Đặc điểm pháp lý và các mối liên hệ cơ bản của quản tài viên

30/10/2015

Qua nghiên cứu tổng quan, hầu hết pháp luật các nước đều xác định chủ thể quản lý, thanh lý tài sản có vị trí quan trọng trong quá trình giải quyết phá sản. Điều này phù hợp với mục đích và tính chất của việc giải quyết phá sản là nhằm thu hồi được nhiều nhất tài sản từ con nợ cho chủ nợ, đồng thời điều hòa lợi ích giữa các bên, bảo đảm phân chia tài sản một cách công bằng và đúng luật. Vì vậy việc quản lý, giám sát, bảo toàn, thậm chí làm gia tăng giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã là một yêu cầu cần thiết và chính yếu trong giải quyết phá sản. Luật Phá sản năm 2014 quy định chủ thể quản lý, thanh lý tài sản là Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, đồng thời trao cho các chủ thể này nhiều nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng, xác định rõ trách nhiệm pháp lý trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Quản tài viên theo Luật Phá sản năm 2014 có những đặc điểm pháp lý riêng biệt và có mối liên hệ chặt chẽ với các chủ thể và định chế của Luật Phá sản.

1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý của Quản tài viên

Luật Phá sản năm 1993 và Luật Phá sản năm 2004 trên cơ sở điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội đặc thù của đất nước đã thiết lập mô hình chủ thể thực hiện chức năng quản lý, thanh lý tài sản phá sản là những thiết chế tập thể (Tổ quản lý tài sản, Tổ thanh toán tài sản trong Luật Phá sản năm 1993, Tổ quản lý và thanh lý tài sản trong Luật Phá sản năm 2004). Theo quy định tại khoản 7, Điều 4 Luật Phá sản năm 2014 thì “Quản tài viên là cá nhân hành nghề quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản”. Nghiên cứu về Quản tài viên cho thấychủ thể này những đặc điểm pháp lý sau:

– Quản tài viên là thiết chế cá nhân, nhân danh cá nhân thực hiện hoạt động quản lý, thanh lý tài sản. Đây là điểm khác biệt của Luật Phá sản năm 2014 so với Luật Phá sản năm 1993 và Luật Phá sản năm 2004. Tổ quản lý tài sản, Tổ thanh toán tài sản theo Luật phá sản năm 1993, Tổ quản lý và thanh lý tài sản trong Luật Phá sản năm 2004 là thiết chế tập thể bao gồm đại diện của các cơ quan chuyên môn thuộc Nhà nước, đại diện người lao động, Ban chấp hành Công đoàn, đại diện chủ nợ, nhân danh quyền lực Nhà nước thực hiện hoạt động này.

Quản tài viên là thiết chế vừa đại diện chủ nợ, vừa đại diện cho con nợ, vừa đại diện cho Nhà nước trong trong quá trình giải quyết phá sản. Sau khi được Tòa án ra quyết định chỉ định, Quản tài viên có vị trí độc lập với cả hai bên chủ nợ và con nợ, vừa là người đại diện cho lợi ích của chủ nợ và cả con nợ. Tuy nhiên khác với các trường hợp đại diện thông thường, là sự đại diện theo ủy quyền giữa người ủy quyền và người nhận ủy quyền, Quản tài viên đại diện cho các chủ thể trên cơ sở quy định của pháp luật (đại diện theo pháp luật); nói cách khác, pháp luật trao cho họ những nhiệm vụ, quyền hạn để bảo vệ lợi ích cho cả chủ nợ, con nợ và Nhà nước, họ là “nhân vật chính” trong quá trình thực hiện các thủ tục phá sản.

Quản tài viên đại diện cho chủ nợ thể hiện ở chỗ, sau khi chủ nợ có đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đề thu hồi nợ, thì hầu như họ không trực tiếp thực hiện việc đòi nợ với con nợ mà Quản tài viên do Tòa án chỉ định đã đứng ra thực hiện các thủ tục thu hồi nợ cho họ. Trong cả hai trường hợp, nếu doanh nghiệp thực hiện thành công phương án phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc phải thanh lý tài sản thì mục đích đều nhằm thu hồi lại nợ cho các chủ nợ; các biện pháp bảo toàn hay xử lý tài sản đều nhằm bảo đảm cho lợi ích của chủ nợ một cách cao nhất. Ngoài ra, khi xét người lao động với tư cách là một loại chủ nợ thì Quản tài viên còn đại diện cho người lao động thực hiện thu hồi các khoản nợ tiền công, tiền lương, bảo hiểm… cho người lao động.

Quản tài viên đại diện cho con nợ khi thay mặt cho con nợ thực hiện việc thanh toán với các chủ nợ theo quy định của pháp luật. Quản tài viên còn đại diện cho con nợ đàm phán thỏa thuận với chủ nợ về phương án phục hồi lại hoạt động sản xuất, kinh doanh, giúp con nợ vượt qua khó khăn, thanh toán được các khoản nợ, tiếp tục duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh. Chính điều này khẳng định ưu điểm của tố tụng phá sản là có tác dụng “khai tử” cho các doanh nghiệp mắc nợ một cách hòa bình và có trật tự.

Quản tài viên đại diện cho Nhà nước, bởi họ là người được Tòa án chỉ định, thay mặt Tòa án thực hiện các thủ tục pháp lý nhằm giải quyết việc phá sản, nói cách khác họ được pháp luật trao quyền giải quyết vụ việc phá sản và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện các nhiệm vụ đó. Mặt khác, hoạt động của họ cũng nhằm thu hồi các khoản nợ đọng thuế, các khoản phí phát sinh trong quá trình giải quyết việc phá sản cho Nhà nước.

-Hoạt động của Quản tài viên là hoạt động nghề nghiệp, mang tính chuyên nghiệp cao. Hoạt động của Tổ quản lý tài sản, Tổ thanh toán tài sản và Tổ quản lý và thanh lý tài sản theo Luật phá sản năm 1993 và Luật phá sản năm 2004 như đã phân tích là hoạt động vừa mang tính quyền lực nhà nước, vừa mang tính xã hội, do các thành viên đại diện cho nhiều cơ quan, tổ chức thực hiện, phục vụ mục tiêu của Nhà nước là nhằm giải quyết việc phá sản có hiệu quả, bảo đảm tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ, con nợ, người lao động. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 1993 và 2004 cho thấy, do Luật không xác định rõ trách nhiệm của từng thành viên đã dẫn đến tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, việc thực hiện các thủ tục pháp lý do Tổ thực hiện thường bị chậm trễ, hiệu quả thấp. Quản tài viên là chức danh được bổ nhiệm từ những cá nhân có chuyên môn, nghiệp vụ (Luật sư, Kiểm toán viên, người có trình độ về kế toán, tài chính, pháp luật) phù hợp với hoạt động quản lý, thanh lý tài sản vốn có đặc điểm vừa mang tính pháp lý, vừa mang tính kinh tế. Ngoài ra, họ còn phải đáp ứng được yêu cầu về thời gian, kinh nghiệm công tác, phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp theo quy định của pháp luật. Tính chuyên nghiệp cao trong hoạt động của Quản tài viên còn được thể hiện bởi pháp luật có quy định chặt chẽ, toàn diện về nguyên tắc hành nghề, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của Quản tài viên, đặc biệt quy định những hành vi bị nghiêm cấm, trách nhiệm pháp lý của Quản tài viên trong hành nghề quản lý, thanh lý tài sản. Có thể nói, với những quy định về Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, Luật Phá sản năm 2014 đã tạo ra một nghề nghiệp mới – nghề quản lý và thanh lý tài sản ở Việt Nam, thêm một nội dung hoạt động vốn thuộc chức năng của Nhà nước đã được xã hội hóa.

– Hoạt động quản lý, thanh lý tài sản do Quản tài viên thực hiện là hoạt động dịch vụ,mang tính kinh tế. Đặc điểm này được thể hiện ở điểm: Ngoài việc hưởng các chi phí khác như tiền tàu xe, lưu trú và các chi phí hợp lý khác cho việc thực hiện hoạt động quản lý, thanh lý tài sản, mục đích hoạt động của Quản tài viên nhằm hướng tới lợi ích vật chất (thù lao được hưởng từ hoạt động quản lý, thanh lý tài sản). Thù lao của Quản tài viên được chi trả từ tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã dựa trên cơ sở thời gian, công sức, kết quả thực hiện nhiệm vụ của Quản tài viên (Khoản1, Điều 24 Luật Phá sản năm 2014) và được xác định bằng nhiều phương thức như: Căn cứ vào giờ làm việc của Quản tài viên, thỏa thuận mức thù lao trọn gói hoặc mức thù lao tính theo tỷ lệ phần trăm tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản thu được sau khi thanh lý. Tuy nhiên, dù xác định theo phương thức nào thì thù lao cũng phải bảo đảm tương xứng với thời gian, công sức và kết quả lao động của Quản tài viên. Như vậy, giá trị sức lao động của Quản tài viên được xác định trên cơ sở giá cả thị trường và mục đích của hoạt động cung cấp dịch vụ này là lợi ích kinh tế. Đối với Tổ quản lý và thanh lý tài sản, do thành viên hầu hết là đại diện các cơ quan Nhà nước, hưởng lương từ ngân sách nhà nước, trong quá trình tham gia hoạt động quản lý, thanh lý tài sản họ vẫn thực hiện nhiệm vụ thường xuyên nơi công tác,vì vậy mức thù lao họ được hưởng từ hoạt động quản lý, thanh lý tài sản chỉ mang tính “hỗ trợ”, không được xác định trên cơ sở giá cả thị trường, nhìn chung mức chi thấp, không phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội thực tế và không tương xứng với công sức nên không động viên, khích lệ được họ tích cực thực hiện nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài sản.

2. Các mối liên hệ cơ bản của Quản tài viên

2.1. Với Tòa án

Giống như Luật Phá sản của hầu hết các nước, Luật Phá sản của Việt Nam quy định Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền giải quyết vụ việc phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào tình trạng phá sản. Tòa án là trung tâm, nhân danh Nhà nước đưa ra các quyết định có tính chất pháp lý nhằm phục vụ việc quản lý, thanh lý tài sản của con nợ, mặt khác, giúp chủ nợ, con nợ và các chủ thể liên quan đạt được thỏa thuận trong phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc phân chia tài sản của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.

Giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp nói chung và việc quản lý, thanh lý tài sản nói riêng được pháp luật quy định là một quá trình lâu dài và phức tạp. Các hành vi tố tụng này chủ yếu được thực hiện bởi Thẩm phán. Ở Việt Nam, Thẩm phán giữ vai trò quyết định và là trung tâm xuyên suốt các giai đoạn của tố tụng phá sản. Điều này được giải thích bởi Tòa án là cơ quan quyền lực có vai trò là trọng tài, điều hòa lợi ích của các bên trong quá trình giải quyết việc phá sản; ổn định hoạt động của các doanh nghiệp nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung; tránh được tình trạng lộn xộn, chụp giật của các chủ nợ và các bên liên quan trong điều kiện trình độ nhận thức pháp luật của các doanh nghiệp đều chưa cao.

Thẩm quyền của Tòa án trong quản lý, thanh lý tài sản được thực hiện gián tiếp thông qua Quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Quản tài viên do Thẩm phán chỉ định và thay mặt cho Thẩm phán thực hiện chức năng giám sát, quản lý toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ thời điểm mở thủ tục phá sản cho đến khi tuyên bố phá sản. Quan hệ giữa Thẩm phán và Quản tài viên là quan hệ giữa người phụ trách và người thừa hành, thực thi nhiệm vụ được giao; Thẩm phán là người chỉ định đồng thời giám sát, kiểm tra hoạt động của Quản tài viên, ngược lại, Quản tài viên phải báo cáo toàn bộ hoạt động với Thẩm phán, trên cơ sở đó Thẩm phán đưa ra các quyết định pháp lý nhằm quản lý và thanh lý tài sản của doanh nghiệp. Kết quả hoạt động của chủ thể này là rất quan trọng, nó ảnh hưởng tới tiến độ và chất lượng giải quyết vụ việc phá sản của Tòa án, Tòa án dựa vào báo cáo của Quản tài viên để quyết định các vấn đề pháp lý căn bản. Quản tài viên chính là đại diện của Tòa án và suy cho cùng là nhân danh Nhà nước thực hiện nhiệm vụ quản lý, xử lý tài sản của con nợ nhằm thực hiện mục đích của việc phá sản.

2.2. Với chủ nợ

Quản tài viên là đại diện cho chủ nợ khi thực hiện nhiệm vụ của mình, mục đích hoạt động của Quản tài viên nhằm thu hồi lại các khoản nợ cho chủ nợ. Sau khi được Tòa án chỉ định, hoạt động quản lý, thanh lý tài sản vốn là công việc của các chủ nợ được chuyển giao cho chủ thể này. Trong quá trình đó, sự phối hợp giữa hai chủ thể này là rất quan trọng, Quản tài viên có quyền yêu cầu chủ nợ xuất trình các chứng cứ chứng minh các khoản nợ; cung cấp thông tin về tình hình tài chính, khả năng tài sản của con nợ; ngoài ra còn có quyền triệu tập chủ nợ tham dự Hội nghị chủ nợ để bàn bạc, thông qua phương án phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh và các vấn đề quan trọng khác khi cần thiết.

Ngược lại các chủ nợ nhân danh cá nhân hoặc thông qua Hội nghị chủ nợ có quyền đề nghị Thẩm phán cử người quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; quyền đề xuất với Tòa án tên Quản tài viên trước khi mở thủ tục phá sản; thảo luận và thông qua các nội dung mà Quản tài viên đưa ra, đồng thời giám sát hoạt động của chính chủ thể này; quyền kiến nghị Tòa án áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo toàn tài sản của con nợ… Ngoài ra, ở các nước mà chủ thể quản lý tài sản là các cá nhân hoạt động chuyên nghiệp thì giữa chủ nợ và nhân viên quản lý tài sản còn bị ràng buộc bởi hợp đồng thuê khoán dịch vụ, trong đó, chủ nợ là người thuê và phải xác định được mức phí chi trả; nhân viên quản lý tài sản phải thực hiện những nghĩa vụ theo hợp đồng đã cam kết.

2.3. Với con nợ

Quản tài viên không chỉ đại diện cho chủ nợ mà còn là đại diện cho con nợ. Điều đó xuất phát từ mục đích của phá sản không chỉ bảo vệ quyền lợi cho chủ nợ mà còn bảo đảm tính công bằng, nhân đạo, giúp cho con nợ thoát khỏi tình trạng nợ nần với sự bảo đảm pháp lý, qua đó, bảo đảm sự ổn định của nền kinh tế. Quản tài viên thay mặt cho con nợ để thực hiện việc thanh toán với các chủ nợ theo quy định của pháp luật, tránh được tình trạng xiết nợ hoặc phân chia nợ không công bằng và bất hợp pháp. Các con nợ hoàn toàn có quyền yên tâm về các khoản nợ của mình, bởi Quản tài viên không chỉ giúp họ thanh lý, phân chia tài sản một cách công bằng và đúng luật, kể cả trong trường hợp tài sản còn lại của họ không đủ để thanh toán hết các khoản nợ mà còn giúp họ thực hiện việc phục hồi lại hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Quản tài viên có quyền lập bảng kê toàn bộ tài sản của con nợ; giám sát, kiểm tra việc sử dụng tài sản của con nợ và nếu phát hiện con nợ có vi phạm thì có quyền xử lý hoặc đề nghị Thẩm phán xử lý theo thẩm quyền; quyền đề nghị Thẩm phán áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm bảo toàn tài sản khi con nợ có dấu hiệu tẩu tán, cất giấu hoặc làm thất thoát tài sản. Ngược lại, các con nợ với mục đích thanh toán nợ trên cơ sở số tài sản hiện có, có quyền và trách nhiệm cung cấp các thông tin về tài sản; sự trung thực và tích cực của họ là nhân tố quan trọng làm nên hiệu quả của vụ việc phá sản; đồng thời họ cũng có quyền kiến nghị khi thấy Quản tài viên không thực hiện đúng nhiệm vụ của mình, thậm chí, có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại khi gây thiệt hại đến tài sản của họ.

2.4. Quản tài viên và sản nghiệp phá sản

Nhiệm vụ quan trọng xuyên suốt của Quản tài viên là kiểm tra, phát hiện, bảo toàn, thậm chí làm gia tăng khối tài sản phá sản nhằm bảo đảm thu hồi được nhiều nhất lợi ích cho các chủ nợ. Chính vì vậy, pháp luật các nước luôn cho phép Quản tài viên (hoặc các cá nhân có tên gọi khác) được thực hiện những quyền năng nhất định để thực hiện nhiệm vụ này. Xét theo nghĩa rộng thì sản nghiệp bao gồm toàn bộ tài sản nợ và tài sản có của doanh nghiệp, và như vậy, nhiệm vụ của Quản tài viên không không chỉ nhằm phát hiện, bảo toàn và phát triển khối tài sản có mà còn hướng tới việc xác định tập hợp tài sản nợ một cách chính xác, đầy đủ để có một kết quả về tài sản thực có. Tài sản thực có sẽ được dùng để phân chia cho các chủ nợ một cách đầy đủ nhất. Có thể nói, tài sản phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã là đối tượng hướng tới trong hoạt động của Quản tài viên nói riêng, các chủ thể trong quá trình giải quyết phá sản nói chung.

Bên cạnh những mối liên hệ cơ bản trên, Quản tài viên có mối quan hệ chặt chẽ với các chủ thể khác trong quá trình giải quyết phá sản như với người lao động tại doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, với Công đoàn và các tổ chức đoàn thể của doanh nghiệp, hợp tác xã khi bảo vệ lợi ích của người lao động, với các cơ quan Nhà nước khi thực hiện việc truy thu thuế, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền đưa ra các quyết định hành chính liên quan đến doanh nghiệp, hợp tác xã, với các tổ chức kinh tế, cá nhân có liên quan trong việc xác minh, xử lý giao dịch liên quan đến tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã…khi thực hiện nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài sản.

Việc nghiên cứu đặc điểm pháp lý và các mối liên hệ cơ bản của Quản tài viên giúp chúng ta nhận diện được bản chất và nhìn nhận về chủ thể này một cách đầy đủ, toàn diện nhất, đồng thời, đặt ra yêu cầu phải xây dựng Quy chế pháp lý về Quản tài viên phù hợp, qua đó, nâng cao hiệu quả thực thi của chế định Quản tài viên nói riêng, của Luật Phá sản nói chung.

ThS. Đặng Văn Huy

Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Sự ảnh hưởng của luật tục đến việc thực hiện pháp luật trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

06/11/2015

1. Luật tục và vai trò của luật tục

Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Nhà nước được tổ chức, hoạt động và quản lý xã hội bằng Hiến pháp, pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân phải tuân thủ chấp hành pháp luật, mọi quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, trên lãnh thổ nước ta có nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống, do vậy, vẫn tồn tại những luật tục, phong tục tập quán của cộng đồng dân cư bên cạnh hệ thống pháp luật do Nhà nước ban hành và điều này gây ra những ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện pháp luật ở từng địa phương.

Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do Nhà nước ban hành theo một trình tự, thủ tục nhất định và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và nhu cầu tồn tại của xã hội nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, tạo lập trật tự, ổn định cho sự phát triển của xã hội. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, pháp luật thể hiện ý chí của toàn thể nhân dân. Hiện nay, việc ban hành một văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ, nhân dân được tham gia đóng góp ý kiến vào dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật. Có thể nói, nước ta có một hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ, chặt chẽ, tạo hành lang pháp lý rộng rãi, vững chắc cho các cá nhân, tổ chức tham gia vào các quan hệ xã hội, giao lưu hợp tác một cách an toàn và bình đẳng. Ngoài ra, pháp luật còn có ưu điểm vượt trội, có khả năng dự liệu những tình huống sẽ xảy ra trong tương lai để điều chỉnh, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm, số lượng các văn bản quy phạm pháp luật nước ta hiện nay nhiều, giữa các văn bản quy phạm pháp luật còn tồn tại những mâu thuẫn, chồng chéo. Có trường hợp quy định về cùng một vấn đề nhưng các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau lại quy định khác nhau, thậm chí, ngay cả phía cơ quan nhà nước cũng có những cách hiểu khác nhau về cùng một quy định của pháp luật. Do vậy, mặc dù việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho người dân luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, nhưng với một hệ thống pháp luật hiện hành, việc truyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho người dân là rất khó khăn, nhất là người dân tộc thiểu số, người dân ở vùng sâu, vùng xa, ở những nơi người dân có trình độ dân trí thấp. Tình trạng người dân không biết được các quy định của pháp luật vẫn diễn ra một cách phổ biến.

Khác với pháp luật, luật tục là những nguyên tắc xử sự không thành văn, là tập hợp những quy định chặt chẽ về các mối quan hệ và trách nhiệm của các thành viên trong cộng đồng, thể hiện một cách bao quát, phong phú các mối quan hệ xã hội truyền thống. Luật tục được hình thành trong cộng đồng dân cư ở địa phương, được người dân thừa nhận và tự nguyện thực hiện và trở thành truyền thống của cộng đồng dân cư địa phương đó, được cộng đồng dân cư bảo đảm thực hiện. Luật tục gần gũi với người dân, được truyền từ đời này sang đời khác, được lưu truyền trong nhân dân một cách tự nhiên. Đối với người Kinh, lệ làng, hương ước, hương lệ, hương tục là một dạng luật tục của địa phương. Đối với người dân tộc thiểu số, mỗi dân tộc thiểu số có những luật tục riêng của dân tộc mình(Mường, Thái, Dao, Thổ, Ba Na, Êđê…).Luật tục đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau của xã hội như quan hệ cộng đồng, vai trò trách nhiệm của thủ lĩnh, phong tục cưới hỏi, tang lễ, ma chay, tổ chức lễ hội, cúng lễ… trong cộng đồng dân cư, được mọi người thừa nhận và tuân thủ. Những cá nhân vi phạm quy định của luật tục có thể phải chịu những chế tài theo quy ước của cộng đồng dân cư đó.

Luật tục có vai trò quan trọng trong lịch sử hình thành hệ thống pháp luật không chỉ ở Việt Nam mà ở nhiều quốc gia khác trên thế giới. Ở Việt Nam, dưới chế độ phong kiến và đặc biệt ở các vùng dân tộc thiểu số, luật tục đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Chúng ta có thể thấy luật tục có dáng dấp của pháp luật hay luật tục là pháp luật dựa trên phong tục tập quán tộc người (có xử phạt, có chế tài thông qua Toà án cộng đồng, Toà án phong tục) hoặc là hình thức phát triển cao của phong tục, tục lệ, là hình thức sơ khai của luật pháp. Luật tục là hình thức phát triển cao của phong tục tập quán, nhưng được cộng đồng chấp thuận, nó trở thành tình cảm, lương tâm và trách nhiệm của mỗi cá nhân. Nó không có sự áp đặt như pháp luật đối với mỗi cá nhân, mà là sự tự nguyện, tự giác của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Hiện nay, luật tục vẫn còn thể hiện vai trò của mình trong một chừng mực nhất định, vì vậy, trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật, chúng ta không thể không tính đến vị trí, vai trò của luật tục một cách thận trọng để việc áp dụng và thực thi pháp luật đạt hiệu quả cao.

Luật tục là sự quy định phép ứng xử của mọi người trong cộng đồng, là sự trừng phạt những tội phạm, là những quy ước về trách nhiệm đối với người đứng đầu và người già, là những điều cần phải làm, là bổn phận của mỗi người trong xã hội, là những quy tắc để bảo vệ đất đai, rừng núi, nguồn nước, gia súc… của cả cộng đồng. Luật tục là những quy phạm xã hội tác động tới cả sự hình thành lẫn sự thực hiện pháp luật. Ở một khía cạnh nào đó, luật tục cũng có chức năng điều chỉnh xã hội và có ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện pháp luật. Sự ảnh hưởng của luật tục đến việc thực hiện pháp luật được thể hiện ở cả hai mặt, tích cực và tiêu cực. Nếu như những luật tục tồn tại trong nhân dân phù hợp với sự phát triển chung của địa phương, của đất nước, phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, việc áp dụng pháp luật sẽ rất dễ dàng và thuận lợi, khi đó, luật tục sẽ ảnh hưởng tích cực đến việc thực hiện pháp luật. Ngược lại, nếu như những luật tục cổ hủ, lạc hậu, trái với sự phát triển chung, trái với chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước sẽ là rào cản, ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật.

Luật tục xuất hiện từ sớm, tồn tại lâu đời, ngấm sâu vào tiềm thức của nhân dân, được truyền từ đời này sang đời khác, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, trở thành thói quen ứng xử hàng ngày của họ và được đảm bảo thực hiện bằng dư luận xã hội, bằng các biện pháp cưỡng chế của cộng đồng nên được người dân tự giác thực hiện (chức năng điều chỉnh xã hội). Vì vậy, những tập quán, luật tục phù hợp với ý chí của Nhà nước, nguyện vọng của nhân dân cần được thừa nhận, hình thành những quy tắc xử sự tích cực, được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Trong trường hợp đó, các quy định của pháp luật được người dân ủng hộ và việc thực hiện và áp dụng pháp luật được dễ dàng hơn. Các tập quán, luật tục phù hợp với ý chí của Nhà nước đã tác động tích cực tới cả sự hình thành lẫn sự thực hiện pháp luật, nếu biết phát huy, lồng ghép với các quy định của pháp luật sẽ đem lại hiệu quả cao, góp phần giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh luật tục mang tính tích cực, những luật tục không còn phù hợp với sự phát triển của xã hội, trái với ý chí của Nhà nước cần phải có những biện pháp loại bỏ chúng ra khỏi đời sống xã hội.

Để thực hiện điều này, ngày 11/05/1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ-CP về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Quy chế thực hiện dân chủ ở xã nhằm phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân ở xã, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của nông dân và nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội, tăng cường đoàn kết nông thôn, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây dựng Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể ở xã trong sạch, vững mạnh; ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng, góp phần vào sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân gắn liền với cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”; phát huy tốt chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, thực hiện tốt chế độ dân chủ trực tiếp ở cơ sở để nhân dân bàn bạc và quyết định trực tiếp những công việc quan trọng, thiết thực, gắn liền với lợi ích của mình. Cũng trong năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 24/1998/CT-TTG ngày 19/6/1998 về việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư. Trước đây, hương ước đã xuất hiện tự phát ở từng làng quê. Đó là tập hợp những quy ước, luật tục liên quan đến các mặt của đời sống làng xã được ghi chép thành văn bản, được cộng đồng làng xã cùng nhau tuân thủ. Đến nay, việc xây dựng hương ước được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, việc xây dựng hương ước vẫn giữ gìn bản sắc riêng của từng làng quê Việt Nam, nhưng tuân thủ các quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phù hợp với sự phát triển của đất nước trong thời kỳ mới, mở rộng giao lưu, hợp tác và hội nhập. Việc xây dựng hương ước, có thể nói là một cách chắt lọc những luật tục, phong tục tập quán tích cực, tiếp tục nhân rộng để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong cộng đồng một cách lành mạnh, phù hợp với quy định của pháp luật, từ đó pháp luật của Nhà nước truyền tải tới nhân dân một cách mềm mại hơn, gần gũi hơn. Những luật tục phù hợp, tích cực được Nhà nước ghi nhận và bảo đảm thực hiện, những luật tục không phù hợp được loại bỏ để xây dựng một xã hội bình đẳng, công bằng, văn minh, giàu mạnh. Đến ngày 31/3/2000, Liên Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch), Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ban hành Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT/BTP-BVHTT-TTUBTƯMTTQVN về việc hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư. Tất cả những chủ trương đó cho thấy, Nhà nước ta quản lý xã hội bằng pháp luật, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đề cao tính tự quản, tự trị của các thôn, làng, ấp, bản, cụm dân sư, những luật tục, phong tục tập quán tích cực, phù hợp được Nhà nước ghi nhận. Những quy định này đã trở thành tiền đề cho việc giữ gìn và phát huy những phong tục tập quán tốt đẹp trên nguyên tắc tôn trọng và tuân thủ pháp luật, phù hợp với đạo đức và truyền thống dân tộc.

2. Sự ảnh hưởng của luật tục đến việc thực hiện pháp luật trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

Thanh Hóa là địa phương có diện tích rộng (đứng thứ năm trong cả nước), dân cư đông đúc (chỉ sau thủ đô Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh), là địa phương có nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống (Kinh, Mường, Thái, H’mông, Dao, Thổ, Hoa)[1], với nhiều lệ làng, phong tục tập quán, luật tục khác nhau (người Kinh có lệ làng của mỗi làng, thôn…, người Mường có luật tục của người Mường, người H’mông có luật tục của người H’mông, người Dao có luật tục của người Dao…), do đó, việc thực hiện pháp luật ở tỉnh Thanh Hóa chịu sự tác động không nhỏ bởi luật tục của các địa phương, của từng đồng bào dân tộc thiểu số. Điều này đã là thách thức lớn đối với chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng nơi đây trong quá trình triển khai thực hiện pháp luật của Nhà nước.

Trong những năm qua, thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa luôn được các cấp chính quyền quan tâm, trú trọng. Để thực hiện thống nhất, chính quyền các huyện, thị xã, thành phố đã tích cực chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng Ủy ban nhân dân các xã, phường, thị trấn xây dựng hương ước, quy ước phải phù hợp với đặc thù từng địa phương; chỉ đạo Ủy ban nhân dân các xã, phường, thị trấn xây dựng, ban hành, phê chuẩn hương ước, quy ước tại địa phương theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật. Vì vậy, đến nay, các địa phương cơ bản đã xây dựng được các bản hương ước, quy ước thích hợp, phát huy dân chủ trong cộng đồng dân cư; bảo đảm giữ gìn và phát huy thuần phong, mỹ tục, thực hiện nếp sống văn minh trong ứng xử, giao tiếp, xóa bỏ hủ tục, phát triển các hoạt động văn hóa lành mạnh, xây dựng và phát huy tình làng nghĩa xóm, đoàn kết, tương thân, tương ái, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng dân cư; thực hiện tốt các chủ trưong, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Nhằm góp phần hỗ trợ tích cực trong việc chấp hành hương ước, quy ước ở khu dân cư, thời gian qua Thanh Hóa đã có chủ trương định hướng về xây dựng quy định ứng xử ở khu dân cư. Hội đồng nhân dân tỉnh đã ban hành nghị quyết trong đó định hướng nội dung hương ước, quy ước phù hợp pháp luật và thực tiễn địa phương. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã ban hành các quyết định như: Quyết định số 3037/QĐ-CT ngày 16/9/2002 về việc phê duyệt Đề án tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; Quyết định số 1026/QĐ-UBND ngày 9/4/2009 điều chỉnh, bổ sung quy chế công nhận danh hiệu làng văn hóa, khu phố văn hóa cấp tỉnh; Chỉ thị số 08/CT-UBND ngày 14/2/2015 của về việc tăng cường công tác quản lý, tổ chức và thực hiện nếp sống văn minh trong hoạt động lễ hội… tạo cơ sở quan trọng để thống nhất việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước trên địa bàn.

Theo số liệu thống kê năm 2005, tại Thanh Hóa đã có 4.666 bản hương ước quy ước được phê duyệt/5.423 thôn, làng, bản khu dân cư (chiếm 86% số thôn, bản, làng, khu dân cư). Năm 2010, có 5.235 bản hương ước quy ước được phê duyệt/5.503 thôn, làng, bản khu dân cư (chiếm 95%); đến năm 2014, có 5.466 bản hương ước quy ước được phê duyệt/5.636 thôn, làng, bản khu dân cư (chiếm 97% số thôn, bản, làng, khu dân cư). Các thôn, làng, khu dân cư chưa xây dựng và phê duyệt được hương ước, quy ước đã và đang tích cực xây dựng, phê duyệt hương ước, quy ước để đáp ứng yêu câu. Theo thống kê năm 2005, toàn tỉnh số hương ước đang được xây dựng là 501 bản, đến năm 2010 đang xây dựng thêm 127 bản, năm 2014 xây dựng thêm 72 bản. Số lượng hương ước, quy ước chưa được phê duyệt càng có xu hướng ngày càng giảm, năm 2005 toàn tỉnh còn 304 bản hương ước, quy ước chưa được phê duyệt, năm 2010 con số này giảm xuống còn 141 bản, đến 2014 chỉ còn 95 bản[2].

Thực tiễn xây dựng hương ước, quy ước như trên cho thấy, với vai trò hỗ trợ và bổsung cho pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội tại cộng đồng dân cư, hương ước, quy ước đang dần chiếm địa vị pháp lý quan trọng trong đời sống xã hội, trở thành công cụ mở rộng, phát huy dân chủ ở cơ sở, giúp nhân dân giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước. Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc nội dung, hình thức xây dựng các bản hương ước, quy ước trước đây, các thôn, bản, khu dân cư tại Thanh Hóa đã vận dụng sáng tạo, xây dựng nên những bản hương ước, quy ước tại cơ sở phù hợp với vùng, miền và đảm bảo đúng pháp luật. Hiện nay, tình hình thực hiện hương ước, quy ước trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá cơ bản được thực hiện nghiêm túc, có tính tự giác tương đối cao, việc niêm yết, phổ biến hương ước, quy ước đã được phê duyệt hầu hết được các địa phương công khai đến các thành viên đại diện hộ gia đình, trong cộng đồng dân cư.

Việc xây dựng hương ước, quy ước của thôn, bản, khu dân cư là chính sách đúng đắn của Nhà nước ta. Hương ước, quy ước được xây dựng phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, gần gũi, phù hợp với tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của nhân dân, giữ gìn được bản sắc riêng của mỗi địa phương. Đặc biệt, chủ trương này có ý nghĩa quan trọng đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Đa số đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tập trung, mỗi dân tộc thiểu số có những luật tục riêng. Việc tuyên truyền pháp luật cho những đối tượng người dân tộc thiểu số là rất khó khăn vì nhiều nguyên nhân khác nhau như: Người dân tộc thiểu số thường sống tập trung ở những nơi vùng sâu, vùng xa đường xá đi lại xa xôi, vì trình độ dân trí của đồng bào dân tộc thiểu số còn chưa cao, vì hệ thống pháp luật của chúng ta còn cồng kềnh… nhưng hơn cả người dân tộc thiểu số họ có những luật tục riêng của dân tộc mình, những luật tục này được lưu truyền, ăn sâu vào tiềm thức của bà con vì vậy việc tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho người dân tộc thiểu số là rất khăn. Tuy nhiên, thực hiện quy định xây dựng hương ước, quy ước của thôn, bản khu dân cư đã giải quyết được tình trạng này. Đồng bào dân tộc thiểu số xây dựng quy ước, hương ước riêng của thôn, bản, khu dân cư của mình. Những quy ước này phù hợp với chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phù hợp với phong tục tập quán của bà con. Thanh Hóa là tỉnh có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống, việc tuyên truyền pháp luật, bài trừ những hủ tục lạc hậu là việc làm rất khó khăn. Tuy nhiên, triển khai thực hiện nghiêm túc quy định của pháp luật về xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư, nhiều đồng bào dân tộc thiểu số đã có bản quy ước của bản, cụm dân cư của mình. Theo đó, chính sách pháp luật của Nhà nước đã đến được với bà con, được bà con đón nhận, những hủ tục (nạn tảo hôn, kết hôn không giá thú, tổ chức lễ hội tốn kém, người chết để lâu trong nhà, ăn uống trong tổ chức ma chay mất vệ sinh…) được loại bỏ, cuộc sống của đồng bào văn minh hơn. Trước đây, tục cướp vợ là một luật tục của người H’mông. Khi gia đình có con gái lớn, người con trai đến nhà người con gái cướp về để làm vợ, thêm người làm, sinh con đẻ cái… Người con gái không được tìm hiểu để lựa chọn cho mình một người chồng phù hợp, phải kết hôn khi chưa đủ tuổi quy định. Nhưng đến nay, nam nữ H’mông đến tuổi kết hôn được tự do tìm hiểu nhau và kết hôn theo quy định của pháp luật.

Có thể nói, luật tục có ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện pháp luật, để phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế yếu tố tiêu cực lạc hậu của luật tục, các cơ quan nhà nước ở Trung ương cần chỉ đạo, phối hợp, hỗ trợ các cơ quan nhà nước địa phương tiến hành đồng thời xây dựng nếp sống văn hoá, gia đình văn hoá, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, phát triển kinh tế – xã hội, giao thông, thông tin liên lạc, từng bước nâng cao dân trí, đời sống vật chất, văn hoá tinh thần cho nhân dân, từ đó, từng bước xoá bỏ những tập tục lạc hậu, đưa những chuẩn mực đạo đức tiến bộ phù hợp với phong tục, tập quán của dân tộc. Bên cạnh đó, cần tiếp tục xem xét, giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục, coi luật tục là sự bổ sung cho pháp luật, vì pháp luật không thể bao quát hết được mọi đặc thù của từng dân tộc. Nghiên cứu, xây dựng Bộ luật Dân tộc, trong đó có quy định những nguyên tắc chung về luật tục, những nguyên tắc sử dụng luật tục.., tạo tiền đề để điều hoà các mối quan hệ giữa các dân tộc, đặc biệt là các dân tộc sinh sống ở địa bàn miền núi.

Đối với tỉnh Thanh Hóa, là địa phương có địa bàn rộng, phức tạp với nhiều người dân tộc thiểu số sinh sống, nhiều luật tục thể hiện sự lạc hậu, cổ hủ trong nhận thức thậm chí là phản khoa học, trái với pháp luật hiện hành của Nhà nước, gây tâm lý cục bộ, hình thành tư tưởng “phép vua thua lệ làng”, khó khăn cho việc quản lý nhà nước, thực hiện pháp luật ở địa phương. Vì vậy, việc tiếp thu những giá trị của hương ước, luật tục cũ để xây dựng hương ước, luật tục mới phù hợp với quy định của pháp luật, xóa bỏ những hủ tục lạc hậu ở thôn, bản, buôn, làng cần được tiếp tục thực hiện để xây dựng và nâng cao đời sống văn hóa tại các địa phương trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.

ThS. Phùng Thị Quyên & ThS. Nguyễn Thị Quy

Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa



[1] Thanhhoa.gov.vn.

[2] Báo cáo về việc rà soát, đánh giá tình hình xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước của Sở Tư pháp tỉnh Thanh Hóa năm2015.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Cơ sở pháp lý đảm bảo quyền được sống trong môi trường trong lành ở Việt Nam

30/10/2015

1. Mối quan hệ giữa con người và môi trường thiên nhiên

Lịch sử cho thấy, lâu nay con người luôn có ý thức về sự tham gia của mình vào môi trường thiên nhiên, cái quyết định cuộc sống của họ. Những ghi chép cổ xưa trong các tôn giáo khác nhau đã chứng tỏ điều này. Trong các sách kinh về sự hình thành, có một điểm chung giữa các đạo Do thái, Thiên chúa giáo và Hồi giáo là Chúa trời trao cho con người quyền thống trị muôn loài, tạo ra sự liên kết không chỉ với con người mà còn với các loài chim, gia súc và các động vật hoang dã [1]. Trong đạo phật, một văn bản có từ thế kỷ thứ III trước Công nguyên đã dẫn một lời nói dành cho một vị vua để nhắc nhở ông ta rằng, các loài chim ở trên trời và các loài thú vật cũng có quyền sống và quyền tự do di chuyển giống như chính nhà vua: Trái đất thuộc về loài người và tất cả các sinh vật sống, nhà vua chỉ là người canh giữ [2]. Nhiều nền văn minh khác cũng thừa nhận một mối liên hệ huyền bí giữa họ với thiên nhiên, những thuyết về vũ trụ bắt đầu bằng sự kết hôn giữa Mặt đất, Bầu trời và Thời gian. Trong quan niệm của người châu Phi, châu Mỹ hay châu Á, đất là nữ thần mẹ của loài người. Đất vừa sinh ra con người vừa nuôi dưỡng con người. Như vậy, đất rất thiêng liêng và các loài động vật cũng như thực vật xứng đáng được tôn trọng, các buổi lễ hiến tế hay các nghi lễ trước khi săn bắn hay gặt hái đã chứng minh cho điều đó.

Các quan điểm trên cũng đã dần thay đổi cùng với sự xuất hiện của lợi nhuận, chú trọng đến giá trị vật chất, ở những nơi nông nghiệp và công nghiệp phát triển, mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên đã bị đảo lộn. Sự phát triển của kỷ nguyên công nghiệp và những tiến bộ kinh ngạc của khoa học kỹ thuật đã nảy sinh ra một tư tưởng là từ nay con người, những người chủ duy nhất của thế giới, có thể tự cho phép mình làm tất cả và phải làm chủ thiên nhiên. Trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng, Ăngghen đã cho rằng: “Chúng ta hoàn toàn không thống trị được giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác, như một người sống bên ngoài giới tự nhiên, mà trái lại, bản thân chúng ta, với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta là thuộc về giới tự nhiên, chúng ta, nằm trong lòng giới tự nhiên và tất cả sự thống trị của chúng ta đối với giới tự nhiên là ở chỗ chúng ta, khác với tất cả các sinh vật khác, là chúng ta nhận thức được quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng được những quy luật đó một cách chính xác” [3]. Ăngghen khẳng định rằng, do nhận thức được quy luật của tự nhiên mà con người có thể dự báo được những hậu quả do sự tác động của con người vào môi trường thiên nhiên: “Nhưng nếu chúng ta đã phải trải qua hàng nghìn năm lao động mới có thể trong một chừng mực nào đó, đánh giá trước được những hậu quả tự nhiên xa xôi của những hành động sản xuất của chúng ta, thì chúng ta lại càng phải trải qua nhiều khó khăn hơn nữa, mới có thể hiểu biết được những hậu quả xã hội xa xôi của những hành động ấy” [4].

Để giải đáp các thách thức mà ô nhiễm môi trường, suy thoái hay sự cố môi trường đã đặt ra, sau những lời cảnh báo của các nhà khoa học từ những năm 1960, chúng ta cần nhắc lại quan điểm chung của một số nước trên thế giới đã thúc đẩy các Chính phủ quan tâm đến tình trạng của môi trường. Các dòng nước, đại dương, khí quyển, hệ động thực vật hoang dã không có biên giới: Sự tác động chính bên trong một quốc gia có thể gây ra những hậu quả cho môi trường ở bên ngoài biên giới nước đó hoặc tại lãnh thổ của nước khác hoặc trên bề mặt biển. Theo cách nhìn này, hiện tượng thủy triều đen bị gây ra bởi các tai nạn tràn dầu và vụ tai nạn Tchernobyl năm 1986 chính là những lời cảnh báo nghiêm trọng. Như vậy mối quan hệ chặt chẽ giữa sức khoẻ con người và chất lượng môi trường ngày càng trở nên hiển nhiên hơn.

Ở Việt Nam trong thời gian gần đây, người dân luôn phải gánh chịu những hậu quả nặng nề do các hoạt động phát triển kinh tế gây ra và công tác bảo vệ môi trường còn nhiều hạn chế, bất cập. Môi trường vẫn từng ngày, từng giờ bị chính các hoạt động sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt của người dân làm ô nhiễm nghiêm trọng. Đó là kết quả tất yếu của sự thiếu ý thức tôn trọng môi trường thiên nhiên ở nước ta. Nếu những hành vi của con người phù hợp với quy luật của tự nhiên thì môi trường sẽ là người bạn tốt, đầy thiện chí, ngược lại, những hành vi trái với quy luật tự nhiên thì sức trả thù của môi trường sẽ lớn hơn bất cứ lực lượng xã hội nào [5].

2. Nhận thức về quyền được sống trong môi trường trong lành

Hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp luôn góp phần bảo đảm thực hiện những nguyên tắc cơ bản của pháp luật bảo vệ môi trường Việt Nam, trong đó có nguyên tắc “bảo đảm và ghi nhận quyền được sống trong môi trường trong lành của con người”. Khái niệm quyền về môi trường xuất hiện lần đầu tiên trên bình diện quốc tế, đó là Tuyên bố của Hội nghị Liên Hợp Quốc về môi trường và con người (Hội nghị Stockhom năm 1972) nêu rõ: “Con người có quyền cơ bản được tự do, bình đẳng và được hưởng đầy đủ các điều kiện sống trong một môi trường chất lượng cho phép cuộc sống có phẩm giá và phúc lợi mà con người có trách nhiệm trong bảo vệ và cải thiện cho các thế hệ hôm nay và mai sau” [6]. Quyền về môi trường cũng được ghi nhận tại Hiến chương châu Phi về các quyền của con người và các dân tộc năm 1981, Điều 24 quy định: “Tất cả các dân tộc có quyền có một môi trường thỏa mãn và toàn cầu, có lợi cho sự phát triển của họ”; Điều 11 Nghị định thư bổ sung Hiệp ước châu Mỹ về các quyền của con người về kinh tế, xã hội và văn hoá được thông qua tại San Salvador ngày 17/11/1988 đã mang đến những chỉ dẫn bổ sung. Nó cũng thừa nhận: “Quyền có một môi trường trong lành: (i) Tất cả mọi người có quyền sống trong môi trường trong lành và hưởng những trang thiết bị chung chủ yếu; (ii) Các nước thành viên khuyến khích việc bảo vệ, bảo tồn và cải thiện môi trường”.

Hiệp ước châu Phi về các nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường và sự phát triển, được thông qua ngày 11/7/2003 tại Maputo, là văn bản quốc tế hoàn chỉnh nhất về điểm này: “Bằng việc sử dụng các biện pháp nhằm thực hiện các mục tiêu của Hiệp ước này và thực thi những điều khoản của nó, các nước thành viên sẽ được chỉ dẫn bởi: (i) Quyền của tất cả các dân tộc có môi trường thỏa mãn tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của họ; (ii) Nghĩa vụ của các nước, một cách cá nhân hay tập thể, phải bảo đảm việc thực hiện quyền phát triển; (iii) Nghĩa vụ của các nước phải làm thỏa mãn các nhu cầu về phát triển và môi trường theo cách bền vững, đúng và cân bằng”. Hai phương diện của quyền về môi trường: Quyền của tất cả mọi người và nghĩa vụ của Nhà nước, nằm trong Hiến pháp của rất nhiều nước theo cách toàn bộ hoặc tách rời các phương diện trên. Chúng ta cũng có thể nhắc lại rằng Điều 24 của Hiệp ước ngày 20/11/1989 về các quyền của trẻ em quy định các nước phải có nghĩa vụ đưa ra các biện pháp thích hợp nhằm bảo vệ sức khỏe của trẻ em, đặc biệt bằng cách chú trọng đến các vấn đề nguy hiểm và các nguy cơ gây ra bởi ô nhiễm môi trường. Cũng như thế, Hiệp ước 169 của Tổ chức Lao động quốc tế về các dân tộc bản xứ tại các nước độc lập bắt buộc các nước thành viên phải thực hiện các biện pháp đặc biệt nhằm bảo vệ môi trường của các dân tộc này [7]. Tuyên bố của Hội nghị Liên Hợp Quốc về môi trường và phát triển – Hội nghị Rio de Janeiro năm 1992 cũng khẳng định: “Con người là trung tâm của những mối quan tâm về sự phát triển lâu dài. Con người có quyền được hưởng một cuộc sống hữu ích, lành mạnh và hài hòa với thiên nhiên”. Như vậy, thực hiện tốt pháp luật bảo vệ môi trường, trên một bình diện nào đó đồng nghĩa với việc bảo đảm quyền được sống trong một môi trường với chất lượng đạt tiêu chuẩn cho phép, cuộc sống được bảo đảm lành mạnh, hữu ích và được hài hòa với môi trường thiên nhiên.

3. Thực trạng vấn đề bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành ở Việt Nam

Bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành ở Việt Nam nói riêng liên quan trực tiếp đến lợi ích của con người: Môi trường là không gian tồn tại của con người, là nơi con người khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nơi cung cấp cơ sở vật chất cho con người tồn tại và phát triển đồng thời cũng là nơi tiếp nhận tất cả những chất thải do con người loại ra. Môi trường thực sự đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống con người. Do vậy, để bảo vệ tốt quyền được sống trong môi trường trong lành, quan hệ giữa các chủ thể phải được thực hiện dựa trên những căn cứ pháp lý nhất định, đó chính là pháp luật bảo vệ môi trường. Để bảo vệ môi trường có hiệu quả, ngăn ngừa và giảm thiểu đến mức tối đa các tác động tiêu cực đến con người và sinh vật và được thực hiện trong một trật tự nhất định trong quá trình tổ chức thực hiện các quy định về bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Nhà nước với tư cách là chủ thể của quyền lực chính trị, thông qua hệ thống các quy phạm pháp luật để thể chế các quan điểm, đường lối, chính sách của mình liên quan đến hoạt động bảo vệ môi trường, quy định quy trình thực hiện hoạt động ngăn ngừa, hạn chế, xử lý ô nhiễm môi trường; quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ bảo vệ môi trường và trách nhiệm pháp lý khi thực hiện những vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường.

