Mô hình tổ chức thi hành án dân sự công ở một số nước trên thế giới

10/11/2014

Hiện nay trên thế giới, tuỳ theo đặc điểm truyền thống, môi trường pháp lý, điều kiện kinh tế – xã hội ở từng nước mà tổ chức thi hành án dân sự có thể được thể hiện dưới hình thức là một tổ chức công hoặc do tư nhân đảm nhiệm. Các nước có tổ chức thi hành án dân sự công tiêu biểu là Thụy Điển, Trung Quốc, Nga, Thái Lan, Singapore, Indonesia, Mỹ và phần lớn các nước trong cộng đồng chung châu Âu (Đức, Thuỵ Điển…)(1)… Đặc điểm chung nổi bật nhất của mô hình thi hành án công là tổ chức thi hành án bao gồm hệ thống các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, các chấp hành viên là công chức, viên chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Trong tổ chức thi hành án công có thể phân làm hai loại: Cơ quan thi hành án nằm trong cơ cấu tổ chức của Toà án và các cơ quan thi hành án thuộc cơ quan hành pháp.

1.Mô hình thi hành án dân sự công một số nước

1.1. Cơ quan thi hành án dân sự nằm trong Toà án

Điển hình là Singapore, Indonesia, Đức,… Tổ chức thi hành án ở các nước này là một bộ phận nằm trong cơ cấu tổ chức của Toà án – chấp hành viên là công chức đặt tại Toà án do Chánh án hoặc Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm. Toàn bộ hoạt động thi hành án đặt dưới sự giám sát, chỉ đạo của chánh án Toà án địa phương hoặc thẩm phán thi hành án. Mặc dù vậy, hoạt động thi hành án được tiến hành theo một thủ tục chặt chẽ và chỉ do chấp hành viên tiến hành theo quy định của pháp luật.

1.1.1. Indonesia

Luật Indonesia không quy định bất kỳ cơ quan thi hành án cụ thể hoặc riêng biệt nào. Việc thi hành các quyết định của Tòa án thuộc trách nhiệm của Tòa án trong các vụ án dân sự. Indonesia có hai Bộ luật Tố tụng dân sự – Herziene Indonesisch Reglement (HIR, áp dụng ở Java và Madura) và Reglement Buitengewesten (RBg, có hiệu lực trong phần còn lại của Indonesia).

Theo luật pháp Indonesia, sau khi ra bản án/quyết định, Tòa án sẽ thực hiện quá trình thi hành án. Trong các vụ án dân sự, chánh án Tòa án quận đã xét xử vụ án theo thủ tục sơ thẩm có trách nhiệm thi hành bản án. Do đó, một Tòa án quận cụ thể sẽ có trách nhiệm thi hành bất kỳ bản án phúc thẩm hay phá án của Tòa án tối cao (đối với phán quyết của mình). Bên thắng kiện trong một vụ án có thể đến Tòa án quận và đề nghị Tòa ra lệnh thi hành án. Thư ký Tòa án (panitera) hoặc chấp hành viên (juru sita) phải bảo đảm việc tuân thủ đúng lệnh thi hành án của chánh án. Ở mỗi Tòa án cấp huyện đều có chấp hành viên là người chịu trách nhiệm tổ chức thi hành các bản án/quyết định của Tòa. Khi cần thiết thì chấp hành viên có thể tổ chức cưỡng chế (với sự hỗ trợ của cảnh sát).

Thi hành án dân sự từ trước đến nay ở Indonesia vẫn do Tòa án đảm nhiệm, tuy nhiên, trước đây Tòa án trực thuộc Bộ Tư pháp quản lý. Cải cách satu atap đã tước bỏ một chức năng có lẽ được xem là chức năng chủ yếu của Bộ Tư pháp Indonesia, đó là quản lý các Tòa án. Trước khi có cải cách satu atap, người ta biết đến Bộ này với cái tên Departmen Kehakiman, theo nghĩa đen là Bộ về các vấn đề thuộc Tòa án, mặc dù tên này thường được dịch là Bộ Tư pháp. Hiện nay, Bộ đã được đổi tên thành Bộ Pháp luật và Nhân quyền (Kementerian Hukum dan Hak Asasi Manusia).

Lưu ý rằng, không có quy trình chính thức nào đối với việc xã hội hóa việc thi hành các bản án. Mặc dù từ năm 2001, xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự với xu hướng thành lập tổ chức thi hành án tư nhân đã được giới thiệu ở Indonesia – kinh nghiệm của Phần Lan và Hungary, tuy nhiên, đề xuất này chưa được chấp nhận.

1.1.2. Singapore

Việc tổ chức thi hành án dân sự ở Singapore do Tòa án đảm nhiệm. Hệ thống tổ chức Tòa án ở Singapore gồm Tòa án tối cao và Tòa cấp dưới. Ở Tòa án tối cao và Tòa cấp dưới có bộ phận thi hành án.

Nhân viên thi hành án vừa có nhiệm vụ thi hành án, vừa có nhiệm vụ tống đạt giấy tờ, thực hiện các lệnh bắt giữ. Nhân viên thi hành án của Tòa án nào thì thi hành bản án của Tòa án đó. Nhân viên thi hành án của Toà cấp dưới không có quyền bắt giữ tàu biển và thi hành các bản án mà giá trị lên đến 250.000 đô la Singapore; những bản án loại này do nhân viên thi hành án Toà tối cao thi hành. Nhân viên thi hành án phải thi hành đúng luật, công khai, không được tham nhũng. Trường hợp có hành vi tiêu cực sẽ bị xử lý theo pháp luật, bị chuyển làm việc khác.

Ngân sách nhà nước chỉ hỗ trợ một phần cho hoạt động thi hành án, chủ yếu là việc trả lương cho chấp hành viên, thẩm phán thi hành án nếu đó là thiết chế thuộc bộ máy nhà nước. Các chi phí cưỡng chế thi hành án thì người phải thi hành án phải chịu, trường hợp tài sản của người phải thi hành án không đủ thì có thể do người được thi hành án chịu.

Về thủ tục thi hành án dân sự: Khi có bản án, người được thi hành đến gặp người phải thi hành để xem xét khả năng thi hành của họ và yêu cầu họ phải thi hành. Nếu người phải thi hành án không thi hành, người được thi hành án muốn được thi hành phải có đơn yêu cầu thi hành án (theo mẫu in sẵn) gửi Toà án. Bên cạnh đó, người được thi hành án hoặc luật sưđại diện phải trực tiếp chỉ cho nhân viên thi hành án những tài sản mà người phải thi hành án phải trả cho người được thi hành án, hoặc trong trường hợp thi hành các bản án về trả tiền thì chỉ cho nhân viên thi hành án những tài sản của người phải thi hành án để nhân viên thi hành án kiểm kê, dán niêm phong hoặc chuyển giao tài sản cho người khác giữ.

1.2. Cơ quan thi hành án dân sự thuộc cơ quan hành pháp

Điển hình là Nga, Hoa Kỳ, Thụy Điển, Thái Lan, Philippines,… Các cơ quan thi hành án thuộc loại này được phân thành hai dạng mô hình sau đây:

– Mô hình tổ chức thi hành án dân sự công, độc lập, tạo thành một hệ thống từ trung ương đến địa phương thuộc thẩm quyền quản lý của các cơ quan quản lý hành chính tư pháp như Trung Quốc… Việt Nam cũng là nước theo mô hình này.

– Mô hình tổ chức thi hành án dân sự công, độc lập, tạo thành một hệ thống từ trung ương đến khu vực đặt dưới quản lý của Hội đồng thuế quốc gia (Thụy Điển); hoặc Cục Thi hành án thuộc Bộ Tư pháp Liên bang (Nga – quản lý cả thi hành án dân sự và thi hành án hình sự);…

1.2.1. Nga(2)

Cục Thi hành án Liên bang được tổ chức theo Luật Liên bang về chấp hành viên Tòa án ngày 21/7/1997 và Quy chế Cục Thi hành án Liên bang được phê chuẩn theo Sắc lệnh của Tổng thống Liên bang Nga ngày 13/10/2004 (đã được sửa đổi, bổ sung). Ở địa phương có 83 cơ quan thi hành án địa phương.

Cục Thi hành án Liên bang do chấp hành viên trưởng Liên bang Nga đứng đầu, là người được Tổng thống Liên bang Nga bổ nhiệm và miễn nhiệm. Chấp hành viên trưởng cũng quy định trình tự, thủ tục bổ nhiệm và miễn nhiệm các chấp hành viên khác.

Cục Thi hành án Liên bang được giao nhiệm vụ bảo đảm trật tự tại Tòa án, thi hành văn bản thi hành án, áp dụng các biện pháp cưỡng chế khác theo quy định của pháp luật và quyết định thi hành án; tổ chức việc kê biên và bán tài sản kê biên; truy tìm con nợ và tài sản của họ; tham gia vào việc bảo vệ lợi ích của Liên bang Nga với tư cách chủ nợ trong các vụ việc và vụ kiện phá sản; tham gia thực hiện quyết định của các ủy ban giải quyết tranh chấp lao động; hướng dẫn và giám sát hoạt động của các cơ quan thi hành án địa phương thuộc Cục Thi hành án Liên bang; lập và duy trì ngân hàng dữ liệu về công tác thi hành án và các nhiệm vụ tương tự khác.

Đội ngũ chấp hành viên được tổ chức thành hai bộ phận: Bộ phận thứ nhất thực hiện chức năng bảo đảm an ninh trật tự tại Tòa án và bộ phận thứ hai chịu trách nhiệm thi hành bản án và quyết định khác của Tòa án (Luật Liên bang về chấp hành viên).

Để thực thi các quyền hạn được giao, Cục Thi hành án Liên bang có quyền yêu cầu các cơ quan quyền lực nhà nước Liên bang, các cơ quan quyền lực nhà nước của các chủ thể thuộc Liên bang Nga, các cơ quan tự quản địa phương và các tổ chức bất kể có hình thức tổ chức về pháp lý như thế nào cung cấp (cũng như nhận lại) chứng từ, tài liệu, hồ sơ khác cần thiết để giúp quyết định các vấn đề thuộc lĩnh vực hoạt động của mình. Cục Thi hành án Liên bang thực hiện việc phối hợp hoạt động liên ngành với các cơ quan và tổ chức thi hành các yêu cầu của bản án và quyết định các cơ quan và công chức khác trong các trường hợp do luật pháp Nga quy định. Khi thực hiện chức năng bảo vệ tại trụ sở Tòa án, Cục Thi hành án Liên bang có thể yêu cầu sự hỗ trợ của cán bộ các cơ quan nội vụ, cơ quan quản lý di trú, các cơ quan của Cục An ninh Liên bang, cơ quan ứng phó tình trạng khẩn cấp và các cơ quan khác.

Bộ Tư pháp Liên bang Nga chịu trách nhiệm về việc phối hợp và giám sát hoạt động của Cục Thi hành án Liên bang và thực hiện các chức năng liên quan đến việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động của Cục Thi hành án Liên bang. Đối với lực lượng chấp hành viên làm nhiệm vụ bảo vệ thì cơ quan giám sát là Tòa án mà các chấp hành viên đó trực thuộc. Khiếu nại về hành vi của chấp hành viên do Tòa án giải quyết trong các trường hợp do pháp luật quy định.

1.2.2. Hoa Kỳ

Hoạt động thi hành án ở Hoa Kỳ không được coi là một giai đoạn của tố tụng. Trong quy định về tố tụng ở cả cấp Liên bang(3) lẫn quy định về tố tụng ở cấp bang đều không có quy định về công tác thi hành án. Việc thi hành án cũng được tách biệt giữa cấp Liên bang và cấp bang.

1.2.2.1. Cấp Liên bang

Cơ quan chịu trách nhiệm về thi hành pháp luật ở cấp Liên bang là Tổng cục Thi hành pháp luật Liên bang (US Marshal Service)(4), một đơn vị trực thuộc Bộ Tư pháp Hoa Kỳ. Gắn với mỗi Toà án khu vực Liên bang (tổng cộng có 94 Toà án khu vực Liên bang với thẩm quyền xét xử sơ thẩm; cấp trên của các Toà án này là các Toà phúc thẩm Liên bang và đỉnh của hệ thống là Toà án tối cao Hoa Kỳ) đều có 1 Cục Thi hành pháp luật Liên bang đứng đầu là Cục trưởng do Tổng thống – người đứng đầu bộ máy hành pháp Hoa Kỳ – bổ nhiệm. Kinh phí hoạt động của Tổng cục Thi hành pháp luật Liên bang đến từ nguồn ngân sách và từ các khoản thu do bắt giữ và đấu giá tài sản.

Cục Thi hành pháp luật Liên bang là cơ quan chịu trách nhiệm thi hành pháp luật tại các khu vực thẩm quyền của các Tòa án Liên bang. Các chức năng nhiệm vụ chính của Cục bao gồm(5)a:

– Chức năng điều tra, bắt giữ các đối tượng bị tình nghi phạm tội;

– Chức năng bắt giữ, đấu giá tài sản. Đây là chức năng quan trọng thứ hai trong số các chức năng của cơ quan thi hành pháp luật Liên bang. Các tài sản bị bắt giữ bao gồm cả tài sản liên quan tới tội phạm hình sự, cả tài sản liên quan tới thi hành án dân sự;

– Chức năng quản lý và vận hành các nhà tù;

– Chức năng áp giải tội phạm trong phạm vi lãnh thổ Hoa Kỳ và dẫn độ tội phạm qua biên giới;

– Chức năng bảo vệ các Tòa án Liên bang, giữ an ninh trật tự cho các phiên tòa tại các Tòa án này, bảo vệ nhân chứng và gia đình họ, bảo vệ các nhân vật quan trọng trong chính quyền.

Như vậy có thể thấy, cơ quan thi hành pháp luật Liên bang của Hoa Kỳ có chức năng vừa giống cơ quan điều tra, vừa giống cơ quan cảnh sát tư pháp, vừa giống cơ quan quản lý trại giam, vừa giống cơ quan thi hành án hình sự và dân sự ở Việt Nam(6).

1.2.2.2. Cấp bang

Đối với hoạt động thi hành pháp luật, chức danh quan trọng nhất là cảnh sát trưởng (sheriff)(7). Ngoài cảnh sát trưởng và đơn vị trực thuộc và Văn phòng cảnh sát trưởng, nhiều địa phương ở Hoa Kỳ còn có cả Sở cảnh sát cũng tham gia vào thực hiện chức năng thi hành pháp luật.

Tại hầu hết các bang ở Hoa Kỳ, cảnh sát trưởng chính là nhân viên thi hành pháp luật cao nhất. Cảnh sát trưởng tại mỗi quận được người dân trong quận bầu ra và đồng thời giữ cương vị ủy viên Hội đồng địa phương. Giúp việc cho cảnh sát trưởng có đội ngũ nhân viên hoạt động chuyên môn, được gọi là các nhân viên Văn phòng cảnh sát trưởng (sheriff’s officer) hoặc nhân viên thi hành pháp luật (sheriff’s deputy). Tại một số khu vực của Hoa Kỳ, cảnh sát trưởng còn có thể chịu trách nhiệm thu thuế và do đó có thể có một số tên gọi khác như nhân viên thu thuế hoặc nhân viên kho bạc của quận.

Trên thực tế, mặc dù là một cơ quan nhà nước, có kinh phí hoạt động phần lớn là do ngân sách cấp hàng năm trên cơ sở dự toán, Văn phòng cảnh sát trưởng vẫn được coi là một đơn vị cung cấp dịch vụ trật tự công cộng và an ninh xã hội. Kinh phí hoạt động hàng năm của Văn phòng cảnh sát trưởng được cấp từ ngân sách địa phương. Các khoản thu có được từ dịch vụ cưỡng chế thi hành án nhìn chung không nhiều – cũng chứng tỏ sự tham gia của Văn phòng cảnh sát trưởng vào các hoạt động thi hành án dân sự tương đối hạn chế.

2. Một số kinh nghiệm gợi mở cho Việt Nam

Qua nghiên cứu, phân tích mô hình tổ chức thi hành án của các nước và xét trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, chúng ta có thể áp dụng hình thức thi hành án bán công, vì các lý do sau đây:

Một là, có thể tiếp tục sử dụng trên cơ sở sắp xếp lại một cách hợp lý tổ chức thi hành án công và chế độ công chức thi hành án đang được thực hiện tại Việt Nam, đồng thời có thể triển khai thực hiện chủ trương xã hội hoá một số loại hình dịch vụ thi hành án dân sự thông thường như tống đạt giấy tờ, biên bản xác minh tài sản, địa chỉ của người phải thi hành án… và được thu phí dịch vụ đối với người được thi hành án.

Hai là, mô hình thi hành án bán công sẽ giúp giảm nhẹ một cách đáng kể các chi phí bao cấp của Nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự.

Ba là, tạo ra cơ chế hợp tác cùng có lợi giữa các đương sự và cơ quan thi hành án trong hoạt động thi hành án mở rộng quyền tự định đoạt của các đương sự, nhất là trong việc lựa chọn các phương thức thi hành án.

Bốn là, góp phầnhạn chế, khắc phục tình trạng tồn đọng án kéo dài do tình trạng quá tải vì thiếu nhân lực, kinh phí, phương tiện hoạt động ở các cơ quan thi hành án công.

Tuy nhiên, để triển khai việc này phải có kế hoạch từng bước tách riêng chế độ công chức thi hành án đối với khoản thi hành án về tịch thu tài sản, phạt tiền, thu nợ cho Nhà nước, các quyết định khẩn cấp tạm thời… đồng thời áp dụng chế độ thi hành án theo yêu cầu của người được thi hành án và người phải thi hành án. Trong trường hợp này, họ phải trang trải các chi phí mà chấp hành viên đã bỏ ra một cách hợp lý. Điều cần lưu ý là phải kết hợp bộ máy thi hành công với bán công để vừa công chức hoá cán bộ ở mức cần thiết cho việc thực hiện chính sách chung của Đảng và Nhà nước (bảo vệ lợi ích công, các đối tượng chính sách), vừa từng bước xã hội hoá thi hành án dân sự (mở rộng mô hình thừa phát lại) phù hợp với thực tiễn cuộc sống(8)

Tài liệu tham khảo:

1. Có 26 nước mô hình thi hành án là công, bao gồm: Albania, Andorra, Austria, Azerbaijan, Bosnia-Herzegovina, Bulgaria, Croatia, Cyprus, Denmark, Finland, Georgia, Germany, Iceland, Italy, Liechtenstein, Malta, Moldova, Norway,Russian Federation, San Marino, SM-Montenegro, SM-Serbia, Sweden, Turkey, UK-Northern, Ireland, Ukraine.

2.Theo tài liệu Nghiên cứu tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp của 5 quốc gia, sách chuyên khảo của Dự án Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam, xuất bản năm 2011.

3. Federal Rules of Civil Procedure.

4. Trong tài liệu này, tác giả chọn sử dụng thuật ngữ tiếng Việt là Cục Thi hành pháp luật Liên bang để chỉ cơ quan này với lý do như đề cập ở cuối phần 1.2.2.1.

5. http://www.usmarshals.gov/duties/factsheets/ general-2013.pdf.

6. Đây cũng là lý do tác giả chọn dịch tên gọi của cơ quan này – US Marshal Service – là Tổng cục Thi hành pháp luật Liên bang.

7. Trong số 50 bang của Hoa Kỳ, có 48 bang có chức vụ cảnh sát trưởng.

8. Bộ Tư pháp, Đề tài cấp Nhà nước năm 2000: Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới, MS 2000-58-98, Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Đình Lộc.

Chu Thị Hoa

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số lưu ý khi tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất vô hiệu

28/10/2014

Trong những năm gần đây, các tranh chấp về nhà ở (tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở; về việc cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ; về trao đổi, tặng cho, thừa kế nhà ở…) không chỉ có xu hướng tăng về số lượng mà tính chất vụ việc cũng phức tạp hơn. Điều đó, khiến cho việc giải quyết các tranh chấp dạng này thường kéo dài nhiều năm, không chỉ gây tốn kém về thời gian, tiền bạc, mà còn gây bức xúc trong nhân dân. Nguyên nhân của tình trạng này một phần là do các quy định pháp luật chưa rõ ràng, thậm chí mâu thuẫn, chồng chéo, dẫn đến không chỉ khiến các vụ án bị tồn đọng nhiều, mà số lượng các bản án bị hủy, giao giải quyết lại cũng nhiều hơn. Từ thực trạng trên, thì việc nâng cao kỹ năng giải quyết các vụ án dân sự liên quan đến nhà, đất đối với các thẩm phán là vấn đề rất quan trọng.

Một trong những vấn đề mà các thẩm phán còn có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí là nhiều hội đồng xét xử (HĐXX) vẫn mắc sai lầm khi giải quyết là việc giải quyết hậu quả khi xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất vô hiệu. Điển hình như vụ việc dưới đây, HĐXX xác định hợp đồng vô hiệu, nhưng lại không buộc các bên phải bồi thường thiệt hại do hợp đồng vô hiệu, mà chỉ buộc trả cho nhau những gì đã nhận…

Ngày 25/6/2010 ông Nguyễn Văn A được UBND tỉnh K cấp Giấy chứng nhận sở hữu nhà, tọa lạc tại 34 phố Tạ Hiền, phường 7, thị xã B, tỉnh K. Ngày 18/9/2010 bà Trần Thị Biên (vợ ông A) làm thủ tục chuyển nhượng ngôi nhà trên cho vợ chồng ông H, với giá 500 triệu đồng. Bà Biên đã nhận 300 triệu đồng và ký giả chữ ký của chồng. Ngày 29/9/2010, Sở Xây dựng tỉnh K làm thủ tục sang tên căn nhà cho vợ chồng ông H. Nhưng đến ngày 28/12/2011 thì vợ chồng ông A, bà Biên khởi kiện ra tòa, yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng ngôi nhà trên. Còn vợ chồng ông H thì yêu cầu công nhận hợp đồng.

Khi xét xử sơ thẩm (ngày 01/3/2012), Tòa án nhân dân (TAND) thị xã B đã quyết định: “Hủy hợp đồng chuyển nhượng nhà đất trên; buộc bà Biên trả cho vợ chồng ông H 300.000.000 đồng; ông A có quyền liên hệ để làm lại giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà. Do các đương sự không yêu cầu giải quyết phần hậu quả của hợp đồng vô hiệu nên Tòa án không tuyên về phần này”. Không đồng ý với phán quyết này, ngày 12/3/2012, vợ chồng ông H đã kháng cáo. Tuy nhiên, tại bản án dân sự phúc thẩm số 39/2012/DSPT (ngày 01/6/2012) TAND tỉnh K đã quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đến ngày 19/02/2013, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có Quyết định số 12/2013/KN-DS kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm trên với nhận định: “Tòa án hai cấp không xác định lỗi và không giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu là không đảm bảo quyền lợi cho các đương sự”. Chấp nhận nội dung kháng nghị này, Tòa Dân sự, Tòa án nhân dân tối cao đã có Quyết định giám đốc thẩm số 20/DS-GĐT (ngày 22/4/2013) “hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 39/2012/DSPT ngày 01/6/2012 của TAND tỉnh K” vàhủy Bản án dân sự sơ thẩm số 19/2012/DSST ngày 01/3/2012 TAND thị xã B”; “giao hồ sơ vụ án cho TAND thị xã B, tỉnh K, xét xửsơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật”.

Từ vụ án trên thì có thể thấy, khi giải quyết loại án “xác định hợp đồng vô hiệu” thì Tòa án cần phải lưu ý áp dụng quy định của pháp luật và các văn bản hướng dẫn sau:

Thứ nhất, về việc xác định lỗi

Về nguyên tắc, khi tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất “vô hiệu” thì bên mua trả lại nhà ở cho bên bán, bên bán nhận lại nhà ở và trả lại những gì đã nhận cho bên mua. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2005, bên có lỗi làm cho hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất vô hiệu mà gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia. Việc xác định lỗi được thực hiện như sau:

– Một bên bị coi là có lỗi nếu bên đó có hành vi làm cho bên kia nhầm tưởng là có đầy đủ điều kiện để hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất là hợp pháp. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất vô hiệu theo quy định tại các điều 130,132 và điều 133 của BLDS 2005, thì áp dụng quy định của điều luật tương ứng để xác định lỗi của bên bán hoặc lỗi của bên mua.

– Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất vô hiệu do lỗi của hai bên (trừ trường hợp quy định tại Điều 128 BLDS 2005 – Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội): phải xác định mức độ lỗi của mỗi bên để quyết định trách nhiệm bồi thường thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mỗi bên.

Nếu các bên đều có lỗi tương đương nhau thì mỗi bên chịu 1/2 giá trị thiệt hại, nếu mức độ lỗi của họ không tương đương nhau, thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định theo mức độ lỗi của mỗi bên.

Nếu bên mua có lỗi làm cho hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất vô hiệu, thì bên bán chỉ phải trả cho bên mua số tiền đã nhận và bên mua phải giao lại nhà đất cho bên bán (nếu đã nhận); nếu bên mua có lỗi làm cho nhà ở bị hư hỏng hoặc tháo dỡ thì phải bồi thường khoản tiền do bên bán bỏ ra để sửa chữa, khôi phục lại tình trạng ban đầu do bên mua làm hư hỏng hoặc tháo dỡ nhà. Trường hợp giá nhà giảm mà bên bán bị thiệt hại thì bên mua phải bồi thường cho bên bán khoản tiền chênh lệch giá được hướng dẫn tại điểm c tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP.

Nếu bên bán có lỗi làm cho hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất bị vô hiệu, thì bên bán phải trả cho bên mua số tiền đã nhận và bên mua phải giao lại nhà cho bên bán (nếu đã nhận). Trong trường hợp có sự chênh lệch giá nhà đất mà bên mua bị thiệt hại thì bên bán phải bồi thường khoản tiền chênh lệch giá được hướng dẫn tại điểm c tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP.

Nếu trong thời gian quản lý, bên mua đã cải tạo, sửa chữa nhà làm tăng giá trị nhà gắn liền với giá trị quyền sử dụng đất thì khi nhận lại nhà bên bán phải thanh toán cho bên mua phần giá trị tăng thêm đó, trừ trường hợp bên bán có phản đối hoặc cơ quan có thẩm quyền không cho phép mà bên mua vẫn cố tình cải tạo, sửa chữa.

Thứ hai, xác định thiệt hại

Thiệt hại là khoản tiền mà bên bán bỏ ra để sửa chữa, khôi phục lại tình trạng ban đầu của nhà ở do bên mua đã tháo dỡ hoặc làm hư hỏng; khoản tiền mà bên mua đã đầu tư để cải tạo, sửa chữa nhà làm tăng giá trị nhà gắn liền với giá trị quyền sử dụng đất.

Trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất không có đặt cọc và các bên không có thoả thuận khác về việc áp dụng biện pháp phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại thì thiệt hại còn bao gồm khoản tiền chênh lệch giữa giá nhà gắn liền với giá trị quyền sử dụng đất do các bên thoả thuận với giá nhà gắn liền với giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm xét xử sơ thẩm hoặc các thiệt hại khác (nếu có).

Để xác định đúng thiệt hại phải tiến hành định giá nhà gắn liền với giá trị quyền sử dụng đất và xác định thiệt hại về nhà ở như sau:

– Nếu các đương sự không thoả thuận được về giá nhà, giá trị quyền sử dụng đất và giá trị thiệt hại, thì Toà án yêu cầu cơ quan chuyên môn định giá hoặc ra quyết định thành lập hội đồng định giá. Giá nhà và giá trị quyền sử dụng đất được xác định theo giá thị trường chuyển nhượng tại địa phương nơi có nhà đất đang tranh chấp đối với từng loại nhà, đất vào thời điểm xét xử sơ thẩm.

– Trong trường hợp UBND cấp tỉnh có quy định giá đất cụ thể phù hợp với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giá thị trường tại địa phương hoặc các Trung tâm giao dịch bất động sản hoạt động hợp pháp có niêm yết giá giao dịch chuyển nhượng đất tại địa phương thì Toà án có thể căn cứ vào giá do UBND quy định hoặc giá niêm yết của các Trung tâm giao dịch để xác định giá nhà gắn liền với giá trị quyền sử dụng đất, mà không nhất thiết phải thành lập Hội đồng định giá.

ThS. Nguyễn Văn Tầm

Toà Dân sự, Tòa án nhân dân tối cao

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quy định của Hiến pháp và pháp luật về bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán

28/10/2014

Không phải cho tới thời kỳ đương đại, chúng ta mới bàn về nguyên tắc “Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, mà trong lịch sử, nguyên tắc này đã được đề cập tại Bộ luật Hồng Đức. Điều 672 Bộ luật này quy định: “Các quan kể trên phải xét xử cho công bằng và đúng pháp luật”. Điều 720 cũng qui định: “Không ai được cố chấp ý riêng mình, bắt mọi người phải tuân theo”. Tuy nhiên, đấy chỉ mới là những manh nha của nguyên tắc xét xử độc lập. Tính độc lập của Thẩm phán chính là sự gắn kết tuyệt đối các Thẩm phán với luật pháp. Tính độc lập của Thẩm phán sẽ bảo vệ quyền lực tư pháp trước sự can thiệp từ phía lập pháp, hành pháp cũng như các tổ chức khác trong xã hội. Montesquieu cho rằng, quyền lực nào cũng bị đe dọa lạm dụng, như vậy, người nào cũng có xu thế lạm dụng quyền lực mình đang có trong tay, cho tới khi chạm phải rào cản. Với quyền lực tư pháp, Montesquieu chủ trương khi xét xử Thẩm phán không cần nhận chỉ thị từ đâu, mà chỉ tuân thủ luật pháp. Khi giải thích, áp dụng các chuẩn mực, Thẩm phán không cần phải theo ý kiến đa số và cần hành động dựa vào pháp luật và niềm tin nội tâm. Đề cao tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Xirêon – một luật sư và là nhà hùng biện nổi tiếng La mã cổ đại đã từng nói: “Quan toà là một đạo luật biết nói, còn đạo luật là một vị quan toà câm”.

Về lý luận cũng như thực tiễn cho thấy, hoạt động của bộ máy nhà nước sẽ mất đi những giá trị xã hội to lớn của nó nếu tính độc lập của Thẩm phán không được đảm bảo. Sự vi phạm nguyên tắc này dẫn đến sự lạm dụng quyền lực, sư thoái hóa của quyền lực và xã hội dĩ nhiên sẽ gánh chịu những hậu quả to lớn của tình trạng này.

1. Thực trạng quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam về bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán

Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật được Hiến pháp và pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác định là một nguyên tắc hiến định và được ghi nhận trong các bản Hiến pháp cũng như được thể chế trong các đạo luật về tổ chức Tòa án – cơ quan xét xử, cũng như các đạo luật về tố tụng của Nhà nước Việt Nam. Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của nền dân chủ cộng hòa – Hiến pháp năm 1946, thìĐiều thứ 69 đã trang trọng ghi nhận: “Trong khi xét xử, các viên Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp”. Hiến pháp năm 1959, nguyên tắc này được quy định ở Điều 100: “Khi xét xử, Toà án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Hiến pháp năm 1980 ghi nhận ở Điều 131: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Đến Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi bổ sung năm 2001) thì nguyên tắc này được ghi nhận ở Điều 130: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.

Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 28/11/2013 đã kế thừa những thành tựu lập hiến của các bản Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, đồng thời, tiếp thu những tư tưởng mới về Nhà nước pháp quyền cũng như thực tiễn công cuộc đổi mới và hội nhập của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay. Theo Hiến pháp năm 2013, hệ thống tổ chức của Tòa án nhân dân cũng có những thay đổi theo tinh thần cải cách tư pháp với quy định gồm: Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định. Như vậy, theo quy định này, thì hệ thống Tòa án được tổ chức theo cấp xét xử không phụ thuộc vào địa giới hành chính như theo quy định của Hiến pháp năm 1992, góp phần bảo đảm cho tính khả thi của nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, xử lý các vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp pháp lý. Để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ đó, Tòa án nhân dân được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc mang tính đặc thù. Và một điều đặc biệt, khác với Quốc hội, Chính phủ và chính quyền địa phương, các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân được hiến định cụ thể tại Điều 103 Hiến pháp. Hiến pháp năm 2013 kế thừa, phát triển một số nguyên tắc đã được các bản Hiến pháp trước đây quy định.

Các nguyên tắc như xét xử có Hội thẩm tham gia, nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, nguyên tắc xét xử công khai, xét xử tập thể, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được tiếp tục ghi nhận và phát triển ở mức cao hơn, chính xác hơn.

Quan trọng nhất, việc Hiến pháp quy định nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm là một bảo đảm hiến định quan trọng cho việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử. Trong quy định các nguyên tắc này, Hiến pháp năm 2013 có quy định các trường hợp ngoại lệ đối với một số nguyên tắc để bảo đảm việc áp dụng mềm dẻo, linh hoạt và có hiệu quả trên thực tế. Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 bổ sung một số nguyên tắc mới thể hiện tinh thần đổi mới trong cải cách tư pháp ở nước ta, phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là một bảo đảm quan trọng giúp cho việc xét xử toàn diện, khách quan, bảo đảm quyền con người, quyền tố tụng của những người tham gia tố tụng, hạn chế thấp nhất các trường hợp oan sai trong hoạt động tố tụng tư pháp nói chung, trong xét xử của Tòa án nói riêng.

Có thể khẳng định, việc đặt ra yêu cầu tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính là một chủ trương đúng đắn và để bảo đảm nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa án. Độc lập xét xử là một yêu cầu cao nhất thuộc quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền. Khi hình thành quyết định giải quyết vụ việc, người có thẩm quyền xét xử chỉ dựa vào tình tiết khách quan của vụ việc trên cơ sở pháp lý và tư duy của mình để ra quyết định mà không bị chi phối bởi các yếu tố bên ngoài nào khác.

Đối với nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập, các quy định của Hiến pháp năm 2013 đã minh định một cách cụ thể hơn so với các bản Hiến pháp trước đây. Nếu như Hiến pháp năm 1992 quy định: “Khi xét xử Thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, thì Hiến pháp năm 2013 quy định cụ thể, sâu sắc hơn: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, hội thẩm”. Như vậy, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập xét xử là độc lập trong mọi hoạt động của mình theo quy định của pháp luật tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi kết thúc phiên tòa xét xử, chứ không chỉ giới hạn bởi “khi xét xử”. Cụm từ “nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, hội thẩm” trong công tác xét xử cũng là bảo đảm cho nguyên tắc này phải được thực thi trong thực tiễn xét xử.

Trên thực tế, ngoài mối quan hệ với cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân còn mối quan hệ với các luật sư, các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội. Trong rất nhiều trường hợp, Thẩm phán, hội thẩm nhân dân bị ảnh hưởng, tác động từ phía luật sư, các tổ chức, cá nhân, các cơ quan nhà nước, làm sai lệch quá trình tố tụng, ảnh hưởng không ít tới hoạt động tố tụng nhằm hướng tới việc xét xử có lợi cho mình. Do đó, Thẩm phán phải luôn ý thức được rằng, mình là người phải chịu trách nhiệm về nội dung, về tính công minh của bản án. Vì thế, Thẩm phán phải có bản lĩnh và phải đứng vững trước những tác động từ các yếu tố bên ngoài. Như vậy, xét từ những yếu tố bên ngoài thì nguyên tắc: “Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” không cho phép bất cứ ai, cơ quan nhà nước nào can thiệp vào việc xét xử của Tòa án dưới bất cứ lý do nào. Chính nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đã nâng cao trách nhiệm của các Thẩm phán, buộc họ nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, chủ động nghiên cứu mọi tình tiết của vụ án, không bị lệ thuộc vào những lý do của những người tham gia tố tụng hay những kết luận của viện kiểm sát đưa ra.

Nguyên tắc Thẩm phán độc lập khi xét xử không chỉ được thực hiện trong việc đánh giá chứng cứ, mà cả trong thẩm vấn, tranh luận trước phiên tòa và việc ra bản án, quyết định. Hiện tại, còn rất nhiều hạn chế, bất cập trong việc đảm bảo tính độc lập của Thẩm phán. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho hoạt động xét xử của các Thẩm phán thiếu khách quan. Những hạn chế, bất cập này tồn tại trong cả nhận thức lẫn trong thực tiễn tổ chức thực hiện hoạt động xét xử. Có khá nhiều sự lẫn lộn giữa các cơ quan tiến hành tố tụng làm ảnh hưởng đến tính độc lập của Thẩm phán. Điều này liên quan trước hết đến chức năng điều tra, truy tố và xét xử. Một số các nhà nghiên cứu có quan điểm rằng, hiện nay, ở Việt Nam mặc dù nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử của Thẩm phán được đề cao, nhưng địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia hoạt động tố tụng nhìn chung chưa được xác định một cách thoả đáng. Trong tố tụng, nhất là tố tụng hình sự có sự tham gia của hai chủ thể gần như đối lập nhau là bên bị buộc tội và bên buộc tội. Trong quan hệ tố tụng, Thẩm phán là hành động như một người đứng giữa để phân xử đúng sai nhân danh Nhà nước. Địa vị của Thẩm phán phải khác với bên buộc tội hay bên gỡ tội. Cách tiếp cận phổ biến của các cơ quan tiến hành tố tụng hiện nay là bên bị buộc tội bị coi như là bên đã có tội rồi. Cách ăn mặc, cách xưng hô, sự đối xử đối với bên bị buộc tội gần như tạo ra tâm lý là đã ra công đường đương nhiên có tội… Trong khi đó, pháp luật quy định rất rõ rằng, mọi công dân chỉ coi là có tội khi có một bản án của Tòa án có thẩm quyền và đã có hiệu lực.

Như vậy, sự độc lập của Thẩm phán trong hoạt động xét xử đòi hỏi Thẩm phán phải có trách nhiệm xét xử đúng pháp luật, phải ngăn chặn được sự lạm dụng địa vị pháp lý trong quan hệ tố tụng. Cho nên, pháp luật về tố tụng cần có những quy định cụ thể hơn về địa vị pháp lý của các cơ quan tham gia tố tụng, trong đó, có sự quán triệt giả định vô tội trong thiết kế các quy trình thủ tục tố tụng. Trong quan hệ tố tụng có nhiều chủ thể tham gia với ba xu hướng rất rõ ràng: Buộc tội; Gỡ tội và Xét xử. Mỗi xu hướng thường được hiện thực hóa với nhưng quy trình, thủ tục và yêu cầu đặc trưng. Ba xu hướng này phải được tôn trọng và được đảm bảo độc lập thực sự.

Xét ở khía cạnh này, một số quy định của pháp luật hiện hành chưa thực sự đảm bảo được yêu cầu về tính độc lập. Ví dụ, khoản 1 Điều 104 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới mới cần điều tra”. Quy định này đã khiến cho Thẩm phán vừa có chức năng xét xử, vừa có chức năng buộc tội. Quyết định khởi tố vụ ánh hình sự là khởi đầu cho hoạt động buộc tội. Tương tự, khi nghiên cứu kỹ các quy định của pháp luật hiện hành thì có thể thấy về hình thức có gì mâu thuẫn với yêu cầu về tính độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa án. Tuy nhiên, phân tích kỹ về nội dung chúng ta có thể thấy một số những yếu tố có khả năng làm ảnh hưởng tới tính khách quan, vô tư của Thẩm phán. Ví dụ, Điều 176 Bộ luật Tố tụng hình sự: “Tòa án chỉ đưa vụ án ra xét xử khi có đủ điều kiện cần thiết nếu Tòa án cho rằng có đủ cơ sở để chứng minh tội phạm và người phạm tội”. Quy định này xem ra đã tạo cho Thẩm phán quyền quyết định khá lớn. Thực tế cho thấy, việc đưa vụ án ra xét xử phải được coi là một thủ tục và vì thế phải đảm bảo chính xác yếu tố thời hạn. Thẩm phán phải đưa vụ án ra xét xử trong phạm vi thời hạn theo qui định của pháp luật. Còn việc vụ án có đủ cơ sở hay không, có thể được làm rõ tại phiên tòa với sự tham gia của các bên trong quan hệ tố tụng.

Độc lập với các yếu tố bên ngoài là khi nghiên cứu hồ sơ cũng như khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không bị phụ thuộc vào kết luận điều tra của cơ quan điều tra, không bị lệ thuộc vào cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Quá trình nghiên cứu hồ sơ và tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phải xem xét, thẩm tra đánh giá chứng cứ và các tình tiết khác của vụ án một cách thận trọng, tỉ mỉ, khoa học, toàn diện, kể cả chứng cứ có trong hồ sơ và chứng cứ tại phiên tòa. Bản án của Tòa án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa. Khoản 3 Điều 222 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Khi nghị án chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa”.

Độc lập với các yếu tố bên trong là khi xét xử, các thành viên của Hội đồng xét xử độc lập với nhau trong việc nghiên cứu hồ sơ, xem xét đánh giá chứng cứ và đưa ra kết luận sự việc phạm tội, người phạm tội, mức hình phạt mà không bị phụ thuộc vào quan điểm của các thành viên khác trong Hội đồng xét xử. Chỉ có thành viên của Hội đồng xét xử mới được tham gia nghị án. Hội thẩm nhân dân biểu quyết trước, Thẩm phán là người biểu quyết sau cùng. Các vấn đề của vụ án phải được giải quyết bằng biểu quyết và quyết định theo đa số. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được lưu trong hồ sơ vụ án.

Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập không có nghĩa là xét xử tùy tiện mà độc lập trong khuôn khổ pháp luật. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải dựa vào các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án, chứ không được áp đặt ý chí chủ quan của mình. Điều này đòi hỏi có tính chất bắt buộc đối với Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ và ràng buộc với nhau. Độc lập là điều cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử. Tuân theo pháp luật là cơ sở không thể thiếu để Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập khi xét xử. Nếu chỉ độc lập mà không tuân theo pháp luật thì dễ dẫn đến xét xử tùy tiện.

2. Những yếu tố cơ bản bảo đảm độc lập xét xử của Thẩm phán

Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân được Nhà nước giao trọng trách đảm bảo công lý. Thẩm phán có trách nhiệm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, vì vậy, rất cần những vị “quan tòa” dũng cảm, công bằng, tôn trọng sự thật khách quan và độc lập chỉ tuân theo pháp luật trong khi xét xử.Các yếu tố cơ bản để bảo đảm sự độc lập trong xét xử của Thẩm phán bao gồm:

2.1. Tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán

Chế độ tiến cử, tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán có ý nghĩa quan trọng đối với sự độc lập của Thẩm phán. Một quy trình đề cử và tuyển chọn tốt sẽ cho phép chọn được những ứng viên xuất sắc nhất và loại trừ hoặc giảm bớt sự thiên vị mang tính chính trị hoặc cảm tính trong quá trình bổ nhiệm Thẩm phán.

Ở Việt Nam, thực trạng quy định của pháp luật về tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán được xem xét trên hai khía cạnh: (i) Tiêu chí tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán và (ii) Quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán.

* Tiêu chí tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán

Theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 (Điều 37) và Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002 (Điều 5) thì để trở thành Thẩm phán, công dân Việt Nam phải có bằng cử nhân luật và chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ Thẩm phán, có phẩm chất đạo đức tốt, có kinh nghiệm và năng lực làm công tác xét xử, có sức khỏe để bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, trên thực tế tuyển chọn, quy định “có năng lực làm công tác xét xử” là rất trừu tượng và cho đến nay vẫn chưa có cơ chế nào để đánh giá khách quan năng lực của ứng viên vào vị trí Thẩm phán.

* Về quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán

Kinh nghiệm cho thấy, quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán nếu công khai, minh bạch và dựa trên những tiêu chí về năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, chắc chắn sẽ có được một đội ngũ Thẩm phán đủ năng lực và có khả năng độc lập trong quá trình thực thi nhiệm vụ xét xử.

Theo pháp luật hiện hành ở Việt Nam, việc tuyển chọn Thẩm phán được thực hiện bởi Hội đồng tuyển chọn, bao gồm: Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện. Cơ cấu thành phần tham gia Hội đồng tuyển chọn luôn bảo đảm sự tham gia rộng rãi của các cơ quan, tổ chức có liên quan. Tuy nhiên, pháp luật lại không quy định cụ thể trình tự tuyển chọn từ giai đoạn tiến cử các ứng viên và các bước lấy ý kiến, nên dẫn đến cảm giác như việc tuyển chọn Thẩm phán là quy trình khép kín, chưa có cơ chế khuyến khích các ứng viên tự làm đơn xin làm Thẩm phán.

Trên thực tế, quy trình tiến cử ứng viên làm Thẩm phán là do Lãnh đạo Tòa án giới thiệu, khiến cho Thẩm phán khi được bổ nhiệm có mối quan hệ lệ thuộc vào Lãnh đạo Tòa án, bên cạnh đó, việc phải có bản nhận xét của Lãnh đạo đơn vị, ý kiến của tập thể cán bộ, nhân viên nơi ứng viên công tác, điều này có thể ảnh hưởng đáng kể đến sự độc lập của Thẩm phán trong quá trình xét xử sau này.

2.2. Nhiệm kỳ của Thẩm phán

Nhiệm kỳ của Thẩm phán là một trong những yếu tố có ảnh hưởng đến sự độc lập của Thẩm phán bởi một số lý do như: Nếu nhiệm kỳ của Thẩm phán ngắn thì Thẩm phán phải đối diện với việc tái bổ nhiệm; việc bổ nhiệm Thẩm phán với nhiệm kỳ một lần cho đến tuổi về hưu hoặc cả đời như nhiều nước đang áp dụng tạo cho Thẩm phán sự an tâm về nhiệm kỳ chắc chắn và lâu dài; việc bổ nhiệm Thẩm phán với nhiệm kỳ dài và nên lệch thời gian so với nhiệm kỳ của những người có quyền quyết định bổ nhiệm, tái bổ nhiệm Thẩm phán. Có ý kiến cho rằng, nếu nhiệm kỳ Thẩm phán là vững chắc và ổn định thì có thể tạo cơ hội để Thẩm phán lạm dụng quyền lực và có nguy cơ tham nhũng. Việc cân bằng giữa độc lập xét xử và tính chịu trách nhiệm của Thẩm phán là một nhiệm vụ khó nhưng không phải là hai vấn đề đối lập nhau. Thực chất, độc lập xét xử và tính chịu trách nhiệm của Thẩm phán là hai mặt thống nhất, bổ trợ lẫn nhau, nếu không có cơ chế hợp lý về tính chịu trách nhiệm của Thẩm phán thì cho dù có bổ nhiệm Thẩm phán với nhiệm kỳ ngắn cũng sẽ không giải quyết được vấn đề lạm dụng quyền lực và tham nhũng.

Ở Việt Nam, theo pháp luật hiện hành, nhiệm kỳ Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp là 5 năm. Thời gian qua, đã có rất nhiều ý kiến thảo luận về thời hạn nhiệm kỳ của Thẩm phán, có ý kiến cho rằng, nhiệm kỳ Thẩm phán ngắn sẽ là biện pháp tốt để nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán, song cũng có ý kiến cho rằng, để đảm bảo cho Thẩm phán xét xử độc lập, các Thẩm phán phải được bổ nhiệm suốt đời hoặc chí ít cũng là thời hạn 12 năm/nhiệm kỳ, đồng thời, nên lệch thời gian so với nhiệm kỳ của những người có quyền quyết định bổ nhiệm, tái bổ nhiệm Thẩm phán. Qua khảo sát, rất nhiều Thẩm phán đều có nguyện vọng, cơ chế bổ nhiệm suốt đời sẽ làm cho họ yên tâm công tác và nâng cao tính độc lập trong xét xử, không bị áp lực mỗi khi chuẩn bị bổ nhiệm lại, trong khi đó, việc bổ nhiệm lại cũng không làm thay đổi vị trí vốn có của họ.

2.3. Miễn nhiệm, bãi nhiệm, kỷ luật Thẩm phán

Các nguyên tắc cơ bản của Liên Hợp Quốc về tư pháp độc lập quy định rằng: “Việc miễn nhiệm hoặc bãi nhiệm Thẩm phán chỉ được thực hiện với lý do liên quan tới năng lực hạn chế hoặc hành vi không thích hợp của Thẩm phán khiến họ không còn xứng đáng với vị trí Thẩm phán nữa. Việc kỷ luật, đình chỉ hoặc bãi nhiệm đều phải được quyết định dựa trên những cơ sở quy định về đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán. Các quyết định liên quan tới kỷ luật, đình chỉ hoặc bãi nhiệm đều có thể bị kháng cáo và được xem xét lại bởi một cơ quan độc lập. Nguyên tắc trên có thể không áp dụng đối với những quyết định của Tòa tối cao và/hoặc của cơ quan lập pháp theo thủ tục phế truất hoặc tương tự”[1].

* Miễn nhiệm, bãi nhiệm Thẩm phán

Theo Điều 29 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, việc miễn nhiệm chức danh Thẩm phán được thực hiện trong trường hợp Thẩm phán đến tuổi nghỉ hưu (miễn nhiệm đương nhiên) hoặc do sức khỏe, do hoàn cảnh gia đình hoặc vì các lý do khác mà xét thấy không đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Thẩm phán cũng có thể bị bãi nhiệm khi có các căn cứ quy định tại Điều 30 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân trong các trường hợp là tội phạm hình sự bị kết án; vi phạm các quy định mà công chức không được làm; thực hiện các hành vi ngề nghiệp không đúng các quy định của pháp luật; có hành vi vi phạm phẩm chất đạo đức hoặc vi phạm pháp luật khác… Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, các quy định về căn cứ bãi nhiệm Thẩm phán rất chung chung, không cụ thể và rõ ràng dẫn đến việc xem xét các căn cứ để cách chức, bãi nhiệm Thẩm phán khó tiên lượng và xác định mức độ cụ thể.

* Xem xét kỷ luật Thẩm phán

Các nguyên tắc cơ bản của Liên Hợp Quốc về tư pháp độc lập quy định rằng: “Việc miễn nhiệm hoặc bãi nhiệm Thẩm phán chỉ được thực hiện với lý do liên quan tới năng lực hạn chế hoặc hành vi không thích hợp của Thẩm phán khiến họ không còn xứng đáng với vị trí Thẩm phán nữa. Việc kỷ luật, đình chỉ hoặc bãi nhiệm đều phải được quyết định dựa trên những cơ sở quy định về đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán. Các quyết định liên quan tới kỷ luật, đình chỉ hoặc bãi nhiệm đều có thể bị kháng cáo và được xem xét lại bởi một cơ quan độc lập. Nguyên tắc trên có thể không áp dụng đối với những quyết định của Tòa tối cao và/hoặc của cơ quan lập pháp theo thủ tục phế truất hoặc tương tự”[2]. Việc xem xét kỷ luật, bao gồm cả việc bãi nhiệm Thẩm phán, được thực hiện một cách công khai, minh bạch và khách quan dựa trên các cơ sở rõ ràng và cụ thể sẽ là một yếu tố cơ bản bảo đảm sự độc lập xét xử của Thẩm phán.

Ở Việt Nam, Thẩm phán là công chức, vì vậy, các quy định về xử lý kỷ luật công chức cũng được áp dụng đối với Thẩm phán. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến cho rằng, việc quy định như vậy là chưa hợp lý, bởi lao động Thẩm phán là lao động đặc thù. Bất kỳ quy định nào về xử lý kỷ luật được áp dụng đối với Thẩm phán đều phải được cân nhắc vì có thể nó “đe dọa” sự độc lập của Thẩm phán.

Trách nhiệm của Thẩm phán đối với phán quyết của mình là trách nhiệm phải giải trình cơ sở đưa ra phán quyết chứ không đồng nghĩa với việc quy định trách nhiệm phải chịu một hình thức kỷ luật trực tiếp hay gián tiếp đối với việc phán quyết của mình bị hủy hoặc bị sửa đổi bởi Tòa án cấp trên. Trách nhiệm giải trình về phán quyết của mình trước hết và quan trọng nhất là phải được thể hiện ngay tại phần nhận định về tình tiết của vụ việc và về cơ sở pháp lý (pháp luật áp dụng và tại sao áp dụng pháp luật cụ thể đó). Trách nhiệm giải trình này nhằm mục đích tránh tình trạng Thẩm phán đưa ra phán quyết một cách tùy tiện và không có cơ sở.

Về cơ chế xem xét kỷ luật Thẩm phán, trước hết cần phải thừa nhận, có sự khác biệt giữa công chức là Thẩm phán với các công chức khác trong bộ máy công quyền như hành pháp và lập pháp. Nếu các công chức khác thực thi nhiệm vụ của mình theo nguyên tắc chế độ thủ trưởng và phải tuân thủ mệnh lệnh và chịu sự chỉ đạo của cấp trên thì Thẩm phán khi xét xử, như Lênin nói “không một ai là thủ trưởng của họ ngoài pháp luật”[3]. Vì vậy, Thẩm phán chỉ có thể bị xem xét kỷ luật khi họ vi phạm pháp luật mà sự vi phạm đó được coi là cơ sở để áp dụng hình thức kỷ luật. Về nguyên tắc, không thể không quy định chế tài áp dụng đối với những hành vi vi phạm của Thẩm phán mà sự vi phạm đó không thể chấp nhận đối với Thẩm phán khi duy trì công lý. Vấn đề là ở chỗ, cơ chế xem xét các vi phạm của Thẩm phán và áp dụng hình thức kỷ luật cần phải khách quan và minh bạch.

