việc xây dựng, thông qua Hiến pháp mới hay Hiến pháp sửa đổi. Các vấn đề được đem ra trưng cầu ý dân có thể được quy định cụ thể trong Hiến pháp hoặc do cơ quan lập pháp hay một số thành viên của cơ quan lập pháp do luật định hoặc cử tri yêu cầu. Tùy theo quy định trong Hiến pháp hoặc luật của các quốc gia, kết quả trưng cầu ý dân có thể có hiệu lực ràng buộc hoặc chỉ có ý nghĩa tham vấn với cơ quan lập pháp. Theo nhiều chuyên gia trên thế giới, hiện nay đã có 167/214 quốc gia và vùng lãnh thổ có luật hoặc các quy định pháp lý về trưng cầu dân ý. Trên thế giới, ở nhiều nước, việc tổ chức trưng cầu dân ý được tổ chức ở cả cấp địa phương và cấp quốc gia (Nhật Bản, Hàn Quốc, Thụy Sỹ…), ở một số nước khác thì chỉ tổ chức ở cấp quốc gia (Latvia) và một số nước lại chỉ cho tổ chức ở cấp địa phương (Hoa Kỳ). Việc trưng cầu ý dân cả hai cấp là quốc gia và địa phương tùy vào nội dung của vấn đề trưng cầu ý dân. Thụy Sỹ được đánh giá là một nhà nước mà ở đó có nhiều yếu tố dân chủ trực tiếp nhất trong tất cả các nền dân chủ trên thế giới. Cho đến nay, chưa có một nhà nước nào khác trên thế giới có số lượng lớn các cuộc trưng cầu ý dân ở cấp quốc gia như Thụy Sỹ – trung bình một năm có bốn lần trưng cầu dân ý ở cả 3 cấp [1]. Ba trụ cột chính của dân chủ trực tiếp ở Thụy Sỹ là trưng cầu dân ý bắt buộc, trưng cầu dân ý không bắt buộc và sáng kiến nhân dân. Ở Thụy Sỹ, trưng cầu ý dân được thực hiện ở cả 3 cấp độ: Liên bang, tổng (caton) và thành phố (municipality). Ở cấp độ liên bang (hoặc quốc gia), trưng cầu ý dân chưa từng được thực hiện ở Mỹ. Canada có 4 lần trưng cầu ý dân (lần gần nhất vào ngày 26/12/1992 về Hiến pháp Liên bang). Nước Nga đã từng tổ chức 5 cuộc trưng cầu ý dân, lần gần đây nhất vào ngày 12/12/1993 về Hiến pháp mới. Hy Lạp đã từng tổ chức 9 cuộc trưng cầu ý dân (lần gần đây nhất là vào ngày 05/7/2015 về cứu trợ tài chính). Cộng hòa Pháp đã 34 lần tổ chức trưng cầu ý dân (lần gần nhất tổ chức vào ngày 29/5/2005 về Hiến pháp Châu Âu). Thụy Điển đã tổ chức 10 cuộc trưng cầu ý dân và lần gần đây nhất vào 14/9/2003 về đồng tiền chung Châu Âu. Đan Mạch đã tổ chức 19 lần, lần gần đây nhất vào ngày 28/9/2000 về việc gia nhập Liên minh Châu Âu. Phần Lan đã có 3 lần (lần mới nhất được tổ chức vào ngày 16/10/1994 về việc gia nhập Liên minh Châu Âu). Hungary đã có 9 cuộc trưng cầu ý dân, lần gần đây nhất là ngày 05/12/2004 về vấn đề hai quốc tịch. Italia đã có tổng cộng 64 lần, lần mới nhất vào ngày 13/6/2005. Hà Lan cũng đã tổ chức trưng cầu ý dân vào ngày 01/6/2005 về Hiến pháp Châu Âu. Hàn Quốc có 6 lần trưng cầu ý dân và lần gần nhất vào ngày 27/10/1987 về Hiến pháp. Cu Ba đã tổ chức trưng cầu ý dân về Hiến pháp vào 24/02/1976…

1.2. Về sáng quyền công dân

Sáng quyền của công dân là việc công dân đề xuất và bỏ phiếu quyết định về một vấn đề chung của đất nước hay của cộng đồng. Điều kiện để thực hiện cuộc bỏ phiếu là những người đề xuất phải thu thập đủ một số lượng chữ ký ủng hộ theo luật định. Các sáng kiến ​​của công dân có thể là những đề xuất mới hoặc đề xuất sửa đổi một văn bản pháp luật hiện hành hoặc các vấn đề quan trọng khác được quy định trong Hiến pháp. Tương tự như trưng cầu ý dân, kết quả của một cuộc bỏ phiếu do sáng kiến của công dân ​​có thể có hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý hoặc chỉ có tính chất tham vấn với cơ quan lập pháp, tùy quy định trong pháp luật của các quốc gia. Đối với sáng quyền công dân, Thụy Sỹ là nước đầu tiên trên thế giới giới thiệu các sáng kiến công dân (về một văn bản đầy đủ của Hiến pháp) trong năm 1848, điều này đã thúc đẩy sự ra đời của “trưng cầu dân ý không bắt buộc” (yêu cầu của công dân) trong năm 1874 và sáng kiến của công dân đề xuất sửa đổi Hiến pháp vào năm 1891. Ở nhiều tiểu bang của Hoa Kỳ sau những năm 1890, những công cụ này được dự định dùng để kiềm chế sự lạm dụng của các thể chế đại diện bằng những lợi ích kinh doanh. Ở các nước khác, các công cụ được áp dụng trong thời gian sau chế độ độc tài, như ở Ý hay Đức (Lander – các bang trong khu vực) từ năm 1945, như một biểu hiện của chủ quyền và hỗ trợ tái lập dân chủ. Tương tự như vậy, trong những năm 1990, các quyền sáng kiến đã được giới thiệu trong thời kỳ quá độ hậu cộng sản ở phần lớn các nước Đông Âu và một số các quốc gia kế thừa Liên Xô. Những lý do trên cũng là của một số quốc gia ở Mỹ Latinh sau thời gian chế độ độc tài chấm dứt. Một số quốc gia đã đưa quyền sáng kiến vào trong Hiến pháp của họ nhưng không có luật cụ thể để thực hiện: Guatemala và Paraguay là những ví dụ. Uruguay là quốc gia sử dụng rộng rãi các công cụ sáng kiến, cũng giống như ở Mỹ Latinh.

1.3. Về sáng kiến ​​chương trình nghị sự

Sáng kiến ​​chương trình nghị sự là việc người dân đề xuất một vấn đề cụ thể vào chương trình nghị sự của cơ quan lập pháp (quốc gia hay địa phương). Giống như các sáng kiến ​​của công dân, các sáng kiến ​​chương trình nghị sự cũng cần một lượng tối thiểu chữ ký ủng hộ theo luật định; tuy nhiên, trong sáng kiến về chương trình nghị sự, không cần tổ chức bỏ phiếu phổ thông sau khi một sáng kiến đã được đưa vào chương trình nghị sự của cơ quan lập pháp. Theo một nghiên cứu cho thấy, có 8 nước ở khu vực châu Phi, 13 nước ở khu vực châu Mỹ, 22 nước ở khu vực châu Âu và 3 nước ở khu vực châu Á đang áp dụng[2]. Ở Ý, từ năm 1978 đến năm 2002, có 320 sáng kiến ​​chương trình nghị sự, khoảng một phần ba trong số đó được quản lý yêu cầu thu thập 50.000 chữ ký. Một sáng kiến ​​chương trình nghị sự gián tiếp được đưa ra bỏ phiếu vào năm 1988, khi hơn 110.000 chữ ký được thu thập yêu cầu Nghị viện châu Âu khởi động quá trình lập pháp của EU. Yêu cầu không ràng buộc này sau đó đã được đưa vào một cuộc trưng cầu tham vấn của Quốc hội Ý và vào năm 1989, 88% cử tri ủng hộ đề xuất (trong số 86% cử tri đi bỏ phiếu). Những nước sử dụng tất cả những sáng kiến ​​chương trình nghị sự một cách toàn diện bao gồm Hungary (hơn 150 sáng kiến ở cấp quốc gia), Tây Ban Nha, Ba Lan và Argentina. Ở Thụy Điển, các quyền sáng kiến ​​chương trình nghị sự cấp địa phương và khu vực đã được giới thiệu vào năm 1994 sau một đề xuất của Hội đồng châu Âu trong cùng một năm. Hơn 150 sáng kiến ​​chương trình nghị sự địa phương và khu vực đã được trình lên cơ quan lập pháp, nhưng không đến 15 sáng kiến trở thành chủ đề của một quá trình trưng cầu dân ý hoặc được thực hiện.

1.4. Về bãi miễn

Bãi miễn là việc cử tri bỏ phiếu quyết định về việc bãi miễn (chấm dứt vai trò) một đại biểu dân cử. Giống như hai dạng thức sáng kiến công dân và sáng kiến ​​chương trình nghị sự, để tổ chức bỏ phiếu bãi miễn một đại biểu dân cử, người đề xuất phải thu thập đủ số lượng tối thiểu chữ ký ủng hộ theo luật định, tuy nhiên, điểm khác đó là kết quả của việc bỏ phiếu bãi miễn luôn luôn có hiệu lực ràng buộc pháp lý với các chủ thể liên quan. Trong số các hình thức dân chủ trực tiếp, bãi miễn đại biểu dân cử gây nhiều tranh cãi nhất. Những học giả ủng hộ thủ tục này cho rằng nó giúp nâng cao trách nhiệm giải trình và mối liên hệ giữa các quan chức dân cử với cử tri, tuy nhiên, theo quan điểm của một số học giả khác, thủ tục này có tác động tiêu cực vì gây nên sự đối đầu nghiêm trọng, phá vỡ công việc bình thường của các quan chức dân cử, và thường bị các nhóm đối lập lợi dụng để cố gắng thay đổi cơ cấu tổ chức của chính quyền. Chính vì vậy, bãi miễn hiện ít được áp dụng nhất trong số các hình thức dân chủ trực tiếp.

2. Các hình thức thực thi dân chủ trực tiếp ở Việt Nam

2.1. Trưng cầu ý dân

Điều 29 Hiến pháp năm 2013 xác định: Công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân. Ở Việt Nam, về mặt pháp lý, theo Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Quốc hội, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền quyết định việc trưng cầu ý dân. Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về trưng cầu ý dân thấy rằng, các quy định này còn nhiều hạn chế, chưa đủ cơ sở để có thể triển khai tổ chức thực hiện được việc trưng cầu ý dân trên thực tế. Mặt khác, mặc dù về mặt nguyên lý, trưng cầu ý dân có nhiều ưu thế hơn so với các hình thức dân chủ đại diện, nhưng về mặt thực tiễn, việc thực hiện nó có thể gặp rất nhiều phức tạp. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà nghiên cứu và nhiều chính khách còn lo ngại về việc thực hiện biện pháp này. Trong điều kiện ở nước ta hiện nay, các điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, trình độ chính trị – pháp lý của nhân dân… mặc dù, không phải là không có cơ sở để thực hiện, nhưng so với nhiều nước khác, rõ ràng cũng không phải là hoàn toàn thuận lợi. Do đó, việc vừa làm, vừa tổng kết, rút kinh nghiệm, nghiên cứu những việc gì cần trưng cầu ý dân, những vấn đề gì không nên trưng cầu; điều kiện, hoàn cảnh nào thuận lợi và không thuận lợi cho việc trưng cầu; cách thức trưng cầu ra sao, đưa ra một phương án hỏi người dân đồng ý hay không không đồng ý hay đưa ra hai hoặc nhiều phương án để người dân lựa chọn; nếu không được đa số phiếu tán thành thì xử lý như thế nào… là rất cần thiết.

2.2. Tham gia quản lý nhà nước và xã hội

Sự tham gia của nhân dân vào công việc quản lý nhà nuớc và xã hội đã được khẳng định trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước, được hiến định tại Điều 28 Hiến pháp năm 2013 và được cụ thể hóa qua các đạo luật như Luật Bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân; Luật Tổ chức Quốc hội; Luật Tổ chức Chính phủ; Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Luật Khiếu nại; Luật Tố cáo; Luật Phòng, chống tham nhũng… Trong các đạo luật nêu trên đều có quy định cụ thể về điều kiện, hình thức, phương thức để nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước và xã hội. Luật về các tổ chức chính trị – xã hội như: Luật Công đoàn, Luật Thanh niên, Luật Mặt trận Tổ quốc… đã cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội tham gia công việc quản lý nhà nước và xã hội. Theo quy định của Hiến pháp, nhân dân có quyền quyết định các vấn đề hệ trọng của đất nước thông qua trưng cầu ý dân và trực tiếp quyết định nhiều vấn đề liên quan đến đời sống ở cơ sở. Ngoài những hình thức nêu trên, người dân có thể tham gia ý kiến vào các văn bản pháp luật thông qua các phương tiện truyền thông… Để mở rộng, phát huy vai trò của nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước, trước hết cần tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức của nhân dân về vai trò phát huy dân chủ trực tiếp của nhân dân. Mặt khác, nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia tích cực vào hoạt động quản lý nhà nước như tiếp tục mở rộng hơn nữa các hình thức và phương thức để nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước bằng cách ban hành một số văn bản pháp luật có liên quan như Luật Giám sát và phản biện xã hội, Luật Tiếp cận thông tin. Đồng thời, tăng cường cung cấp thông tin, nâng cao trình độ dân trí, bảo đảm để người dân thực hiện quyền làm chủ khi tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước và xã hội.

2.3. Bãi miễn đại biểu dân cử

Quyền bãi miễn là quyền có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện chế độ dân chủ. Thông qua hình thức này, nhân dân thể hiện sự bất tín nhiệm của mình đối với những đại biểu dân cử không hoàn thành sứ mệnh là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của họ. Quyền bãi miễn xuất phát từ nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, quyền lực của nhân dân là tối thượng, là quyền lực gốc. Nhân dân có thể trực tiếp thực hiện quyền lực của mình hoặc gián tiếp thông qua những đại biểu dân cử. Việc các đại biểu dân cử thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực chất là thực hiện quyền lực do nhân dân giao cho, uỷ thác cho. Chế độ dân chủ sẽ không thể triệt để và hoàn toàn nếu nhân dân chỉ bầu ra những đại biểu của mình mà lại không có quyền bãi miễn các đại biểu đó khi họ không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Tuy nhiên, trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác không có quy định nào nêu rõ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phạm phải hành vi nào thì sẽ bị coi là không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Vì vậy, việc thực hiện chế độ cử tri bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân trong thực tế là rất khó khăn. Ngay cả cơ sở pháp lý cho hoạt động Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người vừa là đại biểu Quốc hội vừa giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn cũng chưa được cụ thể và rõ ràng. Với chỉ một số ít điều quy định trong Hiến pháp, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật Tổ chức Quốc hội như hiện nay, chúng ta chưa có đủ cơ sở pháp lý rõ ràng cho việc thực hiện chế độ bãi nhiệm đại biểu dân cử. Trong thực tế, việc bãi nhiệm đại biểu dân cử kể cả bởi cử tri hay bởi Quốc hội và Hội đồng nhân dân đều rất lúng túng và không khả thi. Như vậy, những quy định pháp luật hiện nay về vấn đề bãi miễn đại biểu dân cử là chưa tương xứng với tầm quan trọng của hình thức dân chủ này. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, chế độ bãi miễn đại biểu cũng có ý nghĩa chính trị và pháp lý quan trọng như chế độ cử tri bầu ra người đại biểu của mình. Vì vậy, thủ tục bãi miễn cũng phải tuân theo những trình tự luật định rõ ràng thì mới có khả năng thực thi trên thực tế.

2.4. Nhân dân giám sát hoạt động của Nhà nước, cơ quan nhà nước, cán bộ,công chức nhà nước

Giám sát quyền lực nhà nước là một hoạt động đặc biệt quan trọng trong việc quản lý nhà nước, giúp cho việc quản lý, điều hành các hoạt động nhà nước theo một định hướng thống nhất, nhằm hạn chế hành vi vượt quá giới hạn pháp luật trong thực thi quyền lực của các chủ thể quyền lực nhà nước. Giám sát là tiền đề, điều kiện khách quan cho việc củng cố kỷ luật, kỷ cương, pháp chế nhằm đảm bảo những điều kiện khách quan trong việc thực thi dân chủ. Việc giám sát xã hội đối với tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước đã hình thành và phát triển từ khi Nhà nước dân chủ nhân dân được thiết lập cho đến nay. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định toàn bộ quyền lực nhà nước là của dân, chịu sự giám sát của nhân dân và các cơ quan quyền lực dân cử. Tuy nhiên, việc nhân dân giám sát các cơ quan quyền lực nhà nước hầu như thực hiện còn rất hạn chế, mang nặng tính hình thức, chưa phát huy được tính tích cực chính trị của nhân dân đối với các cơ quan quyền lực do chính nhân dân bầu ra, do nhân dân ủy quyền. Nhà nước Việt Nam mặc dù đề cao quản lý xã hội bằng pháp luật nhưng tri thức và kinh nghiệm giám sát quyền lực còn ít và mới chỉ là bước đầu; nhân dân chưa thực sự chủ động, tích cực tham gia thực hiện vai trò là các chủ thể giám sát các cơ quan nhà nước. Chính vì vậy, hệ thống giám sát với nhiều hình thức, công cụ cần không ngừng được củng cố, hoàn thiện nhằm tạo điều kiện để nhân dân có khả năng giám sát một cách có hiệu quả, khoa học đối với tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước.

2.5. Nhân dân thực hiện dân chủ ở cơ sở

Quy chế dân chủ cơ sở nhằm bảo đảm cho người dân thực hiện quyền làm chủ của mình trực tiếp ở cơ sở nơi cư trú và cơ quan, đơn vị công tác. Tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Đảng về mở rộng dân chủ, dân chủ trực tiếp được cụ thể hoá và đưa vào khá nhiều trong các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản của các tổ chức chính trị – xã hội. Quá trình thực hiện cải cách hành chính gắn với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đang được tiến hành đồng bộ, rộng rãi. Qua quá trình triển khai thực hiện dân chủ ở cơ sở, thực tế đã cho thấy kết quả bước đầu là rất quan trọng. Tuy nhiên, quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm. Không ít trường hợp việc thực hành dân chủ còn mang tính hình thức, có nơi, có lúc còn biểu hiện lợi dụng dân chủ, khiếu kiện đông người, vượt cấp hoặc gây mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Tình trạng quan liêu, không thực sự tôn trọng dân chủ còn khá nặng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, có biểu hiện quan liêu, xa dân ngay từ cơ sở. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chậm đi vào cuộc sống. Chỉ thị 30-CT/TW ngày 18/02/1998 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở đã khẳng định: Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Dân chủ ở xã, phường là thực hiện những nội dung dân chủ một cách trực tiếp và rộng rãi, đến với từng người dân nhằm phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, trật tự công cộng.

Về mặt pháp lý, để điều chỉnh việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Nhà nước ta đã ban hành Pháp lệnh về dân chủ ở xã, phường, thị trấn vào năm 2007. Pháp lệnh này đã tạo cơ sở pháp lý tương đối toàn diện cho việc thực hiện dân chủ trực tiếp ở cơ sở. Tuy nhiên, trong giai đoạn tới, cần nghiên cứu nâng cấp Pháp lệnh này (đồng thời hợp nhất với các văn bản pháp luật khác về thực hành dân chủ ở cơ sở) thành Luật về dân chủ ở cơ sở. Ngoài những nội dung đã được chứng minh là phù hợp trong Pháp lệnh hiện hành, Luật về dân chủ ở cơ sở cần hướng vào việc tăng cường các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp tại cấp cơ sở, cụ thể như: Tăng số lượng các công việc mà cấp chính quyền cơ sở phải thông tin, thảo luận với người dân; củng cố cơ chế chính quyền cơ sở; tiếp thu các ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, nâng cao hiệu lực pháp lý của việc tiếp thu ý kiến nhân dân đóng góp; tăng cường vai trò và các hình thức giám sát của nhân dân đối với các cơ quan trong hệ thống chính trị cơ sở, đặc biệt là các cơ quan dân cử và hội đồng nhân dân; bổ sung những hình thức dân chủ trực tiếp mới, đã được áp dụng trên thế giới như sáng kiến chương trình nghị sự.