Với các quy định pháp luật hiện hành về bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay có thể thấy, chúng ta chưa xây dựng được một khung pháp luật thực sự hoàn thiện trên lĩnh vực này. Thực tế, trong hoạt động quản lý và bảo vệ môi trường ở Việt Nam đã manh nha hình thành cơ chế bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành từ những năm 1990 khi yêu cầu này xuất hiện và được thể hiện trong đạo luật đầu tiên về bảo vệ môi trường ở nước ta vào năm 1993. Tiếp đó, tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành đã được xác định trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, trong Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, đặc biệt là trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014. Đối chiếu những quy định đó trong thực tiễn áp dụng chúng ta sẽ thấy được những kết quả đã đạt được đồng thời còn tìm ra nhiều điểm bất cập cần được khắc phục, giải quyết. Chúng tôi xin đề cập một số hạn chế, bất cập chủ yếu như sau:

Một là, các quy định về hoạt động đánh giá môi trường còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập dẫn tới khó khăn trong hoạt động bảo vệ, cải thiện chất lượng môi trường ở Việt Nam. Thực tế, đối với nhiều dự án, việc thực hiện các quy định pháp luật về báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) còn mang nặng tính hình thức. Tồn tại tình trạng nhiều báo cáo ĐTM quá kém về chất lượng.

Hai là, trong thời gian qua, việc phát triển kinh tế mạnh mẽ ở nước ta là nguyên nhân phát sinh ngày càng lớn lượng chất thải gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng môi trường và sức khỏe của người dân. Có thể thấy rõ các quy định về quản lý chất thải đã được Nhà nước ban hành cơ bản và đi vào cuộc sống, tuy nhiên, các quy định này còn chưa được hoàn thiện và chưa được thực thi triệt để trên thực tế. Nguyên nhân là do thiếu cơ chế triển khai thực hiện, thiếu văn bản hướng dẫn cụ thể dẫn đến việc triển khai không hiệu quả hoặc không thể phù hợp với thực tiễn. Ngoài ra, hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật quy định về một số nội dung chủ yếu về quản lý chất thải như nhân lực, bộ máy tổ chức, trình độ, các hướng dẫn kỹ thuật… vẫn còn thiếu, dẫn đến các hoạt động khó triển khai, đặc biệt đối với công tác quản lý chất thải nguy hại. Đối với chất thải rắn hiện nay còn nhiều vướng mắc trong công tác quản lý, như hệ thống tổ chức và phân công trách nhiệm quản lý chất thải rắn đang được kiện toàn và phân công tương đối cụ thể từ trung ương đến địa phương nhưng vẫn còn phân tán, chồng chéo và nhiều lỗ hổng.

Ba là,những hạn chế trong việc xây dựng và ban hành hệ thống quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Hệ thống quy chuẩn kỹ thuật môi trường là các quy định khá quan trọng mà các cơ quan nhà nước cần phải quy định để đánh giá, kiểm soát sự thay đổi của môi trường, là cơ sở pháp lý để nhà nước kiểm soát những tác động tiêu cực gây ra cho môi trường từ các hoạt động phát triển kinh tế ở nước ta. Theo Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 thì quy chuẩn kỹ thuật môi trường được hiểu là quy định mức giới hạn của đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý mà sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế – xã hội phải tuân thủ để bảo đảm an toàn, vệ sinh, sức khỏe con người; bảo vệ động vật, thực vật, môi trường; bảo vệ lợi ích an ninh quốc gia, quyền lợi của người tiêu dùng và các yêu cầu thiết yếu khác. Quy chuẩn do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành dưới dạng văn bản để bắt buộc áp dụng đối với các chủ thể có liên quan. Có thể thấy, khái niệm về quy chuẩn kỹ thuật môi trường còn khá mới mẻ ở Việt Nam, vì thế đã gây khó khăn, lúng túng trong quá trình tổ chức thực hiện. Quy trình xây dựng và ban hành quy chuẩn kỹ thuật môi trường còn nhiều vướng mắc, bất cập, mất nhiều thời gian. Các tổ chức, cá nhân chưa thực sự hiểu về vấn đề này để tham gia vào quá trình xây dựng và ban hành quy chuẩn kỹ thuật môi trường, chưa chú trọng đóng góp ý kiến.

Bốn là,chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đã được quy định tập trung vào một đầu mối thống nhất là Bộ Tài nguyên và Môi trường, tuy nhiên vẫn chưa thật sự triệt để. Vì hiện nay, việc quản lý tài nguyên vẫn còn được quy định rải rác phân bổ cho các bộ, ngành khác nhau, do vậy vấn đề phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong hoạt động bảo vệ môi trường chưa thực sự đồng bộ và hiệu quả.

Năm là, những vướng mắc trong vấn đề xử lý các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường. Có thể nhận thấy tỷ lệ các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ vi phạm pháp luật môi trường rất cao. Nhìn chung, công tác xử lý vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường đã được các cơ quan chức năng cố gắng thực hiện và đã có được những kết quả nhất định, tuy nhiên, hoạt động này vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc vì nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau: Đơn cử như năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cũng chưa đáp ứng được yêu cầu nên việc kiểm tra chưa được thường xuyên, sát sao; chưa kịp thời phát hiện và xử lý được nhiều vụ vi phạm pháp luật môi trường mang tính nghiêm trọng; thực tế hiện nay, các mức phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung là còn quá nhẹ, không hợp lý và còn nhiều điểm quy định rất chung chung. Ngay cả các quy định về tội phạm môi trường với các mức xử lý các cá nhân vi phạm cũng còn rất thấp… Do đó, trong thời gian qua, có rất nhiều tổ chức và cá nhân vi phạm các quy định này mà vẫn thường xuyên tái phạm vì tiền phạt quá nhẹ so với kinh phí trang thiết bị đầu tư cho công tác xử lý ô nhiễm môi trường. Vì vậy, sự nghiêm minh và tính răn đe của pháp luật chưa được phát huy hiệu lực. Giải pháp đề ra là, trong thời gian tới, chúng ta cần sửa đổi, bổ sung các mức xử phạt đúng đắn, sát với tình hình thực tế của công tác bảo vệ môi trường nhằm nâng cao hiệu lực pháp lý trong vấn đề bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành của người dân Việt Nam.

TS. Lê Kim Nguyệt

Tài liệu tham khảo:

[1]. Nhóm Phiên dịch các giờ kinh phụng vụ (2002), Kinh Thánh Trọn Bộ Cựu Ước và Tân Ước, Nxb. TP. Hồ Chí Minh.

[2]. George Turnour (1837), Mahvamsa 14 Chapters, Cotto.

[3]. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 654, 655.

[4]. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 655, 656.

[5]. Phan Văn Thạng (2011), Mối quan hệ giữa con người và môi trường trong sự phát triển bền vững ở nước ta nhìn từ góc độ xã hội học, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ, 18a, tr. 251.

[6]. Xem: Tuyên bố của Hội nghị Liên Hợp Quốc về môi trường và con người, Nguyên tắc 1, (1995), Các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 11.

[7]. Quy định tại khoản 1 Điều 4 Hiệp ước 169 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO).

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Vấn đề bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất

30/10/2015

Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước tiến hành thu hồi đất luôn là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm nhất của toàn xã hội. Về mặt lý luận, có thể coi “thu hồi đất” là đặc quyền mà chỉ một thực thể duy nhất là Nhà nước mới có. Đặc quyền này được ghi nhận tại khoản 3, Điều 54, Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng”. Để cụ thể hóa vấn đề này, Luật Đất đai năm 2013 đã quy định các trường hợp Nhà nước thực hiện thu hồi đất bao gồm: Thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; thu hồi đất để phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai; thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người. Nhiều nội dung liên quan đến bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất đã được quy định cụ tại Luật Đất đai năm 2013.

Có thể thấy rằng, những quy định về vấn đề bồi thường và giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất ngày càng được hoàn thiện và thống nhất tạo điều kiện cho việc áp dụng luật vào thực tiễn có hiệu quả. Tuy nhiên, qua thực tiễn cho thấy, vấn đề bồi thường và giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất còn tồn tại những khó khăn, hạn chế…

Tác giả Lê Thị Nhung đã có bài viết nghiên cứu trao đổi về vấn đề bồi thường, giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất với những nội dung chính sau: (1) Quy định của pháp luật về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất; (2) Những khó khăn, vướng mắc; (3) Đề xuất giải pháp. Để tìm hiểu thêm những nội dung mà tác giả đã đề cập, độc giả có thể xem bài viết được đăng trên số Tạp chí định kỳ 64 tháng 10/2015 của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.

Việt Tiến

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số kết quả sau 2 năm triển khai Luật Hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Bình

29/12/2015

Hòa giải là một truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Hoạt động hòa giải mang đậm tính nhân văn, hoạt động vì mọi người trên cơ sở đạo đức xã hội và nền tảng pháp luật. Mục đích của hòa giải ở cơ sở là nhằm giữ gìn tình làng, nghĩa xóm, tình đoàn kết tương thân tương ái trong cộng đồng dân cư, hàn gắn vun đắp sự hòa thuận, hạnh phúc cho từng gia đình, mang lại niềm vui cho mọi người, mọi nhà, góp phần giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân.

Xuất phát từ nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của công tác hòa giải, công tác triển khai thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở (gọi tắt Luật) trên địa bàn tỉnh đã được các cấp, các ngành chỉ đạo. Qua đó, góp phần giải quyết trực tiếp những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, góp phần hạn chế đơn, thư khiếu nại vượt cấp trong nhân dân, góp phần phát triển kinh tế – xã hội.

Để triển khai Luật, ngày 29/11/2013 Uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 1376/KH-UBND về triển khai thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Bình; Công văn số 327/UBND-NC ngày 07/4/2015 về việc tiếp tục triển khai thực hiện tốt công tác hòa giải ở cơ sở. UBND cấp huyện đã ban hành kế hoạch chỉ đạo tổ chức thực hiện. Qua 2 năm triển khai đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận:

Toàn tỉnh đã tổ chức được 261 hội nghị, buổi họp. Ở cấp tỉnh, đã tổ chức 79 hội nghị cho hơn 7.900 lượt người là đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh; các doanh nghiệp nhà nước do tỉnh quản lý; các cơ quan trung ương đóng trên địa bàn; đại diện lãnh đạo UBDN cấp huyện; báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh; công chức tư pháp cấp huyện; công chức tư pháp – hộ tịch, giáo viên giảng dạy môn giáo dục công dân và nhân dân. Ở cấp huyện, đã tổ chức 182 hội nghị cho hơn 19.500 lượt người tham dựlà đại diện lãnh đạo UBND cấp xã, các phòng chuyên môn, đoàn thể cấp huyện, cấp xã;báo cáo viên pháp luật cấp huyện; trưởng thôn, bản, tiểu khu, tổ dân phố, trưởng ban công tác mặt trận; hòa giải viên, tuyên truyền viên và nhân dân.

Đội ngũ quản lý nhà nước về hoà giải ở cơ sở luôn được quan tâm củng cố, kiện toàn. Toàn tỉnh có 286 chuyên viên trực tiếp thực hiện công tác quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở, trong đó, cấp tỉnh có 05 chuyên viên, cấp huyện có 24 chuyên viên và cấp xã có 257 chuyên viên.Công tác bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ, kỹ năng thực hiện công tác quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở luôn được Sở Tư pháp và UBND các cấp quan tâm. Kết quả đã tổ chức 25 lớp tập huấn, bồi dưỡng cho hơn 2.562 lượt người. Trong đó, có 14 hội nghị báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh với hơn 1.500 lượt người (thành phần tham dự có công chức phòng phổ biến giáo dục pháp luật và phòng tư pháp cấp huyện); 11 lớp tập huấn, bồi dưỡng cho 1.198 lượt công chức phòng tư pháp và tư pháp hộ tịch cấp xã.

Việc củng cố, kiện toàn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ cho tổ hòa giải, hòa giải viênluôn được tỉnh quan tâm. Hiện nay, toàn tỉnh có 1.405 tổ hoà giải với trên 9.128 tổ viên. Tổ chức của các tổ hoà giải cơ bản đầy đủ các thành phần tham gia. Ở những vùng có đồng bào dân tộc thiểu số, thành phần tổ hoà giải còn có đại diện người dân tộc thiểu số. Đa số các hòa giải viên đều có trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở lên, một số hòa giải viên có trình độ đại học, chuyên môn luật, đây là điều kiện thuận lợi cho hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác hoà giải. Toàn tỉnh đã tổ chức 75 lớp tập huấn nghiệp vụ, kỹ năng hoà giải, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho hơn 7.500 lượt hoà giải viên. Định kỳ hàng năm, các hoà giải viên được bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng hòa giải, kiến thức pháp luậtvề đất đai, hôn nhân gia đình, dân sự, tiếp cận pháp luật, hình sự, phòng, chống tham nhũng, khiếu nại, tố cáo, an toàn giao thông…

Hội thi “Hòa giải viên giỏi” là một sân chơi bổ ích, thu hút sự tham gia đông đảo của các hòa giải viên, đây là dịp để các hòa giải viên giao lưu, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, qua đó, góp phần nâng cao kiến thức pháp luật, nghiệp vụ hòa giải, nâng cao năng lực nghiệp vụ, tác phong làm việc khoa học. Năm 2014, Quảng Bình đã tổ chức Hội thi hoà giải viên giỏi lần thứ 6 thu hút sự tham gia của 1.470 tổ hoà giải với 9.470 hoà giải viên. Ban tổ chức Hội thi của tỉnh đã trao 01 giải nhất, 01 giải nhì, 01 giải ba và 05 giải khuyến khích, 02 giải phụ cho các đội dự thi.

Công tác biên soạn, phát hành tài liệu phục vụ công tác hòa giải ở cơ sở được tỉnh chú trọng. Đã biên soạn và phát hành 1.825 sổ tay pháp luật về hòa giải ở cơ sở; tái bản 86.200 sách bỏ túi, tờ gấp để cấp cho hoà giải viên, photo 800 cuốn tài liệu về sổ tay hoà giải ở cơ sở, chuẩn tiếp cận pháp luật, phòng, chống tham nhũng… để cấp cho các lớp hoà giải viên. Cấp phát 6.100 cuốn tài liệu, 500 cuốn sách về các lĩnh vực dân sự, hôn nhân gia đình, hòa giải ở cơ sở; 275.000 tờ gấp tìm hiểu pháp luật thuộc các lĩnh vực hòa giải ở cơ sở, Ngày Pháp luật, khiếu nại, tố cáo, an toàn giao thông, bảo vệ môi trường; 24 đĩa DVD về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật…

Hoạt động hoà giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh không ngừng đẩy mạnh phát triển. Hoạt động hoà giải cơ sở đã và đang từng bước được nâng cao về chất lượng, tổ chức và hoạt động ngày càng đi vào nền nếp, có hiệu quả, đúng quy định của pháp luật. Hai năm qua, các tổ hoà giải đã tiến hành thụ lý 4.006 vụ việc. Trong đó, tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự có 1.546 vụ việc; hôn nhân gia đình có 967 vụ việc; lĩnh vực khác có 1.493 vụ việc.Kết quả, đã hòa giải thành 3.424 vụ việc; hòa giải không thành 463 vụ việc (tranh chấp pháp sinh từ quan hệ dân sự 154 vụ việc, hôn nhân gia đình 219 vụ việc, lĩnh vực khác 90 vụ việc). Số vụ việc chưa giải quyết 23 vụ việc, số vụ việc đang giải quyết 96 vụ việc, đạt tỷ lệ 85,5%.

Công tác hoà giải ở cơ sở đã được mặt trận các cấp quan tâm, Ban Thường trực Uỷ ban mặt trận tổ quốc Việt Nam (UBMTTQVN) tỉnh đã chỉ đạo, hướng dẫn UBMTTQVMN các cấp chỉ đạo lồng ghép hoạt động hòa giải trong các phong trào, cuộc vận động tại cộng đồng dân cư, đặc biệt là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, nhằm gắn công tác hòa giải ở cơ sở với nhiệm vụ phát triển văn hóa – xã hội của địa phương, đưa kết quả thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở thành một tiêu chí trong đánh giá thực hiện cuộc vận động, góp phần động viên, tôn vinh, nhân rộng các mô hình, điển hình về hòa giải ở cơ sở. Tích cực phối hợp với chính quyền vận động nhân dân giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn trong gia đình, khu dân cư bằng biện pháp hòa giải, khuyến khích những thành viên của gia đình mình và những cá nhân có uy tín, có chuyên môn và kinh nghiệm hòa giải tham gia tổ hòa giải. UBMTTQVN các cấp đã phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng kế hoạch giám sát, lồng ghép giám sát việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở.Ở cấp xã, UBND đã phối hợp với UBMTTQ cấp xã chỉ đạo tiến hành rà soát, kiện toàn tổ chức của các tổ hòa giải ở cơ sở.

Nhìn chung, việc thực hiện Luật trên địa bàn tỉnh đã tác động tích cực đến đời sống xã hội, đã tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện, vững chắc cho hoạt động hoà giải ở cơ sở đi vào nề nếp, thống nhất và hoạt động có hiệu quả, tạo bước chuyển biến trong công tác hòa giải ở cơ sở, hầu hết các tổ hòa giải đã được kiện toàn bảo đảm đúng quy định, chất lượng hòa giải được nâng lên, thể hiện qua tỷ lệ các vụ hoà giải thành năm sau cao hơn năm trước, số vụ hoà giải thành ngày càng tăng, đã hỗ trợ đắc lực cho chính quyền địa phương trong việc giải quyết trực tiếp những vụ việc vi phạm pháp luật, tranh chấp nhỏ trong nhân dân, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, hạn chế đơn thư, khiếu nại vượt cấp, tiết kiệm thời gian và tiền bạc của cơ quan nhà nước và công dân. Mạng lưới tổ hoà giải được củng cố, mở rộng thu hút được nhiều thành phần, nhiều lực lượng tham gia. Toàn tỉnh có 1.266 thôn, bản, tổ dân phố… nhưng có đến 1.405tổ hoà giải và không có thôn, tổ dân phố nào trên địa bàn không có tổ hoà giải, có những thôn, tổ dân phố có đến 2 tổ hoà giải. Công tác tập huấn nâng cao kiến thức, kỹ năng cho hòa giải viên luôn được chú trọng, thực hiện thường xuyên. Hoạt động hòa giải ở cơ sở đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, hình thành trong mỗi cá nhân ý thức chấp hành pháp luật, ý thức “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”; góp phần phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng địa phương ngày càng giàu mạnh, văn minh.

Tuy nhiên, việc triển khai Luật vẫn còn tồn tại những hạn chế, khó khăn vướng mắc, đó là:

Một số cơ sở chưa nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công tác hòa giải nên thiếu sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất cho công tác hòa giải, chưa thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về hòa giải.Một số địa phương cho rằng hòa giải tại UBND cấp xã cũng thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật nên đùn đẩy, kéo dài gây khó khăn cho người dân khi có yêu cầu thụ lý giải quyết.Sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan trong công tác hòa giải đôi lúc chưa thật chặt chẽ.

– Một số hoà giải viên còn hạn chế về nghiệp vụ, kiến thức pháp luật, kỹ năng hoà giải, nên kết quả hòa giải còn hạn chế; một số còn có tâm lý cho rằng việc hòa giải là “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” nên thiếu nhiệt tình trong việc hòa giải. Trong quá trình hòa giải, một số hòa giải viên ngại va chạm, chưa mạnh dạn, thiếu nhiệt tình nên chưa kịp thời giải quyết các vụ việc phát sinh. Hoạt động hoà giải còn mang tính hình thức chưa chú trọng chiều sâu. Phong trào hòa giải chưa thực sự đồng đều trong phạm vi toàn tỉnh.

– Chưa thống kê được các vụ việc đã được hoà giải thành nhưng các bên không thực hiện hoặc tái mâu thuẫn, tranh chấp hoặc nộp đơn yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết; chưa có kinh phí cấp riêng cho hoạt động hoà giải ở cơ sở, kinh phí hỗ trợ cho hoà giải viên khi gặp rủi ro, tai nạn, chế độ thù lao cho các hoà giải viên chưa có.

Đội ngũ làm công tác quản lý nhà nước về hòa giải còn kiêm nhiệm, chưa có một chương trình, đề án dành riêng cho đội ngũ này nên việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực đội ngũ hoà giải viên chưa đạt được kết quả như mong muốn…

Trong thời gian tới, để đẩy mạnh hoạt động hoà giải trên địa bàn, cần thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, nâng cao nhận thức của các cấp uỷ, chính quyền địa phương đối với công tác hoà giải. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương đối với công tác hoà giải; tăng cường sự phối hợp của các cơ quan có liên quan trong chỉ đạo, hướng dẫn đối với hoạt động này.

Hai là, thường xuyên củng cố, kiện toàn đội ngũ công chức tư pháp, hòa giải viên, đẩy mạnh tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật, nghiệp vụ hòa giải, cung cấp tài liệu cho hòa giải viên; tăng cường theo dõi, kiểm tra việc củng cố, kiện toàn về tổ chức và hoạt động hòa giải.

Ba là, xác định rõ ràng mục đích của hoà giải ở cơ sở là hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên tranh chấp đạt được thoả thuận, tự nguyện giải quyết với nhau, nhằm ngăn chặn tình trạng “cái sảy nảy cái ung” hay “việc bé xé ra to”. Vì vậy, cần xác định trách nhiệm của hòa giải viên trong hòa giải ở cơ sở là một người “mở nút thắt” trong các vụ việc tranh chấp, đòi hỏi mỗi hòa giải viên cần tận tâm với công việc, trung thực, khách quan trong khi giải quyết các tranh chấp.

Bốn là, Luật Hòa giải ở cơ sở và các văn bản hướng dẫn thi hành là một căn cứ pháp lý quan trọng trong công tác hòa giải cơ sở, vì vậy cần phải tăng cường phổ biến pháp luật hoà giải ở cơ sở đến nhân dân.

Năm là, đẩy mạnh các hình thức giao lưu để các hòa giải viên được thường xuyên học hỏi kinh nghiệm. Hội thi hoà giải viên là một trong những hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đưa lại hiệu quả cao nhất, vì ở đây không những người dự thi mà các thành viên trong gia đình họ sẽ cũng nhau ôn bài, tìm hiểu các quy định của pháp luật để giải quyết các tình huống của câu hỏi mà ban giám khảo đưa ra; đồng thời, thông qua việc trả lời các câu hỏi, các tình huống thi, các hoà giải viên sẽ góp phần tuyền truyền pháp luật cho các đối tượng khác. Vì vậy, cần tăng cường tổ chức các hội thi hoà giải viên tại cơ sở.

Sáu là, kịp thời biểu dương, khen thưởng, phê bình, nhắc nhở để các hòa giải viên luôn luôn cố gắng nêu cao tinh thần trách nhiệm, chủ động sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ, góp phần phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.

Bảy là, huy động các nguồn lực từ bên ngoài hỗ trợ cho hoạt động hòa giải ở cơ sở, chú trọng tổ chức tập huấn, bỗi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ cho hoà giải viên; bố trí kinh phí cấp cho công tác hoà giải, cho hoạt động của tổ hòa giải và hòa giải viên.

Tám là, tăng cường rà soát, hệ thống hoá các quy định của pháp luật, để kịp thời sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo điều kiện thuận tiện cho hoà giải viên hoạt động.

Tuyết Hà

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số bất cập về thời hiệu xử lý kỷ luật các chức danh lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp nhà nước và người đại diện phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp

25/11/2015

Chức danh lãnh đạo, quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu (sau đây gọi là người quản lý doanh nghiệp) và người được cử làm đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp có vốn góp của Nhà nước (sau đây gọi là người đại diện) có vai trò quan trọng trong việc chỉ đạo, điều hành, kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp cũng như thông qua hoạt động của những chủ thể này, Nhà nước thực hiện quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp. Do tính chất đặc thù trên, Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sau đây gọi là Luật Cán bộ, công chức) đã giao Chính phủ quy định cụ thể việc áp dụng Luật Cán bộ, công chức đối với người quản lý doanh nghiệp và người đại diện[1].

Theo quy định tại Nghị định số 66/2011/NĐ-CP ngày 01/8/2011 của Chính phủ quy định việc áp dụng Luật Cán bộ, công chức đối với chức danh lãnh đạo, quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu và người được cử làm đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp có vốn góp của Nhà nước (sau đây gọi là Nghị định số 66/2011/NĐ-CP), người quản lý doanh nghiệp gồm: Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty, Thành viên Hội đồng thành viên, Kiểm soát viên, Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc hoặc Giám đốc, Phó Giám đốc, Kế toán trưởng. Ngoài ra, pháp luật quy định người đại diện là cá nhân được chủ sở hữu phần vốn nhà nước ủy quyền bằng văn bản để thực hiện quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của chủ sở hữu phần vốn nhà nước, bao gồm: Người đại diện là người làm việc chuyên trách tại doanh nghiệp và người đại diện là cán bộ, công chức thuộc cơ quan hành chính nhà nước (Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh) được cử hoặc chỉ định làm người đại diện kiêm nhiệm tại doanh nghiệp[2].

Bên cạnh các quy định về bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, từ chức, miễn nhiệm, thôi làm người đại diện… pháp luật còn quy định vấn đề khen thưởng, kỷ luật đối với người quản lý doanh nghiệp và người đại diện để kịp thời động viên, khuyến khích họ phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ, đồng thời xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật. Tuy một số quy định về xử lý kỷ luật người quản lý doanh nghiệp và người đại diện vẫn thực hiện theo quy định chung về kỷ luật cán bộ, công chức theo Luật Cán bộ, công chức và Nghị định số 34/2011/NĐ-CP ngày 17/5/2011 của Chính phủ quy định về xử lý kỷ luật đối với công chức (sau đây gọi là Nghị định số 34/2011/NĐ-CP), nhưng Nghị định số 66/2011/NĐ-CP cũng có những quy định riêng biệt về xử lý kỷ luật người quản lý doanh nghiệp và người đại diện so với công chức như: Hình thức kỷ luật chỉ gồm khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, cách chức, buộc thôi việc (không có hình thức giáng chức); không quy định về tổ chức họp kiểm điểm người có hành vi vi phạm…

Trong các quy định về xử lý kỷ luật người quản lý doanh nghiệp và người đại diện, việc quy định thời hiệu xử lý kỷ luật đối với nhóm người này có ý nghĩa rất quan trọng, buộc các cơ quan quản lý nhà nước thường xuyên có các biện pháp kiểm tra, rà soát tình hình thực hiện nhiệm vụ được giao của người quản lý doanh nghiệp và người đại diện để chủ động, thường xuyên có sự phối hợp nhằm phát hiện, kịp thời xử lý các hành vi vi phạm kỷ luật ngay từ khi mới phát sinh. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn có một số trường hợp vì lý do này hay lý do khác mà cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật đã không xử lý hành vi vi phạm. Đối với những trường hợp này, nếu trong một thời gian nhất định, người quản lý doanh nghiệp, người đại diện được giải thoát khỏi trách nhiệm kỷ luật trong trường hợp đã hết thời hiệu xử lý kỷ luật. Bởi lẽ, xử lý kỷ luật trong trường hợp này là không cần thiết, hơn nữa, lúc này mục đích và hiệu quả xử lý kỷ luật cũng không đạt được. Tuy nhiên, một số quy định của pháp luật về thời hiệu xử lý kỷ luật còn chưa rõ ràng, cụ thể, cần phải tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện, như:

1. Thời hiệu trong trường hợp chưa xem xét xử lý kỷ luật

Mặc dù Nghị định số 66/2011/NĐ-CP không quy định cụ thể về thời hiệu xử lý kỷ luật đối với người quản lý doanh nghiệp, người đại diện, nhưng có thể vận dụng quy định của Luật Cán bộ, công chức và văn bản hướng dẫn thi hành về thời hiệu xử lý kỷ luật để áp dụng đối với người quản lý doanh nghiệp, người đại diện. Theo quy định tại Điều 80 Luật Cán bộ, công chức; Điều 6 Nghị định số 34/2011/NĐ-CP thì:

Thời hiệu xử lý kỷ luật là 24 tháng, kể từ thời điểm công chức có hành vi vi phạm đến thời điểm cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ra thông báo bằng văn bản về việc xem xét kỷ luật. Khi phát hiện công chức có hành vi vi phạm pháp luật, người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phải ra thông báo bằng văn bản về việc xem xét xử lý kỷ luật. Thông báo phải nêu rõ thời điểm công chức có hành vi vi phạm pháp luật, thời điểm phát hiện công chức có hành vi vi phạm pháp luật và thời hạn xử lý kỷ luật.

Thời hạn xử lý kỷ luật là 2 tháng kể từ thời điểm phát hiện hành vi vi phạm kỷ luật của công chức đến khi có quyết định xử lý kỷ luật của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Trường hợp phức tạp, có thể kéo dài thời hạn xử lý kỷ luật nhưng tối đa không quá 4 tháng.

Theo quy định trên, thời hiệu xử lý kỷ luật là thời hạn do pháp luật quy định mà khi hết thời hạn đó thì người vi phạm không bị truy cứu trách nhiệm pháp lý. Thời hiệu xử lý kỷ luật là 2 năm từ ngày công chức có hành vi vi phạm đến thời điểm có thông báo về việc xem xét xử lý kỷ luật. Về nguyên tắc, khi phát hiện người quản lý doanh nghiệp, người đại diện có hành vi vi phạm pháp luật, người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền bổ nhiệm người quản lý doanh nghiệp hoặc cử người đại diện phải tiến hành xử lý kỷ luật. Tuy nhiên, để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người quản lý doanh nghiệp, người đại diện trong trường hợp ốm đau hoặc để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử của cơ quan tiến hành tố tụng, pháp luật quy định chưa xem xét xử lý kỷ luật đối với những trường hợp trên. Việc quy định này là phù hợp, vừa thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước ta là ưu tiên chăm sóc sức khỏe cho người lao động, vừa bảo đảm cho cơ quan có thẩm quyền hoàn thành nhiệm vụ được giao khi điều tra, truy tố, xét xử về hành vi vi phạm pháp luật đối với người quản lý doanh nghiệp, người đại diện.

Tại khoản 1 Điều 20 Nghị định số 66/2011/NĐ-CP quy định các trường hợp chưa xem xét xử lý kỷ luật gồm: “a) Đang trong thời gian nghỉ hàng năm, nghỉ theo chế độ, nghỉ việc riêng được cấp có thẩm quyền chấp thuận; b) Đang trong thời gian điều trị có xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền; c) Đang trong thời gian mang thai, nghỉ thai sản, đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi; d) Đang bị tạm giữ, tạm giam chờ kết luận của cơ quan có thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử về hành vi vi phạm pháp luật”. Bên cạnh đó, để không ảnh hưởng đến quá trình xem xét xử lý kỷ luật đối với người quản lý doanh nghiệp, người đại diện khi xảy ra các trường hợp trên, tại khoản 5 Điều 12 Nghị định số 66/2011/NĐ-CP quy định: “Thời gian chưa xem xét xử lý kỷ luật đối với người quản lý doanh nghiệp và người đại diện trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 20 Nghị định này không tính vào thời hạn xử lý kỷ luật”.

Trong những trường hợp hành vi vi phạm pháp luật của người quản lý doanh nghiệp, người đại diện không xuất hiện các trường hợp chưa xem xét kỷ luật quy định tại khoản 1 Điều 20 Nghị định số 66/2011/NĐ-CP thì cách tính thời hiệu, thời hạn như trên hoàn toàn hợp lý. Nhưng nếu hành vi vi phạm kỷ luật lại có dấu hiệu tội phạm hoặc người vi phạm phải điều trị bệnh hay đang trong thời gian mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi; quá trình này lại nằm trong giai đoạn từ khi phát hiện đến lúc ra thông báo về việc xem xét xử lý kỷ luật, sau khi có bản án hoặc quyết định của Tòa án hoặc người đó đi làm bình thường trở lại mà hết thời hiệu xử lý kỷ luật thì việc xử lý kỷ luật được thực hiện như thế nào? Lúc này thời hạn xử lý kỷ luật vẫn còn, nhưng thời hiệu xử lý kỷ luật thì đã hết, vậy hành vi vi phạm đó có bị xử lý kỷ luật không?

Ví dụ: Ông D là người đại diện phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp, thực hiện một tội phạm ít nghiêm trọng (thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự cho tội này là 5 năm). Đến năm thứ 3, cơ quan có thẩm quyền phát hiện tội phạm (lúc này cơ quan quản lý người đại diện cũng mới biết). Giả sử lúc này chưa hết thời hiệu xử lý kỷ luật thì cơ quan có thẩm quyền sẽ ra thông báo về việc xem xét kỷ luật. Theo quy định, thời gian điều tra, truy tố, xét xử không được tính vào thời hạn, do đó, sau khi có bản án có hiệu lực pháp luật, nếu ông D bị Tòa án phạt tù cho hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ thì sẽ bị xử lý kỷ luật bằng hình thức cách chức (theo khoản 3 Điều 17 Nghị định số 66/2011/NĐ-CP). Nếu ông D bị Tòa án phạt tù không được hưởng án treo thì sẽ bị xử lý kỷ luật bằng hình thức buộc thôi việc (theo khoản 1 Điều 18 Nghị định số 66/2011/NĐ-CP).

Trong ví dụ trên, thời điểm cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật phát hiện hành vi vi phạm đã quá 24 tháng kể từ ngày ông D có hành vi vi phạm, tức là hết thời hiệu xử lý kỷ luật. Vì vậy, trong trường hợp này không thể kỷ luật đối với ông D và đương nhiên, việc không xử lý kỷ luật trong trường này vừa không hợp lý, vừa không phù hợp với chính quy định tại khoản 3 Điều 17, khoản 1 Điều 18 Nghị định số 66/2011/NĐ-CP. Trường hợp này chưa được đề cập trong Nghị định số 66/2011/NĐ-CP và cũng chưa được quy định rõ trong Điều 80 Luật Cán bộ, công chức, Nghị định số 34/2011/NĐ-CP.

Rõ ràng hành vi vi phạm của người quản lý doanh nghiệp, người đại diện có dấu hiệu tội phạm hoặc đang phải điều trị thì cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật cũng không thể tiến hành kỷ luật khi chưa có kết luận cuối cùng của cơ quan tiến hành tố tụng hoặc cơ quan y tế có thẩm quyền. Mặt khác, khi người quản lý doanh nghiệp, người đại diện bị khởi tố, điều tra, xét xử thì việc kỷ luật bằng hình thức gì (cách chức hay buộc thôi việc) phụ thuộc hoàn toàn vào việc Tòa án tuyên phạt họ bằng hình thức gì (phạt tù cho hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ hay phạt tù mà không được hưởng án treo).

Từ ví dụ trên, để bảo đảm việc xử lý kỷ luật người quản lý doanh nghiệp, người đại diện tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội, đồng thời để bảo đảm việc áp dụng thống nhất giữa các quy định của pháp luật về xử lý kỷ luật, chúng tôi thấy rằng, pháp luật cần quy định bổ sung trường hợp: “Thời gian chưa xem xét xử lý kỷ luật đối với người quản lý doanh nghiệp và người đại diện trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 20 Nghị định này không tính vào thời hiệu xử lý kỷ luật”.

Như vậy, thời hiệu trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 20 Nghị định 66/2011/NĐ-CP tính từ thời điểm nào? Để giải quyết vấn đề này thì thời hiệu xử lý kỷ luật không nên tính từ khi người quản lý doanh nghiệp và người đại diện vi phạm như quy định tại Luật Cán bộ, công chức và Nghị định số 34/2011/NĐ-CP mà tùy từng trường hợp cụ thể để tính như sau: Trường hợp người quản lý doanh nghiệp, người đại diện có dấu hiệu phạm tội, bị khởi tố, truy tố hoặc đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục tố tụng hình sự thì thời hiệu xử lý kỷ luật tính từ ngày quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án hoặc ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Trường hợp người quản lý doanh nghiệp, người đại diện đang điều trị tại cơ sở y tế thì thời hiệu xử lý kỷ luật tính từ ngày người đó đi làm trở lại bình thường.

2. Thời hiệu xử lý kỷ luật trong trường hợp có hành vi vi phạm kéo dài, liên tục

Theo quy định chung, thời hiệu tính từ thời điểm có hành vi vi phạm xảy ra. Do đó, nếu tính từ ngày người quản lý doanh nghiệp, người đại diện bắt đầu có hành vi vi phạm đến ngày cơ quan có thẩm quyền ra thông báo xem xét xử lý kỷ luật chưa quá 24 tháng thì việc xử lý kỷ luật không có vấn đề gì. Tuy nhiên, có trường hợp, nếu tính từ ngày người quản lý doanh nghiệp, người đại diện bắt đầu có hành vi vi phạm đến ngày cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật ra thông báo xem xét xử lý kỷ luật đã quá 24 tháng nhưng nếu tính từ ngày người đó chấm dứt hành vi vi phạm đến ngày cơ quan có thẩm quyền ra thông báo xem xét xử lý kỷ luật chưa quá 24 tháng thì việc xử lý kỷ luật có được tiến hành không?

Ví dụ: Từ khi được bổ nhiệm giữ chức Phó Tổng giám đốc (tháng 10/2012), bà Y thường xuyên ký các văn bản, giấy tờ không đúng thẩm quyền liên quan đến hoạt động của công ty. Đến tháng 11/2014, công ty mới phát hiện ra hành vi vi phạm của bà Y (lúc này, bà Y mới chấm dứt hành vi vi phạm của mình). Như vậy, nếu tính từ thời điểm bà Y bắt đầu vi phạm đến thời điểm phát hiện thì đã quá 24 tháng, nhưng nếu tính từ thời điểm bà Y chấm dứt hành vi vi phạm đến thời điểm bị phát hiện thì chưa quá 24 tháng.

Trường hợp khác: Trong lúc làm quy trình bổ nhiệm ông K giữ chức Thành viên chuyên trách Hội đồng thành viên, ông K đã sử dụng Bằng tốt nghiệp giả để hoàn thiện hồ sơ đề nghị bổ nhiệm của mình. 03 năm sau, hành vi của ông K mới bị phát hiện (lúc này, ông K vẫn đang trong nhiệm kỳ giữ chức vụ). Như vậy, nếu áp dụng thời hiệu xử lý kỷ luật theo cách tính từ ngày thực hiện hành vi thì không thể xử lý kỷ luật bằng hình thức cách chức theo quy định tại khoản 1 Điều 17 Nghị định số 66/2011/NĐ-CP đối với ông K được.

Các tình huống này chưa được quy định rõ trong khoản 1 Điều 80 Luật Cán bộ, công chức; khoản 1 Điều 6 Nghị định số 34/2011/NĐ-CP. Nội dung khoản 1 Điều 80 Luật Cán bộ, công chức; khoản 1 Điều 6 Nghị định số 34/2011/NĐ-CP chỉ quy định về thời hiệu xử lý kỷ luật là 24 tháng mà không quy định ngoại lệ nên có thể hiểu theo cách mọi trường hợp khi hết 24 tháng kể từ thời điểm có hành vi vi phạm thì việc xử lý kỷ luật không được đặt ra nữa. Rõ ràng là trong trường hợp này, việc xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức nói chung, người quản lý doanh nghiệp, người đại diện nói riêng là rất cần thiết. Tuy nhiên, muốn xử lý kỷ luật trong trường hợp này thì phải coi hành vi vi phạm của người quản lý doanh nghiệp, người đại diện vẫn trong thời hiệu. Ở ví dụ trên, có thể coi hành vi vi phạm của bà Y có dấu hiệu vi phạm liên tục, hành vi của ông K có dấu hiệu kéo dài. Vi phạm liên tục là trường hợp người vi phạm thực hiện nhiều hành động vi phạm cùng tính chất đối với một đối tượng, vi phạm kéo dài là trường hợp xét về bản chất, hành vi đó kéo dài từ lúc bắt đầu thực hiện và chỉ kết thúc khi hành vi đó bị phát hiện hoặc người vi phạm chủ động kết thúc hành vi đó.

Ở đây, theo chúng tôi, có thể tham khảo quy định của pháp luật hình sự về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với trường hợp phạm tội liên tục, phạm tội kéo dài và pháp luật hành chính về hành vi vi phạm liên tục, kéo dài[3] để quy định thời hiệu xử lý kỷ luật đối với người quản lý doanh nghiệp, người đại diện trong trường hợp họ có hành vi vi phạm liên tục, vi phạm kéo dài. Theo đó, đối với hành vi vi phạm liên tục, thời hiệu xử lý kỷ luật là thời điểm khi người vi phạm thực hiện hành vi cuối cùng. Đối với vi phạm kéo dài, thời hiệu xử lý kỷ luật tính từ thời điểm hành vi đó chấm dứt hoặc là ngày cơ quan có thẩm quyền phát hiện ra vi phạm đó, không phụ thuộc vào việc vi phạm đó được thực hiện từ ngày nào.

3. Thời hiệu trong trường hợp kỷ luật lại

Hiện nay, pháp luật chưa có quy định cụ thể về vấn đề khiếu nại quyết định kỷ luật khi người quản lý doanh nghiệp, người đại diện bị xử lý kỷ luật. Tuy nhiên, có thể vận dụng các quy định về khiếu nại đối với công chức để áp dụng cho người quản lý doanh nghiệp, người đại diện. Theo quy định tại khoản 7 Điều 23 Nghị định số 34/2011/NĐ-CP thì: “Trường hợp cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo kết luận việc xử lý kỷ luật công chức tiến hành không đúng quy định về áp dụng hình thức kỷ luật, trình tự, thủ tục và thẩm quyền xử lý kỷ luật thì người đứng đầu cơ quan đã ký quyết định kỷ luật phải ra quyết định hủy bỏ quyết định xử lý kỷ luật; đồng thời cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền xử lý kỷ luật phải tiến hành xem xét xử lý kỷ luật công chức theo đúng quy định tại Nghị định này”.

Theo quy định trên, khi có căn cứ để cho rằng quyết định xử lý kỷ luật là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người quản lý doanh nghiệp, người đại diện có thể khiếu nại quyết định đó đến người ra quyết định xử lý kỷ luật hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính. Khi đó, cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại sẽ thực hiện việc giải quyết yêu cầu của người quản lý doanh nghiệp, người đại diện theo quy định của pháp luật về khiếu nại. Tuy nhiên, ở đây xảy ra hai trường hợp, nếu quá trình giải quyết khiếu nại, cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại khẳng định cơ quan ra quyết định xử lý kỷ luật đã làm đúng các quy định của pháp luật thì không có vấn đề gì đặt ra, nhưng nếu cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại kết luận việc xử lý kỷ luật người quản lý doanh nghiệp, người đại diện tiến hành không đúng quy định về nội dung, hình thức, quy trình xử lý và tuyên hủy hoặc yêu cầu người có thẩm quyền ký quyết định kỷ luật phải ra quyết định hủy bỏ quyết định xử lý kỷ luật và tổ chức lại việc xem xét kỷ luật người quản lý doanh nghiệp, người đại diện thì thời hiệu xử lý kỷ luật lại tính từ khi nào? Khoản 7 Điều 23 Nghị định số 34/2011/NĐ-CP chỉ quy định “…cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật phải tiến hành xem xét xử lý kỷ luật công chức theo đúng quy định tại Nghị định này”. Điều này sẽ đồng nghĩa với việc thời hiệu xử lý kỷ luật sẽ được tính từ thời điểm xảy ra hành vi vi phạm. Khi đó, việc xử lý kỷ luật sẽ không thể thực hiện được vì có thể đã quá 24 tháng, kể từ thời điểm hành vi vi phạm xảy ra.

Vì vậy, để giải quyết tình huống trên, theo chúng tôi, Luật Cán bộ, công chức; Nghị định số 34/2011/NĐ-CP hoặc Nghị định số 66/2011/NĐ-CP cần bổ sung quy định về thời hiệu xử lý kỷ luật như sau: “Trường hợp phải tiến hành xem xét lại việc kỷ luật người quản lý doanh nghiệp, người dại diện theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền về giải quyết khiếu nại thì thời hiệu xem xét xử lý kỷ luật được tính từ thời điểm kết luận của cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có hiệu lực”.

Tóm lại, xử lý kỷ luật người quản lý doanh nghiệp, người đại diện là vấn đề quan trọng, không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới quyền, lợi ích của họ mà đôi khi còn ảnh hưởng đến uy tín, hình ảnh của doanh nghiệp. Nếu việc xử lý kỷ luật đối với người quản lý doanh nghiệp, người đại diện được thực hiện nghiêm minh, đúng pháp luật cộng với hệ thống pháp luật đầy đủ, khoa học sẽ góp phần ngăn ngừa hành vi vi phạm, nâng cao chất lượng đội ngũ lãnh đạo, quản lý, điều hành doanh nghiệp, đồng thời càng khẳng định vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và phần vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp. Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật về thời hiệu xử lý kỷ luật đối với người quản lý doanh nghiệp, người đại diện cho thấy, một số quy định liên quan cần được cơ quan có thẩm quyền tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ để kịp thời chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, nhằm tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, khoa học, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về xử lý kỷ luật người quản lý doanh nghiệp, người đại diện nói riêng.

ThS. Nguyễn Cao Hiếu

Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Giao thông – Vận tải



[1]Xem: Khoản 3 Điều 84 Luật Cán bộ, công chức.

[2]Xem: Khoản 2 Điều 2 Quy chế hoạt động của người đại diện theo ủy quyền đối với phần vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp ban hành kèm theo Thông tư số 21/2014/TT-BTC ngày 14/02/2014 của Bộ Tài chính.

[3] Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, 2006, Nxb.Công an nhân dân, tr 320; Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, 2009, Nxb.Công an nhân dân, tr.225.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Vai trò của Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự trong công tác thi hành án dân sự tại khu vực phía Nam

20/11/2015

1. Cơ sở pháp lý của việc hình thành Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự

Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa IX ngày 6/10/1992 về việc bàn giao công tác thi hành án dân sự (THADS) từ Tòa án nhân dân sang Chính phủ, năm 1993, các địa phương đã thành lập Ban Chỉ đạo THADS (BCĐTHADS) để chỉ đạo việc bàn giao và chỉ đạo hoạt động THADS ở địa phương.

THADS là một công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi cấp ủy và chính quyền địa phương phải có nhận thức đúng đắn về vai trò, trách nhiệm của mình, sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất đối với công tác THADS. Tại Chỉ thị số 20/2001/CT-TTg ngày 11/9/2001 về việc “Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác THADS”, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo: “Để tăng cường hơn nữa hiệu quả công tác THADS, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện, do Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp làm Trưởng ban để chỉ đạo công tác THADS tại địa phương”.

Với vai trò là cơ quan quản lý công tác THADS, ngày 22/3/2002, tại Quyết định số 96/2002/QĐ-BTP, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành “Quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động của BCĐTHADS cấp tỉnh, huyện”. Trong đó, quy định BCĐTHADS có chức năng “tham mưu và giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp trong việc chỉ đạo công tác THADS; tổ chức phối hợp các cơ quan, đơn vị hữu quan với cơ quan thi hành án tại địa phương”.

Ngày 01/7/2008, tại Chỉ thị số 21/2008/CT-TTg về việc “Tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác THADS”, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục chỉ đạo: “BCĐTHADS các cấp làm tốt công tác tham mưu giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp và cấp trên tăng cường sự chỉ đạo phối hợp trong công tác THADS”.

Ngày 09/9/2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 74/2009/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS về cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS và công chức làm công tác THADS. Nghị định này cũng quy định Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Toà án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn hoạt động của BCĐTHADS.

Ngày 11/7/2011, Thông tư liên tịch số 14/2011/TTLT-BTP-BCA-BTC-TANDTC-VKSNDTC giữa Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã quy định và hướng dẫn chi tiết hoạt động của BCĐTHADS.

Điều 175 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định:“Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phối hợp với chấp hành viên và cơ quan THADS trong việc thông báo thi hành án, xác minh điều kiện thi hành án, áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án và các nhiệm vụ khác về THADS trên địa bàn”.

Như vậy, có thể nói, BCĐTHADS đã được thành lập từ năm 1993, song song đó, một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ra đời, liên tục sửa đổi, bổ sung nhằm đảm bảo hoạt động hiệu quả của BCĐTHADS các cấp. Ở địa phương, BCĐTHADS thường xuyên được kiện toàn ở hai cấp là tỉnh và huyện, đã phát huy vai trò tích cực trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác THADS, đặc biệt đối với các vụ án khó tại cơ sở. Điều này đã góp phần quan trọng vào kết quả thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan THADS.

2. Thực tiễn công tác thi hành án dân sự tại khu vực phía Nam và vai trò của Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự

Khu vực phía Nam (Khu vực) bao gồm 25 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung tương từ Phú Yên trở vào đến Cà Mau[1] là một địa bàn trọng điểm, năng động – nơi tập trung một khối lượng án lớn, có tính chất phức tạp, giá trị thi hành cao, lượng án thụ lý đầu vào tăng nhanh hàng năm và đặc biệt có liên quan đến các án về kinh tế, tranh chấp bất động sản, vay nợ ngân hàng…[2]. Do vậy, vị trí và vai trò của BCĐTHADS càng trở nên quan trọng và có ý nghĩa đối với công tác THADS nói riêng và đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của địa phương nói chung.