2.4. Lương và các chế độ bảo đảm khác

Các nguyên tắc cơ bản của Liên Hợp Quốc về tư pháp độc lập quy định rằng: “Pháp luật phải đảm bảo mức lương thỏa đáng cho Thẩm phán[4]. Các quy tắc tối thiểu của IBA cũng quy định rằng: “Lương của Thẩm phán không thể bị cắt giảm trong thời gian đương chức, trừ trường hợp việc cắt giảm là một phần của biện pháp kinh tế công tổng thể”[5].

Mức lương chưa thỏa đáng cũng có thể làm giảm đi tính hấp dẫn của nghề Thẩm phán và khó có thể thu hút được các luật sư và các chuyên gia pháp luật có năng lực. Có ý kiến cho rằng, lý do chính của việc trả lương thấp cho Thẩm phán là do thiếu kinh phí. Lý do này có thể dễ hiểu, tuy nhiên việc đánh giá không đúng tầm quan trọng của tính độc lập trong hoạt động xét xử của Thẩm phán mới là lý do chính. Đầu tư ngân sách để trả lương cho Thẩm phán một cách thỏa đáng sẽ mang lại lợi ích chiến lược và giá trị vô hình rất lớn, mặc dù điều đó khó có thể cân đo, đong, đếm được như những khoản đầu tư khác. Nạn tham nhũng hay hoạt động thiếu hiệu quả của hệ thống tư pháp còn gây ra tổn hại lớn hơn nhiều so với mức ngân sách mà Chính phủ bỏ ra để trả lương thỏa đáng cho Thẩm phán.

Ở Việt Nam, theo các quy định hiện hành về tiền lương, thì mức lương trung bình của Thẩm phán Tòa án cấp huyện (Thẩm phán sơ cấp) hàng tháng là trên dưới 3 triệu đồng; Thẩm phán Tòa án cấp tỉnh (Thẩm phán trung cấp) hàng tháng là trên dưới 4 triệu đồng và Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hàng tháng là trên dưới 6 triệu đồng, ngoài ra không có chế độ hoặc đặc quyền, đặc lợi nào khác. Với mức lương thấp như vậy, Thẩm phán khó có thể bảo đảm được cuộc sống hàng ngày và khó có thể tránh được những cám dỗ vật chất từ phía khách quan trong khi xét xử. Vì vậy, cần thiết phải có những nghiên cứu nghiêm túc về chế độ tiền lương cho Thẩm phán hiện nay. Nếu mức lương của Thẩm phán chưa hợp lý, thì đó cũng là lực cản khá lớn, ảnh hưởng đến việc bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán.

2.5. Yêu cầu về tính khách quan vô tư của Thẩm phán

Việc quy định các quy tắc đạo đức nghề nghiệp sẽ bảo đảm cho Thẩm phán xét xử khách quan và vô tư. Sự khách quan và vô tư khi xét xử chính là sự độc lập của Thẩm phán với chính mình. Khách quan, vô tư là một đòi hỏi không chỉ riêng đối với các chủ thể của Tư pháp, mà nó còn là đòi hỏi đối với cả Lập pháp và Hành pháp khi thực hiện quyền lực công. Tuy nhiên, khái niệm khách quan, vô tư thông thường được hiểu khi nói đến trách nhiệm chủ quan của các chủ thể thực thi quyền lực công – theo đó, họ hành động không nhằm mục đích tư lợi, trong khi khái niệm độc lập được hiểu khi nói đến trách nhiệm không được can thiệp và không bị can thiệp. Vai trò độc lập mà Thẩm phán có được để bảo vệ lẽ phải chỉ có ý nghĩa khi họ phải là người khách quan vô tư. Nếu không xét xử một cách khách quan vô tư thì khi đó sự độc lập của Thẩm phán sẽ trở thành thảm họa cho tất cả các bên đương sự trong vụ án và sẽ hủy hoại Nhà nước pháp quyền.

Như vậy, một trong những yếu tố cơ bản để bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán với chính mình (sự khách quan vô tư khi giải quyết vụ án) là cần phải bảo đảm sự khách quan và vô tư của Thẩm phán trong toàn bộ quá trình xét xử. Và để đạt được điều đó thì cần phải có bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán nhằm định hướng hành vi ứng xử của Thẩm phán.

2.6. Trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán và trách nhiệm bồi thường nhà nước khi có hành vi trái pháp luật trong thi hành công vụ

Lý do xác định chế độ trách nhiệm của cá nhân Thẩm phán là xu thế tất yếu hiện nay của pháp luật nhiều quốc gia và được thừa nhận chung là cần thiết và phải được song hành với việc đảm bảo độc lập xét xử.

Ở Việt Nam, theo khoản 4 Điều 37 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, thì Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân gây ra thiệt hại có trách nhiệm hoàn trả số tiền bồi thường cho Tòa án. Thẩm phán cũng có thể phải chịu trách nhiệm kỷ luật hay trách nhiệm hình sự nếu ra bản án trái pháp luật. Trước khi có Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2010, Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan sai do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng gây ra có quy trách nhiệm cho Tòa án phải bồi thường trong cả những trường hợp không phải do lỗi cố ý và Thẩm phán có trách nhiệm bồi hoàn cả khi vô ý ra bản án kết tội người vô tội.

Sau khi Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2010 được ban hành và có hiệu lực, các trường hợp Tòa án phải bồi thường do gây oan sai trong hoạt động tố tụng được quy định rõ ràng hơn, cụ thể: Tòa án có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hoạt độngtố tụng hình sự (Điều 32); trong hoạt động tố tụng dân sự và tố tụng hành chính (Điều 33).

Theo Điều 56 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2010 và Điều 16 Nghị định số 16/2010/NĐ-CP ngày 03/03/2010 của Chính phủ thì trường hợp Thẩm phán, cán bộ Tòa án cố ỷa bản án hình sự oan thì phải hoàn trả cho Tòa án khoản tiền mà Tòa án đã bồi thường cho người bị xử oan, như tối đa không quá 36 tháng lương của người phải bị bồi hoàn. Trường hợp trong tố tụng dân sự và tố tụng hành chính cũng được áp dụng tương tự tố tụng hình sự, riêng trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trái pháp luật thì phải bồi hoàn không quá 3 tháng lương của người bị bồi hoàn.

Có thể nói, trách nhiệm bồi hoàn của Thẩm phán khi xét xử oan sai theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã được quy định cụ thể và rõ ràng hơn. Tuy nhiên, bên cạnh việc gia tăng trách nhiệm của Tòa án và Thẩm phán trong trường hợp ra các bản án oan sai, thì vẫn chưa có những quy định về việc Tòa án và Thẩm phán phải giải trình vì lý do oan sai, chưa quy định rõ các biện pháp để công chúng có thể giám sát các hoạt động của Tòa án và Thẩm phán. Cho nên, cần phải có các nghiên cứu và quy định các biện pháp tăng cường trách nhiệm giải trình trong hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và Thẩm phán nói riêng.

3. Đánh giá thực trạng bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán ở Việt Nam và một số kiến nghị

So với các nước phát triển, ở Việt Nam, người dân ít được hưởng những thành quả của một nền tư pháp độc lập, vì vậy, việc bảo đảm sự độc lập của Tòa án, đặc biệt là sự độc lập của Thẩm phán là chưa hiệu quả. Bởi lẽ, sự độc lập thực sự của Tòa án về nguyên tắc chỉ có thể trong bối cảnh có sự phân quyền rõ ràng giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp.Về hình thức, tính độc lập của Tòa án, của các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cũng đã được quy định trong các bản Hiến pháp, trong hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án và trong các văn bản pháp luật về tố tụng từ trước tới nay, tuy nhiên, trên thực tế, tính độc lập của hệ thống Tòa án và các Thẩm phán ở Việt Nam chưa được bảo đảm đúng như các tiêu chuẩn chung trên thế giới.

Nhìn lại thực trạng hoạt động của hệ thống Tòa án và các cơ quan tư pháp của Việt Nam nói chung, mặc dù đã có những thành tựu rất đáng kể, góp phần không nhỏ trong công cuộc giải phóng và bảo vệ Tổ quốc cũng như bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân, nhưng thực tiễn cuộc sống cho thấy vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, ảnh hưởng đến công cuộc đổi mới và xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.

Hoạt động tư pháp của Việt Nam không chỉ bao gồm hoạt động của các cơ quan xét xử, mà còn cả hoạt động của các cơ quan điều tra, công tố và những cơ quan hoạt động hỗ trợ tư pháp khác như: Công chứng, giám định, luật sư… Điều này chứng tỏ chúng ta chưa có sự phân quyền rạch ròi giữa hành pháp và tư pháp.

Trên thực tế, mặc dù nguyên tắc về tính độc lập của Toà án và các Thẩm phán đã được ghi nhận chính thức trong Hiến pháp và nhiều văn bản pháp luật khác, song nó chưa được thực sự tôn trọng và tuân thủ, bởi lẽ, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam vẫn phải theo theo nguyên tắc tập quyền. Nguyên tắc tập quyền này khó có thể là cơ sở cho sự độc lập của Tòa án và các Thẩm phán bởi nó dẫn đến việc xét xử và ra các bản án, quyết định của Tòa án khó tránh khỏi phụ thuộc vào sự chỉ dẫn và can thiệp của các cơ quan nhà nước khác. Hơn thế nữa, quá trình xét xử của các Tòa ánở Việt Nam chưa thực sự theo nguyên tắc tranh tụng mà vẫn nặng theo nguyên tắc thẩm vấn, xét hỏi, luật sư chỉ đóng vai trò thứ yếu. Thực tế cho thấy, không hẳn là việc chuyển hoàn toàn sang mô hình tố tụng tranh tụng là phù hợp với điều kiện ở nước ta, song việc duy trì quá lâu mô hình tố tụng buộc tội đang tạo ra sự bất bình đẳng lớn giữa các bên tham gia tố tụng, ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động xét xử.

Kinh phí hoạt động của hệ thống Tòa án ở nước ta hiện vẫn phụ thuộc chặt chẽ vào các cơ quan nhà nước khác, đồng thời phụ thuộc vào các Tòa án cấp trên. Tình trạng này khiến cho các Tòa án khó tránh khỏi sự tác động của các cơ quan nhà nước khác, cũng như khiến cho các Tòa án cấp dưới khó duy trì sự độc lập xét xử với Tòa án cấp trên.

Việc bổ nhiệm Thẩm phán ở nước ta hiện dựa rất nhiều vào các tiêu chuẩn về chính trị, tư tưởng, trong khi lẽ ra cần nhấn mạnh các tiêu chuẩn về chuyên môn và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Nước ta hiện vẫn áp dụng chế độ bổ nhiệm Thẩm phán theo định kỳ. Các Thẩm phán, mặc dù mức lương có cao hơn so với mức lương chung của các ngành khác, song vẫn thấp so với nhu cầu bảo đảm đời sống và tích lũy cho họ và gia đình. Đây cũng là những yếu tố mà theo kinh nghiệm quốc tế thường có ảnh hưởng lớn đến tính độc lập trong hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán.

Mặc dù ở nước ta, việc phân công Thẩm phán xét xử các vụ việc về nguyên tắc là vấn đề nội bộ quản lý của các Tòa án, tuy nhiên, trong thực tế nguyên tắc này không phải lúc nào cũng được tôn trọng. Trong hoạt động của các Tòa án, một số quy tắc “bất thành văn” như báo cáo án, thỉnh thị án, duyệt án… vẫn được áp dụng một cách phổ biến, rõ ràng mâu thuẫn với những nguyên tắc và yêu cầu về tính độc lập của Tòa án và của Thẩm phán.

Pháp luật nước ta chưa có những quy định cụ thể về việc giữ bí mật nghề nghiệp và quyền miễn trừ của Thẩm phán. Điều này có thể gây rủi ro cho các Thẩm phán trong hoạt động nghề nghiệp và ảnh hưởng đến việc xét xử độc lập của họ. Đây cũng là sự bất cập của pháp luật nước ta so với các quy định có liên quan của pháp luật quốc tế. Bởi vậy, muốn cho Tòa án và các Thẩm phán được độc lập trong quá trình xét xử, thì một mặt, cần cụ thể hóa các nguyên tắc đã hiến định trong Hiến pháp năm 2013, mặt khác, cần cụ thể hóa và tôn trọng thực hiện nguyên tắc này trong thực tiễn bằng cách đánh giá đúng vai trò của Tòa án, tạo điều kiện để Tòa án và các cơ quan tư pháp thực hiện nhiệm vụ của mình một cách độc lập và khách quan và không bị bất kỳ sự can thiệp nào.

Với điều kiện nước ta hiện nay, có lẽ trước hết, cần phải nghiên cứu để cụ thể hóa các nguyên tắc về Tòa án và Thẩm phán độc lập trong quá trình xét xử, đồng thời, tìm ra những biện pháp bảo đảm cho nguyên tắc độc lập được thực hiện trên thực tế. Nghiên cứu và thay đổi các quy định pháp luật về tổ chức bộ máy, quy chế hoạt động, quan hệ với các cơ quan nhà nước khác… của hệ thống Tòa án để giảm thiểu sự can thiệp, tác động, cả trực tiếp và gián tiếp, của các chủ thể bên ngoài, qua đó bảo đảm tính độc lập thực sự của Tòa án.

Cần nghiên cứu để khẳng định Tòa án quan bảo vệ công lý thay bằng, hay đồng thời với việc coi đó là cơ quan xét xử. Chuyển phương thức xét xử từ tố tụng buộc tội sang tố tụng tranh tụng.

– Cần có những giải pháp hiệu quả về kinh phí hoạt động của hệ thống Tòa án nhằm bảo đảm các Tòa án không phụ thuộc vào bất cứ cơ quan nào, kể cả vào các Tòa án cấp trên, về kinh phí hoạt động. Ở nhiều quốc gia, pháp luật quy định một tỷ lệ phần trăm nhất định ngân sách nhà nước hay ngân sách địa phương đương nhiên phải phân bổ cho hoạt động của Tòa án; điều này giúp các Tòa án không bị ràng buộc bởi cơ chế “xin-cho” kinh phí, từ đó không phải phụ thuộc vào các cơ quan nhà nước khác hay vào Tòa án cấp trên. Đây có thể là một kinh nghiệm tốt với nước ta.

Cần nghiên cứu một số biện pháp đểđảm bảo cho độc lập của Thẩm phán như: Tăng cường trách nhiệm của Thẩm phán, Đảm bảo Thẩm phán có nhiệm kỳ vững chắc và lâu dài, Chế độ lương bổng cho Thẩm phán phải được bảo đảm, Bảo đảm một số điều kiện làm việc khác cho Thẩm phán.

TS. Đặng Vũ Huân & PGS. TS. Bùi Nguyên Khánh

Tài liệu tham khảo:

1. TS.LS. Lưu Tiến Dũng, Độc lập xét xử trong Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Sách chuyên khảo, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, năm 2012.

2. “Tổng quan về nguyên tắc độc lập của quyền tư pháp trong các điều ước quốc tế và Hiến pháp một số nước”, Tài liệu của Trung taam Thông tin thuộc Văn phòng Quốc hội.

3. Tòa án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam, đăng tải trên trang web http://www.toaan.gov.vn.

4. Vũ Thị Ngọc Hà, Tăng cường tính độc lập của các Thẩm phán trong hoạt động xét xử ở Việt Nam, đăng tải trên trang web http://www.hcmcbar.org;

5. Nguyên tắc Thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, đăng trải trên trang web http://www.khotailieu.com;

6. Hải An, Quy định rõ ràng và cụ thể tiêu chuẩn pháp lý của Hội thẩm nhân dân, đăng tải trên trang web http://www.daibieunhandan.vn;

7. Trương Hòa Bình, Một số vấn đề về chế định hội thẩm nhân dân, đăng tải trên trang web http://www.toaan.gov.vn.

8. Trần Văn Tú, Quy định của Hiến pháp về Tòa án nhân dân, đăng tải trên trang web http://www.toaan.gov.vn.

9. Nguyễn Thị Hồng, Bảo đảm độc lập tư pháp trong Nhà nước pháp quyền – Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị sửa đổi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 16 (272) tháng 8 năm 2014.



[1]The United Nations Basic Principles on the Independence of the Judiciary, pp. 12, 18.

[2]The United Nations Basic Principles on the Independence of the Judiciary, pp. 12, 18.

[3]Lênin toàn tập (1997), tập 36, Nxb. Tiến bộ Matxcơva (Tiếng Việt), tr.67.

[4]The United Nations Basic Principles on the Independence of the Judiciary.

[5]Điều 15.b, IBA Minimum Standards of Judicial Independence (1982).

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Các biện pháp bảo vệ quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân

22/01/2015

Theo quy định tại Điều 25 Bộ luật Dân sự năm 2005, cá nhân có quyền nhân thân đối với hình ảnh nói riêng và các quyền nhân thân nói chung khi bị xâm phạm thì có thể bảo vệ quyền nhân thân của mình theo các phương thức như tự mình bảo vệ; yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ hoặc buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại.

Mỗi biện pháp bảo vệ quyền nhân thân với những hình ảnh của cá nhân đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định như: (1) Biện pháp tự bảo vệ là biện pháp thể hiện tính định đoạt cao nhất của chủ thể, tôn trọng quyền tự định đoạt của chủ thể và trong chừng mực nhất định biện pháp này cũng nhanh chóng ngăn chặn, chấm dứt hành vi xâm phạm. Tuy nhiên, biện pháp này không được bảo đảm bằng biện pháp cưỡng chế nhà nước nên hiệu quả không cao; (2) Biện pháp tự mình cải chính là biện pháp được thực hiện sau khi có hành vi xâm phạm và tuân theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Biện pháp này cho phép người có quyền nhân thân đối với hình ảnh bị xâm phạm kịp thời bảo vệ quyền nhân thân của mình, hạn chế được hậu quả thiệt hại cả về vật chất và tinh thần do những hình ảnh không đúng sự thật gây ra. Tuy nhiên, trên thực tế hầu như việc tự cải chính những hình ảnh bị xâm phạm là khó thực hiện hoặc thực hiện được nhưng không có hiệu quả…

Để tìm hiểu đầy đủ về những biện pháp bảo vệ quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân và những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định liên quan tới quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh, trân trọng kính mời quý bạn đọc đón đọc bài viết: “Các biện pháp bảo vệ quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân” của tác giả Phùng Bích Ngọc đăng tải trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số định kỳ tháng 12 (273) năm 2014.

Mộc Miên

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bàn về chống tham nhũng trong đầu tư công ở Việt Nam

30/03/2015

Ở nước ta, đầu tư công vẫn được quan niệm một cách khá đơn giản, nó bao gồm tất cả các khoản đầu tư do Chính phủ và các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước tiến hành. Đầu tư công được xét không phải từ góc độ mục đích mà từ góc độ tính sở hữu của nguồn vốn dùng để đầu tư. Đầu tư công là đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước theo quy định hiện hành, bao gồm: Vốn ngân sách nhà nước, vốn công trái quốc gia, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn trái phiếu chính quyền địa phương, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn từ nguồn thu để lại cho đầu tư nhưng chưa đưa vào cân đối ngân sách nhà nước, các khoản vốn vay khác của ngân sách địa phương để đầu tư. Đây là cách hiểu tương đối phổ thông hiện nay và cũng là đối tượng của chính sách đầu tư của Nhà nước.

Tham nhũng và đầu tư công có mối liên hệ mật thiết với nhau. Thực trạng báo động ở nước ta hiện nay là tệ tham nhũng ngày càng trầm trọng, đặc biệt trong đầu tư công đang nảy nở và diễn ra ngày càng phức tạp. Những vụ tiêu cực, tham nhũng, thất thoát không chỉ diễn ra ở các dự án do nhà nước đầu tư trực tiếp mà còn ở các tập đoàn kinh tế lớn. Nguyên nhân của tham nhũng nói chung và trong đầu tư công nói riêng là sự tổng hợp, hội tụ nhiều nguyên nhân, điều kiện cả chủ quan và khách quan, cả con người và cơ chế. Qua bài viết “Bàn về chống tham nhũng trong đầu tư công ở Việt Nam” đăng tải trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số định kỳ tháng 3 (276) năm 2015, tác giả Lương Thị Thùy Linh đã phân tích những nguyên nhân và đưa ra những giải pháp phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư công. Kính mời quý bạn đọc quan tâm đón đọc!

Minh Trí

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Dự án Luật Ban hành quyết định hành chính – Mục tiêu và những định hướng cơ bản

22/01/2015

Ban hành quyết định hành chính (QĐHC) là một trong những phương thức hoạt động quan trọng trong quản lý hành chính nhà nước. Khác với văn bản quy phạm pháp luật, QĐHC là văn bản áp dụng quy phạm pháp luật, do các chủ thể có thẩm quyền nhân danh quyền lực công ban hành, mà tính chất của nó là sự cho phép, chấp thuận, cấm đoán… đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. Nếu như ở góc độ vĩ mô, văn bản quy phạm pháp luật là loại văn bản có tính phổ biến, áp dụng chung trên diện rộng ở phạm vi toàn quốc, thì ở góc độ vi mô, QĐHC là loại văn bản xác lập trực tiếp quyền, lợi ích hợp pháp, trách nhiệm pháp lý cụ thể của từng cá nhân (hoặc từng nhóm cá nhân), tổ chức. Mặc dù phạm vi áp dụng của một QĐHC không rộng như phạm vi một văn bản quy phạm pháp luật, nhưng không thể xem nhẹ vai trò và tầm quan trọng của nó, bởi một mặt, với tính chất là một văn bản áp dụng pháp luật, QĐHC là thước đo trên thực tiễn tính khả thi của một văn bản quy phạm pháp luật; mặt khác, với tính chất là một văn bản cụ thể xác lập quyền, lợi ích, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của các chủ thể, nó tác động trực tiếp đến đời sống của người dân, đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

Một QĐHC, nếu được ban hành đúng thẩm quyền, theo một trình tự rõ ràng, minh bạch và nội dung của nó phù hợp với sự thật khách quan sẽ là minh chứng sống động cho sự hợp lý, tính hợp pháp, tính khả thi trong chính sách của Nhà nước và vì vậy sẽ được thực hiện một cách đồng thuận. Ngược lại, một QĐHC “bị” ban hành sai thẩm quyền, với một trình tự không được kiểm soát về tính minh bạch và nội dung của nó không phản ánh sự thật khách quan, không tính đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, sẽ là một rào cản trong quá trình đưa chính sách của Nhà nước vào thực tiễn, gây bức xúc cho cá nhân, doanh nghiệp, làm giảm lòng tin của công chúng vào hiệu quả quản lý của cơ quan nhà nước.

1. Mục tiêu của Luật Ban hành quyết định hành chính

Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, trên phạm vi cả nước, số lượng các QĐHC do các cơ quan nhà nước ban hành là rất lớn1. Những con số đó, tuy chưa phản ánh được cụ thể tình hình ban hành QĐHC ở các cơ quan, bộ, ngành, nhưng ở góc độ định tính, đã cho thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của nó cả trong thực tiễn đời sống kinh tế – xã hội lẫn trong hoạt động điều hành và quản lý nhà nước.

Chính trên cơ sở đánh giá vai trò và tầm quan trọng của việc ban hành QĐHC, Quốc hội đã giao Chính phủ chủ trì xây dựng Dự án Luật Ban hành quyết định hành chính2. Để triển khai xây dựng Dự án Luật này, Bộ Tư pháp đã tiến hành nghiên cứu, khảo sát, tổng hợp tình hình ban hành QĐHC trên cơ sở báo cáo tổng kết của 30 Bộ, ngành và 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương3; kết quả khảo sát trực tiếp về tình hình ban hành QĐHC đối với cán bộ, công chức, người dân, doanh nghiệp và thẩm phán tại 05 tỉnh (Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, TP. Hồ Chí Minh, Tiền Giang); kết quả của các cuộc hội thảo, tọa đàm về kinh nghiệm ban hành QĐHC của các nước Hung ga ri, Cộng hòa Liên bang Đức, Cộng hòa Pháp, các tọa đàm về thực tiễn ban hành QĐHC tại một số địa phương.

Kết quả nghiên cứu và tổng hợp tình hình nói trên cho thấy, trong thực tiễn ban hành QĐHC của nước ta hiện nay còn tồn tại nhiều vướng mắc, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, nên cần thiết xây dựng một đạo luật điều chỉnh lĩnh vực này nhằm đáp ứng những yêu cầu sau đây:

1.1. Xây dựng Luật Ban hành quyết định hành chính nhằm tạo nên một cơ chế “kiểm soát quyền lực” đối với các cơ quan nhà nước theo tinh thần Hiến pháp năm 2013

Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên quy định về cơ chế “kiểm soát quyền lực” giữa các cơ quan nhà nước4, trong đó có các cơ quan hành chính – chủ thể ban hành QĐHC, từ đó đặt ra yêu cầu phải ban hành các đạo luật để xây dựng cơ chế kiểm soát một cách phù hợp quyền lực đó trong thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.

Tuy nhiên, pháp luật hiện hành mới chỉ chú trọng đến quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật, mà chưa coi trọng đúng mức việc ban hành văn bản hành chính. Các nguyên tắc cơ bản cho hoạt động của nền hành chính, các nguyên tắc về bảo đảm công khai, minh bạch, tuân thủ quy trình ban hành QĐHC, các quy trình tối thiểu trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, cá nhân được trao thẩm quyền ban hành QĐHC chưa được điều chỉnh đầy đủ, thống nhất bởi một văn bản có hiệu lực trong phạm vi toàn quốc. Bởi vậy, chưa có cơ chế thực tế để Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp – cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương, địa phương và nhân dân có thể giám sát hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, cũng như của các chủ thể khác khi ban hành QĐHC, trong khi những văn bản này lại tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích của công dân, tổ chức.

Xuất phát từ tầm quan trọng của bản thân các QĐHC và của quy trình ban hành các quyết định này, cần thiết phải xây dựng một đạo luật, trong đó tạo nên cơ chế kiểm soát quy trình ban hành các QĐHC như một bổ sung cần thiết cho cơ chế kiểm soát quyền lực giữa cơ quan lập pháp đối với cơ quan hành pháp, nhằm bảo đảm tính hợp pháp, tính hợp lý, tính khả thi của QĐHC, qua đó bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nền hành chính nói riêng và hoạt động quản lý nhà nước nói chung.

1.2. Xây dựng Luật Ban hành quyết định hành chính nhằm thực hiện mục tiêu bảo đảm tính pháp chế trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân

Pháp luật hiện hành chưa đủ cơ sở pháp lý chặt chẽ để ràng buộc trách nhiệm tuân thủ pháp luật của cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức trong quá trình ban hành QĐHC, cũng như chưa có đủ các cơ sở pháp lý để thẩm phán hành chính có thể dựa vào khi đưa ra phán quyết một QĐHC được coi là hợp pháp hay bị coi là không hợp pháp. Với tư cách là một quy trình, pháp luật hiện nay cũng chưa có cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân, doanh nghiệp khi họ là những đối tượng chịu tác động của QĐHC.

Hoạt động quản lý, điều hành của các cơ quan hành chính nhà nước chỉ có thể bảo đảm hiệu lực, hiệu quả, cũng như chỉ có thể bảo đảm được quyền, lợi ích của tổ chức, công dân khi trong quá trình ban hành QĐHC của mình, các cơ quan hành chính nhà nước tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc và quy trình được quy định một cách rõ ràng, minh bạch. Chỉ trong điều kiện đó, tổ chức, công dân mới có thể giám sát việc thực hiện quy trình, nguyên tắc ban hành QĐHC. Dưới góc độ này, việc ban hành QĐHC đúng nguyên tắc, trình tự, thủ tục có ý nghĩa như một yếu tố quan trọng bảo đảm tính pháp chế trong hoạt động của nền hành chính và bảo đảm dân chủ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp.

Để thực hiện được mục tiêu này, cần có quy định về ban hành QĐHC nhằm bảo đảm quy trình này được thực thi trên cơ sở những căn cứ pháp luật rõ ràng với trình tự, thủ tục được quy định chặt chẽ, từ đó đạt được mục tiêu bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp.

1.3. Xây dựng Luật Ban hành quyết định hành chính nhằm hoàn thiện pháp luật, khắc phục các vướng mắc, bất cập trong ban hành và thi hành quyết định hành chính

Thực tế ban hành QĐHC hiện nay cho thấy, các chủ thể ban hành QĐHC còn nhiều lúng túng, vì từ góc độ chủ quan của người trực tiếp thực hiện việc ban hành QĐHC còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về thẩm quyền ban hành quyết định, dẫn đến tình trạng mỗi nơi áp dụng một kiểu, không thống nhất; từ góc độ khách quan, các tiêu chí cụ thể để xác định một QĐHC khi nào thì được coi là hợp pháp, không hợp pháp, khi nào bị coi là vô hiệu, các tình huống theo đó khi nào một quyết định được ủy quyền ban hành, khi nào phải chịu trách nhiệm pháp lý nếu QĐHC trái pháp luật… cũng chưa được quy định đầy đủ. Tuy trong một số lĩnh vực thuộc pháp luật chuyên ngành5 đã có các quy phạm điều chỉnh về QĐHC ban hành trong lĩnh vực đó nhưng các quy định đó cũng chưa đầy đủ, đồng bộ, thậm chí còn mâu thuẫn, chưa nhất quán, dẫn đến tình trạng quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức chưa thực sự được bảo vệ hữu hiệu.

Sự thiếu vắng các tiêu chí nói trên khiến các cơ quan nhà nước, kể cả các thẩm phán hành chính không có cơ sở để đình chỉ, thu hồi, huỷ bỏ QĐHC, có trường hợp phải “vay mượn” quy định của lĩnh vực này để áp dụng cho QĐHC ở lĩnh vực khác6. Về phía người dân và doanh nghiệp, cũng vì thiếu các tiêu chí đó, họ không có cơ sở pháp lý rõ ràng để khiếu nại, khiếu kiện, dẫn đến tình trạng họ gặp khó khăn trong việc bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình.

Những nội dung sau đây cũng chưa được điều chỉnh cụ thể trong quy trình ban hành văn bản hành chính: Tiêu chí về đảm bảo tính hợp pháp, tính công khai, minh bạch, công bằng của QĐHC; các quy định về trình tự, thủ tục ban hành QĐHC, để trên cơ sở đó xác định và ràng buộc trách nhiệm pháp lý của các chủ thể có thẩm quyền ban hành QĐHC. Ở góc độ này, tuy một số văn bản pháp luật chuyên ngành đã có những quy định nhất định về trình tự, thủ tục ban hành QĐHC phù hợp với đặc thù quản lý ngành, lĩnh vực, nhưng những quy định này chỉ áp dụng riêng lẻ cho các QĐHC trong từng lĩnh vực cụ thể, mà không áp dụng chung cho các QĐHC. Bên cạnh đó, ngay cả khi đã được điều chỉnh, nhưng trình tự, thủ tục ban hành QĐHC vẫn còn rườm rà, khi thì quá phức tạp, gây tốn kém cho người dân cả về thời gian lẫn tiền bạc, lúc lại quá đơn giản đến mức không đủ thời gian cho các cơ quan chuyên môn xem xét tính hợp pháp của hồ sơ, gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp. Có những QĐHC, đặc biệt là QĐHC có phạm vi tác động rộng, ảnh hưởng đến nhiều người như: Quyết định cho phép xây dựng các nhà máy lớn, cảng biển, sân ga, bến cảng… lại được ban hành theo một trình tự, thủ tục quá đơn giản, bất hợp lý, thiếu chặt chẽ, nên không bảo đảm quyền lợi của các bên liên quan. Thực tế đó dẫn đến tình trạng, một số QĐHC ngay khi vừa ban hành đã gặp phải những phản ứng gay gắt của dư luận xã hội, khiến cơ quan ban hành phải thu hồi ngay, làm giảm lòng tin của người dân vào các cấp chính quyền.

Ngoài ra, pháp luật hiện hành cũng chưa quy định rõ quy trình công khai, công bố QĐHC, nên người dân, doanh nghiệp khó tiếp cận các thông tin liên quan ngay cả sau khi QĐHC được ban hành, vì vậy, không bảo vệ được kịp thời các quyền và lợi ích của mình.

Những vấn đề của thực tiễn nói trên dẫn đến yêu cầu phải hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh thống nhất quy trình ban hành và thực thi QĐHC, nhằm bảo vệ hữu hiệu quyền, lợi ích của công dân, doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả quản lý của cơ quan hành chính nhà nước.

1.4. Xây dựng Luật Ban hành quyết định hành chính nhằm nâng cao chất lượng của quyết định hành chính

Việc bảo đảm chất lượng của các QĐHC là vô cùng quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước, vì mỗi quyết định được ban hành không chỉ phản ánh hiệu quả điều hành, quản lý xã hội của các cơ quan nhà nước, mà đằng sau nó là quyền và lợi ích của công dân, doanh nghiệp, là việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền tự do kinh doanh, thậm chí là việc bảo đảm tính dân chủ trong hoạt động quản lý nhà nước. Thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước cho thấy, nếu xây dựng được một quy trình chuẩn cho việc ban hành QĐHC với những tiêu chí được xác định rõ ràng, cùng với việc nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức – những người trực tiếp thực thi và áp dụng quy trình đó thì chất lượng của một QĐHC chắc chắn sẽ được nâng cao.

Do đó, cần thiết phải có một đạo luật chứa đựng các nguyên tắc cơ bản về ban hành QĐHC làm cơ sở để bảo đảm việc ban hành QĐHC hợp pháp, hợp lý, khả thi, bảo đảm nâng cao chất lượng QĐHC nói riêng và hiệu quả của hoạt động quản lý hành chính nhà nước nói chung.

2. Những định hướng chính sách cơ bản xây dựng Dự án Luật Ban hành quyết định hành chính

Xuất phát từ những yêu cầu của thực tiễn như đã được nhận dạng và phân tích trong Mục 1 nêu trên, chúng tôi cho rằng, Dự án Luật Ban hành quyết định hành chính cần được nghiên cứu, xây dựng dựa trên những định hướng chính sách cơ bản sau đây:

2.1. Luật Ban hành quyết định hành chính cần quy định những nguyên tắc cơ bản, tạo khuôn khổ pháp lý chung cho việc ban hành các loại quyết định hành chính

Để góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn ban hành và thực thi QĐHC, chúng tôi cho rằng, Dự án Luật cần chứa đựng các nguyên tắc cơ bản, tạo khuôn khổ pháp lý chung cho việc ban hành tất cả các loại QĐHC. Theo đó, nội dung cơ bản của Luật cần quy định thống nhất, cụ thể về các vấn đề sau đây: Khái niệm, thẩm quyền ban hành, hình thức của QĐHC; các vấn đề liên quan đến ủy quyền ban hành QĐHC; các nguyên tắc về hiệu lực thi hành, thời điểm có hiệu lực, các trường hợp vô hiệu… của QĐHC; các nguyên tắc về việc thu hồi, hủy bỏ, gia hạn, đình chỉ, tạm đình chỉ, sửa đổi, bổ sung QĐHC; trình tự, thủ tục ban hành QĐHC, đặc biệt là trình tự, thủ tục ban hành các QĐHC gây bất lợi cho đối tượng liên quan.

2.2. Luật Ban hành quyết định hành chính cần tạo cơ chế kiểm soát việc ban hành quyết định hành chính nhằm đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý, tính khả thi của quyết định hành chính

Nguyên tắc đầu tiên cần bảo đảm trong quy trình ban hành các QĐHC là bảo đảm tính hợp pháp của nó. Tính hợp pháp của QĐHC được xem xét dưới góc độ hợp pháp về nội dung, hợp pháp về hình thức và hợp pháp về trình tự, thủ tục ban hành QĐHC.

Mặc dù, pháp luật hiện hành đã có những quy định để các cơ quan nhà nước thực hiện việc kiểm tra, giám sát việc ban hành QĐHC thông qua cơ chế thanh tra, kiểm tra, theo dõi thi hành pháp luật đối với hoạt động quản lý nhà nước nói chung và cơ chế phản hồi các QĐHC từ phía đối tượng bị quản lý thông qua việc phản ánh, khiếu nại, khiếu kiện và trình tự, thủ tục giải quyết các khiếu nại, khiếu kiện các QĐHC đó, nhưng về cơ bản, đây là các cơ chế “kiểm soát sau”, chỉ được thực hiện sau khi các QĐHC đã được ban hành và trên thực tế, chúng đã “kịp” tác động vào đời sống kinh tế – xã hội, thậm chí đã gây ra hậu quả tiêu cực, do đó, hiệu quả quản lý nhà nước rất hạn chế. Một cơ chế “kiểm soát trước” có tính phòng ngừa ngay từ giai đoạn ban hành, nghĩa là kiểm soát tính hợp pháp của các QĐHC cả về mặt nội dung, hình thức và trình tự thủ tục hiện đang là lỗ hổng trong các văn bản pháp luật có liên quan đến lĩnh vực này.

Bởi vậy, để QĐHC bảo đảm tính hợp pháp, đồng thời bảo đảm các quyền của tổ chức, cá nhân có liên quan, thì các chủ thể có thẩm quyền ban hành QĐHC phải tuân thủ các nguyên tắc và quy trình nhất định. Trong mục đích ngăn ngừa, hạn chế tới mức tối đa việc ban hành QĐHC trái pháp luật, các nội dung của Luật Ban hành quyết định hành chính phải đưa ra được các nguyên tắc ban hành QĐHC, các điều kiện hủy bỏ, bãi bỏ, thu hồi QĐHC, các điều kiện vô hiệu, có hiệu lực của QĐHC, từ đó tạo nên cơ chế kiểm soát chặt chẽ tính hợp pháp trong toàn bộ quy trình ban hành QĐHC.

Quy trình ban hành các QĐHC hiện nay thường do ý chí chủ quan của các cơ quan ban hành QĐHC và thiếu sự tham gia của tổ chức, cá nhân, thiếu cơ chế giải trình của các cơ quan ban hành QĐHC7 và chưa bảo đảm tính khách quan, minh bạch. Do đó, các quy định của Luật phải chứa đựng những tiêu chí nhằm bảo đảm tính công bằng, khách quan, bảo đảm sự tham gia của các đối tượng liên quan vào quá trình ban hành QĐHC, từ đó, làm tăng tính khả thi, tính hợp lý của mỗi QĐHC.

2.3. Luật Ban hành quyết định hành chính cần bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; bảo đảm sự công bằng, công khai, minh bạch trong quá trình ban hành quyết định hành chính

Sự minh bạch, rõ ràng của pháp luật, trong đó có pháp luật liên quan đến QĐHC là yếu tố cơ bản để bảo đảm sự công bằng của mỗi QĐHC. Việc ban hành Luật này cần hướng tới việc đảm bảo tính công khai, minh bạch, hiệu quả của quản lý hành chính cũng như bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của tổ chức, cá nhân và lợi ích của Nhà nước. Đây là định hướng cơ bản được thể hiện rõ trong các chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Bảo đảm tính công bằng trong ban hành QĐHC là điều kiện tiên quyết trong việc bảo đảm chất lượng của một QĐHC, đây cũng là mục tiêu mà nền hành chính cần hướng tới trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền và thực hiện nhiệm vụ của Chính phủ trong việc “bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội”8.

Các nguyên tắc nhằm bảo đảm tính công bằng, công khai, minh bạch và khả thi của QĐHC thể hiện ở các quy định về quy trình ban hành QĐHC như: Tạo cơ hội để người dân có thể tiếp cận các hồ sơ, tài liệu trong quá trình ban hành QĐHC, quy định quyền giải trình của bên có liên quan đối với các QĐHC; tổ chức cuộc họp, đối thoại, trách nhiệm lắng nghe, xác minh vụ việc; sự tham gia của các bên liên quan ngay trong quá trình ban hành QĐHC; trách nhiệm cung cấp thông tin của cơ quan ban hành QĐHC; về trách nhiệm thông báo, công bố, công khai QĐHC sau khi được ban hành… Đây là những nội dung cơ bản cần được quy định trong Luật Ban hành quyết định hành chính.

2.4. Luật Ban hành quyết định hành chính cần bảo đảm sự gắn kết giữa việc ban hành quyết định hành chính với việc thực thi quyết định hành chính, sự gắn kết giữa việc ban hành Luật với việc thi hành Luật

Để bảo đảm sự gắn kết giữa việc ban hành QĐHC và thực thi QĐHC, cùng với các giải pháp nâng cao chất lượng QĐHC, cần phải chú trọng tổ chức thi hành tốt QĐHC. Thực tế hiện nay cho thấy, vì thiếu sự gắn kết giữa xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật nên tính pháp chế trong thi hành pháp luật còn nhiều hạn chế. Trong hoạt động tổ chức thi hành QĐHC nói riêng và thi hành pháp luật nói chung cũng còn nhiều bất cập. Tình trạng QĐHC không được thực thi hoặc không có hiệu lực thi hành trong nhiều năm mà vẫn không được bãi bỏ, hủy bỏ, đã làm giảm đi hiệu lực của QĐHC9, làm giảm hiệu quả quản lý nhà nước.

Do vậy, việc ban hành Luật không chỉ giới hạn trong phạm vi điều chỉnh các vấn đề liên quan đến ban hành QĐHC mà cần phải quy định cả về các nội dung liên quan đến thực thi QĐHC như đình chỉ, tạm đình chỉ, gia hạn, thu hồi, hủy bỏ, cưỡng chế thi hành QĐHC, các nguyên tắc chung về khiếu nại, khiếu kiện, bồi thường thiệt hại…

Đối với vấn đề cưỡng chế thi hành QĐHC, Luật cần quy định một số nguyên tắc chung thống nhất bởi trên thực tiễn hiện nay, do nhu cầu quản lý, một số địa phương đề nghị được ban hành quy định riêng của địa phương mình (chính quyền cấp tỉnh) để điều chỉnh trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành QĐHC. Tuy nhiên, do tầm quan trọng của vấn đề và ảnh hưởng của nó trên thực tế, trình tự, thủ tục này không thể giao cho từng địa phương quy định mà cần được quy định thống nhất trong Luật này để áp dụng trong toàn quốc.

Ngoài ra, để bảo đảm sự gắn kết giữa việc ban hành Luật và thi hành Luật, cùng với việc ban hành Luật Ban hành quy định hành chính phải có các biện pháp, giải pháp đồng bộ bảo đảm cho Luật sẽ thực sự đi vào cuộc sống. Trong số các biện pháp bảo đảm thi hành, Luật cần xác định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, trong đó trước tiên và chủ yếu là trách nhiệm của cơ quan ban hành QĐHC. Bên cạnh đó, Luật cũng đồng thời đề cao trách nhiệm của cơ quan tư pháp là cơ quan chuyên môn về pháp luật ở trung ương cũng như địa phương trong việc tham gia vào quá trình kiểm soát việc ban hành QĐHC.

2.5. Luật Ban hành quyết định hành chính cần thúc đẩy quá trình cải cách hành chính theo hướng xây dựng nền hành chính trong sạch, hiệu lực, hiệu quả, có tính chuyên nghiệp cao, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt của nền hành chính; góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩavà hội nhập quốc tế

Việc thực hiện đường lối đổi mới kinh tế và chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng. Nền kinh tế đã có những bước phát triển đáng ghi nhận, từng bước hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Cùng với quá trình chuyển đổi kinh tế là quá trình chuyển từ nền hành chính quan liêu, bao cấp sang nền hành chính phục vụ, vì lợi ích nhân dân. Trong bối cảnh đó, pháp luật hành chính nói chung và trong lĩnh vực ban hành QĐHC nói riêng cần phải được nhanh chóng hoàn thiện, các nguyên tắc ban hành QĐHC của Luật phải là cơ sở pháp lý góp phần bảo đảm khuôn khổ rõ ràng cho hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá, phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính hiện nay. Các quy định của Luật cần góp phần đổi mới tư duy và tinh thần trách nhiệm của các cán bộ, công chức hành chính trong quá trình thực thi và bảo vệ pháp luật, góp phần xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, mang tính phục vụ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nhằm tạo môi trường pháp lý lành mạnh, hỗ trợ và thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế đất nước và hội nhập quốc tế, Luật này cũng phải là công cụ pháp lý hữu hiệu góp phần khắc phục tình trạng quan liêu của nền hành chính, thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế, đồng thời tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, cá nhân bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình.

Nguyễn Thị Kim Thoa & Dương Thị Bình

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Về khái niệm văn bản quy phạm pháp luật

18/12/2014

Hiện nay, Bộ Tư pháp đang giúp Chính phủ tiến hành xây dựng dự Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới để thay thế cho hai luật hiện hành là Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân năm 2004. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền ở nước ta. Điều khó có thể nghĩ đến là ngay trong nhiều nội dung được các nhà soạn luật xem xét lại là vấn đề rất cũ trong khoa học pháp lý là khái niệm văn bản quy phạm pháp luật (QPPL).

Khái niệm văn bản QPPL đã được quy định lần đầu trong Luật Ban hành văn bản QPPL năm 1996. Sau đó, nó tiếp tục được quy định với một số điểm thay đổi trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2002; hai văn bản Luật năm 2008 và Luật năm 2004 và các nghị định hướng dẫn thi hành. Mặc dù đã có một số sửa đổi, bổ sung qua các thời kỳ, nhưng về cơ bản, khái niệm văn bản QPPL được xác định trong hai luật vừa nêu với các đặc trưng như sau: (i) Văn bản QPPL là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền; (ii) Văn bản QPPL chứa đựng các quy tắc xử sự có hiệu lực bắt buộc chung để điều chỉnh các quan hệ xã hội; (iii) Hình thức của văn bản và trình tự, thủ tục ban hành theo quy định của luật; (iv) Văn bản QPPL được Nhà nước bảo đảm thực hiện.

Với những dấu hiệu đặc trưng trên, khái niệm văn bản QPPL tưởng như đã rất rõ ràng, nhưng trong thực tế lại dẫn đến tình trạng nhiều cơ quan nhà nước hiểu và vận dụng khái niệm thiếu thống nhất, thậm chí gặp nhiều khó khăn, lúng túng như:

– Trong việc nhận diện và phân biệt giữa văn bản QPPL và văn bản khác không có tính quy phạm, nhiều chủ thể còn nhầm lẫn giữa văn bản QPPL với các văn bản: Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân các cấp, nghị quyết của Hội đồng nhân dân (về phê chuẩn dự toán thu chi/quyết toán ngân sách của chính quyền địa phương)…

– Có những văn bản tuy có hình thức (tên gọi) là văn bản QPPL nhưng không chứa quy phạm pháp luật. Hay các văn bản của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định về tiêu chuẩn, cơ chế phối hợp của các đơn vị thuộc thẩm quyền, thì có cơ quan ban hành dưới hình thức văn bản QPPL, có cơ quan lại ban hành dưới hình thức văn bản cá biệt.

– Nhiều văn bản hành chính vốn được coi là văn bản áp dụng trong hoạt động quản lý nhà nước, nhưng lại chứa các quy tắc xử sự chung có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các cá nhân, cơ quan, tổ chức. Thường xảy ra nhiều nhất có thể kể đến các đề án, công văn, thông báo, kế hoạch, quy chế…

Theo thống kê, năm 2012, trong số 1.054.366 văn bản được các bộ, ngành và địa phương tự kiểm tra, có tới 1.020.572 văn bản không phải là văn bản QPPL. Bên cạnh đó, việc ban hành văn bản hành chính thông thường có chứa QPPL chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Tại Hà Nội, theo Kết luận kiểm tra văn bản QPPL của Sở Tư pháp Hà Nội tại quận Hà Đông năm 2013 cho thấy, văn bản QPPL của Uỷ ban nhân dân quận ban hành không nhiều (03 quyết định), nhưng các quyết định, chỉ thị cá biệt và công văn có chứa QPPL không được ban hành dưới hình thức văn bản QPPL còn nhiều (12 quyết định, 05 chỉ thị)(1).

Để phân biệt rõ hơn văn bản QPPL với văn bản hành chính khác, Nghị định số 161/2005/NĐ-CP và Nghị định số 91/2006/NĐ-CP đã liệt kê hàng loạt các văn bản không phải là văn bản QPPL. Với cách liệt kê này, bước đầu đã giúp cho người ban hành, áp dụng phân biệt được văn bản quy phạm và không quy phạm. Nhưng trên thực tế, việc liệt kê như vậy dẫn đến tình trạng vừa thừa, vừa thiếu. Nhiều tình huống phát sinh cần ban hành văn bản chưa được liệt kê tại các quy định này rất khó để có căn cứ xác định (nhất là đối với các văn bản có nội dung là chủ trương, đường lối, chính sách mang tính định hướng, nhiệm vụ có tính chất chiến lược).

Những hạn chế trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân xuất phát từ định nghĩa về văn bản QPPL. Định nghĩa về văn bản QPPL hiện hành mới chỉ xác định được các tiêu chí về cơ quan ban hành, trình tự, thủ tục ban hành, tương đối rõ về hình thức văn bản (10 hình thức/tên gọi văn bản). Nhưng vấn đề cốt lõi nhất của một văn bản QPPL là “quy tắc xử sự chung”, thì rất trừu tượng. Do vậy, Luật mới cần làm rõ khái niệm “quy phạm pháp luật” và “văn bản quy phạm pháp luật” tránh những nhận thức sai trong thực tiễn như đãnêu ở trên. Nói cách khác, hai khái niệm “quy phạm pháp luật” và “văn bản quy phạm pháp luật” cần được định nghĩa một cách khoa học và chặt chẽ để phân biệt được văn bản QPPL với văn bản hành chính, các văn bản pháp luật khác và văn bản áp dụng pháp luật.

Trong các trình bày về quy phạm pháp luật, quan niệm cho rằng, QPPL là quy tắc hành vi có tính bắt buộc chung, do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của Nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội”(2) theo chúng tôi là quan niệm đã thể hiện rất đạt bản chất của QPPL. Từ đây, cũng có thể hiểu cụ thể hơn rằng, QPPL là quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức. Tuy vậy, quan niệm về QPPL còn phải được làm rõ hơn. Điều quan trọng là làm thế nào để có thể dễ dàng nhận diện chính xác được các QPPL (quy tắc xử sự chung) trong thực tiễn. Điểm mấu chốt để phân biệt với văn bản pháp luật khác là phải xác định quy tắc xử sự chung là gì để phân biệt nó với các văn bản pháp luật cũng đặt ra quy tắc xử sự nhưng không phải mang dấu hiệu “chung”.

Quy phạm là danh từ gốc Hán có nghĩa đen là khuôn thước (quy là thước, phạm là khuôn, com pa – quay trong phạm vi). Như vậy, danh từ quy phạm dùng để chỉ cái khuôn, cái mẫu, cái thước mà người ta phải nói và làm theo. Về cơ cấu của QPPL, đa số các luật gia đều cho rằng, QPPL thông thường có ba bộ phận: Giả định, quy định, chế tài.

Bộ phận giả định của QPPL xác định điều kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong cuộc sống, mà khi gặp các điều kiện đó, các chủ thể sẽ phải xử sự theo cách thức Nhà nước đặt ra. Nó trả lời câu hỏi: Ai (cá nhân hay tổ chức nào)? Khi nào, trong điều kiện, hoàn cảnh nào? Thiếu giả định, thì QPPL sẽ không có ý nghĩa vì không có “địa chỉ” áp dụng.

Bộ phận quy định của QPPL định hướng hành vi xử sự của cá nhân, tổ chức được thực hiện hay không được thực hiện và cách thức thực hiện hành vi đó, trả lời cho câu hỏi được làm gì (quyền), không được làm gì (hành vi bị cấm), phải làm gì (nghĩa vụ) và làm như thế nào (thủ tục, trình tự thực hiện). Quy định là hạt nhân của QPPL. Không có nó, QPPL sẽ là vô nghĩa.

Bộ phận chế tài, là bộ phận xác định biện pháp tác động mà Nhà nước dự kiến áp dụng đối với chủ thể không thực hiện đúng mệnh lệnh được nêu trong phần quy định của QPPL (truy cứu trách nhiệm pháp lý). Chế tài là bộ phân thể hiện rõ nhất tính “pháp luật” của QPPL, phân biệt nó với các quy phạm khác trong đời sống xã hội. Không có chế tài, QPPL không còn là QPPL.

Quan niệm về QPPL có ba thành phần trên đây được gọi là QPPL trừu tượng, còn gọi là QPPL có cơ cấu ba thành phần. Không nhất thiết ba bộ phận của QPPL đều được thể hiện trong một điều luật, một văn bản pháp luật, nhưng trong một hệ thống pháp luật thì phải có được ba thành phần đó. Và cũng cần chú ý rằng, trong thể hiện ra bên ngoài, QPPL có thể có đầy đủ ba bộ phận, nhưng cũng có thể chỉ gồm hai, có bộ phận được trình bày ẩn. Quy phạm pháp luật được phân thành nhiều loại như: Quy phạm chung (quy phạm nguyên tắc, quy phạm giải thích, quy phạm tuyên bố), quy phạm cụ thể dưới các dạng quy phạm cấm đoán, quy phạm cho phép, quy phạm trao quyền), quy phạm nội dung và quy phạm thủ tục… Quy phạm có dấu hiệu bên ngoài để nhận diện đó là: Tính bắt buộc chung (không xác định cụ thể đối tượng thi hành) và khả năng áp dụng nhiều lần (lặp đi lặp lại).