ThS. Hoàng Thị Thu Thủy

Học viện Chính trị Khu vực 3 tại Đà Nẵng

Tài liệu tham khảo:

[1]. Xem IDEA, Direct Democracy: The International IDEA Handbook, 2008, tr. 12, nguồn: http://www.idea.int/ publications/direct_democracy/.

[2]. Xem IDEA, Direct Democracy: The International IDEA Handbook, 2008, tr. 85-87.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thực trạng quy định và áp dụng Bộ luật Hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực tài chính – Những vấn đề cần được sửa đổi

30/10/2015

Trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay, Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009 đóng vai trò quan trọng. Bộ luật Hình sự không chỉ là văn bản duy nhất quy định về tội phạm và hình phạt mà còn là cơ sở pháp lý để Tòa án xét xử và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ chế độ, bảo vệ trật tự pháp luật, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân.

Có thể khẳng định rằng, trong những năm qua, mặc dù tình hình tội phạm có sự gia tăng về số lượng, phức tạp về tính chất và hành vi song hầu hết các tội phạm xảy ra đều đã được xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng người đúng tội và đúng pháp luật. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng Bộ luật Hình sự đang nổi lên những vấn đề mà bản thân Bộ luật Hình sự chưa theo kịp với thực tiễn, gây khó khăn, lúng túng cho công tác truy tố và xét xử tội phạm trong đó có các tội phạm trong lĩnh vực tài chính. Bài viết này xin được chỉ ra thực trạng các quy định của Bộ luật Hình sự về tội phạm trong lĩnh vực tài chính, thực tiễn áp dụng và ý kiến, quan điểm của cá nhân về sửa đổi, bổ sung hoàn thiện Bộ luật Hình sự phần quy định về tội phạm tài chính.

1. Thực trạng quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành về tội phạm tài chính

Trong phần các tội phạm, Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế tại chương XVI với 29 tội (từ Điều 133 đến Điều 181). Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã thay đổi tên gọi các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là các tội xâm phạm trật tự với 35 tội (từ Điều 153 đến Điều 181c). Như vậy, các tội phạm tài chính được quy định trong các tội xâm phạm trật tự và trong đó đã sửa đổi, bổ sung một số điều sau đây:

Sửa Điều 161 quy định về tội trốn thuế, nâng mức định lượng của tội trốn thuế cho phù hợp với thực tiễn. Bổ sung 6 tội mới xâm phạm về trật tự, trong đó có 5 tội về lĩnh vực tài chính – kế toán: Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước (Điều 164a); tội vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước (Điều 164b); tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán (Điều 181a); tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán (Điều 181b); tội thao túng giá chứng khoán (Điều181c).

Như vậy, với việc sửa đổi và bổ sung các tội trong lĩnh vực tài chính đã làm nền tảng, cơ sở pháp lý quan trọng cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đấu tranh, xét xử các tội phạm trong lĩnh vực này. Vì một trong những nguyên tắc cơ bản để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người pham tội là: “Chỉ người nào phạm tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự” (Điều 2). Do vậy, cơ sở để xác định và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong lĩnh vực tài chính phải được Bộ luật Hình sự luật hóa. Tuy nhiên, với phạm vi sửa đổi, bổ sung hẹp nên Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009 chưa bao quát hết các tội phạm, các tình tiết, các dấu hiệu và đặc biệt có nhiều tội phạm mới xuất hiện trong lĩnh vực tài chính với tính chất mức độ ngày càng đa dạng phức tạp, thủ đoạn tinh vi đã và đang gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. Đây là một trong những vướng mắc, thách thức lớn cho công tác phòng, chống và xử lý tội phạm trong lĩnh vực tài chính trong bối cảnh hệ thống pháp luật hình sự hiện hành chưa theo kịp, chưa có những thay đổi thích ứng và các hành vi phạm tội mới trong giai đoạn hiện nay chưa được quy định trong Bộ luật Hình sự, trong đó có nhiều hành vi đặc biệt nguy hiểm và gây hậu quả nghiêm trọng như: Các hành vi mua bán, sử dụng hóa đơn, chứng từ trái phép; các hành vi thao túng ngân hàng thương mại, hành vi mua bán khống chứng khoán; gian lận hoàn thuế xuất nhập khẩu thông qua việc chuyển giá, trốn thuế trong việc tạm nhập, tái xuất hàng hóa, gian lận thuế trong kinh doanh tư vấn pháp luật; gian lận trong định giá tài sản; sử dụng công nghệ cao rút tiền từ ngân hàng, rút tiền từ máy rút tiền ATM…

2. Về thực tiễn xét xử các tội phạm trong lĩnh vực tài chính

Quá trình xét xử cho thấy, từ năm 2010 đến nay số vụ án về kinh tế, đặc biệt là các vụ án trong lĩnh vực tài chính ngân hàng có chiều hướng gia tăng về số lượng, tinh vi về thủ đoạn, gây hậu quả rất nghiêm trọng và thiệt hại lớn cho xã hội. Hầu hết các vụ án này đều có tổ chức với sự tham gia, tiếp tay của cán bộ nhân viên trong ngành tài chính, ngân hàng. Theo báo cáo của ngành Tòa án, năm 2010, đã thụ lý 963 vụ án kinh tế với 1.969 bị cáo, đã giải quyết 925 vụ với 1.876 bị cáo và đưa ra xét xử 803 vụ với 1.465 bị cáo. Năm 2011 đã thụ lý 965 vụ án kinh tế với 1.797 bị cáo, đưa vào giải quyết 933 vụ với 1.718 bị cáo và đã xét xử 845 vụ với 1.422 bị cáo. Chỉ riêng từ tháng 01/2012 đến tháng 7/2012, đã khởi tố 163 vụ với 275 bị can về tội tham nhũng, trong đó tham ô tài sản 59 vụ với 97 bị can, lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản 22 vụ với 34 bị can[1]. Trong các vụ án về kinh tế được giải quyết và đưa ra xét xử có nhiều vụ án về tài chính ngân hàng (tuy nhiên trong quá trình xét xử không tách riêng tội phạm về tài chính mà gọi chung là tội phạm về kinh tế).

Qua tổng kết công tác xét xử tội phạm về tài chính, ngân hàng cho thấy các tội phạm trong lĩnh vực này có 2 nhóm đối tượng vi phạm: Nhóm đối tượng là cán bộ của ngành và nhóm đối tượng ngoài ngành có sự móc nối với cán bộ trong ngành để phạm tội. Về hành vi có 2 dạng: Dạng thứ nhất cố ý, chủ động phạm tội và dạng thứ hai là do bị lôi kéo, mua chuộc dẫn đến phạm tội. Đối với nhóm đối tượng ngoài ngành hành vi chủ yếu là lừa đảo, thông đồng, cấu kết, có sự tiếp tay của cán bộ để lập hồ sơ, chứng từ giả mạo, chứng từ khống để tham ô, chiếm đoạt tiền, tài sản hoặc lợi dụng sơ hở trong quản lý của các cơ quan tổ chức để phạm tội như tội làm giả thẻ tín dụng để rút tiền, đột nhập vào mạng ngân hàng, ăn cắp mật khẩu, đầu tư tài chính qua mạng… Trong quá trình xét xử phần lớn các tội phạm về tài chính được xét xử về các tội như: Lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm, tham ô, tham nhũng, cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế, tội thiếu tinh thần trách nhiệm…Những tội phạm nàyđã gây thiệt hại cho xã hội với con số khổng lồ hàng nghìn tỷ đồng nhưng cũng chỉ áp dụng được hình phạt là tù đối với nhân thân người phạm tội, còn thiệt hại Nhà nước, cá nhân, tổ chức phải gánh chịu vì không có khả năng thu hồi hoặc con số thu hồi được cũng chiếm tỷ lệ khá nhỏ so với con số thiệt hại gây ra.

Mặt khác, mỗi một tội phạm điều có các dấu hiệu, cấu thành và tình tiết khác nhau, do vậy nếu quy các tội phạm trong lĩnh vực tài chính xét xử như các tội lừa đảo, tham ô, tham nhũng… sẽ làm mất đi bản chất của các tội trong lĩnh vực tài chính và nguy cơ bỏ sót tội phạm, bỏ sót người phạm tội, công tác đấu tranh phòng chống và giải quyết tội phạm trong lĩnh vực này sẽ trở nên khó khăn phức tạp.

Cùng với sự phát triển của kinh tế – xã hội, hội nhập quốc tế, sự gia tăng, xuất hiện các tội phạm mới trong lĩnh vực tài chính và qua thực tiễn xét xử tội phạm này thời gian qua đã và đang đặt ra vấn đề phải có một Bộ luật Hình sự hoàn chỉnh, đồng bộ, bao quát hết các tội phạm đặc biệt là các tội phạm trong lĩnh vực tài chính nhằm bảo đảm trật tự, an toàn cho nền tài chính trong tình hình mới. Do vậy việc sửa đổi, bổ sung một cách căn bản, toàn diện với phạm vi rộng Bộ luật Hình sự hiện hành là vấn đề cấp thiết và luôn mang tính thời sự. Với quan điểm cá nhân, tôi xin được mạnh dạn đề xuất sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự với các tội phạm về tài chính sau đây:

Thứ nhất, cần phân định rõ ràng ranh giới giữa tội phạm và vi phạm pháp luật khác nhất là vi phạm pháp luật hành chính theo nguyên tắc không hình sự hóa tất cả các vi phạm pháp luật. Để đáp ứng yêu cầu này, cần phải xác định rõ các dấu hiệu, các tình tiết và đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, một số hành vi vi phạm pháp luật cần được định lượng cụ thể. Đối với những hành vi vi phạm pháp luật tài chính nếu đủ các dấu hiệu, các yếu tố cấu thành tội phạm thì kiên quyết phải được quy định trong Bộ luật Hình sự.

Thứ hai, quy định thành một chương độc lập các tội phạm về kinh tế và chia ra thành các nhóm tội như: Các tội xâm phạm trật quản lý kinh tế; các tội trong lĩnh vực tài chính, kế toán.

Thứ ba, bổ sung thêm các tình tiết, mở rộng dấu hiệu của một số tội về tài chính đã quy định trong Bộ luật Hình sự ví dụ như: Tội trốn thuế nên quy định thêm tình tiết của hành vi tạm nhập, tái xuất, hành vi chuyển giá… vì động cơ, mục đích của các hành vi này là nhằm trốn thuế. Hoặc tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của tổ chức tín dụng cần bổ sung các quy định định lượng để xác định hậu quả nghiêm trọng và hậu quả đặc biệt nghiêm trọng của tội này. Hay tội cho vay nặng lãi cũng cần bổ sung theo hướng mở rộng thêm các tình tiết, các dấu hiệu và định lượng cụ thể để làm cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hoạt động tín dụng đen hiện nay.

Thứ tư, bổ sung các tội phạm mới trong lĩnh vực tài chính, kế toán thành nhóm tội bao gồm: Tội in, sử dụng hóa đơn chứng từ kế toán giả mạo, tội mua bán khống chứng khoán, tội thao túng ngân hàng, tội gian lận trong định giá tài sản gây hậu quả nghiêm trọng, tội chiếm đoạt tiền thuế, tội cố ý làm sai lệch báo cáo kiểm toán, tội làm thẻ tín dụng giả.

Thứ năm, các nước trên thế giới đều quy định trách nhiệm hình sự đối với tổ chức là pháp nhân. Ở Việt Nam, theo thống kê hiện nay, có khoảng 600.000 doanh nghiệp, ngoài ra còn có các ngân hàng thương mại, các Hợp tác xã. Các tổ chức kinh tế này được xác nhận có tư cách pháp nhân kể từ thời điểm được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Một thực tế cho thấy, các tội phạm trong lĩnh vực tài chính xảy ra đều có liên quan và bắt nguồn từ hoạt động của các tổ chức kinh tế. Nhưng Bộ luật Hình sự hiện hành chỉ quy định và áp dụng trách nhiệm hình sự đối với cá nhân, chính điều này đã gây khó khăn, lúng túng cho cơ quan điều tra, xét xử khi hầu hết các vụ án về tài chính đều có liên quan đến pháp nhân là các ngân hàng, các công ty chứng khoán, các doanh nghiệp. Do vậy, cần phải quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong Bộ luật Hình sự làm căn cứ để truy cứu và áp dụng trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân. Tuy nhiên, để áp dụng trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân cần phân định và tách biệt rõ ràng hành vi phạm tội của cá nhân và pháp nhân.

Thứ sáu,một vấn đề quan trọng là phải kiên quyết xử lý khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật có đủ các dấu hiệu, các yếu tố cấu thành tội phạm tài chính và để làm được điều này cần có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan: Cơ quan Điều tra, cơ quan Kiểm sát và cơ quan Xét xử. Vì khi Bộ luật Hình sự được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện thì việc áp dụng Bộ luật Hình sự chỉ là giai đoạn cuối cùng trong quá trình tố tụng. Do vậy, một vụ án trong lĩnh vực tài chính có được đưa ra xét xử hay không, xét xử như thế nào là bài toán chỉ có thể tìm ra đáp số ở hiệu lực, hiệu quả của hoạt động điều tra, kiểm sát và xét xử.

TS. Hoàng Thị Giang

Học viện Tài chính



[1] Theo báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Góp ý điều khoản phạt hợp đồng và mối liên hệ với bồi thường thiệt hại trong dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)

07/10/2015

Phạt hợp đồng là nội dung có ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của các bên trong quan hệ hợp đồng. Quy định về vấn đề này ở các nước theo truyền thống án lệ (như Anh, Mỹ) khác với các nước theo dân luật (như Pháp, Đức). Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 và Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) (Dự thảo) có cách tiếp cận “hỗn hợp”, tuy nhiên, chính điều này đã gây ra những bất cập cho việc áp dụng và bảo đảm quyền lợi của các bên trong hợp đồng.

1. Luật Anh, Mỹ về bồi thường thiệt hại và phạt hợp đồng

Theo thông luật Mỹ, thiệt hại được bồi thường theo nguyên tắc nhằm để bù đắp tổn thất và nhằm đặt các bên vào vị trí của họ giả sử nếu hợp đồng được thực hiện và được phân thành một số loại thiệt hại[1]. Tòa án Mỹ không chấp nhận những bồi thường mang tính trừng phạt (punitive damages) trong vi phạm hợp đồng kể cả đối với cố ý vi phạm (deliberate breach of contract) mà chỉ áp dụng đối với bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng[2]. Trong trường hợp nếu các bên trong hợp đồng có thỏa thuận điều khoản tổn thất do vi phạm hợp đồng (liquidated damages) trong đó ấn định một khoản bồi thường thiệt hại mà bên vi phạm hợp đồng phải trả cho bên bị vi phạm, Tòa án sẽ không chấp nhận điều khoản này nếu chỉ nhằm để trừng phạt hành vi vi phạm hợp đồng hơn là việc ấn định một khoản bồi thường thiệt hại được ước đoán một cách hợp lý những tổn thất thực tế. Tòa án sẽ chấp nhận điều khoản “liquidated damages” nếu nó thể hiện sự hợp lý trong việc ước đoán thiệt hại tương lai hay những thiệt hại thực tế đã xảy ra trên cơ sở những thông tin có tại thời điểm giao kết hợp đồng kể cả khi thiệt hại thực tế gây ra bởi vi phạm hợp đồng là ít hoặc thậm chí không xảy ra. Tuy nhiên, sự khác biệt lớn giữa thiệt hại được thỏa thuận trong “liquidated damages” và những thiệt hại thực tế xảy ra có thể là cơ sở để Tòa án xem xét kỹ lưỡng hơn hoàn cảnh các bên đã dự tính thiệt hại. Tòa án sẽ xem xét những chứng cứ thể hiện rằng khi giao kết hợp đồng các bên quan tâm đến việc ước tính thiệt hại hay là với việc nhằm ép buộc thực hiện nghĩa vụ bằng việc phạt.

Quy định này trong án lệ được chuyển tải lại trong Bộ luật Thương mại thống nhất (the Uniform Commcercial Code-UCC) và trong Tập hợp các nguyên tắc của án lệ về hợp đồng (Restatement 2d Contract)[3].

Triết lý cho việc loại trừ những khoản bồi thường mang tính phạt trong luật án lệ của Mỹ dựa trên cơ sở trật tự công và hiệu quả kinh tế[4]. Tuy nhiên, triết lý này gặp phải sự chỉ trích vì cho rằng không phải vi phạm hợp đồng nào cũng mang tính hiệu quả kinh tế, kể cả trong trường hợp đó là vi phạm hiệu quả (efficient breach) thì nó cũng thể hiện sự ích kỷ trong việc điều phối nguồn lợi và nó làm thiệt hại đến những giá trị của cộng đồng[5].

Luật của các nước theo án lệ khác như Anh, Úc, Canada cũng có quy định tương tự đối với bồi thường thiệt hại mặc dù cách tính thiệt hại có một số khác biệt ở các quốc gia[6], nhưng đều có cùng quan điểm đối với “liquidated damages” và không cho phép sử dụng “liquidated damages” cho mục đích trừng phạt[7]. Tòa án Anh sẽ xem xét ý định của các bên để xem xem liệu điều khoản thỏa thuận là nhằm tính toán trước những thiệt hại hay là nhằm trừng phạt bên có lỗi trong vi phạm hợp đồng. Nói cách khác, Tòa án sẽ xem xét kỹ lưỡng con số mà các bên đã thỏa thuận khi đàm phán và giao kết hợp đồng nhằm bảo đảm rằng nó không quá nhiều và vô lương tâm so với những thiệt hại nhiều nhất có thể chứng minh được khi có vi phạm hợp đồng[8]. Tuy nhiên, từ năm 1989, Tòa án Anh thiết lập một án lệ mới, theo đó, điều khoản phạt hợp đồng không bị xóa bỏ khỏi hợp đồng mà vẫn tồn tại trong hợp đồng và có thể kiện dựa trên điều khoản đó, tuy nhiên, điều khoản này sẽ không được thực thi vượt ngoài số tiền thể hiện thiệt hại thực tế của bên bị thiệt hại[9]. Bằng việc giảm thỏa thuận phạt đến con số tương đương với thiệt hại thực tế, Tòa án Anh đã thể hiện quan điểm gần với các nước theo hệ thống dân sự, khi hầu hết những nước này cho phép Tòa án có quyền giới hạn lại điều khoản phạt quá đáng.

2. Luật Pháp, Đức về bồi thường thiệt hại và phạt hợp đồng

Bộ luật Dân sự Pháp[10] quy định về bồi thường thiệt hại do không thực hiện nghĩa vụ từ Điều 1146 đến Điều 1155, trong đó quy định về loại và cách tính phần thiệt hại có thể yêu cầu bồi thường. Đối với bồi thường trong hợp đồng, về nguyên tắc, luật Pháp cho phép được yêu cầu bồi thường những thiệt hại trực tiếp gồm tổn thất thực tế và khoản lợi đáng lẽ được hưởng nếu không vi phạm hợp đồng. Trong đó đáng lưu ý là Điều 1152 cho phép đương sự thỏa thuận một khoản bồi thường thiệt hại mà bên vi phạm nghĩa vụ sẽ phải trả cho bên kia, tuy nhiên, điều luật cũng cho phép Tòa án được quyền tự quyết để tăng hoặc giảm con số đó nếu nó rõ ràng quá cao hoặc quá thấp. Điều khoản phạt hợp đồng (Clause Pénal) được điều chỉnh từ Điều 1226 đến Điều 1233, trong đó, Điều 1226 định nghĩa “Clause Pénal” là điều khoản mà một bên, nhằm bảo đảm việc thực hiện một thỏa thuận, tự ràng buộc mình vào điều khoản đó trong trường hợp không thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, Điều 1229 lại diễn giải “Clause Pénal” như là điều khoản bồi thường thiệt hại mà một bên phải gánh chịu do việc bên kia không thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng (non-performance), trong đó khoản 2 Điều 1229 quy định bên bị vi phạm không được đồng thời yêu cầu bồi thường thiệt hại đã thỏa thuận và yêu cầu thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, trừ khi thỏa thuận bồi thường là chỉ nhằm áp dụng cho việc chậm thực hiện nghĩa vụ. Điều này được diễn giải là “Clause Pénal” nhằm quy định một sự bù đắp duy nhất (sole redress), theo nghĩa là một biện pháp khắc phục riêng biệt (exclusive remedy) trong trường hợp vi phạm[11]. Có thể nói “Clause Pénal” trong luật Pháp mang hai chức năng: Một là mang tính răn đe, ngăn ngừa vi phạm và trừng phạt khi có vi phạm; hai là mang tính bồi thường thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ[12]. Như vậy, bản chất của “Clause Pénal” trong luật của Pháp mang ý nghĩa tương đương như “liquidated damages” trong thông luật của Anh, Mỹ với hai điểm khác biệt: (i) Nó có thể dùng để “trừng phạt” cho việc không thực hiện nghĩa vụ và (ii) Nó có thể bị điều chỉnh lên hoặc xuống bởi Tòa án (hoặc trọng tài) trong những trường hợp nhất định[13]. Đối với việc điều chỉnh con số thỏa thuận trong “Clause Pénal”, thực tế Tòa án Pháp trong đa số các trường hợp áp dụng cách kiểm tra khách quan (objective test) và hồi tố (reprospective test), theo đó, Tòa án sẽ so sánh giữa con số thỏa thuận và thiệt hại thực tế. Tòa án sẽ thông thường giữ lại một phần bồi thường mang tính trừng phạt (extra-compensatory) khi xem xét việc giảm mức thỏa thuận bồi thường trong “Clause Pénal”khi nó rõ ràng quá nhiều (manifestly excessive) để phù hợp với ý định ngăn ngừa vi phạm của các bên khi thỏa thuận “Clause Pénal”[14].