Cùng với sự phát triển của cơ quan THADS, BCĐTHADS hai cấp ở các địa phương trong Khu vực luôn được quan tâm kiện toàn. Đến nay, trong Khu vực, 25/25 tỉnh, thành phố, BCĐTHADS cấp tỉnh được thành lập và hoạt động khá hiệu quả,góp phần quan trọng vào kết quả công tác THADS trong thời gian qua. Về nhân sự, trưởng ban và các thành viên của BCĐTHADS được cơ cấu theo đúng quy định. Đối với cấp tỉnh, Chủ tịch hoặc 01 Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân làm Trưởng ban. Ở nhiều địa phương, Trưởng ban do Chủ tịch đảm nhiệm, thể hiện sự quan tâm của địa phương đối với công tác này[3]; Cục trưởng Cục THADS làm Phó Trưởng ban. Các thành viên gồm: Đại diện lãnh đạo Sở Tư pháp, Sở Tài chính, Sở Tài nguyên và Môi trường, Công an tỉnh. BCĐTHADS cấp huyện do Chủ tịch hoặc 01 Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện làm Trưởng ban. Chi cục trưởng Chi cục THADS làm Phó Trưởng ban. Các ủy viên gồm: Đại diện lãnh đạo Phòng Tư pháp, Phòng Tài chính, Phòng Tài nguyên và Môi trường, Công an huyện và một số cơ quan tổ chức có liên quan ở cấp tương đương làm ủy viên BCĐTHADS trong một số trường hợp cần thiết.

Cùng với việc kiện toàn và sửa đổi quy chế làm việc cho phù hợp với tình hình thực tế, hầu hết BCĐTHADS các địa phương đã tham mưu cho Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành công văn, chỉ thị về tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác THADS theo nội dung tinh thần Công văn số 156 – CV/BCS ngày 25/12/2014 của Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp về việc đề nghị phối hợp lãnh đạo, chỉ đạo công tác Thi hành án dân sự.

Tại Khu vực, các BCĐTHADS hoạt động tương đối năng động và hiệu quả. Hoạt động phối hợp giữa BCĐTHADS với các cơ quan, tổ chức hữu quan khác tại mỗi tỉnh, thành phố cũng có sự gắn kết mạnh mẽ, giúp công tác THADS tiếp tục đạt được nhiều thành công. Mặc dù các thành viên phải làm việc kiêm nhiệm, BCĐTHADS không thường xuyên hoạt động, nhưng sự chỉ đạo và sức ảnh hưởng đến công tác THADS tại địa phương rất lớn, kết luận mang tính quyết định trong giải quyết các vụ việc phức tạp, khó thi hành và có ảnh hưởng tới an ninh trật tự, kinh tế, chính trị, xã hội ở địa phương. BCĐTHADS trong phạm vi chức năng và nhiệm vụ, quyền hạn của mình đã phát huy tối đa vai trò phối hợp của các cấp, các ngành trong hoạt động chỉ đạo công tác THADS và tôn trọng hoạt động nghiệp vụ của cơ quan THADS theo quy định của pháp luật. Trong những tháng đầu năm 2015, tại một số tỉnh trong Khu vực, BCĐTHADS đã tiến hành họp đột xuất, trực tiếp cho ý kiến giải quyết nhiều vụ việc khó khăn, phức tạp, khó thi hành[4].

Tùy vào tình hình thực tế của địa phương, BCĐTHADS có những cách chỉ đạo, phối hợp khác nhau đem lại hiệu quả thiết thực cho công tác THADS. Long An và TP. Hồ Chí Minh là những địa phương có cách làm hay, được xem là “điểm sáng” về công tác tham mưu và hoạt động của BCĐTHADS. Cụ thể:

– Tại TP. Hồ Chí Minh:Hoạt động của BCĐTHADS rất đa dạng, không chỉ dừng lại ở việc chỉ đạo phối hợp, chỉ đạo các vụ việc cưỡng chế mà còn thực hiện với vai trò là một bộ phận tham mưu, giúp cho Lãnh đạo Ủy ban nhân dân thành phố trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác THADS tại địa phương. Theo đó, các hoạt động trong công tác THADS như: Kiện toàn bộ máy và tổ chức cán bộ, bố trí mặt bằng xây dựng trụ sở, kho vật chứng, tài chính… đều được Lãnh đạo Ủy ban nhân dân thành phố chỉ đạo triển khai thực hiện bằng các đề án. Hàng năm, bên cạnh việc cấp kinh phí cho hoạt động của BCĐTHADS theo quy định của pháp luật, Ủy ban nhân dân thành phố còn cấp thêm kinh phí để chi trả cho phụ cấp kiêm nhiệm của các thành viên BCĐTHADS hai cấp. Điều này tạo thêm động lực không nhỏ cho hoạt động của BCĐTHADS. Bên cạnh đó, để giải quyết một lượng án lớn có hiệu quả, BCĐTHADS cũng đã có ý kiến đề nghị Ủy ban nhân dân thành phố về đề án của Cục THADS thành phố trong việc cho phép tuyển và chi trả lương cho một số hợp đồng lao động ngoài biên chế của Tổng Cục THADS giao.

– Tại Long An: Hoạt động chỉ đạo, điều hành đối với công tác THADS của BCĐTHADS có thể xem là mô hình mới, hiệu quả trong Khu vực. Cấp ủy, chính quyền địa phương xác định công tác THADS là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị từ tỉnh xuống cơ sở (xã, ấp).

Tại cấp tỉnh, kết quả công tác THADS hàng năm được xem là một trong những những tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các cấp ủy và chính quyền cấp huyện. Mỗi thành viên trong BCĐTHADS tỉnh đều được phân công phụ trách từng địa bàn huyện.

Tại cấp huyện, hàng năm, cấp ủy, Ủy ban nhân dân cấp huyện khi giao chỉ tiêu nhiệm vụ cho cấp xã đều có chỉ tiêu về kết quả công tác THADS. BCĐTHADS có sự phân công cụ thể từng thành viên phụ trách địa bàn cấp xã. Trưởng BCĐTHADS cấp huyện có thông báo lịch cố định hàng tuần gửi đến cấp xã trong việc phối hợp giữa chấp hành viên với Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc xác minh, giải quyết án và trực tiếp cùng Lãnh đạo Cục THADS kiểm tra công tác THADS ở một số xã trong huyện. Hàng tuần, thành viên BCĐTHADS dành một ngày để xuống địa bàn (kết hợp cùng Chi Cục trưởng) để chỉ đạo vận động và giải quyết việc thi hành án. Vụ việc nào khó khăn, vướng mắc thì chỉ đạo trực tiếp giải quyết tại chỗ. Hàng tháng, Ủy ban nhân dân huyện họp mở rộng đều có báo cáo kết quả về công tác THADS, Chủ tịch UBND huyện sẽ chỉ đạo trực tiếp cho thủ trưởng các ngành liên quan để phối hợp giải quyết ngay những vụ việc có khó khăn, vướng mắc.

Tại cấp xã, Đảng ủy xã đưa chỉ tiêu công tác THADS vào Nghị quyết của Đảng ủy để tập trung chỉ đạo. Ủy ban nhân dân cấp xã thành lập Tổ vận động giải quyết THADS do Chủ tịch xã làm tổ trưởng, các thành viên gồm có đại diện Mặt trận Tổ quốc, công an, địa chính, tư pháp xã. Hàng tuần, chấp hành viên lên lịch phối hợp với Tổ để làm việc và giải quyết trực tiếp với đương sự, danh sách án trên địa bàn được Chi cục THADS thường xuyên cập nhật gửi cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã biết để chủ động phối hợp. Ủy ban nhân dân xã giao cho Trưởng ấp tham gia phối hợp hỗ trợ chấp hành viên xác minh, động viên người phải thi hành án trên địa bàn. Trường hợp vận động, thuyết phục lần đầu chưa đạt kết quả, Tổ vận động vẫn sẽ tiếp tục vận động, thuyết phục dù không có chấp hành viên cùng tham gia nhưng vẫn đem lại kết quả, đặc biệt là những vụ việc có giá trị thi hành thấp thì ở nhiều địa phương cấp xã, kết quả thi hành xong đạt 100%. Công tác vận động, thuyết phục trong thi hành án đã được chú trọng và tổ chức thực hiện đến ấp, khu phố, tiếp cận giải thích pháp luật, phân tích thiệt hơn trong việc tự nguyện hay bị cưỡng chế, dùng tình cảm phân tích “tình làng, nghĩa xóm”, phân tích động viên hai bên đương sự thỏa thuận theo hướng đôi bên cùng có lợi…

Mô hình hoạt động của BCĐTHADS tỉnh Long An đã đem lại hiệu quả thiết thực đối với công tác THADS tại địa phương. Từ thực tiễn mô hình này, có thể rút ra một số bài học như sau:

Một là,để đảm bảo hiệu quả bền vững, công tác THADS phải được xác định là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị từ cấp tỉnh đến cơ sở.

Hai là, áp dụng mô hình này, chấp hành viên không phải đơn độc khi thực hiện nhiệm vụ tại địa bàn. Việc tổ chức thi hành án được công khai minh bạch, Chủ tịch cấp xã, Trưởng ấp và các tổ chức chính trị tại địa phương nắm rõ nội dung vụ việc cùng phối hợp với chấp hành viên tổ chức thi hành.

Ba là, việc phân loại án chính xác hơn do địa phương nắm được cụ thể những vụ việc nào có điều kiện thi hành. Từ đó, THADS cũng đạt được kết quả như mong muốn, hạn chế lượng án tồn đọng.

Bốn là, nắm bắt kịp thời tâm tư,nguyện vọng của người được thi hành án người phải thi hành án để thuyết phục, vận động tự nguyện thi hành, làm giảm đi mức độ phức tạp, phải sử dụng đến việc cưỡng chế ở địa phương.

Hiệu quả mô hình phối hợp của BCĐTHADS tỉnh Long An được phản ánh rõ nét qua kết quả thi hành về việc cũng như về giá trị khá bền vững. Hàng năm, số vụ việc phải thi hành của Cục THADS tỉnh Long An gần 30.000 việc nhưng tỷ lệ giải quyết đạt được tương đối cao[5]; số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo giảm đáng kể[6]. Riêng trong 09 tháng năm 2015, toàn tỉnh chỉ thụ lý 18 việc khiếu nại và 02 việc tố cáo, tất cả đều được xem xét, giải quyết kịp thời.

3. Một số hạn chế, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của BCĐTHADS trong Khu vực vẫn còn tồn tại một số hạn chế, khó khăn cần khắc phục như sau:

Một là, nhận thức vai trò của cấp ủy, chính quyền về công tác THADS ở một số địa phương còn chưa đầy đủ, chưa xác định công tác THADS là nhiệm vụ chung của các ngành, các cấp ở địa phương. Nhiều địa phương, cơ quan THADS chưa làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy, Ủy ban nhân dân và BCĐTHADS cùng cấp, chưa thực sự chủ động trong công tác phối hợp với các cơ quan trong khối nội chính, đặc biệt là các cơ quan thường xuyên phối hợp như: Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, công an; chất lượng tham mưu còn hạn chế.

Hai là, thành viên của BCĐTHADS giữ những vị trí lãnh đạo chủ chốt quan trọng, nhiều công việc, hoạt động với chế độ kiêm nhiệm nên không có nhiều thời gian dành cho công tác THADS. Do vậy, nhiều nơi, BCĐTHADS hoạt động chưa thật sự có hiệu quả.

Ba là, kinh phí hoạt động của BCĐTHADS chủ yếu được trích từ ngân sách địa phương, không có nguồn nào khác bổ sung. Việc chi trả phụ cấp kiêm nhiệm và chế độ bồi dưỡng cưỡng chế THADS khi tham gia cưỡng chế THADS cho các thành viên BCĐTHADS do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định theo quy định của pháp luật. Vì vậy, các địa phương vùng xa thu ngân sách còn hạn hẹp, nên việc cấp kinh phí hoạt động cho BCĐTHADS chỉ thực hiện ở cấp tỉnh và một số thị xã, thành phố trung tâm trực thuộc tỉnh, còn lại về cơ bản vẫn khó khăn.

Với vai trò tích cực của BCĐTHADS trong công tác THADS như đã phân tích, ở địa phương nào BCĐTHADS hoạt động tốt thì hiệu quả công tác THADS ở địa phương đó đạt cao, việc thực thi pháp luật được đảm bảo thực hiện, các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, các tổ chức và công dân được bảo vệ, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; ngược lại, nơi nào cấp ủy, chính quyền chưa thực sự quan tâm thì kết quả thi hành án có hạn chế. Vì vậy, có thể coi việc tiếp tục kiện toàn hoạt động của BCĐTHADS là một trong những giải pháp căn cơ, có tính bền vững để đưa công tác THADS phát triển, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình hiện tại và những năm tiếp theo. Để làm được điều này, các địa phương cần phải:

Thứ nhất,về nhận thức, cần xác định công tác THADS là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị từ cấp tỉnh đến cơ sở. Đồng thời, giữa các Cục THADS, các BCĐTHADS trong Khu vực nên có sự trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm để nhân rộng những cách làm hay trong hoạt động của BCĐTHADS để vận dụng vào điều kiện thực tiễn tại địa phương mình.

Thứ hai,Bộ Tư pháp và Tổng Cục Thi hành án dân sự cần nghiên cứu, xem xét có thể trích từ nguồn thu phí hàng năm của cơ quan thi hành án để chi trả phụ cấp kiêm nhiệm cho thành viên BCĐTHADS, hỗ trợ hoạt động của BCĐTHADS nhất là các địa phương còn khó khăn. Từ đó, đặt ra quy chế giữa Bộ Tư pháp và Tổng Cục THADS với BCĐTHADS cấp tỉnh nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động của BCĐTHADS tại các địa phương.

ThS. Mai Thị Thuỳ Dung

Cục Công tác phía Nam, Bộ Tư pháp



[1]Theo Quyết định số 1684/QĐ-BTP ngày 05/7/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Công tác phía Nam.

[2]Trong 03 năm (2012, 2013 và 2014) số lượng thụ lý vụ việc luôn tăng theo hàng năm. Cụ thể: Năm 2012 (379.397 vụ), năm 2013 (438.551 vụ),năm 2014 (473.368 vụ); về giá trị: Năm 2012 (34.356.878.373 đồng), năm 2013 (51.131.309.212 đồng), năm 2014 (66.609.047.248 đồng). Trong 09 tháng đầu năm 2015, tổng số việc và giá trị phải thi hành của Khu vực chiếm 61.67% về việc và 70.44% về giá trị trên tổng số phải thi hành của cả nước.

[3]Một số tỉnh trong Khu vực, Trưởng BCĐTHADS do Chủ tịch tỉnh đảm nhiệm: Sóc Trăng, Vĩnh Long, Phú Yên, Tiền Giang, Đồng Nai.

[4](i) Lãnh đạo Ủy ban nhân dân Bà Rịa – Vũng Tàuvà BCĐTHADS đã có buổi làm việc về công tác THA, nắm bắt tình hình chỉ đạo hoạt động nhằm giải quyết một số vụ việc khó khăn của các đơn vị trên địa bàn tỉnh. (ii) BCĐTHADS tỉnh Lâm Đồng họp 02 lần chỉ đạo giải quyết vụ bà Hồng và Công ty Phương Trang. (iii) BCĐTHADS tỉnh Hậu Giang tổ chức họp 03 lần xử lý 12 vụ việc có khó khăn, vướng mắc; BCĐTHADS tỉnh Sóc Trăng tiến hành 19 cuộc họp và đưa ra ý kiến chỉ đạo giải quyết 18 vụ việc; Cà Mau, Cần Thơ… sau khi họp BCĐTHADS có thông báo kết luận cho ý kiến giải quyết các vụ việc bằng văn bản.

[5]Tỷ lệ giải quyết xong so với chỉ tiêu được giao của tỉnh Long An qua các năm: Năm 2012: Về việc (đạt 85,96%/88% được giao); về giá trị (đạt 75,34%/77% được giao). Năm 2013: Về việc (đạt 83,82%/88% được giao), về giá trị (đạt 76,81%/ 77% được giao). Năm 2014: Về việc (đạt 88,20%/88% được giao), về giá trị (đạt 79,90%/83% được giao).

[6] Năm 2012: 79 việc, năm 2013: 50 việc (43 việc khiếu nại và 07 việc tố cáo), năm 2014: 42 việc (36 việc khiếu nại và 06 việc tố cáo).

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số quy định mới về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư theo Luật Đất đai năm 2013

30/10/2015

Luật Đất đai năm 2003 ra đời là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, cũng như phục vụ hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai. Tuy vậy, sau gần 10 năm áp dụng, những quy định của Luật Đất đai năm 2003 nói chung đã bộc lộ những vướng mắc, bất cập, đặc biệt là trong lĩnh vực về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến những khiếu nại, khiếu kiện, tranh chấp về đất đai. Việc sửa đổi toàn diện Luật Đất đai năm 2003 là yêu cầu cấp thiết, nhằm thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng trong lĩnh vực đất đai và công cuộc đổi mới đất nước. Trước yêu cầu đó, ngày 29/11/2013, Quốc hội đã thông qua Luật Đất đai năm 2013, có hiệu lực từ ngày 01/7/2014.

So với Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013 có nhiều điểm đổi mới về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Cụ thể như sau:

1. Về thu hồi đất

1.1. Các trường hợp thu hồi đất

Từ 12 trường hợp thu hồi đất quy định tại Điều 38 của Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013 bổ sung trường hợp thu hồi đất do có nguy cơ đe dọa tính mạng con người. Theo đó, việc thu hồi đất được chia thành 04 nhóm như sau:

– Nhóm 1: Thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh.

– Nhóm 2: Thu hồi đất để phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Luật Đất đai năm 2013 thu hẹp hơn các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Nhà nước chỉ thu hồi đất đối với các dự án đã được Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư; dự án được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, quyết định đầu tư và một số trường hợp được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh xem xét thông qua chủ trương thu hồi đất.

+ Nhóm 3: Thu hồi đất do vi phạm pháp luật; đặc biệt đối với trường hợp không đưa đất đã được giao, cho thuê vào sử dụng hoặc chậm đưa đất vào sử dụng. Luật Đất đai năm 2013 quy định chế tài mạnh để xử lý đối với các trường hợp này: “Đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục hoặc tiến độ sử dụng đất chậm 24 tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa phải đưa đất vào sử dụng; trường hợp không đưa đất vào sử dụng thì chủ đầu tư được gia hạn sử dụng 24 tháng và phải nộp cho Nhà nước khoản tiền tương ứng với mức tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với thời gian chậm tiến độ thực hiện dự án trong thời gian này; hết thời hạn được gia hạn mà chủ đầu tư vẫn chưa đưa đất vào sử dụng thì Nhà nước thu hồi đất mà không bồi thường về đất và tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp do bất khả kháng”.

+ Nhóm 4: Thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người.

1.2. Thẩm quyền thu hồi đất

Luật Đất đai năm 2013 có sửa đổi thẩm quyền thu hồi đất so với quy định hiện hành để cải cách hành chính khi thực hiện các dự án, trong đó quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất hoặc ủy quyền cho UBND cấp huyện thu hồi đối với trường hợp khu đất thu hồi có cả tổ chức và hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất. Đây là lần đầu tiên trong Luật Đất đai có quy định UBND cấp tỉnh được ủy quyền cho UBND cấp huyện thực hiện thu hồi đất.

1.3. Thông báo thu hồi đất và chấp hành quyết định thu hồi đất

Luật đã quy định trách nhiệm của Nhà nước trong việc thông báo thu hồi đất: Trước khi có quyết định thu hồi đất, chậm nhất là 90 ngày đối với đất nông nghiệp và 180 ngày đối với đất phi nông nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thông báo thu hồi đất cho người có đất thu hồi biết. Nội dung thông báo thu hồi đất gồm kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm. Trường hợp người sử dụng đất trong khu vực thu hồi đất đồng ý để cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất trước thời hạn thì Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi đất mà không phải chờ đến hết thời hạn thông báo thu hồi đất.

Đồng thời, Luật cũng quy định: Người có đất thu hồi có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chứclàm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng trong quá trình điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm, xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; khi quyết định thu hồi đất có hiệu lực thi hành và phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt được công bố công khai, người có đất thu hồi phải chấp hành quyết định thu hồi đất.

1.4. Về trình tự, thủ tục thu hồi đất

Đây là nội dung rất quan trọng nhằm bảo đảm tính công khai, minh bạch, dân chủ trong thực hiện thu hồi đất. Tại Điều 69 của Luật Đất đai đã quy định cụ thể các bước công việc như: Xây dựng và thực hiện kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm; lập, thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; việc quyết định thu hồi đất, phê duyệt và tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.

Trong các bước công việc này, người sử dụng đất được tiếp cận thông tin bằng nhiều hình thức (gửi đến từng người có đất thu hồi, họp trực tiếp, niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư) về thông báo thu hồi đất, kế hoạch thu hồi đất; tham gia góp ý kiến cụ thể về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

2. Về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

Luật Đất đai năm 2003 đã có những bước tiến trong việc bảo đảm tốt hơn quyền lợi cho người có đất thu hồi. Tuy nhiên, đây vẫn là một trong những vấn đề nổi cộm, làm chậm tiến độ bồi thường giải phóng mặt bằng, ảnh hưởng đến môi trường và hiệu quả đầu tư, gây khiếu kiện kéo dài trong thời gian qua.

Để khắc phục những bất cập trên, Luật Đất đai năm 2013 đã có những điểm đổi mới rất quan trọng từ nguyên tắc bồi thường về đất, cho đến việc chi trả bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Cụ thể:

2.1. Quy định nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất

Các chế định bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trong Luật Đất đai năm 2003 trên thực tế đã không thể thể chế, truyền tải hết các quy định mang tính nguyên tắc để thực hiện thống nhất khi xử lý những vấn đề phức tạp phát sinh trong thực tiễn thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại các địa phương, các bộ, ngành. Khắc phục hạn chế này, Luật Đất đai năm 2013 đã tách nguyên tắc bồi thường về đất và nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản, ngừng sản xuất, kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất thành 02 điều riêng biệt. Trong đó, quy định cụ thể các nguyên tắc bồi thường về đất và các nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất để các bộ, ngành, địa phương và người thu hồi đất căn cứ vào đó thống nhất thực hiện.

Trong đó, Luật bổ sung thêm 02 trường hợp được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất quy định tại Điều 75, cụ thể: (i) Bồi thường đối với các trường hợp sử dụng đất thuê trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê; (ii) trường hợpcơ sở tôn giáo, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất mà không phải là đất do Nhà nước giao, cho thuê và có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất

2.2. Thể chế hóa cơ chế, chính sách bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại thông qua các quy định chi tiết đối với từng loại đất, gồm: Đất nông nghiệp, đất ở, đất phi nông nghiệp không phải đất ở và theo từng loại đối tượng sử dụng đất

Trong đó, theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 việc xác định mức bồi thường cho người có đất thu hồi đối với đất sử dụng có thời hạn không chỉ căn cứ loại đất, đối tượng sử dụng đất mà còn phải căn cứ thời hạn sử dụng đất còn lại của người sử dụng đất đối với đất đó, trừ trường hợp đất nông nghiệp có nguồn gốc do Nhà nước giao đất đối với hộ gia đình, cá nhân.

2.3. Quy định cụ thể về bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại, cho một số trường hợp không được bồi thường về đất

Những trường hợp được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất, bao gồm:

– Đất được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất, trừ trường hợp đất nông nghiệp được Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân quy định tại khoản 1 Điều 54;

– Đất được Nhà nước giao cho tổ chức thuộc trường hợp có thu tiền sử dụng đất nhưng được miễn tiền sử dụng đất;

– Đất được Nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất hàng năm; đất thuê trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê nhưng được miễn tiền thuê đất, trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất thuê do thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng;

– Đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn;

– Đất nhận khoán để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối.

Đối với người dân mất đất nông nghiệp, đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ, UBND cấp tỉnh phải có phương án đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm cho người dân. Với những người dân bị thu hồi đất, mục tiêu an sinh phải đặt lên cao nhất. Việc bồi thường bằng tiền được xác định theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do UBND câp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi.

2.4. Về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

Một số quy định được bổ sung trong Luật Đất đai năm 2013 so với Luật đất đai năm 2003 như sau:

Quy định về nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất (khoản 1 Điều 83 Luật Đất đai năm 2013): (i) Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất ngoài việc được bồi thường theo quy định còn được Nhà nước xem xét hỗ trợ; (ii) Việc hỗ trợ phải bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời, công khai và đúng quy định của pháp luật.

2.5. Quy định về hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà không có đất nông nghiệp để bồi thường

– Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà không có đất nông nghiệp để bồi thường thì ngoài việc được bồi thường bằng tiền còn được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm.

Trường hợp người được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm trong độ tuổi lao động có nhu cầu được đào tạo nghề thì được nhận vào các cơ sở đào tạo nghề; được tư vấn hỗ trợ tìm kiếm việc làm, vay vốn tín dụng ưu đãi để phát triển sản xuất, kinh doanh.

– Quy định về hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ mà nguồn thu nhập chính từ hoạt động kinh doanh, dịch vụ khi Nhà nước thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở như sau: Đối với hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ mà nguồn thu nhập chính là từ hoạt động kinh doanh dịch vụ, khi Nhà nước thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở thì được vay vốn tín dụng ưu đãi để phát triển sản xuất, kinh doanh; trường hợp người có đất thu hồi còn trong độ tuổi lao động thì được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm.

2.6. Về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

Nhằm khắc phục tình trạng một số khu tái định cư chất lượng còn thấp, không đồng bộ về hạ tầng, chưa đảm bảo có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ, Luật Đất đai năm 2013 đã có những quy định mới như sau:

Bổ sung quy định cụ thể về lập và thực hiện dự án tái định cưtheo hướng:Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm tổ chức lập và thực hiện dự án tái định cư trước khi thu hồi đất. Quy định khu tái định cư tập trung phải xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng,phù hợp với điều kiện, phong tục, tập quán của từng vùng, miền. Quy định việc thu hồi đất ở chỉ được thực hiện sau khi hoàn thành xây dựng nhà ở hoặc cơ sở hạ tầng của khu tái định cư

Sửa đổi và bổ sung quy định về bố trí tái định cư cho người bị thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở:

+ Người có đất thu hồi được bố trí tái định cư tại chỗ nếu tại khu vực thu hồi đất có dự án tái định cư hoặc có điều kiện bố trí tái định cư. Ưu tiên vị trí thuận lợi cho người có đất thu hồi sớm bàn giao mặt bằng, người có đất thu hồi là người có công với cách mạng.

+ Giá đất cụ thể tính thu tiền sử dụng đất tại nơi tái định cư, giá bán nhà ở tái định cư do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định.

+ Quy định trường hợp người có đất thu hồi được bố trí tái định cư mà tiền bồi thường, hỗ trợkhông đủ để mua một suất tái định cư tối thiểu thì được Nhà nước hỗ trợ tiền đủ để mua một suất tái định cư tối thiểu. Chính phủ quy định cụ thể suất tái định cư tối thiểu phù hợp với điều kiện từng vùng, miền và địa phương.

2.7. Về việc chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày quyết định thu hồi đất, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường phải chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi. Trường hợp cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường chậm chi trả thì khi thanh toán tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi, ngoài tiền bồi thường, hỗ trợ theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì người có đất thu hồi còn được thanh toán thêm một khoản tiền bằng mức tiền chậm nộp theo quy định của Luật Quản lý thuế tính trên số tiền chậm trả và thời gian chậm trả. Trường hợp người có đất thu hồi không nhận tiền bồi thường, hỗ trợ thì tiền bồi thường, hỗ trợ được gửi vào tài khoản tạm giữ của Kho bạc nhà nước.

Trên đây là những quy định mới về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2013. Những nội dung này được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trườngngày 30/6/2014 về quy định chi tiết bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Với những quy định bổ sung trình tự, thủ tục, phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, Luật Đất đai năm 2013 đã bảo vệuyền lợi của người có đất thu hồi; tăng cường hơn sự tham gia trực tiếp của nhân dân; trách nhiệm đối thoại và giải trình của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi người dân chưa có ý kiến đồng thuận trong việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.Đây là một trong những bước đột phá của Luật Đất đai năm 2013.

Khánh Ly

Khoa Nhà nước và pháp luật

Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, Bộ Nội vụ

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thực tiễn công tác giải quyết các vụ việc trọng điểm, phức tạp, kéo dài có khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự

14/12/2015

Những năm qua công tác thi hành án dân sự đã có những tiến bộ rõ rệt, kết quả thi hành án dân sự có xu hướng ngày càng bền vững, qua đó, đã và đang góp phần quan trọng, tích cực vào việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế – xã hội của đất nước và từng địa phương. Năm 2015, Chính phủ, Bộ Tư pháp chỉ đạo và tổ chức thực hiện các chỉ tiêu đảm bảo thi hành án xong đạt trên 88% về việc và trên 77% về tiền trên tổng số việc, tiền có điều kiện thi hành, tập trung chỉ đạo sâu sát, quyết liệt đối với những vụ án lớn, phức tạp, các vụ việc liên quan đến thu hồi tài sản cho Nhà nước trong các vụ án tham nhũng, những vụ việc thi hành án liên quan đến tín dụng ngân hàng hướng đến mục tiêu giảm tỷ lệ nợ xấu về mức dưới 3%[1].

Để hoàn thành chỉ tiêu, nhiệm vụ thi hành án dân sự nêu trên, Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự và các cơ quan thi hành án dân sự địa phương đã tập trung giải quyết án các việc thi hành án dân sự trọng điểm, phức tạp, kéo dài đặc biệt là các vụ việc có khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự.

1. Quy định về các vụ việc trọng điểm, phức tạp, kéo dài

Ngày 01/12/2014, Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự đã ký Quyết định số 813/QĐ-TCTHADS ban hành quy định tạm thời về tiêu chí xác định việc thi hành án dân sự trọng điểm[2]. Quy định này tạo cơ sở pháp lý và đặt nền tảng cho các đơn vị chuyên môn thuộc Tổng cục, các cơ quan Thi hành án dân sự địa phương căn cứ tiêu chí xác định vụ việc đã được ban hành để rà soát, lập danh sách việc thi hành án dân sự trọng điểm phức tạp, kéo dài. Đồng thời với việc ban hành tiêu chí xác định việc thi hành án dân sự trọng điểm, Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự đã chỉ đạo các đơn vị chuyên môn thuộc Tổng cục, Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương rà soát, lập danh sách và xây dựng kế hoạch, tập chung chỉ đạo giải quyết dứt điểm các vụ việc này.

2. Công tác chỉ đạo giải quyết các vụ việc thi hành án dân sự trọng điểm, phức tạp, kéo dài về thi hành án dân sự

Để giải quyết các vụ việc thi hành án dân sự trọng điểm, phức tạp, kéo dài về thi hành án dân sự, góp phần hoàn thành chỉ tiêu của Quốc hội, Chính phủ và Bộ Tư pháp giao, ngày 27/01/2015 Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự ban hành Quyết định số 74/QĐ-TCTHADS phê duyệt Kế hoạch chỉ đạo, giải quyết các vụ việc thi hành án dân sự trọng điểm phức tạp, kéo dài của toàn hệ thống các cơ quan Thi hành án dân sự. Mục đích của kế hoạch là Tổng cục Thi hành án dân sự, Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tập trung kiểm tra, rà soát, tổng hợp, phấn đấu chỉ đạo giải quyết cơ bản dứt điểm 100% các vụ việc thuộc diện án trọng điểm phức tạp, kéo dài; hạn chế tối đa phát sinh mới loại việc trên, góp phần bảo đảm an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đồng thời, nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức trong hệ thống các cơ quan Thi hành án dân sự trong việc giải quyết và chỉ đạo giải quyết các việc thi hành án dân sự trọng điểm phức tạp, kéo dài.Kế hoạch đã đặt ra 02 yêu cầu: Một là, kế hoạch phải khả thi, đảm bảo hoàn thành đúng tiến độ, có chất lượng và hiệu quả. Nội dung Kế hoạch cần phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị; Hai là, trong quá trình triển khai có sự phối hợp chặt chẽ, kịp thời giữa Tổng cục Thi hành án dân sự, Thanh tra Bộ Tư pháp, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, các Bộ, ngành có liên quan, UBND các cấp, Ban chỉ đạo Thi hành án dân sự các cấp và Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để trao đổi, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và thống nhất biện pháp giải quyết các vụ việc thi hành án dân sự trọng điểm, phức tạp, kéo dài. Nội dung của kế hoạch đã phân công rõ trách nhiệm của Tổng cục[3] và trách nhiệm của các cơ quan Thi hành án dân sự địa phương[4] trong việc chỉ đạo, giải quyết các vụ việc trọng đểm, phức tạp, kéo dài. Kế hoạch trên được triển khai thực hiện trong toàn hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự. Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tổng cục, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được phân công bảo đảm hiệu quả, chất lượng. Trong quá trình thực hiện, nếu có khó khăn, vướng mắc phải kịp thời báo cáo Tổng cục trưởng xem xét, chỉ đạo.

3. Kết quả rà soát

Thực hiện Kế hoạch chỉ đạo, giải quyết các việc thi hành án dân sự trọng điểm phức tạp, kéo dài ban hành kèm theo Quyết định số 74/QĐ-TCTHADS ngày 27/01/2015 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự nêu trên, Tổng cục Thi hành án dân sự đã có nhiều văn bản chỉ đạo các cơ quan Thi hành án dân sự địa phương, các cơ quan chuyên môn thuộc Tổng cục thực hiện xây dựng kế hoạch, rà soát, chỉ đạo giải quyết dứt điểm các việc thuộc loại này. Trung tâm Thống kê, quản lý dữ liệu và ứng dụng công nghệ thông tin đã xây dựng biểu mẫu thống kê, quản lý dữ liệu liên quan đến các vụ việc này. Kết quả rà soát, chỉ đạo giải quyết năm 2015 được tổng hợp như sau:

Tại Tổng cục có 48 vụ việc (trong đó, cũ chuyển sang: 45 việc; phát sinh: 03 việc). Kết quả giải quyết xong: 13 việc; số việc chuyển kỳ sau: 35 việc.

Các cơ quan thi hành án dân sự địa phương là 3.688 vụ việc tương ứng với số tiền còn phải thi hành án là 267.149.700.866.000đ[5].

Đáng chú ý là năm 2015, một số vụ án lớn, phức tạp đã được Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự chỉ đạo giải quyết xong, cụ thể là:

– Vụông Trần Kia và Công ty Duyên HảiBạc Liêu:Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh Bạc Liêu đã phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tài sản trên đất đối với Công ty Duyên Hải Bạc Liêu và đã đưa ra bán đấu giá Quyền sử dụng đất thuê của Công ty Duyên Hải Bạc Liêu với giá 30 tỷ đồng. Được sự nhất trí của UBND tỉnh, ngày 14/9/2015 Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bạc Liêu đã chi số tiền 30 tỷ đồng cho Công ty Cadovimex. Số còn lại, do Công ty Duyên hải Bạc Liêu không còn tài sản nên Công ty Cadovimex đồng ý xếp vào diện không có điều kiện thi hành.

– Vụ bà Đinh Ngân Bình (Bình Dương): Mặc dù việc thi hành án nhận người lao động trở lại làm việc gặp rất nhiều khó khăn do Công ty TNHH FrieslandCampina Việt Nam không có thiện chí, không tự nguyện thi hành. Tuy nhiên, do có sự chỉ đạo sát sao của BCĐ Thi hành án dân sự tỉnh, Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Tổng cục THADS nên ngày 16/7/2015, dưới sự chứng kiến của cơ quan Thi hành án dân sự, Viện kiểm sát và các cơ quan có liên quan, Công ty đã nhận bà Bình trở lại làm việc, đồng thời chuyển số tiền hơn 900 triệu đồng (tiền công lao động trong thời gian chưa nhận người lao động trở lại làm việc) vào tài khoản của bà Đinh Ngân Bình. Bà Đinh Ngân Bình đã nhận đầy đủtiền, các giấy tờ có liên quan và rút toàn bộ các nội dung khiếu nại, kết thúc hoàn toàn việc thi hành án.

– Vụ ông Lâm Quang Lập (An Giang) đòi bồi thường do mua trúng đấu giá nhà, đất từ năm 1995 đến nay chưa nhận được tài sản: Quá trình tổ chức thi hành án, cơ quan THADS có nhiều sai sót nên phải hủy kết quả bán đấu giá. Tuy nhiên, do UBND tỉnh An Giang đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho ông Lâm Quang Lập nên UBND tỉnh đã phải thu hồi GCNQSDĐ đó. Hiện nay, ông Lập chỉ khiếu nại đối với quyết định thu hồi GCNQSDĐ của UBND tỉnh An Giang chứ không khiếu nại cơ quan THADS.

4. Khó khăn, vướng mắc trong công tác giải quyết các vụ việc trọng điểm, phức tạp, kéo dài

Mặc dù Tổng cục và các cơ quan thi hành án dân sự địa phương đã rất cố gắng, quyết liệt trong việc tham mưu chỉ đạo giải quyết những vụ việc phức tạp, bức xúc kéo dài, tuy nhiên, kết quả giải quyết các vụ việc này chưa cao, số vụ việc được giải quyết dứt điểm còn thấp, các địa phương chưa dành nhiều thời gian để giải quyết dứt điểm các vụ trọng điểm phức tạp, kéo dài, trong khi số vụ việc mới phát sinh ngày càng nhiều, chiều hướng phức tạp ngày càng tăng là do công tác này có những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân sau:

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn các vụ việc phức tạp bị tồn đọng, kéo dài, song chủ yếu tập trung vào các nguyên nhân sau:

– Nguyên nhân chủ quan: Lãnh đạo, công chức một số đơn vị thuộc Tổng cục, đặc biệt là Thủ trưởng và Chấp hành viên một số cơ quan THADS địa phương chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc tổ chức thi hành các vụ việc phức tạp, kéo dài nên chưa thực sự quyết liệt trong việc triển khai thực hiện chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ và Kế hoạch rà soát, giải quyết các vụ việc phức tạp kéo dài của Tổng cục; chưa chủ động tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương trong công tác chỉ đạo giải quyết, cưỡng chế thi hành các vụ việc này. Trình độ, chuyên môn nghiệp vụ của một số Chấp hành viên chưa đáp ứng yêu cầu, còn để xảy ra sai sót, vi phạm về trình tự, thủ tục trong quá trình tổ chức thi hành án dẫn đến phát sinh khiếu nại, tố cáo gay gắt của công dân.

– Nguyên nhân khách quan:Hầu hết các vụ việc trong danh sách là những vụ đã tồn đọng, kéo dài trong nhiều năm, việc tổ chức thi hành không nhận được sự đồng thuận của Cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương. Nhiều vụ việc bản án, quyết định của Tòa án tuyên không rõ khó thi hành, một số vụ cơ quan THADS đang chuẩn bị cưỡng chế hoặc đã tổ chức thi hành một phần nhưng có kháng nghị của cơ quan có thẩm quyền, thậm chí có một số vụ kháng nghị và xét xử lại nhiều lần gây khó khăn cho công tác thi hành án. Nhiều đương sự cố tình lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để cản trở, kéo dài thời gian thi hành án. Bên cạnh đó, trong quá trình tổ chức thi hành án, một số vụ việc nảy sinh vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật do pháp luật chưa có quy định hoặc có nhưng không rõ, không thống nhất dẫn đến những quan điểm trái ngược nhau…

5. Nhiệm vụ, giải pháp

Kết quả rà soát trên cho thấy, số lượng các vụ việc thi hành án dân sự trọng điểm còn tồn đọng rất lớn, hầu hết các vụ này rất phức tạp, nhiều vụ kéo dài đã lâu không được giải quyết. Do đó, để giải quyết các vụ việc này các cơ quan thi hành án dân sự ngoài việc xây dựng kế hoạch chung cần xây dựng kế hoạch giải quyết riêng đối với từng vụ việc trong đó nêu rõ các bước cần thực hiện (việc tổ chức thi hành án, giải quyết khiếu nại, tố cáo, bồi thường), khó khăn vướng mắc phải giải quyết, đề xuất giải pháp thực hiện.

Trên cơ sở rà soát án trọng điểm, cơ quan thi hành án dân sự cần phân loại vụ việc theo tiêu chí phân loại vụ việc theo tiêu chí xác định việc thi hành án dân sự trọng điểm được quy định tạiQuyết định số 813/QĐ-TCTHADS ngày 01/12/2014 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự. Có vụ việc đáp ứng một tiêu chí nhưng cũng có nhiều vụ việc đáp ứng nhiều tiêu chí thậm chí đáp ứng cả 10 tiêu chí. Do đó, khi xây dựng kế hoạch người xây dựng kế hoạch cần bám sát vụ việc thuộc tiêu chí phân loại nào để xây dựng nội dung kế hoạch phù hợp, đề xuất giải pháp giải quyết vụ việc. Ví dụ: đối với vụ việc có khiếu nại, tố cáo bức xúc kéo dài, thuộc trường hợp đã có quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận tố cáo có hiệu lực thi hành và đã được xem xét, giải quyết tiếp nhưng đương sự tiếp tục khiếu nại thì mục tiêu của kế hoạch là giải quyết dứt điểm khiếu nại, ra thông báo không thụ lý giải quyết khiếu nại đối với trương hợp này. Đảm bảo việc ra thông báo chấm dứt vừa là sự tuân thủ các quy định của pháp luật, vừa là điểm dừng của vụ việc khiếu nại, tố cáo, đánh dấu sự giải quyết dứt điểm vụ việc trên thực tế.

Để thực hiện chỉ đạo của Bộ trưởng và tiếp tục tổ chức thực hiện có hiệu quả Kế hoạch chỉ đạo, giải quyết các vụ việc trọng điểm, trong thời gian tới, Tổng cục, Cục THADS các tỉnh, thành phố cần tập trung thực hiện một số nội dung sau:

Tập trung xây dựng và báo cáo Bộ trưởng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự.

– Tiếp tục phân công Lãnh đạo Tổng cục, lãnh đạo Cục trực tiếp phụ trách chỉ đạo các đơn vị thuộc Tổng cục và các địa phương trong việc triển khai thực hiện Kế hoạch giải quyết án trọng điểm; chỉ đạo rà soát, tổng hợp đầy đủ, chính xác các vụ việc phức tạp, kéo dài theo chỉ đạo của Bộ trưởng và Kế hoạch của Tổng cục; xây dựng Kế hoạch thực hiện của các đơn vị và Kế hoạch giải quyết đối với từng vụ việc cụ thể, trong đó, xác định rõ biện pháp, giải pháp thực hiện, có phân công, phân nhiệm rõ ràng và xác định thời gian dự kiến hoàn thành;

– Nghiên cứu tổ chức thực hiện tốt Quy chế số 01/QCLN/NHNNVN-BTP ngày 18/3/2015 giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ Tư pháp về Quy chế phối hợp giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ Tư pháp trong công tác thi hành án dân sự, phối hợp với các tổ chức tín dụng, ngân hàng đẩy nhanh tốc độ, nâng cao hiệu quả và xử lý dứt điểm các vụ việc thi hành án dân sự trong hoạt động tín dụng, ngân hàng, góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu xử lý nợ xấu mà Quốc hội, Chính phủ đề ra.

– Tổ chức các cuộc họp liên nghành Trung ương và địa phương để thống nhất hướng giải quyết các vụ án lớn, trọng điểm, phức tạp, kéo dài;

– Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị có liên quan ở Trung ương và địa phương trong việc thống nhất, hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các cơ quan THADS địa phương trong quá trình tổ chức thi hành án nói chung và trong việc tổ chức thi hành, lập hồ sơ bồi thường, bảo đảm tài chính đối với các vụ việc phức tạp, kéo dài nói riêng;

– Tổng cục, Cục THADS các tỉnh, thành phố phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương, tranh thủ tối đa sự ủng hộ của cấp uỷ chính quyền địa phương trong việc chỉ đạo tổ chức cưỡng chế, thi hành các vụ việc phức tạp, kéo dài;

– Tổ chức kiểm tra việc thực hiện chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ, Kế hoạch của Tổng cục, tăng cường kiểm tra trực tiếp hồ sơ các vụ việc phức tạp, kéo dài, để kịp thời hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện hoặc có biện pháp chấn chỉnh, khắc phục kịp thời, hạn chế hậu quả xảy ra;

– Đối với 35 vụ việc còn tồn đọng thuộc trách nhiệm của các cơ quan chuyên môn thuộc Tổng cục và 3.688 việc thuộc trách nhiệm của các cơ quan thi hành án dân sự địa phương, Tổng cục tiếp tục chỉ đạo các cơ quan THADS địa phương tích cực tổ chức thi hành các vụ việc trọng điểm, giải quyết khiếu nại tố cáo đúng pháp luật hợp tình, hợp lý; tổ chức thi hành đúng pháp luật các vụ án lớn, phức tạp mới thụ lý nhằm hạn chế phát sinh các vụ việc phức tạp ngay từ đầu; tranh thủ sự ủng hộ của cấp ủy, chính quyền địa phương để tổ chức cưỡng chế thi hành dứt điểm các vụ việc trọng điểm có điều kiện thi hành. Đồng thời,đề nghị Bộ Tư pháp làm việc với một số địa phương có nhiều vụ việc phức tạp, địa phương chưa tích cực chỉ đạo các cơ quan có thẩm quyền phối hợp với cơ quan THADS trong việc tổ chức thi hành án, tăng cường công tác phối hợp trong việc chỉ đạo thi hành các vụ việc phức tạp, kéo dài.

Nguyễn Thị Thu Hằng

Tổng cục Thi hành án dân sự



[1]Theo Báo cáo của Chính phủ về công tác thi hành án năm 2015, hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự đã giải quyết xong số việc, tiền nhiều hơn cả về giá trị tuyệt đối và về tỷ lệ so với cùng kỳ năm 2014.

Về việc, đến hết tháng 9/2014, số cũ chuyển sang là 248.203 việc; từ 01/10/2014 đến 31/7/2015 thụ lý mới 461.402 việc, tăng 102 việc (0,02%) so với cùng kỳ năm 2014. Như vậy, tổng số thụ lý là 709.605 việc, tăng 9.148 việc (1,3%) so với cùng kỳ năm 2014. Kết quả xác minh, phân loại có: 559.070 việc có điều kiện giải quyết (chiếm tỷ lệ 78,79%, giảm 1,11% so với cùng kỳ năm 2014), giảm 577 việc so với cùng kỳ năm 2014 và 150.535 việc chưa có điều kiện giải quyết (chiếm tỷ lệ 21,21%). Trong số có điều kiện, đã giải quyết xong 404.526 việc, đạt tỷ lệ 72,36%. So với cùng kỳ năm 2014, tăng 13.670 việc (3,5%) và tăng 2,52% về tỷ lệ. Một số địa phương đạt kết quả khá cao về việc như: Vĩnh Phúc (88,46%), Đăk Lăk (85,9%), Đồng Tháp (79,63%), Bến Tre (79,38%), Nghệ An (79,39%), Tp.Hồ Chí Minh (72,07%)…

Về tiền, đến hết tháng 9/2014, số cũ chuyển sang là 56.127 tỷ 149 triệu 948 nghìn đồng; từ 01/10/2014 đến 31/7/2015 thụ lý mới 65.905 tỷ 598 triệu 195 nghìn đồng, tăng 18.091 tỷ 701 triệu 964 nghìn đồng (37,83%) so với cùng kỳ năm 2014. Như vậy, tổng số tiền thụ lý là 122.032 tỷ 748 triệu 143 nghìn đồng, tăng 32.621 tỷ 257 triệu 645 nghìn đồng (36,48%) so với cùng kỳ năm 2014. Kết quả xác minh, phân loại có: 72.276 tỷ 164 triệu 571 nghìn đồng có điều kiện giải quyết (chiếm tỷ lệ 59,23%, giảm 8,06% so với cùng kỳ năm 2014), tăng 12.112 tỷ 593 triệu 886 nghìn đồng (20,13%) so với cùng kỳ năm 2014 và 49.756 tỷ 583 triệu 572 nghìn đồng chưa có điều kiện giải quyết (chiếm tỷ lệ 40,77%). Trong số có điều kiện, đã giải quyết xong 34.629 tỷ 405 triệu 949 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 47,91%. So với cùng kỳ năm 2014, tăng 10.025 tỷ 453 triệu 522 nghìn đồng (40,74%) và tăng 7,01% về tỷ lệ. Một số địa phương đạt kết quả khá cao về tiền như: Quảng Nam (82%), Lâm Đồng (65,07%), Đăk Lăk (74,65%), Khánh Hòa (59,4%), Tp.Hồ Chí Minh (54,9%)….

[2]Theo Quyết định số 813/QĐ-TCTHADS ngày 01/12/2014 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự quy định tạm thời về tiêu chí xác định việc thi hành án dân sự trọng điểm thì việc thi hành án dân sự được xác định là trọng điểm khi đáp ứng được một trong 10 tiêu chí sau:

1. Liên quan đến việc thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước (chính sách dân tộc, tôn giáo; xóa đói giảm nghèo; giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu…).

2. Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Lãnh đạo Bộ Tư pháp, Lãnh đạo địa phương quan tâm, chỉ đạo, yêu cầu phải tập trung giải quyết dứt điểm.

3. Có quan điểm khác nhau giữa các cơ quan có trách nhiệm ở Trung ương hoặc địa phương do quy định của pháp luật chưa cụ thể, rõ ràng hoặc quy định của pháp luật còn chồng chéo, cần sự thống nhất để có biện pháp giải quyết dứt điểm.