Tất nhiên, để xác định một văn bản pháp luật là văn bản QPPL, thì không thể chỉ nêu quan niệm hay định nghĩa về QPPL, mà còn cần phải xác định cả những dấu hiệu khác như: Cơ quan có thẩm quyền ban hành, trình tự, thủ tục ban hành, khẳng định QPPL được Nhà nước bảo đảm thực hiện, được thực hiện nhiều lần với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng…

Trên thế giới, khái niệm văn bản QPPL được các nước xử lý theo nhiều cách khác nhau. Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật – Bộ Tư pháp đã tiến hành sưu tầm các luật quy định về trình tự, thủ tục ban hành văn bản luật và văn bản pháp quy của trên 16 quốc gia. Nghiên cứu cho thấy, có 9/16 nước không định nghĩa văn bản pháp luật, có 5/16 nước quy định về khái niệm, chủ yếu là các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây như: Azebaizan, Lào, Kyrgikistan, Gruzia, Bulgaria. Về cơ bản, khái niệm văn bản pháp luật của các nước có định nghĩa gần giống với khái niệm văn bản QPPL của Việt Nam, với một số điểm chung như: Là văn bản có chứa đựng quy tắc chung; do cơ quan nhà nước ban hành hoặc thông qua; có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng nhiều lần. Ngoài ra, một số nước có thêm quy định về xác lập, thay đổi hoặc hủy bỏ các QPPL,… Đối với những nước không xác định khái niệm văn bản QPPL, họ chỉ liệt kê hình thức văn bản; quy định thẩm quyền ban hành (cho chính quyền địa phương, thậm chí trao quyền cho đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt như Trung Quốc),…

Như vậy, rất ít quốc gia có Luật Ban hành văn bản QPPL. Đối với hầu hết các nước, việc ban hành văn bản QPPL đã thành truyền thống lâu đời và không gặp phải rắc rối trong việc xác định thế nào là một văn bản QPPL và cũng không xem đây là một vấn đề cần tranh luận. Văn bản quy định như thế nào, thì cứ làm như vậy.

Do đó, với lần xây dựng luật mới này, không nên quá cầu toàn và kỳ vọng vào việc sẽ có một định nghĩa hoàn hảo giải quyết được triệt để những vướng mắc, khó khăn phát sinh trong thực tiễn xây dựng và ban hành văn bản QPPL. Tuy nhiên, để khắc phục những hạn chế trước đây, ngoài việc quy định rõ hơn về hình thức, nội dung và thẩm quyền ban hành văn bản QPPL, khi xây dựng Luật hợp nhất lần này sẽ phải đưa ra định nghĩa rõ ràng về QPPL và văn bản QPPL. Điều quan trọng ở đây, theo chúng tôi, cần đi theo hướng xác định rõ QPPL là quy tắc xử sự bắt buộc được áp dụng nhiều lần trong phạm vi toàn xã hội (cả nước hoặc một địa phương), còn văn bản QPPL là văn bản có chứa QPPL và được ban hành, công bố, thi hành theo quy định của Luật này, đảm bảo cho việc nhận dạng về hình thức văn bản QPPL được đơn giản, thuận tiện và hiệu quả.

Tài liệu tham khảo:

1. Theo Báo cáo số 98/BC-BTP ngày 08/5/2013 của Bộ Tư pháp về kết quả kiểm tra, xử lý văn bản QPPL năm 2012 và Kết luận của Đoàn Kiểm tra Sở Tư pháp Hà Nội về việc kiểm tra công tác ban hành, kiểm tra văn bản QPPL tại quận Hà Đông năm 2013.

2. Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2003.

ThS. Ngô Hồng Thủy

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 đã được cụ thể hóa trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

14/01/2015

Quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 đã được cụ thể hóa trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã được kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 19/6/2014 và đã chính thức có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015, thay thế Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã kế thừa và phát huy các quy định hiện hành và pháp luật về hôn nhân gia đình qua các thời kỳ phát triển của đất nước; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trong việc điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình; những quy định mới của Luật đã bám sát và cụ thể hóa những nội dung cơ bản về quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 , đó là: Tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền con người, bình đẳng giới, bảo vệ bà mẹ, trẻ em, người cao tuổi và những người yếu thế khác trong quan hệ hôn nhân và gia đình… Luật đã khắc phục được nhiều mặt hạn chế, đã tạo ra cơ chế pháp lý hiệu quả trong việc điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình vốn có nhiều đặt thù so với các quan hệ dân sự khác, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của đời sống xã hội và đất nước. So với Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 ít hơn 04 chương, nhưng tăng thêm 23 điều (với 9 chương và 133 điều), Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định những vấn đề mới như: Tăng độ tuổi kết hôn của nam và nữ; không cấm nhưng không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính; cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; quy định về chế độ tài sản của vợ chồng; quan hệ giữa vợ và chồng; chấm dứt hôn nhân; quan hệ giữa cha, mẹ và con; quan hệ giữa các thành viên khác của gia đình; chế độ cấp dưỡng…

Một số điểm mới trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 liên quan đến quyền con người được quy định trong Hiến pháp năm 2013, cụ thể:

Về độ tuổi kết hôn: Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định độ tuổi được kết hôn của nữ phải từ đủ18 tuổi, nam phải từ đủ 20 tuổi[1], quy định này nhằm đảm bảo thống nhất với Bộ luật Dân sự năm 2005 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004. Cụ thể: Theo Bộ luật Dân sự thì: “… người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên”[2], khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý. Còn theo Bộ luật Tố tụng dân sự thì: “Đương sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên có đầy đủ hành vi tố tụng dân sự…”[3]. Như vậy,nếu cho phép người chưa đủ 18 tuổi kết hôn là không hợp lý, thiếu đồng bộ và làm hạn chế một số quyền của người nữ khi xác lập các giao dịch như quyền yêu cầu ly hôn thì phải có người đại diện.

Về hôn nhân đồng giới: Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã bỏ quy định “cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính” nhằm tránh sự phân biệt, kỳ thị đối với người đồng tính và can thiệp vào quan hệ chung sống giữa những người cùng giới tính; mặt khác nếu quy định cấm đồng nghĩa phải quy định chế tài xử phạt. Tuy nhiên, thể hiện quan điểm hôn nhân phải là sự liên kết giữa hai người khác giới, nhằm duy trì nòi giống, thì “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính”[4] và khi xẩy ra tranh chấp sẽ không được pháp luật bảo vệ.

Về mang thai hộ: Một trong những điểm mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là đã chính thức thừa nhận và cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Việc mang thai hộ chỉ được áp dụng khi có đầy đủ các điều kiện về cả người nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ, phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và phải được lập thành văn bản[5]. Theo đó, các cặp vợ chồng vì lý do nào đó không thể tự sinh con có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện, gồm: Giấy xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; vợ chồng đang không có con chung; đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. Luật được thông qua dựa trên nguyên tắc “người mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng để ngăn ngừa tình trạng thương mại hóa việc mang thai hộ bên vợ hoặc bên chồng”. Quy định này vô hình chung sẽ làm hạn chế quyền nhờ mang thai hộ, có rất nhiều trường hợp không tìm được người thân thích để mang thai hộ (ví dụ: Trường hợp cả hai vợ chồng đều là trẻ mồ côi nhưng không xác định được cha mẹ, anh em họ hàng và người thân thích…).

Trong vấn đề mang thai hộ, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của người mang thai hộ như: Có quyền và nghĩa vụ như cha mẹ trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản và chăm sóc nuôi dưỡng con; được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ; có quyền yêu cầu bên nhờ mang thai hộ thực hiện việc hỗ trợ, chăm sóc sức khỏe sinh sản; người mang thai hộ phải thực tuân thủ các quy định về thăm khám, các quy trình sàng lọc để phát hiện, điều trị các bất thường, dị tật của bào thai theo quy định của Bộ Y tế[6].

Về tài sản của vợ chồng: Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực trước khi kết hôn và vẫn có thể thay đổi sau khi kết hôn[7]. Việc thừa nhận chế độ tài sản này là nhằm tôn trọng quyền của vợ chồng trong việc tự thỏa thuận, định đoạt đối với tài sản của họ; đồng thời nhằm giảm thiểu sự tranh chấp tài sản sau khi ly hôn của các cặp vợ chồng trong tình hình hiện nay. Tuy nhiên, dù lựa chọn chế độ tài sản nào, vợ chồng đều phải có nghĩa vụ bảo đảm lợi ích chung của gia đình, nhất là lợi ích của các con.

Đối với nam, nữ sống chung như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn, việc giải quyết quan hệ tài sản phải đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con.

Về công việc nội trợ: Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thừa nhận công việc nội trợ và các công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập[8].

Về đối tượng được yêu cầu giải quyết ly hôn: Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định bổ sung thêm các đối tượng được yêu cầu giải quyết ly hôn, thay vì chỉ có vợ hoặc chồng mới có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn như trước đây. Kể từ ngày 01/01/2015, cha mẹ, người thân thích khác,… cũng có thể yêu cầu giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không nhận thức, không làm chủ được hành vi của mình; đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, hoặc vợ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ[9]. Chồng không có quyền ly hôn khi vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi[10].

Về nghĩa vụ đối với con cái khi ly hôn: Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên (Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là từ đủ 09 tuổi trở lên), thì phải xem xét nguyện vọng của con[11].

Quy định “về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thoả thuận khác” được sửa thành “con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”[12].

Ngoài ra, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng có một số điểm mới như: Bổ sung nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột[13]; quy định về con do người vợ mang thai trong thời kỳ hôn nhân cũng được luật hóa. Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ mang thai trong thời kỳ hôn nhân. Nếu cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định[14]

Về áp dụng tập quán trong hôn nhân và gia đình:Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 chỉ quy định “Vận động nhân dân xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình, phát huy truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc; xây dựng quan hệ hôn nhân và gia đình tiến bộ”. Việc quy định chung chung như vậy đã tạo nhiều kẽ hỡ, bất cập, gây khó khăn cho Tòa án khi xét xử các vụ án về hôn nhân gia đình mà phải áp dụng phong tục tập quán. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định cụ thể việc áp dụng tập quán trong hôn nhân gia đình đó là: “Chỉ được áp dụng tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc trong trường hợp pháp luật không có quy định và các bên không có thỏa thuận, nhưng không được trái với các nguyên tắc, và không vi phạm các điều cấm của Luật Hôn nhân và gia đình”[15].

Có thể khẳng định, với những sửa đổi, bổ sung mới rất quan trọng, phù hợp với thực tiễn đời sống kinh tế – xã hội Việt Nam, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã đáp ứng kịp thời các yêu cầu khách quan của đời sống hôn nhân và gia đình trong tình hình mới; bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình được quy định trong Hiến pháp năm 2013; kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp của các dân tộc Việt Nam trong hôn nhân gia đình. Đó cũng chính là một trong những nội dung và mục tiêu quan trọng trong việc: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học… đảm bảo sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh”[16]./.

Việt Tiến

Ảnh: St



[1]Điểm a khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2]Điều 18 Bộ luật Dân sự năm 2005.

[3]Khoản 3 Điều 57 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004.

[4]Khoản 2 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5]Điều 93 đến Điều 98 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[6]Điều 97 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

[7] Điều 47, 48,49, 50 và Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

[8]Khoản 1 Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

[9]Khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[10]Khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[11]Khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[12]Khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[13]Điều 114 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[14]Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[15]Điều 7 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[16]Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 Nghị quyết Hội nghị lần thứ chính Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ IX về: Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Kinh nghiệm thừa nhận và sử dụng luật tục ở một số quốc gia trên thế giới

10/11/2014

Trong các xã hội tiền nhà nước, luật tục giữ vai trò thống trị. Cũng như ở Việt Nam, các dân tộc ở các nước trên thế giới đều có luật tục riêng của mình để điều chỉnh các quan hệ trong cộng đồng tộc người.

Khái niệm luật tục được các nhà khoa học nước ta bàn luận nhiều, nhưng về cơ bản thống nhất khái niệm được đưa vào Từ điển Luật học: “Luật tục là những quy tắc xử sự mang tính chất bắt buộc do các cộng đồng làng xã xây dựng nên và được truyền từ đời này sang đời khác”(1). Luật tục có thể tồn tại bằng truyền miệng hoặc có thể được ghi bằng văn bản. Luật tục là pháp luật của các cộng đồng làng xã hoặc của cả một cộng đồng dân tộc thiểu số. Luật tục, khi có nội dung phù hợp với tiến bộ xã hội, tạo được công bằng, công lý và trật tự xã hội, thì được Nhà nước thừa nhận và trở thành pháp luật tập quán, còn nếu cổ hủ, lạc hậu hoặc mang tính chất mê tín dị đoan thì sẽ bị Nhà nước cấm đoán(2).

Luật tục hay tập quán pháp, tương đương với các thuật ngữ nước ngoài “Customary laws”, “Folk laws” là một hiện tượng xã hội phổ biến của nhân loại ở thời kỳ phát triển tiền công nghiệp và còn tồn tại đến ngày nay trong nhiều tộc người trên thế giới, nhất là ở châu Á và châu Phi(3). Cho đến thế kỷ XIX, các chính phủ thực dân trên toàn thế giới chủ yếu quan tâm đến việc kiểm soát các trung tâm thương mại. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển các thuộc địa thương mại thành các thuộc địa sản xuất, các chính quyền thuộc địa ngày càng tiếp xúc với người dân bản địa nhiều hơn. Trong các nỗ lực, nhằm giành quyền kiểm soát, họ phải xác định mối quan hệ của họ đối với những hệ thống pháp luật và chính trị hiện hành. Nhìn chung, họ kiềm chế không can thiệp vào luật gia đình nhưng họ không thể đơn giản bỏ mặc cho luật tục điều chỉnh các đối tượng khác, chẳng hạn như Luật Hình sự và Luật Ruộng đất có liên quan đến vị trí chính trị và kinh tế của các chính quyền thực dân và các mối quan hệ kinh tế của họ với người địa phương.

Các cường quốc thực dân khác nhau có chính sách rất khác nhau. Với truyền thống tập trung hóa của mình, Cộng hòa Pháp là một điển hình cho thái cực nỗ lực trong việc giảm bớt quyền lực của các hệ thống luật hiện hành của Nhà nước thuộc địa. Vương quốc Anh lại ở một thái cực khác, họ rất chú trọng đến việc thống trị một cách gián tiếp, nhưng đồng thời công nhận luật tục một cách rộng rãi. Hà Lan có một quan điểm dung hòa, cũng như ở các nước thuộc địa khác, ở Hà Lan đã diễn ra các cuộc tranh luận về thể chế và phạm vi ảnh hưởng của cái gọi là luật “Adat” của những người Anh Điêng ở Đông Hà Lan(4).

Sau khi giành độc lập, các quốc gia mới phải xem xét lại hình thức và tình trạng trật tự pháp luật của họ, phần lớn các nước lựa chọn chính sách Mẫu quốc thực dân và thuần túy tiếp quản luật thực dân trước đây, kể cả chính sách công nhận luật tục. Một số nước, trong đó có Malawi, cố gắng thiết lập một trật tự pháp lý có tính “bản địa” hơn. Về danh nghĩa, Indonesia tuyên bố đã bản địa hóa hệ thống pháp luật của mình; trên thực tế, đất nước này vẫn tiếp tục phát triển theo hướng thống nhất pháp luật mà đã được khởi xướng bởi Chính phủ của những người Anh Điêng ở Đông Hà Lan.

Ở các nước có dân bản xứ như: Canada, Hoa Kỳ, New Zealand và một số nước ở Mỹ La tinh, nhân quyền, đặc biệt là việc bảo vệ quyền văn hóa và quyền tự quyết của người dân bản xứ đã trở thành trọng tâm của các cuộc tranh luận hiện nay. Cuộc tranh luận cũng được tiến hành trong bối cảnh quản lý về tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Các nhóm người bản địa đang cố gắng phát triển các hình thức quản lý “bản địa” đối với rừng nhiệt đới, đất và nước, đồng thời kêu gọi công nhận các quyền của các cộng đồng địa phương. Vấn đề đa dạng pháp luật không chỉ hạn chế ở mối quan hệ giữa luật pháp và luật tục. Ở nhiều nước, có phần đông dân số là Hồi giáo, nhiều người đã lên tiếng đòi hỏi sử dụng Luật Hồi giáo để thay thế cho luật quốc gia. Thông thường, đây chính là hành động phản ứng lại chính sách thế tục hóa trước đây đã từng xảy ra ở Thổ Nhĩ Kỳ. Ở Nepal, Luật Hindu được coi là cơ sở cho hệ thống luật của Nhà nước. Ở cả Nepal và Ấn Độ, sự đa dạng của Luật Hindu và Luật Hồi giáo địa phương là một đặc điểm của một hệ thống pháp luật của các quốc gia này(5).

Dòng pháp luật châu Âu lục địa (Civil Law) đã tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về vai trò của tập quán pháp luật. Có quan điểm xã hội học pháp luật cho rằng, tập quán đóng vai trò chủ đạo trong các nguồn của pháp luật, chính tập quán là nền tảng của pháp luật, xác định các phương pháp áp dụng, phát triển của pháp luật do thẩm phán, học thuyết đưa ra. Đối với quan điểm trên, trường phái pháp luật thực định phủ nhận vai trò của tập quán. Cả hai trường phái nêu trên, hoặc quá tả hoặc quá hữu đều không có quan điểm đúng đắn về tập quán pháp luật. Tập quán không phải là yếu tố chính và đầu tiên của pháp luật, nó chỉ là một trong những yếu tố tìm ra giải pháp công minh để giải quyết các vấn đề pháp luật. Trên thực tế, các nước theo truyền thống Civil Law đều thừa nhận tập quán là những nguyên tắc xử sự hình thành một cách tự phát, tồn tại lâu đời, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, trở thành thói quen tự nhiên và mang tính bắt buộc chung như quy phạm pháp luật.

Nguồn của hệ thống pháp luật Anh gồm hai loại nguồn chính là luật thành văn và luật bất thành văn. Luật thành văn là các đạo luật do Nghị viện và các văn bản phụ trợ do Chính phủ ban hành. Luật bất thành văn bao gồm hai bộ phận: Một là, các tập quán phổ biến từ thời thượng cổ (Common Law); Hai là, các tập quán hoặc luật lệ địa phương (Particular Customs or Laws) có ảnh hưởng tới những người sống ở một vùng nhất định nào đó.

Để được coi là tập quán pháp địa phương phải thỏa mãn một số tiêu chí. Thứ nhất, tập quán đó phải mang tính cổ xưa, nghĩa là phải tồn tại từ lâu đời. Thứ hai, tập quán đó phải có tính trường tồn, tức là tập quán đó phải tồn tại lâu dài và có khả năng tiếp tục tồn tịa trong tương lai. Thứ ba, tập quán đó phải được đón nhận một cách tự nguyện, hay nói cách khác là tập quán đó phải tồn tại công khai và không bị cộng đồng địa phương phủ nhận. Thứ tư, tập quán đó phải có lý, điều đó không bắt buộc chứng minh rằng có những lý do chính đáng cho việc áp dụng một tập quán nào đó mà chỉ cần tập quán đó không đi ngược lại lẽ phải. Thứ năm, tập quán đó phải mang tính chắc chắn, không thể thay đổi. Thứ sáu, tập quán đó phải mang tính phù hợp, không đi ngược lại những tập quán khác.

Trong lịch sử, những tập quán quan trọng nhất của Anh là tập quán thương mại đã được đưa vào trong án lệ và hình thành nên Luật Thương mại và sau này đã được pháp điển hóa thành Luật Hối phiếu năm 1882.

Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống pháp luật gắn liền với hệ tư tưởng Mác – Lê Nin về nguồn gốc, bản chất, hình thức nhà nước và pháp luật, gắn liền với Cách mạng tháng Mười Nga và sự ra đời, phát triển của Nhà nước xã hội chủ nghĩa(6). Nguồn của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa rất rộng, trong đó có tập quán pháp luật. Các tập quán pháp luật thể hiện ở các lệ làng, hương ước, luật tục. Trên thực tế, một số quốc gia đã nghiên cứu, thể chế hóa một số tập quán phù hợp vào luật pháp để điều chỉnh các quan hệ xã hội.

Nguồn của hệ thống pháp luật Hồi giáo bao gồm Kinh Coran và Sunna; nguồn phát sinh bao gồm Jima và Qias. Kinh Coran là cuốn kinh thánh của đạo Hồi được viết bằng tiếng Ả Rập. Kinh Coran hình thành từ những gì mà Mohammed tuyên đọc hay đọc lại những lời của thượng đế khi thuyết giảng. Kinh Coran gồm 114 chương, chia thành các tiết với 6.237 đoạn thơ. Kinh Coran nêu ra rất nhiều các luật lệ mà các tín đồ Hồi giáo phải một mực tuân thủ. Trong kinh Coran chỉ có rất ít đoạn có thể áp dụng như quy phạm pháp luật. Những đoạn này thường không đủ độ chính xác và cụ thể như những quy phạm pháp luật và điều chỉnh nhiều vấn đề như: Hiến pháp (10 đoạn); quyền dân sự (70 đoạn); nhân thân (70 đoạn); hình sự (30 đoạn); thủ tục tư pháp (13 đoạn)…; Sunna có nghĩa là “con đường quen đi” là lối sống, cách hành xử của nhà tiên tri Mohammed. Sunna bao gồm những hành động cụ thể, những lời khuyên dạy hoặc cấm đoán xuất phát trực tiếp từ Mohammed. Sunna là nguồn luật quan trọng của Islam sau kinh Coran. Jima được sử dụng để giải thích các nguồn luật cơ bản, thực chất nó là quan điểm chung, các giải pháp pháp lý cho những tình huống mới do các học giả Hồi giáo đưa ra. Jima gần giống như tập quán nhưng không phải là tập quán. Qias thực chất là phương pháp suy luận tương tự để giải thích luật. Bằng phương pháp này, các luật gia có thể “kết hợp ý chí của thần thánh với lý trí của con người”. Qias được cộng đồng Hồi giáo tuân thủ nhờ dựa trên kinh Coran và Sunna.

Ở Nhật Bản, tập quán pháp được hiểu là những quy tắc xử sự được xã hội tuân thủ mặc dù không được bất cứ cơ quan công quyền nào đặt ra. Tập quán được coi là nguồn luật nếu tập quán đó chưa được pháp luật quy định đồng thời không trái với trật tự công cộng hoặc trái với quy phạm đạo đức, không bị bãi bỏ bởi bất cứ quy định pháp luật nào do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc được pháp luật quy định cụ thể về việc áp dụng tập quán đó. Về nguyên tắc, tập quán chỉ là nguồn luật phụ trợ và thẩm phán chỉ áp dụng tập quán pháp khi không có quy định trong luật thành văn. Vì vậy, luật có giá trị ràng buộc cao hơn tập quán, nhưng trong lĩnh vực dân sự, có những trường hợp tập quán cao hơn luật.

Tập quán (Adat) có vai trò khá quan trọng trong hệ thống pháp luật Indonesia. Tập quán điều chỉnh phạm vi rất lớn các quan hệ xã hội trong lĩnh vực đất đai, hôn nhân gia đình, thừa kế…, thậm chí cả trong nhiều giao dịch thương mại. Ngày nay ở Indonesia, luật của người Minangkabau đang được tiếp tục nghiên cứu một cách nghiêm túc. Thế hệ trẻ của Minangkabau được đào tạo theo định kỳ. Một phòng ban về chữ viết của Minangkabau được thành lập ở Khoa Chữ viết Đại học Andalas. Việc giảng dạy các tập tục Minangkabau cũng được đưa vào chương trình giảng dạy trung học, trung học cơ sở và tiểu học(7).

Ở Malaysia, tập quán là một trong những nguồn luật quan trọng. Mỗi địa phương có những tập quán riêng, một số tập quán có giá trị áp dụng và được các Tòa án thừa nhận và áp dụng như các quy định của pháp luật trong các văn bản thành văn và các án lệ. Ở miền Tây Malaysia, các tập quán được áp dụng trong hoạt động của Tòa án chủ yếu là các tập quán về sở hữu đất đai và thừa kế. Có hai loại tập quán ở vùng này được áp dụng ở các bang khác nhau là tập quán theo chế độ mẫu hệ (hai bang Negeri Sembilan và Naning) được áp dụng chủ yếu ở hai bang Negeri Sembilan và Naning. Các tập quán ở miền Đông của Malaysia gắn liền với người dân địa phương, chủ yếu được áp dụng ở nông thôn hai Bang Sabah và Sarawak. Tòa án áp dụng các tập quán này là Tòa án của người bản xứ. Một trong những tập quán đặc trưng của vùng này là Tòa án có thể quyết định việc bồi thường thiệt hại được trả bằng hiện vật có giá trị tương đương với mức thiệt hại.

Tìm hiểu ở nước nước láng giềng Lào cho thấy, luật tục của các bộ tộc Lào điều chỉnh hầu hết cuộc sống cộng đồng, trong đó có liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước. Người Lào và một bộ phận người Thái ở Thái Lan có “hiit sip soong” và “khoong sip sii” với nhiều nét tương đồng với người Thái ở Việt Nam vẫn luôn tồn tại trong sinh hoạt cộng đồng địa phương(8).

Như vậy, trên thực tế, nhiều nước trên thế giới đã và đang phát triển luật tục theo cách riêng của mình. Điều này chứng tỏ, tập quán hay luật tục là một thiết chế quan trọng không thể thiếu trong đời sống xã hội của các quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Mặt khác, tập quán, luật tục là một trong những nguồn của pháp luật, được nhiều quốc gia sử dụng để góp phần quản lý xã hội có hiệu quả hơn. Trong yêu cầu hội nhập quốc tế, chúng ta thấy rằng, nhiều quốc gia, dân tộc đang bỏ công sức, tiền của để nghiên cứu văn hóa các tộc người trên thế giới nói chung và khoa học nghiên cứu nhân chủng học nói riêng, để rồi đưa ra những kết luận xác đáng về nguồn gốc của con người, của tộc người,… Do vậy, việc Việt Nam nghiên cứu luật tục của các dân tộc thiểu số và hương ước của người Việt, trong đó, có luật tục Thái là con đường, định hướng chung của nhiều nhà khoa học và nhiều quốc gia trên thế giới trong chiến lược nghiên cứu khoa học nói chung. Mặt khác, trong tình hình hiện nay, xu thế của thế giới là giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc, quốc gia mình để nhằm khẳng định mình, thúc đẩy lòng tự hào dân tộc phục vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội và việc giao lưu văn hoá quốc tế.

Luật tục là một hiện tượng thuộc thượng tầng kiến trúc đã hình thành, phát triển cùng sự hành thành và phát triển của xã hội loài người. Với những đặc điểm riêng, luật tục có mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật và nó sẽ còn tồn tại lâu dài, giữ vị trí quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm điều hòa, cân bằng xã hội trong cộng đồng các dân tộc ít người, trở thành bản sắc văn hóa của từng tộc người, cùng tạo nên bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam

Tài liệu tham khảo:

1. Từ điển Luật học, (2006), Nxb. Từ điển bách khoa, Nxb. Tư Pháp, Hà Nội.

2. Nxb. Chính trị Quốc gia (2000), Luật tục và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội, tr. 528.

3. Chương trình Thái học Việt Nam – Viện Việt Nam học và khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội, Các tập Kỷ yếu hội thảo Thái học lần thứ nhất (1991); lần thứ hai (1998); lần thứ ba (2002), lần thứ tư (2006); lần thứ năm (2009); lần thứ sáu (2012).

4. Viện nghiên cứu văn hóa dân gian (2000), Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Luật tục và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội, 2000.

6. C. Mác và Ph.ăng-ghen (1998), Về quyền con người, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

7. Hoàng Trinh (2000), Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa trong văn hóa, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

8. Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng (2003), Luật tục Thái ở Việt Nam, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

Vi Văn Sơn

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

09/03/2015

Theo quy định của Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa thì doanh nghiệp nhỏ và vừa được phân định theo 03 loại hình: Doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên). Doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có tổng nguồn vốn từ 20 tỷ đồng trở xuống hoặc có số lao động từ trên 10 người đến 200 người (đối với doanh nghiệp hoạt động thương mại và dịch vụ thì tiêu chí tổng nguồn vốn được xác định từ 10 tỷ đồng trở xuống hoặc có số lao động từ trên 10 người đến 50 người). Doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có tổng nguồn vốn từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng hoặc có số lao động từ trên 200 người đến 300 người (đối với doanh nghiệp hoạt động thương mại và dịch vụ thì tiêu chí tổng nguồn vốn được xác định từ trên 10 tỷ đồng đến 50 tỷ đồng hoặc có số lao động từ trên 50 người đến 100 người) . Nghị định này cũng quy định về “kế hoạch trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa” cũng như “chương trình trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhà nước”. Theo đó, chương trình mục tiêu dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa được xây dựng trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế – xã hội, phát triển ngành, địa bàn và được bố trí trong kế hoạch hàng năm và 05 năm. Ưu tiên chương trình trợ giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa do phụ nữ làm chủ và doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng nhiều lao động nữ…

Tuy nhiên, để kế hoạch, chương trình trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đạt kết quả trong thực tiễn, cần phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó có giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ nhà nước đối với DNVVN. Từ thực tiễn cho thấy, yêu cầu khách quan phải hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này xuất phát từ những lý do sau đây:

Thứ nhất,từ vị trí quan trọng của doanh nghiệp nhỏ và vừatrong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Hiện nay, DNVVN là loại hình doanh nghiệp chiếm đa số và chủ yếu trong nền kinh tế, đóng vai trò quan trọng trong tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giúp huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, xóa đói giảm nghèo… Nhà nước xác định mục tiêu phát triển DNVVN giai đoạn 2011 – 2015 là thành lập mới 350.000 doanh nghiệp và phấn đấu đến ngày 31/12/2015, cả nước sẽ có khoảng 700.000 doanh nghiệp hoạt động. Trong đó, tỷ trọng xuất khẩu của khu vực DNVVN chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn quốc; đầu tư của khu vực này chiếm khoảng 35% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; đóng góp 40% GDP; 30% tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN); tạo thêm 3,5 – 4 triệu việc làm mới trong giai đoạn 2011 – 2015…Số tiền thuế và phí mà các DNVVN đã nộp cho Nhà nước đã tăng 18,4 lần sau 10 năm. Sự đóng góp của DNVVN đã hỗ trợ lớn cho việc chi tiêu của Nhà nước vào các công tác xã hội và các chương trình phát triển khác nên đã tạo ra 40% cơ hội cho dân cư tham gia đầu tư có hiệu quả, huy động các khoản tiền đang phân tán, nằm trong dân cư để hình thành các khoản vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh trong bối cảnh thiếu vốn hiện nay[1].

Thứ hai,từ thực trạng pháp luật hiện hành về hoạt động hỗ trợ nhà nước cho doanh nghiệp nhỏ và vừacòn nhiều hạn chế, rào cản, chưa tạo ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp nhỏ và vừahoạt động hiệu quả

Pháp luật hiện hành còn tạo rào cản cho DNVVN tiếp cận vốn vay: Phần lớn các doanh nghiệp còn lại gặp các trở ngại như sau: 55% trở ngại do quy định về thủ tục vay (hồ sơ vay vốn phức tạp, không đủ thủ tục vay vốn đơn giản cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ); 50% trở ngại do quy định về yêu cầu thế chấp (thiếu tài sản có giá trị cao để thế chấp, ngân hàng không đa dạng hóa tài sản thế chấp như hàng trong kho, các khoản thu…); trở ngại do quy định hiện nay đến 80% tỷ lệ lãi suất chưa phù hợp; dẫn đến khó khăn nhất vẫn là thiếu vốn cho sản xuất, kinh doanh. Hiện nay, chỉ có 30% các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được vốn từ ngân hàng, 70% còn lại phải sử dụng vốn tự có hoặc vay từ nguồn khác (trong số này có nhiều doanh nghiệp vẫn phải chịu vay ở mức lãi suất cao 15 – 18%); quy định hiện nay chưa phù hợp với DNVVN, rất ít các doanh nghiệp đáp ứng được điều kiện không được nợ thuế quá hạn, không nợ lãi suất quá hạn.

Theo quy định hiện hành, đa số DNVVN Việt Nam chưa có cơ hội vì thiếu điều kiện tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, khó tiếp cận chính sách tín dụng đầuvà tín dụng xuất khẩu của Nhà nước quy định tại Nghị định số 75/2011/NĐ-CP ngày 30/8/2011 của Chính phủ (thay thế Nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 của Chính phủ về tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước và Nghị định số 106/2008/NĐ-CP ngày 19/9/2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 của Chính phủ về tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước). Kể từ khi Nghị định số 151/2006/NĐ-CP và sau đó là Nghị định số 75/2011/NĐ-CP nêu trên được triển khai thực hiện, số lượng DNNVV tiếp cận được chương trình tín dụng này chưa nhiều.

Về tín dụng đầu tư: Báo cáo của Ngân hàng Phát triển (NHPT) cho biết: Giai đoạn 2006 – 2011 chỉ có 437 dự án của hơn 300 DNNVV làm chủ đầu tư vay vốn tín dụng đầu tư tại NHPT, trong đó chủ yếu đầu tư vào các lĩnh vực: Hạ tầng giao thông, cung cấp điện nước, công nghiệp điện tử, cơ khí, khai thác,… Tổng số vốn đã ký theo hợp đồng tín dụng cho 437 dự án nói trên gần 19.000 tỷ đồng. Như vậy, ở giai đoạn này, chỉ có khoảng 72 dự án/năm được tiếp cận vốn vay tín dụng đầu tư với số vốn vay khoảng 43 tỷ đồng/dự án.

Về tín dụng xuất khẩu: NHPT đã cho vay đối với hầu hết các mặt hàng thuộc đối tượng khuyến khích xuất khẩu quy định tại Nghị định số 75/2011/NĐ-CP nêu trên. Giai đoạn 2006 – 2011, tín dụng xuất khẩu tại NHPT mới hỗ trợ được 162 DNNVV với tổng doanh số cho vay gần 17.000 tỷ đồng để thực hiện các hợp đồng xuất khẩu sang hơn 120 nước (trong đó chủ yếu là thị trường châu Âu và Mỹ) với các mặt hàng chủ lực là: thủy hải sản, thủ công mỹ nghệ, cà phê, dệt may, hạt tiêu, hạt điều, gạo,… Dư nợ bình quân tín dụng xuất khẩu cả giai đoạn đạt khoảng 15.000 tỷ đồng. Sở dĩ các DNNVV khó tiếp cận được chương trình do đối tượng thụ hưởng các chính sách vay vốn tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu là các doanh nghiệp nói chung, không ưu tiên cho DNNVV. Theo quy định tại Nghị định số 75/2011/NĐ-CP, các dự án được hưởng ưu đãi chủ yếu giới hạn thuộc nhóm A, B có quy mô vốn đầu tư lớn (hạn chế các dự án có quy mô nhỏ), trình độ công nghệ phức tạp và thường có tính liên ngành cao (chủ yếu thuộc các lĩnh vực: Xây dựng hạ tầng giao thông, cung cấp điện, nước sạch sinh hoạt, công nghiệp cơ khí, vật liệu xây dựng, chế biến lâm, thủy sản, xử lý rác thải, nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu,…), do đó, các DNNVV khó có đủ điều kiện để tiếp cận được nguồn vốn này.

Về vốn chủ sở hữu: Theo quy định hiện hành, chủ đầu tư phải có vốn chủ sở hữu tham gia tối thiểu 20% tổng mức đầu tư tài sản cố định, song các DNNVV hiện nay hầu hết không đủ khả năng về vốn chủ sở hữu để tham gia đầu tư dự án quy mô nhóm A, B.

Về tài sản đảm bảo: Do quy mô doanh nghiệp nhỏ nên khả năng đáp ứng các yêu cầu về tài sản đối với vốn vay bị hạn chế, làm giảm khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng để thực hiện các dự án quy mô lớn.

Về đồng tiền cho vay: Theo quy định hiện hành, tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước chỉ hỗ trợ cho vay bằng đồng Việt Nam, do đó, các chủ đầu tư, doanh nghiệp có nhu cầu thanh toán bằng ngoại tệ sau khi vay vốn tại NHPT phải thông qua NHTM để thực hiện mua/bán ngoại tệ trong thanh toán, gia tăng rủi ro tỷ giá đối với doanh nghiệp, hạn chế khả năng nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

Bên cạnh những khó khăn nêu trên, những khó khăn về phía chủ quan của doanh nghiệp cũng làm hạn chế khả năng phát huy hiệu quả cao hơn của chính sách tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu, đó là tính chủ động của các DNNVV chưa cao, một bộ phận DNNVV còn trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, xuất hiện tình trạng chây ỳ, cố tình chiếm dụng vốn của Nhà nước dẫn đến nợ quá hạn, hạn chế khả năng quay vòng vốn[2]. Bên cạnh đó, có nguyên nhân từ năng lực tiếp cận với các chính sách pháp luật và thông lệ quốc tế trong kinh doanh của DNVVN.

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đẩy nhanh tốc độ với cột mốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007 và tiếp theo là việc tham gia hàng loạt các hiệp định thương mại tự do (FTA) với ASEAN, với các nền kinh tế phát triển như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, NewZealand, Ấn Độ… Do đó, sự tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế của Việt Nam rất lớn. Áp lực lớn nhất việc gia nhập tổ chức WTO là cải cách về mặt thể chế. Chính phủ Việt Nam phải thực hiện cải cách và tiến hành thay đổi các chính sách nhằm phù hợp với các cam kết, còn việc tham gia các hiệp định thương mại FTA cùng với Asean chủ yếu là Việt Nam phải thực hiện lộ trình cắt giảm thuế quan.

Trước bối cảnh đó, hội nhập kinh tế với kỳ vọng là cơ hội tiếp cận thị trường tốt cho các doanh nghiệp, trong đó có DNNVV vì các hàng rào bảo hộ được gỡ bỏ, mức độ giảm thuế hàng hóa, nhưng thực tế lại chứng minh rằng, việc tận dụng các cơ hội từ hội nhập kinh tế quốc tế lại tùy thuộc rất nhiều vào chính sách thuận lợi hóa của Chính phủ, khả năng đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật để hưởng các ưu đãi, việc liên kết mạng lưới và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Song việc triển khai chương trình, kế hoạch hỗ trợ nhà nước đối với DNNVV lại lồng ghép với các chương trình hành động khác như chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia…; chỉ riêng có 03 hoạt động cụ thể dành riêng cho đối tượng DNNVV là: (i) Thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV (theo Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg, Quyết định số 115/2004/QĐ-TTg, Thông tư số 93/2004/TT-BTC); (ii) Thành lập 03 trung tâm hỗ trợ kỹ thuật DNNVV tại Hà Nội, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh (Quyết định số 290/2003/QĐ-BKH); (iii) Triển khai chương trình đào tạo nguồn nhân lực cho DNNVV giai đoạn 2004 – 2008 (theo Quyết định số 143/2004/QĐ-TTg). Các giải pháp trên đây chủ yếu tập trung cho các yếu tố đầu vào, trong khi đó, khó khăn lớn nhất của DNNVV là chi phí đầu vào sản xuất quá lớn, do đặc thù khối này là các doanh nghiệp tư nhân, nguồn vốn hoạt động sản xuất, kinh doanh chủ yếu phần lớn dựa vào nguồn vốn vay ngân hàng vốn có lãi suất rất cao và khả năng tiếp cận rất khó khăn; còn nguồn lao động bị cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong nước và cả doanh nghiệp nước ngoài; nội tại doanh nghiệp hạn chế về tiếp cận công nghệ mới cũng như những chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ hay áp dụng quản trị sản xuất tiên tiến của Chính phủ; việc hỗ trợ đầu ra từ các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia của Chính phủ cũng chỉ dừng lại ở khâu quảng bá, gian hàng, hỗ trợ kết nối, thông tin tổng quan… còn lại kinh phí cho chuyến đi xúc tiến rất lớn, đòi hỏi phải thực hiện trong dài hạn lại là thử thách lớn cho DNNVV; cộng thêm áp lực cạnh tranh trên thị trường trong nước lại càng lớn hơn cũng làm cho số lượng lớn các DNNVV trong giai đoạn vừa qua rơi vào tình trạng “chết trên sân nhà”.

Bên cạnh các yếu tố trên là hạn chế, bất cập trong các quy định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan hỗ trợ pháp lý cho DNNVV. Cơ sở pháp lý hiện hành về tổ chức và hoạt động của cơ quan hỗ trợ pháp lý cho DNNVV ở Việt Nam hiện nay là Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế (sau đây gọi tắt là Nghị định số 55), giao thêm nhiều nhiệm vụ công tác mới quan trọng cho tổ chức pháp chế nói chung và tổ chức pháp chế sở, ngành địa phương nói riêng, trong đó có công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp (bên cạnh công tác theo dõi thi hành pháp luật, công tác bồi thường nhà nước)… Với quy định này, tổ chức pháp chế sở, ngành phải thực hiện nhiệm vụ tham mưu cho Thủ trưởng cơ quan thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp bên cạnh việc thực hiện các nhiệm vụ khác của công tác pháp chế; Nghị định số 66/2008/NĐ-CP ngày 25/8/2008 về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp định hướng, nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật, giúp doanh nghiệp hoạt động và phát triển với 2 phương thức cơ bản sau đây: (i) Hỗ trợ thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước như: Xây dựng và khai thác các cơ sở dữ liệu phục vụ hoạt động của doanh nghiệp; xây dựng tài liệu giới thiệu, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật; bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp; giải đáp pháp luật cho doanh nghiệp và tiếp nhận kiến nghị của doanh nghiệp về hoàn thiện pháp luật; (ii) Hỗ trợ doanh nghiệp thông qua việc xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Đây là phương thức hỗ trợ được xác lập căn cứ vào thực trạng và nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội trong từng thời kỳ, ở từng địa phương, được áp dụng ưu tiên cho các đối tượng khác nhau. Phương thức này giúp khai thác được các nguồn lực và sự tham gia của các chủ thể khác ngoài cơ quan nhà nước trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ quy định về trợ giúp phát triển DNNVV. Tuy nhiên, các văn bản trên chưa có quy định chính thức về cơ chế phối hợp chặt chẽ, đồng bộ và hiệu quả giữa các tổ chức pháp chế trung ương cũng như sở, ngành địa phương trong quá trình thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế của công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp do các sở, ngành thực hiện hiện nay. Do vậy các sở, ngành chưa chủ động nắm bắt nhu cầu của doanh nghiệp và hỗ trợ đúng các nhu cầu doanh nghiệp cần để tìm ra “chìa khóa” giải quyết tốt công tác hỗ trợ pháp lý cho các doanh nghiệp trong tương lai.

Các quy định hiện hành chưa đảm bảo tính đồng bộ nên chưa tạo cơ chế hữu hiệu cho hoạt động trợ giúp pháp lý cho DNNVV. Vì vậy, để tạo nguồn lực đảm bảo cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong tình hình mới, cần quy định cụ thể các nhiệm vụ, quyền hạn các tổ chức pháp chế trên cơ sở sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, thống nhất, đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan, như: Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Trách nhiệm Bồi thường của Nhà nước, các luật về tổ chức của Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân… và các Nghị định về tổ chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan Chính phủ và các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương[3]. Từ đó cho thấy, việc triển khai nghiên cứu, rà soát chính sách pháp luật để sửa đổi, bổ sung, ban hành mới đảm bảo tính phù hợp, tính khả thi cho việc thực hiện chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với DNNVV là yêu cầu cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.

Thứ ba,từ kinh nghiệm thực hiện thành công chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừacủa các nước trên thế giới là cần phải có luật riêng điều chỉnh hoạt động này

Theo kinh nghiệm của các nước trong khu vực là Nhật Bản và Hàn Quốc, việc khởi động xây dựng một luật riêng dành cho DNNVV cần phải nhanh chóng được tiến hành. Ở Nhật Bản, Luật cơ bản DNNVV được ban hành năm 1963 khi nước này bắt đầu quá trình dịch chuyển sang nền kinh tế mở (chuẩn bị là thành viên chính thức của IMF và OECD vào năm 1964), là bước ngoặt thứ hai trong chính sách phát triển DNNVV sau khi Cục Doanh nghiệp nhỏ và vừađược thành lập năm 1948. Mặc dù, trên thực tế, theo Cố vấn trưởng Dự án Jica Miki Miyamoto, Luật cơ bản DNNVV được biên soạn lại từ các bộ luật khác đã được ban hành, nhưng Luật này đã chỉ ra 2 định hướng rõ ràng cho chính sách phát triển DNNVV.Một là,nâng cao cấu trúc DNNVV thông qua chính sách cải thiện năng suất: Hiện đại hóa trang thiết bị, nâng cao công nghệ, hợp lý hóa quản lý kinh doanh và tối ưu hóa quy mô doanh nghiệp (liên minh, hợp tác xã)…;Hai là,khắc phục các bất lợi của DNNVV bằng cách cải thiện các điều kiện cho giao dịch kinh doanh: Phòng, chống cạnh tranh quá mức, hợp lý hoặc giao dịch với nhà thầu phụ và bảo đảm cơ hội cho hợp đồng đấu thầu của Chính phủ…

Còn ở Hàn Quốc, theo Chuyên gia Dong Kon Lee, Hà Quốc đã sớm nhận thức được đây là loại hình doanh nghiệp chính tạo ra công ăn việc làm, đóng góp vào phát triển cân bằng trong thời đại của tăng trưởng kinh tế thiếu việc làm, Luật Doanh nghiệp nhỏ và vừacủa Hàn Quốc sớm ra đời từ năm 1966 gồm 19 đạo luật với mục đích rất rõ ràng là thúc đẩy DNNVV khởi sự và tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh, phục vụ cho một cơ cấu phát triển thích hợp và tiên tiến. Cung cấp những vấn đề cơ bản đi đôi với việc định hướng cho DNNVV để cải tiến và các biện pháp thúc đẩy phát triển trên cơ sở hỗ trợ các DNNVV này phát triển độc lập, sáng tạo; giúp nền kinh tế quốc dân phát triển cân bằng qua việc tăng cường năng lực cạnh tranh và mở rộng kinh doanh cơ bản cho DNNVV bằng cách hỗ trợ đạt được cơ cấu công nghiệp tinh xảo hơn; đóng góp vào việc thành lập kết cấu công nghiệp vững chắc qua việc phát triển hợp lý các DNNVV bằng việc tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp mới thành lập và phát triển cơ sở vững chắc cho sự tăng trưởng.

Bài học cho Việt Nam là cần xác định việc xây dựng và triển khai luật dành cho DNNVV không phải làmục tiêumà làkhởi đầuđể thúc đẩy kinh doanh cho DNNVV. Thậm chí, nếu là vấn đề vốn, có thể thành lập riêng một ngân hàng để cho vay, cấp bảo lãnh riêng cho DNNVV như Ngân hàng Shoko Chukin của Nhật Bản hoặc Quỹ xúc tiến DNNVV của Hàn Quốc để thúc đẩy DNNVV khởi sự kinh doanh. Nguồn tiền của quỹ này lấy từ trái phiếu Chính phủ và lợi tức từ Xổ số kiến thiết… Thực tế yêu cầu việc xây dựng luật dành cho DNNVV không phải là mục tiêu mà là bước đi đầu. Cần phân biệt rõ DNNVV khác khu vực tư nhân bởi hỗ trợ DNNVV cũng là thúc đẩy phát triển khu vực tư nhân, nhưng các chính sách thúc đẩy phát triển khu vực tư nhân có thể vẫn chưa đủ để thúc đẩy phát triển DNNVV nếu không có chính sách riêng biệt. Hiện nay, nước ta đã có một số chương trình hỗ trợ xúc tiến DNNVV do các bộ, ngành chủ trì nhưng chưa có định hướng tập trung cho DNNVV và dưới sự điều phối của một cơ quan đầu mối nên hầu như các DNNVV không được hưởng lợi từ các chương trình đó. Đồng thời, quỹ hỗ trợ được giao nhiều quyền hạn trong việc huy động vốn, phạm vi sử dụng vốn cũng rộng, có thể gây ra rủi ro lớn đối với DNNVV[4].

Tóm lại, DNNVV ở Việt Nam hiện nay chiếm đến hơn 97% lượng đăng ký thành lập và hoạt động của các doanh nghiệp. Không thể phủ nhận tầm quan trọng cũng như đóng góp của DNNVV, tuy nhiên, loại hình doanh nghiệp này chưa thực sự trở thành đối tượng thụ hưởng chính sách của Nhà nước vì hệ thống pháp luật kinh doanh hiện chưa có quy định cụ thể ở bất kỳ điều khoản luật nào hoặc nếu có chỉ ở tầm nghị định, thông tư và chỉ thị và các quy định cũng chưa đúng trọng tâm, trọng điểm khiến cho nguồn lực của DNNVV bị phân tán, dàn trải và không phát huy được hiệu quả hoạt động kinh doanh. Do đó, hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ nhà nước đối với DNNVV trong xu thế hội nhập và phát triển ở Việt Nam hiện nay là yêu cầu khách quan, cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.

ThS. Bùi Bảo Tuấn

Thanh tra Chính phủ


Tài liệu tham khảo:

(1) http://moj.gov.vn/tcdcpl

(2) http://moj.gov.vn/tcdcpl

(3) http://dised.danang.gov.vn

(4) http://www.tapchitaichinh.vn

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Đảm bảo hiệu quả của các hình phạt chính không tước tự do trong luật hình sự Việt Nam

30/03/2015

Theo Bộ luật Hình sự năm 1999, trong số các hình phạt chính được quy định thì có 4 hình phạt không tước tự do của người phạm tội, bao gồm: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và trục xuất. Các hình phạt chính không tước tự do có vai trò quan trọng không chỉ bảo đảm nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự và cá thể hoá hình phạt mà còn thể hiện được rõ chính sách nhân đạo của luật hình sự. Việc tăng cường hiệu quả của các hình phạt không tước tự do là một trong những vấn đề đang được đặt ra trong quá trình sửa đổi Bộ luật Hình sự năm 1999 nhằm tiếp tục tăng cường chính sách nhân đạo, tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội đã được thể hiện trong Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị. Quyết định hình phạt là một khâu quan trọng trong quá trình áp dụng luật hình sự. Quyết định hình phạt và việc nâng cao hiệu quả của hình phạt có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Các hình phạt không tước do cần phải được quy định rõ ràng về bản chất, nội dung và điều kiện áp dụng, trong đó có sự phân biệt giữa các hình phạt không tước tự do và các hình phạt tước do về điều kiện áp dụng, mục đích áp dụng.

Để đảm bảo hiệu quả của các hình phạt chính không tước tự do trong pháp luật hình sự Việt Nam cần đưa ra các yêu cầu, các tiêu chuẩn cụ thể trong quá trình lập pháp, quá trình quyết định hình phạt và quá trình chấp hành hình phạt. Tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, trân trọng kính mời quý bạn đọc đón đọc bài viết “Đảm bảo hiệu quả của các hình phạt không tước tự do trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Minh Khuê đăng tải trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số định kỳ tháng 3 (276) năm 2015.

Vinh Nguyễn

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bàn về quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước

23/01/2015

Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định, Nhà nước ta được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu hách dịch, cửa quyền. Theo đó, quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước rất quan trọng. Xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước, từ đó có các giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này, góp phần to lớn vào việc đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, xây dựng nền hành chính hiện đại, nâng cao hiệu quả của quản lý hành chính nhà nước trong giai đoạn phát triển mới ở Việt Nam và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Hoàn thiện chế độ công vụ quy định trách nhiệm và quyền hạn của đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay, đặc biệt là những người đứng đầu là hết sức cần thiết. Do đó, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về công chức, công vụ theo hướng xác định rõ cơ quan, công chức nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Tiếp tục xây dựng tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp cho từng loại cán bộ, công chức và hệ thống tiêu chuẩn đánh giá, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức, đồng thời nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới địa phương…

Bài viết: “Bàn về quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước” của tác giả Trần Xuân Thung đăng tải đăng tải trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật định kỳ số tháng 01 (274) năm 2015 sẽ bàn luận kỹ hơn về vấn đề này, kính mời quý bạn đọc quan tâm đón đọc.

Minh Trí

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương theo Hiến pháp năm 2013

10/03/2015

Mô hình tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được quy định tại Chương IX với tên gọi mới “Chính quyền địa phương” – tập trung từ Điều 110 đến Điều 116. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định nước ta chia thành 3 cấp địa giới hành chính là cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã, ở các đơn vị hành chính được tổ chức chính quyền địa phương. Theo Điều 113 Hiến pháp năm 2013, thì vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân vẫn được giữ nguyên như ở Hiến pháp năm 1992, nhưng tại khoản 1 Điều 114 có một số điểm mới: “Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên”. Quy định này tiếp tục khẳng định Hội đồng nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra, vẫn là cơ quan song trùng trực thuộc, nhưng về tính chất lại cho ta hai cách hiểu: Cách hiểu thứ nhất, Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương sẽ do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra; cách hiểu thứ hai, là Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền khác thì do chính quyền địa phương cấp trên bổ nhiệm. Với tư cách là đạo luật gốc, Hiến pháp năm 2013 chỉ quy định những vấn đề có tính nguyên tắc về mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Quá trình chi tiết hóa, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp như thế nào còn phải dựa vào tình hình thực tế và sự phối hợp của các cơ quan, ban, ngành trong xây dựng mô hình chính quyền địa phương giai đoạn hiện nay.