Triết lý của luật Pháp là tôn trọng quyền tự do thỏa thuận và tự quyết của các bên trong quan hệ hợp đồng, do đó Bộ luật Dân sự khi ban hành năm 1804 đã ghi nhận mức thỏa thuận bồi thường của các bên phải được tôn trọng[15]. Tuy nhiên, từ năm 1975, Bộ luật Dân sự được bổ sung quy định quyền của Tòa án được tự quyết trong việc xem xét tăng hoặc giảm mức bồi thường thỏa thuận khi nó rõ ràng quá cao hoặc quá thấp[16] nhằm kiểm soát trường hợp một bên có ưu thế hơn trong quan hệ hợp đồng áp đặt mức bồi thường quá đáng đối với bên kia.

Theo luật của Đức[17], bên có quyền chỉ được yêu cầu bồi thường thiệt hại (như một biện pháp khắc phục) nếu hội đủ một số điều kiện[18]. Điều khoản phạt hợp đồng được điều chỉnh từ Điều 339 đến Điều 345. Phạt hợp đồng được hiểu như là công cụ nhằm khuyến khích bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ, hay nói cách khác, có chức năng ngăn ngừa vi phạm (bao gồm không thực hiện nghĩa vụ và thực hiện không đúng nghĩa vụ). Khi một bên không thực hiện nghĩa vụ, hoặc khi thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bị vi phạm có thể yêu cầu khoản bồi thường này mà không cần phải chứng minh thiệt hại, còn nếu bên bị vi phạm có thể chứng minh thiệt hại nhiều hơn mức phạt đó thì chỉ có thể yêu cầu mức thiệt hại tối đa đó (không được yêu cầu thêm con số phạt đã thỏa thuận)[19]. Có thể nói, khi không có thiệt hại thì điều khoản phạt thực hiện chức năng ngăn ngừa, răn đe, nhưng khi có thiệt hại thì mức phạt đó trở thành mức bồi thường tối thiểu và bên bị vi phạm có quyền yêu cầu thêm phần chênh lệch nếu có thiệt hại thực tế lớn hơn. Tòa án được quyền xem xét việc giảm mức phạt theo yêu cầu của bên có nghĩa vụ nếu mức phạt là quá cao[20].

3. Phạt hợp đồng trong công ước và các bộ nguyên tắc về hợp đồng của các tổ chức quốc tế

Do có sự khác biệt trong việc áp dụng điều khoản thỏa thuận số tiền được ấn định trước khi có vi phạm nghĩa vụ, các tổ chức quốc tế liên chính phủ và phi chính phủ đã có những cố gắng trong việc đưa ra các quy định mang tính hướng dẫn áp dụng thống nhất vấn đề này. Có thể kể đến các văn bản ban hành của các tổ chức quốc tế quan trọng sau:

Hội đồng châu Âu (Council of Europe), năm 1971, ban hành Nghị quyết về điều khoản phạt (Resolution on Penalty Clauses)[21] với mục đích đề xuất việc áp dụng thống nhất điều khoản phạt trong các nước thành viên. Tại Điều 7 quy định Tòa án có thể giảm số tiền thỏa thuận phạt nếu nó rõ ràng quá cao, hoặc nếu một phần nghĩa vụ chính của hợp đồng được thực hiện. Trong Bản giải thích (Explanationary Memorandum) Nghị quyết này có nêu rõ những cơ sở có thể dùng để đánh giá con số phạt là rõ ràng quá cao: i) So sánh thiệt hại được ước tính với thiệt hại thực tế; ii) Lợi ích hợp pháp của các bên bao gồm những lợi ích không bằng tiền (non pecuniary) của bên bị vi phạm; iii) Loại hợp đồng và hoàn cảnh giao kết của hợp đồng, với lưu ý vào vị trí kinh tế, xã hội của các bên; iv) Xem đó có phải là hợp đồng mẫu hay không (Standard-form contract); v) Và hành vi vi phạm có phải là gian trá hay ngay tình (bad faith hay good faith).

Trong Công ước của Liên Hợp Quốc về mua bán hàng hóa quốc tế (CISG), Điều 4 được vận dụng để giải thích rằng tính hiệu lực của điều khoản phạt sẽ được quyết định bởi luật quốc gia (National law)[22]. Hội đồng tư vấn của CISG cũng cho rằng, luật quốc gia sẽ áp dụng đối với điều khoản về số tiền được thỏa thuận trước (agreed sums) bởi vì CISG không đề cập đến vấn đề tính hiệu lực của những thỏa thuận đó[23]. Điều đó có nghĩa là, nếu trong trường hợp có sự vi phạm nghĩa vụ, thì tính hiệu lực của điều khoản về số tiền thỏa thuận trước sẽ được xem xét theo luật của quốc gia được áp dụng và vì vậy, nó có thể có hiệu lực ở quốc gia này nhưng sẽ không ở quốc gia khác. Tuy nhiên, Hội đồng tư vấn của CISG cho rằng, cả hệ thống cấm điều khoản phạt (common law) và hệ thống áp dụng hình thức điều chỉnh giảm (civil law) trong việc quyết định việc thỏa thuận số tiền ấn định trước là thuần túy dự tính trước những thiệt hại, hay số tiền thỏa thuận trước đó là quá cao, phải áp dụng tiêu chuẩn quốc tế hơn là tiêu chuẩn quốc gia[24].

Trong Nguyên tắc thống nhất về những điều khoản của hợp đồng về thỏa thuận một số tiền phải trả trong trường hợp không thực hiện nghĩa vụ của UNCITRAL (Ủy ban của Liên Hiệp Quốc về Luật Thương mại quốc tế) (Uniform Rules on Contract Clauses for an Agreed Sum Due upon Failure of Performance), thỏa thuận của các bên trong hợp đồng về việc trả một số tiền trong trường hợp không thực hiện hợp đồng, về nguyên tắc, được chấp nhận, tuy nhiên, số tiền đó có thể bị giảm xuống bởi Tòa án nếu nó bất tương xứng đáng kể đối với thiệt hại thực tế[25].

Những tổ chức quốc tế khác như Viện Quốc tế về nhất thể hóa luật tư – UNIDROIT (International Institute for Unification of Private Law) cũng ban hành Bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế (Unidroit Principles of International Commercial Contracts), Bộ nguyên tắc hợp đồng của Châu Âu – PECL (Principles of European Contract Law), cũng có giải pháp tương tự như UNCITRAL Uniform Rules theo hướng tiếp cận của Civil Law trong đó chấp nhận thỏa thuận phạt với khả năng bị xem xét giảm xuống[26].

4. Bồi thường thiệt hại và phạt hợp đồng theo Bộ luật Dân sự năm 2005 và Dự thảo

Bồi thường thiệt hại được Dự thảo quy định trong các điều khoản sau: Điều 13, 369, 375, 376, 377, 378, 379 quy định về quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại khi có quyền dân sự bị vi phạm hoặc do có vi phạm nghĩa vụ dân sự và gây thiệt hại, phạm vi tính thiệt hại, miễn trừ… Riêng trong lĩnh vực hợp đồng có thêm quy định tại Điều 433và 434.

Điều 433 Dự thảo về thỏa thuận phạt vi phạm thực chất là nêu lại nguyên văn Điều 422 Bộ luật Dân sự năm 2005. Điều luật có sự mâu thuẫn trong cách thể hiện quan điểm: Thứ nhất,“Các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại”. Điều này có thể hiểu là khi có thỏa thuận phạt thì quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại vẫn là mặc định, nếu các bên muốn chỉ áp dụng điều khoản phạt mà không đặt vấn đề bồi thường thiệt hại thì phải nêu rõ trong thỏa thuận. Thứ hai, “… hoặc (có thể thỏa thuận) vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại. (xuống dòng) Trường hợp các bên không có thoả thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm”. Điều này có thể hiểu ngược lại là trong trường hợp có thỏa thuận phạt thì quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại không còn là quyền mặc nhiên nữa, nghĩa là nếu các bên vừa muốn phạt hợp đồng vừa muốn bồi thường thiệt hại thì phải nói rõ trong hợp đồng. Nếu chỉ thỏa thuận về phạt vi phạm và không có thỏa thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm. Như vậy, không thể đồng thời trong một điều khoản lại chứa đựng hai cách thể hiện quan điểm trái ngược nhau như vậy.

Nếu chọn cách thể hiện thứ nhất thì thỏa thuận phạt mang thuần túy ý nghĩa là phạt (penalty clause thuần túy phạt tương tự như luật của Đức). Nếu chọn cách thể hiện thứ hai thì thỏa thuận phạt bao gồm vừa yếu tố phạt, vừa yếu tố bù đắp thiệt hại (nếu có thiệt hại) và như vậy nó tương tự như điều khoản “clause Pénalcủa Pháp. Tuy nhiên trong cả hai cách thể hiện trên thì điều luật đều cho phép các bên thỏa thuận để chuyển penalty clause thuần túy thành “clause Pénal” (khi thỏa thuận chỉ phải nộp phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại)như của Pháp và ngược lại từ “clause Pénal” thành penalty clause thuần túy (khi thỏa thuận vừa nộp phạt vi phạm vừa bồi thường thiệt hại).

Khoản 3 của Điều trên cũng quy định, “nếu không có thoả thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại”. Điều này có thể hiểu là các bên có thể thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại trong hợp đồng tương tự như “liquidated damages” trong luật Anh, Mỹ.

Như vậy, chỉ trong một điều luật đã có sự pha trộn hỗn hợp nhiều cách tiếp cận, cộng với cách thể hiện mâu thuẫn như trên sẽ gây khó khăn và bất cập trong việc áp dụng. Do đó cần phải xem xét sửa đổi điều khoản này. Phần dưới đây sẽ phân tích các lựa chọn mà Việt Nam có thể xem xét:

Một là, giữa cách tiếp cận của Common Law là không chấp nhận thỏa thuận phạt vì trật tự công cộng và hiệu quả kinh tế và cách tiếp cận của Civil Law là tôn trọng quyền tự do định đoạt và tự quyết trong quan hệ hợp đồng thì Việt Nam vẫn nên theo truyền thống Civil Law là chấp nhận thỏa thuận phạt. Vì ngoài tính hiệu quả kinh tế (mà không phải lúc nào cũng xảy ra) thì cần bảo vệ giá trị đạo đức trong việc tôn trọng cam kết. Hơn nữa, mặc dù về lý thuyết, luật Anh, Mỹ không chấp nhận thỏa thuận phạt, nhưng thỏa thuận “liquidated damages” vẫn được Tòa án chấp nhận cả khi con số thỏa thuận lớn hơn thiệt hại hoặc thiệt hại thực tế không xảy ra, nếu thể hiện được rằng nó là sự ước tính hợp lý mà không phải nhằm trừng phạt. Bản thân triết lý này cũng bị chỉ trích và đề nghị thay đổi[27].

Hai là, nếu quan điểm của luật Việt Nam vẫn xem điều khoản phạt vi phạm hợp đồng thuần túy tách biệt với bồi thường thiệt hại, thì cần xem xét những vấn đề sau:

– Thỏa thuận này với chức năng là răn đe, ngăn ngừa vi phạm khi có vi phạm xảy ra chứ không phải là bù đắp tổn thất hay là biện pháp thay thế nghĩa vụ bị vi phạm thì đứng ở góc độ quan hệ dân sự nên cần có sự kiểm soát thỏa thuận này. Bởi vì, mặc dù Việt Nam cũng theo truyền thống Civil Law là tôn trọng quyền tự do thỏa thuận và tự quyết của các bên trong hợp đồng, nhưng là để ngăn ngừa việc các bên có thể lợi dụng điều khoản này mà thỏa thuận khoản phạt quá cao một cách vô lương tâm, đặc biệt trong trường hợp các bên trong hợp đồng có vị thế bất cân xứng như trong quan hệ hợp đồng với người tiêu dùng, người được bảo hiểm… Bản thân luật các nước Civil Law ban đầu là tôn trọng quyền tự do thỏa thuận và tự quyết của các bên (như Pháp, Đức) thì đều đã có thay đổi để hạn chế quyền này bằng việc trao quyền cho Tòa án được giảm mức phạt.

Trước đây, Điều 378 Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 1995 đã từng khống chế tỷ lệ phạt hợp đồng là không quá 5% giá trị nghĩa vụ bị vi phạm, đến Bộ luật Dân sự năm 2005 thì xóa bỏ vì có thể bị cho là hạn chế quyền tự do thỏa thuận của các bên và có ý kiến phản đối vì đứng trên góc độ nhìn nhận thỏa thuận phạt bao gồm tính chất bù đắp vật chất[28] (là hướng tiếp cận thứ hai sẽ bàn dưới đây) và cũng do cách quy định gây khó hiểu trong Điều 379(1) Bộ luật Dân sự năm 1995 (tương tự như Điều 422(3) Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 433 Dự thảo). Việc khống chế tỷ lệ thỏa thuận phạt rõ ràng là hạn chế quyền tự do thỏa thuận và tự quyết của các bên, nhưng đáng nói hơn là nó cứng nhắc không phù hợp cho tất cả các loại hợp đồng với các giá trị khác nhau. Kinh nghiệm của luật Đức là không khống chế mức phạt này mà do các bên tự thỏa thuận, nhưng nếu bên bị vi phạm có yêu cầu thì Tòa án sẽ quyết định giảm mức phạt khi nhận thấy cao quá mức so với thiệt hại. Điều này tạo sự linh hoạt trong việc áp dụng, tuy nhiên, theo hướng tiếp cận này thì Tòa án tối cao cần có sự hướng dẫn áp dụng thống nhất để tránh sự tùy tiện của các thẩm phán (có thể tham khảo kinh nghiệm các yếu tố cần xem xét nêu trong các Bộ nguyên tắc). Ngoài ra, cần có quy định vô hiệu hóa điều khoản phạt bất lợi cho bên yếu thế hơn trong những hợp đồng mẫu giữa một bên là thương nhân chuyên nghiệp với một bên là người tiêu dùng, người sử dụng dịch vụ.

– Khi áp dụng thỏa thuận phạt với mục đích ngăn ngừa tách biệt với yêu cầu bồi thường thiệt hại (bên bị vi phạm có quyền yêu cầu khoản tiền phạt này khi có vi phạm nghĩa vụ bất kể là có thiệt hại hay không và thỏa thuận phạt này có thể được Tòa án tuyên giảm xuống nếu nó quá cao vượt mức thiệt hại thực tế) thì cần bảo đảm rằng quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với thiệt hại thực tế không bị mất đi bởi thỏa thuận phạt và nếu thiệt hại thực tế được chứng minh lớn hơn thỏa thuận phạt thì bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu phần chênh lệch này chứ không phải vừa trả phạt vừa bồi thường thiệt hại. Hướng tiếp cận này của luật Đức vừa đảm bảo quyền lợi của bên bị thiệt hại (thực hiện được thỏa thuận ngăn ngừa và phạt vi phạm, mà vẫn bảo đảm thiệt hại thực tế tối đa) và vừa bảo đảm quyền lợi của bên vi phạm nghĩa vụ (nếu thỏa thuận phạt quá cao trong khi không có thiệt hại thực tế hoặc thiệt hại thực tế nhỏ hơn rất nhiều so với thỏa thuận phạt).

Ba là, nếu Việt Nam theo hướng tiếp cận “hai trong một” (theo nghĩa bao gồm yếu tố phạt và yếu tố bù đắp thiệt hại) như luật Pháp (ở góc độ nào đó tương tự như “liquidated damages” của Anh, Mỹ) và quy định trong các Bộ nguyên tắc của các tổ chức quốc tế như trên thì cần xem xét những vấn đề sau:

– Để tránh sự nhầm lẫn và gây tranh cãi do vấn đề thuật ngữ, luật Việt Nam không nên dùng thuật ngữ “phạt hợp đồng” (“penalty clause” hay “clause Pénal”) mà thay bằng thuật ngữ khác. Điều này có thể xem cách sử dụng thuật ngữ trong các Bộ quy tắc của các tổ chức quốc tế: “Thỏa thuận về khoản tiền phải trả trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ” (Agreed payment for non-performance)[29](ví dụ Điều 7.4.13(1) của Bộ Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế của UNIDROIT; Điều 9:509 (ex art. 4.508) của Bộ nguyên tắc luật hợp đồng Châu Âu của Ủy ban Luật hợp đồng châu Âu). Đây cũng là những cố gắng hài hòa sự khác biệt giữa hệ thống Common Law và Civil law.

– Vì là “hai trong một” nên khi các bên đã áp dụng “thỏa thuận về khoản tiền phải trả trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ”, thì bên bị vi phạm không được đồng thời yêu cầu khoản tiền này và yêu cầu bồi thường thiệt hại thực tế. Tuy nhiên, áp dụng tương tự kinh nghiệm của Pháp, Đức và trong các Bộ nguyên tắc, nếu khoản tiền thỏa thuận này là quá cao so với thiệt hại thực tế thì Tòa án có thể theo yêu cầu của bên vi phạm nghĩa vụ xem xét giảm số tiền phải trả. Để tránh việc Tòa án có thể tùy tiện trong việc áp dụng thì tòa án tối cao cũng cần có sự hướng dẫn áp dụng thống nhất. Những hướng dẫn trong các Bộ nguyên tắc có thể tham khảo trong trường hợp xem xét giảm số tiền phải trả đó là: (i) So sánh thiệt hại được ước tính với thiệt hại thực tế; (ii) Lợi ích hợp pháp của các bên bao gồm những lợi ích không bằng tiền (non pecuniary) của bên bị vi phạm; (iii) Loại hợp đồng và hoàn cảnh giao kết của hợp đồng, với lưu ý vào vị trí kinh tế, xã hội của các bên; (iv) Xem đó có phải là hợp đồng mẫu hay không (Standard-form contract); (v) Và hành vi vi phạm có phải là gian trá hay ngay tình (bad faith hay good faith).

Kết luận

Điều 433 Dự thảo (và Điều 422 Bộ luật Dân sự năm 2005) đã bộc lộ những bất cập trong cách trình bày và hướng tiếp cận. Nó cần được sửa đổi để bảo đảm quyền lợi của các bên trong quan hệ hợp đồng. Trên cơ sở tôn trọng quyền tự do thỏa thuận và định đoạt của các bên trong quan hệ hợp đồng, thỏa thuận phạt vẫn nên được duy trì, tuy nhiên cần có sự kiểm soát. Trong hai cách tiếp cận: tách riêng với bồi thường thiệt hại hay là “hai trong một” thì cách tiếp cận thứ hai sẽ phù hợp với xu hướng chung hơn.

TS. Dư Ngọc Bích

Khoa Kinh tế – Luật, Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh



[1]John Y. Gotanda, “Damages in Lieu of Performance Because of Breach of Contract”, VillanovaUniversitySchoolof LawPublic LawandLegal Theory,WorkingPaperNo.2006-8. Trang 25-33. (Sau đây viết tắt là John Y. Gotanda). http://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=917424.

[2] Xem Charles Calleros, “Punitive damages, liquidated damages and Clauses Penale in contract actions: A comparative analysis of the American common law and the French Code Civil”, BROOK.J.INT’LL.Vol 32, 2006, trang 71-72. Tại: http://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=1405414(sau đây viết tắt là Charles Calleros, 2006).

[3] Xem J. Frank McKenna, “Liquidated Damages and Penalty Clauses: A Civil Law versus Common Law Comparision”, The Critical Path, Spring 2008, tr. 3.(Sau đây viết tắt là J. Frank McKenna, 2008).