4. Chưa nhận được sự đồng tình của cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương, hoặc báo chí và các phương tiện truyền thông có uy tín đăng tải, phản ánh sự bức xúc trong dư luận xã hội về việc tổ chức thi hành án.

5. Có hoặc dự kiến sẽ có sự chống đối quyết liệt của đương sự, việc tổ chức thi hành án đã hoặc có khả năng gây ra những hậu quả nghiêm trọng (đương sự tự sát, quá khích, chống đối quyết liệt dẫn đến hậu quả làm chết, bị thương nhiều người hoặc gây tổn thất nghiêm trọng đến tài sản, người tham gia cưỡng chế…) làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị, kinh tế, trật tự an toàn xã hội tại địa phương.

6. Có giá trị tài sản phải thi hành lớn và có tầm quan trọng nhất định, phục vụ yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của trung ương hoặc địa phương.

7. Có vi phạm pháp luật về nghiệp vụ trong quá trình tổ chức thi hành án đã được cơ quan có thẩm quyền kết luận hoặc khởi tố hình sự đối với Thủ trưởng cơ quan thi hành án, Chấp hành viên, cán bộ thi hành án.

8. Cần giải quyết các quyền lợi của tập thể người lao động trong trường hợp cần tổ chức cưỡng chế đối với người phải thi hành án là các doanh nghiệp, có ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.

9. Bản án, Quyết định của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh tuyên không rõ, khó thi hành.

10. Có khiếu nại, tố cáo bức xúc kéo dài, thuộc một trong các trường hợp sau:

a) Đã có quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận tố cáo nhưng chưa được các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện, hoặc thực hiện chưa đúng, chưa đầy đủ hoặc có khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện;

b) Người khiếu nại, tố cáo có điều kiện, hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, được vận dụng chính sách xã hội, tạo điều kiện hỗ trợ nhằm bảo đảm cho công dân ổn định cuộc sống, chấm dứt khiếu nại nhưng chưa hỗ trợ được do có khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.

c) Đã có quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận tố cáo có hiệu lực thi hành nhưng có căn cứ cho rằng việc giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa đúng với quy định của pháp luật.

d)Đã có quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận tố cáo có hiệu lực thi hành và đã được xem xét, giải quyết tiếp nhưng đương sự tiếp tục khiếu nại.

e) Khiếu nại, tố cáo đã quá thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật nhưng người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa ban hành quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận tố cáo do quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo gặp khó khăn, vướng mắc.

f)Công dân trực tiếp đến các địa điểm tiếp công dân để khiếu nại, tố cáo gay gắt, thường xuyên; vụ việc có đông người khiếu nại, có dấu hiệu gây mất trật tự, an ninh cần tập trung chỉ đạo giải quyết dứt điểm.

[3]Trách nhiệm của Tổng cục:Nội dung của kế hoạch đã chỉ rõ các cơ quan thuộc Tổng cục có trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ (bao gồm đơn vị chủ trì, đơn vị phối hợp), thời hạn thực hiện, kết quả thực hiện, cụ thể:

Một là, Tổng cục có văn bản chỉ đạo các Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương rà soát, lập danh sách các việc thi hành án dân sự trọng điểm phức tạp, kéo dài;

Hai là, các đơn vị chuyên môn thuộc Tổng cục thực hiện rà soát, lập danh sách các việc thi hành án dân sự trọng điểm phức tạp, kéo dài thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của đơn vị mình (Danh sách vụ việc này có thể được bổ sung hoặc bãi bỏ vụ việc theo định kỳ rà soát); xây dựng Kế hoạch của đơn vị, phân công Lãnh đạo, chuyên viên chịu trách nhiệm đối với từng vụ việc cụ thể. Đối với những vụ việc đã có đủ điều kiện giải quyết thì phải xây dựng Kế hoạch chi tiết để chỉ đạo giải quyết dứt điểm trong năm 2015.

Ba là,tổ chức thực hiện Kế hoạch giải quyết các vụ việc thuộc trách nhiệm của Tổng cục. Nội dung này đã giao cụ thể trách nhiệm của Lãnh đạo cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và trách nhiệm của các đơn vị thuộc Tổng cục, cụ thể:

– Lãnh đạo Tổng cục được phân công chỉ đạo Lãnh đạo các đơn vị chuyên môn thuộc Tổng cục, Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết dứt điểm các việc thi hành án dân sự trọng điểm phức tạp, kéo dài trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của đơn vị mình, hạn chế đến mức thấp nhất phát sinh các vụ việc thuộc loại này.

– Các đơn vị chuyên môn thuộc Tổng cục tổ chức nghiên cứu hồ sơ, phân loại và xử lý giải quyết dứt điểm các việc thi hành án dân sự trọng điểm thuộc trách nhiệm của đơn vị mình.

Bốn là,kiểm tra, chỉ đạo giải quyết các vụ việc thi hành án dân sự trọng điểm phức tạp, kéo dài thuộc trách nhiệm của Tổng cục.

Năm là,xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý và Biểu mẫu thống kê danh sách việc thi hành án dân sự trọng điểm phức tạp, kéo dài.

Sáu là, theo dõi, đôn đốc và báo cáo kết quả thực hiện Kế hoạch:

– Hàng tháng báo cáo Lãnh đạo Tổng cục và định kỳ hàng quý báo cáo Lãnh đạo Bộ tiến độ rà soát, kiểm tra, chỉ đạo và kết quả giải quyết các vụ việc thi hành án dân sự trọng điểm;

– Thường xuyên theo dõi, đôn đốc và báo cáo kết quả thực hiện Kế hoạch giải quyết các việc thi hành án dân sự trọng điểm; kịp thời có biện pháp hoặc đề xuất có biện pháp xử lý đối với những trường hợp không thực hiện nghiêm túc Kế hoạch.

Xây dựng báo cáo theo yêu cầu đột xuất (nếu có) của Lãnh đạo Tổng cục, Lãnh đạo Bộ, Lãnh đạo Đảng và Nhà nước đối với vụ việc thuộc Danh sách việc thi hành án dân sự trọng điểm phức tạp, kéo dài.

Báo cáo tổng thể kết quả thực hiện Kế hoạch giải quyết và chỉ đạo giải quyết các việc thi hành án dân sự trọng điểm năm 2015.

[4]Trách nhiệm của các cơ quan Thi hành án dân sự địa phương:

Một là, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trực tiếp chỉ đạo các đơn vị chuyên môn thuộc Cục, các Chi cục Thi hành án dân sự rà soát, lập danh sách các việc thi hành án dân sự trọng điểm phức tạp, kéo dài.

Hai là, Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xây dựng Kế hoạch của đơn vị, phân công Lãnh đạo Cục, Lãnh đạocác Phòng chuyên môn thuộc CụcLãnh đạo Chi cục Thi hành án dân sự, Chấp hành viên chịu trách nhiệm đối với từng vụ việc cụ thể. Đối với những vụ việc đã có đủ điều kiện giải quyết thì phải xây dựng Kế hoạch chi tiết để chỉ đạo giải quyết dứt điểm trong năm 2015.

Ba là,Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phân công Lãnh đạo Cục, Lãnh đạocác Phòng chuyên môn thuộc CụcLãnh đạo Chi cục Thi hành án dân sự chịu trách nhiệm chủ động triển khai thực hiện Kế hoạch; kịp thời báo cáo Ban chỉ đạo Thi hành án dân sự cấp tỉnh hoặc cấp huyện xin ý kiến chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương; phối hợp với các cơ quan, Ban, Ngành tại địa phương tập trung giải quyết dứt điểm những vụ việc thuộc địa bàn; kịp thời báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ; định kỳ báo cáo kết quả về Tổng cục.

Bốn là, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trực tiếp chỉ đạo Lãnh đạo các Phòng chuyên môn thuộc Cục, Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự trực tiếp kiểm tra, chỉ đạo rà soát, giải quyết các vụ việc của đơn vị; chịu trách nhiệm đối với các vụ việc trọng điểm phức tạp, kéo dài còn tồn đọng tại địa phương.

Năm là, theo dõi, đôn đốc và báo cáo kết quả thực hiện Kế hoạch:

– Hàng tháng các Phòng chuyên môn thuộc Cục, Chi cục Thi hành án dân sự báo cáo Lãnh đạo Cục tiến độ rà soát, kiểm tra, chỉ đạo và kết quả giải quyết các vụ việc thi hành án dân sự trọng điểm phức tạp, kéo dài.

Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự, Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự thường xuyên theo dõi, đôn đốc và báo cáo tiến độ giải quyết các việc thi hành án dân sự trọng điểm phức tạp, kéo dài về Tổng cục Thi hành án dân sự; kịp thời có biện pháp hoặc đề xuất có biện pháp xử lý đối với những trường hợp không tổ chức thi hành án, để vụ việc tồn đọng kéo dài.

Xây dựng báo cáo theo yêu cầu đột xuất (nếu có) của Lãnh đạo Tổng cục, Lãnh đạo Đảng và Nhà nước đối với vụ việc thuộc Danh sách việc thi hành án dân sự trọng điểm phức tạp, kéo dài.

Báo cáo tổng thể kết quả thực hiện Kế hoạch giải quyết và chỉ đạo giải quyết các việc thi hành án dân sự trọng điểm năm 2015.

[5]Số vụ việc trọng điểm phức tạp, kéo dài thuộc trách nhiệm của các cơ quan thi hành án dân sự địa phương là 3.688 vụ việc tương ứng với số tiền còn phải thi hành án là 267.149.700.866.000đ, trong đó:

– Liên quan đến việc thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước (chính sách dân tộc, tôn giáo; xóa đói giảm nghèo; giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu…): 569 vụ việc;

– Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Lãnh đạo Bộ Tư pháp, Lãnh đạo địa phương quan tâm, chỉ đạo, yêu cầu phải tập trung giải quyết dứt điểm: 526 vụ việc;

– Có quan điểm khác nhau giữa các cơ quan có trách nhiệm ở Trung ương hoặc địa phương do quy định của pháp luật chưa cụ thể, rõ ràng hoặc quy định của pháp luật còn chồng chéo, cần sự thống nhất để có biện pháp giải quyết dứt điểm: 571 vụ việc;

– Chưa nhận được sự đồng tình của cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương, hoặc báo chí và các phương tiện truyền thông có uy tín đăng tải, phản ánh sự bức xúc trong dư luận xã hội về việc tổ chức thi hành án: 132 vụ việc;

– Có hoặc dự kiến sẽ có sự chống đối quyết liệt của đương sự, việc tổ chức thi hành án đã hoặc có khả năng gây ra những hậu quả nghiêm trọng (đương sự tự sát, quá khích, chống đối quyết liệt dẫn đến hậu quả làm chết, bị thương nhiều người hoặc gây tổn thất nghiêm trọng đến tài sản, người tham gia cưỡng chế…) làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị, kinh tế, trật tự an toàn xã hội tại địa phương: 936 vụ việc;

– Có giá trị tài sản phải thi hành lớn và có tầm quan trọng nhất định, phục vụ yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của trung ương hoặc địa phương: 331 vụ việc;

– Có vi phạm pháp luật về nghiệp vụ trong quá trình tổ chức thi hành án đã được cơ quan có thẩm quyền kết luận hoặc khởi tố hình sự đối với Thủ trưởng cơ quan thi hành án, Chấp hành viên, cán bộ thi hành án: 50 vụ việc;

– Cần giải quyết các quyền lợi của tập thể người lao động trong trường hợp cần tổ chức cưỡng chế đối với người phải thi hành án là các doanh nghiệp, có ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động: 13 vụ việc;

– Bản án, Quyết định của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh tuyên không rõ, khó thi hành: 241 vụ việc;

– Có khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài: 319 vụ việc.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử – Một số bất cập và hướng hoàn thiện

25/11/2015

1. Khái quát về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử

Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nói chung được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau, cụ thể, trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và các nghị định quy định chi tiết về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. Khi xem xét về thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính, có thể nhận thấy, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định tương đối đầy đủ, cụ thể về cơ quan, người có chức vụ, chức danh và những người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên, Luật Xử lý vi phạm hành chính không thể quy định chi tiết thẩm quyền xử lý vi phạm trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Chính vì vậy, nhằm giải quyết vấn đề này, các nghị định của Chính phủ được ban hành để quy định chi tiết một số quy định khung của Luật Xử lý vi phạm hành chính, trong đó có quy định khung về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực của các cơ quan hành chính, cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong các cơ quan hành chính…

Việc ban hành nghị định quy định những hành vi vi phạm hành chính nào là hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử, hình thức, mức độ xử phạt, thẩm quyền xử phạt trong lĩnh vực này, cũng nằm trong yêu cầu đó. Nhờ có quy định cụ thể, chi tiết về thẩm quyền và quy định hành vi nào là hành vi vi phạm trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử mà cơ quan, người có thẩm quyền có cơ sở pháp lý để xử lý kịp thời các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực này, đồng thời bảo đảm nguyên tắc “mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh…” (Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012).

Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 là căn cứ pháp lý quan trọng để Chính phủ quy định cụ thể về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử. Nghị định quy định về thẩm quyền xử phạt trong lĩnh vực này cùng với quy định trong luật đã tạo nên một hệ thống các quy định về thẩm quyền xử phạt đồng bộ, thống nhất làm cơ sở để các chủ thể tiến hành hoạt động xử phạt vi phạm đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử. Quy định về thẩm quyền xử phạt trong nghị định, bước đầu đã đảm bảo với việc giữ trật tự, kỷ cương trong lĩnh vực nghiên cứu, ứng dụng năng lượng nguyên tử ở nước ta hiện nay. Các nguyên tắc xác định thẩm quyền được quy định trong pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử còn giúp các chủ thể có thẩm quyền xử phạt phân định rạch ròi, xác định cụ thể vụ việc vi phạm hành chính có thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hay không. Việc ủy quyền chỉ được thực hiện khi chủ thể có thẩm quyền vắng mặt và chỉ được người có thẩm quyền xử phạt ủy quyền cho cấp phó trực tiếp của mình. Đồng thời, trên cơ sở pháp luật quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử, cơ quan cấp trên kiểm tra, giám sát, đánh giá hoạt động xử phạt vi phạm hành chính của cấp dưới đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm trong các hoạt động nghiên cứu, sử dụng năng lượng nguyên tử.

2. Một số bất cập về quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử

Bên cạnh những quy định chung về thẩm quyền xử phạt trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì những quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về năng lượng nguyên tử nói riêng hiện nay còn được quy định tập trung trong Nghị định số 107/2013/NĐ-CP ngày 20/9/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử. Theo quy định của Nghị định này, chủ thể có thẩm quyền xử phạt trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử là thanh tra chuyên ngành khoa học và công nghệ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, công an nhân dân, hải quan và thanh tra chuyên ngành khác. Ngoài các chủ thể trên, còn có các chức danh có thẩm quyền xử phạt như: Thanh tra viên chuyên ngành khoa học công nghệ, Chánh Thanh tra Sở Khoa học và Công nghệ, Chánh Thanh tra Cục An toàn bức xạ hạt nhân, trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành của Sở Khoa học và Công nghệ, trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành của Cục An toàn bức xạ hạt nhân, Chánh Thanh tra Bộ Khoa học Công nghệ, Cục trưởng Cục An toàn bức xạ hạt nhân (Điều 43, Điều 44, Điều 45 Nghị định số 107/2013/NĐ-CP). Việc quy định như Nghị định số 107/2013/NĐ-CP là theo phương pháp liệt kê, theo đó có rất nhiều chủ thể có thẩm quyền xử phạt. Mặc dù việc quy định chủ thể có thẩm quyền xử phạt, hình thức xử phạt, biện pháp hành chính được áp dụng đối với đối tượng vi phạm giúp cho các chủ thể có thẩm quyền xử phạt thực hiện thẩm quyền xử phạt đúng, chính xác, tránh được hiện tượng tùy tiện, tuy nhiên, quy định liệt kê lại cho thấy một số bất cập sau:

Thứ nhất, khinghiên cứu về thẩm quyền xử phạt, việc liệt kê thuần túy thẩm quyền mà không dựa trên nghiên cứu thấu đáo, sâu về kiến thức chuyên môn liên quan đến lĩnh vực xử phạt về năng lượng nguyên tử, dẫn đến quy định quá nhiều chủ thể có thẩm quyền xử phạt, nên không tránh khỏi chồng chéo về thẩm quyền, lúng túng, phức tạp về thủ tục trong xử lý vi phạm hành chính.

Thứ hai, khi một cơ quan thanh tra chuyên ngành, hoặc một cơ quan hành chính nào đó mới được thành lập (chính quyền đô thị, đặc khu hành chính) thì theo đó phải quy định bổ sung thêm cơ quan và chức danh có thẩm quyền xử phạt trong lĩnh vực này. Việc thành lập, sáp nhập, giải thể một cơ quan là do yêu cầu về quản lý, còn việc sửa đổi, bổ sung xây dựng luật, trong đó có quy định về thẩm quyền xử phạt không thể tiến hành thường xuyên, linh hoạt được như hoạt động quản lý về tổ chức bộ máy, do vậy không thể quy định kịp thời thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cho các cơ quan mới được thành lập và các chức vụ, chức danh có thẩm quyền xử phạt của chính cơ quan đó, dẫn đến không có cơ sở pháp lý để xử phạt.

Thứ ba, theo Điều 4 Luật Thanh tra năm 2010, trong hệ thống cơ quan thanh tra nhà nước có các cơ quan thanh tra chuyên ngành: Cơ quan thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ, thanh tra sở, ngoài ra, việc thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành được giao cho một số cơ quan khác. Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành không thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành độc lập; hoạt động thanh tra chuyên ngành do người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành thực hiện (Điều 30 Luật Thanh tra năm 2010). Như vậy, cục thuộc bộ không thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành. Trường hợp, nếu có giao chức năng thanh tra chuyên ngành cho cục thì cục cũng chỉ được thực hiện thanh tra thông qua một người trong cục được trao quyền (Điều 29, Điều 30 Luật Thanh tra năm 2010). Tuy nhiên, khoản 2 Điều 43 Nghị định số 107/2013/NĐ-CP quy định, Chánh Thanh tra Cục An toàn bức xạ hạt nhân, trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành của Cục An toàn bức xạ hạt nhân có quyền xử phạt trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử. Quy định như vậy, mặc nhiên được hiểu về cơ cấu tổ chức, Chánh Thanh tra chuyên ngành của Cục An toàn bức xạ hạt nhân là một chức vụ, chức danh quản lý, lãnh đạo cơ quan thanh tra của Cục, vì vậy trái với Luật Thanh tra về tổ chức cơ quan thanh tra và về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Quy định chủ thể có thẩm quyền xử phạt trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử theo phương pháp liệt kê mà không nghiên cứu, xem xét các văn bản pháp luật có liên quan dẫn đến văn bản dưới luật trái với luật.

Ngoài ra, thực tế cho thấy, các văn bản pháp luật như Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Luật Thanh tra năm 2010, Nghị định số 107/2013/NĐ-CP quy định về chủ thể có thẩm quyền xử phạt về năng lượng nguyên tử có một số điểm không thống nhất. Cụ thể:

– Chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử được quy định tại Nghị định số 107/2013/NĐ-CP rộng hơn so với quy định của Luật Thanh tra về cơ quan thanh tra có thẩm quyền xử phạt. Khoản 1, khoản 2 Điều 45 Nghị định số 107/2013/NĐ-CP quy định, công an, hải quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực ngành mình quản lý.

– Theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, thì công an có thẩm quyền xử phạt, khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm thuộc lĩnh vực ngành mình quản lý được quy định tại Điều 39 và Điều 52; hải quan có thẩm quyền xử phạt, áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả thuộc lĩnh vực ngành mình quản lý theo quy định tại Điều 42 và Điều 52; thanh tra chuyên ngành khác có thẩm quyền xử phạt trong lĩnh vực ngành mình quản lý theo quy định tại Điều 46 và Điều 52. Khi xem xét đến Điều 39, Điều 42, Điều 46 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 cho thấy, các điều này chỉ quy định mức tiền phạt mà các chức danh này có thẩm quyền xử phạt. Điều 52 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 cũng chỉ quy định nguyên tắc xác định và phân định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả. Như vậy, nếu xác định thẩm quyền xử phạt của công an, hải quan chỉ căn cứ theo các quy định trên là không đủ cơ sở. Muốn quy định thẩm quyền xử phạt còn phải căn cứ vào lĩnh vực ngành mình quản lý. Thế nào là lĩnh vực ngành mình quản lý, Luật Xử lý vi phạm hành chính chỉ mới nêu ra, còn Nghị định số 107/2013/NĐ-CP cũng không hề đề cập. Việc quy định người có thẩm quyền của các cơ quan thanh tra chuyên ngành khác cũng ở trong tình trạng tương tự.

– Để xử phạt được hành vi vi phạm trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử phải có nghiệp vụ chuyên sâu, tính nghề nghiệp cao trong lĩnh vực này để phát hiện, xử lý kịp thời, không bỏ lọt hành vi vi phạm. Công an, hải quan là những cơ quan với tổ chức đặc thù của lực lượng có chức năng, nhiệm vụ bảo vệ trật tự an ninh xã hội và trật tự trong lĩnh vực kiểm tra, giám sát trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hóa, vật tư, trang thiết bị… nên quy định hai cơ quan này có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính đối với một số hành vi vi phạm hành chính liên quan đến lĩnh vực năng lượng nguyên tử là hợp lý. Nhưng nếu quan niệm công an, hải quan xử lý vi phạm hành chính ở góc độ xử lý vi phạm theo phạm vi quản lý ngành, lĩnh vực là không phù hợp. Chính vì vậy, khi quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của công an, hải quan trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử chỉ nên quy định xử lý vi phạm đối với một số hành vi vi phạm trong lĩnh vực này như chiếm đoạt, phát hiện việc vận chuyển, mua bán, nhập thiết bị hạt nhân, chất thải phóng xạ, kiểm soát và xử lý người vi phạm khu vực kiểm soát an ninh…Còn quản lý trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử là Chính phủ, Bộ Khoa học và Công nghệ và các bộ, cơ quan ngang bộ khác, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố thuộc trung ương thực hiện quản lý năng lượng nguyên tử theo sự phân công của Chính phủ (Điều 7 Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008). Việc quy định mang tính chất liệt kê nhiều chủ thể có thẩm quyền xử phạt dẫn đến chồng chéo về thẩm quyền, không phải chủ thể nào cũng có chuyên môn sâu về thẩm quyền xử phạt trong lĩnh vực này dẫn đến xử lý kém hiệu quả, bỏ lọt hành vi vi phạm. Khi nghiên cứu về các hành vi vi phạm, biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử được quy định tại Nghị định số 107/2013/NĐ-CP cho thấy, hành vi vi phạm được quy định đều mang tính đặc thù cao. Để phát hiện kịp thời, áp dụng hình thức xử phạt phù hợp với từng hành vi vi phạm và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả đúng với từng trường hợp, đòi hỏi chủ thể có thẩm quyền xử phạt phải có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực năng lượng nguyên tử thì mới có thể xử phạt được, còn nếu chỉ thuần túy liệt kê chủ thể có thẩm quyền xử phạt không thôi thì sẽ rất khó tiến hành xử phạt nhằm ngăn chặn các hành vi vi phạm và chồng lấn về thẩm quyền, hoạt động xử phạt là điều không thể tránh khỏi.

3. Hướng hoàn thiện khi xây dựng các quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử

Một là, quy định về các chức danh có thẩm quyền xử phạt, hình thức, mức phạt hành vi vi phạm hành chính phải được quy định chủ yếu trong Luật Xử lý vi phạm hành chính. Trường hợp một số lĩnh vực đặc thù như năng lượng nguyên tử thì Luật Xử lý vi phạm hành chính phải quy định rõ, Chính phủ ban hành nghị định quy định các chức danh có thẩm quyền xử phạt trong lĩnh vực này và việc quy định chức vụ, chức danh có thẩm quyền xử phạt không chỉ thống nhất với Luật Xử lý vi phạm hành chính, mà còn phù hợp với các Luật Thanh tra, Luật Năng lượng nguyên tử.

Hai là, về thẩm quyền xử phạtđối với lĩnh vực đặc thù là lĩnh vực năng lượng nguyên tử, quy định các chức danh có thẩm quyền xử phạt phải cụ thể và phải dựa trên cơ sởnghiên cứu sâu, khoa học về lĩnh vực này.

Ba là, nên quy định cụ thể trong luật, nghị định về xử phạt vi phạm trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử, cơ quan thanh tra chuyên ngành, chánh thanh tra, thanh tra viên thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về năng lượng nguyên tử là chủ thể chủ yếu tiến hành thanh tra (đột xuất, thường xuyên, định kỳ) phát hiện, xử lý các trường hợp vi phạm hành chính trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.

Bốn là, cơ quan công an, hải quan được xử phạt và áp dụng những biện pháp xử lý hành chính chỉ đối với những hành vi vi phạm trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử liên quan đến chức năng đặc thù của hai cơ quan này, chứ không phải dựa trên lĩnh vực quản lý ngành, lĩnh vực của chúng. Hành vi vi phạm hành chính nào thuộc thẩm quyền xử phạt của công an, hải quan phải quy định cụ thể, tránh chồng chéo như hiện nay.

Năm là, khi quy định về tổ chức bộ máy thanh tra và chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra, trong đó có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, phải phù hợp với Luật Thanh tra. Trường hợp một số cơ quan quản lý theo ngành, lĩnh vực có thẩm quyền thực hiện hoạt động thanh tra, nhưng vì những cơ quan này không có cơ quan thanh tra chuyên biệt, nên luật phải quy định cụ thể người thực hiện hoạt động thanh tra phải là người được đào tạo nghiệp vụ, phải có văn bằng thanh tra và có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cụ thể không thể chung chung như hiện nay.

TS. Hoàng Quốc Hồng

Đại học Luật Hà Nội

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thực trạng bán hàng đa cấp ở TP. Hồ Chí Minh

21/01/2016

1. Thực trạng bán hàng đa cấp ở thành phố Hồ Chí Minh

Hiện nay, trên địa bàn thành phố có 18 doanh nghiệp hoạt động bán hàng đa cấp (trong đó có 4 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Theo báo cáo của 23/62 doanh nghiệp (31/12/2014), tổng số người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp của các doanh nghiệp này là hơn 600.000 người. Nhìn chung, hoạt động bán hàng đa cấp trên địa bàn thành phố đã dần đi vào ổn định, các doanh nghiệp đa phần đều chấp hành tốt các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại và vướng mắc (theo báo cáo năm 2014 của Sở Công thương thành phố Hồ Chí Minh đã báo cáo với Cục Quản lý cạnh tranh).

1.1. Có sự biến tướng trong phương thức kinh doanh đa cấp sang mô hình kinh doanh đa cấp bất chính (mô hình kim tự tháp)

Pháp luật quy định cấm các doanh nghiệp kinh doanh theo phương thức đa cấp buộc người tham gia mua một lượng hàng hóa hoặc đóng một khoản tiền nhất định để được tham gia mạng lưới. Trên thực tế, các doanh nghiệp không trực tiếp vi phạm quy định này nhưng thường yêu cầu người tham gia mua bộ tài liệu khởi đầu với giá bán rất cao hoặc quy định trong chương trình trả thưởng, người tham gia được hoa hồng, lợi ích kinh tế khác (từ mạng lưới cấp dưới) thì trong một khoảng thời gian ngắn phải tiêu thụ một lượng hàng hóa nhất định. Tuy nhiên, giá bán sản phẩm thường cao hơn nhiều so với giá thực tế nên người tham gia khó có thể bán hàng ra ngoài mạng lưới. Các quy định này theo hướng “lách luật”, thực chất vẫn buộc người tham gia đóng tiền mua hàng để được tham gia mạng lưới.

1.2. Có sự biến tướng trong loại hình doanh nghiệp kinh doanh theo phương thức đa cấp

Một số doanh nghiệp bán hàng đa cấp trên địa bàn thuộc loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước. Tuy nhiên, trên thực tế, có nhiều doanh nghiệp là một nhánh của doanh nghiệp bán hàng đa cấp nước ngoài, người đứng đầu doanh nghiệp thường là một nhà phân phối của doanh nghiệp nước ngoài, cá biệt có trường hợp người đứng đầu doanh nghiệp chỉ đứng tên hộ trên giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp nước ngoài. Các doanh nghiệp nước ngoài này thường mở văn phòng đại diện ở Việt Nam để trực tiếp chỉ đạo, điều hành hoạt động kinh doanh. Theo chương trình trả thưởng, nội quy hoạt động của các doanh nghiệp này chủ yếu được dịch ra từ các văn bản nước ngoài, có trường hợp, việc tính hoa hồng, trả thưởng cũng chuyển giao cho doanh nghiệp nước ngoài thực hiện qua phần mềm máy tính trên mạng lưới toàn cầu. Bên cạnh đó, có hiện tượng chuyển giao mạng lưới bán hàng của các doanh nghiệp với nhau theo yêu cầu của công ty thực sự ở nước ngoài hay chuyển giao mạng lưới giữa các nhánh khác nhau trong cùng một công ty. Các hành vi này chưa được pháp luật quy định cụ thể, gây khó khăn trong công tác quản lý và không đảm bảo quyền lợi cho người tham gia.

Trên địa bàn thành phố đang có 2.421 văn phòng đại diện hoạt động1. Theo cam kết gia nhập WTO, các văn phòng này không được tham gia vào những hoạt động sinh lợi trực tiếp. Tuy nhiên, các văn phòng đại diện đã cố tình liên kết trung gian với một công ty của Việt Nam trên danh nghĩa đại lý, đối tác để thực hiện những hoạt động kinh doanh có thu. Thực tế, trưởng văn phòng đại diện nước ngoài thường điều hành mọi hoạt động của công ty ở Việt Nam, thành lập đội ngũ nhân viên để tiếp thị bán hàng và nhận thu nhập dưới hình thức hoa hồng doanh số.

1.3. Về hàng hoá và phương thức kinh doanh

Các doanh nghiệp bán hàng đa cấp trên địa bàn thường kinh doanh các mặt hàng như thực phẩm chức năng, thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng, thực phẩm bổ sung, mỹ phẩm, hàng điện tử, thiết bị trị liệu, thiết bị tập luyện… chủ yếu có nguồn gốc, xuất xứ từ nước ngoài. Trong đó, các sản phẩm thực phẩm chức năng, thiết bị trị liệu, thiết bị tập luyện… thường khó phân biệt với thuốc trị bệnh, thiết bị y tế là các mặt hàng cấm kinh doanh theo phương thức đa cấp, gây khó khăn trong công tác cấp phép của cơ quan quản lý. Bên cạnh đó, do tính năng, công dụng, hiệu quả sử dụng của các sản phẩm này chưa rõ ràng nên doanh nghiệp, nhà phân phối đã lợi dụng “thổi phồng” gây nhầm lẫn để dụ dỗ người tiêu dùng.

Nguồn gốc và chủng loại sản phẩm của các công ty bán hàng đa cấp thường làm cho người tiêu dùng rất khó đánh giá chính xác về chất lượng, giá trị sản phẩm và giá cả sản phẩm. Các sản phẩm này không được quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài… mà được quảng cáo đến người tiêu dùng qua các hội nghị về giới thiệu sản phẩm với quy mô vài trăm người, có khi lên đến hàng nghìn khách. Trong các buổi hội nghị như vậy, để tăng sức thuyết phục, các doanh nghiệp thường mời các thuyết trình viên tự xưng là bác sỹ, dược sỹ hay chuyên gia trong một lĩnh vực nào đó đã có nhiều năm kinh nghiệm trong ngành… để giới thiệu về sản phẩm. Cách làm này đã tỏ ra khá hiệu quả đối với người tiêu dùng Việt Nam. Tuy nhiên, các doanh nghiệp hoặc phân phối viên lại cung cấp thông tin không đầy đủ, không trung thực về tính năng và chất lượng sản phẩm cho người tiêu dùng.

1.4. Về mô hình trả thưởng

Nhiều doanh nghiệp tổ chức bán hàng đa cấp trên địa bàn sử dụng mô hình trả thưởng “Nhị phân” hoặc “Nhị phân biến tướng” để trả thưởng cho nhà phân phối. Đây là mô hình mà theo các nhà khoa học và các chuyên gia nghiên cứu đánh giá tiềm ẩn nhiều yếu tố lừa dối, gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Cụ thể, để trả tiền thưởng theo mô hình này, doanh nghiệp phải nâng giá bán lên gấp nhiều lần so với giá trị thực tế và cũng theo đó, doanh nghiệp đã chiếm đoạt của nhà phân phối một khoản tiền thưởng (do mô hình này bắt buộc nhà phân phối phải “cân chân” nhưng trên thực tế khó xảy ra trường hợp “cân chân”), tức là tổng số tiền bán trong kỳ trả thưởng giữa 2 nhánh phải bằng nhau, trường hợp không bằng nhau thì trả tiền thưởng ở nhánh có doanh thu nhỏ, theo đó, số tiền thưởng (hoa hồng) còn lại của nhánh lớn “chạy” về công ty.

Cách thức trả thưởng của các công ty bán hàng đa cấp tại TP. Hồ Chí Minh khá phong phú và đa dạng. Mỗi công ty có một công thức hình thành chính sách trả thưởng khác nhau. Song, về cơ bản, các lợi ích kinh tế mà phân phối viên có thể được hưởng gồm: Lợi nhuận bán lẻ (0% – 30% giá bán lẻ), thù lao tổ chức mạng lưới hay “cư dân” mạng đa cấp thường gọi là hoa hồng doanh số nhóm (3% – 21% giá trị sản phẩm). Tùy theo mô hình của từng công ty mà có hình thức trả thưởng cho loại hoa hồng này khác nhau. Như vậy, tổng mức hoa hồng, tiền thưởng và các lợi ích kinh tế khác mà doanh nghiệp đa cấp phải trả bình quân trên một đơn vị sản phẩm khoảng 20% – 40% giá bán lẻ sản phẩm.

1.5. Về mạng lưới nhà phân phối

Hiện tại, mặc dù pháp luật đã quy định về biện pháp, mức xử phạt về hành vi vi phạm hành chính đối với nhà phân phối (người tham gia) vi phạm về hoạt động bán hàng đa cấp (Nghị định số 71/2014/NĐ-CP ngày 21/07/2014 của Chính phủ quy định xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh), tuy nhiên, trên thực tế hầu như chưa xử phạt được các đối tượng này do các đối tượng này là cá nhân, hoạt động tự do, cơ quan quản lý nhà nước hầu như không thu thập được chứng cứ vi phạm của họ. Trong khi đó, do chạy theo lợi nhuận, các nhà phân phối (thường là những nhà phân phối ở tuyến trên) đã tổ chức, hướng dẫn các nhà phân phối ở tuyến dưới của mình (qua kiểm tra thực tế nhiều doanh nghiệp thường ủy quyền/giao việc đào tạo pháp luật, chương trình trả thưởng cho các nhà phân phối ở tuyến trên thực hiện) quảng cáo sai sự thật về tính năng, công dụng của hàng hóa nhằm dụ dỗ, lừa gạt người tiêu dùng mua hàng. Ngoài ra, còn có hiện tượng nhà phân phối ở tuyến trên thường đưa ra yêu sách đối với doanh nghiệp nếu không đáp ứng thì sẽ dẫn mạng lưới của mình sang doanh nghiệp khác và doanh nghiệp vì chạy theo lợi nhuận nên thường làm ngơ để các nhà phân phối tự ý quảng cáo sản phẩm không đúng sự thật.

1.6. Một số doanh nghiệp không tuân thủ quy định pháp luật

Một số doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh chưa tuân thủ các quy định của pháp luật mà biểu hiện cụ thể là kinh doanh đa cấp bất chính tạo nên những hình ảnh xấu cho mô hình kinh doanh này, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng, gây bức xúc trong xã hội như: Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia bán hàng đa cấp; cung cấp thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa; cung cấp thông tin sai lệch về hoạt động của doanh nghiệp bán hàng đa cấp để dụ dỗ người khác tham gia bán hàng đa cấp.

2. Những tác động tích cực của Nghị định số 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp

2.1. Đối với mô hình bất chính

Ở Việt Nam hay trong bất kể thị trường nào trên thế giới cũng đều dễ nhận thấy mô hình kinh doanh bất chính trong lĩnh vực bán hàng đa cấp. Nghị định số 42/2014/NĐ-CP ngoài việc cấm kinh doanh đa cấp trong lĩnh vực dịch vụ còn cấm kinh doanh theo mô hình kim tự tháp. Quy định này đã thể hiện rõ mô hình nào được phép kinh doanh.

Theo Nghị định số 42/2014/NĐ-CP, kinh doanh theo mô hình kim tự tháp là việc tiến hành hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp, trong đó thu nhập của người tham gia xuất phát chủ yếu từ việc tuyển dụng người tham gia mới, việc gia hạn hợp đồng của người đã tham gia, phí, tiền đặt cọc hoặc khoản đầu tư của người tham gia trong mạng lưới. Như vậy, mô hình kim tự tháp hay còn gọi là mô hình kinh doanh đa cấp bất chính là mô hình mà thu nhập của người tham gia bán hàng đa cấp không xuất phát từ quan hệ mua bán hàng hóa và/hoặc không liên quan gì đến hàng hóa.

Từ những căn cứ này, cơ quan quản lý cũng như người tham gia bán hàng đa cấp có thể dễ dàng nhận ra đâu là mô hình kinh doanh tuân thủ pháp luật và đâu là loại hình bất chính để chọn lựa, phân loại khi quyết định tham gia hoặc xét duyệt hồ sơ đăng ký, thanh tra, kiểm tra xử phạt. Quy định rõ ràng, cụ thể về mô hình kinh doanh tạo ra sự thông thoáng, tiến bộ trong cách nhìn nhận, đánh giá và phân loại quản lý các doanh nghiệp bán hàng đa cấp, từ đó hoàn thiện và nâng cao vai trò của các doanh nghiệp.

2.2. Đối với loại hình doanh nghiệp

Bằng việc đưa bán hàng đa cấp vào ngành kinh doanh có điều kiện là kinh doanh bán lẻ theo phương thức đa cấp để yêu cầu vốn pháp định 10 tỷ và nâng số tiền ký quỹ lên tối thiểu là 5 tỷ đã loại bỏ hầu hết sự trá hình trong việc mở công ty địa phương thuê người đứng tên hộ hoặc bản thân một nhánh người tham gia ở một quốc gia khác vào Việt Nam mở công ty địa phương để kinh doanh ngắn hạn, thu lợi cá nhân mà không quan tâm đến nghề nghiệp và lợi ích lâu dài của người tham gia. Vì số tiền quá cao và quy định khắt khe đã dẫn đến rủi ro cho phía đầu tư “núp bóng” là rất lớn và khó thực hiện.

Điều 5 Nghị định số 42/2014/NĐ-CP cũng cấm mua bán hoặc chuyển giao mạng lưới người tham gia bán hàng đa cấp cho doanh nghiệp khác (trừ trường hợp mua lại, hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp), do vậy mục đích thành lập doanh nghiệp địa phương dưới sự điều khiển của nhà đầu tư nước ngoài nhằm tham khảo thị trường, sau đó chuyển giao mạng lưới là điều không thể do bị pháp luật xử phạt, đây cũng là một điểm mới, khá rõ ràng, minh bạch trong nội dung Nghị định này.

Bên cạnh đó, chủ thể đăng ký thành lập doanh nghiệp bán hàng đa cấp nếu cung cấp hồ sơ gian dối như là lập ký quỹ, vốn pháp định giả hoặc bị rút giấy phép vì vi phạm từ hai điều cấm quy định tại Điều 5 của Nghị định số 42/2014/NĐ-CP thì sẽ không bao giờ được đứng đại diện pháp luật trong doanh nghiệp bán hàng đa cấp, vì vậy, những người trước đây được thuê mướn cũng có tâm lý e sợ và từ bỏ hoặc rất thận trọng trong việc tổ chức hoạt động bán hàng đa cấp một cách rõ ràng.

Với quy định khắt khe về vốn, về chủ thể đăng ký thành lập, về mô hình, về những điều cấm và chế tài xử lý rút giấy phép khiến cho các doanh nghiệp trước đây với tâm lý hoạt động “cầm hơi”, ngắn hạn thì nay phải từ bỏ vì không đáp ứng nổi. Do vậy, với 102 doanh nghiệp từ khi mới du nhập vào Việt Nam, đến nay chỉ còn có 45 doanh nghiệp được cấp phép hoạt động theo quy định pháp luật về bán hàng đa cấp hiện hành.

2.3. Đối với hàng hóa và phương thức kinh doanh

Khi nộp hồ sơ đăng ký giấy chứng nhận tổ chức bán hàng đa cấp, doanh nghiệp phải có danh sách các mặt hàng với thông tin một cách đầy đủ về nguồn gốc, xuất xứ, công dụng, tài liệu pháp lý chứng minh công dụng, giá cả, điểm tích lũy hoa hồng. Danh mục thông tin hàng hóa này được cơ quan cấp phép đóng dấu lưu trữ trên cổng thông tin điện tử và công khai về 63 tỉnh, thành, địa phương, do vậy, việc quản lý hết sức dễ dàng đối với những đối tượng cố tình tuyên truyền sai sự thật, “thổi phồng” công dụng, xuất xứ nhằm lừa dối người tiêu dùng hoặc tuyển dụng mạng lưới người tham gia.

Điểm mới trong Nghị định số 42/2014/NĐ-CP về hàng hóa là quy định rõ tất cả các mặt hàng đều có thể đổi, trả trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận hàng. Tránh tình trạng doanh nghiệp từ chối mua lại hàng với những mặt hàng bán theo mùa, hàng khuyến mại gây khó cho người tiêu dùng hoặc người tham gia khi họ không phân phối được và có nhu cầu đổi trả hàng. Những mặt hàng nào không được đổi trả thì doanh nghiệp phải đăng ký ngay từ đầu với cơ quan cấp phép và phải nêu rõ lý do chính đáng của việc không thể đổi trả thì mới được chấp nhận, tuy nhiên trên thực tế, chưa có doanh nghiệp nào đăng ký điều kiện này cho tới nay.

2.4. Đối với mô hình trả thưởng

Điều 27 Nghị định số 42/2014/NĐ-CP quy định rõ tổng giá trị hoa hồng, tiền thưởng và các lợi ích kinh tế khác trả cho người tham gia bán hàng đa cấp trong một năm quy đổi thành tiền không được vượt quá 40% doanh thu bán hàng đa cấp trong năm đó của doanh nghiệp bán hàng đa cấp.

Với quy định cụ thể và rõ ràng về mức hoa hồng đã tạo ra môi trường cạnh tranh công bằng, lành mạnh giữa các doanh nghiệp đa cấp. Mức 40% cũng được xem là hợp lý vì doanh nghiệp không thể trả quá 50% tức là hòa vốn hoặc thua lỗ nếu vượt quá 50%. Sở dĩ có sự hạn chế về mức phần trăm chi trả như trên là để tránh việc doanh nghiệp cung cấp không trung thực về lợi ích khi gia nhập mạng lưới, về thu nhập tiềm năng.

2.5. Đối với mạng lưới nhà phân phối

Với quy định tổ chức hội thảo, hội nghị phải được chấp thuận bằng văn bản của cơ quan quản lý địa phương đã phần nào hạn chế sự tự phát trong việc tiếp thị, tuyển dụng và bán hàng sai sự thật của người tham gia bán hàng đa cấp.

Nghị định số 42/2014/NĐ-CP cũng quy định rõ, chỉ có những người được cấp thẻ thành viên mạng lưới bán hàng đa cấp mới được tiếp thị bán sản phẩm và nhận hoa hồng. Muốn được cấp thẻ thành viên, người tham gia phải ký hợp đồng và tham gia lớp đào tạo cơ bản bắt buộc. Quy định đào tạo bắt buộc đã phần nào phát huy hiệu quả, hạn chế tình trạng tự phát, thiếu kiến thức, thiếu trình độ khi tiếp thị bán hàng của người tham gia tạo nên định kiến xấu trong xã hội khi nói về đa cấp, giúp doanh nghiệp cũng như cơ quan quản lý có thể dễ dàng nắm được thông tin của người tham gia bán hàng đa cấp để kịp thời chấn chỉnh, khai trừ nếu họ vi phạm các quy định cấm thực hiện làm thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc những người tham gia khác.

2.6. Đối với doanh nghiệp không tuân thủ quy định pháp luật

Theo Nghị định số 42/2014/NĐ-CP và Nghị định số 71/2014/NĐ-CP ngày 21/07/2014 của Chính phủ quy định xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh thì hành vi và mức xử phạt cao hơn nhiều là một trong những điểm khiến doanh nghiệp phải hết sức thận trọng trong việc tuân thủ quy định pháp luật khi tổ chức bán hàng mà không dám chấp nhận mạo hiểm để chịu xử phạt như trước.

Ngoài ra, Nghị định số 42/2014/NĐ-CP quy định, chỉ cần vi phạm từ 2 hành vi được quy định tại Điều 5 là có thể bị thu hồi giấy phép bán hàng đa cấp. Vì vậy, khi đầu tư vào doanh nghiệp với số vốn pháp định, ký quỹ, xây dựng bộ máy, hệ thống tiếp thị bán hàng với giá trị lớn, không doanh nghiệp nào lại bất chấp hoặc mạo hiểm vi phạm pháp luật để bị tước giấy phép, vì vậy hoạt động của các doanh nghiệp có chiều sâu, có tính toán, chỉnh chu và nề nếp, chặt chẽ hơn nhiều.

Nghị định số 42/2014/NĐ-CP cũng ràng buộc trách nhiệm giám sát người tham gia bán hàng đa cấp của tổ chức bán hàng đa cấp để chuẩn hóa phần nào hoạt động của người tham gia thuộc doanh nghiệp mình. Điều 22 Nghị định số 42/2014/NĐ-CP quy định doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm đối với hoạt động bán hàng đa cấp của người tham gia bán hàng đa cấp khi hoạt động bán hàng được người tham gia thực hiện tại trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện hoặc địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp bất kể doanh nghiệp có hoặc không có liên quan. Do vậy, doanh nghiệp phải rất quan tâm đến sự tuân thủ quy định pháp luật mà không thả nổi, tiếp tay, xúi giục người tham gia vi phạm để cùng hưởng lợi.

So với trước đây, việc cấp phép và quản lý dựa trên tỉnh, thành nơi doanh nghiệp đặt trụ sở đã không phát huy hiệu quả khi doanh nghiệp thông báo hoạt động trên địa bàn của tỉnh, thành phố khác với tâm lý sở nào cấp thì sở đó quản lý, địa phương không có số liệu, không có liên quan. Hơn nữa, trong phạm vi 1 địa phương, nếu số lượng doanh nghiệp nhiều và nhân sự quản lý chuyên trách mỏng sẽ làm cho khâu thanh tra, kiểm tra, hậu kiểm không đảm bảo chặt chẽ, thường xuyên khiến cho các doanh nghiệp gia tăng các hoạt động vi phạm. Nghị định số 42/2014/NĐ-CP giao thẩm quyền cấp phép ở cơ quan cấp bộ đã khắc phục được điểm hạn chế trong công tác quản lý doanh nghiệp, thống nhất lại thành 1 cơ quan cao nhất để các địa phương đều ngang nhau về vai trò, tạo ra sự đồng thuận. Hơn nữa, việc thanh tra, kiểm tra, giám sát, trao đổi thông tin được triển khai đồng bộ từ cơ quan cấp bộ đến cơ quan quản lý địa phương dẫn đến khâu hậu kiểm đạt kết quả cao, kịp thời chấn chỉnh các hành vi vi phạm của doanh nghiệp và người tham gia trên phạm vi toàn quốc.

3. Kiến nghị

Từ thực trạng bán hàng đa cấp như hiện nay, tác giả kiến nghị cơ quan quản lý sớm có những biện pháp khắc phục, điều chỉnh theo hướng như sau:

Thứ nhất, soạn thảo và ban hành cơ chế kiểm tra, giám sát định kỳ và thông tin rộng rãi về doanh nghiệp, hành vi vi phạm cũng như mức xử phạt tương ứng; quy định doanh nghiệp định kỳ 6 tháng, 1 năm báo cáo cho Bộ Công thương, Sở Công thương về số liệu kinh doanh; cơ quan quản lý cũng phải có chế độ kiểm tra, thanh tra đầy đủ và đều đặn không bỏ sót, không nương nhẹ bất kì doanh nghiệp nào và phải có biện pháp xử lý mạnh, tránh “giơ cao đánh khẽ”, bao che.

Thứ hai, tăng cường và quy định thêm chế tài và biện pháp xử lý người tham gia vi phạm các điều cấm. Cơ chế quản lý và giám sát hoạt động đào tạo cơ bản của doanh nghiệp cần chuẩn hóa ngay từ đầu, tránh tình trạng doanh nghiệp thực hiện công tác đào tạo đối phó hoặc không tổ chức đào tạo mà cấp chứng chỉ đào tạo cơ bản cho người tham gia.