Để tìm hiểu về những yêu cầu mới phải tổ chức lại mô hình chính quyền địa phương đáp ứng với nhu cầu thực tiễn và một số ý kiến nhằm hoàn thiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương hiện nay kính mời quý bạn đọc đón đọc bài viết “Xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương theo Hiến pháp năm 2013” của tác giả Đặng Thị Hà đăng tải trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số định kỳ tháng 2 (275) năm 2015.

Thủy Nguyên

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số vấn đề về chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở

23/01/2015

Trong những năm qua, cùng với quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, công tác tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống luôn được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản để ghi nhận, bảo đảm quyền được thông tin pháp luật, quyền được tiếp cận và sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, hỗ trợ, giúp đỡ công dân thực hiện các quyền, nghĩa vụ, tham gia quản lý nhà nước và xã hội [1]. Đặc biệt, để khắc phục vướng mắc, bất cập từ thực trạng tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở, nâng cao hơn nữa trách nhiệm của Nhà nước trong công tác này, đáp ứng nhu cầu nâng cao nhận thức pháp luật, phát huy vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, từng bước hình thành ý thức tự giác tuân thủ, chấp hành Hiến pháp và pháp luật, ngày 13/01/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg ban hành Quy định về chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở (gọi tắt là Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg) với nhiều giải pháp quan trọng để bảo đảm quyền thông tin pháp luật, quyền tiếp cận pháp luật và sử dụng pháp luật để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, thúc đẩy sự hình thành, phát triển mạng lưới hỗ trợ, giúp đỡ người dân trong tiếp cận pháp luật để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp.

Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg được ban hành có ý nghĩa rất quan trọng, nđkhẳng định vị trí, vai trò của chuẩn tiếp cận pháp luật trong đời sống chính trị – pháp lý, gắn với phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng của đất nước và từng địa phương, tạo lập khung pháp lý để tăng cường hơn nữa các điều kiện, các biện pháp bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền con người, quyền công dân, nhất là quyền được thông tin pháp luật, quyền được tiếp cận, sử dụng pháp luật; nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành, mà trước hết và chủ yếu là chính quyền cấp cơ sở trong thi hành pháp luật, thực thi công vụ, giải quyết các thủ tục hành chính, cải thiện và hỗ trợ phát triển mạng lưới tổ chức dịch vụ pháp lý, thông tin pháp luật, mạng lưới hỗ trợ pháp luật tại cộng đồng dân cư. Bên cạnh đ, Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg đthiết lập một Bộ công cụ với 8 tiêu chí và 41 chỉ tiêu cụ thể đểgiúp chính quyền cơ sở và người dân có điều kiện đánh giá một cách có hệ thống, đồng bộ, toàn diện thực trạng tiếp cận pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh, thống nhất để từ đó có giải pháp thúc đẩy, nâng cao trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong triển khai các thiết chế tiếp cận pháp luật, đáp ứng nhu cầu nâng cao nhận thức pháp luật, khẳng định vị trí, phát huy vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân, thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển bền vững. Muốn được công nhận là địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, thì địa phương phải đạt mức điểm chuẩn chung đã được liệt kê trong Quy định về chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở [2] được ban hành kèm theo Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg.

1. Đánh giá địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật

Về mc đích đánh giá: Việc đánh giá địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật nhằm thúc đẩy, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong việc triển khai các thiết chế tiếp cận pháp luật, bảo đảm điều kiện đáp ứng nhu cầu nâng cao nhận thức pháp luật, thực hiện, bảo vệ và phát huy quyền và lợi ích hợp pháp của công dân ngay tại cơ sở; phát huy vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Về nguyên tắc thực hiện: Việc đánh giá, công nhận, xếp hạng, biểu dương, khen thưởng địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật phải công khai, minh bạch, dân chủ, đúng tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật; bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan; gắn với thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của địa phương; mang tính lâu dài, bền vững, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong từng giai đoạn và được thực hiện đồng bộ từ trung ương đến địa phương.

Về đối tượng đánh giá: Việc đánh giá địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật được đánh giá đối với 03 cấp hành chính, bao gồm: Xã, phường, thị trấn (sau đây viết tắt là xã, phường); quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây viết tắt là quận huyện); tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây viết tắt là tỉnh, thành phố).

Về chủ thể đánh giá: Việc đánh giá địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật được thực hiện kết hợp giữa việc tự đánh giá của chủ thể đánh giá với việc thẩm tra của cấp trên trực tiếp của đối tượng đánh giá. Căn cứ kết quả tự đánh giá và thẩm tra, Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh sẽ quyết định công nhận cấp huyện, cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật. Bộ trưởng Bộ Tư pháp công nhận, xếp hạng đối với cấp tỉnh đạt chuẩn tiếp cận pháp luật. Với cách đánh giá này, chủ thể đánh giá được xác định đối với mỗi cấp như sau:

Đối với cấp xã: UBND cấp xã sẽ tự đánh giá kết quả đạt chuẩn tiếp cận pháp luật của địa phương mình và gửi kết quả tự đánh giá về UBND cấp huyện để thẩm tra kèm theo văn bản đề nghị xem xét, công nhận cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật. Sau khi thẩm tra, nếu xét thấy cấp xã đủ điều kiện, UBND cấp huyện sẽ hoàn tất hồ sơ và có văn bản đề nghị Chủ tịch UBND cấp tỉnh xem xét, công nhận và thực hiện việc khen thưởng đối với xã đủ điều kiện đạt chuẩn tiếp cận pháp luật [3].

Đối với cấp huyện: UBND cấp huyện sẽ tự đánh giá kết quả đạt chuẩn tiếp cận pháp luật của địa phương mình và gửi kết quả tự đánh giá về UBND cấp tỉnh để thẩm tra, xem xét, công nhận cấp huyện đạt chuẩn tiếp cận pháp luật. UBND cấp tỉnh xem xét, đánh giá, công nhận và khen thưởng đối với cấp huyện đạt chuẩn tiếp cận pháp luật [4].

Đối với cấp tỉnh: UBND cấp tỉnh sẽ tự đánh giá kết quả đạt chuẩn tiếp cận pháp luật của địa phương mình và gửi kết quả tự đánh giá về Bộ Tư pháp để tiến hành việc thẩm tra, đánh giá. Căn cứ kết quả tự đánh giá của cấp tỉnh, Bộ Tư pháp sẽ xem xét, đánh giá, xếp hạng và cấp giấy chứng nhận tỉnh, thành phố đạt chuẩn tiếp cận pháp luật [5].

Về quy trình, thời điểm đánh giávà thời hạn gửi báo cáo đánh giávề cơ quan cấp trên: Việc đánh giá 03 cấp hành chính xã, huyện, tỉnh đạt chuẩn tiếp cận pháp luật được thực hiện theo quy trình lấy kết quả đánh giá cấp xã đạt chuẩn trên địa bàn làm căn cứ để đánh giá đối với kết quả đạt chuẩn của cấp huyện và cấp tỉnh. Tại mỗi cấp đánh giá đều có sự tham gia tư vấn của Hội đồng đánh giá tiếp cận pháp luật cấp mình làm cơ sở, để người có thẩm quyền đánh giá quyết định việc đề xuất, công nhận địa phương đạt chuẩn. Việc đánh giá địa phương đạt chuẩn được thực hiện mỗi năm một lần, tính từ ngày 01 tháng 7 của năm trước đến ngày 30 tháng 6 của năm đánh giá. Kết quả tự đánh giá của UBND xã, phường gửi báo cáo UBND quận, huyện trước ngày 31 tháng 7 của năm đánh giá. UBND quận, huyện có trách nhiệm thẩm tra gửi báo cáo đề nghị Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố khen thưởng xã, phường, đạt chuẩn tiếp cận pháp luật và tặng Bằng khen đối với xã, phường tiêu biểu về tiếp cận pháp luật cấp tỉnh trước ngày 20 tháng 8 của năm đánh giá. UBND cấp tỉnh gửi báo cáo kết quả đánh giá và đề nghị Bộ Tư pháp tặng Bằng khen đối với xã, phường, tiêu biểu về tiếp cận pháp luật toàn quốc trước ngày 20 tháng 9 của năm đánh giá. Điểm số tự đánh giá và quy định có liên quan đến việc đánh giá phải được niêm yết công khai tại trụ sở UBND để nhân dân biết và giám sát.

Về chủ thể đánh giá, biểu dương và đề nghị khen thưởng: Đối với cấp xã tiêu biểu về tiếp cận pháp luật cấp tỉnh: UBND cấp tỉnh sẽ xem xét, đánh giá và biểu dương, đồng thời đề nghị Chủ tịch UBND cấp tỉnh tặng Bằng khen. Đối với cấp xã tiêu biểu về tiếp cận pháp luật toàn quốc, cấp huyện tiêu biểu, cấp tỉnh tiêu biểu: Bộ Tư pháp sẽ xem xét, đánh giá và biểu dương, tặng Bằng khen hoặc đề nghị Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen.

Về kết quả khi địa phương được công nhn đạt chuẩn tiếp cn pháp lut: Cấp xã, huyện, tỉnh đạt chuẩn được cấp giấy chứng nhận; mức khen thưởng tương đương với mức tiền thưởng danh hiệu tập thể lao động xuất sắc.

2. Biểu dương địa phương tiêu biểu về tiếp cận pháp luật

Về đối tượng biểu dương: Việc biểu dương địa phương tiêu biểu về tiếp cận pháp luật được thực hiện đối với 03 cấp xã, huyện, tỉnh khi thỏa mãn các điều kiện để được biểu dương tiêu biểu. Số xã, phường được biểu dương tiêu biểu về tiếp cận pháp luật cấp tỉnh được lựa chọn không quá 15% số xã, phường đạt chuẩn tiếp cận pháp luật của tỉnh; được biểu dương tiêu biểu về tiếp cận pháp luật toàn quốc với điều kiện mỗi tỉnh 01 đơn vị cấp xã, phường vtổng số được công nhận không quá 3% số xã, phường đạt chuẩn tiếp cận pháp luật của toàn quốc. Số quận, huyện được đề nghị biểu dương tiêu biểu về tiếp cận pháp luật toàn quốc không quá 10% số quận, huyện đạt chuẩn tiếp cận pháp luật; số tỉnh, thành phố tiêu biểu được biểu dương tiêu biểu về tiếp cận pháp luật toàn quốc không quá 20% số tỉnh, thành phố đạt chuẩn tiếp cận pháp luật.

Về quy trình và thời điểm đánh giá, biểu dương tiêu biểu: Việc đánh giá, đề nghị biểu dương địa phương tiêu biểu về tiếp cận pháp luật được thực hiện 02 năm một lần. Mốc thời gian được tính từ ngày 01 tháng 7 của hai năm trước đến 30 tháng 6 của năm đánh giá; kết quả đánh giá và đề nghị biểu dương tiêu biểu về tiếp cận pháp luật được gửi cùng với hồ sơ đánh giá tiếp cận pháp luật của địa phương trong năm đánh giá tiêu biểu về tiếp cận pháp luật.

Về kết quả khi địa phương được công nhn tiêu biểu về tiếp cn pháp lut: Địa phương được biểu dương tiêu biểu về tiếp cận pháp luật thì được khen thưởng theo chuyên đề. Theo đó, xã, phường được biểu dương tiêu biểu về tiếp cận pháp luật cấp tỉnh được Chủ tịch UBND cấp tỉnh xem xt tặng Bằng khen; xã, phường, thị trấn được biểu dương tiêu biểu về tiếp cận pháp luật toàn quốc được UBND cấp tỉnh đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, tặng Bằng khen; được Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, đề nghị Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen. Huyện, quận tiêu biểu về tiếp cận pháp luật toàn quốc được UBND cấp tỉnh đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp tặng Bằng khen; được Bộ trưởng Bộ Tư pháp đề nghị Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen trong số 10 Bằng khen cho cấp huyện được biểu dương tiêu biểu về tiếp cận pháp luật trong toàn quốc; tỉnh, thành phố được biểu dương tiêu biểu về tiếp cận pháp luật toàn quốc được Bộ Tư pháp đề nghị Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen

3. Các điều kiện bảo đảm triển khai thực hiện

Để triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật theo Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg, theo chúng tôi cần phải thực hiện tốt một số điều kiện sau đây:

Thứ nhất, người dân và mỗi cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị phải nhận thức đúng đắn và đầy đủ về mục đích, ý nghĩa, vị trí, vai trò của chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở, để từ đó thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ có liên quan; tổ chức thực thi tốt các hoạt động công vụ thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Để thực hiện tốt yêu cầu này, các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp cần nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò, ý nghĩa của việc triển khai thực hiện nhiệm vụ này, coi đây là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, trong đó chính quyền cơ sở giữ vai trò nòng cốt. Từ nhận thức đúng đắn đó, cần tiếp tục tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo tuyên truyền, phổ biến, quán triệt sâu sắc nội dung, nhiệm vụ, quy định về chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở đến toàn thể cán bộ, công chức trong cả hệ thống chính trị mà trước hết và chủ yếu là đội ngũ cán bộ chủ chốt, trực tiếp được giao thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến chuẩn tiếp cận pháp luật ở cơ sở của các sở, ban, ngành, UBND cấp huyện, cấp xã, cơ quan, đơn vị và nhân dân để thống nhất nhận thức, nâng cao trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, hướng dẫn, triển khai và tổ chức thực hiện nhiệm vụ này, cả trước mắt và lâu dài, bảo đảm thiết thực, hiệu quả, không phô trương, hình thức.

Thứ hai, các bộ, ngành, địa phương, nhất là chính quyền các cấp và đội ngũ công chức cấp xã, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND các cấp phải nâng cao chất lượng, hiệu quả thực thi công vụ gắn với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, để khi công dân, tổ chức thực hiện các quyền, nghĩa vụ thì hoạt động công vụ phải đáp ứng đầy đủ yêu cầu của người dân trên cơ sở các quy định của pháp luật với chất lượng tốt nhất; tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan, đơn vị mình phụ trách trong triển khai thực hiện, chủ động phối hợp với Ngành Tư pháp để triển khai thực hiện tốt Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg, kịp thời phát hiện vướng mắc, bất cập để đề xuất, tham mưu, trình cơ quan có thẩm quyền hoàn thiện thể chế, chính sách về xây dựng địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật.

Thứ ba, cần tiếp tục đánh giá hiệu quả thực thi công vụ của từng chức danh, cơ quan, đơn vị, rà soát các chỉ tiêu, tiêu chí tiếp cận pháp luật thuộc phạm vi lĩnh vực được giao để đề ra các giải pháp nhằm cải thiện điều kiện tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở. Để thực hiện tốt yêu cầu này, cấp ủy, chính quyền địa phương cần tiếp tục rà soát các chỉ tiêu, tiêu chí tiếp cận pháp luật và căn cứ vào điều kiện thực tế của địa phương để đề ra giải pháp khắc phục tồn tại, hạn chế, nhằm xây dựng địa phương đạt chuẩn vàtiêu biểu về tiếp cận pháp luật ở cả ba cấp xã, huyện, tỉnh; chỉ đạo, phân công nhiệm vụ cho các sở, ban, ngành, UBND cấp huyện trong việc tham mưu, giúp UBND cấp tỉnh theo dõi, hướng dẫn, chỉ đạo, đôn đốc việc thực hiện các tiêu chí, chỉ tiêu cụ thể; chỉ đạo, hướng dẫn UBND cấp huyện, cấp xã thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao theo quy định; xác định cụ thể mục tiêu, tỷ lệ cấp xã, huyện, tỉnh phấn đấu đạt chuẩn và tiêu biểu về tiếp cận pháp luật hằng năm.

Thứ tư, tiếp tục rà soát, hoàn thiện các thiết chế được giao nhiệm vụ xây dựng địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật và bộ máy bảo đảm thực hiện các thiết chế pháp luật; bố trí đủ nguồn lực kinh phí, cơ sở vật chất gắn với trách nhiệm xây dựng địa phương đạt chuẩn vtiêu biểu về tiếp cận pháp luật theo Quyết định số 09/2013/ QĐ-TTg. Cần tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, đội ngũ công chức tư pháp – hộ tịch cấp xđể có đủ nguồn lực tham mưu thực hiện tốt nhiệm vụ giúp UBND cùng cấp quản lý nhà nước về xây dựng địa phương đạt chuẩn và tiêu biểu về tiếp cận pháp luật, thực hiện đánh giá, công nhận địa phương đạt chuẩn; thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực hiện nhiệm vụ xây dựng địa phương đạt chuẩn và tiêu biểu về tiếp cận pháp luật. UBND các cấp cần sớm thành lập Hội đồng đánh giá tiếp cận pháp luật của cấp mình; chỉ đạo, hướng dẫn thành lập Hội đồng đánh giá tiếp cận pháp luật của cấp dưới để tham mưu, giúp chính quyền đánh giá, công nhận địa phương đạt chuẩn và tiêu biểu về tiếp cận pháp luật.

Thứ năm, sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả triển khai thực hiện theo quy định để kịp thời phát hiện những vướng mắc, bất cập, vấn đề mới phát sinh, phân tích, làm rõ nguyên nhân; rút ra những mô hình, cách làm hay, hiệu quả để nhân rộng hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoàn thiện thể chế, chính sách về xây dựng địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật.

Do nhiệm vụ xây dựng địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật có phạm vi rất rộng, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; một số nội dung còn dẫn đến cách hiểu khác nhau, quy trình còn phức tạp; nhiều tiêu chí, chỉ tiêu còn định tính, thiếu định lượng cụ thể, thậm chí không khả thi; một số chính quyền cơ sở cũng chưa chuẩn bị đầy đủ tinh thần và điều kiện để triển khai thực hiện. Để khắc phục tình trạng này, Thời gian qua, Bộ Tư pháp đã và đang phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành và 05 địa phương được chn thí điểm triển khai thực hiện tốt việc làm thử, kịp thời đánh giá những tác động (cả tích cực và tiêu cực) cũng như hiệu quả của việc triển khai thực hiện nhiệm vụ này. Căn cứ kết quả làm điểm, sớm tổng kết, đánh giá và báo cáo Thủ tướng Chính phủ, đồng thời kiến nghị, đề xuất việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg phù hợp với thực tế, bảo đảm Quy định về chuẩn tiếp cận pháp luật thực sự là phương pháp hữu hiệu góp phần đưa pháp luật vào đời sống.

TS. Đỗ Xuân Lân

Tài liệu tham khảo:

[1]. Như: Lut Lut sư, Lut Trợ giúp pháp lý, Lut Phbiến, giáo dc pháp lut, Lut Hòa giải cơ s, Bộ lut Tố tng dân sự, Lut Tố tng hành chính, Lut Khiếu nại, Lut Tố cáo, Lut Tiếp công dân, Lut Báo chí, Lut Xử lý vi phạm hành chính và nhiều văn bản khác. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản, chương trình, Đề án để tchức triển khai thực hiện; tp trung lãnh đạo, chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương, nhất là Ngành Tư pháp tăng cường, đẩy mạnh hơn nữa công tác, phbiến, giáo dc pháp lut, trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp lut, tiếp tc thúc đẩy phát triển thị trường dịch vpháp lý, nhất là tại các địa bàn trọng điểm và hỗ trợ, ưu tiên triển khai thực hiện đối với một số đối tượng đặc thù thuộc diện Nhà nước và xã hội phải quan tâm giúp đỡ.

[2]. Xem thêm Điều 6 Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg – Điều kiện công nhn, xếp hạng, biểu dương địa phương đạt chuẩn và tiêu biểu về tiếp cn pháp lut.

[3]. Xem Điều 7 Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg – Quy trình đánh giá, công nhn và biểu dương khen thưng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn và tiêu biểu về tiếp cn pháp lut

[4]. Xem Điều 8 Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg – Quy trình đánh giá, công nhn và biểu dương khen thưng qun, huyện đạt chuẩn và tiêu biểu về tiếp cn pháp lut.

[5]. Xem Điều 9 Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg – Quy trình đánh giá, công nhn và biểu dương khen thưng qun, huyện đạt chuẩn và tiêu biểu về tiếp cn pháp lut.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay

22/01/2015

Trong các thiết chế được xây dựng nhằm mục đích bảo vệ người tiêu dùng, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 đã có những bước tiến quan trọng trong quá trình lập pháp, thể hiện được vai trò tích cực trong công cuộc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, một điều khó tránh khỏi là việc áp dụng Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng vào thực tế đã và đang bộc lộ những hạn chế cần phải được sửa đổi, bổ sung kịp thời, có như vậy, quyền lợi của người tiêu dùng mới được bảo đảm, tránh được các hành vi xâm hại.

Để tìm hiểu thêm về vấn đề này, chúng tôi xin trân trọng kính mời quý độc giả đón đọc bài viết “Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Đinh Thị Hồng Trang trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số tháng 12 (273) năm 2014. Trong bài viết, tác giả đã nhấn mạnh và phân tích những nội dung cần chú ý trong việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng như: Cần xây dựng chế định “trách nhiệm sản phẩm”; Quy định cụ thể tư cách pháp lý của người tiêu dùng theo hướng bảo vệ quyền hưởng bồi thường thiệt hại của cả cá nhân và tổ chức tiêu dùng; Quy định cụ thể hơn về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng và cơ chế chịu trách nhiệm; Hướng dẫn cụ thể các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục tố tụng và đơn giản hóa cơ chế giải quyết tranh chấp, trình tự khiếu nại, khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng…

Minh Minh

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bình luận một số quan điểm đối với 10 vấn đề trọng tâm xin ý kiến nhân dân về Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)

09/04/2015

Việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) đang diễn ra một cách sôi nổi, khẩn trương, nhiều cuộc hội thảo, hội nghị… được tổ chức để lấy ý kiến góp ý của nhiều đối tượng, thành phần khác nhau. Nhiều ý kiến có chất lượng, trong đó có những ý kiến trái chiều và đều đưa ra những lập luận riêng để thuyết phục. Dưới đây, chúng tôi xin đưa ra và bình luận một số quan điểm về 10 vấn đề trọng tâm xin ý kiến nhân dân tại Phụ lục III Quyết định số 01/QĐ-TTg ngày 02/01/2015 của Thủ tướng Chính phủ ban hành kế hoạch tổ chức lấy ý kiến nhân dân đối với Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi).

1. Về trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong việc bảo vệ quyền dân sự (Điều 19)

Có cần thiết phải quy định điều này hay không? Đây là câu hỏi được nhiều người đặt ra. Phải khẳng định việc quy định này là cần thiết. Nội dung về trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền cũng đã manh nha quy định từ Bộ luật Dân sự năm 1995 và 2005 nhưng chưa được cụ thể hóa. Với điều kiện như ở Việt Nam, theo tôi, cần thiết phải cụ thể nội dung này. Mục đích của quy định là nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân triệt để hơn, nâng cao trách nhiệm của Tòa án và bảo đảm nhiệm vụ bảo vệ công lý của Tòa án đã được ghi nhận trong Hiến pháp. Tòa án sẽ không thể viện cớ nào đó để từ chối giải quyết tranh chấp của người dân. Việc không có luật quy định không thể để người dân phải gánh chịu, nên nếu không có luật thì cần phải có cơ chế để bảo vệ người dân.

Mặc dù Hiến pháp quy định thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nhưng không thể hiểu một cách cứng nhắc làm hạn chế quyền được bảo vệ lợi ích của người dân. Quy định của luật là cho phép Tòa án khi không có luật điều chỉnh thì căn cứ vào những yếu tố khác để giải quyết và đây không thể coi là mâu thuẫn với Hiến pháp.

Tuy nhiên, cũng có nhiều mối lo ngại cần phải nghiên cứu, xem xét tìm phương án khắc phục để quy định này được đảm bảo thực thi trên thực tế.

Thứ nhất, trình độ của thẩm phán, hội thẩm nhân dân là một trong những mối lo lớn cần giải quyết. Do đó, việc quan trọng cần làm là đội ngũ này phải được nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Bên cạnh đó, có thể trong từng lĩnh vực cụ thể sẽ có chuyên gia cố vấn để việc giải quyết đạt chất lượng. Nhưng dù sao thì cũng không thể vì lý do trình độ mà không quy định trách nhiệm của Tòa án trong luật.

Thứ hai, khi không có luật áp dụng dễ gây ra sự tùy tiện trong xét xử, do đó cần phải quy định chặt chẽ, cụ thể hóa hơn so với Dự thảo, điều này cũng để tránh trường hợp thụ lý chỉ là hình thức vì thẩm phán vẫn thụ lý giải quyết nhưng lại ra quyết định đình chỉ.

Thứ ba, việc quy định áp dụng tập quán, tương tự pháp luật, án lệ như Dự thảo nhằm để Tòa án cân nhắc nên lựa chọn cách nào phù hợp. Do trình độ xét xử của thẩm phán ở nước ta còn yếu, nên đã có ý kiến lo ngại việc áp dụng án lệ và thứ tự ưu tiên áp dụng án lệ đặt ngang với tập quán và tương tự pháp luật, tuy nhiên, án lệ cũng đã từng được áp dụng ngay cả trong trường hợp có luật, mặt khác, có trường hợp việc áp dụng án lệ lại phù hợp hơn, nên quy định áp dụng án lệ như Dự thảo là phù hợp. Khái niệm lẽ công bằng dù chưa được làm rõ nhưng vẫn cần phải đưa vào luật. Cũng có nhiều quan niệm, cách hiểu về lẽ công bằng, có thể không giống nhau do căn cứ tiêu chí, đối tượng mình muốn ưu tiên bảo vệ (bảo vệ Nhà nước hay cá nhân, bảo vệ chủ sở hữu hay người thứ ba…) là không giống nhau. Lẽ công bằng có thể phụ thuộc vào niềm tin nội tâm của thẩm phán hay nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, theo ý kiến của một chuyên gia người Pháp thì “lẽ công bằng là thực thi công lý một cách tối thượng, đôi khi đi ra ngoài các điều quy định của luật pháp, việc áp dụng lẽ công bằng phải được sự đồng ý của các bên”.

Một vấn đề khác cũng cần bàn đến, đó là nên để quy định ở Bộ luật Dân sự hay Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tôi cho rằng dù Bộ luật Tố tụng Dân sự có hay không nhưng quy định này cần phải đưa vào trong Bộ luật Dân sự vì nó là nguyên tắc nội dung rất quan trọng để bảo vệ người dân, mặt khác cũng không thấy có sự bất ổn rõ ràng khi tồn tại quy định này ở Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên, cũng có thể cân nhắc về quan điểm cho rằng nội dung khoản 2 Điều 19 chỉ nên đưa vào Bộ luật Tố tụng dân sự.

2. Về quyền nhân thân

Đối với các nước trên thế giới, không có mô hình thống nhất trong việc quy định về quyền nhân thân, mà việc quy định hay không, quy định như thế nào phụ thuộc vào cách tiếp cận và lựa chọn của mỗi nước. Chúng ta có thể khẳng định rằng, đối với Bộ luật Dân sự của Việt Nam thì việc quy định quyền nhân thân là cần thiết. Chỉ là quy định như thế nào thì lại có nhiều ý kiến, quan điểm được đưa ra như: Cần quy định cụ thể các quyền nhân thân để làm cơ sở cho các văn bản luật khác; chỉ nên quy định một số quyền nhằm xác định tư cách chủ thể của cá nhân trong quan hệ dân sự và những quyền đặc thù không quy định cụ thể trong Hiến pháp; chỉ quy định quyền nhân thân ở góc độ đặt trong mối quan hệ dân sự hay có liên quan trực tiếp đến lĩnh vực dân sự, cùng với đó là xây dựng cơ chế thực thi; quy định những quyền mặc dù thuộc quyền dân sự nhưng lại được các luật khác xây dựng cơ chế bảo đảm thực thi thì không cần ghi nhận trong Bộ luật Dân sự; cần loại bỏ những quyền thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân, giữa cơ quan công quyền với cá nhân, những quyền mang tính chính trị nhiều hơn là tính dân sự; cần xác định những trường hợp thuộc quyền con người, quyền công dân thì không đưa vào Bộ luật Dân sự; ngoài ra, khi quy định thì không chỉ là nhắc lại Hiến pháp, mà phải cụ thể hóa, nêu rõ nội dung của quy phạm…

Thiết nghĩ, đúng là qua thực tiễn thấy rằng, việc quy định cụ thể các quyền nhân thân như đã tồn tại ở Bộ luật Dân sự năm 1995, 2005 không cho thấy có bất cập lớn, trong khi cũng không vi phạm gì so với nguyên tắc của luật dân sự, quan trọng hơn là nó cũng đem lại ý nghĩa thiết thực như làm cơ sở cho các văn bản luật và dưới luật, tạo căn cứ để bảo vệ quyền lợi cho người dân, quy định đầy đủ sẽ phòng trừ được trường hợp không văn bản luật nào quy định thì sẽ có cơ sở tại Bộ luật Dân sự, do đó, chúng ta có thể kế thừa cách quy định này nhưng có chỉnh sửa thêm:

– Để các quyền nhân thân được thực thi hiệu quả trong cuộc sống thì quy định quyền cần xác định được các nội dung: Nội hàm của quyền, mức độ bảo hộ, hành vi xâm phạm quyền, phương thức bảo vệ, trách nhiệm phát sinh khi xâm phạm quyền (theo quan điểm của một chuyên gia). Hay theo một số quan điểm khác thì quy định quyền là phải xác định được nội hàm, cơ chế bảo vệ. Chính vì vậy, cách quy định một số quyền như Dự thảo hiện nay chỉ là ghi nhận lại Hiến pháp mà chưa được cụ thể hóa nên rất khó thực thi, hoặc một số quyền thì lại dẫn chiếu đến quy định ở văn bản pháp luật khác, điều này có thể ảnh hưởng đến “hình tượng” luật gốc của Bộ luật Dân sự.

– Trong nội dung quy định của một số quyền cũng cần chỉnh sửa để phù hợp với kinh tế – xã hội phát triển như hiện nay. Ví dụ, quyền đối với hình ảnh, nếu quy định cứ sử dụng hình ảnh là phải được sự đồng ý của người này thì rất khó thực hiện…

3. Về chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự

Theo tinh thần của Dự thảo thì chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự chỉ là cá nhân và pháp nhân, tuy nhiên vẫn có một số quy định riêng về việc tham gia quan hệ pháp luật dân sự của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, các tổ chức khác không có tư cách pháp nhân, Nhà nước, cơ quan nhà nước ở trung ương và ở địa phương. Theo chúng tôi, không quy định hộ gia đình, tổ hợp tác là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự là hợp lý vì chủ thể cơ bản chỉ có hai loại là cá nhân và pháp nhân, điều này cũng phù hợp với thông lệ quốc tế.

Trên thực tế, việc giải quyết những vấn đề liên quan đến hộ gia đình, tổ hợp tác gặp rất nhiều khó khăn về xác định thành viên, cơ chế đại diện, tài sản, trách nhiệm… Do đó, không ghi nhận hộ gia đình, tổ hợp tác là chủ thể còn nhằm mục đích quan trọng là hạn chế, loại bỏ những khó khăn đang là gánh nặng cho việc áp dụng pháp luật.

Tuy nhiên, nhiều ý kiến lo ngại rằng, loại bỏ hai đối tượng này thì những quan hệ pháp luật dân sự có liên quan đã phát sinh, tồn tại sẽ giải quyết ra sao (quyết định giao đất của Nhà nước cho hộ gia đình, hợp đồng điện, nước…). Nhưng phải hiểu rõ rằng, không ghi nhận là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự không có nghĩa là phủ nhận sự tồn tại thực tế khách quan của chúng, mà ở đây chỉ là không thừa nhận là chủ thể độc lập, không dành cho chúng một quy chế riêng, còn chúng vẫn có cơ chế để thực hiện.

Điều chúng ta cần quan tâm, giải quyết là nên quy định như thế nào, giải quyết cơ chế để thực hiện ra sao, vì nếu quy định như Dự thảo hiện nay thì chưa thể giải quyết được cốt lõi vấn đề, chưa đạt được mục đích muốn hướng tới. Đây là vấn đề không hề đơn giản, đặc biệt là trong khoảng thời gian ngắn sửa đổi Bộ luật Dân sự, mà trước mắt cần phải có sự phối hợp nghiêm túc của các cơ quan, tổ chức có liên quan để tìm phương án giải quyết vấn đề do lịch sử để lại này. Mặc dù ngay thời điểm hiện tại không thể bỏ ngay tư cách tham gia quan hệ pháp luật dân sự của hộ gia đình và tổ hợp tác, nhưng chúng ta nên tìm cách loại bỏ dần để tránh phải gánh nỗi lo pháp lý. Một số quan điểm, cách giải quyết có thể tham khảo:

– Đưa toàn bộ quy định về sự tham gia của các chủ thể này ra khỏi Bộ luật Dân sự, thời gian đầu thì để luật chuyên ngành điều chỉnh.

– Công nhận tư cách pháp nhân cho chúng tức là Hộ gia đình thì đi đăng ký tư cách pháp nhân, tổ hợp tác chuyển hóa thành hợp tác xã, như vậy cơ chế sẽ được xác định rõ ràng.

– Nếu vẫn tiếp tục quy định tư cách chủ thể tham gia dù độc lập hay không thì chúng cũng phải tồn tại làm sao đó để có thể nhận dạng được, quy định rõ cách thức xác định thành viên, chế độ đại diện, trách nhiệm.

– Cần khu trú lại, khu biệt hóa lại, tức là chỉ ghi nhận, quy định trong phạm vi đối với một số giao dịch cụ thể trong đó quan trọng là giao dịch liên quan đất đai, thu hẹp phạm vi các cơ quan có thẩm quyền giải quyết và thực hiện việc “đóng băng” từng bước.

4. Về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức

Chúng ta đều biết, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bao gồm các điều kiện: Chủ thể xác lập; ý chí của chủ thể; mục đích, nội dung hợp đồng và hình thức. Tuy nhiên, xét về bản chất thì hình thức chỉ là thủ tục hành chính, nhưng do điều kiện thực tiễn ký kết, thực hiện hợp đồng của nước ta nên pháp luật đã quy định khá chặt chẽ về hình thức của giao dịch, đặc biệt là với những giao dịch liên quan đến tài sản mà Nhà nước cần thực hiện việc quản lý. Theo một số chuyên gia nước ngoài, thì pháp luật Việt Nam nên giảm thiểu điều kiện hình thức đối với giao dịch dân sự nhằm đề cao sự thỏa thuận của các bên. Chính vì vậy, Dự thảo đã quy định trong một số trường hợp nhất định, dù vi phạm hình thức nhưng giao dịch không vô hiệu, nhằm bảo đảm tốt hơn quyền lợi của chủ thể xác lập quan hệ cũng như lợi ích của người thứ ba.

Tuy nhiên, tinh thần, mục đích muốn hướng tới của luật là tốt nhưng cách quy định như Dự thảo thì cần xem xét lại.

Thứ nhất, hình như Dự thảo được xây dựng mang tính vụ việc(từ vụ việcký kết hợp đồng mua bán, chuyển nhượng nhà đất khi không tuân thủ hình thức dẫn đến việc tư lợi cá nhân nên đã lợi dụng căn cứ này để hủy hợp đồng, do đó, Dự thảo đã đưa ra những trường hợp ngoại lệ mà dù vi phạm nhưng hợp đồng vẫn không bị vô hiệu nhằm tránh tình trạng trục lợi cá nhân, bảo vệ lợi ích cho chủ thể đang yếu thế hơn. Vì mang tính vụ việc nên không thể bao quát đủ các trường hợp như: Việc di chúc vi phạm hình thức hoặc hợp đồng có sự đồng thuận của hai bên mà không tuân thủ hình thức nhưng có người thứ ba yêu cầu hoàn tất thủ tục… thì giải quyết như thế nào?

Thứ hai, cần phải chỉnh sửa một đôi chỗ trong quy định này: Nên bỏ cụm từ “nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người khác” vì nếu có việc trốn tránh nghĩa vụ thì sẽ là căn cứ tuyên hợp đồng vô hiệu do giả tạo mà không liên quan đến hình thức hợp đồng. Bên cạnh đó, cần bổ sung sự có mặt của Tòa án, tức là theo yêu cầu của một hoặc hai bên thì Tòa án yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hoàn tất thủ tục, chứ không thể để như Dự thảo thì rất khó thực hiện tức là từ yêu cầu trực tiếp của các bên mà các cơ quan có thẩm quyền hoàn tất thủ tục.

Bên cạnh đó, một số ý kiến góp ý cũng có thể nghiên cứu, xem xét như: Cần xác định mục tiêu quy định hợp đồng vô hiệu là gì để định hướng điều kiện hình thức, ví dụ, ởPháp chỉ có 2 loại hợp đồng phải tuân thủ chặt chẽ hình thức là hợp đồng hôn nhân và hợp đồng bảo đảm vì mục tiêu được xác định ở đây là để bảo vệ sự đồng thuận của hai bên mà không ai có thể can thiệp kể cả Tòa án. Một quan điểm khác thì đề xuất, có thể xác định là điều kiện hình thức mà có giá trị chứng cứ thì không khiến giao dịch vô hiệu, còn nếu điều kiện hình thức có giá trị pháp lý thì khi vi phạm giao dịch sẽ vô hiệu. Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng, những trường hợp ngoại lệ nên để theo cách khác, vì quy định như Dự thảo hiện nay thì tương phản quá, ban đầu thì quy định rất nghiêm khắc về hình thức nhưng sau lại trừ một số trường hợp…

5. Về bảo vệ người thứ ba ngay tình trong trường hợp giao dịch dân sự bị vô hiệu

Thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều trường hợp người thứ ba không được bảo vệ như mua tài sản chung nhưng giấy tờ chỉ đứng tên một người, mua phải tài sản bị trộm cắp… mà người thứ ba này không thể nhận biết được. Do đó, Dự thảo lần này đã quy định hướng bảo vệ người thứ ba nhiều hơn so với luật hiện hành. Do việc quản lý ở nước ta còn hạn chế, nên chúng ta không thể tham vọng là bảo vệ cả hai bên (chủ sở hữu và người thứ ba) như nhau nên cần phải lựa chọn phương án hợp lý, tối ưu hơn. Theo đó, trong những trường hợp mà chủ sở hữu có nhiều thông tin, điều kiện hơn để kiểm soát tài sản nhưng họ lại không quan tâm đầy đủ, hay trường hợp nếu chủ sở hữu có thiệt thòi thì người hưởng lợi lại thường là người thân thích của họ, cộng thêm căn cứ vào việc tài sản đã được đăng ký… khi đó, những trường hợp này người thứ ba đáng được bảo vệ nhiều hơn chủ sở hữu.

Nhiều nước trên thế giới có hệ thống đăng ký an toàn, công minh nên họ nghiêng về bảo vệ người thứ ba, tức là ưu tiên đảm bảo an toàn pháp lý. Do đó, nếu ủng hộ theo hướng như Dự thảo hiện tại thì chúng ta cần phải có giải pháp thúc đẩy việc đăng ký tài sản.

Tuy nhiên, quy định trong Dự thảo cần được bổ sung thêm một số vấn đề cho đầy đủ:

– Đối với tài sản là quyền sử dụng đất thế chấp thì tài sản này chỉ được chuyển giao cho bên nhận thế chấp (người thứ ba) khi bên thế chấp vi phạm nghĩa vụ, như vậy, người thứ ba có được bảo vệ không?

– Trường hợp nhà ở chưa làm xong thủ tục đăng ký nhưng có giấy tờ chứng minh đã chuyển quyền sở hữu theo Điều 12 Luật Nhà ở và trường hợp chủ thể giao dịch được thực hiện các quyền sử dụng đất theo quy định Điều 168 Luật Đất đai năm 2013 thì cũng cần được ghi nhận như tài sản đã đăng ký để bảo vệ người thứ ba.

6. Về hình thức sở hữu

Dự thảo đã quy định 3 hình thức sở hữu thay cho 6 hình thức ở quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005, đây chính là một bước tiến trong quy định về hình thức của Bộ luật Dân sự.

Sở hữu chung và sở hữu riêng là hai hình thức nhận được sự đồng thuận cao khi đưa ra thảo luận, lấy ý kiến. Riêng đối với hình thức sở hữu toàn dân thì còn tồn tại những quan điểm khác nhau: Có quan điểm cho rằng, chỉ cần quy định hai hình thức trên, còn sở hữu toàn dân không cần vì nó chỉ là một trường hợp đặc biệt của sở hữu chung thậm chí còn có ý kiến cho nó là sở hữu riêng; theo quan điểm khác thì thay sở hữu toàn dân bằng sở hữu nhà nước vì sở hữu toàn dân chỉ là chế độ sở hữu, trong khi đó là hình thức sở hữu thì cần xác định rõ được chủ thể sở hữu là ai mà sở hữu toàn dân thì lại quá trừu tượng, mặt khác, dù quy định sở hữu nhà nước nhưng pháp luật cũng sẽ quy định cơ chế chặt chẽ Nhà nước được làm gì và như thế nào, nên không cần lo ngại việc lạm quyền; nhưng cũng không ít ý kiến ủng hộ quy định sở hữu toàn dân vì nhiều lý do như để phù hợp với Hiến pháp, không thể đồng nhất với sở hữu nhà nước, để tránh việc Nhà nước lạm quyền; nhiều ý kiến cho rằng, đồng ý là sở hữu toàn dân không thể là sở hữu chung hay sở hữu riêng (vì nó có rất nhiều đặc thù từ đối tượng tài sản cho đến cơ chế thực hiện quyền) nhưng cần phải làm rõ nội hàm của hình thức sở hữu này để có cơ chế thực hiện; thay sở hữu toàn dân thành sở hữu công cũng là ý kiến đáng lưu ý… Thêm vào đó, có quan điểm còn cho rằng, muốn phân loại thì cần phải có tiêu chí, ví dụ, nếu dựa vào số lýợng thì có sở hữu chung và sở hữu riêng, nếu dựa vào chế độ thì có sở hữu công và sở hữu tư, nếu dựa vào chủ thể thì có thể phân chia tương tự như Bộ luật Dân sự năm 2005.

Mỗi quan điểm đều có những lý giải riêng phù hợp, nhưng trong điều kiện của nước ta hiện nay, theo chúng tôi nên quy định những hình thức sở hữu như Dự thảo.

7. Về thời điểm xác lập quyền sở hữu và các vật quyền khác

Về cơ bản, chúng tôi ủng hộ quy định như Dự thảo, vì từ sự quy định này đã thể hiện sự phân biệt giữa vật quyền và trái quyền (phân biệt thời điểm xác lập quyền sở hữu, các vật quyền khác với thời điểm có hiệu lực của hợp đồng); tôn trọng, ưu tiên ý chí thỏa thuận của chủ thể hơn.

Mặc dù vậy, quy định của Dự thảo cũng cần có một số lưu ý:

– Về cơ chế xác định thời điểm xác lập quyền sở hữu và các vật quyền khác, đối với động sản là chuyển giao vật, còn bất động sản là đăng ký. Do đó, chúng ta cần phải có hệ thống đăng ký tin cậy để nhìn vào đó có thể xác định được chủ sở hữu tài sản.

– Khi quy định “trừ trường hợp luật hoặc hợp đồng có quy định khác”, vậy trong trường hợp các bên thỏa thuận thì người thứ ba làm thế nào, căn cứ vào đâu để biết được chủ thể này được xác lập quyền sở hữu hay chưa?

– Cần phải dự tính một số trường hợp xảy ra như: Hợp đồng đã công chứng nhưng chưa đăng ký mà chủ thể chết; khi hệ thống đăng ký chậm, giao dịch chưa kịp đăng ký xong nhưng chủ thể đã thực hiện giao dịch (ở Đức, trong khoảng thời gian từ khi đi đăng ký đến đăng ký xong, để bảo vệ người thụ đắc trước, thì có cách thức đăng ký tạm thời)

8. Về điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi

Trên thực tế, đã từng xảy ra nhiều trường hợp, trong khi thực hiện hợp đồng, do hoàn cảnh thay đổi làm cho lợi ích của một bên bị ảnh hưởng nghiêm trọng, rất khó khắc phục, do đó, để đảm bảo cân bằng lợi ích, Dự thảo đã cho phép các bên được điều chỉnh hợp đồng, điều này thể hiện nguyên tắc tính có giới hạn của thực hiện quyền dân sự.

Chúng tôi nhất trí với tinh thần của Dự thảo vì ngoài nguyên tắc thì cũng nên hướng tới giá trị cơ bản là lẽ công bằng. Tuy nhiên, đây là vấn đề mới được đưa vào Dự thảo, dù đã từng có tiền lệ nhưng chưa thể cho là được thực tế kiểm nghiệm, trong khi lại dễ nảy sinh nhiều phức tạp, tiêu cực, do đó, khi đưa vấn đề này vào luật thì phải hết sức thận trọng. Theo kinh nghiệm của Đức, luật là do Quốc hội ban hành nhưng Tòa án phải giải thích, vì lý do an toàn pháp lý thì vấn đề điều chỉnh hợp đồng chỉ nên được sử dụng trong trường hợp ngoại lệ, hãn hữu, không nên để Tòa án từ đây lại xây dựng nên hợp đồng, hay chỉ sử dụng nó như là công cụ để xử lý tình huống cụ thể.

Điều quan trọng nhất cần quan tâm là điều kiện để được điều chỉnh hợp đồng, theo một số chuyên gia nước ngoài thì cần phải đảm bảo đủ các điều kiện: Hoàn cảnh phải thay đổi một cách rõ ràng; hoàn cảnh này khi thiết lập hợp đồng không dự đoán trước được; không do lỗi, chủ ý của một bên; gây ra sự bất bình đẳng cho các bên giao kết hợp đồng, khiến đảo lộn ý định các bên; hai bên không thương thảo được và có mong muốn thương thảo khi hoàn cảnh thay đổi. Theo ý kiến một chuyên gia khác thì trường hợp hoàn cảnh thay đổi ở đây là chưa đến mức bất khả kháng (bất khả kháng là làm cho không thực hiện được hợp đồng, còn hoàn cảnh thay đổi là làm quá mất cấn xứng 2 bên), mà phải hoàn toàn khách quan và gây ra thiệt hại rất lớn cho một bên.

Như vậy, có thể thấy Dự thảo hiện nay vẫn còn lỏng lẻo, chưa đảm bảo đầy đủ điều kiện chặt chẽ nên cần được chỉnh sửa, bổ sung:

Thứ nhất, cần quy định rõ hơn về hoàn cảnh thay đổi, trong đó cần bổ sung hoàn cảnh này phải khách quan, không do lỗi, chủ ý của bên nào.

Thứ hai, bên bị ảnh hưởng không thể làm gì để thay đổi hay giảm nhẹ thiệt hại do sự kiện đó mang lại hoặc đã thực hiện các biện pháp cần thiết để khắc phục, giảm nhẹ thiệt hại nhưng không đạt hiệu quả.

Thứ ba, không nên quy định theo hướng Tòa án được điều chỉnh ngay mà cần phải có điều kiện là có yêu cầu của chủ thể hợp đồng và phải xuất phát từ nhu cầu muốn đàm phán, thỏa thuận của các bên.

Ngoài điều kiện, thẩm quyền của Tòa án cũng là vấn đề không thể bỏ qua. Chúng ta nên thu hẹp thẩm quyền này và đưa ra phương án bổ sung, thay thế mềm mại, phù hợp hơn để Tòa án lựa chọn giải quyết. Hạn chế trường hợp Tòa án được “phân chia” lợi ích vì như vậy là can thiệp quá sâu vào việc thực hiện hợp đồng. Đặc biệt là cần cân nhắc quyền yêu cầu “bồi thường thiệt hại”, vì trách nhiệm bồi thường này là quá nặng cho đương sự. Dự thảo cần biên soạn theo hướng tôn trọng sự thỏa thuận các bên, các bên tự quyết, xây dựng trên ý chí tự nguyện.

Bên cạnh đó, một số ý kiến góp ý khác cho quy định này của Dự thảo cũng đáng lưu ý như:

– Bổ sung vai trò của trọng tài bên cạnh Tòa án, để ít nhất cũng giải quyết khắc phục được trường hợp nếu các bên có thỏa thuận trọng tài.

– Bỏ quy định phải bồi thường thiệt hại vì việc bồi thường này được tồn tại trong khuôn khổ chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ (vi phạm nguyên tắc thiện chí, trung thực do từ chối đàm phán).

– Cần định ra một cách tương đối là ảnh hưởng “nghiêm trọng” đến mức nào thì cho phép điều chỉnh hợp đồng, nếu không dễ gây ra việc viện cớ để có thể đưa ra tòa giải quyết.

9. Về lãi suất trong hợp đồng vay tài sản

Về quy định lãi suất trần như trong Dự thảo đã tồn tại một số ý kiến lo ngại như:

Một là, lấy lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố làm tham chiếu là không phù hợp vì đây chỉ là mức lãi suất chung với mục đích điều hành chính sách tiền tệ, không mang tính thị trường, không chia thành các mức lãi suất khác nhau để áp dụng cho các hời hạn khác nhau, chủ thể khó nhận biết là có phù hợp với loại vay tương ứng hay không.

Hai là, quy định này sẽ ảnh hưởng, hạn chế việc thỏa thuận mức lãi suất giữa tổ chức tín dụng và khách hàng, vì luật chuyên ngành về tín dụng cho phép các bên được thỏa thuận lãi suất, trong khi luật này lại không được trái với luật dân sự, tức là phải chịu mức khống chế lãi suất trần.

Do đó, đã có đề xuất là nên lấy lãi suất trung bình của ba liên ngân hàng lớn trong nước tương ứng làm tham chiếu, lấy mức này làm mức trần lãi xuất cho vay, hoặc là quy định lãi suất trần cụ thể.

Tuy nhiên, theo chúng tôi, phương án như Dự thảo là phù hợp hơn cả vì:

– Việc quy định lãi suất trần cụ thể khó có thể phù hợp với sự phát triển năng động của nền kinh tế.

– Cần phải có căn cứ để quy định trần lãi suất và việc căn cứ vào lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố là căn cứ đáng tin cậy, thông tin lại chính xác, rõ ràng.

– Xét về bản chất, lãi suất của ngân hàng lớn trong nước cũng dựa trên lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước chỉ khác về biên độ % lãi suất cộng dồn như thế nào đối với Ngân hàng Nhà nước. Trong khi đó, khi áp dụng theo phương án lấy lãi suất trung bình của ba liên ngân hàng lớn lại nảy sinh vấn đề liệu những ngân hàng này có được lựa chọn cố định hay thay đổi theo thời gian; ngân hàng lớn là ngân hàng thế nào…

– Dự thảo quy định lãi suất trần là để tránh hiện tượng cho vay nặng lãi, chủ yếu điều chỉnh giữa các chủ thể thông thường trong quan hệ pháp luật dân sự, còn với những quan hệ đặc thù như tín dụng, luật cũng đã quy định mềm dẻo bằng quy định “trừ trường hợp luật có quy định khác”, tức là nếu luật về tín dụng mà quy định khác thì sẽ áp dụng theo quy định của luật chuyên ngành.

Nhưng Dự thảo có thể bổ sung quy định việc phân khúc một số lãi suất, như vậy sẽ hoàn thiện hơn.

10. Về thời hiệu

Dự thảo đã bỏ quy định về thời hiệu khởi kiện, thay vào đólà quy định chung về thời hiệu và thời hiệu thừa kế theo hướng: Cá nhân, pháp nhân phải yêu cầu Tòa án giải quyết vụ, việc dân sự trong thời hạn luật định; hết thời hạn đó mà cá nhân, pháp nhân mới có yêu cầu thì thay vì từ chối giải quyết yêu cầu như quy định hiện hành, Tòa án vẫn phải thụ lý, giải quyết và tuyên bố chủ thể được hưởng quyền dân sự hoặc được miễn trừ nghĩa vụ dân sự.

Việc bỏ quy định thời hiệu khởi kiện như Dự thảo là phù hợp, vì nếu đi sâu tìm hiểu về giải quyết tranh chấp thực tế sẽ cho thấy, việc quy định thời hiệu khởi kiện như hiện hành chưa giúp giải quyết được một cách triệt để và dứt điểm các tranh chấp phát sinh. Bên cạnh đó, khi không được Nhà nước bảo vệ quyền lợi thì các chủ thể có thể sử dụng những biện pháp hành xử ngoài vòng pháp luật để xử lý nội bộ với nhau, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Không quy định thời hiệu khởi kiện còn có mục đích rất quan trọng là hạn chế tình trạng Tòa án có thể căn cứ vào thời hiệu mà từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc, làm cho quyền lợi của người dân không được bảo đảm. Bên cạnh đó, điều này cũng là phù hợp với kinh nghiệm nhiều nước có tầm ảnh hưởng lớn trên thế giới.