Restatement 2d Contract §356: “(1) Damages for breach by either party may be liquidated in the agreement but only at an amount that is reasonable in the light of the anticipated or actual loss caused by the breach and the difficulties of proof of loss. A term fixing unreasonably large liquidated damages is unenforceable on grounds of public policy as a penalty”.

UCC § 2-718: “(1) Damges for breach by either party may be liquidated in the agreement but only at an amount which is reasonale in the light of the anticipated or actual harm caused by the breach, the dificulties of proof of loss and the inconvenience or nonfeasibility of otherwise obtaining an adequate remedy. A term fixing unreasonably large liquidated damages is void as a penalty”.

[4] Ví dụ trong quan hệ hợp đồng thứ nhất, bên vi phạm có được lợi ích là 10 đồng, nếu vi phạm hợp đồng này để thực hiện một hợp đồng khác (hợp đồng thứ 2) hoặc để dành nguồn lực làm việc khác thì sau khi trả bồi thường cho bên bi vi phạm, bên vi phạm sẽ tạo ra được hơn 20 đồng, điều này được cho là có lợi về mặt kinh tế. Xem Charles Calleros, 2006, tr. 80 – 93.

[5] Xem Charles Calleros, 2006, tr. 80 – 93.

[6] Xem John Y. Gotanda, trang 5 – 13 (luật của Anh), tr. 21 – 25 (Luật Canada).

[7] Xem Simas Vitkus, “Penalty Clauses with Different Legal Systems”, Social Transformations in Contemporary Society”, 2013(1), ISSN 2345-0126, tr. 156. (Sau đây viết tắt là Simas Vitkus, 2013).

[8] Simas Vitkus, 2013, tr. 156.

[9]Jobson v. Johnson [1989] 1 WLR 1026, tại 1040.

[10] Xem Bộ luật Dân sự Pháp bản tiếng Anh tại http://www.lexinter.net/ENGLISH/civil_code.htm.

[11] Xem Charles Calleros, 2006, tr. 102.

[12] Các học giả Pháp cũng có phân chia thành 3 quan điểm đối với bản chất của “Clause Pénal”: thứ nhất cho rằng điều khoản chỉ mang tính bồi thường; thứ hai cho rằng mang bản chất trừng phạt và thứ ba cho rằng bao gồm cả hai tính chất này, xem các tác giả được nêu tại chú dẫn số 155, 156, 157, 158, 159, tuy nhiên, xu hướng hiện nay là “Clause Pénal” được hiểu như là một biện pháp “phạt tư” (private fine) thực hiện chức năng ngăn ngừa và trừng phạt (vì vậy nó không phụ thuộc vào việc có xảy ra thiệt hại hay không, mà là nhằm vào việc không thực hiên nghĩa vụ) và chức năng bồi thường khi có thiệt hại xảy ra và được xem xét trên từng trường hợp. Chapter 8: Damages, tại www.legiscompare.fr/site-web/…/16._CH_8_Damages.pdf , tr. 33. Xem thêm Charles Calleros, 2006, tr. 99 – 108.

[13] Điều 1152, 1231 Bộ luật Dân sự Pháp.

[14] Xem các vụ việc được nêu trong chú dẫn số 185, 186, 187,Charles Calleros, 2006.

[15] Xem Điều 1152, 1231 Bộ luật Dân sự Napoleon, bản tiếng Anh tại:

http://www.napoleon-series.org/research/government/c_code.html

[16] Xem Điều 1152, 1231, Bộ luật Dân sự Pháp bản tiếng Anh tại http://www.lexinter.net/ENGLISH/civil_code.htm.

[17] Xem Bộ luật Dân sự Đức (BGB) bản tiếng Anh tại http://www.gesetze-im-internet.de/englisch_bgb/.

[18] Xem Điều 280 – 283 Bộ luật Dân sự Đức.

[19] Xem Điều 339 – 341 Bộ luật Dân sự Đức.

[20] Xem Điều 343 Bộ luật Dân sự Đức.

[21] Penal Clauses in Civil Law, Resolution No. (78) 3 của Comnittee of Ministers of the Council of Europe ngày 20/01/1978 và Explanatory Memorandum (Strasbougr, 1978). Xem Simas Vitkus, 2013, tr. 158.

[22] Xem Simas Vitkus, 2013, tr. 160.

[23] Xem http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/CISG-AC-op10.html, tại 3.3.

[24] Xem http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/CISG-AC-op10.html, tại 4.2.2.

[25] Xem bản tiếng Anh tại: http://www.uncitral.org/pdf/english/texts/sales/contract/vol14-p272-273-e.pdf, tại Điều 5-9.

[26] Xem UNIDROIT Principles of International Commercial Contracts 2010,tại:http://www.unidroit.org/english/principles/contracts/principles2010/integralversionprinciples2010-e.pdf

Điều 7.4.13(1) (Agreed payment for non-performance)

(1)Where the contract provides that a party who does not perform is to pay a specified sum to the aggrieved party for such non-performance, the aggried party is entitled to that sum irrespective of its actual harm.

(2)However nothwithstanding any agreement to the contrary the specified sum may be reduced to a reasonable amount where it is grossly excessive in relation to the harm resulting from the non-performance and to the other circumstances.

Lưu ý: “non-performace” được định nghĩa tại Điều 7.1.1 là việc một bên không thực hiện bất kỳ nghĩa vụ hợp đồng nào bao gồm cả việc thực hiện không đúng nghĩa vụ hoặc chậm thực hiện nghĩa vụ.

Xem Commission on European Contract Law, Principles of European Contract Law 2002 tại: http://www.jus.uio.no/lm/eu.contract.principles.parts.1.to.3.2002/

Article 9:509 (ex art. 4.508) – Agreed Payment for Non-performance

516

(1) Where the contract provides that a party who fails to perform is to pay a specified sum to the aggrieved party for such non-performance, the aggrieved party shall be awarded that sum irrespective of its actual loss.

517

(2) However, despite any agreement to the contrary the specified sum may be reduced to a reasonable amount where it is grossly excessive in relation to the loss resulting from the non-performance and the other circumstances.

[27] Ví dụ xem Calleros, 2006, tr. 72 – 74.

[28] Ví dụ xem Dương Anh Sơn, Lê Thị Bích Thọ, “Một số ý kiến về phạt vi phạm do vi phạm hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam”, tạp chí khoa học pháp lý, số 1/2005.

[29] Lưu ý: “non-performace” được định nghĩa tại Điều 7.1.1 của Bộ Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế của UNIDROIT là việc một bên không thực hiện bất kỳ nghĩa vụ hợp đồng nào bao gồm cả việc thực hiện không đúng nghĩa vu hoặc chậm thực hiện nghĩa vụ.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bình luận về chế định hộ gia đình trong Bộ luật Dân sự

25/11/2015

Bộ luật Dân sự hiện hành quy định chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự bao gồm: Cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác. Riêng đối với thể nhân (cá nhân) và pháp nhân, Bộ luật này có nhận thức không khác biệt nhiều so với nhận thức của các nền pháp luật ở các quốc gia khác. Thể nhân và pháp nhân luôn luôn được coi là những chủ thể thực sự và thông thường của luật dân sự nói riêng và của pháp luật nói chung. Đôi khi một số học giả chỉ bàn luận xung quanh câu chuyện định nghĩa khái niệm pháp nhân, bản chất của pháp nhân và vấn đề có hay không sự tồn tại tất yếu của pháp nhân hay vai trò của nó trong đời sống xã hội và mối tương quan của nó với thể nhân…

Thế nhưng hộ gia đình và tổ hợp tác có phải là chủ thể của luật dân sự hay không đã trở thành vấn đề được tranh luận khá sôi nổi từ khi xây dựng Bộ luật Dân sự năm 1995 tới nay. Có ý kiến cho rằng, chỉ nên quy định chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự là cá nhân và pháp nhân, không nên quy định địa vị pháp lý của hộ gia đình với tư cách là chủ thể độc lập của quan hệ pháp luật dân sự, thay vào đó, nên quy định việc tham gia của hộ gia đình vào các quan hệ pháp luật dân sự tại các chế định tương ứng của Bộ luật Dân sự tương lai. Ngược lại, có quan điểm coi hộ gia đình là chủ thể độc lập của quan hệ pháp luật dân sự. Ngoài ra có ý kiến đề nghị không nên có quy định về hộ gia đình.

Để tìm hiểu thêm về vấn đề này, trân trọng kính mời Quý bạn đọc đón đọc bài viết “Bình luận về chế định hộ gia đình trong Bộ luật Dân sự” của tác giả Phạm Thị Hương Giang đăng tải trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật định kỳ số tháng 11 (284) năm 2015.

Mộc Miên

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Công tác vệ sinh, an toàn lao động đối với khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn hội nhập

24/12/2015

1. Thực trạng công tác vệ sinh, an toàn lao động ở khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay

Hiện nay, cả nước có khoảng gần 600.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa đang hoạt động trên tổng số 890.000 doanh nghiệp đã đăng ký, chiếm > 97,5% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động thực tế với tổng số vốn đăng ký khoảng 121 tỉ USD, chiếm 30% tổng số vốn đăng ký của các doanh nghiệp.

Hàng năm, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp khoảng 40% GDP; 30% thu nộp ngân sách nhà nước, 33% giá trị sản lượng công nghiệp, 30% giá trị hàng hóa xuất khẩu và thu hút 51 % lao động. Trong những năm tiếp theo doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng sẽ tiếp tục có sự phát triển vượt bậc về số lượng để đáp ứng cho sự phát triển của đất nước (mục tiêu của Chính phủ là Việt Nam có 2 triệu doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả). Trong 9 tháng đầu năm 2015, số doanh nghiệp thành lập mới của cả nước là 68.347 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký là 376.419 tỷ đồng, tăng 29,2% về số doanh nghiệp và tăng 29,9 % về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, số doanh nghiệp giải thể, tạm dừng hoạt động theo quy mô vốn <50 tỷ (doanh nghiệp nhỏ và vừa) là 6.154 doanh nghiệp trên tổng số 6.294 doanh nghiệp, đặc biệt là số doanh nghiệp nhỏ và vừa có số vốn <10 tỷ đồng giải thể là 5.674 DN (95,4 %) (nguồn Tổng Cục thống kê). Đây là điều nói lên sự khó khăn chung của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong các lĩnh vực xây dựng, vận tải kho bãi, khai khoáng, công nghiệp chế biến, chế tạo, sửa chữa chiếm tỷ lệ cao về số lượng và lao động. Đây là các ngành nghề có nguy cơ cao về an toàn vệ sinh lao động, có khả năng phát sinh các yếu tố gây tai nạn trực tiếp hoặc ảnh hưởng đến sức khỏe của người lao động và cộng đồng xã hội.

Từ các số liệu trên cho thấy, số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỷ lệ lớn trong nền kinh tế, xã hội và cũng cho thấy sự khó khăn, yếu thế của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong hoạt động kinh doanh nói chung và trong lĩnh vực an toàn vệ sinh lao động nói riêng. Những bất cập có thể nhận thấy như:

– Thói quen chung của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam là chỉ khi xảy ra các rủi ro thì mới tìm cách xử lý, giải quyết mà không có thói quen chủ động phòng ngừa ngay từ đầu (ngăn ngừa chủ động). Môi trường làm việc an toàn là một trong những yếu tố giúp doanh nghiệp duy trì sự ổn định và thành công trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Tuy nhiên, đa số các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam chưa chú trọng đến vấn đề này. Có thể do nhận thức của người sử dụng lao động còn hạn chế, chưa quan tâm đến quyền lợi của người lao động, chưa tìm hiểu, nghiên cứu pháp luật về lao động, các qui định về công tác an toàn vệ sinh lao động mà chỉ nhằm đối phó với các đoàn kiểm tra, thanh tra. Mặt khác, doanh nghiệp hiện nay cũng còn rất nhiều khó khăn (về vốn, công nghệ, bán hàng, tiền lương, thuế…). Một số doanh nghiệp chỉ quan tâm đến những gì cần ngay trước mắt phục vụ cho sản xuất, kinh doanh thu lợi nhuận, mà chưa chú ý đến những việc có thể xảy ra trong tương lai nên đã sử dụng công nghệ, thiết bị lạc hậu, sử dụng lao động không có hợp đồng, chưa qua đào tạo, lao động mùa vụ…để tiết giảm chi phí.

– Việc người sử dụng lao động chưa quan tâm, thiếu giải pháp, người lao động thiếu kiến thức, hiểu biết về an toàn vệ sinh lao động dẫn đến việc không lường trước được các mối nguy hại tiềm ẩn như tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, ô nhiễm môi trường… có thể xảy ra bất cứ lúc nào, mà hậu quả là rất lớn, gây thiệt hại không chỉ về con người, kinh tế mà còn vi phạm pháp luật…

Trước tình hình này, các biện pháp hỗ trợ của nhà nước để cho doanh nghiệp hiểu, nắm bắt được các quy định của pháp luật cũng như đánh giá được các rủi ro và phòng ngừa nó là hết sức cấp thiết. Một trong những biện pháp hành động cần thiết được thực hiện đó là việc hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng hệ thống quản lý an toàn vệ sinh lao động. Bởi vì, hệ thống quản lý an toàn vệ sinh lao động là tập hợp các yếu tố có quan hệ trong doanh nghiệp theo một quy luật, chỉnh thể nhằm phục vụ cho mục tiêu bảo đảm an toàn, sức khỏe cho người lao động, dễ hiểu, dễ áp dụng.

2. Sự cần thiết áp dụng hệ thống an toàn vệ sinh lao độngvà một số yêu cầu của việc xây dựng hệ thống quản lý an toàn vệ sinh lao động ở khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa

2.1 Sự cần thiết áp dụng hệ thống an toàn vệ sinh lao động ở khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa

Công tác an toàn vệ sinh lao động có liên quan mật thiết tới công tác kỹ thuật an toàn. Công tác kỹ thuật an toàn nhằm mục đích, yêu cầu người sử dụng lao động khi thiết kế hoặc xây dựng công trình phải căn cứ vào các quy định nhằm đảm bảo an toàn tuyệt đối cho người và thiết bị. Dựa trên công tác kỹ thuật an toàn, người thiết kế các công trình phải đưa ra các biện pháp an toàn cho từng công việc cụ thể. Tuy nhiên, những tiến bộ về công nghệ, những cạnh tranh trong sản xuất hàng hóa… đã dẫn đến những thay đổi nhanh về điều kiện lao động, quy trình sản xuất và tổ chức lao động.

Các quy định của pháp luật về an toàn lao động là các quy định pháp lý bắt buộc thực hiện trong quá trình sản xuất, tổ chức lao động và kiểm soát môi trường, tuy nhiên, đôi khi pháp luật không theo kịp với những thay đổi trên. Vì vậy, để kịp thời giải quyết được những thách thức về an toàn vệ sinh lao động và nhằm đảm bảo sức khỏe người lao động, nhất thiết phải xây dựng hệ thống quản lý an toàn vệ sinh lao động. Vì nó có tính khả thi và linh hoạt cao trong thực hiện góp phần thúc đẩy công tác an toàn vệ sinh lao động và phát triển văn hóa an toàn tại cơ sở.

Hệ thống quản lý an toàn vệ sinh lao động có những đặc điểm cơ bản là không bắt buộc phải thực hiện như các quy định pháp lý, không mang tính pháp lý, không thay thế các quy định của luật pháp, không thay thế các quy định của các quy trình, quy chuẩn và tiêu chuẩn quốc gia. Với đặc điểm khả thi và linh hoạt như trên, hệ thống quản lý an toàn, vệ sinh lao động đã trở thành công cụ hữu hiệu giúp cho người sử dụng lao động và người lao động kịp thời đối phó với những thay đổi về an toàn vệ sinh lao động trong thực tế sản xuất, hay nói cách khác là hệ thống quản lý an toàn vệ sinh lao động chính là công cụ, biện pháp hỗ trợ thiết thực cho doanh nghiệp, người sử dụng lao động, người lao động và cơ quan quản lý các cấp không ngừng cải thiện điều kiện lao động và hoàn thiện công tác quản lý an toàn vệ sinh lao động.

2.2. Một số yêu cầu của việc xây dựng hệ thống quản lý an toàn vệ sinh lao động ở khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa

Để thực hiện công tác an toàn vệ sinh lao động nói riêng, hệ thống quản lý an toàn vệ sinh lao động nói chung, các doanh nghiệp cần phải đáp ứng được một số yêu cầu sau:

Thứ nhất, cần đáp ứng khả năng về tài chính. Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang rất khó khăn về tài chính (khoảng 90% doanh nghiệp phải đi vay vốn ngân hàng), từ đó dẫn đến không có sự đầu tư cho các nguồn lực để thực hiện công tác an toàn vệ sinh lao động.

Thứ hai, cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và khả năng quản lý của chủ doanh nghiệp. Hiện nay, lực lượng lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa, có tới 85,19% là lao động phổ thông, có trình độ phổ thông trung học và thấp hơn; số lao động là công nhân kỹ thuật có tỷ trọng là 7,73%, số lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp là 3,17% và số lao động có trình độ cao đẳng, đại học là 3,83% trong tổng số lượng lao động làm việc tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Số lượng lao động có trình độ cao (trên đại học) chỉ chiếm tỷ trọng là 0,07%. Đây là yếu tố dẫn đến khả năng nhận thức của người sử dụng lao động, người lao động về an toàn vệ sinh lao động, tính chủ động, xây dựng các biện pháp để phòng ngừa tai nạn lao động.

Thứ ba, cần tăng cường đầu tư, nâng cao năng lực áp dụng công nghệ, tiến bộ khoa học kỹ thuật. Hiện nay, khoảng 80 – 90% máy móc và công nghệ sử dụng trong các doanh nghiệp của Việt Nam là nhập khẩu và 76% từ thập niên 1980 – 1990, 75% máy móc và trang thiết bị đã hết khấu hao. Phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và vừa được trang bị máy móc, thiết bị có nguồn gốc từ nhiều nước khác nhau như: Trung Quốc, Liên Xô cũ, Đông Âu, Hàn Quốc, Đài Loan… thuộc các thế hệ khác nhau và lạc hậu so với thế giới 10 – 20 năm. Trình độ công nghệ lạc hậu làm cho năng suất, hiệu quả hoạt động nói chung của doanh nghiệp kém và làm tăng nguy cơ rủi ro mất an toàn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người lao động.

Thứ tư, số lượng nhà khoa học, chuyên gia làm việc trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa chỉ chiếm 0,025% trong tổng số lao động làm việc trong khu vực doanh nghiệp. Điều này làm hạn chế việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật nói chung và kỹ thuật an toàn vệ sinh lao động nói riêng vào doanh nghiệp.

3. Xây dựng hệ thống quản lý an toàn vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2010 – 2015.

3.1. Những thuận lợi

– Chương trình hỗ trợ được xây dựng chi tiết, cụ thể dựa trên các khuyến cáo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) kết hợp với thực tiễn của Việt Nam và các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh lao động tiên tiến khác dễ hiểu, dễ áp dụng.

– Nền kinh tế đất nước hội nhập sâu hơn, rộng hơn khiến các doanh nghiệp phải vận động thay đổi linh hoạt trong việc đầu tư, sản xuất, kinh doanh để đáp ứng các yêu cầu của hàng hóa dịch vụ, trong đó có tiêu chuẩn lao động và các tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh lao động.

3.2. Khó khăn, hạn chế

– Nguồn lực của các doanh nghiệp dành cho công tác an toàn vệ sinh lao động còn nhiều hạn chế như: Trình độ nhận thức về hệ thống quản lý an toàn vệ sinh lao động, con người thực hiện, kinh phí của đơn vị… dành cho công tác an toàn vệ sinh lao động.

– Do đặc thù đảm bảo bí mật sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp hoặc có những vấn đề doanh nghiệp ngại chia sẻ (như tai nạn, sai phạm về lao động…) nên thông tin có liên quan đến công tác an toàn vệ sinh lao động của doanh nghiệp còn bị hạn chế, việc cung cấp tài liệu của doanh nghiệp để nghiên cứu là rất khó khăn.