Thứ ba, cần chứng minh sự liên hệ giữa doanh nghiệp kinh doanh, bán hàng đa cấp và nhà sản xuất sản phẩm thì mới được đăng ký mặt hàng kinh doanh đa cấp; phải có thư ủy quyền cộng với cam kết về trách nhiệm, chất lượng hàng hóa, kênh phân phối chính thống, phạm vi địa lý và dòng sản phẩm để xác định sự đầu tư lâu dài của doanh nghiệp khi được cấp phép bán hàng đa cấp, vì mấu chốt của doanh nghiệp bán hàng đa cấp cũng như sự quan tâm của người tiêu dùng, người tham gia và tất cả giá trị kinh tế đều xuất phát từ hàng hóa của doanh nghiệp.

Thứ tư, tăng cường các hoạt động thi đua, quan hệ quốc tế và vị thế của các tổ chức xã hội nghề nghiệp nhằm đảm bảo vai trò giúp sức, giám sát các chuẩn mực đạo đức kinh doanh của người tham gia và doanh nghiệp có liên quan tạo nên một cộng đồng lành mạnh, có sức thuyết phục trong nền kinh tế – xã hội.

ThS. Lê Bí Bo

Tài liệu tham khảo:

1. Sở Công thương TP. Hồ Chí Minh (2014), Báo cáo tổng kết tình hình hoạt động bán hàng đa cấp, tr.3.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia.

3. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2013), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

4. Luật Cạnh tranh năm 2004.

5. Luật Doanh nghiệp năm 2014.

6. Luật Xử phạt vi phạm hành chính năm 2013.

7. Nghị định số 110/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.

8. Nghị định số 42/2014/NĐ-CP ngày 01/7/2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.

9. Nghị định số 71/2014/NĐ-CP ngày 21/07/2014 của Chính phủ quy định xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.

10. Thông tư số 19/2005/TT-BTM ngày 08/11/2005 của Bộ Thương mại hướng dẫn một số nội dung quy định tại Nghị định số 110/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.

11. Thông tư số 24/2014/TT-BTC ngày 30/7/2014 của Bộ Tài chính quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.

12. Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.11.

13. Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật thuế Việt Nam, Nxb. Tư pháp.

14. Cục Quản lý cạnh tranh (2005), Hỏi đáp về bán hàng đa cấp theo Luật Cạnh tranh Canada, Nxb. Thế giới, Hà Nội.

15. Cục quản lý cạnh tranh, Bộ Công thương (2014), Báo cáo tổng kết ngành bán hàng đa cấp năm 2014.

16. http://www.dsa.org/aboutselling/faqs/#direct_marketing.

17. http://www.govtrack.us/congress/billtext.xpd?bill=h108-1220.htm.

18. http://www.mlmlaw.com/library/guides/doortodoor.htm.

19. http://www.mlmlaw.com/library/guides/primer.htm.

20. http://app.mti.gov.sg/default.asp?id=567.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Luật Lý lịch tư pháp – Một số bất cập khi áp dụng trong thực tế

26/11/2015

Luật Lý lịch tư pháp được Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 17/6/2009 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2010. Luật Lý lịch tư pháp là đạo luật quan trọng, liên quan trực tiếp đến quyền của công dân và hoạt động của các cơ quan tư pháp, đặc biệt Luật đã xác lập những nguyên tắc, nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp, tạo cơ sở pháp lý có hiệu lực cao để xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước và nhu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp ngày càng tăng của công dân, bảo đảm phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp, xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại và hội nhập quốc tế.

Phiếu lý lịch tư pháp là phiếu do cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp cấp có giá trị chứng minh cá nhân có hay không có án tích, bị cấm hay không bị cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản. Ngày nay, phiếu lý lịch tư pháp có ý nghĩa quan trọng trong đời sống dân sự của công dân, cũng như trong quản lý nhân sự và hỗ trợ hoạt động tố tụng hình sự.

Sau hơn 5 năm triển khai và thi hành Luật Lý lịch tư pháp, việc cấp phiếu lý lịch tư pháp nhìn chung đã đi vào nền nếp và đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai và thi hành Luật Lý lịch tư pháp đã phát sinh một số khó khăn và hạn chế, khó thực hiện theo đúng luật định. Để hiểu rõ hơn về những hạn chế, khó khăn trong việc cấp phiếu lý lịch tư pháp theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp năm 2009, kính mời độc giả đón đọc bài viết “Luật Lý lịch tư pháp một số bất cập khi áp dụng trong thực tế”của tác giả Ngân Vũ đăng trên Số định kỳ 64 trang tháng 11/2015 của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.

Chu Yến

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Lạng Sơn với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

21/01/2016

1. Tình hình triển khai thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TU

Thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) về tăng cường của sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân; Chỉ thị số 35-CT/TU ngày 27/4/2004 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, đảng viên và nhân dân (Chỉ thị số 35-CT/TU), ngày 09/7/2004, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 28/KH-UB về triển khai thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TU, theo đó, các sở, ban, ngành, đoàn thể, Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố đã ban hành kế hoạch để triển khai thực hiện.

Nhìn chung, công tác quán triệt và thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TU đã được các cấp, các ngành thường xuyên quan tâm, kịp thời triển khai đến từng cán bộ, đảng viên, từ đó giúp họ chủ động hơn trong việc nghiên cứu, tìm hiểu và tham gia PBGDPL đến mọi tầng lớp nhân dân.

1.1. Kết quả đạt được sau hơn 10 năm thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TU

Đổi mới về nhận thức: Qua hơn 10 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, công tác PBGDPL đã từng bước đi vào nền nếp, các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đã có những chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động, coi công tác PBGDPL là một bộ phận quan trọng không thể tách rời của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các cấp ủy đảng. Xác định việc tự giác tìm hiểu pháp luật và ý thức gương mẫu chấp hành pháp luật và hướng dẫn quần chúng nhân dân chấp hành chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước là nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên, coi đây là tiêu chí để đánh giá chất lượng cán bộ, đảng viên và xét thi đua khen thưởng.

Xây dựng văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện: Hằng năm, các đơn vị đều ban hành kế hoạch triển khai công tác PBGDPL và luôn xác định công tác PBGDPL là một trong những nhiệm vụ công tác trọng tâm của cơ quan, đơn vị. Để triển khai thực hiện Quyết định số 409/QĐ-TTg ngày 09/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ, ngày 30/3/2013, Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã ban hành Kế hoạch số 34/KH-UBND với mục tiêu “tạo chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả công tác PBGDPL, nâng cao ý thức tự giác, tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân trên địa bàn tỉnh”.

Công tác tổ chức, cán bộ: Ngoài việc ban hành các văn bản chỉ đạo công tác PBGDPL, các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở đã thường xuyên quan tâm xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức và cán bộ làm công tác PBGDPL, cụ thể: Hội đồng phối hợp PBGDPL của 16 sở, ngành, đoàn thể và 11 huyện đã được thành lập. Các đơn vị khác, tuy không thành lập Hội đồng nhưng đều đã phân công một đồng chí lãnh đạo và cán bộ phụ trách công tác PBGDPL; có 2.323 thôn, bản, khối phố đã thành lập được tổ hòa giải.

So với trước khi có Chỉ thị số 35/CT-TU, tổ chức và cán bộ làm công tác PBGDPL đã có bước phát triển mạnh, cụ thể: Trước khi có Chỉ thị, Hội đồng phối hợp PBGDPL mới chỉ được thành lập được ở 7 sở, ban, ngành và 105 xã, phường, thị trấn, thì đến nay đã được thành lập ở 16 sở, ban, ngành; đội ngũ báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh là 88 người, cấp huyện là 249 người; tuyên truyền viên pháp luật cấp xã có 2.150 người và 2.674 cộng tác viên ở thôn, khối phố.

Trong hơn 10 qua, năm Hội đồng phối hợp PBGDPL tỉnh duy trì hoạt động thường xuyên, đã tổ chức được 15 phiên họp toàn thể Hội đồng. Trong trường hợp không tổ chức họp toàn thể được, các thành viên Hội đồng phối hợp đã góp ý kiến bằng văn bản cho các báo cáo công tác của Hội đồng trước khi trình cấp có thẩm quyền ban hành. Đã tổ chức 10 cuộc kiểm tra công tác PBGDPL tại hơn 100 lượt các sở, ngành, đoàn thể tỉnh; các đơn vị trực thuộc trung ương đóng trên địa bàn và các huyện, thành phố, các xã, phường, thị trấn. Hội đồng phối hợp cấp huyện hằng năm cũng đều có kế hoạch kiểm tra công tác PBGDPL trên địa phương mình.

Đội ngũ cán bộ làm công tác PBGDPL thường xuyên được cập nhật thông tin pháp luật thông qua Cổng thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân tỉnh, trang mạng nội bộ cơ quan, của Sở Tư pháp… và được bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng phổ biến, tuyên truyền pháp luật thông qua các lớp bồi dưỡng, tập huấn, tọa đàm.

1.2. Nội dung, hình thức và biện pháp phổ biến, giáo dục pháp luật

Công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh trong những năm qua đã thực hiện đúng tinh thần Chỉ thị số 35-CT/TU. Các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh, đơn vị trực thuộc trung ương đóng trên địa bàn tỉnh và Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố đã tích cực đẩy mạnh công tác PBGDPL, kịp thời phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành và các cơ chế chính sách mới của tỉnh tới cán bộ, công chức và nhân dân tại các cuộc họp sinh hoạt định kỳ, hội nghị tập huấn chuyên đề hoặc “Ngày pháp luật” của cơ quan. Đặc biệt, trong quá trình triển khai thực hiện công tác PBGDPL, các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể đã chú trọng tập trung tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật liên quan đến các vấn đề bức thiết mà xã hội quan tâm như: Pháp luật về an toàn giao thông, về khiếu nại, tố cáo, về đất đai, xây dựng…

– Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hội nghị, tập huấn: Trong hơn 10 năm, toàn tỉnh đã tổ chức được trên 125.900 cuộc hội nghị, tập huấn pháp luật cho hơn 9.400.000 lượt người nghe về nhiều lĩnh vực pháp luật; trên 1.700 cuộc hội thảo, tọa đàm với hơn 109.000 lượt người tham dự; trợ giúp pháp lý cho trên 9.300 đối tượng là người nghèo, người có công với cách mạng; phát động 12.008 đợt cao điểm, tháng cao điểm thực hiện và chấp hành pháp luật với 1.987.400 lượt người hưởng ứng tham gia.

Tuyên truyền miệng là hình thức được các đơn vị sử dụng phổ biến nhất, bởi vì nó phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của địa phương và có nhiều ưu thế trong việc nâng cao hiểu biết pháp luật cho cán bộ và nhân dân. Các báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật đã từng bước đổi mới phương pháp tuyên truyền theo hướng trao đổi, thảo luận hai chiều giữa người nói và người nghe.

– Biên soạn và phát hành tài liệu pháp luật cho các đối tượng: Trung tâm Công báo của tỉnh mỗi năm phát hành trên 10 số, mỗi số trên 5.000 cuốn đăng tải toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh, một số văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành gửi tới các sở, ban, ngành, đoàn thể trong tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã; cung cấp thông tin chính sách quản lý, chỉ đạo, điều hành của tỉnh phục vụ kịp thời công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội; Sở Tư pháp tập hợp, hệ thống hóa và in, phát hành trên 4.000 cuốn hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành từ năm 2000 đến năm 2007 và từ năm 2008 đến 2012 để cấp phát cho tất cả các đơn vị trong tỉnh làm tài liệu nghiên cứu áp dụng.

Các cấp, các ngành đã biên tập và phát hành trên 100.000 cuốn tài liệu tuyên truyền, hỏi đáp pháp luật; 1.000 cuốn sách tập hợp trên 100 vụ án mua bán người đã được Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử; 1.000.000 tờ gấp pháp luật; 10.000 đĩa CD, VCD bằng tiếng Việt và tiếng dân tộc thiểu số tuyên truyền pháp luật cấp phát rộng rãi cho nhân dân…

– Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và hệ thống loa truyền thanh cơ sở

Trong những năm qua, việc PBGDPL thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và hệ thống loa truyền thanh cơ sở đã mang lại hiệu quả tích cực. Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh, Báo Lạng Sơn đã chủ động phối hợp với các cơ quan chuyên môn ký kết chương trình, kế hoạch phối hợp thực hiện chuyên mục phổ biến, tuyên truyền pháp luật được 12.560 tin, bài, phóng sự. Đội ngũ phóng viên, cộng tác viên của Báo Lạng Sơn, Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh đã tích cực, chủ động xuống cơ sở, đi thực tế viết tin, bài phản ánh kịp thời tình hình kinh tế – xã hội của tỉnh, góp phần động viên cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân tích cực lao động sản xuất, chấp hành Hiến pháp và pháp luật.

Cổng thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân tỉnh (http://www.langson.gov.vn/) đã hòa mạng quốc gia và quốc tế, sử dụng thường xuyên hai thứ tiếng là tiếng Việt và tiếng Anh thu hút được hàng chục nghìn lượt người truy cập. Báo Lạng Sơn đã xây dựng và đưa vào hoạt động Báo Lạng Sơn điện tử (địa chỉ http://www.baolangson.com.vn/ và http://www.baolangson.vn/) cung cấp kịp thời nhiều thông tin pháp luật và tình hình thực thi pháp luật trên địa bàn tỉnh; Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh (http://www.langsontv.vn/) đưa nội dung thông tin lên trang thông tin điện tử bằng tiếng Việt, tiếng các dân tộc; Sở Tư pháp thành lập và duy trì hoạt động Trang Thông tin của Sở (www.langson.gov.vn/tp/). Một số trang tin điện tử của các ngành khác như: Sở Công thương, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban nhân dân thành phố Lạng Sơn… đã tích cực tuyên truyền PBGDPL cho cán bộ và nhân dân. Các Đài Phát thanh – Truyền hình cấp huyện và hệ thống truyền thanh cơ sở cũng thường xuyên tham gia vào công tác tuyên truyền, PBGDPL.

– Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các cuộc thi tìm hiểu pháp luật: Hội đồng phối hợp PBGDPL tỉnh và các sở, ban, ngành, tổ chức đoàn thể và Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố đã tổ chức và phát động nhiều cuộc thi tìm hiểu về pháp luật gồm cả thi viết và thi sân khấu hóa, qua các cuộc thi đã thu hút được hơn 528.000 lượt người tham gia. Các cuộc thi đã tạo ra những đợt sinh hoạt chính trị rộng khắp trong cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, chiến sỹ các lực lượng vũ trang, học sinh, sinh viên và nhân dân trên địa bàn.

– Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động của các câu lạc bộ: Hiện nay, toàn tỉnh có 388 câu lạc bộ pháp luật đang hoạt động do các ngành, các cấp chỉ đạo thành lập. Sở Tư pháp thành lập và duy trì 120 câu lạc bộ pháp luật và Câu lạc bộ Trợ giúp pháp lý; Hội liên hiệp Phụ nữ tỉnh duy trì sinh hoạt 151 câu lạc bộ “Bạn giúp bạn”; “Phòng chống buôn bán phụ nữ trẻ em”; “Dân số kế hoạch hoá gia đình”… với trên 2.000 thành viên tham gia; Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch duy trì hoạt động 5 câu lạc bộ “Can thiệp phòng, chống bạo lực gia đình”… Thông qua hoạt động sinh hoạt định kỳ, các câu lạc bộ đã lồng ghép tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tư vấn pháp luật miễn phí cho hội viên và nhân dân trên địa bàn.

– Phổ biến, tuyên truyền pháp luật thông qua phiên tòa xét xử lưu động: Trong hơn 10 năm qua, Tòa án nhân dân tỉnh, các Tòa án nhân dân cấp huyện, thành phố đã tổ chức xét xử lưu động được trên 1.000 vụ đối với các vụ án hình sự nghiêm trọng, tệ nạn xã hội xảy ra tại địa phương, thu hút đông đảo quần chúng nhân dân đến dự, góp phần tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân và công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

– Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo: Hoạt động tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn tỉnh đã được các cấp, các ngành, tổ chức đoàn thể tỉnh quan tâm thực hiện. Đến nay, tất cả các cấp, các ngành đều đã bố trí phòng và cán bộ trực tiếp tiếp công dân hằng ngày, có quy chế tiếp công dân, phân công lãnh đạo tiếp công dân theo định kỳ. Do tổ chức tốt công tác tiếp công dân, nên đã kịp thời giải đáp những thắc mắc, kiến nghị, đảm bảo quyền lợi của công dân theo đúng quy định của pháp luật, thông qua đó, đã tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước tới công dân.

– Tuyên truyền pháp luật thông qua hoạt động tiếp xúc cử tri của các đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp: Các vị đại biểu đã kịp thời thông tin đến cử tri tình hình kinh tế – xã hội của đất nước và địa phương, đồng thời phổ biến đến nhân dân các văn bản pháp luật, chính sách mới được trung ương và địa phương ban hành; kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và giám sát tình hình triển khai thực hiện các chính sách, pháp luật tại cơ sở.

– Xây dựng, quản lý và khai thác tủ sách pháp luật, ngăn sách pháp luật: Hiện nay, 100% đơn vị cấp tỉnh, cấp huyện và Ủy ban nhân dân 226/226 xã, phường, thị trấn đều đã xây dựng được tủ sách pháp luật hoặc ngăn sách pháp luật trong tủ sách chung đặt tại trụ sở cơ quan, với số lượng từ 60 cuốn sách pháp luật trở lên và nhiều loại ấn phẩm khác như công báo của trung ương, công báo tỉnh, sách hỏi đáp pháp luật, Báo Pháp luật, các tạp chí về pháp luật…

– Phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường: Đội ngũ cán bộ kiêm nhiệm làm công tác PBGDPL, giáo viên giảng dạy môn giáo dục công dân từng bước được củng cố, kiện toàn, có trên 50% giáo viên giảng dạy môn giáo dục công dân được đào tạo đúng chuyên ngành, thường xuyên được bồi dưỡng lý luận chính trị, pháp luật. Chương trình, kế hoạch giảng dạy pháp luật trong nhà trường đã được các cấp học thực hiện nghiêm túc theo đúng quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Ngoài chương trình học chính khóa, còn phối hợp với các cơ quan chức năng như Công an tỉnh, Sở Tư pháp, Tỉnh Đoàn thanh niên… tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề pháp luật, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật trong học sinh, sinh viên. Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 91/KH-UBND ngày 22/9/2010 thực hiện Đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường”… qua đó đã giáo dục học sinh, sinh viên nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật.

– Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý: Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh, các tổ chức hành nghề luật sư và Trung tâm Tư vấn pháp luật của Hội Luật gia tỉnh đã trợ giúp pháp lý và tư vấn pháp luật 17.869 vụ việc cho 17.879 lượt công dân, trong đó tư vấn miễn phí cho 9.313 lượt người nghèo, đối tượng chính sách, người có công với cách mạng. Các cấp hội phụ nữ đã tiếp nhận và giải quyết được 2.266 đơn thư liên quan đến hôn nhân gia đình, bạo lực gia đình…

– Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua công tác hoà giải ở cơ sở: Hiện nay, toàn tỉnh có 2.323 tổ hòa giải với 12.825 tổ viên, trong 10 năm qua, các tổ hoà giải ở cơ sở đã hoà giải thành 10.047/tổng số 14.263 vụ việc phát sinh, đạt tỷ lệ hoà giải thành là 70,4%.

– Các hình thức khác: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã xuất bản 120 số Bản tin thông báo nội bộ với số lượng 504.000 cuốn phục vụ cho các kỳ sinh hoạt Chi bộ cho toàn Đảng bộ tỉnh, tổ chức được 120 hội nghị và lớp bồi dưỡng cập nhật kiến thức mới cho báo cáo viên, cán bộ và lãnh đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể… Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp đã vận động được 331.783 lượt hộ gia đình ký cam kết đảm bảo an ninh trật tự, tham gia tố giác tội phạm, không bao che tiếp tay cho tội phạm, không thực hiện các hành vi phạm tội buôn bán phụ nữ trẻ em…

Nhìn chung, từ khi có Chỉ thị số 35/CT-TU, các hình thức PBGDPL đã được chú trọng và tăng cường đổi mới theo hướng đa dạng, thiết thực với từng vùng, từng đối tượng, các phương tiện thông tin đại chúng đã tăng thời lượng phát sóng và mở rộng các chuyên trang, chuyên mục về pháp luật; các ấn phẩm pháp luật được phát hành ngày càng nhiều về số lượng, chất lượng lượng được nâng lên.

2. Hạn chế, yếu kém

Công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn đã đạt được nhiều thành tựu. Tuy nhiên, còn có một số hạn chế, yếu kém như:

Một là, công tác chỉ đạo thực hiện việc phổ biến các văn bản pháp luật tại một số cơ quan, đơn vị chưa được thường xuyên, liên tục; việc truyền tải pháp luật từ xã tới nhân dân ở thôn, khối phố còn nhiều hạn chế, do đó hiệu quả công tác PBGDPL ở một số đơn vị chưa cao.

Hai là, một số sở, ban, ngành chưa phát huy được vai trò của mình trong tổ chức phổ biến văn bản quy phạm pháp luật thuộc ngành, lĩnh vực quản lý tới cán bộ, công chức và nhân dân trên địa bàn tỉnh. Triển khai “Ngày pháp luật” còn mang tính hình thức, chất lượng chưa cao.

Ba là, Hội đồng phối hợp PBGDPL ở một số cơ quan, đơn vị hoạt động còn mang tính hình thức, chưa thực sự tạo ra cơ chế phối hợp chặt chẽ trong chỉ đạo, triển khai công tác PBGDPL nên hiệu quả chưa cao; vai trò tham mưu trong triển khai thực hiện công tác PBGDPL của cơ quan tư pháp cấp huyện, cấp xã còn hạn chế.

Bốn là, việc PBGDPL ở nhiều nơi, đặc biệt là tại các xã vùng sâu, vùng cao, vùng biên giới chưa tập trung vào đúng đối tượng cần phổ biến, chưa đi sâu vào các nội dung, lĩnh vực có nhiều người quan tâm, hình thức PBGDPL còn nặng về tổ chức hội nghị.

Năm là, việc theo dõi, hướng dẫn hoạt động của báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật chưa sát sao, thường xuyên, chưa có cơ chế quản lý thống nhất, đồng bộ nên chưa khai thác hết hiệu quả hoạt động của lực lượng này; kỹ năng tuyên truyền, PBGDPL của các báo cáo viên, tuyên truyền viên nhất là ở cấp xã còn nhiều hạn chế.

Sáu là, mặc dù hiểu biết pháp luật của nhân dân đã được nâng lên, nhưng một bộ phận vẫn chưa có ý thức tuân thủ pháp luật, thậm chí còn cố tình vi phạm pháp luật, ví dụ như các hành vi vi phạm pháp luật về an toàn giao thông, buôn lậu, trốn thuế… Hầu hết nhân dân vẫn chưa có thói quen chủ động tìm hiểu pháp luật.

3. Một số kinh nghiệm

– Công tác PBGDPL chỉ có thể đạt được hiệu quả khi có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của cấp ủy, chính quyền và phát huy được sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp, các tổ chức đoàn thể, nhất là sự chủ động sáng tạo của cơ sở và sự hưởng ứng, chủ động tìm hiểu pháp luật của nhân dân.

– Phải lựa chọn được hình thức và nội dung PBGDPL phù hợp với từng vùng, từng đối tượng, phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên như: Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên… trong việc PBGDPL cho hội viên, đoàn viên của tổ chức mình.

– Các Hội đồng phối hợp PBGDPL từ tỉnh đến cơ sở phải phát huy được vai trò là tổ chức phối hợp, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện công tác PBGDPL ở cấp mình, ngành mình. Tăng cường tính chủ động trong đề xuất, tham mưu của cơ quan tư pháp từ tỉnh đến cơ sở.

– Hoạt động PBGDPL phải được thực hiện theo chương trình, kế hoạch cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương trong từng giai đoạn và trình độ dân trí của từng vùng; phải gắn hoạt động PBGDPL với công tác thi hành pháp luật, kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật và giải đáp các vướng mắc về pháp luật, các phong trào vận động quần chúng khác để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân.

– Phải xây dựng được lực lượng nòng cốt làm công tác PBGDPL và thường xuyên tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ PBGDPL cho lực lượng này.

– Thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, động viên khen thưởng kịp thời các cá nhân, tập thể có thành tích trong công tác PBGDPL; đầu tư trang thiết bị, phương tiện và kinh phí cho công tác PBGDPL.

Dương Công Luyện

Trưởng phòng Phổ biến, giáo dục pháp luật

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bàn về quan hệ phối hợp giữa cơ quan thi hành án với các cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự

23/01/2013

1. Vai trò, ý nghĩa của quan hệ phối hợp trong thi hành án dân sự

Thi hành án dân sự là hoạt động liên quan trực tiếp đến quyền về tài sản và nhân thân của các bên đương sự, để giải quyết việc thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự phải tiến hành nhiều thủ tục như: Tống đạt, xác minh, áp dụng các biện pháp đảm bảo, biện pháp cưỡng chế thi hành án v.v… vì thế, cơ quan thi hành án dân sự không thể “đơn thân độc mã” thực hiện được các công việc trên, mà cần có sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan. Ví dụ: Liên quan đến quyền sử dụng đất cơ quan thi hành án dân sự cần sự phối hợp của cơ quan quản lý tài nguyên và môi trường; liên quan đến tài khoản cần sự phối hợp của ngân hàng, tổ chức tín dụng v.v…

Việc phối hợp tốt với các cơ quan, tổ chức, ban ngành liên quan trong thi hành án dân sự là một trong những yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của công tác thi hành án dân sự. Có thể nói, không chỉ riêng cơ quan thi hành án dân sự tại thành phố Hồ Chí Minh, mà tất cả các cơ quan thi hành án dân sự trong cả nước đều ý thức rằng, nếu nhận được sự phối hợp hỗ trợ tốt từ các cơ quan, ban ngành liên quan thì công tác thi hành án đạt kết quả cao. Ở đâu, nơi nào có sự quan tâm của cấp uỷ, Ủy ban nhân dân, nơi đó công việc thi hành án thuận lợi và đạt được thành tích tốt.

Tuy nhiên, để tạo được mối quan hệ tốt với các cơ quan ban ngành, các tổ chức là điều không dễ dàng đối với lãnh đạo cũng như chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự, vì cơ quan thi hành án dân sự được thành lập để thực hiện nhiệm vụ chính và duy nhất là tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Toà án về phần dân sự mà quyền lợi của các bên đương sự giai đoạn này luôn mâu thuẫn nhau (một bên là được thi hành án bên kia là phải thi hành án) và đây cũng là giai đoạn mà quyền về tài sản, nhân thân của các bên được thi hành trên thực tế, nên mâu thuẫn càng gay gắt và quyết liệt hơn, khiếu nại – tố cáo cũng vì thế mà diễn ra nhiều hơn, phức tạp hơn. Từ đó, tên gọi và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự không mang lại thiện cảm cho cơ quan, tổ chức, cá nhân nói chung và người dân, doanh nghiệp nói riêng, hoạt động thi hành án dân sự đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Đồng thời, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan không thấy được hết trách nhiệm của mình hoặc có nhận biết trách nhiệm nhưng không thực hiện, thực hiện không đầy đủ, không kịp thời các yêu cầu của chấp hành viên, thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, dẫn đến một thực tế không thể phủ nhận được là lượng hồ sơ thi hành án dân sự còn tồn đọng nhiều.

Hơn thế nữa, cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan được thành lập muộn (tách ra từ Toà án nhân dân) cơ sở vật chất nghèo nàn (trụ sở nhỏ hẹp, trang thiết bị thiếu thốn không xứng tầm với các cơ quan ban ngành tại địa phương…), đồng thời, một số cán bộ công chức thi hành án dân sự thiếu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, một số cán bộ công chức có thái độ nhũng nhiễu gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp, có văn hóa ứng xử không phù hợp và một số chưa nắm vững quy định của pháp luật, trình độ chuyên môn chưa đáp ứng được nhu cầu công việc, từ đó, uy tín ngành thi hành án dân sự có phần giảm sút, ảnh hưởng đến mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan, tổ chức trong thi hành án dân sự. Từ sau khi có Luật Thi hành án dân sự, vị thế cơ quan thi hành án dân sự được nâng lên, các cơ quan thi hành án dân sự đã ý thức và quan tâm xây dựng mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức, ban ngành ở địa phương, nên hiệu quả công tác thi hành án dân sự được nâng lên rõ rệt.

Từ những phân tích, có thể thấy phối hợp với các cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự là điều không thể thiếu trong hoạt động thi hành án dân sự.

2. Căn cứ pháp lý của quan hệ phối hợp trong thi hành án dân sự

2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự

Theo pháp luật về thi hành án dân sự hiện hành, nhiệm vụ của cơ quan thi hành án dân sự được cụ thể hoá bởi nhiệm vụ quyền hạn của chấp hành viên, của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, trong đó:

– Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định theo quy định của pháp luật. Nội dung nhiệm vụ, quyền hạn của chấp hành viên được quy định tại Điều 20 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 bao hàm những công việc chấp hành viên được làm, đặc biệt khoản 4 và khoản 6 Điều luật này nêu rõ chấp hành viên có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải thi hành án và thực hiện các công việc pháp luật quy định, đây là nội dung quan trọng để chấp hành viên thực hiện việc thi hành án đúng pháp luật. Ở cuối điều luật này quy định: “Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chấp hành viên phải tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín”, để được pháp luật bảo vệ, trước tiên chấp hành viên phải sử dụng quyền và thực hiện nghĩa vụ đúng pháp luật, hành xử đúng chuẩn mực đạo đức được quy định.

Để hạn chế tiêu cực, giúp chấp hành viên nâng cao ý thức trách nhiệm, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã dành Điều 21 quy định những việc chấp hành viên không được làm, nhằm giúp phòng tránh tham nhũng và hạn chế tiêu cực khi thi hành công vụ của chấp hành viên, trong đó, khoản 7, khoản 8 nhấn mạnh điều chấp hành viên không được sách nhiễu, gây phiền hà cho cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thi hành án; không được cố ý thi hành trái nội dung bản án, quyết định, trì hoãn, kéo dài thời gian giải quyết việc thi hành án.

Năm 2010, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được ban hành cũng đã buộc người thi hành công vụ trong hoạt động thi hành án dân sự phải nghiêm khắc hơn trong quá trình hoạt động của mình để tránh gây thiệt hại cho cá nhân, cơ quan, tổ chức và nhà nước.

– Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải là chấp hành viên, nên ngoài nhiệm vụ, quyền hạn của chấp hành viên, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có các nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Điều 23 Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Điểm c khoản 1 Điều luật này quy định Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự được quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phối hợp trong việc thi hành án, đây là nội dung quan trọng và cần thiết để cơ quan thi hành án dân sự có được sự hỗ trợ trong tổ chức thi hành án.

Ngoài ra, trong quá trình thi hành án dân sự, chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự phải áp dụng các điều luật quy định về thủ tục thi hành án trong Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành, các văn bản pháp luật có liên quan để phối hợp với các cơ quan hữu quan như:

+ Điều 89 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định về xác minh thông tin về tài sản có đăng ký giao dịch bảo đảm (phối hợp với cơ quan quản lý tài nguyên môi trường – Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất…); Điều 62, Điều 63 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định về xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án (phối hợp với Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp,…); Điều 124 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định về xử lý vật chứng, tài sản tuyên tịch thu sung công (phối hợp với cơ quan tài chính cùng cấp) v.v…;

+ Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 về thủ tục thi hành án dân sự;

+ Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/07/2010 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự;

+ Thông tư liên tịch số 14/2011/TTLT-BTP-BCA-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 11/7/2011 hướng dẫn hoạt động của Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự;

+ Thông tư liên tịch số 144/2010/TTLT-BTP-BTC ngày 22/9/2010 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn về chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án dân sự …

2.2. Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan phối hợp với cơ quan thi hành án trong việc thi hành án dân sự

Điều 11 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định về trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân với cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên, cụ thể là: “(1) Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong việc thi hành án; (2) Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên theo quy định của Luật này; Mọi hành vi cản trở, can thiệp trái pháp luật đối với hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên đều bị xử lý theo quy định của pháp luật”. Vấn đề này được quy định từ các Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989 và năm 1993, điều đó cho thấy, ngay từ những ngày đầu thành lập cơ quan thi hành án dân sự, đã khẳng định cần thiết phải có sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức, liên quan trong thi hành án dân sự.

Bên cạnh đó, để nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức cá nhân trong việc phối hợp thi hành án dân sự, Điều 10 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại: “Cơ quan, tổ chức và cá nhân vi phạm quy định của Luật này mà gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”. Đồng thời, khoản 6 Điều 162 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 cũng quy định: “Không thực hiện yêu cầu của chấp hành viên về việc cung cấp thông tin, giao giấy tờ liên quan đến tài sản bị xử lý để thi hành án mà không có lý do chính đáng” và khoản 10: “Không chấp hành quyết định của chấp hành viên về việc khấu trừ tài khoản, trừ vào thu nhập, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án” là hành vi vi phạm hành chính. Về xử lý vi phạm, khoản 2 Điều 165 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện các quyết định về thi hành án thì tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường; nếu là cá nhân thì còn có thể bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự”. Đặc biệt, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 dành hẳn Chương VIII quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức trong thi hành án, trong đó quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan ở trung ương như: Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Công an… (từ Điều 166 đến Điều 172); nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức ở địa phương như: Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã … (từ Điều 173 đến Điều 180). Căn cứ vào các quy định trên, các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm phải thực hiện các yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự.

3.Mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự địa phương với các cơ quan nhà nước, các tổ chức có liên quan trong thi hành án dân sự

Hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự gắn liền với sự phối hợp của các cơ quan hữu quan từ giai đoạn thụ lý cho đến khi kết thúc vụ việc. Vì vậy, pháp luật cũng đã quy định cụ thể về trách nhiệm phối hợp này như:

3.1. Trách nhiệm phối hợp của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban nhân dân cấp huyện

Điều 173 và Điều 174 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban nhân dân cấp huyện trong thi hành án dân sự, bao gồm:

– Chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan có liên quan trong thi hành án dân sự trên địa bàn.

– Chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng về an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp.

– Có ý kiến bằng văn bản về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp.

– Quyết định khen thưởng hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác thi hành án dân sự.

– Yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp báo cáo công tác thi hành án dân sự ở địa phương.

Như vậy, trong quan hệ phối hợp, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan có liên quan trong thi hành án dân sự trên địa bàn; chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng về an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện.

3.2. Trách nhiệm của Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự

Khoản 1, Điều 13 Nghị định số 74/2009/NĐ-CP quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện thành lập Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự để tham mưu cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng về an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp. Thành phần Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự gồm:

a. Trưởng ban chỉ đạo thi hành án dân sự là Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân.

b. Phó trưởng ban là Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp.

c. Các ủy viên gồm: Đại diện lãnh đạo cơ quan tư pháp, công an, tài chính, tài nguyên và môi trường, mời đại diện lãnh đạo cơ quan Toà án nhân dân và Mặt trận Tổ quốc cùng cấp.

Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự tiếp tục được các văn bản quy định chi tiết như: Chỉ thị số 21/2008/CT-TTg ngày 01/7/2008 của Thủ tướng Chính phủ “về việc tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự” đã nhấn mạnh “Ban Chỉ đạo thi hành án các cấp làm tốt công tác tham mưu giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp và cấp trên tăng cường sự chỉ đạo phối hợp trong công tác thi hành án dân sự”; Thông tư liên tịch số 14/2011/TTLT-BTP-BCA-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 11/7/2011 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 30/9/2011) hướng dẫn hoạt động của Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự, quy định chi tiết việc chỉ đạo công tác thi hành án dân sự đúng chức năng, kịp thời, theo quy định của pháp luật trên cơ sở tôn trọng hoạt động nghiệp vụ của cơ quan thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật và phát huy vai trò phối hợp của các cấp, các ngành trong hoạt động chỉ đạo công tác thi hành án dân sự trong phạm vi chức năng và nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

3.3. Trách nhiệm phối hợp của Ủy ban nhân dân cấp xã

Cơ quan thi hành án dân sự phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc thi hành án dân sự, đặc biệt là phối hợp thực hiện việc xác minh, tống đạt, thỏa thuận thi hành án… Trách nhiệm phối hợp của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã đã được pháp luật quy định, cụ thể: Theo khoản 3 Điều 117 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân năm 2003, Uỷ ban nhân dân cấp xã có nhiệm vụ: “Tổ chức thực hiện hoặc phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc thi hành án theo quy định của pháp luật”. Điều 175 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định: “Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phối hợp với chấp hành viên và cơ quan thi hành án dân sự trong việc thông báo thi hành án, xác minh điều kiện thi hành án, áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án và các nhiệm vụ khác về thi hành án dân sự trên địa bàn”.

3.4. Quan hệ phối hợp với các cơ quan chuyên môn ở địa phương

Cơ quan thi hành án dân sự phối hợp với các cơ quan chuyên môn ở địa phương như: Cơ quan quản lý tài nguyên và môi trường, cơ quan quản lý xây dựng đô thị, cơ quan tài chính, cơ quan thuế, ngân hàng, bảo hiểm xã hội, cơ quan quản lý doanh nghiệp, cơ quan công an, Viện kiểm sát… trong việc xác minh, áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự…

– Với cơ quan tài chính: Điều 124 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan tài chính trong việc tiếp nhận tài sản, vật chứng sung công, thanh toán các chi phí trong quá trình xử lý vật chứng, tài sản sung công và hoàn trả lại tiền khi phát hiện có sai lầm trong việc sung công tài sản, vật chứng. Điều 18 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và thủ tục thi hành án dân sự cũng xác định: Cơ quan tài chính có trách nhiệm tiếp nhận để xử lý vật chứng, tài sản bị tuyên tịch thu, sung quỹ nhà nước… Còn cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm thông báo và ấn định cho cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận vật chứng, tài sản thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo để tiếp nhận. Hết thời hạn nêu trên mà không tiếp nhận vật chứng, tài sản thì cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận phải thanh toán các khoản chi phí cho việc bảo quản tài sản và phải chịu mọi rủi ro kể từ thời điểm chậm tiếp nhận.

Trong việc xử lý tiêu hủy tang vật, khoản 2 Điều 125 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định: “Hội đồng tiêu huỷ vật chứng, tài sản gồm chấp hành viên là Chủ tịch Hội đồng, đại diện cơ quan tài chính cùng cấp là thành viên, đại diện cơ quan chuyên môn tham gia Hội đồng khi cần thiết”. Ngoài ra, cơ quan tài chính còn phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong việc có ý kiến tham khảo để giúp chấp hành viên xác định giá đối với tài sản kê biên khi cần thiết theo khoản 2 Điều 15 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP và các công việc khác theo quy định của pháp luật.

– Với cơ quan công an: Cơ quan thi hành án dân sự phối hợp với các cơ quan công an trong việc xác minh thi hành án; phối hợp giải quyết thi hành án dân sự đối với người phải thi hành án dân sự đang chấp hành hình phạt tù; xử lý các hành vi vi phạm trong thi hành án dân sự; thực hiện các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án, đặc biệt là hỗ trợ cưỡng chế có huy động lực lượng; chuyển giao vật chứng, tài liệu liên quan đến việc thi hành án dân sự…;

Điều 180 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức được giao theo dõi, quản lý người đang chấp hành án hình sự có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự các nội dung sau đây:

+ Giáo dục người đang chấp hành án hình sự thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Toà án;

+ Cung cấp cho cơ quan thi hành án dân sự thông tin liên quan về người phải thi hành nghĩa vụ về dân sự đang chấp hành án hình sự; thực hiện việc thông báo giấy tờ về thi hành án dân sự cho người phải thi hành án đang chấp hành án hình sự;

+ Phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự thu tiền thi hành án theo quy định của Luật này;

+ Kịp thời thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự về nơi cư trú của người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt tù, được đặc xá, được miễn chấp hành hình phạt tù.

– Với Viện kiểm sát nhân dân các cấp: Cơ quan thi hành án dân sự phối hợp với Viện kiểm sát các cấp trong việc thi hành án, nhưng thực chất là Viện kiểm sát nhân dân các cấp kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong thi hành án để hỗ trợ cơ quan thi hành án dân sự thực hiện đúng quy định pháp luật trong việc thụ lý; xác minh; phân loại hồ sơ; xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án; xử lý tiêu huỷ vật chứng; giải quyết khiếu nại – tố cáo; cưỡng chế thi hành án và các thủ tục khác.

– Với Tòa án nhân dân các cấp: Cơ quan thi hành án dân sự phối hợp với Tòa án nhân dân trong việc tiếp nhận bản án, quyết định; giải thích bản án, quyết định; trả lời kiến nghị khi cơ quan thi hành án có yêu cầu; xét miễn giảm nghĩa vụ thi hành án; giải quyết yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự về xác định quyền sở hữu, phân chia tài sản hoặc giải quyết tranh chấp tài sản phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự.

Điều 179 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định trách nhiệm của cơ quan ra bản án, quyết định có trách nhiệm:

+ Bảo đảm bản án, quyết định đã tuyên chính xác, rõ ràng, cụ thể, phù hợp với thực tế.

+ Có văn bản giải thích những nội dung mà bản án, quyết định tuyên chưa rõ trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của đương sự hoặc của cơ quan thi hành án dân sự. Trường hợp vụ việc phức tạp thì thời hạn trả lời không quá 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.

+ Trả lời kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự về việc xem xét lại bản án, quyết định của Toà án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị.

+ Thụ lý và kịp thời giải quyết yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự, đương sự về việc xác định quyền sở hữu, phân chia tài sản hoặc giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản thuộc thẩm quyền của Toà án phát sinh trong quá trình thi hành án.

– Với cơ quan ngân hàng, bảo hiểm xã hội: Theo Điều 176 và Điều 177 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, thì ngân hàng, tổ chức tín dụng và bảo hiểm xã hội có các nhiệm vụ sau: Cung cấp đúng, đầy đủ, kịp thời thông tin, số liệu về tài khoản, các khoản thu nhập của người phải thi hành án theo yêu cầu của chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự. Thực hiện nghiêm chỉnh, kịp thời yêu cầu của chấp hành viên về phong tỏa tài khoản, phong toả tài sản; khấu trừ tiền trong tài khoản; giải toả việc phong toả tài khoản, phong toả tài sản; khấu trừ thu nhập của người phải thi hành án. Thực hiện đầy đủ yêu cầu khác của chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự…

Chỉ thị số 21/2008/CT-TTg cũng nêu rõ: Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, Bảo hiểm xã hội có trách nhiệm cung cấp đúng, đầy đủ, kịp thời thông tin về tài khoản, về các khoản thu nhập của người phải thi hành án, thực hiện nghiêm chỉnh, kịp thời các yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự về phong tỏa tài khoản, phong tỏa tài sản, khấu trừ tiền trong tài khoản, khấu trừ thu nhập, giải tỏa việc phong tỏa tài khoản, phong tỏa tài sản của người phải thi hành án và thực hiện đầy đủ các yêu cầu khác của cơ quan thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật.

– Với cơ quan đăng ký tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm: Điều 178 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định về trách nhiệm của cơ quan đăng ký tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm trong thi hành án dân sự như sau:

+ Tạm dừng hoặc dừng việc thực hiện các yêu cầu liên quan đến các giao dịch đối với tài sản của người phải thi hành án đăng ký tại cơ quan đăng ký tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm ngay sau khi nhận được yêu cầu của chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự.

+ Thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất cho người mua được tài sản, người được thi hành án nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án.

+ Thu hồi, sửa đổi, hủy các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đất, giấy tờ đăng ký giao dịch bảo đảm đã cấp cho người phải thi hành án; thực hiện việc cấp mới các giấy tờ theo quy định của pháp luật.

4. Một số yêu cầu đối với chấp hành viên, cán bộ cơ quan thi hành án dân sự nhằm nâng cao hiệu quả của các mối quan hệ phối hợp trong thi hành án dân sự

Trong mối quan hệ phối hợp với các cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự, chấp hành viên, cán bộ cơ quan thi hành án dân sự cần phải thực hiện công việc thi hành án một cách thuần thục, trên cơ sở nắm vững quy định pháp luật và kinh nghiệm giải quyết công việc phù hợp với thực tiễn nhằm đảm bảo bản án, quyết định của Tòa án được thi hành đúng pháp luật. Để mối quan hệ phối hợp với các cơ quan, tổ chức trong thi hành án dân sự được thuận lợi, nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án, yêu cầu đặt ra đối với chấp hành viên, cán bộ cơ quan thi hành án dân sự là cần phải nắm vững kiến thức chuyên môn, đồng thời, phải có kỹ năng giao tiếp và tác phong làm việc nghiêm túc, chuyên nghiệp, cụ thể:

4.1. Về kiến thức chuyên môn

Trước hết, chấp hành viên, cán bộ thi hành án khi chuẩn bị làm việc phải nghiên cứu kỹ hồ sơ và đề ra kế hoạch, phương án giải quyết hồ sơ đạt hiệu quả phù hợp với quy định pháp luật, như đọc kỹ bản án, quyết định của Tòa án để nắm bắt toàn bộ nội dung vụ việc, cụ thể về độ tuổi, giới tính của các bên thi hành án, đặc biệt là những tranh chấp, bức xúc hay yêu cầu của các bên đương sự trong giai đoạn xét xử… Đồng thời, chấp hành viên, cán bộ thi hành án cũng cần nắm thêm những thông tin cần thiết phục vụ cho việc yêu cầu hỗ trợ cung cấp thông tin như địa chỉ, tài sản hoặc những vấn đề khác đã được Tòa án nhận định, tuyên xử…, đọc kỹ đơn yêu cầu thi hành án (đối với hồ sơ yêu cầu), quyết định thi hành án nắm được nội dung các khoản phải thi hành án…, sau đó, lên kế hoạch thực hiện từng thủ tục, nghiên cứu kỹ các thủ tục theo Luật Thi hành án dân sự năm 2008 cũng như các văn bản có liên quan để đề nghị các cơ quan hữu quan phối hợp thực hiện đúng pháp luật. Ví dụ: Để thực hiện tống đạt, cần nghiên cứu kỹ quy định tại Điều 39 đến Điều 43 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Điều 7 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP… Việc nghiên cứu, chuẩn bị kỹ hồ sơ, các điều luật và thực hiện đầy đủ nghiêm túc các thủ tục, giúp chấp hành viên, cán bộ thi hành án giảm được thời gian, công sức, nhất là giải quyết hồ sơ đạt hiệu quả, gây thiện cảm với các cơ quan, tổ chức liên quan.

4.2. Về nghệ thuật giao tiếp và tác phong làm việc

Khi tiến hành các thủ tục thi hành án, chấp hành viên, cán bộ thi hành án có thể trực tiếp hoặc gián tiếp liên hệ với các cơ quan, tổ chức, cá nhân, chấp hành viên có thể sử dụng ngôn ngữ bằng chữ viết, ngôn ngữ bằng lời nói cử chỉ với thái độ giao tiếp đúng mực, áp dụng và tiến hành thủ tục thi hành án đúng pháp luật quyết định sự thành công trong quan hệ phối hợp với các cơ quan, để đạt được kết quả. Khi giao tiếp, chấp hành viên, cán bộ thi hành án cần rèn luyện tác phong, giao tiếp; trang phục gọn gàng, lịch sự, nghiêm túc; thái độ, cử chỉ, lời nói rõ ràng, đúng mực; khi ban hành văn bản, giấy mời… phải trình bày trang trọng theo đúng quy định, văn phong rõ ràng, thể hiện được sự tôn trọng, đặc biệt có thể gửi kèm các tài liệu liên quan cần thiết nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc cung cấp thông tin liên quan. Ví dụ: Khi yêu cầu Phòng Tài nguyên – Môi trường xác minh tính pháp lý của quyền sử dụng đất, cần gửi kèm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (nếu có); đồng thời trong văn bản yêu cầu, chấp hành viên cũng nên có thêm thông tin về số điện thoại cần liên hệ để các cơ quan có trao đổi khi cần thiết.

Rèn luyện, tu dưỡng chuẩn mực đạo đức chấp hành viên cũng rất quan trọng như chấp hành kỷ cương, kỷ luật hành chính. Khi mời các cơ quan tham gia hỗ trợ thi hành án dân sự, chấp hành viên, cán bộ thi hành án phải đến đúng giờ, đúng địa điểm đã mời, khi có bất kỳ sự thay đổi phải báo trước để các cơ quan biết. Thực hiện nghiêm túc, công khai việc hỗ trợ chi phí theo quy định. Kiên quyết chống cửa quyền, quan liêu, tham nhũng và những biểu hiện tiêu cực khác bằng nhiều hình thức, trong đó điều đầu tiên là công khai, minh bạch các thủ tục thi hành án dân sự cho người dân, doanh nghiệp biết, giải quyết công việc đúng quy định, đúng trình tự, khách quan minh bạch, có trách nhiệm, tận tâm và xử lý hồ sơ đạt lý thấu tình, giảm được khiếu nại tố cáo trong giải quyết hồ sơ thi hành án.

ThS. Lê Thị Lệ Duyên

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số bất cập về cách tính thời hạn khởi kiện theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009

31/12/2015

Điều 22 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 quy định về quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường và các quy định có liên quan, chúng tôi nhận thấy có hai bất cập lớn liên quan đến cách tính thời hạn khởi kiện. Một là, thời điểm nào được coi là người bị thiệt hại nhận được quyết định giải quyết bồi thường để làm cơ sở tính thời hạn khởi kiện. Hai là, cơ quan chịu trách nhiệm bồi thường không thực hiện trách nhiệm chi trả tiền bồi thường khi quyết định giải quyết bồi thường đã có hiệu lực, thì người bị thiệt hại có quyền được khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết hay không. Qua bài viết này, các tác giả sẽ chỉ ra những bất cập và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về cách tính thời hạn khởi kiện theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009.