Về thời hiệu, các quan điểm thường xoay quanh nhiều vấn đề liên quan đến thời hiệu thừa kế. Có ý kiến cho rằng, thời hiệu khởi kiện về thừa kế vẫn tồn tại chỉ là thay tên điều luật thành thời hiệu thừa kế. Nhưng chúng ta cũng thấy rằng ý nghĩa của thời hiệu này đã thay đổi, vì Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết khi hết thời hạn này, mà khi đó Tòa án phải giải quyết và tuyên bố chủ thể được hưởng quyền dân sự hoặc được miễn trừ nghĩa vụ dân sự. Cũng có quan điểm cho rằng không nên áp dụng thời hiệu thừa kế đối với di chúc chung, hạn chế phân chia di sản và di sản thờ cúng, theo đó, nếu đã có tư cách thừa kế thì hưởng quyền yêu cầu, khi đó dù bao nhiêu năm vẫn được chia di sản, chỉ áp dụng thời hiệu đối với trường hợp người muốn kiện để đảm bảo tư cách thừa kế của mình. Cũng có quan điểm cho rằng không nhất thiết đưa thời hiệu cụ thể hoặc tăng thời hiệu thừa kế lên…

Uyên Nhi

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp theo Hiến pháp năm 2013

24/05/2015

Hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp được quy định tại Điều 119 Hiến pháp năm 2013. Đây là lần đầu tiên Việt Nam có cơ chế bảo vệ Hiến pháp và trao quyền quy định về cơ chế bảo vệ Hiến pháp cho Quốc hội. Việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp để thi hành Điều 119 Hiến pháp năm 2013 là một nhiệm vụ quan trọng và cần thiết.

Về phương diện lý luận, cơ chế bảo vệ Hiến pháp góp phần bảo vệ chế độ chính trị, chủ quyền quốc gia, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền, tự do của công dân. Sự vận hành của cơ chế bảo vệ Hiến pháp góp phần bảo đảm cơ chế thực hiện và kiểm soát quyền lực nhà nước.

Về phương diện thực tiễn, hiện nay ở nước ta các quy định về bảo vệ Hiến pháp thiếu tính hệ thống, nằm rải rác trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật và cả trong các văn bản dưới luật. Một số quy phạm được quy định lặp đi lặp lại ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Bên cạnh đó, thiết chế bảo vệ Hiến pháp mang tính phi tập trung và không chuyên trách, thẩm quyền bảo vệ Hiến pháp được giao cho nhiều cơ quan, cá nhân khác nhau như Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước… nhưng chưa được phân công rõ ràng. Phương thức hoạt động của cơ chế bảo vệ Hiến pháp còn dàn trải, đa số các biện pháp mang tính chất tư vấn, khuyến nghị nên hiệu lực pháp lý thấp.

Sự cần thiết hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp và những yêu cầu hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Hiến pháp năm 2013 được tác giả Tào Thị Quyên trình bày cụ thể qua bài viết: “Hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp theo Hiến pháp năm 2013” đăng tải trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật định kỳ số tháng 6 (279) năm 2015. Kính mời quý bạn đọc quan tâm đón đọc.

Minh Trí

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Tuân thủ nguyên tắc pháp quyền trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

03/04/2015

Khái niệm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa lần đầu tiên được Đảng ta chính thức sử dụng tại Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994). Tiếp theo, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định quyết tâm tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân hoạt động trên cơ sở pháp luật với một nền pháp chế dân chủ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, bảo đảm sự phát triển tối đa và toàn diện của con người Việt Nam.

Đảng và Nhà nước ta ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam theo C.Mác là “biến nhà nước từ cơ quan đứng trên xã hội thành cơ quan hoàn toàn phục tùng xã hội” và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) chân chính, thực sự là “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”.

Để tiếp tục đẩy mạnh quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Nghị quyết đã đề cập đến “nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa từng bước được đề cao và phát huy trên thực tế” và khẳng định ý nghĩa, vai trò của nguyên tắc này trong thực tiễn là: “Những tiến bộ đó đã góp phần thể chế hoá đường lối của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của Nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị – xã hội của đất nước” . Việc tuân thủ nguyên tắc pháp quyền trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN tiếp tục được tái khẳng định trong Hiến pháp năm 2013. Điều đó cho thấy, quán triệt nguyên tắc này trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN là cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.

1. Yêu cầu khách quan của việc tuân thủ nguyên tắc pháp quyền trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, sự vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam đòi hỏi bộ máy nhà nước phải có đủ năng lực để xây dựng được một hệ thống pháp luật đáp ứng các yêu cầu của thị trường, tổ chức thực thi luật pháp vì lợi ích của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, vì lợi ích của tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong một môi trường cạnh tranh, công bằng và minh bạch. Như vậy, để phát triển bền vững một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, công tác xây dựng pháp luật, thi hành pháp luật và bảo vệ pháp luật đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp.

Trong lĩnh vực lập pháp, tính chất, trình độ phát triển mới của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đang đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật với một chất lượng mới, hiệu quả mới, thật sự tạo dựng được một môi trường pháp lý cho “quyền tự do” kinh doanh, một môi trường vừa ổn định, vừa thông thoáng và minh bạch cho sự vận hành của các quan hệ kinh tế, đảm bảo sự quản lý kinh tế thật sự theo luật pháp và bằng pháp luật, loại bỏ sự can thiệp hành chính vào các hoạt động sản xuất kinh doanh. Để có được hệ thống pháp luật đủ khả năng và hiệu lực điều chỉnh các quan hệ kinh tế, cần thiết phải cơ cấu lại thẩm quyền và trách nhiệm xây dựng luật giữa các thiết chế quyền lực, giữa Quốc hội với Chính phủ, giữa Quốc hội với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và giữa các cơ cấu của bản thân cơ quan lập pháp. Sự cơ cấu lại chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền giữa các cấu trúc quyền lực dĩ nhiên kéo theo nhu cầu cơ cấu lại mô hình tổ chức bộ máy nhà nước tương ứng.

Trong lĩnh vực hành pháp, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng đòi hỏi phải cải cách mạnh mẽ nền hành chính quốc gia trên tất cả các phương diện từ cải cách thể chế hành chính (mà trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính) cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, cải cách tài chính công đến xây dựng, đào tạo đội ngũ công chức chuyên nghiệp. Mục tiêu của cải cách này đều phải hướng tới một nền hành chính dân chủ, hiệu quả, năng động và minh bạch, hoạt động vì mục tiêu phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, vì lợi ích của mọi doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế, hình thức sở hữu.

Trong lĩnh vực tư pháp, nền kinh tế thị trường đòi hỏi một chế độ tài phán tư pháp dân chủ, khách quan và có hiệu lực trong việc bảo vệ các lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp, xử lý đúng đắn các xung đột, tranh chấp kinh tế theo đúng quy định pháp luật, làm cho thị trường luôn ổn định, công bằng và vận hành có trật tự. Từ đó cho thấy thực tiễn đang đặt ra nhu cầu tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và vận hành một bộ máy vừa thúc đẩy kinh tế phát triển, vừa kiểm soát được các quá trình kinh tế, vừa hỗ trợ thị trường, vừa ngăn ngừa được các nguy cơ của thị trường theo đúng phương châm vì mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã được Đảng ta xác định.

Thứ hai, tính chất và trình độ phát triển của dân chủ XHCN trong bối cảnh phát triển mới của đất nước và thế giới đòi hỏi phải hoàn thiện bộ máy nhà nước để thật sự là “chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”, đảm bảo nguyên tắc “toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”. Trước hết, phải đổi mới nhận thức mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân.

Bộ máy nhà nước và công chức nhà nước phải vượt qua được tư duy của lối quản lý truyền thống “tư duy quyền uy” tiến tới tư duy mới: Tư duy nghĩa vụ, trách nhiệm, thay đổi cách ứng xử từ “cho phép” sang “phục vụ” trong mối quan hệ với công dân. Nhà nước với tính chất là “hình thức tổ chức của dân chủ” không có lợi ích tự thân, và như vậy càng không thể có khái niệm lợi ích, ý chí của bộ máy nhà nước, cơ quan nhà nước. Lợi ích, ý chí của Nhà nước là lợi ích, ý chí của Nhân dân theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh – một Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Yêu cầu quan trọng và cốt yếu của dân chủ trong giai đoạn mới là phải đặt người dân vào vị trí trung tâm của mọi hoạt động nhà nước. Như vậy, bộ máy nhà nước phải được tổ chức trên nền tảng “phục vụ Nhân dân”. Mặt khác, bộ máy nhà nước phải được hoàn thiện theo hướng, đó là: Đảm bảo cho Nhân dân tham gia tích cực vào các hoạt động của Nhà nước, thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của mình đối với hoạt động của bộ máy nhà nước. Để thực hiện được yêu cầu này, cần thiết phải đổi mới mạnh mẽ pháp luật trong lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước và trong lĩnh vực tự do dân chủ của người dân. Trước hết là đổi mới, hoàn thiện chế độ bầu cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp sao cho người dân thực hiện đầy đủ quyền bầu cử và ứng cử của mình, tự mình độc lập lựa chọn người đại biểu thay mặt mình thực thi công quyền trong bộ máy nhà nước. Điều quan trọng là tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước từ Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp đến chính quyền địa phương phải tạo điều kiện để dân dễ tiếp cận, dễ đối thoại, dễ kiểm tra, giám sát để huy động được trí tuệ, sáng kiến và sự đóng góp của người dân, để bộ máy thật sự gần dân, biết lắng nghe Nhân dân, biết biến ý chí, nguyện vọng của Nhân dân thành chủ trương, đường lối và luật pháp phục vụ lợi ích và hạnh phúc của Nhân dân.

Thứ ba,Việt Nam đã và đang hội nhập ngày càng sâu vào đời sống quốc tế và có vai trò ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Do vậy, Việt Nam phải chủ động để thích ứng với những thay đổi đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới và đối phó thành công với những thách thức nảy sinh từ những thay đổi này đối với con đường phát triển của đất nước.

Trong bối cảnh thay đổi của thế giới, việc đổi mới, hoàn thiện và nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cần được xác định là một hướng ưu tiên thực hiện của chiến lược tiếp tục đổi mới trong các điều kiện của thời đại mới. Những thay đổi đang diễn ra trong thế giới toàn cầu hoá đang đặt ra trước bộ máy nhà nước không ít nhiệm vụ, mà việc giải quyết chúng có ý nghĩa quan trọng để hội nhập thành công.

Bộ máy nhà nước đang phải đồng thời giải quyết hai nhiệm vụ: Tái cơ cấu nền kinh tế quốc gia thông qua việc xây dựng và thực hiện các chính sách cải cách kinh tế, vĩ mô thích hợp và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, tạo điều kiện và hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam trong cuộc cạnh tranh quốc tế. Do vậy, bộ máy nhà nước Việt Nam phải được tổ chức hiệu quả để đủ năng lực vừa tuân thủ các cam kết quốc tế, vừa vận dụng sáng tạo các cam kết này trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật để vừa đảm bảo lợi ích quốc gia, vừa tuân thủ các quy định và cam kết quốc tế. Bộ máy nhà nước phải chuyển mạnh sang việc sử dụng những biện pháp kinh tế và những rào cản kỹ thuật để bảo vệ sản xuất trong nước và người tiêu dùng trước sức ép cạnh tranh của nước ngoài. Đồng thời, với việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia, bộ máy nhà nước có trách nhiệm to lớn tạo cơ chế pháp lý và sự hỗ trợ chính sách cần thiết, nghiên cứu, dự báo, hướng dẫn các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào quá trình tái cơ cấu nền kinh tế thế giới, tranh thủ được các cơ hội do các quá trình này mang lại để đưa kinh tế Việt Nam hội nhập sâu hơn, bền vững hơn vào nền kinh tế toàn cầu.

Nhiều nghiên cứu quốc tế đã cho thấy, hầu hết các quốc gia tuy ở những mức độ khác nhau nhưng đều đang đẩy mạnh việc đổi mới, cải tổ bộ máy nhà nước và ngay các tổ chức quốc tế cũng đang xem việc đổi mới tổ chức và hoạt động cũng là những nhiệm vụ có tính cấp bách để thúc đẩy các thay đổi tích cực, vượt qua các thách thức đang đặt ra trong thế giới toàn cầu hoá.

Bộ máy nhà nước Việt Nam nói chung và từng thiết chế bộ máy nhà nước nói riêng đều có quan hệ hợp tác với bộ máy nhà nước, các nước và các tổ chức quốc tế. Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp, chính quyền địa phương đều đa phương với nghị viện, Chính phủ, các cơ quan tư pháp của các nước đối tác. Chính vì vậy, chúng ta cần có các nghiên cứu sâu rộng về những thay đổi, những cải cách mà bộ máy nhà nước tại các quốc gia có quan hệ hợp tác với Việt Nam để tham khảo trong việc xây dựng các phương án đổi mới bộ máy phù hợp cho Việt Nam, vừa mang đặc điểm của Việt Nam và tương thích với các mô hình bộ máy phổ biến để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Do vậy, đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước không chỉ là yêu cầu của các vấn đề bên trong đất nước, mà còn là nhu cầu của thế giới toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế của Việt Nam.

2. Những vấn đề chủ yếu chi phối việc xây dựng và hoàn thiện mô hình tổng thể bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay

Một là,đổi mới tư duy về Nhà nước, về vai trò, chức năng của bộ máy nhà nước.

Sự phát sinh và diễn biến phức tạp của các vấn đề toàn cầu đang đòi hỏi phải nhìn lại những vấn đề căn bản về Nhà nước như: Nhà nước có vai trò như thế nào, Nhà nước có thể làm gì và không thể làm gì, đâu là giới hạn của quyền lực nhà nước trong mối quan hệ với kinh tế, xã hội, dân sự và với cá nhân công dân; Nhà nước cần phải được tổ chức lại như thế nào để hiệu quả nhất, để có lợi ích nhất cho sự thịnh vượng của quốc gia, dân tộc, cho sự phát triển của mỗi cộng đồng và tự do cho mỗi công dân… Trong nhiều thập niên của thế kỷ đã qua, vai trò, sức mạnh và giá trị của Nhà nước đã được khẳng định, Nhà nước đã phải giải quyết rất nhiều công việc trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội. Giới hạn quyền lực của bộ máy nhà nước tuy được xác lập trong Hiến pháp và pháp luật, nhưng chỉ mang tính hình thức pháp lý, còn trong thực tiễn, giới hạn đó thật mong manh và liên tục bị vượt qua bởi Nhà nước dường như làm thay xã hội khá nhiều việc và bao cấp xã hội hóa toàn diện. Thực tiễn phát triển đã và đang chỉ ra rằng, một Nhà nước hiệu quả chứ không phải một Nhà nước tối thiểu là trung tâm của sự phát triển kinh tế – xã hội bền vững.

Hai là, tư duy lại vai trò của Nhà nước trong điều kiện hiện nay ở nước ta cần đổi mới nhận thức trên những vấn đề cơ bản sau[1]:

– Nhà nước là một thiết chế chính trị trung tâm có vai trò đặc biệt quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước. Tuy nhiên, dù vai trò của Nhà nước quan trọng, to lớn đến nhường nào, cũng không thể là một Nhà nước toàn trị, quyết định mọi vấn đề và bao cấp toàn xã hội. Vai trò của Nhà nước luôn có giới hạn trong mối quan hệ với các thiết chế chính trị – xã hội thuộc hệ thống chính trị, mối quan hệ với kinh tế thị trường, xã hội dân sự và mối quan hệ với công dân.

– Trong lĩnh vực kinh tế, sự quản lý, tác động, điều tiết của Nhà nước vẫn là hết sức cần thiết nhằm kiểm soát sự vận hành của thị trường. Để thị trường vận hành hiệu quả cần phải có Nhà nước đủ mạnh để đảm bảo sự tuân thủ các nguyên tắc cạnh tranh. Tuy nhiên, sự quản lý, kiểm soát của Nhà nước đối với thị trường không được phép tạo ra nguy cơ hành chính hoá nền kinh tế, cũng như thay thế vai trò của thị trường và các doanh nghiệp. Nhà nước phải tự hạn chế, giảm thiểu các biện pháp can thiệp trực tiếp vào thị trường, thông qua việc ban hành pháp luật, tạo hành lang pháp lý chặt chẽ hơn cho vận hành của thị trường, tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát, kiểm soát.

– Nghiên cứu sự thay đổi trong vai trò của Nhà nước cần được quán triệt cả hai xu hướng: Thứ nhất là, tăng cường sức mạnh của Nhà nước thông qua các biện pháp cải tổ mạnh mẽ bộ máy nhà nước từ việc quan niệm lại kết cấu và tổ chức quyền lực, thực hiện công quyền của các ngành quyền lực đến việc cải cách nền hành chính quốc gia, cải cách tư pháp… làm cho Nhà nước thực sự thích ứng với cơ chế kinh tế – xã hội mới để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ đặt ra của thời kỳ quá độ. Thứ hai là, xu hướng phi nhà nước hoá, từng bước loại bỏ dần sự can thiệp của Nhà nước vào những lĩnh vực quan hệ xã hội mà tính chất của chúng không đòi hỏi sự can thiệp ấy, tăng cường các khả năng độc lập của các thiết chế chính trị xã hội khác theo hướng giải phóng họ khỏi sự phụ thuộc (bảo trợ) của Nhà nước từ tài chính đến tổ chức.

– Vai trò của Nhà nước trong cơ chế kinh tế – xã hội mới cần được nhận diện qua những nhiệm vụ cơ bản mà một Nhà nước hiện đại và hiệu quả phải quan tâm thực hiện. Đó là xây dựng một hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý phù hợp cho sự vận động của dân chủ, kinh tế – xã hội và tự do công dân; duy trì và thực thi một hệ thống chính sách không thiên lệch trong sự ổn định kinh tế vĩ mô và điều hoà các quan hệ; đầu tư vào các dịch vụ xã hội cơ bản và cơ sở hạ tầng cơ bản; bảo vệ nhóm người dễ bị tổn thương; bảo vệ môi trường và duy trì một nền an ninh trong mọi lĩnh vực.

– Những nhiệm vụ mới, Nhà nước phải thực hiện được thể hiện trong những yêu cầu mới của hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Hoạt động lập pháp của Nhà nước trong thời đại ngày nay, không hướng trọng tâm vào thể chế hoá quyền quản lý của bộ máy nhà nước (quyền cai trị) mà phải hướng trọng tâm vào tạo dựng khuôn khổ pháp lý vững chắc cho một nền dân chủ của xã hội và tự do của công dân. Điều này có nghĩa là hoạt động lập pháp chuyển trọng tâm từ quy định quyền của bộ máy nhà nước sang xác định nghĩa vụ và trách nhiệm của các cơ quan này, từ quyền cho phép của công quyền sang quyền của công dân trong mối quan hệ với Nhà nước.

Hoạt động tư pháp chuyển từ nhân danh Nhà nước sang nhân danh luật pháp và công lý để phán quyết các vi phạm luật pháp và xử lý các tranh chấp, xung đột pháp lý trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Thay đổi tính mục tiêu, nội hàm hoạt động của lập pháp, hành pháp và tư pháp lẽ đương nhiên phải cơ cấu lại chức năng, nhiệm vụ mối quan hệ và phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước từ Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp đến chính quyền địa phương.

3. Đổi mới nhận thức về cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước phải thuộc về Nhân dân

Thứ nhất, vấn đề cốt lõi của các quan hệ quyền lực trong các điều kiện xây dựng Nhà nước theo nguyên tắc pháp quyền là sự đảm bảo cho việc tuân thủ vấn đề có tính nguyên tắc hiến định là toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Tính chất tập quyền của Nhà nước theo quan niệm truyền thống được quy định vào tính tối cao của cơ quan quyền lực nhà nước là Quốc hội. Chính vì vậy, mà chúng ta vẫn quan niệm Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, tập trung trong tay toàn bộ quyền lực nhà nước (quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp). Với quan niệm như vậy, ta đã từng cho rằng nguyên tắc toàn bộ quyền lực thuộc về Nhân dân đã được thực hiện thông qua cơ quan đại diện do chính Nhân dân bầu ra. Thật ra vấn đề này không đơn giản như vậy, nội dung của nguyên tắc toàn bộ quyền lực thuộc về Nhân dân cần phải được hiểu ở một bình diện sâu sắc hơn và cần được tôn trọng một cách thực tế hơn. Tính chất tập quyền của Nhà nước ta không phải ở chỗ tất cả quyền lực trong tay Quốc hội, mà phải là tất cả quyền lực tập trung về (thu về) Nhân dân.

Nhân dân với tính cách là chủ thể tối cao của quyền lực, một mặt trao cho bộ máy nhà nước những quyền hạn nhất định để tổ chức thực hiện quyền lực một cách tập trung, mặt khác chính Nhân dân cũng trực tiếp tham gia vào việc thực hiện quyền lực. Mỗi một công dân đều có quyền tham gia vào việc quyết định các vấn đề trọng đại của quốc gia. Việc Nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước là một tất yếu của đời sống dân chủ trong xã hội công dân. Vấn đề đặt ra là luật pháp phải đưa ra được các hình thức pháp lý cụ thể đảm bảo quyền chủ thể của Nhân dân đối với quyền lực. Một trong những hình thức pháp lý cơ bản đang được áp dụng phổ biến ở các nước dân chủ là chế định trưng cầu dân ý (reperendum). Vấn đề đặt ra ở đây là quy định của Hiến pháp về trưng cầu ý dân cần phải được cụ thể hoá bằng một đạo luật riêng biệt, trong đó quy định cụ thể những vấn đề nào thuộc quyền quyết định của chính nhân dân và cần đưa ra trưng cầu ý dân, trình tự và thủ tục tiến hành trưng cầu ý dân. Có như vậy, chế định trưng cầu dân ý mới có nội dung pháp lý cụ thể, mới tránh được tình trạng quy định hình thức và có đầy đủ khả năng để thực hiện trên thực tế.

Thứ hai, nguyên tắc tập quyền, về mặt lý luận chúng ta nhận thấy rằng, toàn bộ quyền lực nhà nước được lập trung trong tay Nhân dân, thuộc về Nhân dân, chứ không thuộc về một cơ quan nhà nước nào cả, dù đó là cơ quan do chính Nhân dân bầu ra. Bởi lẽ, toàn bộ bộ máy nhà nước suy cho cùng đều là công cụ thực hiện quyền lực của Nhân dân, được Nhân dân trao cho những quyền năng nhất định, nhân danh Nhân dân để thực hiện những nhiệm vụ chức năng nhất định. Vì vậy, nguyên tắc tập quyền (quyền lực thuộc về Nhân dân) và nguyên tắc phân quyền trong cơ cấu tổ chức nội bộ của bộ máy nhà nước không mâu thuẫn nhau. Lịch sử xây dựng và hoạt động của Nhà nước Việt Nam đã chỉ ra rằng, mặc dù về hình thức, Quốc hội có trong tay cả ba quyền, nhưng thực tế đã nhiều thập niên, vai trò Quốc hội chưa thoát khỏi tính hình thức. Căn bệnh hình thức của hoạt động của Quốc hội đã góp phần làm cho quyền lực nhà nước không phát huy được hiệu quả, các quan hệ tổ chức quyền lực trở nên không rõ ràng gây ra nhiều mâu thuẫn, ách tắc trong quan hệ công tác giữa các bộ phận hợp thành bộ máy nhà nước.

Việc tổ chức quyền lực nhà nước ở cấp trung ương theo nguyên tắc phân quyền và kiểm soát, đáp ứng được chính các đòi hỏi của các nguyên tắc dân chủ. Bởi lẽ một khi quyền lập pháp trong tay Quốc hội, quyền hành pháp trong tay Chính phủ và quyền tư pháp trong tay Toà án, tất yếu sẽ tập trung được mọi nỗ lực của các cơ quan này để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ, chức năng được Nhân dân giao phó, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan này trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Hơn nữa, với cơ cấu tổ chức quyền lực như vậy, các cơ quan này thực hiện cơ chế kiểm tra, giám sát lẫn nhau, loại bỏ có hiệu quả nguy cơ chiếm độc quyền quyền lực hay là lạm quyền lực và nạn quan liêu hoá bộ máy nhà nước.

– Với mô hình tổ chức công quyền trong điều kiện Nhà nước pháp quyền, điều dễ dàng nhận thấy là bộ máy nhà nước được phân định một cách rõ ràng thành cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp. Ba loại cơ quan này liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau, kiềm chế và kiểm tra nhau hợp thành một hệ thống nhất, nhằm mục đích thực hiện có hiệu quả quyền lực Nhân dân. Nếu nguyên tắc phân quyền và đối trọng được xem là cơ sở kỹ thuật – pháp lý trong việc tổ chức và hoạt động của quyền lực nhà nước ở trung ương thì việc xác định rõ ràng địa vị pháp lý của từng loại cơ quan là điều cốt lõi. Từ thủ tục, trình tự hình thành cơ cấu tổ chức của các cơ quan lập pháp – hành pháp – tư pháp; thẩm quyền và trách nhiệm, quy chế hoạt động đến các mối liên hệ, xác định sự hợp tác, tác động qua lại và đối trọng, kiềm chế, giám sát giữa các cơ quan này, nhất thiết phải được luật định rõ ràng.

Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta không chỉ đòi hỏi xác định mô hình tổ chức quyền lực nhà nước ở cấp trung ương mà còn đòi hỏi phải xác định rõ mối quan hệ giữa trung ương và địa phương.

Nhà nước ta về hình thức tổ chức lãnh thổ là Nhà nước đơn nhất, vì vậy mối quan hệ giữa các địa phương với trung ương không mang tính chất phức tạp như kiểu tổ chức nhà nước liên bang. Tuy nhiên, khi tiến hành xây dựng Nhà nước pháp quyền cũng có nhiều vấn đề đặt ra cần được giải quyết. Sự thống nhất giữa trung ương và địa phương trong các điều kiện của Nhà nước pháp quyền theo nguyên tắc pháp quyền chính là ở chỗ, dù là cơ quan trung ương hay cơ quan địa phương đều phải phục tùng và chịu sự điều chỉnh giám sát của pháp luật. Sự tối cao của các đạo luật, sự thống nhất của hệ thống pháp luật với tính cách là cơ sở pháp lý căn bản cho hoạt động của toàn bộ hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. Vấn đề phân cấp, phân quyền quản lý, vấn đề phi tập trung hoá quản lý luôn đặt ra và đã được nhiều nhà khoa học và quản lý thực tiễn làm sáng tỏ. Vấn đề xác định các quan hệ quyền lực giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương cũng đã được giải quyết thành công ở nhiều nước có chế độ dân chủ trên thế giới.

– Mô hình Nhà nước pháp quyền đặt ra trước luật pháp nhu cầu chế định toàn diện mọi mặt của hoạt động nhà nước. Vấn đề không dừng lại ở việc xác định mô hình tổ chức quyền lực ở trung ương và địa phương, quy định địa vị pháp lý của từng loại cơ quan từ cơ cấu tổ chức đến nhiệm vụ, chức năng, luật pháp còn phải tiến đến quy định cụ thể từng hình thức hoạt động, thủ tục giải quyết công việc, quy chế làm việc và chế độ trách nhiệm trong hoạt động nhà nước. Ở đây, nhiều vấn đề được đặt ra cần phải được quy định cụ thể như chế độ lãnh đạo tập thể; chế độ thủ trưởng, chế độ trách nhiệm. Tính chất pháp quyền của Nhà nước không chỉ đặt ra các yêu cầu đối với việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước ở tầm vĩ mô, mà nó còn đặt ra nhiều vấn đề cụ thể ở cấp độ vĩ mô, tức là trong tổng nội bộ cơ quan nhà nước, khi tiến hành các hoạt động thực tiễn cụ thể.

– Đối với từng cơ quan nhà nước cụ thể, chế độ lãnh đạo và phục tùng, tập thể lãnh đạo – cá nhân phụ trách, chế độ thủ trưởng, quyền hạn và trách nhiệm được thể hiện một cách hết sức đa dạng và được luật định một cách khác nhau. Căn cứ vào từng lĩnh vực hoạt động cụ thể, tính chất cơ quan mà quy định hình thức và cung cách hoạt động cụ thể. Chẳng hạn trong các cơ quan thuộc quyền hành pháp, chế độ thủ trưởng phải được tuân thủ đồng thời với chế độ trách nhiệm cá nhân. Trong những điều kiện của đời sống nhà nước và xã hội hiện đại, hoạt động quản lý nhà nước đã trở thành một hoạt động mang tính công nghệ. Vì vậy, việc tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ lãnh đạo và đội ngũ công chức là nhu cầu cấp bách của việc cải cách chế độ hành chính quốc gia.

Thực tế cho thấy, không một lĩnh vực nào mà bệnh quan liêu hoá, lạm quyền lực có nhiều nguy cơ xuất hiện và phát triển như trong lĩnh vực hành pháp. Do vậy, luật pháp luôn phải đưa ra những biện pháp pháp lý về ngăn ngừa các hiện tượng trên. Một trong những biện pháp quan trọng là phải đảm bảo cho các hoạt động hành pháp thật công khai. Tính công khai trong hoạt động hành pháp có tác dụng loại bỏ mọi “góc tối” để cho mỗi người dân dễ dàng kiểm tra, giám sát các hoạt động của viên chức nhà nước, kịp thời phát hiện các biểu hiện quan liêu, lạm dụng quyền lực, các con bệnh tham ô, hối lộ, ức hiếp quần chúng lao động. Công khai hoá các hoạt động của các cơ quan nhà nước, cũng như có thái độ tích cực, trân trọng và nghiêm túc đối với các đơn từ, khiếu nại tố cáo và kiến nghị của công dân đối với các hoạt động của các cơ quan, các viên chức nhà nước là những điều kiện căn bản để đảm bảo tính dân chủ của các hoạt động quản lý nhà nước. Từ đó cho thấy, mặc dù trong lĩnh vực hành pháp, yếu tố tập trung luôn được quán triệt và chi phối tất cả các hoạt động, nhưng không vì thế mà mất đi cơ sở dân chủ của nó, một khi nó được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của chính đông đảo chúng thông qua lăng kính “công khai”. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền trong điều kiện cụ thể của nước ta không còn thuần tuý là công việc lý luận mà đã và đang trở thành các công việc thực tiễn. Mô hình nhà nước ấy đang đòi hỏi phải cải cách một cách căn bản các thiết chế quyền lực của Nhà nước trên tất cả các phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp. Điều căn bản là các biện pháp, phương hướng cải cách ấy phải được tiến hành đồng bộ, đảm bảo tính hài hoà, phù hợp với nhau giữa các loại cơ quan trong bộ máy nhà nước thống nhất. Bên cạnh đó, việc cải cách hệ thống các cơ quan nhà nước cũng phải được tiến hành đồng bộ với việc cải cách hệ thống chính trị, xây dựng một nền chính trị phù hợp với tình hình mới của đất nước hiện nay và cho tương lai[2].

4. Một số định hướng và nội dung cơ bản củaviệc hoàn thiện Nhà nước Việt Nam hiện nay theo nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa[3]

Thứ nhất, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của cơ quan lập pháp tạo cơ chế cho việc tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của của Quốc hội, bảo đảm để Quốc hội thật sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội. Cải tiến, nâng cao chất lượng các kỳ họp của Quốc hội, hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; nhất là cải tiến, nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, quyết định và giám sát các vấn đề quan trọng của đất nước.

Thứ hai, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của cơ quan hành pháp tạo cơ chế cho việc tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, tổ chức tinh gọn, hợp lý; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan của Chính phủ; thực hiện phân cấp hợp lý cho chính quyền địa phương, đồng thời nâng cao chất lượng quy hoạch và tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát của trung ương; đẩy mạnh cải cách hành chính, bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân.

Thứ ba, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp pháp tạo cơ chế cho việc tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của của cơ quan tư pháp. Ðẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh. Hoàn chỉnh chính sách, pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp. Ðổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, các tổ chức bổ trợ tư pháp…

Thứ tư, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương tạo cơ chế cho việc tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền địa phương, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp; tiếp tục thực hiện thí điểm chủ trương không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, huyện, phường; nghiên cứu tổ chức chính quyền đô thị, hải đảo.

Thứ năm, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lý cán bộ, công chức, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của cán bộ, công chức ở từng vị trí công tác. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý nhà nước. Đồng thời, đổi mới chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, có cơ chế loại bỏ những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, không có uy tín với Nhân dân.

Thứ sáu, tích cực phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm bằng các giải pháp đồng bộ: Hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là trong các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí; thực hiện công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính trong các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước, các dự án đầu tư, mua sắm từ ngân sách nhà nước, quản lý, sử dụng đất đai, tài sản công; thực hiện kê khai, công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Xử lý nghiêm cán bộ tham nhũng, tịch thu tài sản do tham nhũng mà có. Có cơ chế bảo vệ, khuyến khích người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Phát huy vai trò của Nhân dân, của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các phương tiện thông tin đại chúng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

TS. Nguyễn Thị Báo

Chánh Thanh tra Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh


[1]http://www.nclp.org.vn, bài “Hoàn thiện mô hình tổng thể bộ máy nhà nước đáp ứng nhu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” của PGS, TS. Lê Minh Thông.

[2]http://www.nclp.org.vn, bài “Hoàn thiện mô hình tổng thể bộ máy nhà nước đáp ứng nhu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” của PGS, TS. Lê Minh Thông.

[3]http://dangcongsan.vn, bài “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ mới” của Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Vị trí, vai trò, ý nghĩa của công tác giáo dục pháp luật trong nhà trường và quá trình đưa giáo dục pháp luật vào nhà trường

30/03/2015

Cùng với phổ biến pháp luật, giáo dục pháp luật là một giai đoạn của quá trình xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật, là một mắt xích quan trọng trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền, là cầu nối để chuyển tải và đưa pháp luật vào cuộc sống, qua đó đưa cuộc sống vào pháp luật. Giáo dục pháp luật có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, vừa là một bộ phận của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, vừa là một bộ phận của công tác giáo dục và đào tạo. Nhận thức được ý nghĩa, vai trò quan trọng của giáo dục pháp luật, ngay từ đầu những năm 80, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương đưa giáo dục pháp luật vào nhà trường, được thể chế bằng nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Bám sát chủ trương, định hướng của Đảng, pháp luật của Nhà nước, giáo dục pháp luật chính thức được đưa vào nhà trường từ năm học 1987 – 1988. Đến nay, công tác này đã đạt được những kết quả nhất định, trở thành nội dung giáo dục văn hóa không thể thiếu trong việc đào tạo, giáo dục toàn diện cho học sinh, sinh viên, chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục – đào tạo; đóng vai trò then chốt trong giáo dục phẩm chất đạo đức nhân văn, ý thức thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tạo lập, nâng cao trình độ văn hóa pháp luật của thế hệ trẻ – thế hệ tương lại của đất nước.

Để tìm hiểu đầy đủ, cụ thể về vị trí, vai trò, ý nghĩa cũng như quá trình đưa giáo dục pháp luật vào nhà trường, kính mời độc giả tìm đọc bài viết Vị trí, vai trò, ý nghĩa của công tác giáo dục pháp luật trong nhà trường và quá trình đưa giáo dục pháp luật vào nhà trường”, của TS. Phan Chí Hiếu, Thứ trưởng Bộ Tư pháp, được đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề 32 trang tháng 3/2015.

Uyên Nhi

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Góp ý về chế định thừa kế trong dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi

24/06/2015

Thừa kế là một chế định quan trọng của Bộ luật Dân sự điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến việc dịch chuyển tài sản từ người chết sang cho người thừa kế. Có thể nói, chế định thừa kế trong Bộ luật Dân sự năm 2005 đã được pháp điển tương đối hoàn thiện và tồn tại khá ổn định qua thực tiễn áp dụng. Tuy nhiên, các quy định về thừa kế trong Bộ luật Dân sự hiện hành cũng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, gây khó khăn trong việc giải quyết các vụ việc thừa kế trên thực tế. Do đó, trong bối cảnh sửa đổi Bộ luật Dân sự năm 2005, chúng ta cần phải có những nghiên cứu, phân tích, đánh giá để hoàn thiện chế định này.

Dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi đã được đưa ra lấy ý kiến nhân dân, tuy có nhiều điểm mới phù hợp hơn với đời sống thức tiễn, nhưng vẫn còn một số quy định cần phải được xem xét lại. Để minh chứng cho nhận định này, cũng như góp phần hoàn thiện dự thảo về chế định thừa kế, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu tới bạn đọc bài viết: “Góp ý về chế định thừa kế trong dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi” của tác giả Phạm Văn Tuyết, đăng trên Số Tạp chí định kỳ 64 trang tháng 6 năm 2015. Theo đó, tác giả đã phân tích điểm bất cập, hạn chế của quy định pháp luật về thừa kế, đồng thời đưa ra những góp ý để chỉnh sửa cho phù hợp. Bài viết đã góp ý nhiều nội dung liên quan đến thừa kế, có thể kể đến như: Về quyền thừa kế, về địa điểm mở thừa kế, về di sản thừa kế, về từ chối nhận di sản, về người không được quyền hưởng di sản, về di chúc, về di sản dùng vào việc thờ cúng, về thừa kế thế vị…

Uyên Nhi

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương

15/06/2015

Hiện nay, hoạt động quản lý của các cấp chính quyền địa phương còn thiếu hiệu quả, trong đó có nguyên nhân pháp luật chưa tạo cho chính quyền địa phương sự chủ động, linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ và trong quản lý các nguồn lực tài chính, ngân sách, tổ chức bộ máy, nhân sự. Chính quyền địa phương cũng thiếu quyền tự chủ trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) trong khi pháp luật hiện hành chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế cần giải quyết các vấn đề vướng mắc của địa phương. Quyền tự chủ của địa phương trong việc ban hành quy định là một trong những vấn đề cần được nghiên cứu, xử lý khi sửa đổi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật trên tinh thần hợp nhất Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) năm 2004.

1. Một số hạn chế của pháp luật về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương

Theo Luật Ban hành VBQPPL của HĐND, UBND năm 2004 thì chính quyền địa phương các cấp đều có quyền ban hành VBQPPL. HĐND có quyền ban hành nghị quyết và UBND có quyền ban hành quyết định, chỉ thị để quy định về các vấn đề thuộc phạm vi quản lí của địa phương.Tuy nhiên,văn bản của chính quyền địa phương không có phạm vi nội dung riêng biệt, mà chủ yếu là cụ thể hóa văn bản cấp trên. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, “Căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, HĐND ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, về kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và ngân sách, về quốc phòng, an ninh ở địa phương, về biện pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho, làm tròn nghĩa vụ đối với cả nước”[1]. Đối với UBND, chức năng của UBND được Hiến pháp quy định là “chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND” [2].

Hiến pháp năm 2013 đã có những quy định mang tính nguyên tắc cụ thể về phân định nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp chính quyền địa phương phải do luật định, đồng thời cũng thiết kế một số quy định mở để tạo điều kiện cho việc xây dựng Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Hiến pháp năm 2013 đã phân định rõ nhiệm vụ của từng cấp, cụ thể: Chính quyền địa phương “quyết định các vấn đề của địa phương do luật định” (Điều 112). Với quy định của Hiến pháp năm 2013, chắc chắn địa phương cần có thẩm quyền riêng trong việc ban hành quy định để điều chỉnh “các vấn đề của địa phương do luật định”.

Nhìn chung, hệ thống pháp luật hiện hành ghi nhận thẩm quyền lập quy của chính quyền địa phương với tính chất là văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư… nhưng không thừa nhận địa phương được phép quy định về những gì mà luật, văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước trung ương chưa quy định. Bên cạnh đó, pháp luật lại không giới hạn, không hạn chế phạm vi nội dung văn bản của các cấp chính quyền địa phương có thể quy định về vấn đề gì nên làm cho công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật trở nên hình thức, vừa thừa, vừa thiếu. Mặt khác, giữa các cấp chính quyền địa phương còn có sự trùng lặp về thẩm quyền quản lý và lĩnh vực điều chỉnh bằng văn bản quy phạm pháp luật đã dẫn đến nhiều bất cập trên thực tế. Địa phương không có thẩm quyền ban hành quy định riêng cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương nên có hiện tượng “vượt rào” và thường đề xuất cơ chế thí điểm, ban hành quy chế đặc thù cho từng địa phương, thậm chí chấp nhận “vi phạm pháp luật”. Cụ thể có một số bất cập chính sau:

Một là, quy định hiện hành chưa trao cho mỗi cấp chính quyền địa phương một phạm vi thẩm quyền quản lý riêng nên mỗi cấp cũng không có thẩm quyền riêng về ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hay nói cách khác, văn bản của địa phương không có lĩnh vực điều chỉnh riêng. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND quy định nội dung của nghị quyết của HĐND cấp tỉnh, huyện, xã là tương đối rộng và cũng tương đối giống nhau,… và đây có thể coi là nguyên nhân chính dẫn đến sự trùng lắp, sao chép giữa các quy định. Các văn bản pháp luật của địa phương nhiều khi chỉ là các văn bản pháp quy hướng dẫn lại, có khi là sao chép lại các quy định của trung ương; nhiều ý kiến cho rằng văn bản quy phạm pháp luật của địa phương có nội dung chủ yếu là sao chép lại các quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật của trung ương[2,11,7]. Nhưng văn bản quy phạm pháp luật của địa phương bị coi là trái pháp luật nếu đặt ra các quy định đặc thù. Cũng do pháp luật trao thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho các cấp chính quyền địa phương không giới hạn về lĩnh vực, phạm vi điều chỉnh nên địa phương đã ban hành vô số quy định, văn bản mà ý nghĩa của chúng là không rõ ràng. Nếu không ban hành văn bản thì sẽ bị cho là lơ là, chưa quan tâm đến hoạt động ban hành văn bản pháp luật, còn nếu ban hành văn bản thì các cấp chính quyền cũng vô cùng lúng túng trong việc “cụ thể hóa” các văn bản luật khi các văn bản này đã được quy định chi tiết bởi nghị định, thông tư.

Hai là, pháp luật cũng chưa phân định được rõ ràng sự khác nhau trong thẩm quyền ban hành văn bản của các cấp tỉnh, huyện, xã; nội dung thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm của địa phương, của từng cấp địa phương vẫn còn bỏ ngỏ, chưa phân định rõ ràng nhưng lại cho phép địa phương cụ thể hóa, hướng dẫn văn bản của cấp trên một cách “vô giới hạn”, miễn là không trái với văn bản cấp trên. Ở cấp tỉnh, văn bản do HĐND và UBND ban hành đa số cụ thể hóa các nghị định, thông tư. Điều này làm nặng nề thêm hệ thống các văn bản pháp quy ở nước ta vốn dĩ đã đồ sộ, rườm rà. Do không có lĩnh vực điều chỉnh riêng về nội dung, nên không tránh khỏi sự trùng lắp, lẫn lộn về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm giữa trung ương và địa phương, tương tự như trùng lắp về thẩm quyền quản lý. Văn bản của địa phương đa số là có tính chất sao chép thuần túy các quy định của trung ương hoặc các quy định của chính quyền cấp trên (còn nếu không sao chép thì coi như “vượt rào”, trái pháp luật !); điều này làm cho hệ thống pháp luật vừa cồng kềnh, vừa thiếu hiệu quả, có cả “rừng văn bản” nhưng thực tế hiệu quả không cao; làm hệ thống pháp luật trở nên phức tạp, khó tiếp cận, mâu thuẫn, chồng chéo. Theo kết quả tổng kết 09 năm thực hiện Luật Ban hành VBQPPL của HĐND, UBND năm 2004 thì có 25.625 nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện, 47.919 quyết định, 7.626 chỉ thị của UBND cấp huyện được ban hành [6].

Ba là,quy định hiện hành không xác định được trách nhiệm của địa phương khi nào thì phải quy định và quy định về những vấn đề gì để đáp ứng yêu cầu quản lý của địa phương; làm cho chính quyền địa phương thụ động trong việc ban hành văn bản để xử lý những vấn đề phát sinh hoặc lúng túng trong việc ban hành các quy định để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương. Trong đời sống hiện đại, có nhiều vấn đề và tình huống mới mẻ đặt ra mà trung ương chưa có văn bản kịp thời điều chỉnh, nếu các cấp chính quyền địa phương luôn chờ đợi văn bản của trung ương thì gây khó khăn cho việc quản lý. Trong những trường hợp như vậy, dù thiếu vắng các quy định pháp luật do trung ương ban hành nhưng địa phương cũng rất e ngại ban hành văn bản của địa phương để điều chỉnh vì nguy cơ vượt thẩm quyền là rất cao. Thông thường, ít có địa phương nào tự ý ban hành văn bản điều chỉnh về những vấn đề mà luật, pháp lệnh hay nghị định chưa quy định, do thực tiễn đòi hỏi nên địa phương vẫn xin trung ương quy định tạm thời hoặc “thí điểm” quy định về một vấn đề gì đó có tính “vượt rào” (ví dụ: gần đây, tỉnh Quảng Ninh có Đề án đề xuất áp dụng mô hình “một cửa, một dấu” có ứng dụng công nghệ thông tin để bảo đảm hiệu quả quản lý hơn); hoặc trước đây nhiều năm, một số tỉnh miền núi phía Bắc đã ban hành những văn bản quy định tạm thời về việc quản lý, sử dụng máy thu phát sóng vệ tinh kỹ thuật số (do người dân tự ý mua máy thu phát sóng của Trung Quốc…). Đó là những trường hợp ngoại lệ và chỉ xảy ra đối với một số nơi, chúng tôi cho rằng, những trường hợp đó có thể coi là “ đặc thù” trong quản lý ở địa phương mà ở những tình thế như vậy, để quản lý tốt thì địa phương không thể chờ có văn bản của trung ương quy định, nhất là trong hoàn cảnh vấn đề chỉ xảy ra ở một số địa phương mà không có “tính toàn quốc” hay ở phạm vi địa bàn rộng.

Bốn là, các quy định của trung ương đã trở thành một khuôn khổ chật chội, hạn hẹp để đáp ứng với yêu cầu phát triển rất khác nhau ở các địa bàn, vùng, miền khác nhau. Vì lẽ đó, dẫn đến xu hướng “vượt rào” của các địa phương, bứt phá khỏi khung pháp luật chung của trung ương. Ví dụ trong lĩnh vực đầu tư.“Xé rào” đã trở thành phổ biến ở rất nhiều địa phương trên toàn quốc mà không còn là “hiện tượng” nữa[3]. “Xé rào” đang trong tình trạng báo động vì có đến hơn một nửa số tỉnh thành trong toàn quốc (33 tỉnh thành) có hiện tượng “xé rào” bằng việc đưa ra các ưu đãi đầu tư hấp dẫn – đôi khi trái ngược với quy định chung của trung ương, nhằm thu hút đầu tư về địa phương [12]. Ngoài ra hiện tượng này cũng xuất hiện ở một số lĩnh vực khác, ví dụ như: Mức xử phạt vi phạm giao thông tăng nặng đã được áp dụng tại 02 thành phố là Hà Nội và Hồ Chí Minh – bất chấp các tranh cãi về nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật; thành phố Đà Nẵng tiếp tục đề xuất dự án hạn chế nhập cư… Nhiều địa phương đã có những biểu hiện lạm quyền, vượt quyền, trái với những quy định mà trung ương ban hành, nhất là trong việc ban hành các văn bản xử phạt hành chính, xử phạt về vi phạm trật tự an toàn giao thông… trái với các quy định của pháp luật [13, tr.125]. Tình trạng “xé rào” quy định “vượt luật” là một thực tế đang diễn ra ở một số địa phương[4].

Năm là, quy định của pháp luật hiện nay đã làm cho chính quyền địa phương luôn ở thế bị động, khó khăn và lúng túng trong hoạt động ban hành VBQPPL. Điều này dẫn đến kìm hãm sự phát triển của địa phương, nhất là những địa phương có nhiều sáng kiến đổi mới, năng động và có sự bứt phá (ví dụ: Đà Nẵng, Quảng Ninh, thành phố Hồ Chí Minh…). Pháp luật hiện nay đã dẫn đến tình trạng địa phương không thể có sáng kiến mới, và nếu có quy định mới thì đồng nghĩa với “trái pháp luật”.

2. Kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương

Trong quá trình sửa đổi Luật Ban hành VBQPPL năm 2008 (soạn thảo Luật hợp nhất Luật Ban hành VBQPPL và Luật Ban hành VBQPPL của HĐND, UBND) có nhiều ý kiến tranh luận về một số vấn đề như:Có nên trao thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho địa phương hay không, nhất là cấp huyện, cấp xã có cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật không? Nhưng cũng có ý kiến còn băn khoăn về thẩm quyền của cấp xã, cho rằng, đối với cấp xã, do phạm vi địa giới của xã, phường, thị trấn khá nhỏ và sự khác biệt về các vấn đề tự nhiên, xã hội của các xã, phường, thị trấn trong một huyện, quận không nhiều nên gần như không có yếu tố đặc thù cần có những quy định riêng. Mặt khác, để tránh sự tản mạn của pháp luật, việc quy định thẩm quyền ban hành văn bản qui phạm pháp luật của chính quyền cấp xã là không cần thiết [6]. Cũng có quan điểm cho rằng, các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan trung ương ban hành thường có hiệu lực trên phạm vi toàn quốc, vì vậy cần có sự cụ thể hóa văn bản của trung ương cho phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương, mặt khác, do những khác biệt của địa phương cho nên có những vấn đề chỉ có ở địa phương này mà không có ở địa phương khác nên khó có thể được quy định trong các văn bản do trung ương ban hành, trường hợp này cũng cần có văn bản của địa phương trực tiếp điều chỉnh các vấn đề đó [6, tr. 2]. Có ý kiến khẳng định, xét trên phương diện thẩm quyền thì quyền hành pháp phải gồm quyền lập quy – ban hành VBQPPL dưới luật và quyền điều hành hành chính (gồm các thẩm quyền: bảo đảm, bảo vệ tự do, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và kiểm tra, thanh tra hành chính và chuyên ngành). “Lập quy ở các cấp hành chính – lãnh thổ là hoạt động ban hành quyết sách và quy định quy phạm. Hoạt động đó có tính định hướng chính trị và xác lập quy tắc xử sự chung ở địa phương” [8, tr. 34].

Cũng như quyền tự chủ về tài chính, ngân sách, quyền tự chủ ban hành quy định có thể được ghi nhận trong hiến pháp, trong luật. Trong khuôn khổ các đạo luật, luật pháp nhà nước tạo nên giới hạn của quyền tự quản, kể cả quyền được ban hành văn bản [9, tr.73]. Ở một số nước, chính quyền địa phương có thể ban hành quy chế, điều lệ, “quy tắc tự quản của địa phương”. Quyết định việc ban hành, sửa đổi và huỷ bỏ các điều lệ và quy định mang tính pháp quy địa phương cũng còn gọi làquyền tự chủ ban hành văn bản quy phạm phápluật, tạo cho địa phương quyền xác định các công việc tự quản địa phương thông qua việc ban hành các quy chế, quy định, điều lệ [9, tr.75].

Có một số lý do để có thể trao thẩm quyền lập quy cho chính quyền địa phương như: (i) Việc trao cho quyền tự quyết có ý nghĩa quan trọng nhằm thúc đẩy tính tích cực của các lực lượng xã hội; những lực lượng đó có thể tự ban hành quy định ở những lĩnh vực mà mình nhìn nhận sự việc rõ nhất và tự chịu trách nhiệm trong quá trình ban hành và qua đó, khoảng cách giữa người ban hành quy phạm với người áp dụng quy phạm sẽ rút ngắn lại; ngoài ra, các nhà làm luật cũng được giảm tải trong quá trình tìm hiểu những sự khác biệt mang tính địa phương và khó có thể sửa đổi quy định một cách nhanh chóng; (ii) Quyền tự ban hành quy định thuộc lĩnh vực cơ bản của việc bảo đảm hệ thống hành chính độc lập, là quá trình tự tổ chức cuộc sống cộng đồng tại địa phương; (iii) Sự phân công công việc trong hệ thống hành chính – chính trị đã giao cho các địa phương hàng loạt nhiệm vụ có tính dịch vụ và dịch vụ là phục vụ và giúp đỡ giữa người với người, nó đưa lại những kết quả phi vật chất, đặc biệt là những dịch vụ cá nhân trực tiếp giữa người với người, rất khó có thể được tiêu chuẩn hoá và mô hình hoá. Đây cũng là lý do đòi hỏi đa dạng hóa các phương thức, điều kiện cung cấp dịch vụ và vì thế, cần trao thẩm quyền ban hành pháp luật cho cả cấp chính quyền cơ sở [9].

Chúng tôi cho rằng, nếu như có thẩm quyền quản lý riêng, thì cấp chính quyền, dù là cấp cơ sở cũng phải có văn bản để thể hiện tính chủ động của địa phương, để luôn có thể bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của địa phương. Pháp luật, bằng nhiều cách có thể hạn chế thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương, bằng việc trung ương phải quy định những vấn đề thuộc trách nhiệm của trung ương, phải nhanh chóng ban hành luật, nghị định… để giải quyết đáp ứng nhu cầu của người dân cả nước. Nếu địa phương được giao quản lý về một lĩnh vực nào đó, nếu như trung ương chưa có quy định thì địa phương hoàn toàn có thể tự mình đặt ra quy định. Nghĩa là việc ban hành luật, quy định chi tiết thi hành luật là thuộc trung ương, không cần thiết địa phương phải đồng loạt ban hành văn bản hướng dẫn mà không có nội dung mới. Ngoài ra, nếu địa phương có thẩm quyền quản lý riêng, dù là cấp tỉnh, cấp huyện hay cấp xã thì vẫn có thẩm quyền ban hành văn bản để quản lý.