3.3. Những kinh nghiệm cần tiếp tục được triển khai trong giai đoạn tiếp theo

– Tiếp tục hỗ trợ duy trì sự hoạt động của hệ thống quản lý an toàn vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp đã được tư vấn xây dựng, thường xuyên cải tiến hệ thống cho phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp;

– Tạo được sự lan tỏa của các doanh nghiệp đã xây dựng hệ thống quản lý an toàn vệ sinh lao động hiệu quả để thu hút các doanh nghiệp khác chưa tham gia tự nguyện xây dựng hệ thống quản lý an toàn vệ sinh lao động, từng bước đưa công tác an toàn vệ sinh lao động nói chung, hệ thống quản lý an toàn vệ sinh lao động nói riêng thành văn hóa, chuyên nghiệp và hiệu quả; hỗ trợ doanh nghiệp sát với thực tiễn hơn nữa.

– Thiết lập mạng lưới hệ thống chuyên gia tư vấn an toàn vệ sinh lao động rộng khắp từ trung ương đến địa phương, có kiến thức chuyên môn, chuyên nghiệp, trình độ chuyên sâu để tiếp tục tư vấn, hỗ trợ các doanh nghiệp;

– Thành lập Trung tâm thông tin quốc gia về an toàn vệ sinh lao động để có thể hỗ trợ doanh nghiệp trong việc kịp thời cập nhật các quy định của pháp luật về an toàn vệ sinh lao động cũng như các biện pháp, quy trình kỹ thuật an toàn vệ sinh lao động phù hợp nhu cầu của doanh nghiệp.

Nguyễn Thị Thanh Bình

Khoa Quản lý xã hội, Học viện Hành chính quốc gia

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hoàn thiện các biện pháp cưỡng chế trong dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự

13/11/2015

Biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự là cách thức thực hiện tính quyền lực nhà nước do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng theo những trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định, tác động lên tư tưởng, hành vi người tham gia tố tụng, buộc họ phải thực hiện nhằm bảo đảm cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi. Do đó, các biện pháp cưỡng chế đóng vai trò hết sức quan trọng để ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn bị can, bị cáo gây khó khăn cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hoặc để bảo đảm thi hành án, góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ sự vững mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Việc lạm dụng, áp dụng sai các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, bị coi là những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm các quyền tự do cá nhân của con người ; xâm hại hoạt động đúng đắn của các cơ quan bảo vệ pháp luật, làm giảm sút lòng tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã có những quy định cụ thể, tương đối hoàn chỉnh từ quyền của người bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế hoặc căn cứ áp dụng (hoặc thay đổi), trình tự thủ tục, thẩm quyền nhằm ngăn chặn những hành vi trái pháp luật từ phía cơ quan có thẩm quyền (nếu có), thể hiện ở một số điểm sau:

– Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế phải xuất phát từ những yêu cầu thực tế của quá trình giải quyết vụ án hình sự[1] và tuân theo những nguyên tắc nhất định trong tố tụng hình sự để bảo vệ quyền tự do công dân như: Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân[2], bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân[3], bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân[4], không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật[5]

– Biện pháp cưỡng chế mang tính lựa chọn, chỉ áp dụng trong những trường hợp cần thiết, dựa trên những căn cứ luật định. Tính lựa chọn ở đây được hiểu là khi tiến hành các hoạt động tố tụng nhằm giải quyết vụ án hình sự cụ thể, những người có thẩm quyền phải xem xét cẩn thận về việc có nên áp dụng hay không áp dụng biện pháp cưỡng chế[6]. Ngoài ra, đối với các biện pháp cưỡng chế đã được áp dụng, cơ quan tiến hành tố tụng còn phải thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của từng biện pháp cưỡng chế đó để kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi khi xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa[7].

– Căn cứ áp dụng các biện pháp cưỡng chế được quy định trong từng biện pháp và có các trường hợp áp dụng cụ thể, để khắc phục sự tùy tiện khi các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng pháp luật trong thực tiễn, góp phần bảo đảm quyền con người (quyền tự do công dân) như: Căn cứ áp dụng chung đối với nhóm các biện pháp ngăn chặn là “để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án”[8]; Đối với nhóm biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo cho việc tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, thì biện pháp áp giải bị can được tiến hành trong trường hợp bị can buộc phải có mặt theo giấy triệu tập nhưng “vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc có biểu hiện trốn tránh thì điều tra viên có thể ra quyết định áp giải”[9] hoặc người làm chứng có thể bị áp giải nếu “người làm chứng đã được cơ quan điều tra, Viện kiểm sát triệu tập nhưng cố ý không đến mà không có lý do chính đáng và việc họ vắng mặt gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố”[10].

– Các biện pháp cưỡng chế chỉ được áp dụng đối với một số đối tượng nhất định. Đây chính là cơ chế để bảo đảm quyền con người, quyền tự do của cá nhân. Theo quy định, biện pháp cưỡng chế được áp dụng cho các đối tượng là: Bị can, bị cáo, người bị bắt trong các trường hợp khẩn cấp, quả tang, truy nã, người làm chứng nếu không chấp hành yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng mà không có lý do chính đáng.

– Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế được quy định chặt chẽ từ khi ra quyết định cho đến khi tiến hành. Tất cả các biện pháp cưỡng chế khi thực hiện đều phải có Lệnh[11], Quyết định[12], Quyết định phê chuẩn[13]của cơ quan có thẩm quyền, trừ trường hợp bắt người phạm tội quả tang, bắt đối tượng truy nã. Tuy nhiên, sau khi bắt, cơ quan có thẩm quyền phải báo cáo với Viện kiểm sát cùng cấp để ra quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn việc bắt đó. Mọi hành vi tố tụng trong quá trình tiến hành thực hiện biện pháp cưỡng chế phải được lập biên bản và có người chứng kiến cùng ký vào biên bản[14]. Ngoài ra, pháp luật tố tụng hình sự còn quy định cụ thể các hình thức khi tiến hành thực hiện các biện pháp cưỡng chế như: Người thực hiện Lệnh phải đọc Lệnh của người có thẩm quyền, giải thích về quyền và nghĩa vụ của người bị áp dụng biện pháp cưỡng chế[15], thông báo cho gia đình, chính quyền địa phương biết việc cơ quan chức năng đã áp dụng biện pháp cưỡng chế nào[16], cho đối tượng nào.

– Thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được quy định cụ thể cho từng chức danh tư pháp để bảo đảm cơ chế thực hiện, tránh tình trạng lạm quyền gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp; thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử. Riêng đối với Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành, trừ một số trường hợp đặc biệt bắt người phạm tội quả tang, bắt người truy nã. Nhưng sau khi bắt người phải gửi toàn bộ tài liệu có liên quan đến việc bắt để Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn, nếu Viện kiểm sát không phê chuẩn thì phải trả tự do ngay cho người bị bắt. Ngoài ra, còn có một số chủ thể đặc biệt tuy không có chức danh tư pháp nhưng vẫn có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong điều kiện, hoàn cảnh đặc biệt gồm: Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng cũng có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế là bắt khẩn cấp[17].

– Các quy định của biện pháp cưỡng chế không mang tính trừng phạt mà còn thể hiện tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc khi áp dụng. Được thể hiện rõ trong quy định không áp dụng biện pháp tạm giam “Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú rõ ràng”[18] mà sẽ được áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác hoặc căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo nếu xét thấy không cần thiết phải tạm giam mà họ vẫn chấp hành các quy định của pháp luật, đảm bảo sự có mặt theo giấy triệu tập của các cơ quan tiến hành tố tụng thì các chủ thể tiến hành tố tụng có thể thay đổi biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn như: Bão lĩnh[19], đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm[20].

Hiện nay, nhằm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền tự do công dân và xác lập căn cứ để kiểm soát chặt chẽ việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế (hạn chế quyền con người, quyền tự do công dân) trước yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong thời gian tới. Dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự được gửi lấy ý kiến (tháng 9/2015) đã đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng nhằm khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong quá trình áp dụng các biện pháp cưỡng chế; nâng cao, bảo đảm quyền con người được thể hiện ở một số điểm sau:

– Bố cục của biện pháp cưỡng chế được xây dựng hoàn chỉnh nhằm đảm bảo tính khoa học, khi thu hút toàn bộ các biện pháp cưỡng chế tố tụng vào một chương (Chương VI. Những biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự). Theo đó, Chương các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự gồm có 2 mục: Mục 1 quy định Những biện pháp ngăn chặn; Mục 2 Những biện pháp cưỡng chế khác nhằm bảo đảm tính chặt chẽ và thống nhất. Như vậy, bố cục các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự đã thật sự rõ ràng, dễ áp dụng.

– Bỏ các căn cứ chung áp dụng các biện pháp ngăn chặn được quy định tại Điều 79 của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành, mà chỉ còn mục đích áp dụng các biện pháp ngăn chặn là để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như cần để đảm bảo thi hành án. Theo đó, Điều 82 (các biện pháp ngăn chặn) của Dự thảo chỉ quy định mục đích áp dụng biện pháp ngăn chặn và liệt kê từng biện pháp ngăn chặn. Đồng thời đã chuyển hóa các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn vào trong từng trong từng điều luật cụ thể, điển hình như: Quy định tương đối chặt chẽ căn cứ tạm giam, chỉ áp dụng tạm giam khi có căn cứ xác định bị can, bị cáo có thể bỏ trốn; cản trở điều tra, truy tố, xét xử; tiếp tục phạm tội hoặc không có nơi cư trú rõ ràng, mà không phụ thuộc vào sự phân loại tội phạm như Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 nhằm tránh lạm dụng. Đồng thời, quy định những trường hợp nào không áp dụng biện pháp này nhằm hạn chế tạm giam trong thực tiễn. Ngoài ra, còn đảm bảo tính chặt chẽ khi quy định những người có thẩm quyền bắt khẩn cấp, tạm giữ (các Điều 84, 91); Quy định cụ thể những việc cần làm ngay sau khi bắt người hoặc nhận người bị bắt (Điều 88); Quy định căn cứ tạm giam và rút ngắn thời hạn tạm giam (các Điều 93, 163); Sửa đổi nhằm tăng tính hiệu quả các biện pháp bảo lĩnh, cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền (các Điều 95, 96, 97). Nhìn chung trong từng biện pháp cưỡng chế, Dự thảo lần này đã đảm bảo lần lượt tương đối đầy đủ năm yếu tố là: căn cứ áp dụng, thẩm quyền quyết định, trình tự, thủ tục và thời hạn tiến hành cho từng biện pháp ngăn chặn.

– Hoàn thiện các quy định về biện pháp bắt người, Dự thảo đã tách biện pháp bắt người phạm tội quả tang hoặc truy nã của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thành từng biện pháp riêng lẻ, đồng thời xây dựng một điều mới quy định bắt người khi được yêu cầu dẫn độ để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế chung tay phòng chống tội phạm. Như vậy với với dự thảo hiện hành, sẽ có các trường hợp bắt bao gồm: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ.

– Tăng tính hiệu quả các biện pháp bảo lĩnh, cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền (các Điều 95, 96, 97). Đối với biện pháp bảo lĩnh: Quy định chế tài phạt tiền đến 50 triệu đồng áp dụng đối với người bảo lĩnh nếu để cho bị can, bị cáo bỏ trốn. Đối với biện pháp đặt tiền, tài sản để bảo đảm: Quy định đặt tiền để kịp thời áp dụng biện pháp này trong thực tiễn, tháo gỡ vướng mắc hiện nay trong việc định giá, giám định tài sản, dẫn đến chậm trễ trong áp dụng. Quy định cụ thể nghĩa vụ của người nhận bảo lĩnh và nghĩa vụ của bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền, cấm đi khỏi nơi cư trú. Bổ sung thời hạn áp dụng đối với biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; bảo lĩnh; đặt tiền nhằm bảo đảm mọi biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân phải được ràng buộc chặt chẽ về thời hạn.

– Bổ sung một số biện pháp cưỡng chế mới như: Đối với nhóm biện pháp ngăn chặn đã bổ sung biện pháp tạm hoãn xuất cảnh (Điều 98). Đối với nhóm các biện pháp cưỡng chế khác, bổ sung biện pháp: Bắt buộc phải có mặt theo giấy triệu tập (Điều 101); Phong tỏa tài khoản (Điều 105); Hủy bỏ biện pháp cưỡng chế khác (Điều 105).

Tuy nhiên, bên cạnh những tiến bộ đã đạt được, Dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi) vẫn còn một số điểm bất cập hoặc chưa khắc phục được những khó khăn, vướng mắc cũng như bảo đảm quyền tự do công dân, nhóm tác giả xin nêu một số điểm cần chú ý sau đây:

Thứ nhất, tại điểm d khoản 1 Điều 83 và Điều 87 quy định biện pháp cưỡng chế “bắt bị can, bị cáo để tạm giam”. Quy định như vậy sẽ dẫn đến cách hiểu “Bắt người là một biện pháp để thực hiện lệnh tạm giam”. Theo nhóm tác giả, cách hiểu này là không đúng bởi lẽ nếu xem “bắt bị can, bị cáo để tạm giam” là một biện pháp để thực hiện lệnh tạm giam thì việc cưỡng chế bị can, bị cáo thực hiện lệnh tạm giam dựa trên căn cứ pháp lý nào. Bên cạnh đó, đối chiếu với quy định bắt người trong các trường hợp “bắt người trong trường hợp khẩn cấp[21], bắt người phạm tội quả tang[22]”… thì Điều 87 chưa quy định cụ thể các căn cứ áp dụng đối với biện pháp này. Theo nhóm tác giả đây cũng là một trong các biện pháp ngăn chặn do đó cũng phải đảm bảo đầy đủ năm yếu tố: Căn cứ áp dụng, thẩm quyền quyết định, trình tự, thủ tục và thời hạn tiến hành. Nếu chúng ta bỏ ngỏ vấn đề này hoặc quy định không cụ thể rõ ràng thì trong thực tế quyền con người, quyền tự do công dân sẽ rất dễ bị xâm phạm khi áp dụng.

Thứ hai, thời hạn tạm giữ tại Điều 92 của Dự thảo vẫn chưa rõ ràng trong trường hợp phải gia hạn tạm giữ. Khoản 2 quy định “Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá ba ngày. Trường hợp đặc biệt người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá ba ngày”. Với quy định này thì như thế nào là “trường hợp cần thiết” và “trường hợp đặc biệt” để gia hạn tạm giữ thì Dự thảo đã không đề cập đến.

Thứ ba, biện pháp “đặt tiền để bảo đảm” được quy định tại Điều 96 của Dự thảo. Đây là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam, được áp dụng khi căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành viphạm tội, nhân thân và tài sản của của bị can, bị cáo, của người đặt tiền (là người thân thích của bị can bị cáo), nếu xét thấy không cần phải tạm giam mà họ vẫn có thể đảm bảo sự có mặt theo giấy triệu tập thì được có thể được áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam. Tuy nhiên, trong thực tế các cơ quan tiến hành tố tụng gặp rất nhiều khó khăn, bởi không thể xác định đặt số lượng bao nhiêu tiền để đặt. Ngoài ra vấn đề này sẽ làm bất bình đẳng, gây phân hóa giàu nghèo giữa các bị can, bị cáo, vì muốn thay đổi biện pháp “tạm giam” thành biện pháp “đặt tiền để bảo đảm” đòi hỏi bị can, bị cáo phải có tiền, như vậy đối với gia đình bị can, bị cáo nghèo thì không thể thực hiện được.

Thứ tư, đối với các biện pháp cưỡng chế khác: Khoản 1 Điều 102 Dự thảo quy định “áp giải được áp dụng đối với bị can, bị cáo” chỉ mới nêu được đối tượng bị áp dụng biện pháp này là “bị can, bị cáo” mà chưa nêu rõ trường hợp nào được áp dụng. Thiết nghĩ Dự thảo cần quy định thêm các trường hợp cụ thể được áp dụng biện pháp “dẫn giải” để các cơ quan tiến hành tố tụng được áp dụng thống nhất, tránh tình trạng suy diễn. Bên cạnh đó, trong Dự thảo lần này các nhà làm luật đã thêm một điều luật mới đó là cơ quan tiến hành tố tụng được phong tỏa tài khoản[23] đối với bị can, bị cáo hoặc tài khoản của người khác nếu có căn cứ cho rằng tiền trong tài khoản này có được do hành vi phạm tội của bị can. Tuy nhiên lại không quy định khi các cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành phong tỏa tài khoản đối với tài khoản của người khác phải thông báo cho người chủ tài khoản đó biết.

Thứ năm, vấn đề áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với người chưa thành niên vẫn chưa được Dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự giải quyết triệt để khi chỉ mới quy định “Biện pháp cưỡng chế đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong trường hợp cần thiết”, còn như thế nào là “cần thiết” thì chưa nêu được các trường hợp cụ thể nào. Mặc khác, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 và dự thảo đang được gửi lấy ý kiến chưa giải quyết được khó khăn trong thực tiễn khi bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng, mà bỏ trốn. Trong trường hợp này các cơ quan tiến hành tố tụng không thể áp dụng biện pháp cưỡng chế bắt, tạm giữ, tạm giam để bảo đảm việc thi hành pháp luật[24]. Do pháp luật không cho phép áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam trong trường hợp này, nên cơ quan chức năng không thểbảo đảm việc thi hành pháp luật.

Cùng với việc triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, Dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự cần có những quy định cụ thể, rõ ràng để góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân đã được hiến định trong Hiến pháp. Để khắc phục những hạn chế mà nhóm tác giả đã đưa ra trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự hiện hành và các vấn đề mà Dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự chưa đề cập đến; đồng thời bảo đảm cơ chế triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 bảo đảm quyền tự do công dân, nhóm tác giả có một số đề xuất kiến nghị trong Dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự sau đây:

Một là, sửa đổi tên biện pháp ngăn chặn bắt bị can bị cáo để tạm giam được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 83 thành “Bắt tạm giam bị can, bị cáo”

Hai là, sửa đổi tên Điều 87 và bổ sung thêm nội dung các căn cứ áp dụng biện pháp bắt tạm giam bị can, bị cáo.

Điều 87. Bắt tạm giam bị can, bị cáo

1. Bắt tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các trường hợp được quy định tại khoản 1 khoản 2 Điều 93 Bộ luật này.

2. Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:

…..

Ba là, bổ sung căn cứ gia hạn tạm giữ tại khoản 2 Điều 92.

Điều 92. Thời hạn tạm giữ

2. Trường hợp cần thiết cần có thời gian để xác minh căn cước, lai lịch, xác minh làm rõ dấu hiệu phạm tội của người bị bắt thì người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá ba ngày. Trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá ba ngày khi người bị tạm giữ có dấu hiệu phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng cần có thêm thời gian xác minh hoặc các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc người bị bắt theo quyết định truy nã mà thời gian gia hạn tạm giữ lần 1 chưa đủ để cơ quan ra quyết định truy nã đến nhận người bị bắt. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.

Bốn là, bỏ quy định tại Điều 96 (đặt tiền để bảo đảm), vì biện pháp này thiếu tính khả thi trong thực tế khi bị áp dụng.

Năm là, bổ sung căn cứ áp dụng biện pháp áp giải tại khoản 1 Điều 102 và quy định phải thông báo cho chủ tài khoản biết việc phong tỏa tài khoản của cơ quan có thẩm quyền trong trường hợp phong tỏa tài khoản được áp dụng đối với tài khoản của người khác khi có căn cứ cho rằng tiền trong tài khoản này có được do hành vi phạm tội của bị can tại khoản 2 Điều 104.

Điều 102. Áp giải, dẫn giải

1. Áp giải có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo để thi hành Quyết định thi hành án phạt tù; bị can bị cáo bị kết án phạt tù đang tại ngoại, giam giữ hoặc bị can, bị cáo đang tại ngoại mà không có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.

Dẫn giải có thể được áp dụng đối với bị hại, người làm chứng, bị đơn dân sự, người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án trong trường hợp họ không có mặt theo giấy mời, giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không có lý do được quy định tại khoản 2 Điều 101 của Bộ luật này.

…..

Điều 104. Phong tỏa tài khoản.

2. Những người theo quy định tại khoản 1 Điều 87 của bộ luật này có quyền ra lệnh phong tỏa tài khoản. Lệnh phong tỏa tài khoản của người được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 87 của Bộ luật này phải được thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành và thông báo cho người có tài khoản bị phong tỏa khi tài khoản đó không phải của bị can, bị cáo mà cơ quan có thẩm quyền có căn cứ cho rằng tiền trong tài khoản này do hành vi phạm tội của bị can, bị cáo mà có.

Sáu là, bổ sung các trường hợp được áp dụng biện pháp cưỡng chế tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội, gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử để bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật.