1. Về thời điểm người bị thiệt hại nhận được quyết định giải quyết bồi thường để làm cơ sở tính thời hạn khởi kiện

Điều 22 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 quy định thời hạn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường là 15 ngày, kể từ ngày người bị thiệt hại nhận được quyết định giải quyết bồi thường, nhưng không đồng ý với quyết định đó thì có quyền khởi kiện ra Toà án có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết bồi thường, quy định như vậy chưa toàn diện, bởi trong thực tiễn có một số trường hợp sau sẽ không thể giải quyết được theo Luật này, đó là:

Thứ nhất, theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 16/2010/NĐ-CP ngày 3/3/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (Nghị định số 16/2010/NĐ-CP) thì đối với trường hợp người được bồi thường vắng mặt, quyết định giải quyết bồi thường có thể được giao cho người thân có đủ năng lực hành vi dân sự cùng cư trú với họ. Người thân của người được bồi thường phải ký nhận vào biên bản hoặc sổ giao nhận quyết định giải quyết bồi thường. Ngày người thân của người được bồi thường ký nhận được tính là ngày người được bồi thường nhận được quyết định giải quyết bồi thường. Trường hợp này đã quy định rất rõ về ngày nhận quyết định của người bị thiệt hại. Nhưng trong trường hợp người được bồi thường không có người thân có đủ năng lực hành vi dân sự cùng cư trú hoặc có nhưng họ từ chối nhận hộ quyết định giải quyết bồi thường, thì có thể giao quyết định giải quyết bồi thường thông qua Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã – nơi người được bồi thường cư trú. Quy định này không rõ thời điểm người bị thiệt hại nhận được quyết định giải quyết bồi thường là ngày nào, là ngày UBND cấp xã nhận từ người chuyển giao hay ngày người bị thiệt hại nhận được quyết định từ UBND cấp xã giao. Bởi luật quy định rằng, phải giao ngay quyết định cho người bị thiệt hại để đảm bảo quyền lợi cho họ, vì thời hạn để khởi kiện ra Toà án là rất ngắn.

Đồng thời, Điều 10 Nghị định số 16/2010/NĐ-CP cũng có quy định “trường hợp việc giao quyết định giải quyết bồi thường qua người khác thì người thực hiện việc giao quyết định phải lập biên bản ghi rõ việc người được bồi thường vắng mặt, quyết định giải quyết bồi thường đã được giao cho ai; lý do; ngày, giờ giao; quan hệ giữa người nhận hộ với người bị thiệt hại; cam kết giao ngay tận tay quyết định giải quyết bồi thường cho người được bồi thường. Biên bản có chữ ký của người nhận chuyển quyết định giải quyết bồi thường và người thực hiện việc giao quyết định giải quyết bồi thường, người chứng kiến”. Người khác ở đây đương nhiên được hiểu là người thân có đủ năng lực hành vi dân sự và cùng cư trú với người bị thiệt hại, nhưng có được hiểu là UBND cấp xã không? Pháp luật của Việt Nam hay sử dụng từ người cho cả cá nhân và tổ chức, ví dụ như quy định “người khởi kiện” bao gồm cá nhân, cơ quan, tổ chức[1], ngay cả các nhà khoa học cũng vậy, họ cho rằng: Khái niệm pháp lý về “con người” với tính cách là chủ thể chung của các quan hệ pháp luật cần được hiểu là bao gồm các loại thể nhân và pháp nhân[2], nên có lẽ trong trường hợp này “người khác” cũng được hiểu là UBND cấp xã. Chúng tôi kiến nghị trong trường hợp này, pháp luật nên quy định rõ là ngày nhận quyết định của người bị thiệt hại là ngày được người đại diện của Ủy ban giao cho, bởi người này cũng thuộc danh sách những người được pháp luật quy định có nhiệm vụ thực hiện việc chuyển giao quyết định và cũng đảm bảo quyền khởi kiện cho người bị thiệt hại.

Thứ hai, trường hợp người được bồi thường vắng mặt mà không rõ thời điểm trở về hoặc không rõ địa chỉ, thì người thực hiện việc giao quyết định giải quyết bồi thường phải lập biên bản về việc không thực hiện được việc giao quyết định. Biên bản phải có chữ ký của người cung cấp thông tin về người được bồi thường. Trường hợp này xảy ra có thể do lỗi hoặc không do lỗi của người bị thiệt hại, thiết nghĩ trong trường hợp này nên áp dụng thủ tục niêm yết tương tự như trong quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004[3]. Bởi lẽ, thực ra thủ tục chuyển giao quyết định này khi nghiên cứu kỹ thì rất giống với thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng quy định tại Chương X – Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004. Nhưng như đã đề cập trên, quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong nhiều trường hợp còn rất nhiều lỗ hổng, chưa dự liệu hết các trường hợp có thể xảy ra mà Bộ luật Tố tụng dân sự đã dự liệu được, mà lại thiếu các quy định viện dẫn về việc áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, muốn quy định cụ thể ra trực tiếp nhưng lại không ghi nhận được hết các trường hợp có khả năng xảy ra. Bên cạnh đó, việc đưa ra kiến nghị về việc niêm yết quyết định giải quyết bồi thường trong trường hợp này cũng là sự tiếp thu các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, có thể coi đây là luật hình thức khá đầy đủ để giải quyết các quan hệ dân sự rộng lớn, ví dụ như quy định về thời hạn kháng cáo tại khoản 1 Điều 245 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định: “Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm là mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết”. Do đó, chúng tôi kiến nghị trong trường hợp này xem như ngày niêm yết là ngày người bị thiệt hại nhận được quyết định giải quyết bồi thường.

Thứ ba, trường hợp người được bồi thường từ chối nhận quyết định giải quyết bồi thường thì người thực hiện việc giao quyết định phải lập biên bản trong đó nêu rõ lý do của việc từ chối. Trong trường hợp này chắc chắn là lỗi của người bị thiệt hại, nên chúng tôi cho rằng ngày người bị thiệt hại nhận được quyết định là ngày họ từ chối nhận quyết định giải quyết bồi thường.

Trên các cơ sở lập luận trên, chúng tôi kiến nghị cần quy định bổ sung thêm Điều 10 Nghị định số 16/2010/NĐ-CP các nội dung đã trình bày trên như quy định cụ thể ngày nhận được quyết định giải quyết bồi thường là ngày nào, trường hợp nào phải niêm yết và thủ tục niêm yết. Theo đó, cần sửa đổi Điều 22 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 cho phù hợp.

2. Việc không thực hiện trách nhiệm chi trả tiền bồi thường

Nếu như trách nhiệm này được xác định trong bản án dân sự có hiệu lực pháp luật thì áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, cụ thể là các quy định tại Chương XXXI – Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 và pháp luật về thi hành án và Điều này đã được Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 khẳng định tại khoản 5 Điều 54 như sau: “Trường hợp bản án, quyết định giải quyết bồi thường của Toà án có hiệu lực pháp luật mà cơ quan có trách nhiệm bồi thường không tự nguyện thi hành thì người được bồi thường có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự”. Thực ra, nếu Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 không quy định như trên thì đương nhiên các quy định tại Chương XXXI của Bộ luật Tố tụng dân sự vẫn được áp dụng, vì đây là trường hợp Toà án giải quyết vụ án dân sự thì pháp luật tố tụng dân sự được áp dụng một cách toàn diện nhất, điều này cho thấy một cái thừa của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Tuy nhiên, trên thực tế người bị thiệt hại vẫn chưa vận dụng triệt để quy định của pháp luật để bảo vệ quyền lợi cho mình, đó là trường hợp của ông P. Cụ thể như sau:

Ông P. khổ sở đi đòi bồi thường oan sai đã kéo dài 15 năm nay. Năm 1999, Toà án nhân dân (TAND) tỉnh Thái Bình tuyên phạt ông P. 17 năm tù về hai tội trốn thuế và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa. Xét xử phúc thẩm năm 2000, Tòa Phúc thẩm TAND tối cao tại Hà Nội tuyên ông P. không phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa và hủy phần tội trốn thuế để điều tra lại. Năm 2010, TAND tỉnh Thái Bình đã bồi thường cho ông P. 600 triệu đồng, đây là tiền bồi thường cho 3 năm ông P. ngồi tù và thu nhập thực tế bị mất. Riêng vụ kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại tài sản, tháng 8/2013, TAND thành phố Thái Bình tuyên buộc TAND tỉnh Thái Bình phải bồi thường cho ông P. hơn 21,4 tỉ đồng về tài sản bị kê biên, phát mại và một số chi phí khác sau khi ông P. bị bắt.

Trường hợp của ông P. khi bản án đã có hiệu lực chín tháng mà các cơ quan chưa trả tiền bồi thường cho ông Phi do ông P. bị bắt giam oan, tài sản bị phát mãi với giá rẻ mạt, ra tù cuộc sống của rất khó khăn. Nhiều năm qua ông P. chỉ biết đi kiện, nên ông P. cảm thấy thật sự rất mệt mỏi vì phải chờ đợi các cơ quan tố tụng từ năm này qua năm khác mà không biết khi nào mới nhận được số tiền bồi thường. Để giải tỏa những trăn trở của ông P. thì một cán bộ Toà án đã trả lời: “Theo nguyên tắc của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, bản án phải được TAND tối cao xem xét xem có phải kháng nghị giám đốc thẩm hay không. Nếu không có kháng nghị thì sẽ tiến hành chi trả tiền cho ông P.”[4]. Tuy nhiên, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 không có nguyên tắc như vậy và nếu chờ kháng nghị giám đốc thẩm thì người bị thiệt hại phải chờ rất lâu[5]. Thiết nghĩ, trong trường hợp bản án, quyết định giải quyết bồi thường của Toà án cũng như những bản án dân sự khác, khi đã có hiệu lực pháp luật thì phải được thi hành theo thủ tục quy định, còn nếu có căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hay tái thẩm thì số tiền đã thi hành không đúng có thể được giải quyết trong một bản án dân sự và áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 tại chương XX về nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật, thực tiễn có những trường hợp như thế xảy ra và Toà án cũng đã áp dụng linh hoạt các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 để giải quyết (Điều 281, Điều 256, Điều 599 đến Điều 603)[6].

Theo chúng tôi, trong trường hợp cơ quan chịu trách nhiệm bồi thường theo quyết định giải quyết bồi thường mà không nghiêm túc thực hiện việc bồi thường cho người bị thiệt hại, thì người bị thiệt hại có quyền khởi kiện cơ quan có trách nhiệm bồi thường để yêu cầu cơ quan này thực hiện nghĩa vụ bồi thường theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Lý giải cho việc kiến nghị này, theo chúng tôi quyết định giải quyết bồi thường về bản chất cũng giống như quyết định hoàn trả[7], nó không phải là quyết định hành chính nên không thể khởi kiện vụ án hành chính, mà đây thực chất như một thỏa thuận mang bản chất dân sự nên khởi kiện vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự là hợp lý, để khi bản án, quyết định có hiệu lực mà cơ quan có trách nhiệm bồi thường không chấp hành, thì người bị thiệt hại có cơ sở yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự vào cuộc và có thể cưỡng chế thi hành án như những trường hợp thông thường khác, vì suy cho cùng cơ quan có trách nhiệm bồi thường cũng là người phải thi hành án như các chủ thể khác của pháp luật dân sự.

Trên cơ sở các bất cập và kiến nghị sửa đổi văn bản hướng dẫn nêu trên, chúng tôi kiến nghị sửa Điều 22 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 như sau:

Điều 22. Khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường

“Thời hạn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết bồi thường là 15 ngày, kể từ ngày hết thời hạn ra quyết định giải quyết bồi thường theo quy định tại Điều 20 của Luật này mà cơ quan có trách nhiệm bồi thường không ra quyết định hoặc kể từ ngày người bị thiệt hại nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết.

Trường hợp quyết định giải quyết bồi thường đã có hiệu lực pháp luật thì thời hạn 15 ngày được tính kể từ ngày hết thời hạn thực hiện việc chi trả bồi thường theo quy định tại Điều 54 của Luật này mà cơ quan có trách nhiệm bồi thường không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ”.

ThS. Lê Đức Hiền, Đại học Quy Nhơn

Châu Nữ Thu Hân, TAND TP. Cao Lãnh – Đồng Tháp

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011).

2. Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009.

3. Nguyễn Như Phát (2007), “Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường Nhà nước”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (4), tr. 25.

4.http://tuoitre.vn/tin/phap-luat/20140522/vu-an-oan-duoc-boi-thuong-nhieu-nhat/608638.html,

5. Bản án số 17/2012/DS-ST ngày 28/6/2012 “về việc tranh chấp về quyền sở hữu tài sản” của Tòa án nhân dân huyện DL, tỉnh LĐ.



[1] Điều 161 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định về quyền khởi kiện vụ án: Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

[2] Nguyễn Như Phát (2007), “Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường Nhà nước”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (4),tr. 25.

[3] Điều 154 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 về thủ tục niêm yết công khai

(1). Việc niêm yết công khai văn bản tố tụng chỉ được thực hiện khi không rõ tung tích của người được cấp, tống đạt hoặc thông báo hoặc không thể thực hiện được việc cấp, tống đạt hoặc thông báo trực tiếp.

(2). Việc niêm yết công khai văn bản tố tụng do Toà án trực tiếp hoặc ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được cấp, tống đạt hoặc thông báo được thực hiện theo thủ tục sau đây:

a) Niêm yết bản chính tại trụ sở Toà án, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được cấp, tống đạt hoặc thông báo;

b) Niêm yết bản sao tại nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được cấp, tống đạt hoặc thông báo;

c) Lập biên bản về việc thực hiện thủ tục niêm yết công khai, trong đó ghi rõ ngày, tháng, năm niêm yết.

(3). Thời gian niêm yết công khai văn bản tố tụng là mười lăm ngày, kể từ ngày niêm yết.

[4]http://tuoitre.vn/tin/phap-luat/20140522/vu-an-oan-duoc-boi-thuong-nhieu-nhat/608638.html,

[5] Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành tại Điều 288 như sau: Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

1. Người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được quyền kháng nghị trong thời hạn ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

2. Trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng có các điều kiện sau đây thì thời hạn kháng nghị được kéo dài thêm hai năm, kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị:

a) Đương sự đã có đơn đề nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 284 của Bộ luật này và sau khi hết thời hạn kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều này đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị;

b) Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật theo quy định tại Điều 283 của Bộ luật này, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba, xâm phạm lợi ích của Nhà nước và phải kháng nghị để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó.

[6] Xem thêm bản án số 17/2012/DS-ST ngày 28/6/2012 về việc tranh chấp về quyền sở hữu tài sản của Tòa án nhân dân huyện DL, tỉnh LĐ.

[7] Thông tư liên tịch số 04/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 23/01/2014 hướng dẫn thực hiện trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ, quy định tại Điều 4. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong việc xem xét trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân

30/12/2015

Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) là hai cơ quan hợp thành chính quyền địa phương được tổ chức ở tất cả các đơn vị hành chính các cấp (tỉnh, huyện, xã). Đây là bộ phận quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong bộ máy nhà nước, chính quyền địa phương, có nhiệm vụ tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương theo quy định của pháp luật. Như vậy, chính quyền địa phương là một bộ phận quan trọng trong hệ thống các cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Do đó, hoạt động lập quy (ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể việc thi hành pháp luật theo phân cấp) là một trong những chức năng của HĐND và UBND các cấp. Qua thực tiễn công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) của HĐND và UBND trong thời gian qua vẫn còn nhiều vấn đề bất cập cần trao đổi nhằm triển khai thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 đạt hiệu quả.

1. Việc xác định quyền hạn của HĐND trong ban hành nghị quyết

Theo quy định của Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 và các văn bản pháp luật trên các lĩnh vực khác, thì quyền hạn của HĐND được thể hiện ở những hình thức và cấp độ khác nhau. Cụ thể đó là: Quyền quyết định (quyết định và quy định), quyền thông qua và quyền phê chuẩn.

Quyền quyết định là quyền giải quyết về một vấn đề cụ thể mà pháp luật quy định hoặc quyền quy định đặt ra, thay đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ các quy phạm pháp luật (quy tắc xử sự chung) bắt buộc các chủ thể (cá nhân, cơ quan, tổ chức) phải thực hiện. Quyền quyết định được thể hiện ở hai dạng cụ thể: Dạng thứ nhất là quyết định về một vấn đề cụ thể được thể hiện trong các nghị quyết cá biệt (nghị quyết áp dụng pháp luật). Chẳng hạn như, nghị quyết về thành lập các cơ quan chuyên môn thuộc UBND, nghị quyết về đặt tên đường phố… Dạng thứ hai là quy định, đặt ra các quy tắc xử sự chung được áp dụng nhiều lần đối với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng và có hiệu lực trong phạm vi địa phương. Dạng này được thể hiện trong các nghị quyết quy phạm pháp luật. Chẳng hạn như nghị quyết về quy định mức thu các loại phí, lệ phí; nghị quyết quy định số lượng và mức phụ cấp đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, bản, tiểu khu…

Quyền thông qua là quyền cho ý kiến thể hiện sự đồng ý về một vấn đề (thường là các quy hoạch, kế hoạch, đề án) do UBND cùng cấp trình xin ý kiến trước khi UBND quyết định hoặc trình cấp trên quyết định, phê duyệt theo thẩm quyền. Chẳng hạn như, tại khoản 2 Điều 9 Luật Điện lực năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) quy định: “Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) tổ chức lập quy hoạch phát triển điện lực tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua trước khi trình Bộ trưởng Bộ Công thương phê duyệt…). Tại khoản 3 Điều 45 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Ủy ban nhân dân cấp huyện trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua quy hoạch sử dụng đất cấp huyện trước khi trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt”. Ngoài ý nghĩa là một dạng quyền hạn của HĐND thì thuật ngữ “thông qua” còn được sử dụng với ý nghĩa để chỉ một hoạt động tại kỳ họp của HĐND, đó là việc biểu quyết nhất trí đối với các dự thảo nghị quyết. Khoản 2 Điều 29 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND năm 2004 (Luật năm 2004) quy định: “Dự thảo nghị quyết được thông qua khi có quá nữa tổng số đại biểu HĐND biểu quyết tán thành”.

Quyền phê chuẩn là quyền xem xét cho ý kiến thể hiện sự đồng ý với kết quả đã thực hiện của UBND cùng cấp, của HĐND cấp dưới về một vấn đề mà pháp luật quy định. Chẳng hạn như: Phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; phê chuẩn nghị quyết của HĐND cấp huyện về việc giải tán HĐND… Như vậy, sự khác nhau giữa thông qua với phê chuẩn là: Thông qua là cho ý kiến trước khi quyết định (tiền kiểm – thể hiện vai trò tư vấn của tập thể HĐND đối với các đề án, quy hoạch, kế hoạch), còn phê chuẩn là cho ý kiến sau khi đã thực hiện (hậu kiểm – thể hiện chức năng giám sát của HĐND đối với kết quả thực hiện).

Tóm lại, mặc dù Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 không có điều luật giải thích cụ thể, nhưng căn cứ vào các quy định của văn bản pháp luật chuyên ngành trong các lĩnh vực thì có thể xác định được các dấu hiệu chung để phân biệt các dạng quyền hạn của HĐND trong việc ban hành nghị quyết: Đối với những vấn đề theo quy định của pháp luật thuộc thẩm quyền phán quyết của HĐND thì quyền hạn đó là quyết định hoặc quy định (tương ứng với văn bản chủ đạo, cá biệt hoặc văn bản QPPL). Đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của UBND cùng cấp hoặc của cấp trên mà UBND xin ý kiến trước khi quyết định hoặc trình cơ quan cấp trên quyết định thì quyền hạn của HĐND là quyền thông qua. Đối với những vấn đề đã được thực hiện nhưng theo quy định của pháp luật sau khi thực hiện phải có ý kiến của HĐND thì quyền hạn đó là quyền phê chuẩn.

Mặc dù Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, các văn bản pháp luật chuyên ngành trên các lĩnh vực đã quy định rất cụ thể, rõ ràng về các dạng quyền hạn của HĐND trong việc ban hành nghị quyết nhưng trên thực tế do chưa phân biệt được các dạng quyền hạn này nên việc ban hành nghị quyết của HĐND trong thời gian qua ở một số địa phương đã xác định không đúng về các dạng quyền hạn. Có những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của mình thì HĐND lại ban hành nghị quyết dưới dạng thông qua (như thông qua dự toán thu, chi ngân sách, thông qua chương trình xây dựng nghị quyết và hoạt động giám sát…). Ngược lại, có những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của UBND thì lại ban hành nghị quyết dưới dạng quyết định. Chẳng hạn như, theo quy định tại khoản 3 Điều 56 Luật Đất đai năm 2003 trước đây, thì UBND cấp tỉnh xây dựng giá đất cụ thể tại địa phương trình HĐND cùng cấp cho ý kiến trước khi quyết định. Với quy định này thì HĐND cấp tỉnh chỉ có thẩm quyền cho ý kiến (tức là thông qua phương án giá đất mà UBND xin ý kiến), còn thẩm quyền quyết định về giá đất thuộc về UBND cấp tỉnh. Tuy nhiên, hiện nay Nghị quyết của HĐND nhiều tỉnh, thành lại ban hành dưới dạng quy định giá đất rồi giao cho UBND triển khai thực hiện. Thậm chí về cùng một vấn đề nhưng nghị quyết của HĐND tỉnh này thì “thông qua” nghị quyết của HĐND tỉnh khác thì lại “quy định”. Chẳng hạn như triển khai thi hành Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 (về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã), mặc dù Nghị định này đã quy định cụ thể là HĐND cấp tỉnh quy định về chức danh, mức phụ cấp của từng chức danh, nhưng có tỉnh thì ban hành nghị quyết “quy định số lượng, chức danh…”, có tỉnh thì ban hành nghị quyết “thông qua số lượng, chức danh…”. Thực tế có những địa phương hầu hết các nghị quyết ban hành đều theo dạng “thông qua”. Sở dĩ như vậy là do đã có sự nhầm lẫn, đồng nhất khái niệm thông qua với hàm nghĩa là một dạng quyền hạn (tính từ) với khái niệm thông qua dùng để chỉ một hoạt động tại kỳ họp (động từ). Việc chưa xác định rõ các dạng quyền hạn của HĐND là một trong những yếu tố dẫn đến việc xác định không chính xác văn bản QPPL và văn bản cá biệt.

2. Việc xác định văn bản quy phạm pháp luật

Trải qua 10 năm triển khai thực hiện, Luật năm 2004 đã góp phần quan trọng để HĐND, UBND các cấp xây dựng hành lang pháp lý nhằm triển khai thực hiện Hiến pháp và pháp luật, quyết định các biện pháp để phát triển kinh tế – xã hội tại địa phương. Việc xây dựng, ban hành các văn bản QPPL ngày càng bài bản, nền nếp, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính khả thi. Tuy vậy, quá trình triển khai thực hiện Luật này vẫn còn có sự nhận thức chưa thống nhất về việc xác định, phân biệt giữa các nghị quyết QPPL và nghị quyết cá biệt.

Hiện nay có không ít người quan niệm rằng, HĐND là cơ quan có thẩm quyền quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương, nên tất cả các văn bản do HĐND ban hành đều là nghị quyết QPPL. Bên cạnh đó, cũng có những người cho rằng, để xác định văn bản QPPL hay văn bản cá biệt thì chỉ cần xem ở số, ký hiệu của nghị quyết, nếu số văn bản có số đi kèm với năm ban hành (như: Số:…/200…/NQ-HĐND) và văn bản đó được ban hành theo trình tự, thủ tục mà Luật năm 2004 quy định thì đó là văn bản quy phạm. Nhận thức như vậy là chưa đúng, thực tế thì có những văn bản của HĐND, UBND ban hành chỉ để giải quyết một vụ việc cụ thể mà không tạo ra các quy tắc xử sự chung, nên không phải tất cả các nghị quyết của HĐND ban hành đều là văn bản quy phạm. Mặt khác, không thể bắt đầu từ yếu tố hình thức của văn bản để xác định mà phải xem xét về mặt nội dung văn bản có chứa các quy phạm pháp luật hay không. Việc xác định một văn bản có phải là văn bản QPPL hay không sau khi đã ban hành chỉ dành cho các chủ thể thực hiện. Đối với các cơ quan soạn thảo, cơ quan ban hành văn bản phải xác định điều này ngay từ khi lập kế hoạch ban hành và từ khi bắt đầu soạn thảo dự thảo văn bản, từ đó để bảo đảm tuân thủ quy định về hình thức và trình tự, thủ tục ban hành theo quy định của Luật năm 2004.

Tại Điều 2 Nghị định số 91/2006/NĐ-CP (ngày 06/9/2006 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật năm 2004) sau khi quy định các dấu hiệu để xác định văn bản QPPL đã liệt kê một số loại nghị quyết không phải là văn bản QPPL, gồm: Nghị quyết miễn nhiệm, bãi nhiệm đại biểu HĐND và các chức vụ khác; nghị quyết phê chuẩn kết quả bầu cử đại biểu HĐND và bầu các chức vụ khác; nghị quyết về phê chuẩn cơ cấu cơ quan chuyên môn thuộc UBND; nghị quyết về thành lập, giải thể một số cơ quan chuyên môn thuộc UBND; nghị quyết về chương xây dựng nghị quyết của HĐND; nghị quyết về quyết định tổng biên chế ở địa phương… Tuy nhiên, điều đáng nói là Nghị định này đã nêu cụ thể như vậy, nhưng trên thực tế tại một số địa phương đã ban hành các loại nghị quyết nêu trên theo hình thức văn bản QPPL.

Vấn đề tiếp là, ngoài các nghị quyết về các lĩnh vực đã nêu trong Nghị định số 91/2006/NĐ-CP như viện dẫn ở trên, còn có những nghị quyết nào thuộc loại nghị quyết cá biệt nữa hay không? Từ thực tế cho thấy, các nghị quyết mà HĐND các cấp ban hành nhiều nhất là: Các nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội; nghị quyết về dự toán, thu chi ngân sách; nghị quyết phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách; nghị quyết phân bổ vốn đầu tư phát triển hàng năm; các nghị quyết cho ý kiến về việc lập kế hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của các cấp hành chính, quy hoạch quản lý, phát triển ngành, lĩnh vực; nghị quyết cho ý kiến về giá đất trước khi UBND cấp tỉnh ban hành quyết định. Ngoài ra, còn có các loại nghị quyết khác thường gặp như: nghị quyết về việc thông qua đề án đề nghị điều chỉnh (sáp nhập, chia tách, điều chỉnh) địa giới hành chính; nghị quyết thông qua đề án đề nghị công nhận phân loại đô thị; nghị quyết thông qua đề án đề nghị thành lập đơn vị hành chính; nghị quyết phân loại đơn vị hành chính… Vậy, các loại nghị quyết nêu trên là văn bản quy phạm pháp luật hay văn bản cá biệt? Hiện nay, hầu hết các tỉnh, thành đều ban hành theo hình thức văn bản quy phạm, theo đó, Sở Tư pháp thực hiện thẩm định dự thảo các nghị quyết này; tuy nhiên cũng có một vài tỉnh, thành ban hành theo hình thức văn bản cá biệt. Cơ sở để những người làm công tác tham mưu soạn thảo, ban hành nghị quyết cho rằng các nghị quyết nêu trên là văn bản QPPL là: (i) Vì các nghị quyết này không được nêu tại khoản 2 Điều 2 Nghị định số 91/2006/NĐ-CP (xác định theo phương pháp loại trừ); (ii) Vì các nghị quyết đó đều có hiệu lực trong phạm vi cả địa phương và thực hiện trong một thời gian dài.

Theo chúng tôi, việc nhận thức như vậy là không phù hợp về mặt lý luận và chưa đúng với tinh thần quy định của Luật năm 2004, cụ thể:

Thứ nhất, tại khoản 2 Điều 2 của Nghị định 91/2006/NĐ-CP chỉ mang tính bổ trợ cho khoản 1: Các văn bản do HĐND, UBND ban hành nhưng không có đầy đủ các yếu tố của văn bản QPPL theo quy định tại khoản 1 thì không phải là văn bản QPPL và nêu một số loại để làm ví dụ chứ không phải liệt kê hết tất cả các loại văn bản cá biệt. Việc xác định văn bản QPPL phải căn cứ vào 4 yếu tố đặc trưng quy định tại khoản 1, trong đó yếu tố quan trọng nhất là văn bản phải “có chứa quy tắc xử sự chung (quy phạm pháp luật), được áp dụng nhiều lần đối với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng…”, đó là khuôn mẫu cho hành vi xử sự của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật. Bất kỳ một QPPL nào đều có cấu trúc chung bao gồm ba bộ phận cấu thành: Giả định, quy định và chế tài. Phần giả định: Trong hoàn cảnh nào, khi nào thì áp dụng quy phạm pháp luật đó; phần quy định: Khi gặp tình huống đó các chủ thể phải làm gì, được làm gì hoặc không được làm gì; phần chế tài: Hậu quả bất lợi (phải chịu một trong các loại trách nhiệm pháp lý) đối với những chủ thể không thực hiện, thực hiện không đúng yêu cầu trong phần quy định của quy phạm.

Thứ hai, một trong những đặc trưng của QPPL là được áp dụng nhiều lần. Áp dụng nhiều lần hoàn toàn khác với áp dụng trong một thời gian dài. Quy tắc xử sự được áp dụng nhiều lần là khi chủ thể này ở trong tình huống (giả định) đó thì phải thực hiện cách xử sự đã quy định, khi chủ thể khác ở vào tình huống đó cũng phải thực hiện như vậy. Tức là áp dụng mỗi lần đối với một chủ thể và nhiều lần là ở các chủ thể khác nhau (cũng có thể cùng một chủ thể nhưng ở những lần khác nhau). Chẳng hạn như khi anh A tham gia giao thông phải đi bên phải thì khi chị B tham gia giao thông cũng phải đi bên phải. Hoặc như khi ông C làm trưởng thôn được Nhà nước trả phụ cấp bằng 0,9 mức lương tối thiếu, sau đó ông D thay ông C làm trưởng thôn thì ông D cũng được hưởng phụ cấp 0,9. Còn việc nghị quyết giao dự toán thu ngân sách cho đơn vị A thu ngân sách trong năm là 2 tỷ thì đây là nhiệm vụ cụ thể giao cho một chủ thể phải thực hiện trong một thời gian dài chứ không phải là một quy phạm thực hiện nhiều lần đối với mọi chủ thể hay một nhóm chủ thể. Mặt khác, khi chủ thể này nộp đủ số tiền vào ngân sách hoặc nộp không đủ nhưng đã hết thời hạn của năm ngân sách giao dự toán thu thì mệnh lệnh này hết hiệu lực mà không áp dụng lại cho chủ thể khác. Tương tự, nghị quyết về dự toán chi ngân sách cũng vậy.

Mỗi văn bản QPPL tập hợp bao gồm nhiều QPPL (quy tắc xử sự) trong đó, thực tế cho thấy, không có văn bản QPPL nào chỉ tồn tại chung một QPPL. Đối chiếu với các loại nghị quyết nêu trên thì đối với nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội hàng năm, năm năm, mười năm đều có nội dung gồm các nhiệm vụ, các chỉ tiêu, kế hoạch mang tính định hướng, các giải pháp để đạt được mục tiêu và do nhiều chủ thể đồng thời cùng thực hiện. Việc triển khai thực hiện các nội dung đó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Nếu qua thực hiện không đạt chỉ tiêu hoặc vượt chỉ tiêu (không đúng với nội dung nghị quyết) thì không vì vậy mà các chủ thể thực hiện phải chịu chế tài. Đối với nghị quyết về dự toán thu, chi ngân sách chỉ mang tính chất dự kiến. Kết quả thực hiện có thể thu không đạt hoặc thu vượt; chi không hết ngân sách dự kiến phân bổ hoặc chi vượt nên phải cấp kinh phí bổ sung từ nguồn ngân sách dự phòng. Do đó, các nghị quyết này thuộc nhóm văn bản chủ đạo, mang tính chất đề ra chủ trương, đường lối chứ không phải là văn bản QPPL. Đối với nghị quyết về phê chuẩn quyết toán ngân sách hàng năm là việc HĐND kiểm tra lại (hậu kiểm) việc thực hiện chi ngân sách, tức là phê chuẩn, đồng ý với kết quả thực hiện chứ không đặt ra các quy tắc xử sự để thực hiện sau khi ban hành nghị quyết. Theo quy định của các văn bản luật chuyên ngành trên các lĩnh vực như: Luật Đất đai, Luật Khoáng sản, Luật Xây dựng, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Du lịch, Luật Điện lực… thì sau khi tổ chức lập quy hoạch UBND phải trình HĐND cùng cấp thông qua (cho ý kiến) trước khi trình UBND cấp trên, bộ quản lý ngành, lĩnh vực hoặc Chính phủ ban hành quyết định phê duyệt quy hoạch theo thẩm quyền. Các nghị quyết loại này chỉ nêu các ý kiến nhất trí với nội dung quy hoạch hoặc cho ý kiến mang tính định hướng chứ không đặt ra quy phạm nào. Theo quy định của Nghị định số 91/2006/NĐ-CP thì ngay cả các quyết định phê duyệt quy hoạch của cơ quan có thẩm quyền (Chính phủ hoặc UBND cấp trên của cấp lập quy hoạch) cũng không phải là quyết định QPPL. Các nghị quyết về thông qua đề án đề nghị điều chỉnh địa giới hành chính, đề nghị công nhận loại đô thị hoàn toàn không tạo ra quy tắc xử sự (quy phạm) mà chỉ thể hiện sự nhất trí với việc lập hồ sơ (đề án) để trình cơ quan có thẩm quyền quyết định việc điều chỉnh địa giới hành chính, việc công nhận loại đô thị. Ở đây đơn thuần chỉ là một công đoạn trong chuỗi hoạt động áp dụng pháp luật (lập, thông qua, trình cơ quan có thẩm quyền quyết định) trên cơ sở căn cứ vào các tiêu chí đã quy định trong các nghị định để áp dụng cho một công việc để thực hiện một nhiệm vụ, nhằm đạt được một mục đích cụ thể. Như vậy, các loại nghị quyết nêu trên không chứa đựng các QPPL cụ thể nào nên không hội đủ yếu tố để được coi là văn bản QPPL.

3. HĐND và UBND cùng ban hành văn bản quy định

Thực tiễn cho thấy, phần lớn các nghị quyết QPPL của HĐND được ban hành là để quy định cụ thể một số nội dung được giao trong các luật, nghị định của Chính phủ, các thông tư của các bộ, ngành cho phù hợp với điều kiện của địa phương. Nội dung vấn đề phân cấp cho HĐND quy định cụ thể thường không nhiều, nội dung không phức tạp, do đó nội dung các nghị quyết của HĐND thường rất cụ thể, rõ ràng mà không cần phải ban hành văn bản hướng dẫn hoặc quy định cụ thể thêm. Tuy vậy, một thực tế hiện nay ở các địa phương, ngoài các vấn đề được pháp luật phân cấp cho UBND ban hành quyết định QPPL thì sau khi HĐND ban hành các nghị quyết QPPL theo thẩm quyền phân cấp, UBND lại tiếp tục ban hành quyết định quy định lại các nội dung mà nghị quyết của HĐND đã quy định. Điều này dẫn đến một thực trạng là: Thứ nhất, các nghị quyết QPPL của HĐND không được áp dụng trực tiếp mà chỉ làm căn cứ pháp lý để UBND ban hành quyết định. Mặc dù trong nghị quyết của HĐND quy định nghị quyết có hiệu lực thi hành sau 10 ngày kể từ ngày ban hành, tuy nhiên do không được áp dụng trực tiếp nên thực tế các quy định trong nghị quyết của HĐND chỉ được thực hiện khi quyết định của UBND có hiệu lực. Các cơ quan chuyên môn của UBND và chính quyền cấp dưới chỉ quan tâm đến quyết định của UBND mà ít khi để ý đến nghị quyết của HĐND dẫn đến nghị quyết của HĐND chỉ mang tính hình thức. Thứ hai, theo quy định thì cả nghị quyết QPPL của HĐND và quyết định QPPL của UBND đều phải được cơ quan tư pháp cùng cấp thẩm định trước khi ban hành. Như vậy, với thực trạng cùng một vấn đề được cấp trên phân cấp cho HĐND quy định cụ thể, nhưng UBND lại tiếp tục ban hành văn bản QPPL với cùng nội dung dẫn đến cơ quan tư pháp thực hiện thẩm định hai lần về cùng một vấn đề.

Sở dĩ có thực trạng này là do nhiều người cho rằng, Luật năm 2004 quy định: UBND ban hành văn bản QPPL để thi hành nghị quyết của HĐND cùng cấp nên sau khi HĐND ban hành nghị quyết thì UBND phải ban hành quyết định để thi hành. Theo tác giả, nhận thức như vậy là không đúng tinh thần quy định của luật. Tại khoản 2 Điều 2 Luật năm 2004 quy định: “Ủy ban nhân dân ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong những trường hợp sau đây: a) Để thi hành Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp về phát triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh”. Như vậy, với quy định này thì chỉ những nghị quyết của HĐND về kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, tức là chỉ những nghị quyết là văn bản chủ đạo đề ra chủ trương, đường lối phát triển kinh tế – xã hội mới cần đến việc UBND ban hành quyết định để quy định các quy tắc, quy phạm, biện pháp triển khai thực hiện. Các nghị quyết quy phạm pháp luật đã quy định cụ thể, rõ ràng thì UBND chỉ cần ban hành công văn chỉ đạo các cấp, các ngành triển khai thực hiện mà không cần phải ban hành quyết định QPPL quy định lại các nội dung mà nghị quyết đã quy định. Việc làm đó vừa sai thẩm quyền vừa gây lãng phí về nhân lực, vật lực không cần thiết.

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong công tác ban hành văn bản QPPL của HĐND và UBND trong thời gian qua một phần xuất phát từ những bất cập trong các quy định của Luật năm 2004, nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là ở khâu nhận thức và thực thi pháp luật. Hiện nay, không ít cán bộ, công chức còn làm việc bằng kinh nghiệm theo lối rập khuôn máy móc “xưa bày nay làm”, ít chịu khó tìm tòi, nghiên cứu, phát hiện những sai sót, những điều bất hợp lý để thay đổi. Ngược lại, cũng có những cán bộ, công chức được đào tạo bài bản, chịu khó tìm tòi nghiên cứu nhận thấy được những bất cập, hạn chế đó nhưng không có quyền, không mạnh dạn kiến nghị thay đổi.

Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015 đã khắc phục những bất cập, hạn chế của Luật năm 2004, nhất là quy định về thẩm quyền ban hành, nội dung văn bản QPPL của HĐND và UBND. Để Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015 đi vào cuộc sống, cần kịp thời ban hành các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành; đẩy mạnh phổ biến các nội dung mới của luật, tăng cường tập huấn nghiệp vụ về lập kế hoạch, soạn thảo, ban hành theo các quy định mới của luật cho đội ngũ cán bộ, công chức của chính quyền địa phương nhằm thay đổi một cách căn bản nhận thức và lề lối làm việc đã ăn sâu bám rễ từ lâu nay như đã nêu trên. Đây là yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND.

ThS. Nguyễn Thị Thúy Hằng

Trường Chính trị tỉnh Lạng Sơn

ThS. Phạm Thái Quý

Văn phòng Đoàn ĐBQH & HĐND tỉnh Quảng Bình

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thu hồi tài sản tham nhũng theo Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay – Một số vấn đề đặt ra

26/11/2015

1. Một số quy định về thu hồi tài sản trong Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng[1]

Chế định thu hồi tài sản tham nhũng được quy định tại Chương V của Công ước từ Điều 51 đến Điều 59[2]. Các điều khoản này quy định về vấn đề thu hồi tài sản tham nhũng và hợp tác quốc tế trong thu hồi tài sản tham nhũng, bao gồm 03 nhóm quy định chính: Thứ nhất, nhóm những quy định chung mang tính chất nguyên tắc về thu hồi tài sản tham nhũng; Thứ hai, nhóm những quy định chung về phòng ngừa, phát hiện việc chuyển tài sản tham nhũng; Thứ ba, nhóm những quy định chung về các biện pháp thu hồi tài sản trực tiếp, cơ chế và điều kiện hợp tác quốc tế trong tịch thu, trả lại và định đoạt tài sản tham nhũng.

1.1. Phòng ngừa và phát hiện việc chuyển tài sản do phạm tội mà có

Điều 52 của Công ước yêu cầu các quốc gia cần áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm yêu cầu các tổ chức tài chính tăng cường nhận dạng, kiểm soát kỹ các tài khoản đáng ngờ, nhân danh hoặc có liên quan đến những cá nhân đang hoặc đã giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước hoặc những người có liên quan của họ. Yêu cầu của Điều này dẫn đến yêu cầu về lập pháp đó là các quốc gia phải xem xét thiết lập hệ thống công khai tài chính đối với nhóm công chức nhất định, trong đó có việc yêu cầu công chức báo cáo về sự liên quan của mình đối với tài khoản ở nước ngoài, các biện pháp công khai tài chính phải bao gồm chế tài đối với hành vi không chấp hành; cho phép các cơ quan có thẩm quyền chia sẻ những thông tin liên quan với các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia thành viên khác khi cần để điều tra, khiếu kiện và thu hồi tài sản có được do phạm các tội tham nhũng; có cơ chế yêu cầu các công chức có lợi ích hoặc chịu trách nhiệm kiểm soát một tài khoản đó, duy trì hồ sơ thích hợp liên quan đến các khoản đó và quy định chế tài đối với việc không thực hiện các yêu cầunày.

Điều 52 yêu cầu các quốc gia thành viên của Công ước phải đảm bảo các cơ chế thực thi đó là: (1) Yêu cầu xác minh danh tính khách hàng; (2) Xác định chủ sở hữu hưởng lợi từ các tài khoản có giá trị cao; (3) Tăng cường giám sát đối với các tài khoản được nắm giữ bởi những đối tượng có liên quan đến thực hiện các chức năng công; (4) Yêu cầu về giám sát tăng cường đối với cả tổ chức tài chính trong nước; (5) Yêu cầu về lưu giữ hồ sơ; (6) Ngăn chặn việc thành lập và thiết lập mối quan hệ trao đổi thông tin với các ngân hàng vỏ bọc; (7) Hệ thống công khai tài chính đối với các công chức.

1.2. Các biện pháp thu hồi tài sản trực tiếp

Theo Điều 53 của Công ước, có 03 biện pháp thu hồi tài sản trực tiếp, cụ thể như sau:

Thứ nhất, cho phép quốc gia thành viên khác khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án để xác định quyền hay quyền sở hữu đối với tài sản có được qua việc thực hiện các tội tham nhũng (điểm a)

Với biện pháp thu hồi tài sản trực tiếp này, các quốc gia thành viên cần phải có một cơ chế pháp lý trong nước cho phép quốc gia thành viên khác được khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án của nước mình để thu hồi tài sản của họ hoặc phải có cơ chế cho phép quốc gia thành viên khác can thiệp hoặc tham gia, có mặt trong quá trình tố tụng trong nước mà mình đang tiến hành để xem xét vụ kiện yêu cầu bồi thường của các quốc gia thành viên đó. Thuận lợi của việc truy tố bị án dân sự bao gồm khả năng quy định trách nhiệm pháp lý trên cơ sở các chuẩn mực dân sự mà không cần có bản án hình sự đối với người sở hữu hay chủ tài sản, và tìm kiếm tài sản trong các trường hợp không có bản án hình sự khi có đủ chứng cứ đáp ứng các chuẩn mực dân sự mà không cần có bản án hình sự đối với người sở hữu hay chủ tài sản, và tìm kiếm tài sản trong các trường hợp không có bản án hình sự khi có đủ chứng cứ đáp ứng các chuẩn mực dân sự cho thấy rằng tài sản là có được một cách phi pháp. Theo đánh giá thực tiễn thực thi cho thấy phương án kiện dân sự để đòi bồi thường, thường là dựa trên tài sản hoặc lỗi khi thực thi pháp luật. Một quốc gia có thể yêu cầu quyền sở hữu đối với tài sản đã bị lấy đi một cách bất hợp pháp hoặc yêu cầu bồi thường cho những thiệt hại đã bị gây ra bởi tham nhũng và những sai trái trong quản lý. Có thể sử dụng biện pháp này khi không thể tiến hành truy tố hình sự (trong trường hợp bị cáo chết hoặc vắng mặt). Việc thực hiện yêu cầu này có liên quan chặt chẽ đến quy định tại khoản 1, Điều 43 của Công ước về việc yêu cầu các quốc gia thành viên xem xét hợp tác trong điều tra và tố tụng dân sự và hành chính liên quan đến tham nhũng (thông qua tương trợ tư pháp về dân sự)

Thứ hai, cho phép Tòa án của mình yêu cầu người thực hiện tội phạm được quy định trong Công ước này phải bồi thường, đền bù cho quốc gia thành viên khác đã chịu thiệt hại từ tội phạm đó (điểm b)

Quy định này yêu cầu các quốc gia thành viên phải thực hiện các biện pháp cần thiết cho phép Tòa án của mình ra lệnh cho người thực hiện tội phạm tham nhũng theo quy định của Công ước phải bồi thường, đền bù cho quốc gia thành viên khác đã chịu thiệt hại từ tội phạm đó. Các quốc gia khi thực thi có thể phải rà soát pháp luật hiện hành liên quan đến việc bồi thường thiệt hại cho nạn nhân hoặc các quyết định về bồi thường để xem pháp luật trong nước đã điều chỉnh tình huống này đầy đủ theo yêu cầu của Công ước chưa. Đồng thời, để thực hiện điều này, các quốc gia thành viên phải có cơ chế cho phép các quốc gia thành viên khác được đứng trước tòa và thông báo về các thiệt hại.

Thứ ba, cho phép Tòa án hay cac cơ quan chức năng khác của mình khi ra quyết định tịch thu công nhận quốc gia thành viên có yêu cầu là chủ sở hữu hợp pháp của tài sản có được do phạm tội tham nhũng (điểm c)

Quy định này của Công ước đặt ra yêu cầu đối với các quốc gia thành viên phải có cơ chế cho phép Tòa án hay các cơ quan có thẩm quyền của mình, khi ra quyết định tịch thu, công nhận tuyên bố của quốc gia thành viên khác về vấn đề chủ sở hữu hợp pháp đối với tài sản có được do phạm tội theo quy định của Công ước. Để thực hiện quy định này, các quốc gia cần ra soát pháp luật trong nước về vấn đề tài sản có được do phạm tội để xem đã có cơ chế công nhận các tuyên bố như vậy của các quốc gia khác hay chưa.

Như vậy, có thể thấy rõ, việc thực hiện các biện pháp trên của Công ước có thể yêu cầu phải ban hành hay sửa đổi pháp luật quy định về thủ tục tố tụng dân sự, hành chính hay các quy định về quyền tài phán đặt ra các yêu cầu bắt buộc về nghĩa vụ phải thực hiện các biện pháp lập pháp hoặc các biện pháp khác.

1.3. Cơ chế thu hồi tài sản thông qua hợp tác quốc tế trong tiến hành tịch thu

Điều 54 của Công ước đòi hỏi các quốc gia thành viên phải quy định các thủ tục cần thiết để đảm bảo việc tịch thu tài sản tham nhũng ở nước ngoài cũng như việc có thể áp dụng các biện pháp tạm thời nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành thủ tục tịch thu hoặc có những biện pháp phòng ngừa thông qua hợp tác quốc tế trong việc tịch thu, theo đó các quốc gia thành viên phải cung cấp tương trợ tư pháp liên quan đến tài sản tham nhũng có được bằng cách: (i) Cho phép các cơ quan có thẩm quyền công nhận hiệu lực thi hành đối với lệnh tịch thu do Tòa án của quốc gia thành viên khác đưa ra; (ii) Cho phép các cơ quan có thẩm quyền, trong phạm vi quyền tài phán, ra lệnh tịch thu tài sản có nguồn gốc nước ngoài theo phán quyết đối với tội rửa tiền hoặc các tội phạm khác thuộc thẩm quyền xét xử của cơ quan này hoặc theo các thủ tục khác được quy định trong pháp luật nước mình; (iii) Cho phép các cơ quan có thẩm quyền phong tỏa hoặc tạm giữ tài sản dựa trên một lệnh phong tỏa hoặc tạm giữ được ban hành bởi cơ quan có thẩm quyền của quốc gia thành viên có yêu cầu đối với tài sản thuộc diện phải tịch thu; (iv) Cho phép các cơ quan có thẩm quyền của mình phong tỏa hoặc tạm giữ tài sản khi có yêu cầu trong trường hợp có đủ căn cứ để thực hiện những hành động như vậy đối với tài sản bị tịch thu; (v) Tịch thu không kết án hình sự.

1.4. Trả lại và xử lý tài sản

Điều 57 Công ước quy định về việc xử lý tài sản bị tịch thu. Theo khoản 1 Điều 57 của Công ước, việc xử lý tài sản có liên quan đến tội phạm tham nhũng đã bị tịch thu theo Điều 31 hoặc Điều 55, bao gồm cả việc trả lại chủ sở hữu hợp pháp, sẽ do quốc gia thành viên đã tiến hành tịch thu tài sản đó thực hiện theo quy định của Công ước và pháp luật quốc gia đó.