Theo pháp luật hiện nay thì ở địa phương có cả hai chủ thể đều có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật là HĐND và UBND; mặc dù Luật Tổ chức HĐND và UBND xác định HĐND như chủ thể chính trong việc ban hành “chủ trương, biện pháp, quy định” nhưng trên thực tiễn UBND còn “lấn át” thẩm quyền của HĐND, có khi ban hành thay, cũng có khi luật chuyên ngành giao trực tiếp cho UBND ban hành quy định, làm cho hoạt động ban hành văn bản của HĐND trở nên khá hình thức.

Trong thời gian tới, Luật Chính quyền địa phương và các luật chuyên ngành cần quy định rõ ràng vai trò của HĐND trong việc ban hành quy định ở địa phương một khi Hiến pháp đã trao trách nhiệm cho Hội đồng nhân dân “quyết định các vấn đề của địa phương”. Chính quyền địa phương chỉ ban hành những văn bản quy định có tính chất “lập quy” để quản lý những vấn đề thuộc phạm vi phân cấp, phân quyền theo luật giao; còn việc thực hiện các nhiệm vụ theo ủy quyền của trung ương thì chính quyền địa phương cần phải tuân thủ hướng dẫn, quy định của chính quyền trung ương.

Nguyễn Thị Hạnh

Vụ Pháp luật Hình sự – Hành chính

Tài liệu tham khảo:

1. Nguyễn Hoàng Anh (2012), “Nghiên cứu chế định chính quyền địa phương và kiến nghị sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992”,Kỷ yếu Hội thảo do Bộ Tư pháp và UNDP tổ chức, Hải Phòng.

2. Đặng Bá Bắc (2012), “Thực tiễn thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND năm 2004 ở tỉnh Quảng Ninh và một số kiến nghị”, tham luận tại Hội thảo “thực trạng thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND năm 2004 và việc xây dựng một luật chung, thống nhất về ban hành văn bản quy phạm pháp luật”, do Ủy ban Thường vụ Quốc hội – Viện Nghiên cứu lập pháp và Chương trình phát triển Liên hợp quốc UNDP tổ chức, Quảng Ninh.

3. Bộ Nội vụ (8/2014), “Mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống chính quyền địa phương ở một số nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam”.

4. Bùi Thị Đào (12/2014),“Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền cấp huyện, cấp xã” in trong Kỷ yếu Hội thảo của Bộ Tư phápVề phạm vi điều chỉnh, hình thức, thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật, tổ chức ngày 14/12/2014, Hà Nội.

5. David Wilson and Chris Game (2011), Local Government in the United Kingdom, 5th ed. (Basingstoke, Hampshire, UK: Palgrave Macmillan.

6. Bùi Thị Đào (12/2014),“Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền cấp huyện, cấp xã” in trong Kỷ yếu Hội thảo của Bộ Tư phápVề phạm vi điều chỉnh, hình thức, thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật, tổ chức ngày 14/12/2014, Hà Nội.

7. Tống Thị Thanh Nam (2012), “Thực tiễn thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND năm 2004 ở Thành phố Hà Nội và một số kiến nghị”, Tham luận tại Hội thảo Thực trạng thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND năm 2004 và việc xây dựng một luật chung, thống nhất về ban hành văn bản quy phạm pháp luật, do Ủy ban Thường vụ Quốc hội – Viện Nghiên cứu lập pháp và Chương trình phát triển Liên hợp quốc UNDP tổ chức, Quảng Ninh.

8. Đinh Văn Mậu (2009), “Khái luận về phân công quyền lực nhà nước và phân quyền theo cấp hành chính – lãnh thổ”, Tạp chí quản lý nhà nước, (156), tr. 34.

9. Nguyễn Thị Kim Thoa và Nguyễn Sỹ Đại (2007), Tổ chức chính quyền địa phương Cộng hoà liên bang Đức, NXB Tư pháp, Hà Nội.

10. Đặng Phong (2012), Tư duy kinh tế Việt Nam 1975-1989, NXB Tri thức, Hà Nội.

11. Lê Hồng Sơn (2012), “Công tác thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND năm 2004 nhìn từ góc độ kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật”, Kỷ yếu Hội thảo Thực trạng thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND năm 2004 và việc xây dựng một luật chung, thống nhất về ban hành văn bản quy phạm pháp luật, do Ủy ban Thường vụ Quốc hội – Viện Nghiên cứu lập pháp và Chương trình phát triển Liên hợp quốc UNDP tổ chức, Quảng Ninh.

12. UNDP Việt Nam, Võ Thành Tự Anh, Lê Viết Thái, Võ Tất Thắng, (11/2007), “Xé rào ưu đãi đầu tư của các tỉnh trong bối cảnh mở rộng phân cấp ở Việt Nam – sáng kiến hay lợi bất cập hại?”.

13. Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) (2014), Đề tài NCKH cấp bộ “ Phân công quyền lực giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương tại Việt Nam – Lịch sử, lý luận và thực tiễn, Hà Nội.



[1]Điều 120 Hiến pháp 1992

[2]Điều 123 Hiến pháp 1992

[3]Điều này cũng không phải là thực tế chỉ có ở Việt Nam mà cũng xảy ra ở các nước khác, ngay cả ở các nước như châu Âu, có hiện tượng địa phương vi phạm quy định của liên minh châu Âu về một vấn đề nhất định

[4]Chẳng hạn như năm 2008, Đà Nẵng là thành phố có quyết định trái luật nhiều nhất (13 văn bản). Nhưng không ít biện pháp quản lý mang tính chất “phá rào” ở địa phương, sau này lại được thể chế hóa thành chính sách của trung ương (1). Hiện tượng khoán hộ ở Vĩnh Phúc, các hiện tượng phá rào trong mua bán và cung ứng lương thực ở thành phố Hồ Chí Minh (năm 1979), phá giá thu mua lúa ở An Giang (1978-1979), việc Long An áp dụng cơ chế giá thị trường… là những ví dụ tương tự về những biện pháp quản lý mang tính chất “phá rào” ở địa phương, sau này lại được thể chế hóa thành chính sách của trung ương [10, tr 212-219].

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Những khác biệt của truyền thống pháp luật Common Law với truyền thống pháp luật Việt Nam

04/08/2015

Hệ thống Common Law (hay thông luật) bắt nguồn từ Vương quốc Anh, “bắt đầu từ khi Guillaume le Conquérant, Công tước xứ Normandie, lên ngôi Hoàng đế nước Anh năm 1066” [1] và phát triển tại đây từ khoảng một thiên niên kỷ trước; về sau nó được sử dụng ở Hoa Kỳ và các quốc gia từng là thuộc địa của Anh (mặc dù ngày nay đã có những sự khác biệt nhất định). Hệ thống Common Law được đặc trưng bởi pháp luật Anh – Mỹ, có tư cách là một họ pháp luật lớn trên thế giới.

Việt Nam là quốc gia có lịch sử lập quốc lâu đời, song pháp luật Việt Nam không phải là một hệ thống pháp luật riêng biệt. Trải qua hàng nghìn năm bị đô hộ bởi Trung Hoa, sau này là Pháp, rồi trở thành một thành viên trong khối xã hội chủ nghĩa, pháp luật Việt Nam lần lượt bị ảnh hưởng bởi pháp luật của các triều đại Trung Hoa, của Pháp, sau cùng bị ảnh hưởng đặc biệt bởi truyền thống pháp luật xã hội chủ nghĩa bắt nguồn từ Liên Xô. Ngày nay, hệ thống pháp luật Việt Nam có đặc trưng của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa kết hợp những yếu tố ngoại lai do quá trình hội nhập kinh tế với phương Tây kể từ thời kỳ đổi mới [2].

Như vậy, so sánh hai hệ thống pháp luật này là so sánh giữa một nền pháp luật đặc trưng, lâu đời với một nền pháp luật du nhập ảnh hưởng bởi các cuộc cách mạng xã hội. Trong bài viết này, chúng tôi xin đưa ra sự so sánh dựa trên một số tiêu chí như sau:

Thứ nhất, quan niệm về pháp luật

Quan niệm pháp luật của truyền thống Common Law nằm ở trong chính thuật ngữ Common Law (tức là án lệ). “Nước Anh không bao giờ tiếp thu quan điểm của Cách mạng Pháp cho rằng quyền lực của thẩm phán phải được kìm hãm, rằng họ cần bị hạn chế nghiêm ngặt chỉ áp dụng pháp luật mà cơ quan lập pháp công bố” [3]. Nước Anh có vị trí địa lý là một hòn đảo tách biệt khỏi lục địa Châu Âu, do phải đối mặt với những thách thức từ khí hậu tự nhiên, cuộc sống trên đảo nhiều bất ổn đã dẫn đến tư duy pháp lý linh hoạt, coi trọng việc giải quyết các vấn đề từ thực tiễn cuộc sống. Do vậy, tất cả các quy phạm được Tòa án công nhận và áp dụng đều được xem là nguồn của pháp luật. Pháp luật sinh ra từ chính cuộc sống và được thể nghiệm bởi các thẩm phán.

Ở Việt Nam và các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa, lấy học thuyết Mác – Lênin làm nền tảng phát triển cho toàn xã hội, trong đó có lĩnh vực pháp lý. Pháp luật là sự thể chế hóa đường lối của chính trị, công cụ của giai cấp thống trị dùng để đảm bảo cho lợi ích kinh tế và giữ vững nền chuyên chính. Trong quan điểm này, luật không thể sinh ra từ khu vực “tư”, đó là một luận điểm của Lênin. Khẳng định theo Lênin rằng: “Mọi pháp luật đều là luật công, đó chỉ là một phương thức khác thể hiện tư tưởng: Mọi quan hệ pháp lý đều tuân theo tư tưởng chính trị và quy phạm pháp luật không thể là sự phản ánh cho những nguyên tắc công lý tiêu biểu cho chúng” [4]. Bị ảnh hưởng sâu sắc bởi hệ tư tưởng trên, pháp luật Việt Nam là sự thể chế hóa các chính sách của Đảng cộng sản cầm quyền.

Thứ hai, các đặc trưng pháp lý

– Cơ quan ban hành luật

Nhiều luật gia cho rằng, hệ thống thông luật bao gồm những điều luật bất thành văn do thẩm phán lập ra; nhưng nói thông luật là luật bất thành văn thì không đúng. Ở Hoa Kỳ ngày nay, phần nhiều luật pháp được lập ra bởi cơ quan lập pháp. Cũng cần lưu ý rằng, nhiều đạo luật ở Hoa Kỳ là sự pháp điển hóa từ những tiền lệ pháp trước đó. Bản thân những phán quyết của Tòa án giải thích cho Hiến pháp và cho các đạo luật của cơ quan lập pháp cũng trở thành nguồn luật. Quan niệm hệ thống pháp luật Common Law bao gồm những điều luật của thẩm phán làm ra cũng có phần đúng. Những lập luận trên cho thấy, vai trò thiết yếu của các thẩm phán trong việc thiết lập nên hệ thống quy phạm Common Law.

Việc ban hành Hiến pháp và các đạo luật ở Việt Nam thuộc thẩm quyền của Quốc hội (Điều 70 Hiến pháp năm 2013). Bên cạnh đó, các cơ quan khác như Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án cũng có quyền ban hành những văn bản có tính chất luật (được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008). Điều này có căn nguyên bởi cơ chế tập quyền Quốc hội, là nơi tập trung quyền lực lớn nhất (về nguyên tắc) sẽ có quyền thiết lập hệ thống pháp luật cho quốc gia và áp dụng các đạo luật do Quốc hội ban hành là yêu cầu bắt buộc đối với thẩm phán trong quá trình xử án.

– Thủ tục xét xử

Tư tưởng linh hoạt và thực tế khiến thủ tục xét xử của hệ thống Common Law coi trọng việc tranh tụng tại phiên tòa. Nó trái ngược với hệ thống xử án của Việt Nam coi trọng tính thẩm vấn (xét – hỏi). Các thẩm phán của Anh – Mỹ không tham gia vào việc xét hỏi trên phiên tòa, việc tranh tụng là do các luật sư của Nhà nước và luật sư bào chữa cho thân chủ của họ thực hiện, sau cùng các thẩm phán và bồi thẩm đoàn sẽ ra phán quyết dựa trên những chứng cứ và lập luận của hai bên. Ở Việt Nam, việc xét – hỏi do thẩm phán thực hiện, cáo buộc người phạm tội (các tội hình sự) là do Viện kiểm sát (đồng thời là cơ quan kiểm sát tư pháp), các luật sư chỉ thực hiện tranh tụng dựa trên cơ sở những chứng cứ tự thu thập được.

– Nền pháp chế

Dựa trên nền tảng tư duy rất khác biệt, các quy tắc pháp lý ra đời nhằm cung cấp các giải pháp cho các trường hợp cụ thể. Đối với truyền thống của người Anh, họ luôn coi trọng kinh nghiệm, ít giáo điều và tin vào tiền lệ. Các quy tắc của Common Law được hình thành từ các quy tắc xã hội, cũng có sự vận động khi thực tiễn thay đổi thông qua các giải thích của Tòa án. Về căn bản, nền pháp chế của Common Law dựa trên sự coi trọng tiền lệ pháp, thông qua ý thức hệ. “Luật không phải được làm ra mà được phát biểu bởi những người quen biết với tập quán và hiểu biết tập quán trong một lãnh thổ nhất định” [5]. Do vậy, hệ thống Common Law được đặc trưng bởi án lệ và tập quán dân sự.

Nền pháp chế của Việt Nam được gọi tên “Pháp chế xã hội chủ nghĩa”, coi trọng việc lấp đầy các lỗ hổng pháp lý bằng quy phạm pháp luật do cơ quan lập pháp ban hành. Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi sự thống nhất cao độ hay tính pháp điển của hệ thống các quy phạm thành văn. Cơ quan thực thi pháp luật và xét xử bắt buộc phải tuân thủ các quy tắc pháp lý định sẵn, do vậy tính sáng tạo trong các cơ quan này rất hạn chế. Sau cùng, nó đòi hỏi tất cả công dân và các cơ quan nhà nước đều phải tuân thủ nền pháp luật được làm ra bởi cơ quan lập pháp. Nền pháp chế Việt Nam mang đặc trưng lý tưởng của nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, nhưng bị khập khiễng bởi tư duy lập pháp hay thay đổi cộng với nền tư pháp thiếu độc lập.

Thứ ba, nguồn của luật

Common Law là hệ thống pháp luật được tạo nên bởi các thẩm phán, là người giải thích và tuyên bố luật, đồng thời xác định đâu là nguồn của luật. Bản thân Common Law cũng là nguồn trong hệ thống Common Law. Căn bản tư duy dựa trên kinh nghiệm thực tiễn và tập quán, Common Law coi trọng luật được làm ra từ Tòa án. Ngoài ra, Luật (luật văn bản lập pháp) cũng có vai trò bổ sung đối với hệ thống pháp luật sẵn có; các nguồn pháp luật khác như các học thuyết pháp lý, nguyên tắc công bằng (equity) cũng được ghi nhận và áp dụng khi cần thiết. Việc ban hành các văn bản lập pháp thuộc thẩm quyền của Nghị viện; ngoài ra Nghị viện có thể ủy quyền lập pháp cho nhà vua, các bộ trưởng, chính quyền địa phương. Việc ủy quyền lập pháp phải nằm trong các giới hạn mà luật định. Với tư cách là nguồn gốc của pháp luật nước Anh, tập quán vẫn được coi trọng trong Common Law nhưng không bị bắt buộc áp dụng. Trong quá trình áp dụng, tập quán phải thể hiện tính chắc chắn, được nhiều người khẳng định và tin cậy, sau cùng phải đạt sự hợp lý trong điều kiện mỗi địa phương. Các học thuyết pháp lý ít được coi trọng trong Common Law, tuy nhiên tùy từng trường hợp nó có thể được trích dẫn bởi tính hấp dẫn và sự sâu sắc của các luật gia.

Dựa trên nền tảng của hai yếu tố: “Công hữu hóa tư liệu sản xuất và sự thiết lập chính quyền nhân dân” [6], pháp luật xã hội chủ nghĩa thiết lập các hình thức pháp luật thông qua kỹ thuật lập pháp. Pháp luật Việt Nam cũng bị chi phối bởi nền tảng trên để xây dựng nguồn pháp luật của mình. Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay về nguyên tắc chỉ coi văn bản quy phạm pháp luật là nguồn duy nhất và “là hình thức pháp lý tiến bộ nhất” [7] so với các loại nguồn luật khác. Có thể dẫn ra mấy lý do như sau: Một là, sự coi trọng nguyên tắc tập trung quyền lực vào Quốc hội dẫn đến thiết lập thẩm quyền tối cao về lập pháp cho cơ quan này; Hai là, bị ảnh hưởng bởi truyền thống pháp luật xã hội chủ nghĩa không công nhận án lệ là một nguồn chính thức; Ba là, năng lực của các thẩm phán không hội đủ điều kiện để xây dựng nguồn luật từ án lệ.

Như vậy, ngoài những đặc thù của chế độ chính trị, việc Việt Nam không coi luật án lệ là một nguồn luật cũng bắt nguồn từ những nguyên nhân thực tế của một nền tư pháp ít được tin cậy. Hệ thống văn bản do Quốc hội và các cơ quan khác ban hành vẫn chiếm lĩnh một vị trí trọng yếu trong hệ thống pháp luật Việt Nam thời gian tới.

Thứ tư, vai trò của tư pháp

Không chỉ Common Law coi trọng việc xây dựng hệ thống tư pháp mạnh và độc lập, các quốc gia khác theo truyền thống Civil Law như Pháp, Đức cũng tập trung cho một cơ quan tư pháp mạnh, đủ đáp ứng được nhu cầu cũng như sức ép từ các thế lực khác. Mặc dù áp dụng thể chế tam quyền phân lập cứng (Hoa Kỳ) hay mềm dẻo (Vương quốc Anh) thì tư pháp vẫn được đáp ứng các điều kiện để có thể độc lập trong các phán quyết của mình. Tại Hoa Kỳ, kể từ sau phán quyết của John Marshall năm 1803 về vụ Marbury kiện Madison, ông đã thiết lập sự cân bằng trên thực tế của tư pháp với hai ngành quyền còn lại, khẳng định Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ hiến pháp và kiểm soát hành vi của Chính phủ. Theo truyền thống phương Tây, quyền tư pháp được giao cho các thẩm phán độc lập (quy định tại Điều III Hiến pháp Liên bang năm 1787). Theo truyền thống Common Law, thẩm phán không phải là thẩm phán chuyên nghiệp, không nhất thiết thẩm phán phải được bổ nhiệm từ những luật gia, thẩm phán giữ chức vụ suốt đời. Như vậy, người Mỹ đã vận dụng cả việc phân lập cấu trúc bộ máy lẫn việc tuyển lựa kỹ càng các thẩm phán để tạo ra một cơ chế xét xử độc lập cao với chính quyền và cả dư luận.

Ở nước Anh ngày nay không tạo lập một cơ chế phân quyền cứng như Mỹ, hệ thống tư pháp ở Anh có hai đặc điểm nổi bật: Một là, đội ngũ cán bộ tư pháp thống nhất, các luật gia và thẩm phán đều được đào tạo như nhau. Hai là, cơ chế phân chia Tòa án sơ cấp và Tòa án cao cấp, chỉ các Tòa án cao cấp mới có thẩm quyền xét xử chung và được hưởng một quy chế đặc biệt đảm bảo sự độc lập và uy tín của thẩm phán; từ những năm 1990 thì thẩm quyền chung đã được trao cho một số Tòa án sơ cấp. Thẩm phán của các Tòa án cao cấp chỉ bị bãi miễn khi có yêu cầu của cả Thượng viện và Hạ viện, thẩm phán của các Tòa sơ cấp chỉ bị bãi miễn trong trường hợp phạm lỗi nghiêm trọng [8].

Hệ thống tư pháp ở Việt Nam được đặc trưng bởi hai cơ quan là Tòa án (cơ quan xét xử) và Viện kiểm sát (cơ quan công tố và giám sát tư pháp). Cả Tòa án và Viện kiểm sát đều được tổ chức dựa trên sự phân cấp lãnh thổ hành chính. Có Tòa án tối cao và Tòa án cấp cao cho toàn quốc gia, Tòa án cấp tỉnh và Tòa án cấp huyện tương ứng với các cấp hành chính, ở cấp hành chính thấp nhất (cấp xã) không tổ chức Tòa án. Nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội; chế độ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và nhiệm kỳ của thẩm phán, chế độ bầu cử và nhiệm kỳ của Hội thẩm do Luật Tổ chức tòa án quy định. Khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Việt Nam cũng ghi nhận về yêu cầu độc lập của tư pháp trong cả Hiến pháp, nhưng thực tế tổ chức bộ máy tư pháp và cách tuyển lựa thẩm phán hiện nay dẫn đến tư pháp là một ngành vừa yếu, lại vừa thiếu, do đó, yêu cầu về sự độc lập của tư pháp chỉ minh chứng trên quy định.

Sự khác biệt lớn giữa Common Law và hệ thống pháp luật Việt Nam là đảm bảo một thiết chế tư pháp độc lập, đây là căn nguyên của một hệ thống pháp luật có chất lượng. Bởi bản thân các đạo luật sẽ không thể trở thành luật và không đem lại công bình nếu không thông qua sự phán quyết của các vị quan tòa công minh.

Thứ năm, vấn đề bảo hiến

Bảo hiến không đơn thuần là kiểm tra xem một văn bản pháp luật có trái với Hiến pháp không? Thông qua việc kiểm hiến sẽ kiểm soát các hành vi của Chính phủ, thậm chí là hành vi của nhà lập pháp. Việc bảo hiến hiệu quả sẽ bảo vệ được dân chúng trước hành vi lạm dụng quyền lực của chính quyền cũng như tạo được hệ thống các văn bản thống nhất, đảm bảo quyền lợi của các bên trong quan hệ pháp luật. Hướng đến một cơ chế kiểm hiến hiệu quả là hướng đến một hệ thống pháp luật đề cao pháp quyền, đề cao các giá trị con người và một nhà nước hiệu quả.

Ở Việt Nam hiện không có tố tụng hiến pháp, mặc dù có một vài thiết chế kiểm soát pháp luật từ Quốc hội nhưng không phát huy tác dụng. Một hệ thống pháp luật có số lượng văn bản khá đồ sộ, khoảng 13.500 văn bản quy phạm pháp luật còn hiệu lực thi hành [9] và được bổ sung hàng ngày bởi tất cả các cơ quan có thẩm quyền ban hành luật. Việc thiếu một cơ chế kiểm hiến vì bất cứ lý do gì cũng đang làm cho trật tự pháp lý gặp phải những bất cập như truyền thông đưa tin, tạo nên những phản ứng không tốt từ phía xã hội. Việt Nam đã xây dựng quy trình tố tụng trong các lĩnh vực về dân sự, hình sự, hành chính, kinh tế, lao động, nhưng tố tụng Hiến pháp thì vẫn chỉ là kết quả nghiên cứu của các nhà luật học. Việc ban hành chồng chéo hay lẫn lộn về thẩm quyền vẫn đang hàng ngày diễn ra mà không hứa hẹn sẽ được chấm dứt khi nào là một thiệt hại rất lớn cho xã hội, cả về phương diện tư duy lập pháp.

Hiến pháp ở Anh là sự tổng hợp tất cả các yếu tố pháp lý có tính ổn định cao, cộng với một cơ chế tố tụng chặt chẽ đã giúp cho hệ thống pháp luật hiệu quả và dân chủ. Hoa Kỳ là một hình mẫu về cơ chế kiểm hiến, chức năng kiểm hiến được trao cho Tòa án các cấp, việc kiểm hiến được đặc trưng bởi các vụ việc cụ thể và đảm bảo thi hành phán quyết của Tòa án nghiêm minh.

Sự khác biệt đặc trưng giữa Common Law và truyền thống pháp lý Việt Nam không nằm ở việc có thiết lập Tòa án Hiến pháp hay không, mà ở tư duy tôn trọng trật tự pháp lý và thiết lập cơ chế tố tụng hiệu quả bởi bộ máy tư pháp độc lập, nghiêm minh. Đem ra vài sự so sánh trên đây để hy vọng sự thay đổi và sự cải cách mạnh mẽ của toàn xã hội trong một tương lai gần.

Nguyễn Quang Đức

Khoa Luật – ĐH Quốc gia Hà Nội

Chú thích:

[1] Michel Fromont, Các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr.130.

[2] Đổi mới là một chương trình cải cách kinh tế và một số mặt xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng vào thập niên 80. Chính sách đổi mới được chính thức thực hiện từ Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 6, năm 1986. Như vậy, thuật ngữ đổi mới trong bài viết có thể được hàm nghĩa về thời gian là năm 1986.

[3] Peter J. Messitte, Hệ thống thông luật so với hệ thống luật Châu Âu lục địa, Phương thức hoạt động của Tòa án Hoa Kỳ, Nxb. Văn hóa – Thông tin, tr.42.

[4] Réne David, Những hệ thống pháp luật chính trong thế giới đương đại, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, tr.208.

[5] Bài giảng của PGS.TS. Ngô Huy Cương, Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội.

[6] Réne David, Những hệ thống pháp luật chính trong thế giới đương đại, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, tr.166.

[7] Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2008, tr.83.

[8] Michel Fromont, Các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr.137.

[9] Cơ sở dữ liệu luật Việt Nam, Trung tâm tin học Văn phòng Quốc hội.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Góp ý Dự án Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi)

16/06/2015

Dự án Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi) là một trong những dự án luật nhằm triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013. Việc ban hành Luật này sẽ góp phần cụ thể hóa các quy định và tinh thần của Hiến pháp năm 2013 liên quan đến Chính phủ; khắc phục những vướng mắc, bất cập, hạn chế trong các quy định của Luật Tổ chức Chính phủ hiện hành và trong thực tiễn tổ chức và hoạt động của Chính phủ đã được chỉ ra trong quá trình tổng kết thi hành Hiến pháp năm 1992. Việc xây dựng Luật này hướng đến mục tiêu xây dựng một Chính phủ mạnh, năng động, sáng tạo, ứng phó kịp thời với tình hình thực tiễn, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy các quá trình cải cách pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp phù hợp với chủ trương, đường lối mà các văn kiện Đại hội Đảng XI đã đề ra.

1. Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Chính phủ

Điều 5 Dự thảo Luật trình Quốc hội (tháng 5/2015) quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Chính phủ, tuy nhiên, một số quy định tại Điều này cần nghiên cứu, cân nhắc đảm bảo đúng là nguyên tắc trong tổ chức hoạt động của Chính phủ mà không lẫn với nguyên tắc hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, cũng không lẫn với mục tiêu, yêu cầu của Luật này cần hướng tới.

Để bảo đảm phù hợp với tính năng động, linh hoạt trong hoạt động điều hành của Chính phủ và của các Bộ và nhất là để làm cơ sở cho các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong quá trình đề xuất thành lập tổ chức bộ máy, phân bổ nhân sự, Luật này cần bổ sung một số nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ như: (i) Cơ cấu tổ chức phải bảo đảm thích ứng linh hoạt với sự thay đổi của các điều kiện kinh tế – xã hội; (ii) Bảo đảm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ của Chính phủ một cách chủ động; (iii) Bảo đảm tiết kiệm chi phí và hiệu quả; (iv) các đơn vị tổ chức và nhân sự cần được thiết lập với quy mô và số lượng phù hợp, ít tầng nấc và theo mức độ, yêu cầu công việc…

2. Về cơ cấu tổ chức Chính phủ

Dự thảo Luật Tổ chức Chính phủ không nên quy định cứng trong Luật số lượng, tên gọi các bộ, cơ quan ngang bộ nhằm tạo điều kiện cho Quốc hội quyết định cơ cấu tổ chức của Chính phủ (khoản 1 Điều 95) và Quốc hội thành lập Chính phủ khi Quốc hội hết nhiệm kỳ tại đầu nhiệm kỳ của mỗi khóa Quốc hội (Điều 97 của Hiến pháp). Thực tiễn thời gian qua cho thấy, Luật Tổ chức Chính phủ được ban hành từ năm 2001 đến nay mới sửa đổi, trong khi đó cơ cấu tổ chức của Chính phủ được sắp xếp lại nhiều lần hơn. Việc quy định cứng số lượng tên gọi các bộ, cơ quan ngang bộ có thể làm khó khăn, chậm trễ cho quá trình rà soát, sắp xếp, kiện toàn tổ chức các cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương cũng như chủ trương xây dựng mô hình quản lý đa ngành, đa lĩnh vực được ghi nhận tại Nghị quyết số 39-NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 17/4/2015. Nên chăng, Luật chỉ quy định mang tính nguyên tắc như: Yêu cầu tổ chức bộ máy các bộ tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, tiết kiệm. Luật cũng có thể xác định các tiêu chí cụ thể cho việc thành lập một số cơ quan bộ hoặc các cơ quan cấp trung ương (do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thành lập; tiêu chí cho việc thành lập các tổ chức phối hợp liên ngành của Chính phủ, của các bộ);… cùng với các quy định có tính nguyên tắc khác đủ để Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội có thể giám sát, chất vấn nếu như Chính phủ, các bộ trưởng không tuân thủ các quy định, nguyên tắc Luật đề ra.

3. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ

Việc Dự án Luật cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn Chính phủ quy định tại Điều 96 Hiến pháp năm 2013 là hợp lý, tuy nhiên, trong điều kiện các luật chuyên ngành còn đang chưa thể hiện tinh thần phân cấp, phân quyền theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 nên Luật này không quy định chi tiết vào từng nội dung của các nhiệm vụ kinh tế – xã hội (tức là không cụ thể hóa khoản 3 Điều 96 Hiến pháp năm 2013) mà chỉ quy định làm rõ hơn các nhiệm vụ quy định tại các khoản còn lại của Điều 96; đồng thời Luật này cần quy định rõ các lĩnh vực không phân cấp, phân quyền và nội dung nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong các lĩnh vực không phân cấp, phân quyền này. Đối với các lĩnh vực sẽ phân cấp, phân quyền cho địa phương, việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Chính phủ, các Bộ trong từng lĩnh vực sẽ do các luật chuyên ngành xác định căn cứ vào điều kiện thực tế và khả năng của chính quyền địa phương mỗi cấp. Bên cạnh đó, cần phải rà soát nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong các lĩnh vực cụ thể tránh chồng chéo, trùng lặp.

Nhằm tăng cường tính hiệu quả trong hoạt động của Chính phủ: Chính phủ cần tăng cường họp thường xuyên (có thể là hàng tuần hoặc một tháng 2 phiên thay vì 1 phiên/1 tháng như hiện nay) để Chính phủ có thể tập trung hoạch định chính sách. Ngoài ra, nên có các cuộc họp cấp Thứ trưởng (tiến hành trước khi diễn ra phiên họp Chính phủ) để giải quyết các vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau giữa các bộ, ngành hoặc các vấn đề cần phải đưa ra thảo luận tại phiên họp của Chính phủ, đặc biệt là xử lý tốt các vấn đề kỹ thuật trước khi họp Chính phủ. Theo đó, cần tăng cường các phiên họp do Lãnh đạo Văn phòng Chính phủ chủ trì để giải quyết những vấn đề còn có ý kiến khác nhau giữa các bộ, ngành.

Việc đổi mới hoạt động của Chính phủ cũng phải tính tới sao cho hoạt động của các thành viên Chính phủ được đầy đủ, đúng ý nghĩa, vị trí, theo đó, Bộ trưởng phải tập trung vào công tác hoạch định chính sách vĩ mô (bao gồm cả xác định mục tiêu, kế hoạch, chương trình, chiến lược quốc gia thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách, xây dựng pháp luật và tổ chức thực thi, hướng dẫn pháp luật thuộc ngành, lĩnh vực…) và cần hạn chế tối đa giải quyết các vấn đề sự vụ, kể cả các vấn đề chuyên môn liên quan đến ngành, lĩnh vực.

4. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ

Luật cần thể hiện được đầy đủ vị thế, vai trò của Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao; lãnh đạo việc xây dựng chính sách và tổ chức thi hành pháp luật; lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành chính quốc gia theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Do đó, Luật cần làm nổi bật địa vị pháp lý của Thủ tướng và quy định cụ thể các nhiệm vụ, quyền hạn phù hợp với vị thế và vai trò của Thủ tướng và thống nhất, đồng bộ với các quy định khác liên quan đến thẩm quyền của Thủ tướng đã được Hiến pháp quy định. Ví dụ: bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn cho Thủ tướng Chính phủ trong việc giao quyền Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ trong trường hợp khuyết Bộ trưởng hoặc Thủ trưởng cơ quan ngang bộ trong khi chờ Quốc hội phê chuẩn và Chủ tịch nước bổ nhiệm; tạm thời giao quyền Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp chưa bầu được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; nhiệm vụ phê duyệt danh sách nhân sự giới thiệu Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; phê chuẩn, phê duyệt danh sách nhân sự trước khi giới thiệu bầu cử vào các chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương…

5. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và địa vị pháp lý của bộ, cơ quan ngang bộ

Dự án Luật cần phân định rõ nhiệm vụ của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ với tư cách thành viên Chính phủ và tư cách người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ; quy định khái quát về nhiệm vụ, quyền hạn của bộ, cơ quan ngang bộ tại Dự thảo Luật. Trong điều kiện hiện nay, bộ máy hành chính còn tương đối cồng kềnh, có thể quy định chặt chẽ về cơ cấu tổ chức của bộ, tiêu chí thành lập bộ, cơ quan ngang bộ (vì Quốc hội là chủ thể thành lập các bộ); tuy nhiên, đề nghị cân nhắc việc quy định chi tiết về cơ cấu tổ chức của các đơn vị dưới bộ vì như vậy thể hiện sự can thiệp của nhánh lập pháp đối với quyền hành pháp; khó bảo đảm cho Chính phủ “thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia” (khoản 5 Điều 96 Hiến pháp năm 2013); Thủ tướng Chính phủ “lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương; bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành chính quốc gia” (khoản 2 Điều 98 Hiến pháp năm 2013); Bộ trưởng “lãnh đạo công tác của bộ, cơ quan ngang bộ” (khoản Điều 99 Hiến pháp năm 2013).

Cách quy định quá cụ thể sẽ làm cho các Bộ trưởng mất đi quyền chủ động trong điều hành, sắp xếp về mặt tổ chức; nhất là Luật không nên quy định về số lượng cấp phó của các bộ, cơ quan ngang bộ và đơn vị thuộc bộ vì vấn đề này thuộc về điều hành hành chính. Luật không nên can thiệp ở cấp thấp hơn vì không phù hợp với cơ chế phân công quyền lực rõ ràng hiện nay theo tinh thần Hiến pháp 2013. Tương tự, việc quy định số lượng cấp phó của Bộ, cơ quan ngang bộ là cần thiết nhưng cần có cơ chế “mềm” để có thể linh hoạt trong trường hợp cần thiết. Đối với số lượng cấp phó của các đơn vị thuộc Bộ quy định cứng đồng loạt cho các đơn vị là không hợp lý, dẫn đến khó chủ động cho cấp có thẩm quyền quyết định để phù hợp với số lượng công việc của từng đơn vị trong từng thời kỳ. Nếu quy định cứng thì cần bổ sung nguyên tắc: Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ đảm bảo tổng số cấp phó trong bộ, cơ quan ngang bộ không vượt quá số lượng quy định tại văn bản này, trên cơ sở đó, tùy thuộc vào khối lượng công việc của từng đơn vị, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ cân đối giữa các đơn vị trong tổng số cấp phó đó.

Để Bộ trưởng làm tốt vai “thành viên Chính phủ”, cần xác định rõ địa vị pháp lý và trách nhiệm của Thứ trưởng:Địa vị pháp lý của Thứ trưởng là người nhân danh Bộ trưởng khi thực hiện các nhiệm vụ theo ủy quyền của Bộ trưởng, chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng. Các Thứ trưởng có thể giúp Bộ trưởng giải quyết nhiều công việc hành chính, quản trị cơ quan, các công việc chuyên môn cũng thuộc trách nhiệm của Thứ trưởng. Như vậy mới có thể tạo điều kiện cho Bộ trưởng tập trung vào hoạch định chính sách, tham gia đầy đủ các phiên họp Chính phủ, các hoạt động của Chính phủ.Đây là cơ sở quan trọng để Chính phủ tập trung vào hoạch định chính sách quốc gia thông qua hoạt động của các thành viên Chính phủ là các Bộ trưởng.

Về mối quan hệ giữa các Bộ trưởng. Đây là vấn đề quan trọng bảo đảm một Chính phủ thống nhất trong hành động, do đó, cần được quy định cụ thể tại Luật này. Một số nguyên tắc cần được ghi nhận: (i) Khi Bộ trưởng vắng mặt thì một Bộ trưởng khác được chỉ định đại diện trong Chính phủ (ví dụ khi trả lời chất vấn Quốc hội); (ii) Đối với việc giải trình trước các cơ quan của Quốc hội thì Bộ trưởng có thể cử đại diện là Thứ trưởng; phát ngôn của Bộ trưởng trước công luận phải phù hợp với chính sách Chính phủ đề ra; (iii) Trước khi trình Chính phủ, tất cả các vấn đề phải được thảo luận giữa các Bộ trưởng có liên quan…

6. Về phân cấp của Chính phủ và bộ, cơ quan ngang bộ với chính quyền địa phương

Với tinh thần phân cấp, phân quyền theo Hiến pháp năm 2013, sẽ có lĩnh vực chỉ do trung ương (Chính phủ, các Bộ) quản lý, là lĩnh vực cần tập trung quyền lực và thuộc quyền hạn riêng của trung ương mà không phân quyền hay phân cấp. Chính quyền địa phương được xác định thực hiện các loại nhiệm vụ: (i) Nhiệm vụ được phân cấp, phân quyền theo luật định, trừ một số lĩnh vực nhất thiết phải do trung ương quản lý tập trung, thống nhất như quốc phòng, an ninh, ngoại giao, tư pháp(theo thông lệ ở các nhà nước đơn nhất hay nhà nước liên bang đều do trung ương quản lý như lĩnh vực an ninh, quốc phòng, ngoại giao, tôn giáo, tư pháp …); (ii) Nhiệm vụ thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan nhà nước cấp trên nhưng chuyển giao (ủy quyền) cho chính quyền cấp dưới thực hiện.

Trong bối cảnh Luật Tổ chức chính quyền địa phương và các luật chuyên ngành liên quan đến các lĩnh vực cụ thể đang được sửa đổi, hoàn thiện phù hợp với tinh thần Hiến pháp thì Luật tổ chức Chính phủ cần xác định các nguyên tắc phân quyền, phân cấp và cần xác định rõ các lĩnh vực không phân quyền như đã nêu ở trên nhằm tránh tranh luận kéo dài trong quá trình xây dựng các luật chuyên ngành liên quan đến các lĩnh vực nêu trên, đồng thời cũng là định hướng để sửa đổi, bổ sung các luật liên quan. Do đó, cần quy định rõ trong Luật các lĩnh vực không phân cấp, phân quyền cho địa phương; đồng thời cụ thể hóa hơn trong Luật tổ chức các nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong các lĩnh vực này.

Dự thảo Luật cũng chưa thể hiện được trong số các lĩnh vực, theo tinh thần mới của Hiến pháp về chính quyền địa phương (khoản 2 Điều 112) sẽ có lĩnh vực chỉ do trung ương (Chính phủ, các Bộ) quản lý, là lĩnh vực cần tập trung quyền lực và thuộc quyền hạn riêng của trung ương mà không phân quyền hay phân cấp (theo thông lệ ở các nhà nước đơn nhất hay nhà nước liên bang đều do trung ương quản lý như lĩnh vực an ninh, quốc phòng, ngoại giao, tôn giáo, tư pháp…). Đối với những lĩnh vực này, việc giao cho chính quyền địa phương thực hiện nhiệm vụ với tính chất ủy nhiệm, ủy quyền nhưng trung ương vẫn phải chịu trách nhiệm chính về các lĩnh vực đó để tránh đùn đẩy trách nhiệm trung ương và địa phương. Trong những trường hợp này khi có những vấn đề sai phạm xảy ra thì Bộ trưởng mới phải chịu trách nhiệm.

Vấn đề phân cấp, phân quyền, ủy quyền là vấn đề hết sức quan trọng khi xây dựng Luật tổ chức Chính phủ cũng như Luật tổ chức chính quyền địa phương và các luật chuyên ngành. Do đó, cần phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện để bảo đảm vai trò tư lệnh ngành, không chỉ trong các lĩnh vực mà trung ương độc quyền phụ trách mà để bảo đảm sự quản lý thống nhất, thông suốt của nền hành chính, bảo đảm vai trò quản lý thống nhất của Chính phủ trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội, thì Dự thảo cần làm rõ vai trò của Bộ trưởng với tư cách là “tư lệnh ngành” trong các lĩnh vực được giao phụ trách theo quy định tại khoản 4 Điều 95 Hiến pháp năm 2013 “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách, cùng các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ”.

Nguyễn Quỳnh Liên – Chu Thị Thái Hà

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số kiến nghị nhằm bảo đảm quyền tự chủ của chính quyền địa phương về tài chính, ngân sách

16/06/2015

Đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương; nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương là yêu cầu bức thiết đối với Việt Nam hiện nay. Quyền tự chủ đó trước hết phải được bảo đảm về mặt thể chế; nếu không có sự bảo đảm về mặt thể chế thì khả năng tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương sẽ rất hạn chế và khó bảo đảm thành công. Pháp luật Việt Nam còn có những bất cập và chưa bảo đảm quyền tự chủ của chính quyền địa phương về tài chính, ngân sách, chưa tạo quyền chủ động của các cấp ngân sách, các cấp chính quyền địa phương trong quản lý tài chính ngân sách; chưa gắn trách nhiệm của địa phương, đơn vị sử dụng ngân sách với kết quả và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ, từ đó làm giảm trách nhiệm giải trình, giảm tính minh bạch trong quy trình quản lý ngân sách và giảm hiệu quả giám sát của các cơ quan, ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện ngân sách nhà nước nói chung.

1. Thực trạng quy định pháp luật về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong quản lý tài chính, ngân sách

Sau khi ban hành Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 các địa phương được quyền tự chủ cao hơn và được giao quyền quyết định trong một số nhiệm vụ liên quan đến ngân sách.Luật Ngân sách nhà nước năm 1996 quy định khá rõ nguồn thu và nhiệm vụ chi của chính quyền địa phương cấp xã, cấp huyện. Tuy nhiên, Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 không còn quy định cụ thể về nhiệm vụ chi và quyền thu của chính quyền địa phương cấp cơ sở như cấp xã nữa. Nhiệm vụ chi và quyền thu của chính quyền địa phương cấp cơ sở sẽ do chính quyền địa phương cấp tỉnh quyết định; cấp nào có trách nhiệm gì, quyền hạn gì thì giao cho chính quyền cấp tỉnh tự quyết(10).

Về thẩm quyền quyết định ngân sách địa phương, hiện nay chính quyền địa phương mới chỉ được tăng quyền về tổ chức, thực thi ngân sách, còn thẩm quyền quyết định ngân sách vẫn thuộc về trung ương (ví dụ: quyền quyết định các sắc thuế, mức thuế suất, các nhiệm vụ chi tiêu vẫn thuộc về trung ương). Chính quyền địa phương chỉ được quyền quyết định đối với một số loại phí, lệ phí nhỏ mà trung ương quy định khung hoặc mang tính đặc thù địa phương.

Phân cấp quản lý ngân sách hiện nay gồm có phân cấp nhiệm vụ thu và chi ngân sách nhà nước (NSNN). Các cấp ngân sách của Việt Nam được thiết kế theo mô hình ngân sách lồng ghép (hay còn gọi là mô hình “búp bê Nga”), theo đó, ngân sách cấp trên lồng ghép ngân sách các cấp dưới. Mặc dù vậy, ngân sách nhà nước được chia thành ngân sách trung ương (NSTW) và ngân sách địa phương (NSĐP) (7, tr.91). Hội đồng nhân dân ở cả 3 cấp đều có nhiệm vụ, quyền hạn quyết định dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn, dự toán thu chi ngân sách địa phương và phân bổ dự toán ngân sách cấp mình, phê chuẩn ngân sách địa phương.

Về phân cấp thu ngân sách: Các khoản thu NSNN được chia thành các nhóm: (i) các khoản thu ngân sách trung ương hưởng 100%; (ii) các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % giữa NSTW và NSĐP; (iii) các khoản thu được phân cấp cho NSĐP 100%. Tỷ lệ phân chia NSTW và địa phương được giữ cố định trong giai đoạn từ 03-05 năm với mục tiêu giúp chính quyền địa phương có sự ổn định trong thực hiện nhiệm vụ ngân sách của mình [7, tr.91].

Về phân cấp chi ngân sách nhà nước: Hiện nay phân cấp chi NSNN giữa trung ương và địa phương được thực hiện theo nguyên tắc: (i) NSTW giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ chiến lược, quan trọng của quốc gia và hỗ trợ những địa phương chưa cân đối được thu, chi ngân sách. NSTW chi trả cho các chương trình, dự án quốc gia, liên tỉnh, các dịch vụ công cộng có vai trò quan trọng với quốc gia như giáo dục đại học, các bệnh viện quốc gia, quốc phòng, an ninh quốc gia…(ii) HĐND cấp tỉnh quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách các cấp chính quyền địa phương phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh và trình độ quản lý của mỗi cấp trên địa bàn. NSĐP có trách nhiệm với dịch vụ công theo phân cấp mà vùng hưởng lợi nằm trong biên giới của họ; (iii) Nhiệm vụ chi thuộc ngân sách cấp nào do ngân sách cấp đó bảo đảm; việc ban hành và thực hiện chính sách, chế độ mới làm tăng chi ngân sách phải có giải pháp bảo đảm nguồn tài chính phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách từng cấp [7, tr.92].

2.Hạn chế, bất cập của các quy định pháp luật

Quy định về phân cấp ngân sách trung ương – địa phương hiện nay còn có nhiều vấn đề bất cập, dưới đây tác giả chỉ tập trung vào một số bất cập chính từ quy định của pháp luật, cụ thể là:

Một là, quy định về thẩm quyền ngân sách của 03 cấp Hội đồng nhân dân tương đối giống nhau đã tạo thành hệ thống ngân sách có tính chất ”lồng ghép” – ngân sách cấp dưới là một bộ phận hợp thành của ngân sách cấp trên và dẫn đến việc quyết định dự toán ngân sách và phê chuẩn quyết toán ngân sách của các cấp chính quyền địa phương bị trùng lắp, nhiều cấp chính quyền cùng quyết định một vấn đề, cấp dưới quyết định lại những vấn đề đã được cấp trên quyết định và ngược lại, cấp trên phê chuẩn lại những vấn đề đã được cấp dưới thông qua(5, tr.26); (4). Quy định hiện hành theo hướng “lồng ghép ngân sách” làm cho các địa phương trở nên bị động (cấp tỉnh đợi cấp huyện, cấp huyện chờ cấp xã), thậm chí là trông chờ trong việc thực hiện nhiệm vụ thu chi ngân sách, khai thác nguồn thu, điều tiết nguồn chi… cho phù hợp tình hình địa phương và yêu cầu của trung ương. Cách quản lý và điều hành ngân sách hiện nay ngoài việc buộc ngân sách địa phương phụ thuộc ngân sách trung ương thì còn dẫn đến tình trạng “không phải chịu trách nhiệm đến cùng” bởi trung ương không thể quản lý chặt chẽ, chi tiết ngân sách của địa phương, còn địa phương cũng không phải chịu trách nhiệm hoàn toàn khi có sai lầm trong quản lý ngân sách. Nguyên nhân chính là địa phương chưa có quyền tự chủ tài chính (8). Các cấp chính quyền thường thiếu chủ động trong việc quản lý trên địa bàn của mình do phải chờ đợi các hỗ trợ về tài chính, về nguồn nhân lực từ “cấp trên”, dẫn đến hoạt động của nền hành chính trở nên bị động, không linh hoạt hoặc bỏ qua những nhiệm vụ cần thiết cũng như sử dụng lãng phí nguồn lực.

Hai là, tuy là pháp luật có phân định nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và địa phương tương đối rõ, nhưng giữa các cấp ngân sách ở địa phương thì không được quy định cụ thể; do đó, các nhiệm vụ chi hiện nay giữa các cấp ngân sách địa phương thường có sự trùng lắp giữa các cấp ngân sách, đặc biệt là các khoản chi có tính chất sự nghiệp, dẫn đến việc phân bổ nguồn lực dành cho các nhiệm vụ chi không giống nhau tùy theo quan điểm của từng địa phương. Trên thực tế có nhiều địa phương quy định về nội dung này hết sức chung chung, nên rất khó xác định thực chất thuộc nhiệm vụ của ngân sách cấp nào(1).

Ba là, quy định hiện hành giao nhiều quyền cho cấp tỉnh đồng thời làm hạn chế tính tự chủ của ngân sách cấp dưới. Bên cạnh đó, việc trao quyền chủ động quá lớn cho HĐND tỉnh ở địa phương đã làm ảnh hưởng đến vai trò của ngân sách cấp huyện và xã, đồng thời tạo điều kiện cho chính quyền cấp tỉnh tập trung các nguồn lực lớn trong tay mình và vô hình chung lại tạo ra một cơ chế xin – cho (1). Tính độc lập của các cấp ngân sách bên dưới rất hạn chế dẫn đến sự phức tạp trong quản lý ngân sách và sự thiếu phân định trách nhiệm rõ ràng. Địa phương chưa có quyền tự chủ tài chính nên ngoài việc ngân sách địa phương phụ thuộc ngân sách trung ương thì còn dẫn đến tình trạng “không phải chịu trách nhiệm đến cùng” bởi trung ương không thể quản lý chặt chẽ, chi tiết ngân sách của địa phương, còn địa phương cũng không phải chịu trách nhiệm hoàn toàn khi có sai lầm trong quản lý ngân sách (8).

Bốn là, pháp luật không phân định rõ ràng về nguồn thu và nhiệm vụ chi của mỗi cấp nên các cấp chính quyền thiếu sự chủ động trong lập kế hoạch ngân sách dài hạn và chưa khuyến khích cấp huyện, cấp xã quan tâm nuôi dưỡng và phát triển các nguồn thu của riêng mình và cũng không khuyến khích được các địa phương khai thác lợi thế của mình. Quyền tự chủ trong quyết định các khoản thu ngân sách của địa phương là hết sức hạn chế. Chính quyền địa phương chỉ được quyền quyết định đối với một số loại phí, lệ phí nhỏ mà trung ương quy định khung hoặc mang tính địa phương đặc thù (7, tr.94). Quyền chủ động cho chính quyền cấp tỉnh cao và vai trò của ngân sách huyện và xã ngày càng mờ nhạt, thậm chí hầu hết các cấp huyện và xã đều không thể tự cân đối được giữa nguồn thu được hưởng trên địa bàn với tổng nhiệm vụ chi. Các nguồn thu được hưởng trên địa bàn huyện và xã thường không nhiều, nếu bị điều tiết lớn về cấp tỉnh thì đương nhiên phần thu còn lại sẽ rất hạn chế, trong khi đó quyền phân bổ nhiệm vụ chi lại do chính quyền cấp tỉnh quyết định. Qua thực tế cho thấy ở một số địa phương, HĐND tỉnh đã quy định nhiệm vụ chi cho cấp huyện và cấp xã khá “nặng nề”, không tương xứng với khả năng thu tự cân đối của các cấp ngân sách này, dẫn đến để đảm bảo nhiệm vụ chi sẽ cần phải thường xuyên lệ thuộc vào sự hỗ trợ của ngân sách cấp trên (7, tr.94).

Năm là, quy định về quyền tự chủ trong quyết định các khoản thu ngân sách của địa phương bị hạn chế:Các nguồn thu được phân chia 100% cho NSĐP thường là những sắc thuế có hiệu suất thu thấp và không bền vững. Chính quyền địa phương bị hạn chế về khả năng tăng nguồn thu cho mình ngoài các chính sách thu do trung ương quy định. Địa phương chỉ có quyền quyết định một số loại phí, lệ phí theo phân cấp của Chính phủ và được quy định mức thu một số loại phí, lệ phí trong khung pháp luật hiện hành quy định. Nguồn thu từ các loại phí, lệ phí này trên thực tế là rất nhỏ, chỉ chiếm khoảng 10% tổng thu NSĐP; chính quyền địa phương có rất ít biện pháp tạo nguồn thu ngân sách và có rất ít quyền kiểm soát đối với ngân sách mà họ thu được (9). Quy địnhhiện nay cũng chưa khuyến khích địa phương nuôi dưỡng nguồn thu (3). Các sắc thuế đều do Trung ương quyết định cả về thuế suất, cơ sở tính thuế nên không gian cho việc thực hiện sự tự chủ của địa phương là hết sức hạn chế. Do vậy, các địa phương buộc phải tìm kiếm tăng nguồn thu qua việc tăng thu từ đất đai – một loại nguồn thu được phân cấp hoàn toàn cho địa phương. Tuy nhiên, các khoản thu này thường có tính chất thu một lần như thu từ giao quyền sử dụng đất. Sự phụ thuộc rất lớn vào thu từ giao quyền sử dụng đất là nguồn thu chỉ phát sinh một lần dẫn đến vấn đề là thu NSNN từ đất đai sẽ không thể đáp ứng các yêu cầu dài hạn ở địa phương. Hơn nữa đây là nguồn thu không ổn định phụ thuộc vào sự phát triển của thị trường bất động sản [7, tr.95].