Ðiều 413. Áp dụng biện pháp cưỡng chế

1. Chỉ áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong trường hợp cần thiết khi Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có căn cứ xác định bị can, bị cáo có biểu hiện bỏ trốn hoặc gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử.

Việc bắt, tạm giữ, tạm giam với bị can, bị cáo là người chưa thành niên chỉ được áp dụng như một biện pháp cuối cùng, trong thời hạn ngắn nhất và có căn cứ cho rằng việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả.

2…

3. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam khi phạm tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng và có căn cứ xác định người này thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 93 của Bộ luật này hoặc phạm tội ít nghiêm trọng mà theo quy định của bộ luật hình sự có khung hình phạt từ 2 năm trở lên bỏ trốn khi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử.

TS. Võ Thị Kim Oanh

Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh

ThS. Trịnh Duy Thuyên

Phòng pháp chế và cải cách hành chính, tư pháp – Công an TP. Cần Thơ



[1] Xem Điều 79 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

[2] Xem Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

[3] Xem Điều 6 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

[4] Điều 7 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

[5] Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

[6] Khoản 1 Điều 92; khoản 2 Điều 94 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

[7] Khoản 1 Điều 93 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

[8] Xem Điều 79 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

[9] Khoản 3 Điều 129 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

[10] Khoản 1 Điều 134 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

[11] Khoản 2 Điều 80 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

[12]Khoản 2 Điều 134 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003; Điều 9 Quyết định số 1502/2008/QĐ-BCA ban hành quy trình bắt, áp giải bị can, bị cáo, người có quyết định thi hành án phạt tù, dẫn giải người làm chứng quy định.

[13] Khoản 4 Điều 81 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

[14]Khoản 2 Điều 80 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

[15] Khoản 2 Điều 80 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

[16] Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

[17] Điểm b,c khoản 2, Điều 81 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

[18] Điều 88 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

[19] Điều 92 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

[20] Khoản 3 Điều 80 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

[21] Xem khoản 1 Điều 84, Dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự.

[22] Xem khoản 1 Điều 85, Dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự.

[23] Xem Điều 104 Dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự.

[24] Điều 303 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Điều 413 Dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Sự hình thành tư tưởng hợp đồng hành chính và vai trò của hợp đồng hành chính trong quản lý nhà nước

30/10/2015

1. Sự hình thành hợp đồng hành chính

Lịch sử hợp đồng hành chính gắn liền với lịch sử phát triển của Nhà nước, tùy vào sự phát triển, mức độ đáp ứng các dịch vụ công của Nhà nước qua các giai đoạn lịch sử, tùy thuộc vào bản chất, thái độ, bổn phận của Nhà nước đối với xã hội, sự phát triển của các quá trình kinh tế – xã hội. Ngày nay, khi bàn tới bản chất của nhà nước thường được các nhà khoa học xem xét nó ở cả hai phương diện khác nhau: (i) Nhà nước là một tổ chức quyền lực công thực hiện chức năng giai cấp; (ii) Nhà nước là một thiết chế của xã hội. Ở mặt thứ hai này, Nhà nước cung ứng cho xã hội những dịch vụ, mà cá nhân hay tổ chức của cá nhân không muốn thực hiện vì khó tìm kiếm lợi nhuận, hay chưa có khả năng thực hiện được.

Để bảo đảm cho hoạt động của mình, Nhà nước vì lợi ích chung của xã hội, cộng đồng dân cư có thể sử dụng các dịch vụ do cá nhân, tổ chức cung ứng, hay trực tiếp cung ứng, hoặc tổ chức việc cung ứng dịch vụ công thông qua các tổ chức của Nhà nước, cá nhân ngoài Nhà nước. Thực hiện những điều đó, Nhà nước có thể bằng việc ra những quyết định hành chính đơn phương giao cho những tổ chức nhà nước thực hiện, hay ký kết hợp đồng với cá nhân, tổ chức, tùy từng trường hợp cụ thể.

Trong Nhà nước chủ nô, phong kiến, Nhà nước chủ yếu thực hiện chức năng cai trị, còn chức năng xã hội của Nhà nước rất ít được quan tâm, khi đó khó có thể nói tới việc Nhà nước cung ứng các dịch vụ công. Tuy vậy, trong điều kiện Nhà nước phong kiến vẫn có những trường hợp Nhà nước, thông qua các cơ quan của nó ký kết các hợp đồng đối với cá nhân, tổ chức ngoài Nhà nước để các cá nhân đó cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho Nhà nước, hay Nhà nước cho cá nhân, tổ chức đó đấu thầu tài sản của Nhà nước, đấu thầu các “công vụ” Nhà nước, tuy còn rất hạn chế. Trong Nhà nước phong kiến Việt Nam cũng đã xuất hiện những trường hợp, hay tình huống Nhà nước (nhà vua), hay công xã cho cá nhân thầu đất công điền để sản xuất, mà người trúng thầu phải tuân theo những yêu cầu, điều kiện do nhà cầm quyền, hay công xã đặt ra, mà bên khác trong hợp đồng phải thực hiện, hay khi Nhà nước “ký kết những hợp đồng” để cá nhân, tổ chức cung ứng các dịch vụ cho Nhà nước (vận chuyển quân lương, cung cấp lương thảo cho binh sỹ, hay đấu thầu các bến, bãi vì mục đích công cộng…). Ở đây có sự “bất bình đẳng” giữa công quyền với cá nhân trong quan hệ hợp đồng, ưu thế thuộc về công quyền trong quá trình xác lập hợp đồng, thực hiện hợp đồng, giải quyết tranh chấp khi xảy ra. Mặt khác, trong hợp đồng đó còn bị ràng buộc bởi những chế tài do Nhà nước đặt ra đối với bên khác trong hợp đồng. Ngày nay, các học giả nước ngoài gọi những hợp đồng loại này là hợp đồng hành chính.

Như vậy, hợp đồng hành chính có mầm mống hình thành từ rất sớm, ngay trong thời kỳ Nhà nước phong kiến.

Nhà nước tư sản ra đời thì việc ký kết hợp đồng giữa Nhà nước với cá nhân, tổ chức để cá nhân, tổ chức đó cung ứng các dịch vụ công cho Nhà nước, xã hội càng phát triển nhiều. Vào thế kỷ thứ XIX, khi xuất hiện tư tưởng Nhà nước pháp quyền, Nhà nước quản lý xã hội bằng luật, Nhà nước dần hạn chế sự can thiệp của mình vào hoạt động của các cá nhân, tổ chức. Trong cơ chế ấy, Nhà nước giữ lại cho mình những công việc mà cá nhân không đảm nhiệm được như: Bảo đảm trật tự, trị an, an toàn xã hội, vệ sinh công cộng hay thực hiện các dịch vụ công khác thuộc bổn phận của Nhà nước, còn công việc sản xuất khinh doanh là thuộc về các cá nhân hay doanh nghiệp. Song song với quá trình này ngay từ thế kỷ thứ XIX Nhà nước chuyển dần những công việc vốn do Nhà nước đảm nhiệm cho các pháp nhân thuộc mọi thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân) thực hiện thông qua việc ký kết hợp đồng hành chính. Tuy vậy, xu hướng này bị gián đoạn, mờ nhạt đi trong thời kỳ diễn ra hai cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất (1913- 1917) và đại chiến thế giới lần thứ hai (1940- 1945).

Sau đại chiến thế giới lần thứ hai, đặc biệt khoảng hơn ba mươi năm gần đây hình thức Nhà nước chuyển các công việc vốn do mình đảm nhiệm cho các pháp nhân công, tư thực hiện, hay Nhà nước mua các dịch vụ do các pháp nhân này cung ứng rất phát triển dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú.

Ngày nay ở những quốc gia có nền kinh tế, hành chính phát triển thường gặp những trường hợp, khu vực tư cung ứng các dịch vụ công dưới các hình thức khác nhau, quá trình này diễn ra được gọi là quá trình “tư nhân hóa” hay “xã hội hóa”. Quá trình chuyển giao dịch vụ công cho tư nhân đảm nhiệm ngày càng được mở rộng cả về quy mô, phạm vi, tính chất của nó. Hầu hết các quốc gia đều áp dụng nguyên tắc, hay tư tưởng: Những gì mà tư nhân thực hiện tốt thì Nhà nước không tham gia, mà chỉ kiểm soát, điều tiết, bảo hộ, còn nhưng công việc gì mà tư nhân không thể, hay không muốn thực hiện vì khó tìm kiếm lợi nhuận thì Nhà nước phải thực hiện vì lợi ích chung của xã hội. Chính sự phát triển của hình thức này mà ở một số quốc gia xuất hiện cả việc Nhà nước giao quản lý các trại giam, nhà tù cho tư nhân thực hiện thông qua hình thức ký kết hợp đồng hành chính.

Như vậy, sự xuất hiện, phát triên của dịch vụ công như là tiền đề cho sự xuất hiện các hợp đồng hành chính. Trong điều kiện khi xã hội càng phát triển, nhu cầu về dịch vụ công ngày càng tăng, quy mô, phạm vi quản lý xã hội của Nhà nước ngày càng phức tạp, càng lớn, chi phí của Nhà nước cho việc cung ứng các dịch vu công cũng càng lớn, Nhà nước dần phải thay đổi phương thức cung ứng dịch vụ công của mình. Điều này diễn ra như một quy luật tất yếu của lịch sử phát triển của Nhà nước bằng cách chuyển dần những dịch vụ công vốn do Nhà nước đảm nhiệm cho cá nhân, tổ chức thực hiện bằng phương thức ký kết các hợp đồng với cá nhân, tổ chức.

Nhìn lại lịch sử của các nhà nước xã hội chủ nghĩa với quan niệm tuyệt đối hóa chế độ sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, hầu hết việc cung ứng các dịch vụ công đều do Nhà nước, hay tổ chức thuộc thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cung ứng. Từ đó dẫn đến tính trạng không giải phóng được năng lực sản xuất xã hội, chi phí cho dịch vụ công ngày một tăng, một số dịch vụ công càng ngày càng trở nên kém chất lượng, sản xuất kém phát triển, hệ quả dẫn đến những khủng hoảng kinh tế – xã hội, khủng hoảng chính trị vào cuối những năm tám mươi đầu những năm chín mươi thế kỷ XX, làm sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên xô.

Ở Việt Nam, từ năm 1945 tới nay, cũng diễn ra xu hướng dịch chuyển của dịch vụ công như sau: Khi mới giành độc lập, với những văn bản pháp luật đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã chính thức thừa nhận hình thức “thầu công vụ” [1]. Có nghĩa Nhà nước chuyển giao “công vụ” hay công việc của Nhà nước cho cá nhân thực hiện thông qua hình thức đấu thầu, bên cạnh đó hình thức tư nhân cung ứng các dịch vụ công cho xã hội cũng hình thành và phát triển ở những mức độ nhất định tuy còn ở trình độ thấp, đó là sự tồn tại và phát triển của các trường tư thục trong lĩnh vực giáo dục. Sau năm 1954, hình thức các trường tư thục vẫn tồn tại, hình thức công ty hợp danh cũng tồn tại trong một thời gian khá dài ở Miền Bắc để cung ứng các dịch vụ công, hay sản phẩm theo chế độ tem phiếu. Trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, hình thức này chuyển dần sang hình thức hợp tác xã, hay công ty của Nhà nước và dần dần phương thức tư nhân cung ứng các dịch vụ công cho xã hội không còn tồn tại. Hoạt động cung ứng các dịch vụ công cho xã hội do Nhà nước đảm nhiệm.

Sau năm 1975 do hậu quả chiến tranh để lại và do những nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau cộng với cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp trong thời kỳ chiến tranh vẫn được duy trì trong thời bình, năng lực sản xuất xã hội không được giải phóng làm cho đời sống của nhân dân càng trở nên khó khăn, dẫn đến sự khủng hoảng kinh tế vào những năm tám mươi thế kỷ XX. Xuất phát từ thực tiễn đó đòi hỏi đất nước phải đổi mới, dưới dự lãnh đạo của Đảng, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới kinh tế, từ đổi mới kinh tế dẫn đến đổi mới hành chính. Nhìn lại thấy được sự yếu kém, kém hiệu quả của khu vực công trong việc cung ứng các dịch vụ công và ưu thế của việc xã hội hóa dịch vụ công. Trong lĩnh vực công nghiệp xuất hiện quan điểm “ba lợi ích” “nhà nước và nhân dân cùng làm”, cùng với chủ trương chuyển sang nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa vào đầu những năm chín mươi thế kỷ XX, Nhà nước đã tiến hành xã hội hóa việc cung ứng một số dịch vụ công. Việc xã hội hóa ở đây không đơn thuần là việc chuyển dịch vụ công cho tư nhân thực hiện, mà còn nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất xã hội, giảm bớt gánh nặng tài chính cho Nhà nước và là bước ngoặt đánh dấu một sự thay đổi nhận thức của toàn xã hội khỏi những giáo điều chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy mà nhiều tổ chức thực hiện dịch vụ công xuất hiện và cũng xuất hiện nhiều loại hợp dồng như hợp đồng như: Hợp đồng giao thầu công chính (còn gọi là hợp đồng thầu khoán); hợp đồng cung ứng vật tư kỹ thuật và dịch vụ; hợp đồng đặc nhượng dịch vụ công; hợp đồng hợp tác; hợp đồng tuyển dụng công chức ngoại ngạch, hay hợp đồng hợp tác công tư.

Như vậy, việc chuyển dịch việc thực hiện dịch vụ công cho các cá nhân, tổ chức ngoài Nhà nước thực hiện như một tất yếu khách quan đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về dịch vụ công của xã hội. Nhìn từ góc độ kinh tế, xã hội, pháp lý có thể thấy dịch vụ công là những hoạt động vì lợi ích chung của xã hội, vì lợi ích công cộng. Dịch vụ công có thể do Nhà nước, hay các pháp nhân tư, cá nhân cung ứng, nhưng cá nhân, pháp nhân tư chỉ có thể thực hiện việc cung ứng dịch vụ công khi được Nhà nước ủy quyền, hoặc chấp thuận bằng một hợp đồng hoặc bằng một quyết định hành chính đơn phương. Hoạt động cung ứng dich vụ công được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật hành chính, do các cơ quan hành chính nhà nước quy định, không theo quy định của pháp luật dân sự, hay kinh tế. Điều đó có nghĩa là việc ký kết các hợp đồng cung ứng dịch vụ công được điểu chỉnh bởi luật hành chính, không theo luật thường – dân luật. Tất cả những yếu tố này tạo thànhyếu tố vật chất của hợp đồng hành chính.

Nhà nước nói chung, cơ quan nhà nước nói riêng với tư cách là pháp nhân cũng giống như các pháp nhân khác, có thể tham gia vào quan hệ bình đẳng với các bên khác trong quan hệ dân sự, kinh tế vì mục đích tiêu dùng, nhưng Nhà nước có thể tham gia vào các quan hệ với tư cách là pháp nhân công quyền khi Nhà nước ký kết các hợp đồng với cá nhân, pháp nhân tư để thực hiện các dịch vụ công. Vì vậy, về mặt pháp lý cần có sự phân biệt những hợp đồng được điều chỉnh bằng pháp luật dân sự, kinh tế, hay lao động và những hợp đồng được ký kết trên cơ sở của những quy phạm pháp luật hành chính. Việc phân biệt rõ những quan hệ nào, những lĩnh vực nào được điều chỉnh bởi luật công được coi là khuôn mẫu của sự công bằng và yêu cầu đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền. Điều này tạo nên động lực cho sự phát triển xã hội, mặt khác bảo đảm vị thế quyền uy của công quyền khi đáp ứng các lợi ích chung của xã hội. Sự lẫn lộn giữa luật công và luật tư là nguyên nhân làm suy yếu quyền lực của các pháp nhân công quyền. Vì vậy, cần phải phân biệt những quan hệ hợp đồng mà cơ quan nhà nước tham gia, có quan hệ được điều chỉnh bởi luật tư, có quan hệ được điều chỉnh bằng luật công và những tranh chấp phát sinh do luật tư điều chỉnh được giải quyết bằng cơ quan tài phán tư pháp, còn những tranh chấp do luật công điều chỉnh phải được giải quyết bằng tài phán hành chính.

2. Sự hình thành nhận thức về hợp đồng hành chính ở Việt Nam

Có thể nói trong điều kiện hiện nay ở nước ta, hợp đồng hành chính trong thực tiễn khá phát triển, nhưng về mặt khoa học thì việc nghiên cứu về hợp đồng hành chính còn rất khiêm tốn.

Đối với các chuyên gia pháp luật được đào tạo theo trường pháp pháp luật Xô viết – pháp luật xã hội chủ nghĩa, thường cũng chỉ quan tâm tới những hợp đồng truyền thống trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, thương mại, lao động, đó là những hợp đồng mà các bên trong quan hệ hoàn toàn tự do ý chí trong khuôn khổ pháp luật để ký kết các hợp đồng; các bên trong quan hệ hợp đồng hoàn toàn bình đẳng với nhau, không bên nào có ưu thế hơn bên khác trong quan hệ. Mà chưa có những nghiên cứu một cách căn bản về hợp đồng hành chính. Điều này xuất phát từ nguyên nhân khách quan là trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp, việc cung ứng các dịch vụ công cho xã hội do Nhà nước, các doanh nghiệp, hay tổ chức nhà nước cung ứng, Nhà nước bằng quyết định hành chính giao cho các tổ chức của Nhà nước thực hiện. Mọi hoạt động sản xuất kinh tế, cung ứng các dịch vụ công đều do Nhà nước, các tổ chức, hay doanh nghiệp do Nhà nước thành lập đảm nhiệm. Cơ quan hành chính là người tối cao quyết định mọi hoạt động của các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp. Trong điều kiện như vậy, khó có có mảnh đất cho những tư duy về hợp đồng hành chính, cho tư duy chuyển những công việc của Nhà nước cho cá nhân, hay pháp nhân phi quốc doanh thực hiện. Vì vậy, mà nhiều thế hệ các chuyên gia pháp luật Việt Nam cũng không quen với thuật ngữ hợp đồng hành chính.

Tuy vậy, cũng phải nhìn nhận một cách khách quan là do sự thay đổi của Hiến pháp, chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta qua các giai đoạn lịch sử. Thời kỳ đầu mới lập nước, sau cách mạng tháng Tám thành công, việc cung ứng một số dịch vụ công có thể do thành phần kinh tế phi nhà nước đảm nhiệm, đó là sự xuất hiện, tồn tại của những trường tư thục – trường dân lập để thực hiện chương trình giáo dục mầm non, mẫu giáo, thậm chí là những năm đầu của giáo dục tiểu học (dạy vỡ lòng, lớp 1, lớp 2)… Về sau thì những thiết chế này không còn tồn tại nữa. Điều đặc biệt là trong pháp luật, Sắc lệnh số 63/SL ngày 22/11/1945 và Sắc lệnh số 77 ngày 21/12/1945 đã sử dụng thuật ngữ “cho thầu công vụ”, phải chăng là những công việc của Nhà nước được đưa ra đấu thầu. Như vậy, về mặt pháp lý, Nhà nước có thể chuyển những công vụ nhà nước cho cá nhân, tổ chức ngoài Nhà nước thực hiện thông qua cơ chế đấu thầu, cơ chế giao kết một hợp đồng. Rất tiếc là những vấn đề này cũng không được ai nghiên cứu tiếp theo và chắc chắn nó ít được áp dụng trong thực tiễn.

Vào những năm chín mươi thế kỷ qua trong các giáo trình Luật hành chính ở các cơ sở đào tạo, các chuyên gia pháp luật, chuyên gia hành chính ở Miến Bắc khi đề cập tới hợp đồng hành chính cũng chỉ rất ngắn gọn, đơn giản coi thỏa thuậnhành chính là một phương pháp của luật hành chính, điều chỉnh quan hệ phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước khi giữa hai cơ quan hành chính cùng cấp ban hành thông tư liên tịch, hay giữa các cơ quan chính quyền địa phương cùng nhau thỏa thuận “ban hành” một văn bản với tên gọi “thỏa thuận” hay “nghị quyết” để cùng nhau giải quyết một vấn đề chung nào đó thuộc trách nhiệm của hai địa phương. Tuy vậy, cũng không có bất kỳ một sự ràng buộc nào giữa các bên ký kết thỏa thuận. Hay giữa một bên là chính quyền cùng với tập thể lao động ký kết “thỏa ước tập thể”, hay “thỏa ước lao động”, nhưng cũng không có bất kỳ một sự ràng buộc nào về mặt pháp lý, thường được ký kết rất long trọng, nhưng lại không được bảo đảm về mặt pháp lý, có nghĩa chưa có cơ sở pháp lý để bảo đảm cho nó được thực hiện. Mặt khác, trong các giáo trình cũng chỉ đề cập tới phương pháp thỏa thuận trong hành chính như là một phương pháp của quản lý nhà nước mới xuất hiện bên cạnh biện pháp truyền thống trong hành chính là phương pháp: Mệnh lệnh, quyền lực – phục tùng, mà chưa hề có bất kỳ một định nghĩa, giải thích nào về hợp đồng hành chính.