Khoản 2 Điều 57 của Công ước quy định các quốc gia thành viên áp dụng các biện pháp lập pháp hoặc các biện pháp cần thiết khác để cho phép cơ quan có thẩm quyền của mình trả lại tài sản bị tịch thu khi hành động theo yêu cầu của quốc gia thành viên khác.

Việc trả lại tài sản cho nước gốc theo quy định tại Điều 57 của Công ước là một vấn đề rất nhạy cảm và phức tạp xét trên nhiều khía cạnh: Kỹ thuật, kinh tế, chính tri, xã hội…Vì vậy, Công ước khuyến nghị các quốc gia thành viên dành “sự quan tâm đặc biệt” nhằm đi đến các thỏa thuận hoặc dàn xếp đối với từng vụ việc cụ thể để đưa ra quyết định xử lý cuối cùng đối với tài sản bị tịch thu.

1.5. Hợp tác đặc biệt giữa các quốc gia thành viên

Điều 56 của Công ước quy định các quốc gia thành viên phải nỗ lực để có thể chuyển cho quốc gia thành viên khác thông tin về tài sản có được do phạm tội theo quy định trong Công ước mà không cần phải có đề nghị trước, đồng thời quốc gia thành viên phải hợp tác với nhau để phòng chống việc chuyển tài sản do phạm các tội tham nhũng và tăng cường việc thu hồi các tài sản này. Để đạt được mục đích này, các quốc gia thành viên phải xem xét việc thành lập một đơn vị tài chính chịu trách nhiệm nhận, phân tích và chuyển cho các cơ quan có thẩm quyền báo cáo về các giao dịch tài chính đáng ngờ (Điều 58). Điều 59 Chương V quy định: “Các quốc gia thành viên phải xem xét việc ký kết các thỏa thuận hoặc dàn xếp song phương hoặc đa phương nhằm nâng cao hiệu quả của hợp tác quốc tế theo quy định tại Chương này của Công ước”.

2. Thực trạng thu hồi tài sản tham nhũng ở Việt Nam thời gian qua

Những đối tượng phạm tội tham nhũng thường là những người có chức vụ, vì thế số tiền/tài sản do tham nhũng khá lớn. Tài sản do tham nhũng mà có thực chất là tiền của Nhà nước, của nhân dân, vì vậy, ngoài việc xử lý nghiêm đối với tội phạm tham nhũng thì vấn đề thu hồi tài sản tham nhũng, tránh thất thoát cho Nhà nước cũng là vấn đề rất quan trọng.

Năm 2011, hậu quả do hành vi tham nhũng gây ra có tổng giá trị lên đến trên 11 ngàn tỷ đồng, tuy nhiên việc thu hồi đạt tỉ lệ rất thấp: 300 tỉ đồng (đạt 2,6%). Con số này thực sự đáng lo ngại[3]. Theo Báo cáo Công tác phòng, chống tham nhũng năm 2014 của Chính phủ trình Quốc hội trong Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII, qua thanh tra, cơ quan có thẩm quyền đã phát hiện 54 vụ tham nhũng với số tiền 68,5 tỷ đồng, đã thu hồi được 46,9 tỷ đồng, đạt 68,5% tăng 18,3% so với năm 2013. Lực lượng cảnh sát điều tra các cấp đã thụ lý 415 vụ án về tham nhũng với số tiền thiệt hại trên 6.740 tỷ đồng, đã thu hồi nộp ngân sách nhà nước trên 1.500 tỷ đồng, đạt 22,3% tăng 14,1% so với năm 2013[4]. Số liệu thống kê cho thấy, tỷ lệ thu hồi tham nhũng trên tổng số tài sản bị chiếm đoạt do hành vi tham nhũng gây ra còn chưa đáp ứng yêu cầu. Một số trường hợp cụ thể dưới đây là minh chứng tiêu biểu[5]:

(i) Trường hợpcủa Nguyễn Đức Kiên (“bầu” Kiên), theo bản án ngày 15/12/2014 của TAND tối cao và Bản án ngày 9/6/2014 của TAND TP Hà Nội, tổng số tiền phải thu hồi là trên 100,146 tỷ đồng. Tuy nhiên, đến nay mới thi hành được trên 21,111 tỷ đồng. Số tiền còn phải thi hành để truy nộp ngân sách Nhà nước là trên 78,934 tỷ đồng.

(ii) Trường hợp của Huỳnh Thị Huyền Như, theo bản án ngày 7/1/2015 của Tòa phúc thẩm TAND Tối cao tại TP HCM thì Huỳnh Thị Huyền Như phải thi hành tổng số tiền là gần 14 nghìn tỷ đồng. Trong đó, thu hồi cho ngân sách nhà nước trên 11.083,726 tỷ đồng, kết quả đã thi hành được trên 162,672 tỷ đồng, số tiền còn phải thi hành là 10.921,53 tỷ đồng; Thu hồi cho tổ chức, cá nhân (ba ngân hàng, bốn tổ chức, ba cá nhân) với tổng số tiền phải thi hành là trên 2.907,858 tỷ đồng, trong đó đã ra quyết định thi hành án trên 2.668,780 tỷ đồng. Kết quả, mới thi hành được 15 tỷ đồng.

(iii) Trường hợp Công ty đầu tư tài chính II (Vũ Quốc Hảo), Cục Thi hành án dân sự TP HCM đang tổ chức thi hành bốn bản án của Tòa phúc thẩm TAND Tối cao tại TP HCM, tổng số tiền phải thi hành là hơn 621,815 tỷ đồng. Trong đó, thu hồi cho ngân sách nhà nước tổng số tiền phải thi hành là trên 983 triệu đồng. Kết quả, đã thi hành trên 44 triệu đồng, số tiền còn phải thi hành là hơn 939 triệu đồng; Thu hồi cho tổ chức tổng số tiền phải thi hành là 620,831 tỷ đồng. Kết quả, đã thi hành được trên 69,231 tỷ đồng.

(iv) Trường hợpNgân hàng phát triển Đắk Lắk (Vũ Việt Hùng), theo bản án hình sự sơ thẩm ngày 11-13/3/2014 của TAND tỉnh Đắk Nông, bản án hình sự phúc thẩm số ngày 29/9/2014 của Toà phúc thẩm TAND tối cao tại Đà Nẵng, tổng số tiền các đương sự phải thi hành là 962,574 tỷ đồng. Trong đó, thu hồi cho ngân sách nhà nước tổng số tiền phải thi hành là trên 20,910 tỷ đồng. Kết quả, đã thi hành được trên 4,644 tỷ đồng, số tiền còn phải thi hành là 17,263 tỷ đồng và sung công năm căn nhà của Vũ Việt Hùng. Trả lại tài sản cho tổ chức, cá nhân, tổng số tiền phải thi hành là 581,638 tỷ đồng. Kết quả, đã thi hành được 56,638 tỷ đồng.

Thực trạng trên xuất phát từ một số nguyên nhân sau:

Một là, hiệu quả thi hành luật còn thấp. Mặc dù đối chiếu với Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng, Việt Nam đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật có liên quan như: Luật Tương trợ tư pháp, Luật Phòng, chống tham nhũng, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Thi hành án hình sự…Các văn bản pháp luật này tạo cơ sở pháp lý cho việc thu hồi tài sản tham nhũng, tuy nhiên, hiệu quả thi hành các văn bản pháp luật này chưa cao. Vì vậy, số lượng tiền, tài sản bị thất thoát, bị chiếm đoạt trong các vụ việc, vụ án tham nhũng là rất lớn, tỷ lệ thu hồi còn rất nhỏ.

Hai là, một trong những nguyên nhân của việc thu hồi tài sản tham nhũng còn gặp nhiều khó khăn là vì chỉ có thể thực hiện các biện pháp thu hồi tài sản tham nhũng khi có bản án hình sự của Tòa án. Trong khi quá trình điều tra, truy tố, xét xử là một quá trình kéo dài cùng với việc chưa kiểm soát được tài sản, thu nhập của xã hội cũng là “kẽ hở” để tài sản có nguồn gốc tham nhũng dễ dàng bị tẩu tán, không thể thu hồi được.

Ba là, qua thực tiễn đấu tranh phòng, chống tham nhũng cho thấy, đa số các tội phạm tham nhũng là tội phạm có tổ chức. Người phạm tội thường là người có chức vụ, có trình độ chuyên môn cao, vì vậy, việc phạm tội có sự chuẩn bị kỹ càng, thủ đoạn và che dấu tội phạm tinh vi…

Bốn là, các biện pháp ngăn chặn trong giải quyết cac vụ án tham nhũng được áp dụng theo các căn cứ có thẩm quyền chung, không có biện pháp căn cứ riêng; thiếu các biện pháp, thông tin xác minh tài sản hoặc việc áp dụng các biện pháp phong tỏa, kê biên hoặc truy nguyên nguồn gốc tài sản, thu nhập của bị can, bị cáo và các đối tượng có liên quan không được thực hiện một cách kịp thời. Nhiều trường hợp khi phát hiện ra thì tài sản đã bị tẩu tán, chuyển dịch, thậm chí ra nước ngoài khiếu cho quá trình xử lý, thu hồi tài sản không hiệu quả.

Năm là, quá trình xử lý tin báo, tố giác tội phạm thiếu chặt chẽ, trong nhiều trường hợp để tin quá hạn lâu mà không được xử lý đã tạo điều kiện cho tội phạm tham nhũng cố tình che dấu hành vi, tẩu tán tài sản…Điều này dần khiến cho người dân “thờ ơ” với việc tố giác tội phạm tham nhũng

3. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động thu hồi tài sản tham nhũng ở Việt Nam

Thu hồi tài sản tham nhũng và tịch thu tài sản do tham nhũng mà có là hoạt động quan trọng và là thước đo hiệu quả của công tác đấu tranh chống tham nhũng. Tuy nhiên, thực trạng thu hồi tài sản hiện nay cho thấy, bên cạnh số tiền, tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án tham nhũng là rất lớn, gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, của nhân dân; việc thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, tham nhũng còn gặp rất nhiều khó khăn. Tỷ lệ tiền, tài sản thu hồi được rất nhỏ so với tổng số thiệt hại do các đối tượng chiếm đoạt. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực tế thu hồi tài sản tham nhũng đạt tỷ lệ thấp, trong đó nguyên nhân trực tiếp là những hạn chế, vướng mắc về cơ sở pháp lý trong hoạt động thu hồi tài sản tham nhũng, mặc dù Luật Phòng, chống tham nhũng, Bộ luật Hình sự và các luật chuyên ngành khác cũng đã có quy định về vấn đề này, nhưng chưa đầy đủ và rõ ràng. Trên thực tế, Việt Nam đã xác lập những cơ sở nhất định cho việc thực hiện; đã có kinh nghiệm thực tiễn nhất định trong hợp tác quốc tế về thu hồi tài sản tranh chấp có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự và theo một số hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự mà Việt Nam đã ký. Do vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động thu hồi tài sản tham nhũng, việc hoàn thiện pháp luật cần quan tâm đến những giải pháp sau[6]:

Một là, bổ sung các văn bản pháp luật quy định về trách nhiệm của cơ quan quản lý, chủ quản trong việc phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối tượng tẩu tán tài sản. Mặt khác, sửa đổi quy định pháp luật theo hướng khi lượng hình phạt, việc hoàn trả tài sản cần được xem là một tình tiết bắt buộc chứ không phải tình tiết giảm nhẹ hình phạt. Hành vi phạm tội về tham nhũng phải xử lý nghiêm theo khung truy tố, còn việc hoàn trả tài sản tham nhũng là căn cứ giảm nhẹ một phần hình phạt hoặc là căn cứ để giảm án khi chấp hành hình phạt.

Hai là, sửa đổi, bổ sung quy định trong Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự theo hướng đề cao vấn đề thu hồi tài sản tham nhũng. Quy định quá trình điều tra, cơ quan điều tra có trách nhiệm làm rõ tài sản đang ở đâu, tẩu tán ra sao; thực hiện nghiêm, triệt để quy định thu hồi số tài sản này để khắc phục thiệt hại. Cần bổ sung quy định về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác minh tài sản thi hành án dân sự. Quy định rõ trong các vụ án tham nhũng phải cho phép áp dụng biện pháp kê biên tài sản ngay từ khi đủ cơ sở khởi tố một cá nhân nào đó về hành vi tham nhũng để tránh việc “đánh tháo, tẩu tán”.

Ba là, đối với việc kê khai tài khoản ở nước ngoài, cần bổ sung quy định về việc xác định số dư tài khoản ở nước ngoài; bổ sung chế tài giám sát chặt chẽ việc thực hiện kê khai, minh bạch tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai; bổ sung quy định về kiểm soát thu nhập đối với cán bộ, công chức có chức vụ, quyền hạn; nghiên cứu, đề xuất xây dựng quy định kiểm tra, giám sát tài khoản người trong gia đình hoặc cộng sự có liên quan tới cá nhân đang hoặc đã giữ chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước.

Bốn là, khắc phục những bất cập trong hoạt động giám định tư pháp theo vụ việc phục vụ công tác phòng, chống tham nhũng; giúp xác định rõ thiệt hại do tham nhũng.

Năm là, cần quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục hợp tác quốc tế trong việc thực hiện ủy thác hoặc lệnh của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài về xác minh, phong tỏa, thu giữ, tịch thu tài sản tham nhũng có nguồn gốc từ nước ngoài.

Quỳnh Vũ



[1] Phần này được tổng hợp từTài liệu Hội nghị tập huấn kiến thức pháp luật về phòng, chống tham nhũng thuộc Đề án “Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng, chống tham nhũng, Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng trong cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân”.

[2]Điều 51: Những quy định chung; Điều 52: Phòng ngừa và phát hiện việc chuyển tài sản do tham nhũng mà có; Điều 53: Các biện pháp thu hồi tài sản tham nhũng; Điều 54: Các cơ chế thu hồi tài sản tham nhũng thông qua hợp tác quốc tế trong việc tịch thu; Điều 55: Hợp tác quốc tế vì mục đích tịch thu tài sản tham nhũng; Điều 56: Hợp tác đặc biệt; Điều 57: Trả lại và định đoạt tài sản;Điều 58: Đơn vị tình báo tài chính;Điều 59: Thỏa thuận và dàn xếp song phương và đa phương về thu hồi tài sản tham nhũng

[3]Trung Hiếu, Thu hồi tài sản tham nhũng “Nhà nước nắm đằng lưỡi”, đăng tải trên trang web http://www.baomoi.com

[4]Báo cáo Công tác phòng, chống tham nhũng năm 2014 của Chính phủ trình Quốc hội trong Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII

[5]Hoài Thu, Vì sao thu hồi tài sản tham nhũng khó khăn?, đăng tải trên trang web http://www.baogiaothong.vn

[6]TS. Nguyễn Quốc Hiệp, Một số định hướng chiến lược về sửa đổi Luật Phòng, chống tham nhũng của Việt Nam, http://giri.ac.vn/mot-so-dinh-huong-chien-luoc-ve-sua-doi-luat-phong-chong-tham-nhung-cua-viet-nam_t104c2716n2033tn.aspx

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bàn về tội vi phạm quy định cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng

22/01/2016

Trong những năm qua, tình hình tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam đang diễn ra rất phức tạp, với tính chất, quy mô, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt và có chiều hướng ngày càng gia tăng. Đối tượng phạm tội ngày càng đa dạng, bao gồm người Việt Nam và cả người nước ngoài, hoạt động trong quốc gia hoặc xuyên quốc gia với công nghệ cao. Đặc biệt là một số vụ phạm tội lại do chính người trong ngành thực hiện. Người phạm tội thường che giấu hành vi phạm tội, tiêu huỷ chứng cứ, dùng nhiều thủ đoạn để đối phó với các cơ quan quản lý, cơ quan tiến hành tố tụng, đồng thời lợi dụng các mối quan hệ “phức tạp” để tác động, chạy tội, gây khó khăn cho hoạt động tiến hành tố tụng. Do vậy, những người thực hiện hành vi phạm tội phải bị trừng trị nghiêm minh theo quy định của pháp luật để bảo vệ an toàn cho hoạt động tài chính – ngân hàng nói riêng và nền tài chính của quốc gia nói chung.

Trong số những tội danh có liên quan đến hoạt động ngân hàng được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015 thì Tội vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (Điều 206)là điều luật còn nhiều vấn đề cần làm sáng tỏ. Bởi dù đã có sự thay đổi về mặt nhận thức so với Bộ luật Hình sự năm 1999, nhưng quy định mới vẫn chưa giải quyết được những vướng mắc, bất cập đối với ngân hàng cũng như cơ quan hành pháp khi áp dụng nội dung này. Chính vì vậy, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật đã đăng tải bài viết “Bàn về tội vi phạm quy định cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng” trên số định kỳ 64 trang tháng 1/2016.

Uyên Nhi

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quy định của pháp luật về tặng cho tài sản ở một số quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam

24/12/2015

1. Pháp luật về tặng cho tài sản của một số quốc gia trên thế giới

1.1. Về khái niệm tặng cho tài sản

Bộ luật dân sự Pháp quy định việc tặng cho tài sản là một phương thức xác lập quyền sở hữu, việc tặng cho được coi như một chứng thư tương tự như di chúc: “Một người chỉ có thể định đoạt tài sản của mình mà không yêu cầu đền bù bằng cách lập chứng thư tặng cho hoặc di chúc” (Điều 893 Bộ luật Dân sự Pháp). Một người đã lập chứng thư tặng cho thì không còn có cơ hội sửa đổi chứng thư đó: “Chứng thư tặng cho là văn bản theo đó bên tặng cho từ bỏ ngay lập tức và vĩnh viễn tài sản tặng cho cho bên được tặng và bên được tặng cho đồng ý nhận” (Điều 894 Bộ luật Dân sự Pháp). Quy định này của Bộ luật Dân sự Pháp khẳng định tặng cho là một giao dịch mang tính chất hợp đồng, nó được thể hiện ý chí của hai bên, bên tặng cho “đoạn tuyệt” với tài sản của mình, bên được tặng cho đồng ý nhận tài sản đó. Như vậy, việc tặng cho tài sản được Bộ luật Dân sự Pháp quy định bắt buộc phải lập thành văn bản, nên tính chất của hợp đồng tặng cho không bao giờ là hợp đồng thực tế, mà luôn luôn là hình thức hợp đồng ưng thuận.

Bộ luật Dân sự Nhật Bản xác định rõ việc tặng cho tài sản là một loại hợp đồng, hợp đồng tặng cho được ký kết thể hiện ý chí của bên tặng cho chuyển giao quyền sở hữu tài sản mà không lấy một khoản tiền nào của bên được tặng cho và được sự đồng ý của bên đó:

“Hợp đồng có hiệu lực, khi một bên tuyên bố chuyển giao không hoàn lại tài sản của mình cho bên kia và bên kia đồng ý nhận nó” (Điều 549 Bộ luật Dân sự Nhật Bản). Đây là một loại hợp đồng đặc thù không có thanh toán và đơn phương, mặc dù việc chuyển giao vật cùng với quyền sở hữu không buộc bên nhận tài sản phải thanh toán giá trị tài sản, thì việc có được tài sản của bên được tặng cho hay việc chuyển giao nó cho người khác của bên tặng cho cũng dẫn đến việc bắt buộc phải ký kết một hợp đồng. Đối với Bộ luật Dân sự Nhật Bản, hợp đồng tặng cho có hiệu lực từ khi “tuyên bố”, mà không cần xác định bên được tặng cho đã nhận tài sản hay chưa, điều này có nghĩa là hợp đồng tặng cho theo quy định của Bộ luật Dân sự Nhật Bản cũng là hợp đồng ưng thuận.

Trong Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan lại xác định tặng cho như sau: “Tặng cho là một hợp đồng trong đó một người gọi là người cho, chuyển một tài sản của chính mình cho một người khác, gọi là người nhận mà không lấy tiền và người nhận nhận tài sản đó” (Điều 521 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan). Như vậy, theo Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan thì tặng cho lại là một hợp đồng thực tế, vì pháp luật chỉ quan tâm đến việc “cho” và “nhận” không mang tính đền bù.

Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy, Bộ luật Dân sự các nước đều đưa ra khái niệm tặng cho tài sản là một loại hợp đồng, không có tính chất đền bù, nhưng pháp luật của các nước có sự khác biệt về xác định tính chất, đặc điểm của hợp đồng, có thể là hợp đồng thực tế, cũng có thể là hợp đồng ưng thuận, từ đó có sự khác biệt về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, cũng như thời điểm chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản.

1.2. Về tặng cho tài sản có điều kiện

Theo Bộ luật Dân sự Pháp, việc tặng cho cũng có thể kèm theo các điều kiện đối với bên được tặng cho: “Nếu trong chứng thư tặng cho có các điều kiện không thể thực hiện được, các điều kiện trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì coi như không có các điều kiện đó” (Điều 900 Bộ luật Dân sự Pháp); đồng thời, “Người được hưởng tài sản theo chứng thư tặng cho có thể yêu cầu Tòa án xem xét lại những điều kiện và nghĩa vụ kèm theo mà họ đã chấp nhận nếu do hoàn cảnh thay đổi việc thực hiện các điều kiện và nghĩa vụ đó trở nên đặc biệt khó khăn hoặc gây thiệt hại cho họ” (Điều 900 – 2 Bộ luật Dân sự Pháp). Trước hết, các điều kiện đối với bên được tặng cho trái pháp luật và đạo đức thì không có giá trị thực hiện. Sau đó, các điều kiện này làm ảnh hưởng hoặc gây thiệt hại thì bên được tặng cho có quyền yêu cầu hủy bỏ điều kiện.

Bộ luật Dân sự Nhật Bản cũng quy định hợp đồng tặng cho có điều kiện là việc áp đặt các nghĩa vụ đối với bên được tặng cho. Theo XacaVacaxum và ToriAritdumi trong “Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật Bản” về vấn đề này, các tác giả đã cho rằng đây là loại nghĩa vụ lựa chọn mà: “Nghĩa vụ lựa chọn là nghĩa vụ trong đó cho phép lựa chọn một số các đề nghị đáp ứng” và “thực hiện quyền lựa chọn nghĩa là một bên phải phụ thuộc vào sự thể hiện ý chí của bên kia”. Hợp đồng tặng cho kèm theo nghĩa vụ của người được tặng cho, được pháp luật Nhật Bản xác định là loại hợp đồng song phương, vì nó phát sinh nghĩa vụ của cả đôi bên người tặng cho cũng như người được tặng cho: “Các quy định liên quan tới hợp đồng song phương được áp dụng đối với việc tặng cho do bổn phận để bổ sung cho các quy định của mục này” (Điều 553 Bộ luật Dân sự Nhật Bản). Điều đó cũng có nghĩa là người được tặng cho thực hiện nghĩa vụ của mình sẽ dẫn đến quyền của người đó đối với việc yêu cầu người tặng cho thực hiện hợp đồng.

Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan quy định những điều kiện kèm theo việc tặng cho đối với người được tặng cho coi như là trách nhiệm đối với họ: “Nếu việc tặng cho có kèm theo một trách nhiệm và người nhận không thực hiện trách nhiệm đó, thì người cho có thể theo những điều kiện về quyền hủy bỏ trong trường hợp là các hợp đồng song phương, yêu cầu hoàn trả vật tặng cho theo quy định và hoàn trả phần làm giàu không chính đáng trong chừng mực mà vật tặng cho phải được sử dụng để thực hiện trách nhiệm trên” (Điều 528 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan). Điều đó có nghĩa là người được tặng cho không thực hiện điều kiện mà người tặng cho đặt ra đối với họ, thì ngoài việc phải hoàn trả lại vật tặng cho, họ còn phải hoàn trả cả lợi ích phát sinh từ sử dụng tài sản. Giống như Bộ luật Dân sự Nhật Bản, tặng cho có điều kiện được Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan coi như hợp đồng song phương.

Nghiên cứu các quy định trên đây cho thấy, hầu hết pháp luật các nước đều có quy định về tặng cho tài sản có điều kiện, có thể là những nghĩa vụ hay trách nhiệm được đặt ra trong hợp đồng buộc bên được tặng cho phải thực hiện khi nhận tài sản tặng cho, có một số nước coi đó là hợp đồng song phương và ràng buộc nghĩa vụ của đôi bên, bên được tặng cho có quyền nhận tài sản không phải đền bù, đồng thời họ phải thực hiện các nghĩa vụ kèm theo. Các nghĩa vụ đó không những phù hợp với pháp luật, với đạo đức mà còn phải phù hợp với thực tế là bên được tặng cho có khả năng thực hiện được (chẳng hạn như quy định của Bộ luật Dân sự Pháp)

1.3. Về hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản

Bộ luật Dân sự Pháp quy định về hiệu lực của việc tặng cho như sau: “Một chứng thư tặng cho phải được lập trước công chứng viên, theo hình thức thông thường của hợp đồng và được công chứng viên lưu bản chính. Nếu không tuân thủ các quy định này, chứng thư tặng cho sẽ vô hiệu” (Điều 931 Bộ luật Dân sự Pháp); “việc tặng cho coi như được hoàn tất ngay sau khi có sự đồng ý của hai bên; quyền sở hữu tài sản tặng cho được chuyển cho người được tặng cho mà không cần phải chuyển giao tài sản trên thực tế” (Điều 938 Bộ luật Dân sự Pháp). Như trên đã nói, tặng cho theo Bộ luật Dân sự Pháp bắt buộc phải lập hợp đồng. Thời điểm phát sinh hiệu lực là thời điểm bên được tặng cho đồng ý nhận tài sản, trùng với thời điểm giao kết hợp đồng, là một hợp đồng ưng thuận tuyệt đối, không cần xác định bên được tặng cho khi nào được nhận tài sản trên thực tế.

Khác với quy định của pháp luật Pháp, theo Điều 549 Bộ luật Dân sự Nhật Bản thì hợp đồng có hiệu lực khi một bên tuyên bố chuyển giao không hoàn lại tài sản của mình cho bên kia và bên kia đồng ý nhận nó, có nghĩa là việc ký kết hợp đồng tặng cho không phải tuân theo hình thức nhất định. Song, nếu việc tặng cho không phải bằng văn bản thì phần nghĩa vụ chưa được thực hiện có thể bị hủy bỏ đối với các bên: “Các bên đều có thể rút lui khỏi hợp đồng tặng cho, nếu hợp đồng này không được lập thành văn bản. Điều này không được áp dụng đối với phần tài sản đã được tặng cho” (Điều 550 Bộ luật Dân sự Nhật Bản). Việc tặng cho không nhất thiết phải lập hợp đồng còn thể hiện ở chỗ, người tặng cho có thể thể hiện ý định bằng văn bản, còn người được tặng cho có thể chấp nhận bằng miệng (không nhất thiết người được tặng cho phải ký vào hợp đồng). Trường hợp hợp đồng tặng cho có hình thức bằng văn bản hay không bằng văn bản thì việc kết thúc thực hiện cũng không bị hủy bỏ. Riêng tặng cho bất động sản, tuy pháp luật không quy định cụ thể buộc phải bằng văn bản nhưng trường hợp tặng cho bất động sản vì liên quan đến thuế, đăng ký, nên coi như hình thành hợp đồng mua bán. Trong trường hợp tặng cho bất động sản thì việc kết thúc thực hiện là việc chuyển giao vật tặng cho.

Đối với Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan, quy định hiệu lực của việc tặng cho phát sinh: “Việc tặng cho chỉ có giá trị khi giao tài sản được cho” (Điều 523 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan). Tuy pháp luật không quy định cụ thể hiệu lực của việc tặng cho đối với bất động sản phải đăng ký phát sinh khi nào, song pháp luật quy định việc mua bán một tài sản phải được thực hiện bằng văn bản và được viên chức có thẩm quyền đăng ký, thì việc tặng cho tài sản đó mới có giá trị. Trong trường hợp đó, việc tặng cho có hiệu lực mà không cần có sự giao nhận tài sản (Điều 525 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan). Như vậy, pháp luật thừa nhận việc tặng cho bất động sản về hình thức giống như hợp đồng mua bán bất động sản, phải hoàn tất thủ tục đăng ký mới phát sinh hiệu lực, nhưng không nhất thiết buộc phải giao tài sản.

Những trình bày và phân tích trên cho thấy, hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản ở các nước quy định có sự khác nhau, nhìn chung đối với động sản, hợp đồng có hiệu lực khi bên được tặng cho nhận tài sản, còn đối với bất động sản thì hợp đồng có hiệu lực có trường hợp từ thời điểm “tuyên bố” tặng cho; có trường hợp từ thời điểm bên được tặng cho đồng ý nhận tài sản, có khi từ thời điểm bên được tặng cho nhận tài sản hay bên được tặng cho làm đăng ký tài sản

1.4. Về hủy bỏ hợp đồng tặng cho tài sản

Bộ luật Dân sự Pháp quy định một quyền đặc biệt trong việc tặng cho tài sản là: “Người tặng cho có thể đặt ra quyền được đòi lại vật được tặng cho nếu người được tặng cho chết trước người tặng cho” (Điều 951 Bộ luật Dân sự Pháp). Ngoài ra, “việc tặng cho chỉ bị hủy bỏ trong trường hợp các điều kiện kèm theo việc tặng cho không được thực hiện, khi người được tặng cho vô ơn hoặc khi người tặng cho có con” (Điều 953 Bộ luật Dân sự Pháp); “việc tặng cho chỉ có thể hủy bỏ với lý do vô ơn trong những trường hợp sau: 1. Người được tặng cho đã xâm hại đến tính mạng của người tặng cho; 2. Người được tặng cho bị kết án về hành vi ngược đãi hoặc xúc phạm nghiêm trọng người tặng cho; 3. Người được tặng cho từ chối cấp dưỡng người tặng cho” (Điều 955 Bộ luật Dân sự Pháp); “yêu cầu hủy bỏ việc tặng cho vì lý do vô ơn phải được thực hiện trong thời hạn 1 năm kể từ ngày người được tặng cho có hành vi xâm hại người tặng cho hoặc kể từ ngày người tặng cho biết được về hành vi xâm hại đó” (Điều 957 Bộ luật Dân sự Pháp). Luật chỉ rõ việc tặng cho bị hủy bỏ khi bên được tặng cho chết hay khi bên được tặng cho “vô ơn”, nhưng thời hiệu luật quy định chỉ 1 năm từ thời điểm phát sinh các sự kiện nêu trên.

Đối với pháp luật Nhật Bản, “hợp đồng tặng cho theo định kỳ sẽ chấm dứt hiệu lực khi người tặng cho chết” (Điều 552 Bộ luật Dân sự Nhật Bản), có nghĩa là, việc tặng cho được xác định vào một ngày nhất định, sẽ mất hiệu lực trong trường hợp người tặng cho chết.

Còn đối với hợp đồng tặng cho không được xác định vào một thời gian cụ thể, thì: “Hợp đồng tặng cho có hiệu lực khi người tặng cho chết, được điều chỉnh bằng các quy định liên quan tới tặng cho, di chúc” (Điều 554 Bộ luật Dân sự Nhật Bản), có nghĩa là hợp đồng tặng cho được ký kết khi người tặng cho còn sống, nhưng hậu quả của hợp đồng phát sinh sau khi người đó chết trở thành trường hợp di tặng. Mặc dù về tính chất nó khác loại tặng cho trong trường hợp di tặng, nhưng được áp dụng về hình thức các điều khoản pháp luật quy định chung cho trường hợp với di tặng. Riêng đối với di chúc, Bộ luật Dân sự Nhật Bản quy định di chúc không được lập dưới hình thức nhất định thì coi như không hợp pháp, còn việc tặng cho trong trường hợp người tặng cho chết, hình thức như thế nào thì việc tặng cho vẫn có hiệu lực.

Việc hủy bỏ hợp đồng tặng cho cũng được đặt ra đối với pháp luật Thái Lan: “Người cho có thể khiếu nại đòi hủy bỏ một hợp đồng tặng cho vì một hành vi vô ơn, bạc nghĩa chỉ trong các trường hợp dưới đây: 1. Nếu người nhận phạm một tội hình sự nghiêm trọng chống lại người cho có thể bị trừng phạt theo Bộ luật Hình sự; 2. Nếu người nhận bôi xấu một cách trầm trọng hoặc lăng mạ người cho; 3. Nếu người nhận từ chối giúp đỡ người cho, mà người cho là người đang cần giúp đỡ những thứ thiết yếu đảm bảo cuộc sống, trong khi người nhận có thể cung cấp chúng” (Điều 531 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan). Tuy nhiên Bộ luật này lại mở ra hướng khoan hồng: “Một hợp đồng tặng cho không thể hủy bỏ nếu người cho đã tha thứ cho người nhận, hoặc 6 tháng đã trôi qua kể từ khi người có quyền khiếu nại đòi hủy bỏ hợp đồng biết được hành vi vô ơn bạc nghĩa. Không có việc kiện tụng nào có thể được thụ lý sau khi 10 năm trôi qua kể từ khi có hành vi vô ơn, bội nghĩa”(Điều 533 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan). Một quy định khác giống như Bộ luật Dân sự Nhật Bản về trường hợp người tặng cho chết là : “Một hợp đồng tặng cho có hiệu lực vào lúc người cho chết thì được điều chỉnh bởi những quy định của luật về thừa kế và di chúc” (Điều 536 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan).

Trong các quy định pháp luật ở các nước về hủy bỏ hợp đồng tặng cho nêu trên, hầu hết đều có quy định về điều kiện hợp đồng tặng cho có thể bị hủy bỏ khi người được tặng cho “vô ơn” đối với người tặng cho. Ngoài ra, pháp luật còn quy định về thời hiệu đối với yêu cầu hủy bỏ hợp đồng tặng cho; quy định khi người tặng cho chết, thì hợp đồng tặng cho được áp dụng thực hiện như di tặng.

2. Quy định của pháp luật Việt Nam về tặng cho tài sản

Việt Nam cũng như một số nước trên thế giới đều quy định tặng cho tài sản là một loại hợp đồng, trong đó có sự thỏa thuận giữa các bên. Bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho, mà không yêu cầu đền bù, còn bên được tặng cho đồng ý nhận tài sản. Cụ thể, pháp luật quy định: “Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thoả thuận giữa các bên về việc một bên phải giao tài sản và chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên kia mà không yêu cầu đền bù, còn bên kia đồng ý nhận” (Điều 465 Bộ luật Dân sự năm 2005). Khoa học pháp lý Việt Nam xếp tặng cho tài sản là một loại hợp đồng thông dụng có đặc điểm riêng biệt với những loại hợp đồng thông dụng khác.

Hợp đồng tặng cho tài sản có thể là hợp đồng thực tế, có thể là hợp đồng ưng thuận: Hợp đồng được coi là đã ký kết khi các bên chuyển giao tài sản, thời điểm chuyển giao tài sản cũng đồng thời là thời điểm chấm dứt hợp đồng, dù hai bên đã thỏa thuận cụ thể về đối tượng tặng cho (là tiền hoặc là tài sản), điều kiện và thời gian giao tài sản tặng cho, nhưng nếu bên tặng cho chưa giao tiền hoặc tài sản cho bên được tặng cho, thì hợp đồng tặng cho tài sản chưa được coi là xác lập. Những điều đó có nghĩa là, tặng cho phải diễn ra trên thực tế, nếu hai bên chỉ lập hợp đồng để thỏa thuận về đối tượng tài sản, về quyền và nghĩa vụ của hai bên mới chỉ coi là hứa việc tặng cho. Việc chuyển giao tài sản cùng với quyền sở hữu phải là có thực, hợp đồng được phát sinh và chấm dứt cùng thời điểm chuyển giao tài sản tặng cho.

Song, tính chất thực tế của tặng cho luôn gắn liền với đối tượng tài sản. Đối tượng của tài sản tặng cho có thể là động sản hay bất động sản. Hình thức và hiệu lực của hợp đồng tặng cho phụ thuộc vào đối tượng tài sản tặng cho. Nếu đối tượng tài sản tặng cho là động sản thì hình thức của hợp đồng có thể bằng miệng hay bằng văn bản. Hiệu lực của hợp đồng này có thể phát sinh khi bên được tặng cho nhận tài sản hay cũng có thể chỉ phát sinh (dù đã nhận tài sản) khi hoàn tất thủ tục đăng ký quyền sở hữu, nếu pháp luật quy định tài sản đó phải đăng ký như ô tô, xe máy… Nếu đối tượng của tặng cho tài sản là bất động sản thì hình thức của hợp đồng phải lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực. Đồng thời, nếu bất động sản đó phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho đó còn phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của pháp luật. Hợp đồng chỉ được coi là có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký và làm thủ tục sang tên như tặng cho nhà, đất. Để minh chứng rằng hợp đồng tặng cho có thể là hợp đồng thực tế, có thể là hợp đồng ưng thuận, nếu tặng cho lập thành văn bản thì hợp đồng thường là hợp đồng ưng thuận. Tính chất ưng thuận của hợp đồng tặng cho bằng văn bản còn được thể hiện thông qua việc pháp luật quy định những trường hợp bên tặng cho có thể từ chối thực hiện tặng cho theo hợp đồng.

Hợp đồng tặng cho có thể là hợp đồng đơn vụ, có thể là hợp đồng song vụ. Tính chất đơn vụ được lý giải: Trong quan hệ hợp đồng này, một bên được nhận tài sản tặng cho mà không phải thực hiện một nghĩa vụ gì đối với bên đã tặng cho (trừ trường hợp tặng cho có điều kiện). Như vậy, hợp đồng tặng cho tài sản không phải hoàn toàn bao giờ cũng là đơn vụ. Đối với hợp đồng tặng cho có điều kiện là được coi là hợp đồng song vụ.

Hợp đồng tặng cho là một hợp đồng không có đền bù. Đặc điểm này được thể hiện ở việc, bên tặng cho chuyển giao tài sản và quyền sở hữu cho bên được tặng cho, còn bên được tặng cho không có nghĩa vụ trả lại cho bên tặng cho bất kỳ lợi ích nào. Đối với những trường hợp tặng cho có điều kiện buộc người được tặng cho phải thực hiện một công việc nào đó, tính chất pháp lý của công việc mà người được tặng cho phải thực hiện hoàn toàn khác. Đây không phải là tính chất đền bù trong giao dịch dân sự. Tất nhiên, chuyển giao tài sản và quyền sở hữu mà có đền bù ngang bằng giá trị của tài sản thì trở thành mua bán tài sản, nên việc không có đền bù là thuộc tính tạo nên bản chất và đặc điểm cơ bản của tặng cho tài sản.

Pháp luật Việt Nam cũng quy định tặng cho tài sản có điều kiện. Tại khoản 1 Điều 470 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện đó không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”. Sau khi tặng cho, người tặng cho vẫn được quyền đòi lại tài sản, đó là trường hợp tặng cho có điều kiện, nếu bên được tặng cho không thực hiện các điều kiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại” (khoản 3 Điều 470 Bộ luật Dân sự năm 2005).

Hợp đồng tặng cho có thể bị hủy bỏ, Bộ luật Dân sự năm 2005 chỉ quy định việc hủy bỏ hợp đồng tặng cho có điều kiện mà chưa quy định về hủy bỏ hợp đồng tặng cho tài sản nói chung.

TS. Lê Thị Hoài Ân

Khoa Luật, Đại học Vinh

Tài liệu tham khảo:

[1]. Bộ Tư pháp, Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý (2001), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Việt Nam, Tập I, III, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[2]. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Tập I, II, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

[3]. TS. Dương Anh Sơn, Về bản chất pháp lý của hợp đồng tặng cho tài sản, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 10, 2008, tr. 50 – 55.

[4]. Khoa Luật, Viện Đại học Mở Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Tập I, II, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2002.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Vướng mắc về thời hạn xử lý tang vật vi phạm hành chính theo Luật Xử lý vi phạm hành chính

27/01/2016

Luật Xử lý vi phạm hành chính được Quốc hội thông qua ngày 20/6/2012 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2013. Sau một thời gian triển khai thực hiện đã nảy sinh nhiều vướng mắc, bất cập so với thực tế, điều này đã được các cấp, các ngành nhìn nhận và đề xuất sửa đổi. Một trong những vướng mắc cần sửa đổi đó là vướng mắc về thời hạn xử lý tang vật vi phạm hành chính trong một số lĩnh vực đang diễn ra đã gây khó khăn cho cơ quan chức năng, người có thẩm quyền trong việc áp dụng để xử lý tang vật vi phạm hành chính. Đặc biệt là, trong các trường hợp xử lý vi phạm hành chính đối với lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng mà chưa xác định được chủ sở hữu (vô chủ).

Tại khoản 4 Điều 126 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định về xử lý tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ theo thủ tục hành chính thì: “Đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính quá thời hạn tạm giữ nếu người vi phạm không đến nhận mà không có lý do chính đáng hoặc trường hợp không xác định được người vi phạm thì người ra quyết định tạm giữ phải thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết công khai tại trụ sở cơ quan của người có thẩm quyền tạm giữ; trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thông báo, niêm yết công khai, nếu người vi phạm không đến nhận thì người có thẩm quyền phải ra quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính để xử lý theo quy định tại Điều 82 của Luật này”. Như vậy, trong trường hợp tang vật vi phạm hành chính chưa xác định được chủ sở hữu thì thời hạn để người có thẩm quyền ra quyết định tịch thu theo quy định được xác định như thế nào cho chính xác và phù hợp?.

Nhóm ý kiến thứ nhất: Việc xác định thời hạn để xử lý đối với tang vật vi phạm thuộc trường hợp chưa xác định được chủ sở hữu căn cứ theo thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại khoản 1 Điều 66, Luật Xử lý vi phạm hành chính: “1. Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà không thuộc trường hợp giải trình hoặc đối với vụ việc thuộc trường hợp giải trình theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật này thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên bản”. Có nghĩa là, người có thẩm quyền ra quyết định xử lý tịch thu tang vật vi phạm hành chính sau 30 ngày nếu người vi phạm không đến nhận (tức sau thời hạn thông báo 30 ngày kể từ ngày ra quyết định tạm giữ tang vật). Theo nhóm ý kiến này thì ngày mà người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ tang vật vi phạm cũng đồng thời sẽ tiến hành thông báo niêm yết công khai theo quy định đối với tang vật vi phạm hành chính. Sau thời hạn thông báo trên, người có thẩm quyền sẽ tiến hành ban hành quyết định tịch thu đối vối tang vật vi phạm trên. Như vậy sẽ phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 66 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 về thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Nhóm ý kiến thứ hai: Việc xác định thời hạn để xử lý đối với tang vật vi phạm thuộc trường hợp chưa xác định được chủ sở hữu phải căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 126 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Có nghĩa là, người có thẩm quyền ra quyết định xử lý tịch thu tang vật vi phạm hành chính sau 37 ngày nếu người vi phạm không đến nhận (tức sau thời hạn 07 ngày tạm giữ tang vật và sau thời hạn 30 ngày kể từ ngày ban hành thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng theo quy định), bởi lẽ, quy định này đã rõ ràng. Như vậy, mới đảm bảo đúng với tinh thần của khoản 4 Điều 126 Luật Xử lý vi phạm hành chính.

Nhìn chung thì cả hai nhóm ý kiến đều có cơ sở và căn cứ pháp lý để bảo vệ quan điểm của mình.

Căn cứ vào quy định hành, nếu theo nhóm ý kiến thứ nhất thì sẽ chỉ đảm bảo được yếu tố thời gian xử phạt vi phạm vi phạm hành chính. Tuy nhiên, chúng ta phải xác định và phân tích cụ thể giữa việc xử lý vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính. Bởi lẽ, nội dung quy định tại Điều 66 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 là quy định cụ thể đối với trường hợp xử phạt vi phạm hành chính. Trong khi đó, việc người có thẩm quyền ban hành quyết định tịch thu tang vật vi phạm hành chính được quy định tại khoản 4 Điều 126 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 là quy định cụ thể cho việc xử lý vi phạm hành chính. Mặt khác thì xử lý vi phạm hành chính là nội dung bao hàm, quy định chung hơn và toàn diện hơn so với xử phạt vi phạm hành chính. Theo tác giả, nếu chúng ta áp dụng thời hạn để ra quyết định tịch thu tang vật vi phạm hành chính theo nhóm ý kiến thứ nhất là chưa đúng với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Vì vậy, chúng ta căn cứ theo thời hạn được nhóm ý kiến thứ hai đưa ra thì sẽ đúng với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, theo tinh thần và quy định cụ thể tại khoản 4 Điều 126 là quá thời hạn tạm giữ nếu… trường hợp không xác định được người vi phạm thì người ra quyết định tạm giữ phải thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết công khai tại trụ sở cơ quan của người có thẩm quyền tạm giữ; trong thời hạn 30 ngày… Tuy nhiên, vướng mắc phát sinh trong trường hợp này đó là theo quy định tại khoản 8 Điều 125 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì: “Thời hạn tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, giấy phép, chứng chỉ hành nghề là 07 ngày, kể từ ngày tạm giữ. Thời hạn tạm giữ có thể được kéo dài đối với những vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp, cần tiến hành xác minh nhưng tối đa không quá 30 ngày, kể từ ngày tạm giữ tang vật, giấy phép, chứng chỉ hành nghề”. Theo quy định này, thì tang vật vi phạm hành chính chỉ được cơ quan có thẩm quyền (người được giao nhiệm vụ bảo quản) tạm giữ và có trách nhiệm bảo quản trong thời hạn tối đa chỉ là 30 ngày. Như vậy, thời gian 07 còn lại (vì sau thời hạn 37 ngày thì người có thẩm quyền mới được ban hành quyết định tịch thu tang vật không xác định được chủ sỡ hữu) thì tang vật vi phạm hành chính nói trên sẽ được do ai bảo quản, trách nhiệm sẽ thuộc về cá nhân, tổ chức nào nếu xảy ra mất mát, hưu hỏng trong thời gian 07 ngày để chờ người có thẩm quyền ban hành quyết định xử lý tịch thu tang vật. Đây là vấn đề rất “nhạy cảm” và gây khó khăn cho các cơ quan, cá nhân người có thẩm quyền liên quan trong các vụ việc này.

Thiết nghĩ, Chính phủ cần sớm chỉ đạo các bộ, ngành liên quan sớm tham mưu ban hành Nghị định hướng dẫn cụ thể hơn về thời hạn ban hành quyết định tịch thu tang vật vi phạm hành chính không xác định được chủ sở hữu để các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền triển khai thực hiện đảm bảo đúng quy định và tình hình thực tế. Có thể là quy định kéo dài thêm thời gian tạm giữ hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tạm giữ phải thực hiện nhiệm vụ tạm giữ tang vật vi phạm cho đến khi người có thẩm quyền ban hành quyết định tịch thu đối với tang vật vi phạm hành chính không xác định được chủ sở hữu. Như vậy, sẽ hợp lý và phù hợp với tình hình thực tế.

Nguyễn Xuân Viễn

Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Vai trò của Nhà nước trong việc đảm bảo quyền được sống trong môi trường trong lành

26/02/2016

Điều 43 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người đều có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”. Nhà nước ghi nhận quyền được sống trong môi trường trong lành của mọi người cũng có nghĩa là Nhà nước ghi nhận trách nhiệm của mình trong việc đảm bảo quyền con người này. Chính vì vậy, việc làm rõ vai trò của Nhà nước trong việc đảm bảo quyền được sống trong môi trường trong lành của mọi người ở Việt Nam là rất cần thiết để chúng ta có những định hướng, giải pháp hiệu quả góp phần hiện thực hóa quy định này của Hiến pháp.

1. Quyền được sống trong môi trường trong lành của con người và vai trò của Nhà nước trong việc đảm bảo quyền này

Môi trường trong lành có thể hiểu là môi trường sạch đẹp, thuần khiết, không có ô nhiễm, suy thoái môi trường. Trong môi trường đó, con người và sinh vật sống thoải mái, khỏe mạnh, hữu ích và hài hòa với thiên nhiên. Ở bình diện quốc tế, quyền được sống trong môi trường trong lành đã được ghi nhận trong nhiều văn kiện, công ước quốc tế như Tuyên bố thế giới về nhân quyền năm 1948, Nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc năm 1962 về phát triển kinh tế và bảo vệ thiên nhiên; Công ước quốc tế về các quyền chính trị, dân sự; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966… Với việc ký nhiều cam kết quốc tế, Việt Nam đã thừa nhận quyền được sống trong môi trường trong lành của mọi người ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau, mà trực tiếp nhất là hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường. Cụ thể, tại Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, việc con người được sống trong môi trường trong lành đã được thừa nhận, mặc dù chưa được ghi nhận thành nguyên tắc riêng. Có thể nói, Hiến pháp năm 2013 thể hiện sự phát triển vượt bậc về quyền con người, trong đó có quyền được sống trong môi trường trong lành. Việc ghi nhận quyền này trong Hiến pháp là cơ sở pháp lý quan trọng để chúng ta thể chế hóa và thực hiện trong toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam.