Sáu là, quy định về tương quan giữa nguồn thu được giữ lại và nhiệm vụ chi của các cấp chính quyền địa phương còn chưa tương xứng. Nhiệm vụ chi của chính quyền cấp xã tăng lên đáng kể nhưng nhiều xã nguồn thu ngân sách theo phân cấp không đủ nên buộc phải huy động các khoản đóng góp của người dân gây bức xúc cho xã hội, ngược lại nhiều xã, phường ở các thành phố lớn lại có thừa nguồn thu do quy định hưởng tối thiểu 70 % của 05 khoản thu (chủ yếu là thu từ nhà, đất) [2].

Bảy là, quy định về số bổ sung cân đối từ NSTW cho NSĐP được ổn định theo số tuyệt đối trong thời kỳ ổn định NSĐP dẫn đến cân đối NSĐP rất khó khăn, nhất là các địa phương quy mô kinh tế nhỏ, số tăng thu hàng năm không lớn, nhiệm vụ chi ngân sách tăng rất nhanh do yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội theo các chính sách do Trung ương ban hành (chi cải cách tiền lương, xoá đói giảm nghèo, an sinh xã hội,…), trong khi đó chi NSĐP lại chủ yếu nhận bổ sung cân đối từ NSTW, nên gặp khó khăn trong việc đảm bảo nguồn để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, nhất là trong điều kiện giá cả tăng. Ngoài ra, quy định về số bổ sung có mục tiêu từ NSTW cho NSĐP chưa đầy đủ và chưa quy định cụ thể về các tiêu chí cho từng mục tiêu được NSTW hỗ trợ, tạo cơ chế “xin cho”. Thực tế hiện nay các khoản bổ sung có mục tiêu (vốn đầu tư) hàng năm lớn hơn số chi đầu tư trong cân đối NSĐP, có những dự án NSTW bổ sung cho NSĐP với mức thấp dẫn tới mất chủ động cho NSĐP [2].

3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong quản lý ngân sách

Tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương về ngân sách là yếu tố quan trọng tạo ra nguồn lực tài chính để mỗi cấp chính quyền địa phương chủ động thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình, là động lực khuyến khích mỗi cấp chính quyền và dân cư ở địa phương tích cực khai thác các tiềm năng của mình để phát triển kinh tế địa phương. Báo cáo của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) về cải cách quản trị hành chính công nêu rõ: “Chừng nào chúng ta không đảm bảo rằng các khoản chi cho những mục đích của chính quyền địa phương phù hợp với nhu cầu và mong muốn của nhân dân địa phương, trao chohọ quyền hạn thoả đáng và phân bổ cho họ nguồn tài chính thích hợp thì chúng ta sẽ không bao giờ có thể khơi dậy sự quan tâm và phát huy được sáng kiến của người dân địa phương”.

Nhiều người lo ngại là tăng cường phân cấp hay trao quyền tự chủ về ngân sách trong khi năng lực quản lý của chính quyền địa phương còn yếu sẽ dẫn đến những hậu quả tai hại. Song cũng không thể chờ cho chính quyền địa phương có đủ năng lực quản lý ngân sách thì mới phân cấp, bởi vì chính quyền địa phương sẽ khó có đủ năng lực khi mà họ không được thử nghiệm để phát triển năng lực đó [7, tr.68]. Do vậy việc hoàn thiện pháp luật nhằm phân định thẩm quyền về quản lý ngân sáchvà nhất là khắc phục thực tế phân cấp ngân sách hiện nay là điều cốt lõi của tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương, của tự quản địa phương. Vậy trong bối cảnh hiện nay, pháp luật phải hoàn thiện như thế nào?

Các nhà nghiên cứu hầu như thống nhất quan điểm cần bảo đảm các nguồn lực (tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức, ngân sách…) cho chính quyền địa phương các cấp (6); nhằm phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo và trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ và quyền; trong đó, vấn đề ngân sách được xem là mấu chốt [7]. Nhiều ý kiến khẳng định cần bảo đảm cho chính quyền địa phương các cấp cơ bản thật sự trở thành một cấp ngân sách; trao cho chính quyền địa phương các cấp quyền tự chủ cao hơn trong quyết định và quản lý các nguồn thu ở địa phương: Bảo đảm nguồn ngân sách để các cấp thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn được phân cấp”.

Trong điều kiện ngân sách các cấp vẫn còn lồng ghép như hiện nay và Hiến pháp năm 2013 vẫn trao cho Quốc hội “quyết định dự toán ngân sách nhà nước…” và “phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước…” (khoản 4 Điều 70) thì chưa thể có những cải cách cơ bản trong vấn đề ngân sách.Để giải quyết vấn đề lâu dài, có tính bền vững, cầnthiết kế lại hệ thống NSNN theo hướng tách bạch rõ ràng các cấp ngân sách, các cấp ngân sách không lồng ghép với nhau, tạo quyền chủ động hơn cho địa phương trong phân bổ và quyết định ngân sách, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp ngân sách được quy định rõ ràng,tăng trách nhiệm và tính tự chủ của các cấp chính quyền. Quan điểm này cũng nhận được nhiều ý kiến ủng hộ của các nhà khoa học [7, tr.148].

Có ý kiến cho rằng để tăng cường quyền hạn cho Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong việc quyết định về việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách ở địa phương phù hợp với thực tế của địa phương, đề nghị không quy định cứng tỷ lệ phân chia các khoản thu này; việc quyết định tỷ lệ để lại cụ thể cho ngân sách xã, thị trấn; thị xã, thành phố thuộc tỉnh do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định theo tình hình thực tế tại địa phương. Chúng tôi cho rằng, vẫn đảm bảo trong khuôn khổ của khoản 4 Điều 70 Hiến pháp năm 2013, có thể phân định ngay thẩm quyền ngân sách của từng cấp chính quyền địa phương, bằng quy định của luật, không trao hết thẩm quyền cho Hội đồng nhân dân cấp tỉnh như đề xuất nêu trên (2) mà trao cho Hội đồng nhân dân các cấp quyết định tỷ lệ phân chia các khoản thu của địa phương mình; đồng thời Hội đồng nhân dân các cấp được quyết định các chế độ chi ngân sách.

Về tự chủ trong nguồn thu của địa phương, để bảo đảm chính quyền địa phương có quyền tự chủ trong việc thu và chi ngân sách, độc lập với chính quyền trung ương, cần cho phép chính quyền địa phương thu thuế địa phương để ngân sách địa phương có thể độc lập với ngân sách trung ương, có thể tính tới việc trao cho địa phương quyền tự chủ cao hơn trong quyết định và quản lý nguồn thu, bao gồm quyền thay đổi thuế suất một số sắc thuế [7, tr.149]. Cũng có ý kiến cho rằng cần tăng cường phân cấp cho các địa phương trong việc quyết định các khoản thu phí, lệ phí gắn với chức năng quản lý nhà nước của chính quyền địa phương. Chúng tôi cho rằng đề xuất này cũng là phù hợp vì đó là cách áp dụng ở nhiều nước có chế độ tự quản địa phương hiện nay.

Trước mắt, chúng tôi cho rằng cần tăng tỷ lệ để lại cho địa phương một số sắc thuế được huy động từ hoạt động sản xuất kinh doanhnhằm khuyến khích tăng cường công tác quản lý cũng như khai thác ngày càng cao hơn về nguồn thu đảm bảo tính ổn định v bền vững về nguồn thu cho địa phương. Một số sắc thuế cần được phân chia lại giữa trung ương và địa phương (và phải phân chia cho từng cấp chính quyền địa phương) cho hợp lý để tăng nguồn thu cho địa phương, ví dụ như thuế thu nhập doanh nghiệp của những doanh nghiệp nếu hoạt động ở nhiều địa phương thì cần được phân chia giữa trung ương và địa phương, chứ không nên dành cho trung ương 100% như hiện nay, như vậy mới tăng cường được nguồn thu cho ngân sách địa phương. Về lâu dài, nên trao quyền tự chủ, quyền tự quyết, quyền kiểm soát quản lý các nguồn thu của chính quyền địa phương như chính quyền địa phương có quyền hạn định ra tỷ lệ thuế; trao cho chính quyền địa phương cấp thấp về thuế tương đối độc lập; khuyến khích các địa phương khai thác lợi thế của mình và chủ động nuôi dưỡng, phát triển các nguồn thu tiềm năng ở địa phương; các loại thuế công dân và pháp nhân đóng cho Nhà nước nên chia làm hai loại là thuế trung ương và thuế địa phương; thuế địa phương nên trao quyền cho nhân dân địa phương quyết định thông qua cơ quan đại diện của họ là Hội đồng nhân dân. Thuế địa phương phải là nguồn chủ yếu tạo ra ngân sách địa phương.

Cũng có quan điểm ở mức tự chủ cao hơn là địa phương có thể tự định ra sắc thuế của riêng mình[7, tr.149], tuy nhiên cần phải rất thận trọng. Việt Nam là nước theo mô hình Nhà nước đơn nhất, nên áp dụng kinh nghiệm của các Nhà nước đơn nhất trên thế giới (ví dụ như Thụy Điển). Theo đó, chính quyền địa phương có quyền thu các sắc thuế riêng (như thuế thu nhập cá nhân, thuế đất, thuế tài sản …) nhưng cơ sở thu thuế phải do Quốc hội quyết định và thậm chí, để quản lý chặt chẽ hơn đối với chính quyền địa phương, Chính phủ cần thực hiện nhiệm vụ thu thuế một cách thống nhất trong toàn quốc và sau đó điều tiết lại cho các địa phương để chi tiêu.

Về tự chủ trong nhiệm vụ chi của địa phương, cần mở rộng quyền tự chủ của địa phương trong quyết định chi tiêu; cho phép chính quyền địa phương tự chủ ở một mức độ thích hợp trong việc ra các quyết định chi tiêu theo ưu tiên của địa phương(7, tr.150). Theo đó, chúng tôi cho rằng, địa phương cần được chủ động quy định các nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách của địa phương phù hợp với điều kiện thực tế và khả năng ngân sách của các cấp ngân sách thuộc địa phương.

Chúng tôi cho rằng, để bảo đảm cao hơn về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương thì về lâu dài, cần có những giải pháp như: trung ương cần phân bổ số bổ sung có mục tiêu cho các địa phương trên cơ sởđịnh rõtiêu chí, nguyên tắc về bổ sung có mục tiêu gắn với các định hướng và chiến lược phát triển ưu tiên của từng vùng, miền và kế hoạch trung và dài hạn của địa phương. Đồng thời, trong điều hành chi ngân sách, hình thành cơ chế để chính quyền địa phương có thêm tự chủ trong các quyết định phân bổ nguồn lực, sử dụng nguồn lực theo các ưu tiên của địa phương và có được sự chủ động về cách thức thực hiện trên cơ sở nguồn thu ngân sách để lại của địa phương và cân đối bổ sung của ngân sách trung ương. Trung ương chỉ tác động, can thiệp khi cần thực hiện các mục tiêu có tính quốc gia.

Nguyễn Thị Hạnh

Vụ Pháp luật Hình sự – Hành chính

Tài liệu tham khảo:

1. Nguyễn Hoàng Anh (2012), “Nghiên cứu chế định chính quyền địa phương và kiến nghị sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992”,Kỷ yếu Hội thảo do Bộ Tư pháp và UNDP tổ chức, Hải Phòng.

2. Bộ Tài chính (2014), Báo cáo tổng kết thi hành Luật ngân sách nhà nước.

3. Vũ Sỹ Cường (2012), “Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước ở Việt Nam và định hướng đổi mới”, Tạp chí quản lý nhà nước (6).

4. Chính phủ (2013), Báo cáo số 352/BC-CP ngày 18/9/2013 của Chính phủ đề xuất về Chương “Chính quyền địa phương” trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

5. Đàm Bích Hiên (2005), “Bàn về phân cấp quản lý giữa các cấp chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (9).

6. Hoàng Thị Ngân (2009), “Đẩy mạnh công tác phân cấp trung ương và địa phương”,Tạp chí nghiên cứu lập pháp (2+3).

7. Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) (2014), Đề tài NCKH cấp bộ “ Phân công quyền lực giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương tại Việt Nam – Lịch sử, lý luận và thực tiễn, Hà Nội.

8. Huy Anh, “Sửa đổi luật ngân sách nhà nước: Xóa tâm lý ỷ lại ngân sách nhà nước”, Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp,truy cập ngày 1/11/2014 tại địa chỉ: http://moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/thong-tin-khac.aspx?ItemID=5557.

9. Phong Lan, “Cầu thị xem xét “xé rào” đầu tư”, Việt báo, truy cập ngày 14/11/2014 tại địa chỉ http://vietbao.vn/Kinh-te/Cau-thi-xem-xet-xe-rao-dau-tu/10912242/87.

10.http://www.mof.gov.vn/portal/page/portal/mof_vn/1973955/1973240?m_action=4&p_id=10208

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước

16/06/2015

Trong bối cảnh hiện nay, minh bạch gắn với trách nhiệm giải trình không chỉ là một yêu cầu cấp thiết để thực hành dân chủ, bảo đảm quyền của dân trong tham gia quản lý đất nước và xã hội, quan trọng hơn nữa, chính là một giải pháp hữu hiệu nhằm phòng, chống tham nhũng. Minh bạch và trách nhiệm giải trình cũng là công cụ xây dựng tổ chức vững mạnh, phát triển bền vững, đang là xu thế và đòi hỏi cấp bách đối với các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức xã hội. Tăng cường trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước cũng là một trong những mục tiêu quan trọng mà Luật Tiếp cận thông tin hướng tới.

1. Yêu cầu về tăng cường trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước

Trách nhiệm giải trình là cốt lõi của quan hệ công việc giữa các cá nhân với nhau, cũng như giữa một tổ chức với cơ quan quản lý và công chúng, và đặc biệt quan trọng trong những lĩnh vực có quan hệ tới lợi ích của số đông công chúng, chẳng hạn chính sách công hay những hoạt động sử dụng ngân sách công. Thuật ngữ trách nhiệm giải trình là sự thừa nhận về trách nhiệm đối với mọi hành động, mọi sản phẩm, mọi quyết định hay chính sách trong việc lãnh đạo, quản lý, và thực hiện công việc; gắn với nghĩa vụ báo cáo, giải thích, biện minh cho mọi hậu quả của những việc đã hoặc sẽ làm. Khả nănggiải trình trách nhiệm được hiểu như năng lực thực hiện nghĩa vụ thông tin đầy đủ, năng lực biện minh cho hành động của mình trong quá khứ hoặc tương lai, và chịu đựng sự trừng phạtnếu như hành động ấy vi phạm các quy tắc đạo đức và pháp lý [[1]].

Cũng có quan điểm cho rằng trách nhiệm giải trình” là phương tiện để hướng tới sự minh bạch; nếu như công khai vừa là nhiệm vụ, vừa là hoạt động cụ thể, trong đó các cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thông tin để người dân biết được các nội dung phải công khai thì minh bạch được xem như quá trình hoạt động công khai bao hàm trạng thái mà người dân biết rõ, hiểu đúng bản chất nội dung đã được công khai. Tính giải trình còn được đề cập đến với tư cách là một yêu cầu quan trọng đối với việc thực hiện minh bạch. Theo đó, yêu cầu về giải trình “nhằm bảo đảm việc cung cấp đủ bằng chứng, căn cứ mang tính khách quan để giải thích hay làm rõ về các nội dung hoặc vấn đề cần minh bạch” [[2]] Nếu hiểu theo khái niệm nêu trên, sẽ có rất nhiều chủ thể phải chịu trách nhiệm giải trình. Đại đa số các quốc gia yêu cầu các cơ quan hành chính phải cung cấp thông tin cho bất kỳ cá nhân công dân nào khi có yêu cầu. Như vậy, có thể hiểu mối quan hệ giải trình trong phạm vi Luật này là giữa Nhà nước – các cơ quan nhà nước với công dân; chủ thể chịu trách nhiệm giải trình ở đây là cơ quan nhà nước và không chỉ giới hạn ở cơ quan hành chính mà cả các cơ quan nhà nước khác. Như vậy, trách nhiệm công khai, minh bạch trong hoạt động được áp dụng đối với ba loại cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp.Tuy nhiên, bài viết này tập trung đề cập đến trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước.

Việc bảo đảm trách nhiệm giải trình gắn liền với các khái niệm, cơ chế, quy định pháp luật về công khai, minh bạch, dân chủ trong hoạt động của cơ quan công quyền. Trong thời gian vừa qua, việc đảm bảo tính minh bạch của cơ quan hành chính được đề cập như là một trong những yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, đảm bảo tính dân chủ trong hoạt động của Nhà nước và là yêu cầu của việc thực hiện các cam kết quốc tế.

Việc cần phải công khai, minh bạch hóa hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương xuống địa phương xuất phát từ các lý do sau: Đảm bảo tính dân chủ trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, người dân có quyền được biết về các chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước; các chính sách và pháp luật do các cơ quan nhà nước ban hành cần phải xuất phát từ thực tiễn, phản ánh thực tiễn nên cần có sự tham gia của người dân, người dân cần được tham gia sớm; việc công khai, minh bạch hoạt động là công cụ hữu hiệu để ngăn ngừa và phòng chống hiệu quả những tệ nạn của bộ máy quản lý nhà nước như hối lộ, tham nhũng…

2. Thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động của các cơ quan hành chính

Theo Luật Công nghệ thông tin năm 2006, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin có quyền tìm kiếm, trao đổi, sử dụng thông tin trên môi trường mạng (trừ một số thông tin có nội dung được Luật quy định). Cũng theo quy định của Luật này, Trang tin điện tử của cơ quan nhà nước phải bảo đảm cho tổ chức, cá nhân truy cập thuận tiện và phải có các thông tin chủ yếu như tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đó và của từng đơn vị trực thuộc, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành và văn bản pháp luật có liên quan; quy trình, thủ tục hành chính được thực hiện bởi các đơn vị trực thuộc, tên của người chịu trách nhiệm trong từng khâu thực hiện quy trình, thủ tục hành chính, thời hạn giải quyết các thủ tục hành chính; thông tin tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thực hiện pháp luật, chế độ, chính sách, chiến lược, quy hoạch chuyên ngành; thông tin về dự án, hạng mục đầu tư, đấu thầu, mua sắm công; mục lấy ý kiến góp ý của tổ chức, cá nhân. Có thể nhận định rằng, đây là một quy định quan trọng và thúc đẩy quá trình “Chính phủ mở”, cũng như nhằm hướng tới xây dựng Chính phủ điện tử trong tương lai và góp phần làm tăng trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước.

Ngày 23/11/2012, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, Kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng chống tham nhũng. Luật này đã bổ sung Điều 32a quy định: “Khi có yêu cầu, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải giải trình về quyết định, hành vi của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao trước cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền, lợi ích hợp pháp bị tác động trực tiếp bởi quyết định, hành vi đó” và bổ sung Điều 46b quy định về nghĩa vụ giải trình nguồn gốc tài sản tăng thêm. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng chống tham nhũng cũng giao cho Chính phủ quy định chi tiết về trách nhiệm của cơ quan có nghĩa vụ giải trình; trình tự, thủ tục của việc giải trình; quy định mức giá trị tài sản tăng thêm và việc xác định giá trị tài sản tăng thêm, thẩm quyền yêu cầu giải trình, trách nhiệm của người giải trình, trình tự, thủ tục của việc giải trình.

Luật Phòng chống tham nhũng của Việt Nam quy định 07 hình thức công khai hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, nhưng có thể phân thành hai nhóm. Nhóm các hình thức chủ động công khai bao gồm 06 hình thức: Công bố tại cuộc họp của cơ quan, tổ chức, đơn vị; niêm yết tại trụ sở làm việc; thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan; phát hành ấn phẩm; thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; đưa lên trang thông tin điện tử. Hình thức cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định tại điểm g, khoản 1, Điều 12 chính là hình thức công khai bị động.

Mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2013/NĐ-CP ngày 8/8/2013 quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Theo đó, Nghị định này áp dụng cho các cơ quan hành chính nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc cơ quan hành chính nhà nước và người có thẩm quyền trong việc thực hiện trách nhiệm giải trình; Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế; các tổ chức nước ngoài được thành lập và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam; công dân Việt Nam, người nước ngoài sinh sống hoặc làm việc tại Việt Nam có yêu cầu giải trình.

i) Về việc thực hiện trách nhiệm bảo đảm minh bạch chính sách, pháp luật và các thủ tục hành chính và quy trình hoạch định chính sách, ban hành quyết định của các cơ quan hành chính

Đối với Chính phủ, việc công khai các chủ trương, chính sách về quản lý đất nước, quản lý xã hội là một trong những nhiệm vụ được quy định trong Luật Tổ chức Chính phủ, Quy chế làm việc của Chính phủ và các quy định về lề lối, phương thức làm việc của từng bộ, ngành của Chính phủ. Bên cạnh đó, đề án xây dựng Chính phủ điện tử đang được dần dần hoàn thiện; các quy trình, thủ tục hành chính được từng bước tin học hóa nhằm nâng cao năng lực của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc cung cấp các dịch vụ công cho nhân dân và doanh nghiệp được thuận tiện, nhanh gọn; việc cung cấp thông tin về địa phương, thực hiện đăng ký kinh doanh, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy phép đầu tư, giấy phép xây dựng, tiếp nhận và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo đã được công khai ở nhiều địa phương. Ngoài ra, Công báo nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Chính phủ quản lý ngày càng được nâng cao về chất lượng và số lượng, trở thành công cụ hữu hiệu thể hiện tính công khai, minh bạch các chính sách, pháp luật và các quyết định quản lý của bộ máy nhà nước.

Các cơ quan hành chính nhà nước cũng đã có nhiều nỗ lực trong việc minh bạch hóa các cơ hội đầu tư, minh bạch và đơn giản hóa thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư, minh bạch hóa hoạt động quản lý của Nhà nước về đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, còn có nhiều bất cập trong hoạt động công khai thông tin này. Công khai mà không minh bạch là nhận định của nhiều doanh nghiệp, chuyên gia về cách thức lấy ý kiến văn bản pháp luật của nhiều cơ quan nhà nước hiện nay. Nhiều ý kiến đóng góp, phản hồi về văn bản, chính sách từ doanh nghiệp, hiệp hội đối với cơ quan nhà nước không được phản hồi, giải trình, lập luận lại từ phía cơ quan lấy ý kiến. Cách thức lấy ý kiến tạo cảm giác là cho đủ thủ tục mà không đạt mục tiêu như mong muốn là văn bản pháp luật cần phản ánh, cân nhắc đầy đủ các quan điểm khác nhau trong xã hội.

Về thực tiễn lấy ý kiến của người dân trong quá trình hoạch định chính sách cũng như quá trình ban hành các quyết định của cơ quan công quyền, qua kết quả khảo sát của Trung tâm Xanh, một tổ chức NGO về các quy định pháp luật về tham vấn cộng đồng trong lĩnh vực xây dựng, quản lý đô thị cho thấy có một số bất cập trong quá trình thực hiện quyền góp ý của người dân vào việc xây dựng, cải tạo các công trình xây dựng ở địa phương cụ thể:Người dân có quan sát những gì xảy ra nhưng chỉ nói khi được hỏi; người dân chưa chủ động góp ý; người dân không có nơi nào để bày tỏ ý kiến, tại các cuộc họp tổ dân phố, người dân lại chỉ bàn đến quyền lợi sát sườn; các dự án tại cộng đồng thường được khoán trắng cho chính quyền sở tại mà người dân hầu như không được tham gia; chỉ các quy hoạch lớn mới lấy ý kiến của dân; một số người dân có góp ý mà không biết có được tiếp thu hay không.

ii) Về việc thực hiện công khai các thông tin, tài liệu, hồ sơ do các cơ quan hành chính nắm giữ

Bảo đảm thực hiện quyền thông tin của công dân là điều kiện cần thiết cho hoạt động quản lý dân chủ, bảo đảm cho sự phát triển bền vững của một quốc gia. Trong một quốc gia, việc không công khai thông tin đồng nghĩa với thiếu trách nhiệm giải trình của các cơ quan công quyền trong quá trình thực thi quyền lực công và có thể quyền lực đó sẽ mâu thuẫn hoặc đi ngược lại lợi ích của công chúng, của cộng đồng xã hội. Bảo đảm quyền thông tin sẽ góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, làm tăng tính hiệu quả, minh bạch và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước. Bảo đảm quyền thông tin cũng đồng thời bảo đảm sự công bằng, dân chủ và tăng lòng tin của người dân đối với Nhà nước. Việc phản hồi từ phía người dân sẽ giúp các cơ quan nhà nước cân nhắc, lựa chọn và đưa ra những quyết định đúng đắn, phù hợp với lòng dân, tăng hiệu quả của chính sách.

Về vấn đề tiếp cận thông tin của người dân trong các quy định pháp luật đã liệt kê ở trên cũng còn nhiều bất cập: Các cơ quan công quyền không công khai thông tin, dẫn đến tình trạng lợi dụng đặc quyền, đặc lợi của những người có điều kiện, vị trí công tác dễ dàng tiếp cận thông tin để trục lợi, gây nên sự bất bình đẳng trong xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh, đầu tư. Việc thiếu minh bạch, công khai trong hoạt động quản lý nhà nước và thiếu cơ chế tiếp cận thông tin đã làm hạn chế sự tham gia của tổ chức, công dân vào hoạt động quản lý nhà nước với tính chất là người giám sát, phản biện nhằm hoàn thiện các chính sách, quy định pháp luật của Nhà nước. Vẫn còn tình trạng không thể khai thác nhanh chóng những thông tin về quy hoạch, chính sách thuế,… điều này gây thiệt hại đáng kể trong hoạt động đầu tư của doanh nghiệp.

Việt Nam đã đi một bước xa trong việc cung cấp các thông tin pháp luật bằng việc sửa đổi, bổ sung Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật cũng như các văn bản quy định chi tiết. Tuy nhiên, còn nhiều loại thông tin trong quá trình quản lý nhà nước chưa được công khai rộng rãi. Việc cung cấp thông tin còn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cán bộ, công chức. Việc chia sẻ thông tin cũng rất hạn chế trong hệ thống các cơ quan nhà nước. Các cán bộ, công chức thường có tâm lý tránh rủi ro và kiểm soát thông tin, thiếu ý thức và thiện chí trong việc thực hiện trách nhiệm cung cấp thông tin.

Bên cạnh đó, việc pháp luật quy định không rõ ràng ranh giới giữa “thông tin mật” và thông tin có thể công khai không những gây cản trở đáng kể đến quyền thông tin và sự tham gia của công chúng mà còn gây khó khăn, lúng túng cho các cán bộ chính quyền trong việc phân loại, sắp xếp để bảo vệ thông tin mật và cung cấp thông tin không thuộc loại mật. Thực tế ở các địa phương cho thấy, công khai tất cả các thông tin về chính sách thu hút đầu tư, quy hoạch, định hướng, kế hoạch phát triển kinh tế, các thống kê về tình hình kinh tế – xã hội của địa phương, các thủ tục hành chính cụ thể… là yêu cầu quan trọng để mọi doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể tiếp cận. Những thông tin này cần được niêm yết công khai, thuận tiện cho người cần sử dụng như đưa lên Internet qua trang web của tỉnh, cung cấp các thông tin có liên quan bằng CD room, đĩa mềm, phát hành các bản tin định kỳ miễn phí, thành lập các bộ phận hỗ trợ cung cấp thông tin tại các cơ quan xúc tiến đầu tư và liên quan đến hoạt động đầu tư… Thực trạng áp dụng pháp luật cho thấy vấn đề tiếp cận thông tin hiện nay vẫn hoàn toàn thuộc về quyền chủ động của các cơ quan nhà nước mà người dân có rất ít quyền trong vấn đề này.

Ngoài ra, để có thể thực hiện quyền tiếp cận thông tin, phải có một hệ thống lưu giữ tài liệu cho phép thu thập, lập danh mục, lưu trữ và cung cấp thông tin một cách dễ dàng. Một trong những khó khăn hiện nay là phần lớn tình trạng dữ liệu thông tin phân cắt, một số chưa được chuẩn hóa, chưa được số hóa, sự kết nối giữa các ngành, địa phương chưa cao… Do vậy, cần tập hợp thống nhất toàn bộ dữ liệu, dữ liệu phải được số hóa và chuẩn hóa theo tiêu chuẩn quốc gia để dễ quản lý, khai thác sử dụng[3].

iii)Về vấn đề minh bạch ngân sách, tài chính và mua sắm công

Các cơ quan thuộc Chính phủ cũng đã có nhiều nỗ lực để nâng cao tính minh bạch ngân sách đã được thực hiện, bởi quản lý ngân sách nhằm hướng tới mục tiêu sử dụng hiệu quả nguồn lực tài khóa vốn rất hạn hẹp của đất nước. Những hình thức được thực hiện chủ yếu là công khai các chính sách liên quan đến định mức phân bổ, định mức chi tiêu, giao nhiệm vụ thu chi ngân sách và công khai, phổ biến các số liệu, tài liệu liên quan đến việc lập ngân sách hàng năm và quyết toán hàng năm của các cấp ngân sách và đơn vị thụ hưởng ngân sách. Để đảm bảo tính hợp pháp của việc công khai rộng rãi tài chính ngân sách Nhà nước (NSNN), Luật NSNN và nhiều văn bản pháp luật đã quy định rõ, góp phần vào nâng cao khả năng tiếp cận của cộng đồng và người dân đối với việc phân bổ và sử dụng nguồn lực ngân sách.

Để nâng cao hiệu quả công khai, minh bạch ngân sách, tăng cường sự tham gia của người dân, cần phải cải thiện tính minh bạch, công khai trong quy trình ngân sách, mở rộng hình thức và nội dung công khai “Minh bạch thể hiện quyền của người dân và cũng là điều kiện cần có để bộ máy nhà nước tiếp thu trí tuệ của người dân trong thực hiện nhiệm vụ. Sai phạm trong việc sử dụng ngân sách có thể bắt nguồn và được che đậy bởi tình trạng thiếu công khai và minh bạch”. Cần nghiên cứu sửa đổi Luật NSNN, hình thành các khuôn khổ pháp lý có tính ràng buộc để cho các cơ quan, đơn vị có cơ sở để cung cấp các thông tin cần thiết cho cộng đồng cho người dân về các kết quả sử dụng nguồn lực được giao, hình thành các cơ chế phù hợp tạo điều kiện và cơ hội để người dân tham gia vào quy trình ngân sách [[4]]

iv) Về vấn đề minh bạch tài sản, thu nhập của các cán bộ, công chức hành chính: Luật PCTN năm 2005 và các Luật sửa đổi, bổ sung vào năm 2007 và 2012 đã góp phần tạo dựng khuôn khổ pháp lý cho công tác minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức với việc xác định rõ các đối tượng và nội dung kê khai tài sản, thu nhập. Tuy nhiên, việc minh bạch tài sản, thu nhập hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, hình thức, số lượng cán bộ, công chức phải kê khai tài sản quá nhiều dẫn đến việc thiếu hiệu quả trong công tác giám sát, xác minh và xử lý những vi phạm. Bên cạnh đó, nội dung kê khai chưa cung cấp đầy đủ những thông tin cần thiết để phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng, chưa được công khai rộng rãi để phát huy hiệu quả trong việc nâng cao nhận thức của người dân về tính minh bạch của chính quyền.

v) Về việc tham gia của các tổ chức xã hội vào việc thúc đẩy minh bạch và trách nhiệm giải trình

Hiện nay, các tổ chức xã hội cũng đang trong quá trình nỗ lực thúc đẩy học tập, chia sẻ sáng kiến giữa các tổ chức xã hội và các bên liên quan trong việc thúc đẩy minh bạch và trách nhiệm giải trình; giới thiệu mạng lưới Sáng kiến CSOs về minh bạch và trách nhiệm giải trình; giới thiệu sáng kiến của CSOs trong việc xây dựng bộ nguyên tắc về minh bạch và trách nhiệm giải trình, hệ thống giám sát, chứng nhận CSOs thực hành tốt quản trị minh bạch và giải trình và Giải thưởng về thực hành tốt minh bạch và giải trình. Việc nâng cao năng lực cho các CSOs là vấn đề cấp bách, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong đó đặc biệt chú ý tới minh bạch và trách nhiệm giải trình – công cụ xây dựng tổ chức vững mạnh, phát triển bền vững.

3. Một số kiến nghị

Dưới đây là một số kiến nghị nhằm góp phần tăng cường trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước:

Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật theo hướng: Ban hành Luật Tiếp cận thông tin, Luật ban hành quyết định hành chính và quy định trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính trong quá trình ra quyết định hành chính; sửa đổi các đạo luật chuyên ngành để bảo đảm tính minh bạch trong hoạt động của các cơ quan hành chính; sửa đổi Luật Ngân sách nhà nước để phân định rõ thẩm quyền ngân sách trung ương và ngân sách địa phương…

Thứ hai, để tiếp tục nâng cao tính minh bạch của hệ thống pháp luật và tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, cần có những giải pháp thực thi có hiệu quả những quy định của pháp luật trên thực tế. Cần thực hiện tốt việc phản hồi ý kiến đóng góp của nhân dân đối với các dự án văn bản được công bố lấy ý kiến; tổ chức địa điểm để liên hệ, tiếp nhận thông tin, xử lý các ý kiến đóng góp.

Thứ ba, cần tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện xây dựng Chính phủ điện tử, công cụ thông tin qua mạng internet và xác lập mối quan hệ tương tác giữa người dân, doanh nghiệp với Chính phủ thông qua các phương tiện công nghệ hiện đại. Chính phủ phải gần và thuận lợi với công dân hơn, bằng các kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, hiện đại.

Thứ tư, các cơ quan chính quyền từ trung ương và địa phương cần luôn luôn đổi mới, tăng cường năng lực, làm việc có hiệu lực, hiệu quả và minh bạch hơn; cung cấp thông tin, dịch vụ tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp và các tổ chức, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân thực hiện quyền dân chủ và tham gia quản lý nhà nước.

Thứ năm, tăng cường sự tham gia của các tổ chức xã hội vào việc thúc đẩy minh bạch và trách nhiệm giải trình; huy động sự tham gia của các tổ chức xã hội, cộng đồng và báo chí vào việc thúc đẩy các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện công khai, minh bạch và tăng cường trách nhiệm giải trình.

Dương Thị Bình, Đỗ Thị Huệ

Vụ Pháp luật Hình sự – Hành chính



[1] http://lypham.net/joomla/index.php?option=com_content&task=view&id=251&Itemid=2

[2]TS. Nguyễn Tuấn Khanh(Phó Viện trưởng Viện Khoa học Thanh tra), http://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/201309/hoan-thien-co-so-phap-ly-ve-trach-nhiem-giai-trinh-292197/

[3] Sở Tài nguyên môi trường tỉnh Thái Bình, Báo cáo tình hình tiếp cận thông tin, 2009

[4]http://www.tapchitaichinh.vn/Nghien-cuu-dieu-tra/Phai-cong-khai-minh-bach-tien-cua-dan/30645.tctc

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Pháp luật Triều Nguyễn và một số giá trị cơ bản của nó

17/08/2015

Để ổn định chính trị – xã hội, phát triển kinh tế. Bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, cũng đều chú trọng đến vấn đề xây dựng hệ thống pháp luật. Pháp luật gắn liền với sự ra đời của nhà nước và trở thành công cụ quản lý hữu hiệu của Nhà nước. Sự ra đời của pháp luật nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, hướng tới các giá trị chân chính, là tiền đề giúp cho các yếu tố nằm trong hệ thống xã hội phát triển nhanh và bền vững. Đồng thời, pháp luật là phương tiện đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của xã hội, là cơ sở để con người hoàn thiện ý thức, hành vi đạo đức của mình, nhằm xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, hùng mạnh.

Việt Nam với bề dầy lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Hầu hết, suốt chiều dài lịch sử của các triều đại phong kiến ở nước ta, đều gắn liền với các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước và các cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến. Nên yếu tố pháp luật, sớm được các triều đình phong kiến chú trọng xây dựng và phát triển. Thực tế là, trong lịch sử phong kiến nước ta, đã có rất nhiều các bộ luật ra đời và ít nhiều ghi được những dấu ấn, trong lịch sử trị nước bằng pháp luật của các triều đại. Với đặc trưng của luật là, các bộ luật sau là sự kế thừa và phát triển của các bộ luật trước. Nói đến luật pháp trong thời kỳ phong kiến ở nước ta, phải kể đến Bộ Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia Long) thời nhà Nguyễn, là bộ luật cuối cùng của chế độ quân chủ ở nước ta, nó có sức ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của xã hội đương thời và có giá trị rất lớn đối với sự phát triển của luật pháp đương đại.

1. Tư tưởng pháp luật của nhà Nguyễn

Triều Nguyễn tồn tại trong giai đoạn từ (1802 – 1945). Bắt đầu từ khi Nguyễn Ánh đánh đổ nhà Tây Sơn, lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Gia Long (1802), đến khi vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn là Bảo Đại thoái vị (1945), là triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, với hơn một thế kỷ tồn tại (143 năm), trải qua 13 đời vua. Nhà Nguyễn sử dụng Nho giáo với tư cách là độc tôn duy nhất trong quản lý và xây dựng đất nước. Điều này đồng nghĩa với việc, triều Nguyễn cai trị đất nước chủ yếu dựa vào Đức trị và Nhân trị (quan điểm trị nước của Nho giáo). Tuy nhiên, để bảo vệ vương quyền và xây dựng một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền chuyên chế cao độ, buộc nhà Nguyễn phải sử dụng đến yếu tố pháp trị. Đó là sự kết hợp giữa độc tôn Nho giáo và pháp trị, nhà Nguyễn đã xây dựng và thực thi pháp luật trên nền tảng của Nho giáo. Nho giáo đã cùng với pháp luật ổn định trật tự kỷ cương xã hội, đảm bảo cho sự phát triển của đất nước giai đoạn này. Sự ra đời của bộ Hoàng Việt luật lệ dưới thời vua Gia Long, là một minh chứng cho phương pháp cai trị mới của nhà Nguyễn, có sự kết hợp giữa pháp trị với đức trị, nhân trị của nho học. Theo tác giả Đỗ Bang, “Bộ Hoàng triều luật lệ là một cống hiến quan trọng của Gia Long đối với pháp luật triều Nguyễn”1, vì nó là cơ sở để các vị vua sau này của nhà Nguyễn sử dụng để thực hiện quyền cai trị tuyệt đối của mình.

Bộ luật này được vua Gia Long cho tiến hành biên soạn từ năm 1811, do Nguyễn Văn Thành làm Tổng tài soạn, năm 1812 thì hoàn thành. Đến năm 1815, nhà vua cho ban hành và áp dụng rộng rãi trên phạm vi cả nước. Có thể đánh giá đây là là bộ luật đầy đủ và hoàn chỉnh nhất trong hệ thống luật cổ của nước ta và là bộ luật đầu tiên trong lịch sử phong kiến Việt Nam có sự thống nhất từ Bắc vào Nam.

2. Một số quy tắc được thể hiện trong Hoàng Việt luật lệ

Bộ luật với 22 quyển, chia thành 7 chương, gồm 398 điều và 30 điều tỷ dẫn, được xây dựng chủ yếu dựa trên bộ “Đại Thanh luật lệ” của nhà Mãn Thanh (Trung Quốc) và Luật Hồng Đức (thời Lê), với 397 điều giống luật của nhà Thanh, chỉ có một điều được lấy từ Luật Hồng Đức. Tuy nhiên, bộ luật đã được điều chỉnh cho phù hợp với đặc điểm tình hình, kinh tế, văn hóa, chính trị của nhà Nguyễn lúc bấy giờ. Phần lớn các điều được ban hành trong Luật Gia Long, đều gắn với nhiệm vụ và sự cai quản của 6 bộ (Lại, Công, Lễ, Hộ, Binh, Hình). Lại luật là những quy định về tổ chức nhà nước và hệ thống quan lại; Công luật quy định về xây dựng, bảo vệ đê điều, lăng tẩm; Lễ luật quy định về ngoại giao và nghi lễ cung đình; Hộ luật quy định về quản lý dân cư và đất đai; Binh luật quy định về tổ chức quân đội và quốc phòng; Hình luật quy định về các tội danh và hình phạt. Trong 398 điều của Luật Gia Long, có 166 điều về hình luật, 66 điều về hộ luật, 10 điều về công luật. Một số điều trong Hộ luật đã được cụ thể thành chính sách kinh tế của nhà Nguyễn. Từ việc phân chia các điều luật, có thể thấy rằng nhà Nguyễn rất quan tâm tới pháp luật trong quá trình trị nước, đặc biệt là yếu tố hình luật được đề cao, thể hiện sự hà khắc của Luật Gia Long, với mục đích bảo vệ quyền lợi và địa vị của vương triều.

So với Luật Hồng Đức, thì Luật Gia Long của triều Nguyễn hà khắc hơn, nhưng nội dung và cách áp dụng rõ ràng hơn. Điều này thể hiện qua việc ban hành các nguyên tắc: Nguyên tắc luật định; nguyên tắc so sánh luật; nguyên tắc xét xử theo luật mới; nguyên tắc chiếu cố; nguyên tắc người thân thuộc được che giấu tội cho nhau; nguyên tắc truy cứu trách nhiệm hình sự; nguyên tắc luận tội theo tang vật; nguyên tắc chuộc tội bằng tiền. Luật còn nghiêm cấm sử dụng các bản án chưa được biên soạn vào Bộ luật để làm chuẩn cho việc xét xử. Trong luật cũng quy định, nếu quan lại cố tình bao che hoặc bẻ cong sự thật, thì bị ghép vào tội vô ý hay cố ý thêm bớt tội cho người và phải thẩm xét cho rõ ràng và cải chính ngay.

3. Những giá trị cơ bản của Hoàng Việt luật lệ

Sự ra đời của Luật Gia Long và cách thức trị nước gắn liền với pháp trị của triều Nguyễn có giá trị vô cùng to lớn trong dòng chảy lịch sử của pháp luật Việt Nam. Đối với xã hội phong kiến đương thời, thì một mặt pháp luật khẳng định quyền cai trị tối cao của nhà vua, “bảo vệ chủ quyền quốc gia, mà việc bảo vệ chủ quyền chính là xuất phát từ yêu cầu bảo vệ chế độ vương quyền”7. Ngoài ra, vua Gia Long rất quan tâm đến việc xét xử các vụ án. Trong Đại Nam hội điển sư lệ, quyển 44, có ghi lại, năm 1812, vua Gia Long ra chỉ dụ cho bộ hình: “Hình ngục là việc lớn, quan hệ đến sinh mệnh của thiên hạ. Gần đây các nha môn hỏi việc hình, có nơi cứ để ứ đọng án tiết làm lụy cho bình dân, ta rất thương. Vậy hạ lệnh cho cho sở tại phải xét văn án soát tội tù, kẻ nào nhẹ thì ta tha cho, kẻ nào nặng thì tâu xin xử trí cho hình được thanh, chính được bình, xứng với lòng ta”. Bên cạnh đó, nhà vua muốn các vụ án xét xử nhanh chóng, công minh và “có sự khoan hồng cho các công thần của bản triều”8. Điều này có ý nghĩa, hướng dân chúng và quan lại hết sức phụng sự cho triều đình. Mặt khác việc đưa ra các điều luật đã giúp ổn định trật tự xã hội, ngăn chặn người dân làm điều ác, con người có bổn phận làm theo những quy phạm đạo đức, giữ gìn trật tự kỷ cương phép nước. Tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững của đất nước, tránh được tình trạng dân nổi dậy chống lại triều đình và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Những quy định này, có giá trị cho hệ thống pháp luật đương đại trong việc yêu cầu các bộ, ngành có liên quan phải xét xử nghiêm minh, tạo sự công bằng cho những người có tội và vô tội, tránh gây phẫn uất trong dân chúng do những vụ án oan. Để nhân dân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.

Đối với giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó tất cả mọi người đều bình đẳng, và chịu trách nhiệm trước pháp luật, “các cơ quan, đơn vị, tổ chức và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện những quy định của pháp luật một cách bình đẳng, tự giác, nghiêm minh và thống nhất”9. Pháp luật triều Nguyễn đã để lại cho các cơ quan làm luật những bài học kinh nghiệm vô cùng quý giá về lập pháp. Việc lập pháp phải dựa vào hoàn cảnh cụ thể, điều kiện của cụ thể của đất nước và khắc phục những thiếu sót trong luật, điều mà các nhà làm luật của chúng ta hiện nay luôn chăn chở, là làm thế nào để có những điều luật vừa công minh nhưng lại cũng hết sức khoan hồng, vừa giữ được sự tôn nghiêm của luật pháp, vừa có tính răn đe, lại vừa trấn an được dân chúng. Để khi áp dụng, người thực thi pháp luật và người phạm tội đều cảm thấy thỏa đáng và bị khuất phục. Bên cạnh đó, cơ quan tư pháp và hành pháp cũng rút ra những kinh nghiệm trong xét xử. Đó là, xác định việc thực thi pháp luật phải được tiến hành nhanh chóng, đúng người đúng tội, công minh và có yếu tố khoan hồng. Do đó, hiện nay trong quá trình xét xử án, các cơ quan chức năng luôn xét đến yếu tố thân nhân, tâm lý, bệnh lý… để bảo đảm cho việc kết án được công bằng. Tránh tình trạng nhanh vội, dẫn đến oan sai. Khi phát hiện ra án oan, phải nhanh chóng tiến hành điều tra và xét xử lại nhằm minh oan cho người vô tội và đền bù thỏa đáng theo luật định.

Đến thời vua Minh Mệnh, ông còn bổ sung một số những điều luật mới “Định lệ chi tiết về phân xử việc làm sai lầm của các thuộc viên, các đường quan ở kinh đô và các tỉnh. Định lệ về việc xử phạt quan lại tham nhũng và hối lộ…”. Tư tưởng về việc xử phạt quan tham, nhận hỗi lộ có ý nghĩađặc biệt quan trọng, là bài học kinh nghiệm sâu sắc đối với nước ta giai đoạn hiện nay, trong việc xây dựng luật pháp về phòng chống tham nhũng. Việt Nam là quốc gia đang phát triển, theo con đường nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Để thực hiện những mục tiêu trên, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, đề ra những chủ trương, giải pháp phòng chống tham nhũng, hối lộ. Bên cạnh đó đề ra những điều luật áp dụng nghiêm khắc cho việc xử phạt về vấn đề này. Còn với người dân, tư tưởng này giúp họ tích cực hưởng ứng phong trào phòng chống tham ô, lãng phí mà Đảng và nhà nước đề ra.

Ngày nay, tư tưởng này giúp hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp của các cơ quan pháp luật được thực thi một cách rõ ràng, minh bạch, trong việc đưa ra các chính sách, chế độ khuyến khích công dân làm những điều thiện, những việc tốt có ích cho xã hội, nhằm tăng cường và đẩy mạnh mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đồng thời cũng đưa ra được các điều luật, nghiêm khắc có tính chất răn đe, trừng trị thích đáng đối với kẻ phạm tội.

Bên cạnh đó, Luật Gia Long còn có quy định “bát nghị”, đó là những quy định đối với việc xét xử tám loại người trong xã hội, sẽ được quan xử án ưu tiên, giảm nhẹ hình phạt, dựa trên cống hiến, địa vị, tài năng của họ trong xã hội. Ngoài ra bộ luật có ý nghĩa quan trọng, tích cực trong việc bảo vệ quyền lợi của người già, phụ nữ, trẻ em và người cô quả, tàn tật, dân thường có hoàn cảnh đặc biệt, người tự thú và cả những người phạm tội (đang chịu hình phạt). Trong Hoàng Việt luật lệ, quyển 1, phần Biểu đồ các lệ chuộc tội có quy định: Riêng các loại tội nhân già cả, trẻ thơ, tàn tật, nhân viên thiên văn, đàn bà…, thì đã có chiếu cố để tỏ ý thương già yêu trẻ, thương hại người tàn tật, khoan dung nghệ nhân và thương xót đàn bà. Với đối tượng này, luật có quy định là không được dùng hình để khảo vấn. Nếu người già, trẻ em phạm tội thì được xem xét nộp tiền chuộc. Luật cũng có những điều quy định nghiêm ngặt để bảo vệ thân thể người phụ nữ và người dân thường có hoàn cảnh đặc biệt, ngay cả với những đối tượng đã là phạm nhân thì luật cũng xem xét để giảm án, hưởng ân xá. Điều này chứng tỏ rằng, trong Luật Gia Long đã có yếu tố xét đến yếu nhóm đối tượng cần được ưu tiên và có xét đến yếu tố thân nhân trong quá trình thẩm án. Kế thừa tư tưởng pháp luật này của nhà Nguyễn. Pháp luật đương đại của chúng ta hiện nay, vẫn áp dụng và thực thi triệt để nội dung tư tưởng trên, khi xếp người già, trẻ nhỏ vào nhóm cần có sự quan tâm, giúp đỡ của cộng đồng xã hội và trong xử án các cơ quan chức năng luôn xét đến yếu tố thân nhân của bị cáo.

Có thể thấy rằng, pháp luật của triều Nguyễn, mặc dù không phải là hệ thống luật pháp duy nhất dưới thời phong kiến ở nước ta. Nhưng có thể được coi là bộ luật lớn nhất, hoàn chỉnh và đầy đủ dưới chế độ phong kiến. Bên cạnh những điều luật hà khắc, áp chế đối với nhân dân, còn có rất nhiều những điều luật có giá trị, mang tính nhân văn trong việc thể hiện mối quan hệ giữa các giai cấp trong xã hội. Nó không chỉ có ý nghĩa với xã hội đương thời, mà còn có ý nghĩa là bài học kinh nghiệm vô cùng sâu sắc và quý giá cho hệ thống pháp luật đương đại. Đặc biệt cho các nhà làm luật và thực thi pháp luật về công tác lập pháp, hành pháp, tư pháp ngày càng hoàn thiện hơn. Góp phần kiện toàn, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

ThS. Đỗ Việt Hà

Trường CĐ Kinh tế công nghiệp Hà Nội

Tài liệu tham khảo:

(1) (3) (4) (5) Đỗ Bang (chủ biên – 1997) “Tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1884”, Nxb. Thuận Hóa, Huế.

(2) Trần Trọng Kim (1971), Việt Nam sử lược, QII, Trung tâm học liệu, Sài Gòn.

(6) Nguyễn Minh Tường (2008), “Cải cách hành chính dưới triều Minh Mệnh (1820 – 1840)”, Kỷ yếu hội thảo khoa học chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, Nxb. Thế giới, tr. 397.

(7) http://baotangnhanhoc.org/vi/bai-nghien-cu-lch-s.html?start=30.

(8) Đỗ Bang, Nguyễn Minh Tường (1996), “Chân dung các vua Nguyễn”, tập 1, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr. 79.

(9) http://kenhsinhvien.net/topic/nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-la-gi.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Xử lý trách nhiệm đối với người, cơ quan ban hành văn bản trái pháp luật, vi phạm trong hoạt động kiểm tra văn bản và việc khắc phục hậu quả

09/04/2015

1. Sự cần thiết ban hành văn bản quy định cụ thể về xử lý trách nhiệm đối với người, cơ quan ban hành văn bản trái pháp luật, các hành vi vi phạm trong hoạt động kiểm tra văn bản quy phạm pháp luậtvà khắc phục hậu quả do áp dụng văn bản trái pháp luật gây ra

Hệ thống cơ quan hành chính nhà nước mà cao nhất là Chính phủ đã sử dụng triệt để pháp luật trong vai trò là công cụ để quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Về nguyên tắc, toàn bộ hệ thống cơ quan hành chính nhà nước cũng như cán bộ, công chức làm việc trong bộ máy đó đều phải trên cơ sở pháp luật và theo sự điều chỉnh của pháp luật. Tuy nhiên, ngay bản thân Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước khác cũng phải tự kiểm soát mình, tự thể hiện sự dân chủ, minh bạch, dám chịu trách nhiệm trước Nhà nước, trước Nhân dân. Ở lĩnh vực ban hành văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) thể hiện ở trách nhiệm của Nhà nước trước Nhân dân trong việc cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành văn bản QPPL trái pháp luật; ở việc xem xét, truy cứu trách nhiệm đối với người, cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản QPPL trái pháp luật.

Như chúng ta đã biết, tùy vào phạm vi, tính chất mà văn bản QPPL có đối tượng áp dụng và tầm ảnh hưởng khác nhau, tuy nhiên, việc ban hành văn bản QPPL trái pháp luật của các cơ quan hành pháp thường gây ảnh hưởng nặng nề tới tình hình kinh tế, xã hội. Do vậy, việc ban hành văn bản QPPL chuẩn mực, phù hợp với đường lối phát triển của đất nước, phù hợp với toàn hệ thống văn bản QPPL là đỏi hỏi tất yếu. Thực tiễn công tác kiểm tra văn bản QPPL thời gian qua cho thấy, đã có nhiều trường hợp văn bản QPPL trái pháp luật, gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, cá nhân, nhưng chưa có trường hợp nào người, cơ quan ban hành văn bản bị xử lý trách nhiệm, cũng chưa có trường hợp nào được bồi thường thiệt hại từ việc ban hành văn bản QPPL trái pháp luật gây ra. Điều này cũng có nguyên nhân xuất phát từ thực tế hệ thống văn bản QPPL của chúng ta hiện nay chưa có văn bản nào quy định, hướng dẫn cụ thể về vấn đề này, nên chưa có cơ sở để xem xét, xử lý.