Trong khi đó ở miền Nam trước năm 1975 tiếp thu các tri thức của phương Tây, Anh – Mỹ và cũng do thực tiễn kinh tế – xã hội ở miền Nam phát triển hơn ở Miến Bắc trong nhiều lĩnh vực, kể cả lĩnh vực cung ứng dịch vụ công, do đó trong một số giáo trình Luật hành chính trước và sau năm 1975 ở miền Nam cũng đã đề cấp tới hợp đồng hành chính ở những nét khá cơ bản. Ví dụ: Trong cuốn Luật hành chánh do Nguyễn Độ biên soạn (loại sách Hồng – Đức) Sài Gòn năm 1969 cũng đã đề cập tới khế ước hành chính. Trong đó đề cập đến quan niệm của các chuyên gia luật tư và luật công về khế ước hành chính. Theo tác giả sự ra đời của hợp đồng hành chính là do “nhu cầu kỹ thuật cho một sự hợp tác đặc biệt về công vụ giữa một cơ quan hành chính và một tư nhân…”[2], đồng thời cũng đã bước đầu chỉ ra một số đặc điểm của hợp đồng hành chính, tuy vậy cũng không đưa ra định nghĩa khoa học về hợp đồng hành chính và tất cả những vấn đề trong giáo trình này cũng còn rất sơ khai chỉ có một vài trang.

Trong giáo trình Luật hành chính do Cẩn Chi soạn thảo năm 1992, phục vụ cho đào tạo các chuyên gia pháp luật ở miền Nam cũng giành một phần viết về khế ước hành chính, trong đó phân biệt hợp đồng hành chính với hợp đồng quản trị, đồng thời cũng đã bước đầu xác định một số loại hợp đồng hành chính ở nước ta và đưa ra một số tiêu chí để phân biệt hợp đồng hành chính với hợp đồng dân sự, con đường giải quyết tranh chấp hợp đồng hành chính bằng Tòa án hành chính. Tuy rằng, ở Việt Nam khi đó chưa trao cho Tòa án chức năng xét xử các vụ án hành chính, vì vậy những vấn đề lý luận đưa ra cũng chủ yếu dựa vào tri thức của nước ngoài, mà chưa có cơ sở pháp lý, vì pháp luật Việt Nam cho đến tận bây giờ cũng chưa sử dụng thuật ngữ “hợp đồng hành chính”.

Các nhà kinh tế học Việt Nam vào đầu những năm chín mươi cũng đã quan tâm tới “hợp đồng hành chính” và việc sử dụng chúng trong quản lý nhà nước. Trong “Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính” do GS. Mai Hữu Khuê chủ biên [3] cũng đã bước đầu đưa ra định nghĩa về hợp đồng hành chính, tuy còn rất sơ khai, đơn giản.

Đề tài khoa học cấp Bộ về “Hợp đồng hành chính và việc áp dụng vào quản lý nhà nước về kinh tế” do ThS. Đào Đăng Kiên làm chủ nhiệm đề tài, Học viện Hành chính Quốc gia năm 2002, lần đầu tiên đã đưa ra quan niệm về hợp đồng hành chính, nhưng còn mới chỉ là sự mô tả, chưa mang tính khái quát khoa học cao. Đồng thời tác giả cũng đưa ra các tiêu chí về hợp đồng hành chính, chỉ ra một số đặc trưng của hợp đồng hành chính, phân biệt hợp đồng hành chính với hợp đồng kinh tế, dân sự và cũng đã đề cập tới một số loại hợp đồng hành chính ở Việt Nam. Tuy vậy, những khía cạnh pháp lý của các loại hợp đồng ít được tác giả quan tâm làm rõ. Mặt khác, nhiều vấn đề nghiên cứu cũng chủ yếu dựa vào tài liệu của các học giả nước ngoài, nên có những ý kiến đưa ra mang tính chất chủ quan, chưa có cơ sở thực tiễn ở Việt Nam. Ngay chính trong đề tài này cũng không xem xét phân tích một cách cụ thể, xác đáng về một loại hợp đồng hành chính nào đó đã được sử dụng ở Việt Nam và được gọi là hợp đồng hành chính, mặc dù trong công trình này có đưa ra một số ví dụ cụ thể để minh họa về hợp đồng hành chính.

Giáo trình Luật hành chính Việt Nam – Khoa luật năm 2010 do PGS.TS. Nguyễn Cửu Việt biên soạn đã giành một mục viết về hợp đồng hành chính [4], bước đầu đưa ra quan niệm về hợp đồng hành chính, đặc điểm của hợp đồng hành chính và xác định, phân loại một số loại hợp đồng được gọi là hợp đồng hành chính, mà theo tác giả là theo tư duy pháp lý của các học giả nước ngoài, thì những hợp đồng được nêu ra là hợp đồng hành chính. Đây có thể được coi là những nghiên cứu cơ bản, đầu tiên về hợp đồng chính ở nước ta.

Năm 2006, PGS.TS. Phạm Hồng Thái công bố bài viết “Thầu công vụ – tư tưởng có tính thời đại” đăng Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, cũng năm đó viết bài “Từ thầu công vụ đến thầu chức vụ” đăng Tạp chí Dân chủ và Pháp luật. Trong đó, tác giả tập trung luận bàn về tư tưởng “thầu công vụ” trong Sắc lệnh số 63/SL và Sắc lệnh số 77/SL năm 1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời và quan niệm việc tuyển dụng cán bộ, công chức và bổ nhiệm các chức danh trong bộ máy nhà nước trên cơ sở thi tuyển cạnh tranh thực chất cũng là “thầu các chức vụ”. Cơ quan tuyển dụng, bổ nhiệm và người được tuyển dụng, bổ nhiệm, hay được bầu thực chất đã ký kết hợp đồng hành chính để đảm nhiệm công vụ nhà nước. Bài viết đăng tạp chí Luật học tháng 6 năm 2012 của GS.TS. Phạm Hồng Thái với tiêu đề: “Hợp đồng hành chính – một số vấn đề lý luận” cũng dừng lại nghiên cứu một số vấn đề lý luận về hợp đồng hành chính. Trên cơ sở phân tích các quan điểm của các học giả trong và ngoài nước khác nhau về hợp đồng hành chính, tiếp thu các quan điểm khoa học và bằng tư duy pháp lý, tác giả đưa ra quan niệm khoa học của mình về hợp đồng hành chính, chỉ ra được một số đặc điểm của hợp đồng hành chính, trên cơ sở phân biệt với các hợp đồng pháp lý khác, các loại hợp đồng hành chính đã được áp dụng ở Việt Nam và nêu ý kiến về việc cần phải thừa nhận hợp đồng hành chính trong pháp luật Việt Nam, không nên xếp chúng vào hợp đồng kinh tế, hay hợp đồng lao động. Ví dụ hợp đồng trong nghiên cứu khoa học, hợp đồng với công chức ngoại ngạch.

Như vậy, cho tới nay ở Việt Nam, chưa có những công trình nghiên cứu chuyên sâu về hợp đồng hành chính từ góc nhìn luật học. Có thể nói là khoa học luật học chưa phát triển theo kịp sự vận động phát triển của các quan hệ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khi mà các quan hệ trong lĩnh vực công, tư luôn thay đổi, vận động không ngừng. Nhà nước bắt đầu sử dụng những hình thức và phương pháp mới trong quản lý nhà nước để đáp ứng các yêu cầu của đời sống xã hội, đáp ứng việc cung ứng các dịch vụ công cho cá nhân, tổ chức, hoặc Nhà nước đứng ra “mua các dịch vụ” do cá nhân, tổ chức ngoài Nhà nước cung ứng và Nhà nước tiếp tục cung ứng cho các cá nhân, tổ chức nhằm đáp ứng yêu cầu thiết yếu của cá nhân, hay tổ chức với một mức giá nhất định, thấp hơn giá mà cá nhân, tổ chức bán dịch vụ cho Nhà nước.

Đây là những nghiên cứu bước đầu về hợp đồng hành chính ở Việt Nam, nhưng những công trình nêu trên, dù ở mức độ ít nhiều đã góp phần mở ra một xu hướng nghiên cứu mới cho sự phát triển của khoa học luật học Việt Nam về hợp đồng hành chính cả về lý luận và thực tiễn, đặc biệt là đặt ra những yêu cầu tiếp tục nghiên cứu phân biệt các loại hợp đồng mà các pháp nhân công quyền có thể sử dụng trong thực tiễn để đáp ứng yêu cầu của nền hành chính trong quản trị đất nước và cung cấp các dịch vụ công cho công dân.

3. Vai trò của hợp đồng hành chính

Ngày nay trong xu hướng cải cách hành chính chuyển từ hành chính điều hành sang hành chính phát triển, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi cơ quan hành chính phải thay đổi phương thức quản lý nhà nước bằng hình thức ký kết các hợp đồng hành chính. Hợp đồng hành chính thực chất là văn bản pháp lý được ký kết giữa các bên tham gia, việc ký kết hợp đồng là hình thức hoạt động của cá nhân, tổ chức, cơ quan, bởi vì thông qua việc ký kết các hợp đồng mà các chủ thể hợp đồng tham gia vào những quan hệ xã hội nhất định.

Trong lĩnh vực hành chính để đạt được mục tiêu, mục đích của quản lý, các cơ quan hành chính nhà nước (cả những cơ quan khác khi thực hiện hoạt động hành chính nhà nước) sử dụng chủ yếu phương pháp: Mệnh lệnh, quyền lực – phục tùng thông qua hoạt động mang tính pháp lý – ban hành các quyết định hành chính. Nhưng trong một số trường hợp để đạt được mục tiêu, mục đích của quản lý, đáp ứng những nhu cầu cần thiết cho cộng đồng, cơ quan hành chính nhà nước ký kết các hợp đồng khác nhau. Trong một số trường hợp, khi giao kết hợp đồng với các chủ thể khác, cơ quan nhà nước đại diện cho công quyền – với tư cách là một pháp nhân công pháp, hay đại diện cho một pháp nhân công pháp để ký kết, chính vì lẽ đó mà hợp đồng hành chính như là cái gạch nối giữa quan hệ dân sự, lao động, kinh tế với quan hệ hành chính. Bằng việc ký kết hợp đồng hành chính, các pháp nhân công pháp đáp ứng được các nhu cầu cho hoạt động của mình hoặc vì lợi ích cộng đồng, xã hội, công dân. Chính vì lẽ này hợp đồng hành chính được xem xét là hình thức của hoạt động hành chính nhà nước [5], hình thức của quản lý nhà nước.

Mặt khác, hợp đồng hành chính trở thành chuẩn mực điều chỉnh quan hệ giữa pháp nhân công pháp – một bên ký kết hợp đồng với bên khác trong quan hệ là cá nhân, tổ chức, cơ quan công quyền khác để thực hiện những dịch vụ công, công vụ nhà nước, hay những công việc thuộc nhiệm vụ của nhiều cơ quan cùng phải thực hiện.

Trong công cuộc cải cách hành chính nhà nước, việc chuyển từ hành chính truyền thống sang nền hành chính công mới, từ nền hành chính công mới sang quản lý công mới, hình thức và phương pháp hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung, cơ quan hành chính nhà nước nói riêng có nhiều những thay đổi, hợp đồng hành chính ngày càng có ý nghĩa, vai trò quan trọng trong đời sống nhà nước và xã hội, đặc biệt trong hoạt động hành chính nhà nước, được thể hiện ở những điểm sau đây:

Thứ nhất, sự ra đời của hợp đồng hành chính góp phần làm thay đổi phương thức, hình thức hoạt động của các cơ quan công quyền, đặc biệt là cơ quan hành chính nhà nước. Phương pháp mệnh lệnh hành chính (quyết định đơn phương của cơ quan hành chính nhà nước) được thay dần bằng hợp đồng hành chính trong mộtsố trường hơp, qua đó mà quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức, nhà nước được bảo đảm.

Thứ hai, sự ra đời của hợp đồng hành chính tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển dịch vụ công, tách hoạt động cung ứng dịch vụ công ra khỏi hoạt động công quyền nhằm giảm những chi phí không cần thiết cho ngân sách nhà nước, giảm biên chế trong bộ máy nhà nước, bảo đảm tính công khai, minh bạch của hoạt động công quyền và hoạt động cung ứng dịch vụ công.

Thứ ba, với việc sử dụng hợp đồng hành chính trong hoạt động hành chính nhà nước làm cho công quyền xích lại gần với xã hội dân sự, tạo điều kiện cho xã hội dân sự phát triển, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan công quyền với cá nhân, tổ chức, tạo mối quan hệ trách nhiệm qua lại giữa nhà nước và công dân.

Thứ tư, khi một số hợp đồng dân sự, lao động, hay quyết định hành chính được “chuyển hóa” thành hợp đồng hành chính sẽ làm cho hợp đồng được thực thi một cách nghiêm minh hơn, bởi tính công quyền của pháp nhân công pháp với tư cách là một bên trong quan hệ hợp đồng.

Thứ năm, việc giải quyết tranh chấp trong thực hiện hợp đồng hành chính sẽ bớt gây tổn hại về kinh tế, tài chính của Nhà nước, cá nhân, tổ chức như trong giải quyết tranh chấp dân sự, kinh tế.

Với quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tôn trọng và bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân và cải cách hành chính ở nước ta hiện nay, phù hợp với xu hướng hội nhập, mở cửa, theo chúng tôi điều quan trọng hiện nay ở nước ta là cần phải:

– Đổi mới tư duy pháp lý, trước hết là của giới học thuật để có những nhận thức theo kịp với xu hướng phát triển của khoa học pháp lý chung trên thế giới, đặc biệt là những nhận thức trong lĩnh vực hợp đồng hành chính. Không nên chia cắt pháp luật vốn là một thể thống nhất thành các mảng có tính chuyên biệt để xem xét, không nên tuyệt đối hóa những nhận thức có tính truyền thống về hợp đồng, về hành chính nhà nước. Hành chính nhà nước cũng chỉ là một thiết chế cũng giống như những thiết chế khác trong xã hội, có trách nhiệm, nghĩa vụ phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân.

– Trong khoa học pháp lý Việt Nam, cần có những nghiên cứu để phân biệt hợp đồng hành chính với các hợp đồng truyền thống (dân sự, lao động, kinh tế, thương mại). Các nhà khoa học Việt Nam, trước hết là các chuyên gia pháp luật cần phải tập trung nghiên cứu một cách xác đáng về hợp đồng hành chính cả ở phương diện lý luận và thực tiễn, coi đây là một định hướng của nghiên cứu khoa học Luật hành chính.

– Những kết quả nghiên cứu khoa học của các nhà khoa học về hợp đồng hành chính sẽ lan tỏa, dần tác động đến nhận thức của các nhà lập pháp, các nhà hành chính và cả các quan tòa, làm cho hoạt động hành chính nhà nước ngày một năng động, sáng tạo, tăng tính trách nhiệm của bộ máy hành chính trong quan hệ với cá nhân, tổ chức, xã hội.

– Để đưa hợp đồng hành chính vào đời sống nhà nước và xã hội, điều đặc biệt quan trọng là phải hoàn thiện hệ thống pháp luật cả pháp luật dân sự, pháp luật lao động, kinh doanh, thương mại, pháp luật hành chính. Cần phải tách những hợp đồng được xếp vào loại hợp đồng hành chính ra khỏi những văn bản quy phạm pháp luật quy định về hợp đồng dân sự, hợp đồng lao động, hợp đồng kinh tế, thương mại và đặt tên cho những hợp đồng loại này là hợp đồng hành chính. Việc này có thể được thực hiện bằng cách công nhận những hợp đồng nào đó là hợp đồng hành chính bằng văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hoặc bằng quyết định của Tòa án qua hoạt động xét xử để khẳng định một hợp đồng nào đó là hợp đồng hành chính.

GS. TS. Phạm Hồng Thái

Tài liệu tham khảo:

[1]. Xem khoản 4 Điều 85 Sắc lệnh số 63/Sl ngày 22/11/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời và khoản 4 Điều 18 Sắc lệnh số 77 /Sl ngày 21/12/ 1945 ngày của Chủ tịch lâm thời.

[2]. Nguyễn Độ, Luật hành chánh, loại sách Hồng- Đức, Sài Gòn năm 1969, tr. 107.

[3]. Mai Hữu Khuê chủ biên, Từ Điển giải thích thuật ngữ, Nxb. Lao động Hà Nội năm 2002, tr. 335 và 336.

[4]. Khoa luật, Luật hành chính Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010, tr. 411- 417.

[5]. Xem Luật hành chính Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010, tr. 407.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số vấn đề về quyền bào chữa của người bị buộc tội theo quy định của pháp luật quốc tế

25/12/2015

Quyền bào chữa của người bị buộc tội (bao gồm cả quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa) là một trong những chế định cổ xưa và lâu đời của pháp luật tố tụng hình sự. Đó là tất cả các quyền và biện pháp tố tụng mà người bị buộc tội được phép thực hiện nhằm hướng tới việc bác bỏ sự buộc tội, chứng minh sự vô tội, giảm nhẹ tội hoặc để bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình. Pháp luật tố tụng hình sự các nước trên thế giới đều quy định về quyền bào chữa như một trong những quyền cơ bản và quan trọng nhất của người bị buộc tội. Trong hoạt động tố tụng, cùng với chức năng buộc tội, sự hiện hữu của chức năng bào chữa là một trong những điều kiện cần thiết giúp cho phán quyết của Toà án được công bằng, khách quan.

Người có quyền bào chữa chính là người bị buộc tội và quyền bào chữa là một loại quyền năng tố tụng, nó không thuộc về cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng hay người tham gia tố tụng nào khác ngoài người bị buộc tội. Việc pháp luật quy định các cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết để tạo điều kiện cho người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa của họ nhằm giải quyết vụ án khách quan, chính xác là phù hợp. Điều này đã được ghi nhận cụ thể tại Điều 14 Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị (ICCPR) và một số văn bản pháp lý quốc tế khác có liên quan.

Để tìm hiểu thêm về quyền bào chữa của người bị buộc tội theo quy định của pháp luật quốc tế, trân trọng kính mời Quý bạn đọc đón đọc bài viết “Một số vấn đề về quyền bào chữa của người bị buộc tội theo quy định của pháp luật quốc tế” của tác giả Ngô Thị Ngọc Vân đăng tải trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật định kỳ số tháng 12 năm 2015.

Nguyễn Minh Trí

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bàn về quy định tính hiệu lực của Hiến pháp Việt Nam dưới góc nhìn đối chiếu với Hiến pháp một số quốc gia Đông Nam Á

26/11/2015

Trong các nền dân chủ hiện đại, Hiến pháp được quan niệm như đạo luật cơ bản, giữ vị trí tối thượng về giá trị pháp lý trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Các tư tưởng lập hiến hiện đại đều coi Hiến pháp như một văn bản có sứ mệnh xác lập chế độ mới thay thế chế độ cũ và coi nó như một bản khế ước xã hội của nhân dân[1]. Việc quy định tính hiệu lực tối cao của Hiến pháp ngay trong chính bản thân Hiến pháp của mỗi quốc gia là hết sức quan trọng, bởi nó không chỉ là sự ghi nhận mà còn là cơ sở pháp lý để bảo đảm cho hiệu lực pháp lý cao nhất của Hiến pháp trong hệ thống pháp luật. Để thể hiện được tính tối cao của Hiến pháp thì các điều khoản được quy định trong Hiến pháp phải bảo đảm đầy đủ ba yếu tố sau: (1) Khẳng định Hiến pháp là đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất; (2) Quy định mọi cơ quan nhà nước, cá nhân và tổ chức đều phải tuyệt đối tuân thủ Hiến pháp; (3)Quy định bất kỳ văn bản pháp luật nào trái với Hiến pháp đều phải bị bãi bỏ hoặc không có hiệu lực thi hành[2].