Từ trách nhiệm của Nhà nước trước Nhân dân, từ trách nhiệm của cán bộ, công chức trong vai trò “công bộc” của Nhân dân, từ dũng khí “nhận trách nhiệm” khi làm sai, từ kết quả của hoạt động tự kiểm soát quyền lực trong các cơ quan hành chính nhà nước cũng như chịu sự “kiểm soát quyền lực” từ phía Nhân dân, tạo sự bình đẳng, dân chủ trong quan hệ Nhà nước – Nhân dân, từ tính pháp quyền của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa… thì việc xem xét, ban hành văn bản QPPL quy định cụ thể làm cơ sở để xử lý trách nhiệm cơ quan, người ban hành văn bản trái pháp luật là phù hợp với thực tiễn, nguyên tắc chung trong quản lý nhà nước và quy luật tự nhiên. Hoặc nói một cách đơn giản, dù là ai, khi đã được Nhân dân giao phó quyền lực, nếu thực hiện nhiệm vụ sai trái, thì tùy tính chất, mức độ đều phải chịu trách nhiệm. Điều này góp phần quan trọng vào việc tiếp tục xây dựng và củng cố tầng lớp cán bộ, công chức có trách nhiệm trước Nhà nước, trước Nhân dân, có lòng tự trọng và quan trọng hơn là có ý thức tuân thủ pháp luật trong mỗi việc mình làm, đồng thời, là điều kiện quan trọng để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, củng cố thêm nền tảng, cơ sở, điều kiện để các giai tầng trong xã hội phát triển tự do, dân chủ, bình đẳng, công bằng; là tiền đề quan trọng để hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ hội nhập, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa… Tùy theo tính chất và mức độ vi phạm của văn bản trái pháp luật, hậu quả của nội dung trái pháp luật gây ra đối với xã hội và tính chất, mức độ lỗi mà cơ quan, người đã ban hành văn bản trái pháp luật phải chịu trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Như vậy, cần phải thấy rằng, xem xét, truy cứu trách nhiệm pháp lý của cán bộ, công chức, của cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản đã ban hành văn bản QPPL trái pháp luật là việc làm cần thiết. Ngoài xem xét, xử lý trách nhiệm khi ban hành văn bản QPPL trái pháp luật, một loạt các vi phạm pháp luật trong kiểm tra văn bản QPPL cũng cần được xem xét, xử lý, có như vậy, việc tăng cường chất lượng và nâng cao ý thức kỷ luật trong kiểm tra văn bản mới được bảo đảm.

Song song với việc xem xét, xử lý trách nhiệm của người, cơ quan ban hành văn bản, thì việc xem xét, tính toán, định lượng mức độ thiệt hại trên thực tế của đối tượng chịu sự áp dụng của văn bản trái pháp luật để thực hiện chế độ bồi thường là hết sức quan trọng và cần thiết. Điều này tạo cho các chủ thể tham gia vào tất cả các quan hệ xã hội có thể yên tâm về tính rõ ràng, minh bạch và tính chịu trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan, người có thẩm quyền đã ban hành văn bản QPPL… tạo môi trường pháp lý trong sạch, lành mạnh đủ sức thu hút đầu tư, kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế – xã hội. Việc quy định trách nhiệm bồi thường, khắc phục hậu quả do áp dụng văn bản trái pháp luật gây ra cũng chính là một phần của việc truy cứu trách nhiệm người, cơ quan có thẩm quyền đã ban hành văn bản. Theo đó, ngoài xem xét, xử lý trách nhiệm của cán bộ, công chức trong khi thi hành công vụ và (hoặc) trách nhiệm hình sự (nếu có) thì người, cơ quan ban hành văn bản còn phải chịu trách nhiệm do việc ban hành văn bản trái pháp luật của mình bằng trách nhiệm bồi thường cho đối tượng chịu sự tác động của văn bản. Do vậy, việc xem xét, tính toán mức độ thiệt hại của các đối tượng này, đồng thời, xác định cơ quan, người có trách nhiệm khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại là cần thiết và công bằng.

2. Một số kiến nghị về việc ban hành văn bản quy định cụ thể làm cơ sở cho việc xử lý trách nhiệm đối với người, cơ quan ban hành văn bản trái pháp luật, các hành vi vi phạm trong hoạt động kiểm tra văn bản QPPLvà khắc phục hậu quả do áp dụng văn bản trái pháp luật gây ra

Như đã phân tích, xử lý trách nhiệm đối với người, cơ quan ban hành văn bản trái pháp luật và thực hiện các hành vi vi phạm trong kiểm tra văn bản QPPL có ý nghĩa lớn đối với quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như hiệu lực, hiệu quả của các quy định về kiểm tra văn bản QPPL. Việc xem xét, xử lý trách nhiệm đối với người, cơ quan ban hành văn bản trái pháp luật hiện nay được quy định tại Điều 34 Nghị định số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, đối tượng để xem xét trách nhiệm bao gồm tập thể cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản; cá nhân người đứng đầu cơ quan; cán bộ, công chức trong quá trình tham mưusoạn thảo, thẩm định,thẩm tra, thông qua văn bản có nội dung trái pháp luật; Ngoài ra, cơ quan, người ban hành văn bản khi nhận được thông báo, kiến nghị của cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản mà không thực hiện việc tự kiểm tra, xử lý văn bản trái pháp luật hoặc không thực hiện thông báo kết quả xử lý theo quy định thì bị xử lý theo quy định.

Về hình thức, các đối tượng đã nêu ở trên có thể phải chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật về: (i) Kỷ luật cán bộ, công chức và thủ tục xử lý kỷ luật cán bộ, công chức thực hiện theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức; (ii) Trường hợp cán bộ, công chức có hành vi vi phạm trong quá trình soạn thảo, ban hành văn bản gây hậu quả nghiêm trọng thì có thể bị đề nghị xem xét, truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Có thể nhận thấy rằng, về đối tượng, hành vi, hình thức xử lý đã được quy định. Tuy nhiên, tại sao đến nay trên thực tế hầu như vẫn chưa có trường hợp nào bị xử lý kỷ luật và không có trường hợp nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự do ban hành văn bản gây hậu quả nghiêm trọng? Là bởi vì, chưa có bất kỳ một quy định nào cụ thể hơn các quy định trên để hướng dẫn thực hiện các quy định này. Về mặt tính chất, định lượng, trình tự, thủ tục… là chưa chi tiết, chưa đầy đủ, vì thế, không thể thực hiện được các quy định này trên thực tiễn, mặc dù, điều đó là rất cần thiết và có ý nghĩa đối với công tác soạn thảo, ban hành và kiểm tra, xử lý văn bản QPPL.

Khoản 4 Điều 34 Nghị định số 40/2010/NĐ-CP giao cho “Bộ trưởng Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn cụ thể các quy định tại Điều này”. Chúng tôi cho rằng, các vấn đề trên có thể dựa trên cơ sở các quy định hiện hành của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Nghị định số 34/2011/NĐ-CP ngày 17/5/2011 quy định về xử lý kỷ luật đối với công chức để quy định cụ thể. Theo đó, hoạt động soạn thảo, ban hành văn bản QPPL được coi là một nhiệm vụ của công chức, là hoạt động công vụ. Việc soạn thảo, ban hành văn bản trái pháp luật được coi là vi phạm nghĩa vụ công chức trong thi hành công vụ theo quy định tại Luật Cán bộ, công chức năm 2008, do vậy, có thể áp dụng trình tự, thủ tục và các biện pháp kỷ luật của Nghị định số 34/2011/NĐ-CP.

Ngoài ra, các hành vi sau cũng cần được xem xét, xử lý như:

(i) Hành vi vi phạm quy định tại Điều 33 Nghị định số 40/2010/NĐ-CP, bao gồm: Không gửi văn bản đã ban hành đến cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra theo quy định; không cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết cho cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra văn bản; không thực hiện việc đăng công báo, niêm yết, đưa tin các văn bản quy phạm pháp luật đã được xử lý trên các phương tiện thông tin đại chúng theo quy định của pháp luật; không tổ chức tự kiểm tra để phát hiện, xử lý văn bản trái pháp luật do mình ban hành; không tổ chức tự kiểm tra, xử lý văn bản khi có yêu cầu, kiến nghị của cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra hoặc yêu cầu, kiến nghị của cơ quan, tổ chức, cơ quan thông tin đại chúng và cá nhân; có hành vi cản trở, gây khó khăn cho cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra trong quá trình kiểm tra văn bản; báo cáo sai sự thậtkhi thực hiện các quyền quy định tại các khoản 4 và 5 Điều 32 của Nghị định số 40/2010/NĐ-CP; không thực hiện những quyết định, yêu cầu, kiến nghị xử lý của cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra đối với văn bản trái pháp luật do mình ban hành và những hành vi vi phạm pháp luật khác trong quá trình thực hiện các quy định trong công tác kiểm tra, xử lý văn bản;

(ii) Hành vi vi phạm pháp luật trong công tác kiểm tra, xử lý văn bản của cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra văn bản theo quy định tại Điều 37 Nghị định số 40/2010/NĐ-CP, bao gồm: Không tổ chức kiểm tra, xử lý các văn bản thuộc thẩm quyền kiểm tra, xử lý; không kiểm tra, xử lý văn bản khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước cấp trên hoặc đề nghị, kiến nghị của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và các cơ quan thông tin đại chúng; không xử lý hoặc không báo cáo cơ quan, người có thẩm quyền xử lý văn bản khi phát hiện văn bản có dấu hiệu trái pháp luật; ban hành quyết định xử lý trái pháp luật, đưa ra yêu cầu, kiến nghị trái pháp luật đối với cơ quan, người có văn bản được kiểm tra; kiểm tra, xử lý văn bản không thuộc thẩm quyền kiểm tra, xử lý; không chuyển cho cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra, xử lý văn bản các văn bản không thuộc thẩm quyền kiểm tra, xử lý của mình và những hành vi vi phạm pháp luật khác trong quá trình thực hiện các quy định tại Nghị định số 40/20100/NĐ-CP và các văn bản pháp luật khác có liên quan trong công tác kiểm tra, xử lý văn bản…

Ngoài ra, văn bản này còn có trách nhiệm hướng dẫn đối với “trường hợp cán bộ, công chức có hành vi vi phạm trong quá trình soạn thảo, ban hành văn bản gây hậu quả nghiêm trọng thì có thể bị đề nghị xem xét, truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật” (điểm c khoản 2 Điều 34 Nghị định số 40/2010/NĐ-CP). Tuy nhiên, việc hướng dẫn nội dung này lại chưa có cơ sở rõ ràng, bởi cơ sở của trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 2 Bộ luật Hình sự, đó là “chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Hiện nay, Bộ luật Hình sự chưa quy định “tội soạn thảo, ban hành văn bản trái pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng” hoặc hành vi vi phạm trong quá trình soạn thảo, ban hành văn bản gây hậu quả nghiêm trọng.Trường hợp áp dụng nhóm các tội xâm phạm về chức vụ quy định tại Chương XXI Bộ luật Hình sự năm 1999 thì cũng cần có quy định cụ thể của cơ quan có thẩm quyền thì mới đủ cơ sở để hướng dẫn.

Trong thời gian tới, khi Quốc hội sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự hiện hành, cần nghiên cứu, bổ sung loại tội phạm liên quan đến vấn đề này để có cơ sở xem xét, xử lý hình sự. Trước mắt, trong thời gian tới, các cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn xử lý kỷ luật cán bộ, công chức trong việc ban hành văn bản trái pháp luật và xử lý các vi phạm trong kiểm tra văn bản QPPL.

Về chế độ bồi thường khi áp dụng văn bản trái pháp luật gây hậu quả: Hiện nay, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước chỉ quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án. Theo đó, “hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra thiệt hại là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn không đúng quy định của pháp luật…”[1]. Trong số các hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra quy định tại Điều 13 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, không có hành vi nào là hành vi ban hành văn bản QPPL trái pháp luật. Bên cạnh đó, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 cũng chưa có quy định về vấn đề này. Do đó, đến nay chưa có cơ sở pháp lý cho việc bồi thường thiệt hại do ban hành văn bản QPPL trái pháp luật gây ra.

Từ thực tiễn nêu trên, trong thời gian tới, khi Quốc hội ban hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (thống nhất giữa Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008) và sửa đổi, bổ sung Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, cần phải nghiên cứu, quy định trách nhiệm bồi thường đối với hành vi ban hành văn bản QPPL trái pháp luật gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức và cá nhân.

ThS. Lê Thị Uyên

Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật – Bộ Tư pháp



[1] Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Cần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận liên quan đến quyền sở hữu và quyền sử dụng đất

25/08/2015

Bài viết nghiên cứu một số vấn đề lý luận liên quan đến quyền sở hữu và quyền sử dụng đất, trên cơ sở đó phân tích, bình luận và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện về mặt lý luận đối với quyền sử dụng đất theo pháp luật hiện hành của Việt Nam.

1. Một số vấn đề lý luận liên quan đến quyền sở hữu và quyền sử dụng đất.

1.1. Quyền sở hữu đất

Quy định về quyền sở hữu nói chung đã được đề cập trong pháp luật dân sự với ba quyền năng cơ bản: Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt. Trong bài viết này, với mục đích để có cơ sở so sánh quyền, nghĩa vụ của chủ thể sử dụng đất ở Việt Nam, tác giả xin đề cập một số quan điểm về quyền sở hữu tư đối với đất đai trên thế giới.

Về hình thức sở hữu: Hiện nay, mặc dù quy định của các quốc gia trên thế giới không giống nhau, nhưng tựu trung có các hình thức cơ bản: Sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu toàn dân… Pháp luật Trung Quốc quy định hai hình thức sở hữu đối với đất đai là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể. Pháp luật Singapore có thừa nhận chế độ sở hữu tư nhân đối với đất đai, nhưng có đến 90% diện tích đất thuộc sở hữu nhà nước[1]. Còn hệ thống pháp luật các nước như Mỹ, Đức, Nhật, Nga…, khác với pháp luật Việt Nam và Trung Quốc, đều thừa nhận tư nhân là một trong các hình thức sở hữu đất đai.

Về nội hàm của quyền sở hữu: Pháp luật của các nước nói chung đều thừa nhận quyền sở hữu với ba quyền năng cơ bản: Chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Tuy nhiên, với các nước thừa nhận chế độ sở hữu tư về đất đai, hầu hết các chuyên gia đều đặt ra câu hỏi: Chế độ sở hữu tư nhân có ảnh hưởng gì đến cộng đồng, sự phát triển bền vững và thế hệ tương lai và liệu chủ sở hữu có thực sự được đối xử với đất đai như các tài sản khác? Trong bài viết “Who owns America – Land use Planning for Sustainability” (tạm dịch là “Ai sở hữu nước Mỹ – Kế hoạch sử dụng đất vì sự phát triển bền vững”) của tác giả John Ikerd (Trường Đại học Missouri) đã đề cập đến vấn đề quyền sở hữu tư nhân về đất đai trong pháp luật nước Mỹ, có ảnh hưởng đến việc quản lý đất đai của Nhà nước và người sở hữu đất có phải là người “sở hữu nước Mỹ” trên phương diện lãnh thổ, địa chất hay không? Trong bài viết đó, tác giả bày tỏ sự quan ngại các quy định pháp luật dân sự hiện nay rõ ràng được thiết kế theo hướng bảo vệ quyền sở hữu hơn là bảo vệ con người. Những trường hợp tranh chấp liên quan đến “quyền cho các thế hệ tương lai” hầu như không có ý nghĩa gì so với việc bảo vệ các quyền sở hữu tư nhân được quy định hợp pháp và cụ thể trong luật. Việc sử dụng đất đai cần được gắn vào những mục tiêu dài hạn thay vì việc tận thu giá trị của đất theo các kế hoạch sử dụng đất ngắn hạn hiện nay[2]. TS. Lynton K.Caldwell (Đại học Chicago) trong bài viết “Rights of ownership or rights of use? – The need for a new conceptual basis for land use policy” (tạm dịch: “Quyền sở hữu hay quyền sử dụng – Sự cần thiết phải đưa ra cơ sở nhận thức mới về chính sách sử dụng đất”) đã nhận định, trong lịch sử lập pháp ở các nước phương Tây, các quyền liên quan đến đất không bao giờ được thể hiện tuyệt đối trên thực tế và chỉ xuất hiện rất ít về mặt lý thuyết. Bài viết trên đã trích dẫn lời bình luận của học giả R.G. Crocombe: “Thuật ngữ “chủ sở hữu” là một khái niệm nhầm lẫn. Con người không bao giờ thực sự là “chủ sở hữu” đối với đất, anh ta chỉ sở hữu các “quyền đối với đất” mà thôi”. Tác giả phân tích, nếu lấy yếu tố “tư hữu” là đối tượng, thì quyền sở hữu đất không bảo đảm được điều đó. Sự “tư hữu” của chủ sở hữu có thể bị xâm phạm bởi cơ quan quyền lực công vì nhiều lý do, trong đó có các khoản thuế và rất nhiều mục đích công cộng như làm đường cao tốc, sân bay, chưa kể đến việc không có rào chắn nào bảo vệ các chủ sở hữu thoát khỏi những tác động của xã hội hiện đại như tiếng ồn, ánh sáng, rác thải, ô nhiễm khí quyển… Hầu hết pháp luật của các nước đều cho rằng, “sở hữu” đất được hiểu như “quyền” hơn là sự “tư hữu”[3]. Đồng quan điểm, bài viết “Property entails obligation: Land and property law in Germany” của TS. Fabian Thiel, (tạm dịch là “Quyền sở hữu gắn với nghĩa vụ: Luật sở hữu và đất đai ở Đức”) đã dẫn chứng về quyền sở hữu tư đối với đất thực ra chịu rất nhiều ràng buộc với các nghĩa vụ khác. Để dung hòa giữa lợi ích tư và công, có hai công cụ quan trọng nhất mà Nhà nước áp dụng trong chính sách đất đai là quy hoạch, kế hoạch và thuế giá trị gia tăng đối với đất[4].

Những dẫn chứng trên cho thấy, quyền sở hữu tư nhân về đất đai không thể và không bao giờ trở thành quyền năng tuyệt đối. Quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của các chủ thể đều có thể bị hạn chế bởi lợi ích công cộng, môi trường, phát triển kinh tế – xã hội chung của đất nước, chất lượng đất, chủ thể khác…

1.2. Quyền sử dụng đất

Giáo trình Luật Đất đai, Trường Đại học Luật Hà Nội phân tích quyền sử dụng đất với tư cách là một trong ba quyền năng của quyền sở hữu. Theo đó, “quyền sử dụng đất” được hiểu là “quyền khai thác các thuộc tính có ích của đất đai để phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước”. Bên cạnh đó, các tác giả phân biệt sự khác nhau giữa quyền sử dụng đất của Nhà nước và của người sử dụng đất về mặt lý luận, biểu hiện trên những khía cạnh cơ bản sau: Quyền sử dụng đất đai của Nhà nước phát sinh dựa trên cơ sở Nhà nước là đại diện chủ sở hữu đất đai, nên quyền sử dụng đất này là vĩnh viễn, trọn vẹn và không bị ai hạn chế. Còn quyền sử dụng đất của người sử dụng xuất hiện khi được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép nhận chuyển quyền sử dụng đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất… và phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước, vì vậy, quyền sử dụng đất của họ bị hạn chế bởi diện tích, thời hạn và mục đích sử dụng…; nếu như quyền sử dụng đất của Nhà nước mang tính gián tiếp và trừu tượng thì ngược lại, quyền sử dụng đất của người sử dụng đất lại mang tính trực tiếp và cụ thể[5].

Cuốn sách “Giao dịch dân sự về quyền sử dụng đất vô hiệu – Pháp luật dân sự và thực tiễn xét xử” của TS.TP. Nguyễn Văn Cường và TS. Nguyễn Minh Hằng cho rằng, không thể đồng nhất quyền sở hữu đất và quyền sử dụng đất theo ý kiến của một số chuyên gia và quan niệm: “Quyền sử dụng đất là quyền của người sử dụng đất khai thác các thuộc tính của đất đai, khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản một cách hợp pháp phục vụ cho mục đích của mình và quyền chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật”[6].

Trong luận án “Pháp luật về chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong kinh doanh bất động sản ở Việt Nam”, TS. Nguyễn Thị Hồng Nhung có trích dẫn một số quan điểm liên quan đến khái niệm về quyền sử dụng đất: “Quyền sử dụng đất là bộ phận cấu thành của quyền sở hữu đất. Thông qua việc được độc quyền giao đất, cho thuê đất, Nhà nước trao cho người sử dụng đất thực hiện trong thời hạn thuê đất, nhận giao đất những quyền và nghĩa vụ nhất định, trong đó có sự phân biệt theo loại đất, theo đối tượng (người) sử dụng đất, theo hình thức thuê hoặc giao đất”[7]. Các quan điểm trên nhìn chung xem quyền sử dụng đất dưới hai góc độ: Kinh tế và pháp lý. Dưới góc độ kinh tế thì quyền sử dụng đất là quyền khai thác các lợi ích từ đất của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất. Dưới góc độ pháp lý thì quyền sử dụng đất là những quyền năng mà Nhà nước thông qua công cụ pháp lý để quy định, thừa nhận cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân (người sử dụng đất) được hưởng, được làm trong quá trình sử dụng đất[8].

Bài viết “Land use in the UK”[9] của các tác giả Jawed Khan và Tamara Powell. Trong bài viết có sự phân biệt giữa “land use – sử dụng đất” và “land cover – chiếm giữ bề mặt đất”. Theo định nghĩa của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc, “sử dụng đất” được hiểu là sự tác động của con người vào đất đai nhằm khai thác, sản xuất, duy trì, cải tạo nó. Việc “sử dụng đất” thể hiện hai nội dung: (i) Các hoạt động của con người tác động vào bề mặt đất; (ii) Sự biến đổi trạng thái, tình trạng bề mặt đất, nhằm mục đích sản xuất hoặc duy trì và cải tạo giá trị của đất đối với môi trường. Hay nói cách khác, khái niệm “đất bị sử dụng” được hiểu là đất đó đã có sự tác động khai thác, cải tạo của con người. Còn khái niệm “chiếm giữ bề mặt đất”, theo System of Economic and Environmental Accounts (SEEA) (Hệ thống Tài khoản kinh tế và môi trường), được hiểu là sự tồn tại của các thực thể hữu hình trên bề mặt đất. Các thực thể này có thể được tạo ra bởi con người hoặc tự nhiên. Tuy nhiên, cách phân chia trên chỉ mang tính tương đối, vì trong một số trường hợp thì việc “chiếm giữ bề mặt đất” đã bao hàm cả việc “sử dụng đất”. Việc sử dụng đất có thể được thể hiện dưới các dạng “chiếm giữ bề mặt đất” khác nhau, ví dụ việc xây dựng các bãi cát nhân tạo, đất trồng rừng…[10].

Xét về nội hàm, quyền sử dụng đất ở Việt Nam có nhiều điểm khá tương đồng với quyền sở hữu đất của nhiều quốc gia trên thế giới. Ngay cả các nước công nhận chế độ sở hữu tư nhân về đất đai, thì quyền sở hữu cũng sẽ bị hạn chế bởi yêu cầu đảm bảo sự phát triển bền vững của kinh tế, xã hội và môi trường. Ví dụ, trong bài viết “Who owns America – Land use Planning for Sustainability” của John Ikerd, tác giả đưa ra quan điểm: “Người sở hữu đất không phải là người “sở hữu” nước Mỹ, họ chỉ có quyền sử dụng đất mà thôi. Không ai là người chủ sở hữu thực sự đối với đất đai và mỗi chúng ta cần phải có trách nhiệm và đều có quyền công bằng trong việc đánh giá, xem xét đất đai đã được sử dụng một cách “thông minh” hay chưa. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc, mỗi người dân nước Mỹ đều có quyền lên tiếng và quyết định cách thức sử dụng đất đảm bảo phát triển bền vững, đó chính là tương lai của nước Mỹ và người dân nước Mỹ. Chúng ta không phải chủ sở hữu nước Mỹ, nhưng chúng ta có trách nhiệm đảm bảo đất đai của nước Mỹ được sử dụng cho mục đích phát triển bền vững”. Trong bài viết “Rights of ownership or rights of use? – The need for a new conceptual basis for land use policy”, tác giả Lynton K.Caldwell lại phân tích hệ thống pháp luật của một số quốc gia về quyền sở hữu, quyền sử dụng đất và sự cần thiết phải đưa ra một khái niệm mới về quyền sở hữu đất đai. Bài viết cũng cho chúng ta nhận thấy có sự tương đồng về chế độ sở hữu đất của Việt Nam với hệ thống án lệ của Vương quốc Anh, đó là “chế độ sở hữu nhân dân”. Còn ở Mỹ, quốc gia tôn trọng chế độ tư hữu gần như tuyệt đối, thì pháp luật cũng khó có thể quy định dựa vào bản chất thật sự và cơ bản về cái gọi là “sở hữu đất” mà chủ yếu dựa trên “các điều kiện được pháp luật cho phép thông qua việc thực hiện quyền”. Hay nói các khác, trên thực tế, mỗi người chỉ thực sự sở hữu “các quyền” đối với đất chứ không phải sở hữu đất[11].

Pháp luật Liên bang Nga, Chương 17 Bộ luật Dân sự năm 1997 (sửa đổi, bổ sung vào các năm 1997, 1999, 2001, 2002, 2003), Điều 262 quy định: “Trừ trường hợp khác được quy định trong luật, quyền của chủ sở hữu đối với đất sẽ được mở rộng đối với lớp bề mặt đất, mạch nước ngầm, cây lâu năm và các loại thực vật khác, được đặt trong phạm vi ranh giới của mảnh đất đó. Chủ sở hữu đất được quyền sử dụng đất theo ý muốn của mình, quyền sử dụng này bao hàm cả quyền đối với khoảng không và dưới lòng đất theo chiều thẳng đứng, trừ các quy định khác trong luật về tài nguyên khoáng sản và sử dụng không gian, đồng thời, quyền đó không được ảnh hưởng đến quyền của những người khác”. Điều 264 quy định: “Đất và các tài sản gắn liền với đất, có thể được chủ sở hữu chuyển giao cho người khác sử dụng lâu dài hoặc tạm thời, bao gồm cả việc thuê. Người sử dụng mà không phải chủ sở hữu đất phải tuân thủ các nghĩa vụ theo luật và theo thỏa thuận với chủ sở hữu, không được quyền định đoạt đối với đất, trừ trường hợp luật định hoặc có thỏa thuận”. Đối với các chủ thể có quyền sử dụng đất lâu dài, thì pháp luật cho phép họ có quyền sử dụng một cách độc lập (trừ những trường hợp quy định trong luật), xây dựng các công trình trên đất và được quyền sở hữu các công trình, tài sản này[12].

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu khoa học trong nước đều có quan điểm tiếp cận quyền sử dụng đất với tư cách là quyền phái sinh của quyền sở hữu đất. Trên cơ sở quyền nguyên thủy là quyền sở hữu, các chủ thể sử dụng đất được chủ sở hữu trao quyền năng cụ thể, trong một số trường hợp, quyền sử dụng đất có sự “hóa thân” vào quyền sở hữu đất mà các nhà nghiên cứu gọi là “quyền sở hữu kép” trong quan hệ đất đai. Còn pháp luật các quốc gia lại nghiên cứu quyền sở hữu đất theo hướng “sở hữu các quyền đối với đất”. Với các cách tiếp cận trên, chúng ta có thể nhận thấy quyền sở hữu tư nhân đối với đất đai ở nhiều nước trên thế giới và quyền sử dụng đất tại Việt Nam đang có sự tiệm cận rất gần nhau, giao dịch thể hiện rõ nét nhất sự tương đồng này chính là giao dịch “chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.

2. Một số đề xuất, kiến nghị đối với ngành khoa học pháp lý Việt Nam liên quan đến quyền sử dụng đất

Quyền sử dụng đất trong hệ thống pháp luật nước ta vừa là một bộ phận của quyền sở hữu, vừa là tài sản, đối tượng của giao dịch dân sự. Có ý kiến cho rằng, quyền sử dụng đất thực chất là bất động sản, vì nó gắn với đất đai. Ý kiến khác lại xem xét quyền sử dụng đất là quyền tài sản, vì quyền sử dụng đất thỏa mãn hai điều kiện: (i) Trị giá được bằng tiền và (ii) Có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự. Tuy nhiên, nếu coi quyền sử dụng đất là quyền tài sản, thì những tài sản được xây dựng trên đất được xác định như thế nào? Bên cạnh đó, tự bản thân quyền sử dụng đất không thể đứng độc lập. Trên phương diện lý luận, đây là quyền tài sản, nhưng thực tiễn, thì quyền sử dụng đất đã “hóa thân” hay hữu hình hóa bằng đất đai và các công trình trên đất, hay nói cách khác, quyền sử dụng đất gần với khái niệm bất động sản hơn. Các chủ thể khi thực hiện giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất cũng không thể di chuyển quyền năng này mà chỉ có thể tiếp nhận quyền sử dụng đất đó trên một mảnh đất cụ thể. Theo tác giả, để giải quyết hài hòa về lý luận và thực tiễn, sự tách bạch giữa đất đai với tư cách là bất động sản và quyền sử dụng đất với tư cách quyền tài sản theo pháp luật hiện hành là hợp lý. Nhưng nếu đã coi quyền sử dụng đất là tài sản, thì pháp luật cần phải xác định “ai là chủ sở hữu tài sản” đó. Có ý kiến cho rằng, vì nước ta không thừa nhận chế độ tư hữu về đất đai, nên không thể quy định quyền sở hữu tư đối với quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận thấy, đối với từng mảnh đất gắn với chủ sử dụng đất cụ thể, có sự hình thành chế độ tài sản kép với hai đối tượng đã hóa thân và hòa nhập vào nhau, đó là đất đai và quyền sử dụng đất. Với trường hợp chủ sử dụng có quyền định đọat gần như tuyệt đối với quyền sử dụng đất như chuyển nhượng… thì họ gần như đã là chủ sở hữu đối với quyền sử dụng đất trên thực tế.

Những khái niệm đã được các nhà nghiên cứu đưa ra trước đây chủ yếu trên cơ sở xem xét quyền sử dụng đất như một quyền năng trong quan hệ sở hữu. Tuy nhiên, với đặc thù của quyền sử dụng đất tại Việt Nam, chúng tôi đề xuất xem xét quyền năng này với tư cách là tài sản và xác định được chủ sở hữu cụ thể đối với tài sản đó. Đặc biệt, trong trường hợp quyền sử dụng đất ở được Nhà nước giao ổn định, lâu dài và được phép chuyển nhượng, thừa kế, pháp luật nên quy định theo hướng công nhận quyền sở hữu quyền sử dụng đất cho các chủ thể này trên cơ sở bảo đảm sự phát triển bền vững của quốc gia và lợi ích cộng đồng.

Những vấn đề về quyền sở hữu, quyền sử dụng đất là phức tạp và được các nhà nghiên cứu lý luận không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới quan tâm. Với tính chất đặc thù trong quy định pháp luật của từng quốc gia, việc tiếp cận các vấn đề này có thể có sự khác biệt. Tuy nhiên, cùng với xu hướng phát triển của thế giới, việc sử dụng đất hay sở hữu đất của tất cả các quốc gia đều bị giới hạn bởi sự phát triển chung của cộng đồng (nhưng ở các mức độ khác nhau). Ở Việt Nam, xuất phát từ lý luận, thực tiễn và quy định pháp luật hiện hành, chúng ta có thể tiếp cận các khái niệm này trên một bình diện riêng, nhưng vẫn nên có sự tiếp thu, điều chỉnh để đảm bảo hài hòa giữa lý luận và thực tiễn.

Nguyễn Thùy Trang

ThS.LS. Tổng Công ty Công nghiệp Hóa chất mỏ – Vinacomin



[1]TS. Nguyễn Quang Tuyến, Tương đồng và khác biệt giữa pháp luật Singapore và pháp luật đất đai Việt Nam – Gợi mở cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện pháp luật đất đai, Tạp chí Luật học số 8/2010.

[2]John Ikerd (Trường Đại học Missouri), Who owns America – Land use Planning for Sustainability, trình bày trong Diễn đàn về sử dụng đất tại Tây Bắc Carolina tổ chức ngày 07/3/2001.

[3]TS. Lynton K.Caldwell, Đại học Chicago, Rights of ownership or rights of use? – The need for a new conceptual basis for land use policy, 1974,đăng trên http://scholarship.law.wm.edu.

[4]TS. Fabian Thiel, Property entails obligations: Land and property law in Germany, 2009, đăng trên https://www.fig.net/…/magel_melbourne_feb_2003.pdf.

[5]TS. Trần Quang Huy (chủ biên), Giáo trình Luật Đất đai, 2013, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, tr. 95, 96.

[6]TS.TP. Nguyễn Văn Cường, TS. Nguyễn Minh Hằng, Giao dịch về quyền sử dụng đất vô hiệu – Pháp luật dân sự và thực tiễn xét xử, Nxb. Thông tin và Truyền thông, 2011, tr.19, 20.

[7]TS. Nguyễn Thị Hồng Nhung, Luận án “Pháp luật về chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong kinh doanh bất động sản ở Việt Nam”, 2012, tr. 16.

[8] TS. Nguyễn Thị Hồng Nhung, Luận án “Pháp luật về chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong kinh doanh bất động sản ở Việt Nam” , 2012, tr. 16.

[9]Đăng trên: www.ons.gov.uk/ons/guide…/user…/land-use-in-the-uk.

[10]Jawed Khan và Tamara Powell, “Land use in the UK”, đăng trên www.ons.gov.uk/ons/guide…/user…/land-use-in-the-uk.

[11]TS. Lynton K.Caldwell, Đại học Chicago, Rights of ownership or rights of use? – The need for a new conceptual basis for land use policy, 1974,đăng trên http://scholarship.law.wm.edu.

[12]Xem Bộ luật Dân sự Nga năm 1997 (sửa đổi, bổ sung vào các năm 1997, 1999, 2001, 2002, 2003).

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quyền bình đẳng giới – Quyền cơ bản của con người

27/07/2015

Bình đẳng giới không phải là vấn đề riêng của một quốc gia nào, mà đó là vấn đề chung của toàn nhân loại. Xuất phát từ thực tế, quyền của người phụ nữ bị xâm phạm, bị đối xử, bóc lột nặng nề đã diễn ra ở khắp nơi trên thế giới, nên vấn đề cốt lõi trong việc bảo đảm bình đẳng giới chính là bảo đảm các quyền của người phụ nữ, bảo đảm quyền bình đẳng nam, nữ, đồng thời phải có những chính sách hợp lý cho mỗi giới phát huy khả năng và hưởng thụ lợi ích.

Quyền bình đẳng của nam và nữ trong việc hưởng thụ tất cả các quyền con người là một trong những nguyên tắc cơ bản được luật pháp quốc tế thừa nhận và được nêu ở các văn kiện quốc tế chủ yếu về nhân quyền. Các quốc gia khi nội luật hóa các công ước quốc tế mình tham gia cần phải biết rõ nghĩa vụ của quốc gia thành viên bao gồm: Tôn trọng, bảo vệ và thực hiện quyền con người của phụ nữ. Quyền bình đẳng giới là những quyền của nam giới và nữ giới, trẻ em trai và trẻ em gái đều có cơ hội tiếp cận và sự thụ hưởng như nhau trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Đây là những vấn đề đã được nêu rõ và cụ thể trong bài viết “Quyền bình đẳng giới – Quyền cơ bản của con người” của tác giả Nguyễn Thanh Hiền, đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 64 trang tháng 7/2015. Ngoài vấn đề về quyền bình đẳng giới trong cơ hội tiếp cận, quyền bình đẳng giới trong thụ hưởng, thì bài viết còn đưa ra các điều kiện bảo đảm quyền bình đẳng giới (bao gồm bảo đảm về mặt pháp lý và các bảo đảm về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội) và cơ chế bảo đảm quyền bình đẳng giới.

Uyên Nhi

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hoàn thiện cơ sở pháp lý về thực hiện biện pháp áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính thuộc chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của bộ đội biên phòng

22/07/2015

1. Thực trạng pháp luật về thực hiện biện pháp áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính thuộc chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của bộ đội biên phòng

Bộ đội biên phòng là lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng, của Nhà nước, là một thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam, làm nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh, trật tự biên giới quốc gia trên đất liền, các hải đảo, vùng biển và tại các cửa khẩu theo phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, trong đó, có thẩm quyền xử phạt các vi phạm hành chính (VPHC) và áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý VPHC, trong đó có biện pháp áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính (TTHC). Cùng với đó, áp giải người vi phạm theo TTHC cũng là một trong hai biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý VPHC được quy định tại Luật xử lý VPHC năm 2012 nhằm tạo cơ sở pháp lý cho người có thẩm quyền xử lý VPHC thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình và bảo đảm cho việc xử lý VPHC nghiêm minh, đúng quy định của pháp luật. Để quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành biện pháp này, ngày 02/10/2013 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 112/2013/NĐ-CP quy định hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ người, áp giải người vi phạm theo TTHC và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất (Nghị định số 112/2013/NĐ-CP). Theo đó, chiến sĩ Bộ đội biên phòng đang thi hành công vụ được thực hiện việc áp giải người vi phạm theo TTHC. Khi thực hiện áp giải, chiến sĩ Bộ đội biên phòng phải tuân thủ nghiêm ngặt quy định pháp luật về việc áp giải người vi phạm theo TTHC. Thực tiễn thực hiện các quy định nêu trên cơ bản là thuận lợi, cơ bản đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của lực lượng Bộ đội Biên phòng; tuy nhiên cũng đã nảy sinh một số khó khăn, vướng mắc nhất định, cụ thể như sau:

Một là, chưa có sự phân biệt rõ ràng, rành mạch giữa biện pháp áp giải người vi phạm theo TTHC với dẫn giải người vi phạm. Thực tiễn cho thấy, các VPHC diễn ra tại địa bàn quản lý của bộ đội biên phòng có số lượng tương đối lớn (chỉ tính riêng trong 04 tháng đầu năm 2015, các đơn vị bộ đội biên phòng đã tiến hành xử phạt VPHC 748 vụ với 1.445 đối tượng; trong đó, phạt tiền 513 vụ với 1.272 đối tượng, thu nộp ngân sách nhà nước 3.462.550.000 VNĐ, bàn giao cho các cơ quan chức năng xử lý theo quy định pháp luật 1.875 vụ với 3.867 đối tượng); chủ yếu các vi phạm này diễn ra ở những điểm cách xa đồn biên phòng như tại đường mòn biên giới, trên sông, suối biên giới hoặc trên vùng biển thuộc thẩm quyền hoặc những nơi có địa hình hiểm trở hay diễn ra vào ban đêm. Riêng đối với các vi phạm pháp luật về xuất, nhập cảnh của công dân nước tiếp giáp, bộ đội biên phòng tiến hành xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế song phương đã được ký kết rồi trao trả cho công an nước láng giềng. Ngược lại, với vi phạm pháp luật về xuất, nhập cảnh, cư trú trái phép ở bên kia biên giới của người Việt Nam, bộ đội biên phòng thực hiện việc tiếp nhận từ cơ quan có thẩm quyền của nước láng giềng. Để đưa các đối tượng vi phạm về đơn vị bộ đội biên phòng xử lý theo thẩm quyền hoặc chuyển giao cho cơ quan chức năng xử lý theo quy định của pháp luật; việc tiếp nhận công dân Việt Nam từ cơ quan có thẩm quyền của nước láng giềng hay tiến hành các hoạt động cần thiết rồi trao trả đối tượng vi phạm cho công an nước láng giềng, cán bộ, chiến sĩ bộ đội biên phòng luôn phải tiến hành các biện pháp cần thiết, trong đó có biện pháp dẫn giải người vi phạm.

Dẫn giải người vi phạm không chỉ là một trong những hoạt động thuộc quy trình xử lý VPHC của các đơn vị bộ đội biên phòng, mà còn được thực hiện trong nhiều trường hợp khác và thường do người có thẩm quyền xử phạt VPHC tiến hành, xuất phát từ thực tiễn khách quan như đặc thù về địa bàn quản lý, về tính chất, đặc điểm của các VPHC và yêu cầu bảo đảm xử lý VPHC (không để đối tượng vi phạm bỏ trốn, tẩu tán, tiêu hủy tang vật, phương tiện vi phạm)… Quá trình thực hiện hoạt động dẫn giải người vi phạm có vận dụng tổng hợp các biện pháp công tác biên phòng, đặc biệt là vũ trang, trinh sát, vận động quần chúng và có thể sử dụng các loại công cụ, phương tiện hỗ trợ trong trường hợp cần thiết. Do đó, dẫn giải người vi phạm có nhiều điểm tương đồng với biện pháp áp giải người vi phạm theo TTHC về mục đích, cách thức tiến hành nên thực tế đã dẫn đến tình trạng có sự đồng nhất trong cách hiểu và áp dụng hai biện pháp này. Tuy nhiên, xét dưới phương diện pháp lý, theo chúng tôi, giữa hai biện pháp này có sự khác nhau về nội dung, hình thức và thủ tục pháp lý. Nếu “dẫn giải người vi phạm” được hiểu là hoạt động do bất kỳ cá nhân, tổ chức nào tiến hành để đưa người vi phạm đến giao cho người có thẩm quyền tạm giữ người theo TTHC. Trong khi đó, áp giải người vi phạm theo TTHC đòi hỏi phải tuân thủ quy định pháp luật về nguyên tắc, thẩm quyền, trường hợp áp dụng, thủ tục thực hiện một cách chặt chẽ. Còn dưới góc độ khoa học Luật hành chính, áp giải người vi phạm theo TTHC là biện pháp cưỡng chế hành chính thuộc nhóm các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý VPHC, được thực hiện thông qua hoạt động ban hành văn bản áp dụng quy phạm pháp luật (quyết định áp giải người vi phạm theo TTHC và các loại biên bản), còn dẫn giải người vi phạm xét về bản chất cũng biện pháp cưỡng chế hành chính, mặc dù chưa được thừa nhận chung nhưng có thể phân loại và sắp xếp vào nhóm các biện pháp phòng ngừa hành chính (phòng ngừa hành vi chống người thi hành công vụ, bỏ trốn, trốn tránh việc xử lý).

Hai là, quy định về thủ tục áp giải người vi phạm chưa cụ thể, rõ ràng; một số quy định chưa phù hợp với thực tiễn hoạt động của bộ đội biên phòng. Điều 26 Nghị định số 112/2013/NĐ-CP chưa thể hiện được toàn bộ thủ tục thực hiện việc áp giải như tên gọi của điều luật này. Quy định về ra quyết định áp giải người vi phạm; giao nhận người bị áp giải (kèm theo biên bản giao, nhận); lập biên bản áp giải; lập biên bản về việc người vi phạm bỏ trốn được thể hiện ở các chương, mục khác nhau, dẫn đến nảy sinh cách hiểu không thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật. Bên cạnh đó, hệ thống biểu mẫu trong xử phạt VPHC lại thiếu hoặc chưa đầy đủ, hoàn thiện các mẫu quyết định áp giải người vi phạm, biên bản áp giải, biên bản giao nhận người VPHC bị áp giải, biên bản về việc người bị áp giải bỏ trốn. Nếu sử dụng các mẫu văn bản như biên bản bàn giao người bị tạm giữ theo TTHC và biên bản giao nhận thì nội dung không phù hợp với quy định về lập biên bản áp giải. Có ý kiến cho rằng, thủ tục áp giải bắt đầu bằng việc người có thẩm quyền ra quyết định về việc áp giải người vi phạm theo TTHC bằng văn bản theo khoản 3 Điều 3 Nghị định số 112/2013/NĐ-CP. Khi tiến hành áp giải, người có thẩm quyền đang thi hành công vụ thực hiện việc áp giải phải tiến hành các hoạt động được quy định từ Điều 26 đến Điều 29 Nghị định số 112/2013/NĐ-CP. Trong khi đó, một số ý kiến khác lại cho rằng, thủ tục thực hiện việc áp giải chỉ gồm các quy định từ Điều 26 đến Điều 29 Nghị định số 112/2013/NĐ-CP, trong đó, người có thẩm quyền đang thi hành công vụ thực hiện việc áp giải chỉ cần lập biên bản áp giải có cả nội dung giao nhận như quy định tại Điều 28 Nghị định số 112/2013/NĐ-CP hoặc chỉ cần lập biên bản giao, nhận người bị áp giải.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 24 Nghị định số 112/2013/NĐ-CP, bộ đội biên phòng đang thi hành công vụ thực hiện việc áp giải người vi phạm khi người đó không tự nguyện chấp hành yêu cầu của người có thẩm quyền và thuộc các trường hợp như bị tạm giữ người theo TTHC; đưa trở lại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; người bị trục xuất không tự giác chấp hành quyết định xử phạt trục xuất hoặc có hành vi chống đối, bỏ trốn. Do bộ đội biên phòng không có thẩm quyền quyết định phạt trục xuất nên không thể áp giải người vi phạm trong trường hợp này. Việc đưa người bỏ trốn trở lại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có thể xảy ra, nhưng chủ yếu là dẫn giải và bàn giao cho cơ quan công an cấp huyện, không thực hiện các thủ tục khác, nhất là thủ tục được quy định tại khoản 2 Điều 27 Nghị định số 112/2013/NĐ-CP là “đến địa điểm thực hiện áp giải phải mời đại diện chính quyền địa phương nơi người bị áp giải cư trú hoặc đang bị quản lý, đại diện cơ quan, tổ chức nơi người bị áp giải làm việc, học tập và người chứng kiến”.

Ba là, về thẩm quyền thực hiện việc áp giải người vi phạm theo TTHC. Theo quy định pháp luật, để thực hiện biện pháp áp giải người vi phạm, chiến sĩ bộ đội biên phòng đang thi hành công vụ phải ban hành quyết định áp giải người vi phạm theo TTHC bằng văn bản và phải giao cho người bị áp giải một bản. Tuy nhiên, nếu ban hành quyết định trong trường hợp địa điểm phát hiện vi phạm xa đơn vị thì quyết định này chưa phát huy được hiệu lực pháp lý cao vì không có dấu đơn vị. Còn trường hợp việc áp giải người vi phạm từ đơn vị bộ đội biên phòng đến cơ quan, đơn vị có thẩm quyền giải quyết vụ việc (với các vi phạm không thuộc thẩm quyền giải quyết của bộ đội biên phòng); chuyển vụ việc vi phạm từ cấp đồn biên phòng lên cấp trên giải quyết hoặc áp giải người vi phạm ra khu vực sát đường biên giới để trao trả cho cơ quan có thẩm quyền nước láng giềng, thì việc chiến sĩ bộ đội biên phòng ban hành quyết định áp giải người vi phạm và tổ chức thực hiện là chưa phù hợp với thực tiễn công tác tổ chức, chỉ huy, điều hành của các đơn vị bộ đội biên phòng và công tác đối ngoại.

2. Một số kiến nghị, đề xuất

Để khắc phục các vướng mắc nêu trên và phát huy hiệu quả của biện pháp áp giải người vi phạm theo TTHC trong thực tiễn hoạt động của bộ đội biên phòng, bảo đảm đúng đối tượng, đúng thủ tục, đúng thẩm quyền, theo chúng tôi, trong thời gian tới cần thực hiện một số công việc sau:

– Đề nghị các cơ quan, đơn vị có liên quan xây dựng trình lãnh đạo Bộ Quốc phòng ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể, rõ ràng thủ tục áp dụng biện pháp áp giải người vi phạm, bao gồm trình tự các bước cần thực hiện trong quá trình áp giải; đồng thời, đề xuất ban hành bổ sung các mẫu biểu về áp giải người vi phạm theo TTHC cho phù hợp với thực tiễn hoạt động của các đơn vị trong quân đội nhân dân, trong đó có việc thực hiện biện pháp áp giải người vi phạm theo TTHC của bộ đội biên phòng. Bộ Tư lệnh bộ đội biên phòng thường xuyên quan tâm, chú trọng đến việc tổ chức các hội nghị, hội thảo, tọa đàm phổ biến, quán triệt, tập huấn chuyên sâu Luật Xử lý VPHC năm 2012 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành, trong đó có các quy định về áp giải người vi phạm theo TTHC cho cán bộ, chiến sĩ bộ đội biên phòng (sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp không giữ chức vụ từ đội trưởng, trạm trưởng, đội phó, trạm phó trở lên). Nội dung phổ biến, quán triệt, tập huấn cần đi sâu làm rõ sự khác biệt giữa áp giải người vi phạm theo TTHC với dẫn giải người vi phạm, trình tự thực hiện và phương pháp soạn thảo quyết định và các biên bản về áp giải người vi phạm theo TTHC.

– Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định về áp giải người vi phạm theo TTHC cho phù hợp thực tiễn công tác đấu tranh, xử lý VPHC của bộ đội biên phòng, trong đó cần có giải thích chính thức về thuật ngữ “áp giải người vi phạm theo TTHC”, tránh cách hiểu không đúng, nhầm lẫn biện pháp này với dẫn giải người vi phạm hoặc biện pháp “dẫn giải” trong tố tụng hình sự, thi hành án hình sự; bổ sung trường hợp về người không tự nguyện chấp hành yêu cầu của người có thẩm quyền là người thực hiện hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, hàng cấm qua biên giới; người vi phạm quy chế biên giới; người thực hiện hành vi VPHC ở nơi cách xa đơn vị bộ đội biên phòng và bổ sung thẩm quyền các chức danh quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều 40 Luật xử lý VPHC năm 2012, gồm: Đội trưởng các đội công tác đồn biên phòng, trạm trưởng Trạm kiểm soát biên phòng; đồn trưởng Đồn biên phòng, hải đội trưởng Hải đội biên phòng, chỉ huy trưởng Tiểu khu biên phòng, chỉ huy trưởng biên phòng cửa khẩu cảng;chỉ huy trưởng bộ đội biên phòng cấp tỉnh, hải đoàn trưởng hải đoàn biên phòng trực thuộc Bộ Tư lệnh bộ đội biên phòng và cấp phó của những người này để đảm bảo việc áp dụng biện pháp áp giải người vi phạm trong trường hợp cần thiết trên cơ sở quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định.

– Về quy định thủ tục thực hiện việc áp giải cũng cần làm rõ sự khác biệt giữa thủ tục thực hiện thẩm quyền của chiến sĩ Bộ đội Biên phòng đang thi hành công vụ và của cấp đội với thủ tục thực hiện thẩm quyền của người chỉ huy ở cấp đồn biên phòng và cấp biên phòng tỉnh. Cụ thể là, chiến sĩ bộ đội biên phòng, đội trưởng các đội công tác đồn biên phòng, trạm trưởng Trạm kiểm soát biên phòng chỉ thực hiện thẩm quyền trong trường hợp địa điểm phát hiện hành vi vi phạm ở xa đơn vị bộ đội biên phòng, địa hình hiểm trở, điều kiện khí hậu, thời tiết không thuận lợi và đối tượng vi phạm có thể lợi dụng để bỏ trốn. Thủ tục thực hiện thẩm quyền của những người này không cần phải ra quyết định áp giải người vi phạm và không cần “đến địa điểm thực hiện áp giải mời đại diện chính quyền địa phương nơi người bị áp giải cư trú hoặc đang bị quản lý, đại diện cơ quan, tổ chức nơi người bị áp giải làm việc, học tập và người chứng kiến”. Việc mời người chứng kiến là cần thiết nhưng phải trong những trường hợp có thể.

– Việc áp giải người vi phạm từ đơn vị bộ đội biên phòng để chuyển giao người vi phạm cho cơ quan, đơn vị có thẩm quyền; cho cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp giáp hay tiếp nhận người Việt Nam vi phạm pháp luật được cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp giáp trao trả phải do người chỉ huy ở cấp đồn biên phòng và cấp biên phòng tỉnh ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định áp giải người vi phạm. Việc thực hiện áp giải chỉ cần có người chứng kiến, không cần mời đại diện chính quyền địa phương nơi người bị áp giải cư trú hoặc đang bị quản lý, đại diện cơ quan, tổ chức nơi người bị áp giải làm việc, học tập chứng kiến việc áp giải.

– Về phương diện kỹ thuật lập quy, đề nghị cần thiết kế, bố cục lại nội dung các quy định từ Điều 26 đến Điều 29 Nghị định số 112/2013/NĐ-CP cho hợp lý hơn, có thể chia thủ tục thực hiện việc áp giải người vi phạm theo TTHC thành ba giai đoạn: Trước khi áp giải, trong khi áp giải và kết thúc việc áp giải; tách quy định về xử lý trường hợp người bị áp giải có hành vi chống đối, bỏ trốn thành một điều riêng.

ThS. Trần Minh Nguyệt

Khoa Pháp luật, Học viện Biên phòng

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com