Song, nếu đem ba tiêu chí này để đối chiếu vào các bản Hiến pháp trong các nền dân chủ hiện đại thì sẽ thấy có sự khác nhau về quy định tính hiệu lực của Hiến pháp ở mỗi quốc gia và Hiến pháp Việt Nam năm 2013 cũng không là một ngoại lệ.

Trong phạm vi bài viết này, trên cơ sở xem xét các quy định về tính hiệu lực của bản Hiến pháp một số quốc gia Đông Nam Á để đối chiếu làm sáng tỏ vấn đề này trong Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam.

1. Quy định về tính hiệu lực trong Hiến pháp một số quốc gia Đông Nam Á

Nghiên cứu một số bản Hiến pháp của các quốc gia khu vực Đông Nam Á cho thấy hoàn toàn không có sự thống nhất giữa các quốc gia trong việc quy định tính hiệu lực của Hiến pháp. Ở góc độ chung, dựa trên sự đáp ứng các tiêu chí đã nêu, có thể chia các bản Hiến pháp thành ba nhóm: Nhóm 1: Các bản Hiến pháp trực tiếp quy định tính hiệu lực tối cao của Hiến pháp; nhóm 2: Các bản Hiến pháp gián tiếp quy định hiệu lực tối cao trong Hiến pháp; nhóm 3: Các bản Hiến pháp quy định tính hiệu lực không rõ ràng.

– Nhóm 1: Bao gồm Hiến pháp các quốc gia: Liên bang Malaysia, Vương quốc Thái Lan và Cộng hòa Singapore. Theo đó, Điều 4.1 Hiến pháp Liên bang Malaysia quy định: “Hiến pháp này là đạo luật tối cao của Liên bang và bất kỳ văn bản luật nào được ban hành sau ngày độc lập đều phải tuân thủ Hiến pháp và nếu như không tuân thủ thì sẽ không có hiệu lực”[3]. Quy định này đã quy định dứt khoát hiệu lực tối thượng của Hiến pháp trong hệ thống văn bản pháp luật, đồng thời quy định hậu quả pháp lý của các văn bản pháp luật khác nếu không phù hợp với quy định của Hiến pháp.

Tương tự như quy định của Hiến pháp Liên bang Malaysia, Điều 6 Hiến pháp Vương quốc Thái Lan quy định: “Hiến pháp là đạo luật tối cao của Nhà nước. Luật quy định trái hoặc không phù hợp với Hiến pháp này sẽ không được áp dụng”[4].

Cũng tương tự như hai bản Hiến pháp trên, nhưng tại Điều 4 Hiến pháp Cộng hòa Singapore hiện hành quy định về hiệu lực của Hiến pháp một cách dứt khoát hơn: “Hiến pháp này là luật tối cao của Cộng hòa Singapore và bất kỳ đạo luật nào do cơ quan lập pháp ban hành sau khi bắt đầu thực hiện Hiến pháp này mà trái với Hiến pháp này, sẽ bị vô hiệu”[5].

– Nhóm 2: Hiến pháp các quốc gia không quy định trực tiếp hiệu lực tối cao của Hiến pháp, nhưng trong các quy định đã gián tiếp hiểu Hiến pháp giữ vị trí cao nhất trong hệ thống văn bản pháp luật, bao gồm Hiến pháp các quốc gia: Cộng hòa Indonesia và Cộng hòa Philippines.

Hiến pháp Cộng hòa Indonesia quy định về tính hiệu lực của Hiến pháp như sau: “Tòa án Hiến pháp có thẩm quyền ra phán quyết cuối cùng đối với các vụ việc sơ thẩm, đồng thời chung thẩm liên quan đến việc kiểm tra sự phù hợp của các luật với Hiến pháp”[6]. Với quy định này có thể hiểu rằng, các luật khi ban hành phải phù hợp với Hiến pháp và trao cho Tòa án Hiến pháp thẩm quyền thẩm định tính hợp hiến của các đạo luật.

Điều 8 khoản 4.2 Hiến pháp hiện hành Cộng hòa Philippines quy định: “Tòa án tối cao có thẩm quyền xét xử các vụ việc về tính hợp hiến hay giá trị pháp lý của các điều ước, cam kết, thỏa thuận quốc tế, luật, nghị định, tuyên bố, sắc lệnh, thông tư hay quy định của Tổng thống”[7]. Quy định này cho thấy, Hiến pháp Philippines, tương tự như Hiến pháp Indonesia, không đề cập trực tiếp hiệu lực của Hiến pháp, chỉ chỉ ra một cách gián tiếp các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước ban hành hoặc công nhận không được trái với Hiến pháp.

– Nhóm 3: Các bản Hiến pháp ghi nhận không rõ ràng về tính hiệu lực của Hiến pháp, bao gồm Hiến pháp của các quốc gia: Vương quốc Brunei, Cộng hòa liên bang Myanmar, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và Vương quốc Campuchia.

Tại khoản 1 Điều 84 Hiến pháp Vương quốc Brunei quy định: “chính quyền sẽ phải bị điều chỉnh theo quy định của Hiến pháp này…”[8].Quy định trên chưa thể hiện được tính hiệu lực cao của Hiến pháp trong hệ thống văn bản pháp luật của Vương quốc Brunei. Trong số các bản Hiến pháp của các quốc gia Đông Nam Á được đề cập đến ở bài viết này, đây là bản Hiến pháp thể hiện yếu nhất về tính hiệu lực của Hiến pháp.

Hiến pháp Vương quốc Campuchia tại Điều 150 quy định: “Hiến pháp là đạo luật tối cao của Vương quốc Campuchia. Pháp luật và các quyết định của các cơ quan nhà nước phải tuyệt đối tuân thủ Hiến pháp”. Điều này cho thấy Hiến pháp Campuchia đã đề cập được hai/ba tiêu chí bảo đảm tính hiệu lực cao của Hiến pháp: Thứ nhất, khẳng được giá trị pháp lý cao nhất của Hiến pháp trong hệ thống pháp luật, được thể hiện bởi cụm từ “Hiến pháp là đạo luật tối cao” chứ không phải là “đạo luật cơ bản” như quy định trong một số bản Hiến pháp khác. Thứ hai, Hiến pháp cũng đã khẳng định mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Tuy nhiên, một điểm hạn chế là Hiến pháp Vương quốc Campuchia chưa quy định rõ về hậu quả pháp lý đối với văn bản pháp luật có nội dung trái với quy định của Hiến pháp.

Trong Điều 96 Hiến pháp Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào quy định về tính hiệu lực của Hiến pháp như sau: “Hiến pháp Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào là đạo luật cơ bản của quốc gia. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp”[9]. Theo đó, hai trong số ba tiêu chí về hiệu lực của Hiến pháp đã được đề cập đến: (1) Khẳng định được giá trị pháp lý cao nhất của Hiến pháp trong hệ thống pháp luật. (2) Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Tuy nhiên, điểm hạn chế trong quy định này là tính chưa rõ ràng khi sử dụng cụm từ “đạo luật cơ bản”, vì thiếu tính định lượng.

Điều 449 Hiến pháp của Liên bang Myanmar quy định về tính hiệu lực của Hiến pháp như “là đạo luật cơ bản của tất cả các văn bản của pháp luật Liên bang”[10] cũng chưa rõ ràng, với những thuật ngữ mang tính “mơ hồ” về hiệu lực và hậu quả pháp lý của những văn bản pháp luật trái với quy định trong Hiến pháp. Với quy định này khó có thể khẳng định được tính hiệu lực mạnh mẽ trong Hiến pháp Myanmar, bởi: Thứ nhất, Hiến pháp Myanmar không quy định cụ thể “luật cơ bản” có nghĩa là gì; thứ hai, Hiến pháp Myanmar cũng không quy định rõ ràng, nếu văn bản pháp luật của Liên bang trái với Hiến pháp sẽ xem xét về tính hợp hiến như thế nào.

Như vậy, qua các điểm trên cho thấy, Hiến pháp Vương quốc Thái Lan, Hiến pháp Liên bang Malaysia, Hiến pháp Cộng hòa Singapore dù quy định ngắn gọn nhưng thể hiện mạnh mẽ nhất về hiệu lực của Hiến pháp. Theo đó, cả ba bản Hiến pháp này đã thể hiện đầy đủ cả ba tiêu chí bảo đảm hiệu lực tối thượng của Hiến pháp.

2. Một số nhận xét về quy định tính hiệu lực của Hiến pháp trong các bản Hiến pháp của một số quốc gia Đông Nam Á

Thứ nhất, các bản Hiến pháp Đông Nam Á quy định Hiến pháp giữ vị trí tối thượng trong hệ thống pháp luật theo mức độ tăng dần

Thực tiễn cho thấy, Hiến pháp là linh hồn của nền dân chủ trong một quốc gia, vì thế, việc ghi nhận vị trí tối cao của Hiến pháp trong Hiến pháp là cơ sở pháp lý tối quan trọng để giữ cho linh hồn dân chủ trường tồn. Dù mức độ hiệu lực của Hiến pháp được ghi nhận ở các bản Hiến pháp khác nhau, tuy nhiên điểm chung giữa các bản Hiến pháp đều quy định Hiến pháp là “luật cơ bản” và vì thế có hiệu lực cao nhất trong hệ thống pháp luật. Có thể dựa trên tiêu chí hiệu lực của Hiến pháp để xếp loại các bản Hiến pháp của các quốc gia trên cơ sở mức độ hiệu lực tăng dần như sau:

Hiến pháp Vương quốc Brunei: Hiến pháp Brunei chỉ quy định chính quyền mới bị điều chỉnh theo quy định của Hiến pháp, mà chính quyền theo quy định này chính là Nghị viện và Chính phủ, “chính quyền” ở đây không bao gồm Quốc vương Brunei. Bởi Điều 84.2 quy định: “Hiến pháp này không được làm ảnh hưởng đến đặc quyền của Quốc vương” và để tránh mọi sự hiểu nhầm, Hiến pháp này tuyên bố rằng “Quốc vương vẫn có toàn quyền làm luật và sửa đổi luật, bổ sung Hiến pháp nếu thấy cần thiết”. Như vậy, hiệu lực pháp lý của Hiến pháp nằm dưới quyền lực của Quốc vương, tính hiệu lực của Hiến pháp Brunei thể hiện rất yếu và mờ nhạt.

Hiến pháp Cộng hòa Indonesia và Cộng hòa Philippines: Cả hai bản Hiến pháp này đều gặp nhau ở một điểm chung là không có điều khoản nào trực tiếp quy định về tính hiệu lực tối cao của Hiến pháp. Song, với các quy định về thẩm quyền của Tòa án tối cao và Tòa án Hiến pháp cho phép suy đoán Hiến pháp giữ vị trí tối thượng trong hệ thống pháp luật với sự hiện diện của thiết chế pháp lý bảo đảm hiệu lực của Hiến pháp.

Hiến pháp Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và Hiến pháp Vương quốc Campuchia: Cả hai bản Hiến pháp này đều quy định về tính hiệu lực rất ngắn gọn, nhưng phần nào thể hiện tính rõ ràng trong việc quy định tính hiệu lực do trong Hiến pháp đã đề cập được hai trong ba tiêu chí bảo đảm hiệu lực của Hiến pháp. Nhưng điểm yếu của các bản Hiến pháp này là chưa quy định được hậu quả pháp lý đối với văn bản pháp luật vi hiến, làm cho tính hiệu lực của Hiến pháp không cao so với Hiến pháp của các nước Thái Lan, Singapore và Malaysia.

Thứ hai, tính hiệu lực tối cao của Hiến pháp phụ thuộc nhiều vào các yếu tố: (i) Sự rõ ràng trong quy định và (ii) Có hay không có thiết chế bảo hiến

Từ những quy định hiện hành về hiệu lực của Hiến pháp trong các bản Hiến pháp các quốc gia cho thấy rằng, ngoài Hiến pháp ba quốc gia: Vương quốc Thái Lan, Cộng hòa Singapore và Hiến pháp của Liên bang Malaysia là có quy định về tính hiệu lực của Hiến pháp, bảo đảm được tính hiệu lực tối cao của Hiến pháp trong hệ thống pháp luật, đồng thời xác lập cơ chế bảo đảm Hiến pháp, còn hầu hết Hiến pháp các quốc gia còn lại trong khu vực Đông Nam Á vẫn chưa có quy định rõ ràng về tính hiệu lực tối cao của Hiến pháp trong Hệ thống pháp luật. Trong đó, nổi bật là Hiến pháp Brunei, tính hiệu lực tối cao của Hiến pháp này quy định còn quá yếu, chưa có cơ chế bảo đảm tính hiệu lực tối cao của Hiến pháp.

Với Hiến pháp Cộng hòa liên bang Myanmar, Hiến pháp Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và Hiến pháp vương quốc Campuchia, mặc dù các nhà lập hiến của các quốc gia này đã có mong muốn thể hiện vị trí quan trọng nhất của Hiến pháp trong hệ thống pháp luật, song, do việc sử dụng thuật ngữ còn mang tính “mơ hồ”, dẫn đến nội dung các quy định này chưa bảo đảm được vị trí tối cao của Hiến pháp, trong đó điểm chính làm ảnh hưởng tính tối cao của Hiến pháp là còn thiếu cơ chế bảo đảm hiệu lực của Hiến pháp.

Có thể thấy, khác biệt giữa tính hiệu lực của các bản Hiến pháp là sự hình thành cơ chế để bảo đảm hiệu lực của Hiến pháp trong thực tế, trong đó trọng tâm là việc quy định địa vị pháp lý của thiết chế bảo hiến được quy định ngay chính trong Hiến pháp.

Thứ ba, vị trí sắp đặt điều khoản về tính hiệu lực trong Hiến pháp một số quốc gia Đông Nam Á phù hợp với vị trí của Hiến pháp trong hệ thống pháp luật

Nếu ba tiêu chí để bảo đảm tính hiệu lực của một bản Hiến pháp đã đề cập ở trên thể hiện phần nội dung của tính hiệu lực thì vị trí của điều khoản về tính hiệu lực của bản Hiến pháp đó thể hiện phần hình thức. Nội dung là yếu tố tiên quyết và hình thức khẳng định thêm vị trí hiệu lực của Hiến pháp.

Ở các bản Hiến pháp có tính hiệu lực mạnh như Hiến pháp Thái Lan, tính hiệu lực được quy định ngay ở Điều 4, tương tự, Hiến pháp Singapore cũng dành Điều 4 để quy định về vấn đề này và Hiến pháp Malaysia được quy định ở Điều 6. Trong khi đó, với các bản Hiến pháp của các quốc gia có tính hiệu lực yếu hơn, thì quy định tính hiệu lực của Hiến pháp đều ở những điều khoản phần cuối[11].

Đây được xem là một trong những điểm tiến bộ quy định về tính hiệu lực trong Hiến pháp một số quốc gia Đông Nam Á với sự thể hiện rõ ràng, quy định tính hiệu lực phù hợp với vị trí của Hiến pháp trong hệ thống pháp luật so với quy định tính hiệu lực của Hiến pháp một số quốc gia khác nằm trong trong khu vực châu Á.

3. Tính hiệu lực trong Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam

Trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền, vấn đề bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp là yếu tố có ý nghĩa quyết định vì: “Hiến pháp là một bộ phận, nhưng là bộ phận quan trọng nhất của pháp luật. Trong hệ thống các văn bản pháp luật của Nhà nước ta thì Hiến pháp được xem là luật cơ bản, nó “là một văn bản duy nhất quy định việc tổ chức quyền lực nhà nước, là hình thức pháp lý thể hiện một cách tập trung hệ tư tưởng của giai cấp lãnh đạo, ở từng giai đoạn phát triển, hiến pháp là văn bản, là phương tiện pháp lý thể hiện tư tưởng của Đảng dưới những hình thức quy phạm pháp luật”[12]. Vì thế Hiến pháp năm 2013 của nước ta đã quy định: “Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất; Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp; Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý; Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thểNhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”[13]. Với quy định trên, tính hiệu lực trong Hiến pháp của nước ta đang tồn tại một số yếu tố làm suy giảm tính tối cao của Hiến pháp:

Thứ nhất, dù khẳng định Hiến pháp là “luật cơ bản” nhưng hiện chưa có cơ chế bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp. Điều này đang làm suy giảm hiệu lực của Hiến pháp, trong thực tế vẫn còn tình trạng các luật và các văn bản pháp quy khác quy định nội dung mâu thuẫn với các quy định trong Hiến pháp, dù ngay trong Hiến pháp quy định mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.

Thứ hai, Hiến pháp ghi nhận mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý. Song trên thực tế, điều này dường như là không thể vì không có cơ chế xử lý hành vi vi phạm Hiến pháp trên cả ba góc độ: Quy định của pháp luật, thiết chế đảm nhận chức năng và cơ chế vận hành.

Thứ ba, việc quy định tính hiệu lực của Hiến pháp vào vị trí cuối hiến văn cũng làm ảnh hưởng tới tính hiệu lực của Hiến pháp do xuất pháp từ yếu tố tâm lý.

Thứ tư, việc sử dụng thuật ngữ mang tính “mơ hồ” trong điều khoản quy định về tính hiệu lực của Hiến pháp. Với quy định: “Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp; mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý; cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định” không bảo đảm cho Hiến pháp luôn được tôn trọng và bảo đảm thực thi trong thực tế. Bởi lẽ quy định như vậy không xác định được ai được quyền hủy các văn bản không phù hợp với Hiến pháp, nếu các cơ quan áp dụng pháp luật vẫn áp dụng các văn bản này thì hậu quả thế nào? Hành vi vi phạm Hiến pháp ai có quyền xử lý? Hình thức xử lý? Trách nhiệm của chủ thể vi phạm?

Thứ năm, chưa thiết lập được cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Theo quy định tại khoản 2 Điều 119 thì cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định, quy định này chưa rõ ràng, khó có thể thực thi trong thực tế.

Có thể thấy, với tính chất là đạo luật cơ bản của hệ thống pháp luật trong một quốc gia, một yêu cầu tối quan trọng là Hiến pháp cần phải bảo đảm tuyệt đối tính hiệu lực, bảo đảm cho Hiến pháp là một pháo đài bất khả xâm phạm. Việc không “bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp thì sẽ dẫn đến tình trạng tản mạn, trùng lặp, chồng chéo hoặc mâu thuẫn trong các văn bản pháp luật. Như vậy, bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp không những là sự tôn trọng ý chí và nguyện vọng của nhân dân mà còn tạo nên tính thống nhất của hệ thống pháp luật, làm cho việc nhận thức và thực hiện pháp luật chính xác, thống nhất hơn”[14].

ThS. Trần Thị Diệu Hương

Đại học Luật – Đại học Huế



[1] Đào Trí Úc (2010), Bàn về Hiến Pháp, Nghiên cứu lập pháp số 17.

[2] Tô Văn Hòa (2013), Nghiên cứu So sánh Hiến Pháp các quốc gia ASEAN, Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 49.

[3] Xem thêm tại Hiến Pháp Liên bang Malaysia năm 1957, được sửa đổi, bổ sung năm 1963,Điều 4.1.

[4] Xem thêm tại Hiến Pháp Vương quốc Thái Lan năm 2007, Điều 6.

[5] Xem thêm tại Hiến phápCộng hòa Singapore năm 1965, Điều 4.

[6] Xem thêm tại Hiến pháp Cộng hòa Indonesianăm 1945, được sửa đổi, bổ sung lần gầnnhất năm 2002, Điều 24C.

[7] Xem thêm tại Hến Pháp Cộng hòa Philippines năm 1987, Điều 8.

[8] Xem thêm tạiHiến pháp Vương quốcBrunei năm 1959, sửa đổi, bổ sung lần gần nhất năm 2004, Điều 84.

[9] Xem thêm tại Hiến pháp Cộng hòa dân chủ nhân dân Làonăm 1991, sửa đổi , bổ sung năm 2003, Điều 96.

[10] Xem thêm tại Hiến pháp Liên bang Myanmar năm 2008, Điều 449.

[11] Xem them tại Hiến Pháp Brunei quy định ở Điều 84; Hiến Pháp Myanmar quy định ở Điều 449; Hiến Pháp Lào quy định ở Điều 96 và Hiến Pháp Campuchia quy định ở Điều 150.

[12] Xem thêm tại Nguyễn Minh Đoan, Bảo đảm tính tối cao của Hiến Pháp trong Nhà nước pháp quyền (5/2002), Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5.

[13] Xem thêm tại Hiến Pháp Việt Nam năm 2013, Điều 119.

[14] Xem thêm tại Nguyễn Minh Đoan, Bảo đảm tính tối cao của Hiến Pháp trong Nhà nước pháp quyền (5/2002), Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com