Quyền được sống trong môi trường trong lành cần được tôn trọng và bảo vệ, vì ô nhiễm môi trường không chỉ tổn thất cho phát triển kinh tế, phá hủy các thành tựu tăng trưởng, dẫn tới gia tăng nghèo đói, phân hóa và bất bình đẳng xã hội, mà còn gây nhiều bệnh tật nguy hiểm, tổn hại sức khỏe và đe dọa tính mạng của con người, ảnh hưởng đến việc thụ hưởng các quyền con người, thậm chí còn đe dọa quyền con người. Môi trường không bị ô nhiễm là cơ sở, nền tảng thiết yếu để hiện thực hóa các quyền con người. Quyền được sống trong môi trường trong lành có quan hệ chặt chẽ với các quyền khác của con người. Sự ô nhiễm, suy thoái môi trường ảnh hưởng đến việc thụ hưởng các quyền con người đó là quyền sống, quyền về sức khỏe, quyền về nước, quyền làm việc, kiếm kế sinh nhai. Khi quyền được sống trong môi trường trong lành không được đảm bảo, thì những quyền kể trên khó được thực hiện. Bởi lẽ, khi môi trường ô nhiễm, đất đai ô nhiễm sẽ làm giảm năng suất và mất an toàn đối với các sản phẩm cây trồng, nhiều bệnh tật xuất hiện do thực phẩm bị nhiễm độc gây ra ví dụ như ung thư và tim mạch. Ô nhiễm môi trường cản trở quyền được tiếp cận với nước sạch của con người, bởi sử dụng nước không hợp vệ sinh cũng là mầm mống của dịch bệnh. Quyền có nước sạch là quyền được thế giới thừa nhận. Ô nhiễm không khí là tác nhân nguy hiểm nhất đối với sức khỏe con người. Tháng 10/2013, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã xếp ô nhiễm không khí là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây bệnh ung thư ở người. Việc phá hủy môi trường đồng nghĩa với việc tước đi quyền làm việc của nhiều người, vì ô nhiễm các dòng sông, ngòi, kênh, mương đẩy những người sống bằng nghề đánh bắt cá mất việc làm…

Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo quyền con người trong đó có quyền được sống trong môi trường trong lành. Bởi lẽ, trong hoạt động sinh hoạt và phát triển kinh tế của các cá nhân, tổ chức thường có xu hướng tác động tiêu cực tới môi trường, vì lợi ích cá nhân, họ có thể không quan tâm đến việc bảo vệ môi trường. Vì vậy, rất cần có vai trò quản lý nhà nước về môi trường để điều chỉnh hành vi của tất cả mọi thành viên, cá nhân và tổ chức trong một cộng đồng, một quốc gia dân tộc. Nhà nước bằng cách đưa ra các biện pháp, luật pháp, chính sách kinh tế, kỹ thuật, xã hội để điều khiển, chi phối hành vi của các cá nhân, tổ chức trong hoạt động phát triển nhằm bảo vệ chất lượng môi trường. Ví dụ như, Nhà nước thông qua việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân về vai trò của bảo vệ môi trường để thay đổi hành vi của họ đối với môi trường theo hướng có lợi cho môi trường. Nhà nước bằng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, với việc nghiêm cấm các hành vi gây ô nhiêm môi trường cũng như các chế tài xử lý và với bộ máy thanh, kiểm tra của mình để buộc mọi cá nhân và tổ chức phải chấp hành pháp luật, có những hành động tôn trọng và bảo vệ môi trường. Nhà nước đưa ra các chính sách kinh tế, tác động tới chi phí và lợi ích trong hoạt động của các cá nhân và tổ chức kinh tế từ đó ảnh hưởng đến hành vi của các tác nhân kinh tế theo hướng có lợi cho môi trường. Thông qua việc thực hiện các biện pháp này, Nhà nước đã thúc đẩy các hành vi bảo vệ môi trường của mọi người, từ đó đảm bảo quyền được sống trong môi trường trong lành của tất cả mọi người.

2. Thực trạng vai trò của Nhà nước trong việc đảm bảo quyền được sống trong môi trường trong lành ở Việt Nam

Có thể nói, trong điều kiện nước ta thuộc nhóm nước có thu nhập bình quân đầu người thấp trên thế giới nên chúng ta đã tập trung cho tăng trưởng kinh tế, ưu tiên cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì vậy thời gian qua, quyền được sống trong môi trường trong lành của người dân chưa được đảm bảo tốt. Cùng với những thành tựu phát triển kinh tế là sự hủy hoại, ô nhiễm môi trường khá nghiêm trọng ở nước ta. Cụ thể như sau:

Về ô nhiễm không khí, Việt Nam đứng thứ 123/132 quốc gia trong bảng xếp hạng. Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, nồng độ bụi cao hơn tiêu chuẩn cho phép nhiều lần và nằm trong nhóm 10 đô thị ô nhiễm nhất thế giới. Ở 2 thành phố này, lượng bụi trong không khí vượt giới hạn cho phép từ 2 – 20 lần, hơi chì từ 6 -10 lần, khí CO2 từ 2 – 5 lần, khí SO2 30 lần. Về ô nhiễm môi trường đất, khoảng 50% trong số 33 triệu ha đất tự nhiên được coi là “có vấn đề suy thoái”. Hiện nay, chúng ta có khoảng 6 – 7 triệu ha đất trống đồi trọc, trong đó có 440.800 ha đã hoàn toàn bị xói mòn, trơ đá, không có khả năng trồng trọt (chiếm 1,35% diện tích đất tự nhiên của cả nước). Về môi trường nước, phần lớn chất lượng nước sông ở nước ta đạt loại B. Tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, hầu hết sông, hồ nội thị đều bị ô nhiễm nghiêm trọng. Các thông số đo được đều vượt nhiều lần tiêu chuẩn cho phép đối với nước mặt. Những khu vực chịu tác động lớn nhất là các lưu vực sông Cầu, Nhuệ – Đáy, Đồng Nai, sông Thị Vải và các ao, hồ tại các đô thị. Ô nhiễm môi trường ở Việt Nam đang tác động tiêu cực đến quyền được sống trong môi trường trong lành của người dân cũng như nhiều quyền thiết yếu khác của con người, trong đó có quyền sống, quyền sức khỏe của con người. Số người mắc bệnh ung thư ở Việt Nam mỗi năm đều tăng lên. Hiện nay, cả nước mỗi năm có gần 200.000 bệnh nhân ung thư mới phát hiện. Rất nhiều những ngôi làng ung thư, làng bệnh tật đã xuất hiện bên cạnh các nhà máy, xí nghiệp. Hiện cả nước đã xuất hiện một số làng ung thư ở Phú Thọ, Hà Tây, Hải Phòng, Nghệ An… Ví dụ như xung quanh Nhà máy Supe phốt phát Lâm Thao (Phú Thọ), xuất hiện làng ung thư xã Thạch Sơn, trong thời gian từ 1991 đến 2005 xã có 106 người bị ung thư. Mới đây nhất trên thời sự phản ánh 96% trẻ em trong thôn Đông Mai (Văn Lâm, Hưng Yên) có hàm lượng chì trong cơ thể vượt quá mức cho phép từ 3 – 7 lần. Nguyên nhân thôn này làm nghề tái chế pin, ắc quy, tái chế thủ công, hóa chất trong pin, ắc quy đổ ra kênh mương, cánh đồng, gây ô nhiễm đất, nước, không khí mà chì có thể vào cơ thể trên cả 3 đường đó. Ô nhiễm chì làm trẻ em chậm phát triển trí tuệ, suy giảm chỉ số IQ.Đó chỉ là những ví dụ điển hình cho thực tế quyền được sống trong môi trường trong lành của người dân Việt Nam đang bị xâm hại.

Chúng ta không phủ nhận những nỗ lực, cố gắng của nhà nước trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành của người dân thời gian qua. Bởi lẽ, phát triển kinh tế cao và liên tục mà không gây ô nhiễm môi trường là một việc không dễ. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, trong giai đoạn đang phát triển như Việt Nam khi GDP tăng lên gấp đôi, ô nhiễm môi trường có thể tăng lên từ 3 – 5 lần. Đối chiếu với những nhận định trên đây, giai đoạn đổi mới, mở cửa của nước ta với GDP năm 2011 tăng gần 4,5 lần so với năm 1990 thì ô nhiễm môi trường có thể tăng lên từ 15 đến 23 lần. Tuy nhiên, trên thực tế, ô nhiễm môi trường ở Việt Nam có tăng nhưng ở mức thấp hơn. Điều đó đã cho thấy những nỗ lực của Nhà nước. Song thực tế, quyền được sống trong môi trường trong lành ở Việt Nam vẫn chưa được đảm bảo tốt điều đó xuất phát từ việc Nhà nước chưa thực sự phát huy tốt vai trò của mình, còn có những yếu kém trong công tác quản lý nhà nước về môi trường trong thời gian qua. Hệ thống chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường còn nhiều bất cập, còn chồng chéo, thiếu thống nhất từ đó làm hạn chế hiệu quả điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế… trong việc bảo vệ môi trường. Chúng ta chưa tạo ra hành lang pháp lý và môi trường thuận lợi để khuyến khích phát triển ngành công nghiệp, dịch vụ môi trường và sản phẩm thân thiện với môi trường. Các loại thuế, phí về môi trường mới chỉ bước đầu tạo nguồn thu cho ngân sách mà chưa phát huy được vai trò công cụ kinh tế điều tiết vĩ mô, hạn chế gây ô nhiễm môi trường, thúc đẩy các hoạt động kinh tế – xã hội theo hướng hài hòa với thiên nhiên, thân thiện với môi trường và phát triển bền vững. Bộ máy quản lý nhà nước về môi trường ở nước ta hiện nay còn thiếu cả về số lượng và chất lượng. Ở cấp xã, nhiệm vụ quản lý nhà nước về môi trường gần như bị bỏ trống. Công tác bảo vệ môi trường ở các làng xã thường được giao cho một cán bộ văn hóa xã kiêm nhiệm, với chức năng, nhiệm vụ chủ yếu là đôn đốc, theo dõi công tác vệ sinh ở thôn xóm, khu dân cư. Ở nhiều khu công nghiệp, làng nghề, không có bộ phận hoặc cán bộ chuyên trách về môi trường. Đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về môi trường thiếu về số lượng, kém về chất lượng chuyên môn nghiệp vụ, không đảm đương và hoàn thành nhiệm vụ theo chức năng và thẩm quyền được giao. Công tác thực thi pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước chưa nghiêm túc. Tỷ lệ các dự án đầu tư được kiểm tra, xác nhận tuân thủ báo cáo đánh giá tác động môi trường trước khi cho phép vận hành còn thấp. Nhiều dự án đầu tư không lập báo cáo đánh giá tác động môi trường. Tình trạng vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường ở tỷ lệ rất cao, qua thanh tra, có 70% khu công nghiệp vi phạm các quy định về pháp luật bảo vệ môi trường, 60% khu công nghiệp không có hệ thống xử lý nước thải[1]. Việc thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường chưa nghiêm. Không chỉ tiến độ thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường chậm và còn mang tính hình thức, dễ dãi, cho qua làm cho các chủ dự án coi báo cáo đánh giá tác động môi trường chỉ là một thủ tục hành chính để có quyết định đầu tư. Vì vậy, có nhiều dự án được phê duyệt nhưng vẫn bị rút giấy phép, kiến nghị không hoạt động. Điển hình là tại Bà Rịa – Vũng Tàu dẫn đến nhiều dự án bị rút phép. Công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động về môi trường còn nhiều hạn chế, hiệu lực, hiệu quả thanh tra, kiểm tra còn kém. Số lượng các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thuộc thẩm quyền thanh tra, kiểm tra của các cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ được kiểm tra chưa nhiều. Công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ở một số địa phương còn chưa quyết liệt, hoặc xử lý “nhẹ tay” đối với doanh nghiệp vi phạm. Có nhiều hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật bảo vệ môi trường đã được công luận lên tiếng, báo chí vào cuộc, nhưng mãi vẫn không bị xử lý. Tình trạng này càng làm cho các doanh nghiệp “nhờn pháp luật”. Chế tài xử lý các trường hợp vi phạm về môi trường còn chưa đủ mạnh. Mặc dù, các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường nghiêm trọng đã được người dân, công luận lên tiếng phản ánh, trong đó có việc nhập khẩu trái phép chất thải của một số doanh nghiệp, việc xả chất ô nhiễm với khối lượng lớn ra sông, nạn buôn bán trái phép động thực vật hoang dã quý hiếm, nạn khai thác tài nguyên bằng các phương tiện, công cụ có tính chất huỷ diệt… nhưng cho đến nay, hầu như chưa có vụ nào bị xử lý hình sự. Nguồn lực cho công tác bảo vệ môi trường còn ít. Hiện nay, chi ngân sách cho bảo vệ môi trường chỉ chiếm 1%, chưa đủ so với nhu cầu. Việc sử dụng nguồn kinh phí này rất dàn trải, kém hiệu quả thậm chí sai mục đích. Việc phân bổ, thực hiện nguồn chi này ở nhiều địa phương chưa có sự tham gia của cơ quan chuyên môn là Sở Tài nguyên và Môi trường và chưa có sự giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp. Công tác tuyên truyền, phổ biến về môi trường còn nhiều hạn chế, chưa xây dựng được ý thức bảo vệ môi trường trong nhân dân. Ý thức về bảo vệ môi trường vẫn chưa thành thói quen, nếp sống của nhân dân. Ý thức trách nhiệm về bảo vệ môi trường của một số nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh còn thấp, chưa chủ động, tự giác thực hiện, phần lớn vẫn chạy theo lợi nhuận, coi nhẹ bảo vệ môi trường. Đa số các doanh nghiệp không quan tâm đến bảo vệ môi trường. Chính những bất cập trong công tác quản lý nhà nước về môi trường như trên mà quyền được sống trong môi trường trong lành ở Việt Nam vẫn còn hạn chế.

3. Giải pháp phát huy vai trò của Nhà nước trong việc đảm bảo quyền được sống trong môi trường trong lành

Để đảm bảo quyền được sống trong môi trường trong lành của con người ở Việt Nam, trong thời gian tới, Nhà nước cần làm tốt hơn nữa, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về môi trường của mình với những định hướng cụ thể như sau:

Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về bảo vệ môi trường. Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho tác động của con người đến tự nhiên nhằm ngăn chặn và trừng phạt những kẻ có hành vi phá hoại môi trường đồng thời hướng dẫn, khuyến khích những hành động mang lại lợi ích cho tự nhiên.

Thứ hai, đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra về môi trường. Tăng cường phối hợp giữa thanh tra chuyên ngành với Cục Cảnh sát môi trường (Bộ Công an), phát huy vai trò giám sát của nhân dân, cộng đồng có như thế mới phát hiện kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật. Hình thành các kênh thông tin giữa người dân và các nhà chức trách địa phương để kịp thời thông báo về các trường hợp vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường.

Thứ ba, tăng cường chế tài xử phạt vi phạm pháp luật về môi trường. Tăng mức phạt để đủ sức răn đe, tăng mức phạt sao cho mức phạt phải lớn hơn số tiền mà doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh bỏ ra để thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường. Với các hành vi không chịu nộp phí, lệ phí phải tăng mức phạt lên cao hơn mức phí thì mới đủ sức răn đe doanh nghiệp vi phạm, chống thất thu thuế. Bổ sung và làm rõ thêm một số hành vi vi phạm về môi trường. Đối với vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong bảo vệ môi trường, cần quy định rõ ràng hành vi nào gây nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm môi trường và hành vi nào không bị coi là tội phạm.

Thứ tư,hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về môi trường. Nhà nước cần kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về môi trường các cấp. Tiếp tục thành lập các chi cục bảo vệ môi trường cho các địa phương (tỉnh) chưa có, hình thành phòng tài nguyên và môi trường cho các huyện chưa có và thiết lập bộ phận chuyên trách quản lý môi trường cấp xã, thậm chí cả cán bộ chuyên trách quản lý môi trường ở thôn. Cần thành lập bộ phận thanh tra về môi trường cho cấp huyện và xã. Nhà nước cần xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về môi trường các cấp vững mạnh. Tăng cường số lượng cán bộ quản lý nhà nước về môi trường, trước mắt cần tăng cường lực lượng cho các địa bàn đang trống và những địa bàn kinh tế phát triển sôi động. Hiện nay, cả nước có hơn 11.000 xã, phường, thị trấn, do vậy nếu cần một cán bộ chuyên trách quản lý môi trường ở cấp này, thì cần hơn 11.000 cán bộ. Đặc biệt, Nhà nước cần chú ý nâng cao chất lượng cán bộ quản lý nhà nước về môi trường bằng nhiều hình thức tập huấn ngắn hạn hoặc đào tạo dài hạn.

Thứ năm, tăng cường sử dụng công cụ kinh tế trong việc bảo vệ môi trường. Nhà nước khuyến khích doanh nghiệp bảo vệ môi trường thông qua các biện pháp kinh tế như thuế, phí chất thải, phí phạt do gây ô nhiễm môi trường. Mức phí phải cao hơn chi phí vận hành hệ thống xử lý ô nhiễm và phải tính theo lũy tiến còn nếu thấp hơn chi phí vận hành thì cơ sở sẵn sàng nộp phí chứ không vận hành hệ thống xử lý ô nhiễm và phải đảm bảo nguyên tắc càng xả thải nhiều, nồng độ càng cao thì chi phí càng cao để khuyến khích các cơ sở giảm thiểu chất thải ra môi trường.

Thứ sáu, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyên và giáo dục về môi trường. Tuyên truyền về môi trường là phổ biến kiến thức về môi trường, nâng cao nhận thức và hình thành hành vi tích cực bảo vệ môi trường. Cần đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền như tờ rơi, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về môi trường, các phương tiện truyền thông, đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chương trình giáo dục của các bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân. Tổ chức tuyên truyền, tuyên dương khen thưởng những doanh nghiệp thực hiện tốt các quy định về bảo vệ môi trường, dán nhãn sản phẩm thân thiện với môi trường , tổ chức công khai thông tin về ô nhiễm và tình hình tuân thủ pháp luật về môi trường của doanh nghiệp với người dân, người tiêu dùng gây sức ép buộc các doanh nghiệp phải thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường.

Thứ bảy, tăng cường đầu tư cho công tác bảo vệ về môi trường. Tăng đầu tư và chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước cho công tác bảo vệ môi trường. Tăng dần mức chi sự nghiệp môi trường từ 1% lên 2% tổng chi ngân sách nhà nước giai đoạn 2015 – 2020. Cần xây dựng cơ sở thực tiễn cho việc phân bổ nguồn vốn này một cách hợp lý, tránh dàn trải, kém hiệu quả. Cần có cơ chế giám sát việc sử dụng nguồn kinh phí này cho đúng mục đích. Kinh phí của Nhà nước tập trung vào thực hiện các dự án về cải tạo, bảo vệ môi trường như xây dựng vườn quốc gia, trồng cây xanh, xây dựng các công trình làm sạch môi trường, hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sạch vào sản xuất để hạn chế tối đa các chất thải gây ô nhiễm môi trường. Nhà nước tăng cường đầu tư nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, nghiên cứu về xử lý chất thải, về chế tạo các công cụ, thiết bị bảo vệ môi trường, sản xuất và sử dụng nguyên liệu sinh học, năng lượng tái sinh… qua đó góp phần bảo vệ môi trường.

Quyền được sống trong môi trường trong lành là quyền thiết yếu để thực hiện nhiều quyền con người khác. Vì vậy, việc hiện thực hóa quyền được sống trong môi trường trong lành đã được Hiến pháp năm 2013 thừa nhận là yêu cầu cấp bách hiện nay, góp phần quan trọng trong việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam. Nhà nước cần ý thức rõ trách nhiệm của mình và có quyết tâm, nỗ lực cao để quyền con người này không chỉ được thừa nhận tại văn bản pháp luật cao nhất ở Việt Nam mà còn được đảm bảo tốt trên thực tế.

ThS. Trịnh Xuân Thắng

Học viện Chính trị khu vực IV



[1] PGS.TS. Nguyễn Thị Thơm, PGS.TS. An Như Hải: Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về môi trường, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 149.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Công tác bán đấu giá quyền sử dụng đất trên địa bàn tỉnh Nghệ An – Thực trạng và giải pháp

27/01/2016

Trong những năm qua, hoạt động bán đấu giá tài sản nói chung và bán đấu giá quyền sử dụng đất nói riêng trên địa bàn tỉnh Nghệ An luôn được sự quan tâm, chỉ đạo của Hội đồng nhân dân (HĐND) và Uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh. Để triển khai thực hiện Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản (Nghị định số 17/NĐ-CP) và các văn bản có liên quan, HĐND và UBND tỉnh đã ban hành kịp thời các văn bản theo thẩm quyền. Trên cơ sở đó, UBND tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành tổ chức quán triệt văn bản và thực hiện nghiêm túc các quy định, tạo sự thống nhất trong quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động bán đấu giá tài sản và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến việc bán đấu giá tài sản trên địa bàn tỉnh.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 8 tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp (trong đó 1 Trung tâm bán đấu giá tài sản trực thuộc Sở Tư pháp và 7 doanh nghiệp bán đấu giá tài sản), 19 đấu giá viên (trong đó có 11 đấu giá viên đang hoạt động tại các tổ chức bán đấu giá tài sản). Trong thời gian qua, các tổ chức bán đấu giá tài sản đã thực hiện việc bán đấu giá quyền sử dụng đất và UBND thực hiện việc giao đất, thu vào ngân sách của tỉnh 6.409.373.000.000 tỷ đồng. Nhìn chung, các tổ chức bán đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất, đã thực hiện các trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản bảo đảm chặt chẽ và khách quan, cơ bản tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn liên quan, đảm bảo thực hiện tốt công tác xã hội hóa hoạt động đấu giá trên địa bàn tỉnh, góp phần tích cực trong thực hiện tốt các giao dịch của tổ chức, cá nhân phục vụ phát triển kinh tế của tỉnh.Hoạt động bán đấu giá tài sản trong những năm qua đã có chuyển biến tích cực và đạt được một số kết quả nhất định, góp phần tăng nguồn thu ngân sách cho địa phương, đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Việc triển khai thi hành Nghị định số 17/2010/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn, nhìn chung nhận được sự quan tâm, ủng hộ của các ngành, các cấp ở địa phương. Chủ trương xã hội hóa tiếp tục được đẩy mạnh và vai trò quản lý của Nhà nước đối với tổ chức, hoạt động bán đấu giá tài sản tiếp tục được tăng cường.

1. Những khó khăn, vướng mắc của công tác bán đấu giá quyền sử dụng đất

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động bán đấu giá tài sản vẫn còn một số tồn tại, hạn chế do công tác tuyên truyền thực hiện chưa thường xuyên, dẫn tới số người nắm thông tin để tham gia đấu giá ít. Trong khi đó, quá trình chuyển nhượng, mua bán đấu giá đất liên quan đến chính quyền cơ sở, nên khi chuyển đấu giá đất cho các doanh nghiệp thực hiện, tâm lý người dân chưa thực sự tin tưởng cho nên không tham gia đấu giá.

Các tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp do bước đầu mới thành lập nên năng lực và kinh nghiệm thực tế của đấu giá viên ở một số tổ chức đấu giá chưa đáp ứng được trong từng hoạt động cụ thể. Còn tồn tại tình trạng “quân xanh, quân đỏ”, thông đồng, dìm giá, giá trị tài sản bán vượt mức giá khởi điểm chưa cao, chưa có tiêu chí lựa chọn tổ chức bán đấu giá, cơ chế kiểm soát việc bán đấu giá… Sự phân bổ đấu giá viên, tổ chức bán đấu giá tài sản không đồng đều giữa các vùng, miền. Trên địa bàn tỉnh, đội ngũ đấu giá viên và doanh nghiệp bán đấu giá tài sản hiện tập trung chủ yếu trên địa bàn thành phố Vinh, vẫn còn một số địa phương chưa thực hiện việc ký kết hợp đồng bán đấu giá với các doanh nghiệp bán đấu giá tài sản để bán tài sản như Quế Phong,Quỳ Châu, Tương Dương, Kỳ Sơn, Con Cuông.

Trong khi pháp luật về bán đấu giá tài sản hiện hành chưa đồng bộ, chưa thống nhất, còn tồn tại những mâu thuẫn, chồng chéo về trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản. Hiện nay, hoạt động bán đấu giá tài sản đang được điều chỉnh bởi nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Ngày 04/4/2015 Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư liên tịch số 14/2015/TTLT-BTNMT-BTP quy định việc tổ chức thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất (Thông tư liên tịch số 14/2015/TTLT-BTNMT-BTP) và Thông tư số 02/2015/TT-BTC ngày 05/01/2015 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung Thông tư số 48/2012/TT-BTC về hướng dẫn việc xác định giá khởi điểm và chế độ tài chính trong đấu giá quyền sử dụng đất (Thông tư số 02/2015/TT-BTC), không thống nhất dẫn tới việc một số nội dung của Quyết định số 74/2014/QĐ-UBND của UBND tỉnh về ban hành Quy chế bán đấu giá tài sản trên địa bàn tỉnh Nghệ An không còn phù hợp do một số quy định mới như:

– Quỹ đất được sử dụng để đấu giá theo quy định tại Điều 4 Thông tư số 14/2015/TTLT-BTNMT-BTP được bổ sung thêm; việc thành lập Hội đồng bán đấu giá quyền sử dụng đất trong trường hợp đặc biệt, ngoài các trường hợp được quy định tại Nghị định số 17/2010/NĐ-CP, theo quy định mới thì được thành lập tại các xã thuộc địa bàn miền núi cách trung tâm tỉnh lỵ từ 60 km trở lên mà tại địa bàn huyện nơi giao đất, cho thuê đất không có tổ chức có chức năng bán đấu giá theo quy định của pháp luật.

– Việc xác định giá khởi điểm để đấu giá quyền sử dụng đất còn chồng chéo: Thực hiện theo quy định tại Thông tư số 02/2015/TT-BTC thì thẩm quyền phê duyệt giá khởi điểm tại Điều 5 Thông tư 48/2012/TT-BTC do Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định; căn cứ tình hình thực tế tại địa phương, Chủ tịch UBND cấp tỉnh ủy quyền hoặc phân cấp cho Giám đốc Sở Tài chính, Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định giá khởi điểm đấu giá quyền sử dụng đất theo thẩm quyền. Cơ quan được giao nhiệm vụ chủ trì đấu giá quyền sử dụng đất có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị xác định giá khởi điểm tới Sở Tài chính (trong trường hợp giá khởi điểm do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Giám đốc Sở Tài chính quyết định) hoặc Phòng Tài chính – Kế hoạch (trong trường hợp giá khởi điểm do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định). Với quy định trên, thì cơ quan tài chính sẽ có trách nhiệm xác định giá khởi điểm trình UBND cấp có thẩm quyền quyết định.

– Theo quy định của Điều 9 Thông tư liên tịch số 14/2015/TTLT-BTNMT-BTP thì: “Căn cứ quyết định đấu giá quyền sử dụng đất, Sở Tài nguyên và Môi trường tổ chức thực hiện việc xác định giá khởi điểm của thửa đất đấu giá (gồm giá đất, hạ tầng kỹ thuật, tài sản gắn liền với đất nếu có) theo quy định của pháp luật và trình Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) phê duyệt… Căn cứ hồ sơ trình của Sở Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện phê duyệt giá khởi điểm của thửa đất đấu giá”. Quy định trên đã khẳng định: Sở Tài nguyên – Môi trường tổ chức thực hiện việc xác định giá khởi điểm của thửa đất đấu giá trình UBND tỉnh phê duyệt, trong khi đó lại không quy định rõ cơ quan nào thẩm định phương án giá khởi điểm. Điều này là không thống nhất với quy định của khoản 3 Điều 114 của Luật Đất đai năm 2013: “Cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh trình Hội đồng thẩm định giá đất xem xét trước khi trình Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định”.

Với quy định chồng chéo này thì việc xác định giá khởi điểm trong đấu giá quyền sử dụng đất sẽ gây khó khăn cho quá trình tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất tại địa phương. Mặt khác, ngày 08/6/2015, Bộ Tài chính vừa ban hành Văn bản số 7519/BTC-QLCS về việc xác định giá khởi điểm để đấu giá quyền sử dụng đất đã nêu rõ: Việc xác định giá khởi điểm để đấu giá quyền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 thực hiện thống nhất theo Thông tư số 02/2015/TT-BTC.

Như vậy, có thể nói đến thời điểm này, các hướng dẫn về việc xác định giá khởi điểm để đấu giá quyền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất chưa đồng bộ, nên việc áp dụng để tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất tại địa phương gặp nhiều vướng mắc, khó thực hiện.

Hiện nay, thể chế pháp lý chưa tạo nên chính sách thống nhất, đồng bộ để phát triển đội ngũ đấu giá viên chuyên nghiệp. Các quy định của Nghị định số 17/2010/NĐ-CP mới thể hiện một bước chuyên nghiệp hóa đội ngũ đấu giá viên, hiệu lực còn thấp vì chỉ là Nghị định trong khi các quy định khác liên quan đều được điều chỉnh bởi các Luật, Pháp lệnh, thiếu văn bản có hiệu lực pháp lý cao ở tầm luật để điều chỉnh thống nhất hoạt động bán đấu giá. Vì vậy, hiện tại chưa có cơ sở pháp lý đầy đủ để phát triển đội ngũ đấu giá viên theo yêu cầu của xã hội.

2. Những giải pháp

Để tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong hoạt động bán đấu giá quyền sử dụng đất, vừa quaUBND tỉnhđã tổ chức cuộc họp về công tác quản lý nhà nước lĩnh vực bán đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, sau cuộc họp UBND tỉnh đã ban hành Kết luận của đồng chí Lê Xuân Đại, Ủy viên Ban thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch UBND tỉnh về nhiệm vụ và giải pháp cần tập trung trong thời gian tới đó là:

– Sở Tư pháp và các ngành có liên quan tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền Nghị định số 17/2010/NĐ-CP và các văn bản pháp luật có liên quan về công tác bán đầu giá tài sản để cá nhân, tổ chức hiểu được các quy định về bán đấu giá tài sản và chủ trương “xã hội hóa” trong hoạt động bán đấu giá tài sản để có sự tin tưởng vào các tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp khi tham gia đấu giá; phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài chính và các ngành có liên quan thực hiện việc rà soát để tham mưu sửa đổi Quyết định số 74/2014/QĐ-UBND phù hợp với văn bản của trung ương trong năm 2016.

– Đối với sự bất cập giữa Thông tư số 02/2015/TT-BTC và Thông tư số 14/2015/TTLT-BTNMT-BTP về việc xác định giá khởi điểm trong đấu giá quyền sử dụng đất, để thống nhất thực hiện, trên địa bàn tỉnh vẫn tiếp tục thực hiện theo quy định tại Thông tư số 02/2015/TT-BTC.

– Về thành lập Hội đồng đấu giá quyền sử dụng đất trong trường hợp đặc biệt, các huyện có đủ điều kiện theo quy định tại Điều 5 Thông tư số 14/2015/TTLT-BTNMT-BTP làm văn bản trình UBND tỉnh đề xuất thành lập.

UBND các huyện, thành phố, thị xã tiếp tục phối hợp với các tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp trên địa bàn tỉnh thực hiện tốt công tác bán đấu giá theo đúng quy định của pháp luật.

– Các tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp cần nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp, nắm bắt kịp thời các quy định của pháp luật để khẳng định thương hiệu, tạo lòng tin cho các bên tham gia bán đấu giá tài sản, đáp ứng nhu cầu trong hoạt động bán đấu gái tài sản.

Nguyễn Quế Anh

Phó Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Nghệ An

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một vài suy nghĩ về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội

23/01/2013

1. Quốc hội và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội

Theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội, Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam(1). Vai trò, vị trí đặc biệt của Quốc hội trong bộ máy nhà nước ta, được thể hiện ở các khía cạnh sau:

Thứ nhất, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp; làm và sửa đổi Hiến pháp, luật để định ra các thiết chế nhà nước với chức năng nhiệm vụ xuất phát từ Hiến pháp, hay nói một cách khác, Quốc hội bằng quyền lập hiến và lập pháp của mình, quy định cụ thể tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước.

Thứ hai, Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.

Thứ ba, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.

Với vị trí đặc biệt của Quốc hội nêu trên, do đó, sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, ngoài những nội dung và phương thức lãnh đạo mang tính phổ biến trong việc lãnh đạo Nhà nước nói chung, thì phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội cũng có những hình thức biểu hiện, mức độ cũng như phương thức cụ thể không thể hoàn toàn giống như đối với các thiết chế khác của Nhà nước.

Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Đây là một thiết chế tạo lập ra nền tảng pháp lý cho sự tồn tại và phát triển của Nhà nước và xã hội – thiết chế đó vừa là Nhà nước, vừa là nhân dân. Do đó, sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội cũng cần phải phù hợp với vị trí đặc thù này của Quốc hội – xét cả về ý nghĩa chính trị và pháp lý. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội không đặt mình đứng trên Quốc hội, không đứng ngoài Quốc hội, không áp đặt nội dung lãnh đạo của mình, mà là sự lãnh đạo đứng trong Quốc hội, tạo điều kiện để Quốc hội thực quyền trong việc thực hiện các chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.

Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản ở nước ta là tất yếu. Đảng đã lãnh đạo nhân dân làm cách mạng và lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước.

Vị trí lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung và Quốc hội nói riêng được quy định bởi Hiến pháp “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”(2). Song Đảng lãnh đạo Quốc hội như thế nào và bằng phương thức gì luôn là vấn đề hệ trọng mà Đảng luôn phải tìm tòi sáng tạo và vận dụng hợp lý trong từng thời kỳ của cách mạng Việt Nam.

Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang tích cực thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và chuẩn bị sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Do đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với Quốc hội chính là yếu tố có ý nghĩa quan trọng tới việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội.

2. Một số nét về thực trạng phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội

Đảng lãnh đạo Quốc hội thông qua đường lối, quan điểm, các nghị quyết, các quyết định, chỉ thị, các nguyên tắc về vấn đề hệ trọng của đất nước. Phương thức này là phương thức quan trọng, cơ bản nhất để Đảng lãnh đạo Nhà nước nói chung và Quốc hội nói riêng. Phương thức lãnh đạo này của Đảng nhằm tác động đầu tiên đến định hướng lập pháp của Quốc hội và là cơ sở chính trị để Quốc hội xây dựng luật. Trên cơ sở đường lối và nghị quyết của Đảng, Quốc hội xây dựng kế hoạch lập pháp cụ thể.

Đảng lãnh đạo Quốc hội thông qua Đảng đoàn Quốc hội trong hoạt động lập pháp. Phương thức này hiện nay được thực hiện có hiệu quả, bảo đảm để nội dung Đảng lãnh đạo Quốc hội trong hoạt động lập pháp được giữ vững. Đảng đoàn Quốc hội là một tổ chức Đảng thực sự chịu sự lãnh đạo, quản lý của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị.

Đảng lãnh đạo bằng thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động Quốc hội thông qua Đảng đoàn Quốc hội và đảng viên và Đảng lãnh đạo thông qua việc lãnh đạo các cuộc bầu cử Quốc hội, thống nhất quản lý, giới thiệu và quyết định cán bộ ở một số chức vụ nhất định của Quốc hội.

Vì vậy, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung và đối với Quốc hội nói riêng cần tiếp tục nghiên cứu để đổi mới. Trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác xây dựng Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đánh giá về kết quả làm được là “Đảng đã từng bước cụ thể hóa và thể chế hóa các quan điểm của Cương lĩnh về phương thức lãnh đạo của Đảng, phát huy tốt hơn vai trò của các cơ quan nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, khắc phục dần khuynh hướng Đảng bao biện làm thay, cũng như buông lỏng, xem nhẹ vai trò lãnh đạo của Đảng”(3). Trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về công tác xây dựng Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đánh giá “Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới, vừa đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng vừa phát huy tốt hơn tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức trong hệ thống chính trị”(4).

Bên cạnh đó những khuyết điểm, yếu kém, “việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng còn chậm và lúng túng. Chậm nghiên cứu và ban hành những quy định cụ thể về phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước; chậm xây dựng các cơ chế phối hợp giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị. Thiếu những quy định cụ thể bảo đảm thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ trong Đảng. Chưa thực sự coi trọng đổi mới phong cách, lề lối làm việc”(5). “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội trên một số nội dung chưa rõ, chậm đổi mới. Chức năng, nhiệm vụ của đảng đoàn, ban cán sự đảng chưa được xác định rõ ràng, cụ thể nên hoạt động còn lúng túng. Phong cách, lề lối làm việc đổi mới chậm; hội họp vẫn nhiều”(6).

Đảng lãnh đạo Quốc hội thông qua định hướng hoạt động lập pháp, thông qua cơ sở chính sách pháp luật, thông qua mục đích của các đạo luật. Trên cơ sở đó Quốc hội xây dựng từng điều, kết cấu của luật, kỹ thuật lập pháp. Trước các kỳ họp Quốc hội, Đảng đoàn Quốc hội báo cáo với Bộ Chính trị về chương trình, nội dung của các kỳ họp, dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm hoặc cả khoá.

Kiểm tra, giám sát vừa là nội dung vừa là phương thức lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, hiện nay cơ chế kiểm tra, giám sát chưa thực sự có hiệu quả đối với quá trình xây dựng và thi hành pháp luật. Một số đạo luật ban hành sau khi có hiệu lực phải chờ các cơ quan quản lý nhà nước ra văn bản dưới luật, như thông tư, hướng dẫn thì mới được áp dụng. Từ đó, các ngành, các cấp rơi vào tình trạng chờ hướng dẫn, hoặc có những vận dụng theo cách hiểu chủ quan.

Các đại biểu Quốc hội và cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan của Quốc hội đóng vai trò quan trọng góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Những năm gần đây, nhiều cán bộ, đảng viên có kinh nghiệm công tác trong lĩnh vực luật pháp đã được giới thiệu, đề cử, điều động và bổ nhiệm trong các cơ quan của Quốc hội. Thông qua việc giới thiệu nhân sự và những cán bộ, đảng viên chủ chốt này, Đảng đã thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với Quốc hội một cách toàn diện. Bên cạnh đó, việc giới thiệu cán bộ cho Quốc hội có lúc vẫn chưa ngang tầm với yêu cầu về nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội.

3. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội

Để phát huy những kết quả đã đạt được và khắc phục những hạn chế nêu trên, theo chúng tôi, nên rút ra một số nhận định làm căn cứ cho việc đổi mới phương thức lãnh đạo.

Mỗi thời kỳ, Đảng phải có sự đổi mới về phương thức lãnh đạo cho phù hợp với nội dung lãnh đạo. Do mỗi giai đoạn có những đặc trưng riêng về điều kiện kinh tế – xã hội, nên chủ trương, đường lối của Đảng trong các giai đoạn là khác nhau, do đó phương thức lãnh đạo của Đảng với Quốc hội không thể bất biến, mà cũng phải có những thay đổi, tương thích với tình hình.

Phương thức lãnh đạo của Đảng có quan hệ hữu cơ với trình độ dân trí và trình độ dân chủ của xã hội. Khi dân chủ ngày càng được mở rộng, dân trí ngày càng được nâng cao, thì sự lãnh đạo của Đảng cũng phải được nâng cao cả về khoa học, tính thuyết phục và không thể lãnh đạo theo kiểu áp đặt thuần túy. Nhân dân với trình độ và ý thức chính trị cao, thì càng đòi hỏi tổ chức Đảng và đảng viên phải gương mẫu, được tham gia ngày càng sâu rộng, trực tiếp vào các công việc của Nhà nước nói chung và Quốc hội nói riêng và giám sát các hoạt động này.

Phương thức lãnh đạo của Đảng vừa tùy thuộc, vừa phải phản ánh được sự trưởng thành của tổ chức Đảng, của cán bộ, đảng viên. Khi trình độ của đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng cao thì các tổ chức Đảng sẽ trưởng thành cả về nhận thức và khả năng lãnh đạo. Mà mỗi bước trưởng thành của Đảng đòi hỏi phải có sự cải tiến về phương thức lãnh đạo.

Phương thức lãnh đạo phải căn cứ vào điều kiện vật chất và phương tiện phục vụ sự lãnh đạo. Sự phát triển nhanh chóng, đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng phải được thực hiện trên cơ sở bám sát và cập nhật thường xuyên thông tin một cách chính xác và đa chiều. Nếu không có thông tin, hoặc thông tin chậm, thông tin không đầy đủ sẽ ảnh hưởng đến việc ra quyết định, ảnh hưởng đến sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Điều đó đòi hỏi việc nâng cao và hiện đại hoá cơ sở vật chất, phương tiện, trang thiết bị làm việc, với cách thức làm việc từ xa, họp, giao ban qua mạng, lưu trình công việc…

Từ những phân tích, nhận định, suy nghĩ trên chúng tôi thấy đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội nên tập trung ở một số nội dung:

Một là, tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội thông qua cơ chế giám sát, kiểm tra việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, thiết lập và thực hiện cơ chế bỏ phiếu bất tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu và phê chuẩn.

Hai là, tiếp tục nâng cao vai trò lãnh đạo chính trị của Đảng trong công tác xây dựng Hiến pháp và pháp luật, mở rộng dân chủ trong lãnh đạo bầu cử Quốc hội, các quan điểm về xây dựng pháp luật.

Đảng chỉ cho ý kiến về tính cần thiết khi xây dựng luật, phương hướng, mục tiêu chung mà dự thảo luật cần phải đạt được, còn Quốc hội cần thể chế hoá quan điểm của Đảng trong xây dựng luật.

Ba là, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động cơ quan giúp việc của Quốc hội.

Theo chức năng của Quốc hội nước ta, Quốc hội có quyền giám sát tối cao các hoạt động của Nhà nước. Đây là chức năng rất quan trọng của Quốc hội, nhưng trên thực tế, kết quả còn hạn chế. Một phần do năng lực của Quốc hội, phần vì các điều kiện, cơ chế chưa cho phép Quốc hội thực hiện đầy đủ và mạnh mẽ chức năng này. Gần đây Quốc hội đã làm tốt việc chất vấn các thành viên của Chính phủ (cả ở Quốc hội và họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội), song nếu đứng ở vai trò phản biện thì chưa thực hiện rõ. Những việc này rất cần có sự tham mưu, giúp việc của cơ quan chuyên trách, giúp việc của Quốc hội.

Bốn là, nghiên cứu để từng bước thể chế hoá sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội.

Vấn đề quan trọng đặt ra là việc thể chế hoá, cụ thể hoá vai trò, chức năng tổ chức và hoạt động của các tổ chức Đảng ở các cấp, các ngành cho phù hợp với tình hình mới để vừa phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội. Hiện nay, Đảng có những quy định mà tổ chức Đảng và đảng viên được hay không được làm. Những quy định này nên sớm luật hoá, chẳng hạn: Sự tham gia của đảng viên vào các cơ quan dân cử, vào những chức vụ chủ chốt của Nhà nước, Chính phủ; quyền hạn, trách nhiệm và quy trình Đảng lãnh đạo việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội…

Năm là, nâng cao tính thuyết phục trong sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội.

Đảng muốn phát huy và sử dụng có hiệu quả quyền lực chính trị của mình thì không thể không dùng biện pháp giáo dục và thuyết phục. Muốn nâng cao tính thuyết phục trong lãnh đạo, tổ chức Đảng và đảng viên phải thực sự có trí tuệ, thực sự biết lắng nghe nhân dân, những ý kiến tâm huyết của các đại biểu Quốc hội, biết tập hợp và quy tụ ý kiến trong Quốc hội.

Sáu là, coi trọng việc tổng kết thực tiễn, từ đó đúc kết, phát triển lý luận, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo; hiện đại hoá công cụ, phương tiện phục vụ Đảng, phục vụ Quốc hội.

Chú trọng công tác điều tra xã hội học, điều tra dư luận xã hội, làm điểm một số mô hình…, tăng cường việc tham mưu, cố vấn của các nhà khoa học, các chuyên gia, của các tầng lớp nhân dân vào chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước. Đầu tư các trang thiết bị hiện đại đi đôi với mục đích sử dụng và khả năng sử dụng trang thiết bị đó, sao cho phục vụ tốt nhất cho công việc của Quốc hội.

ThS. Đỗ Việt Hà

Tài liệu tham khảo

(1)Điều 1, Luật Tổ chức Quốc hội

(2) Điều 4, Hiến pháp năm 1992

(3) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2006, tr. 268

(4) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2011, tr. 164 và 165

(5) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2006, tr. 272 và 273

(6) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2011, tr. 175

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thi hành án hành chính – Những chuyển biến tích cực và giải pháp hoàn thiện

24/02/2016

Thi hành án nói chung và thi hành án hành chính nói riêng là một trong những hoạt động tư pháp quan trọng của bộ máy nhà nước, nhằm bảo đảm cho các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được thi hành trên thực tế. Hoạt động thi hành án có hiệu quả, một mặt thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, thể hiện quyền lực nhà nước, mặt khác là công cụ hữu hiệu để khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và công dân bị xâm phạm. Tuy nhiên, thi hành án là một hoạt động khó khăn, phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, người có quyền và lợi ích liên quan, đặc biệt việc thi hành bản án, quyết định hành chính của Tòa án lại càng khó khăn hơn, bởi vì ngoài những đặc trưng của thi hành án nói chung, thi hành án hành chính còn có những đặc trưng riêng so với các hoạt động thi hành án khác.

Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác này, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản trong công tác thi hành án hành chính, ngày 24/11/2010, Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật Tố tụng hành chính, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2011. Luật Tố tụng hành chính năm 2010 đã dành Chương XVI với 8 điều (từ Điều 241 đến Điều 248) quy định về trình tự, thủ tục, thẩm quyền, trách nhiệm thi hành bản án, quyết định hành chính của Tòa án, cụ thể Điều 246 quy định về việc quản lý nhà nước về thi hành án hành chính.

Để hiểu rõ hơn về những khó khăn, vướng mắc và những kết quả đã đạt được trong thời gian qua về công tác thi hành án hành chính và những giải pháp giúp nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án hành chính, kính mời độc giả đón đọc bài viết “Thi hành án hành chính – Những chuyển biến tích cực và giải pháp hoàn thiện” của tác giả Nguyễn Phúc Đạt đăng trên Số chuyên đề 32 trang: Thi hành án dân sự tháng 2/2016 của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.

Chu Yến

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Vai trò của gia đình trong nhận thức và thực hiện bình đẳng giới

01/07/2013

Bình đẳng giới là sự thừa nhận và coi trọng như nhau về các đặc điểm giống và khác nhau giữa nam giới và nữ giới. Bình đẳng giới là nam giới và nữ giới cùng có vị thế bình đẳng và được tôn trọng như nhau; cùng được tạo điều kiện và cơ hội để phát huy khả năng và thực hiện các mong muốn của mình; cùng có cơ hội để tham gia, đóng góp và thụ hưởng từ các nguồn lực của xã hội và quá trình phát triển. Bình đẳng giới là bình đẳng về pháp luật, về cơ hội và các thành quả tạo ra, bao gồm sự bình đẳng trong việc tiếp cận nguồn lực, bình đẳng cho thù lao trong công việc, bình đẳng trong việc hưởng thụ các thành quả, bình đẳng trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến bản thân, gia đình và xã hội (bình đẳng trong tiếng nói). Thế giới đã trải qua hơn 100 năm của chặng đường bình đẳng giới. Nhìn lại những thành tựu và những tồn tại hiện nay của chặng đường đó, cả nhân loại phải thừa nhận thành quả của bình đẳng giới đã góp phần rất quan trọng vào sự tiến bộ chung của thế giới. Bình đẳng giới là cần thiết và có thể thực hiện được. ở Việt Nam, vấn đề bình đẳng giới đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm và được đánh giá là một động lực và mục tiêu phát triển quốc gia. Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới đã được cụ thể hóa trong Luật Bình đẳng giới do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2006 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2007. Bên cạnh đó, ngày 24 tháng 12 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2351/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020. Chiến lược có mục tiêu tổng quát là: “Đến năm 2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước”. Mặc dù vậy, việc thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam còn đứng trước không ít khó khăn, thách thức. Để thực hiện được mục tiêu này, rất cần đến sự phối hợp của nhiều yếu tố khác nhau. Trong đó, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và thực hiện bình đẳng giới là yếu tố quan trọng. Công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về bình đẳng giới và thực hiện bình đẳng giới thuộc về tất cả các thể chế trong xã hội, trong đó gia đình đóng vai trò quan trọng. Gia đình là nơi định hình các quan hệ giới, truyền tải những chuẩn mực về giới và quyết định những cơ hội cho các thành viên gia đình. Gia đình là nơi đưa ra các quyết định cơ bản như: Số con, việc nuôi dạy con, phân bố thời gian và nguồn lực sản xuất, tiêu dùng và đầu tư cho tương lai… Thực tế cho thấy, gia đình có thể làm trầm trọng hơn định kiến giới hoặc có thể làm dịu đi sự phân biệt giới. Có thể nói, gia đình đóng vai trò quan trọng trong nhận thức và thực hiện bình đẳng giới

1. Vai trò của gia đình trong nhận thức về bình đẳng giới

Gia đình là môi trường tuyên truyền, giáo dục tốt nhất về bình đẳng giới. Gia đình đóng vai trò cơ bản trong việc định hình mối quan hệ giới ngay từ những buổi đầu của cuộc sống con người và truyền tải chúng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Gia đình là nơi xã hội hóa vấn đề giới, truyền lại các kiến thức và kỹ năng về giới. Do vậy, nhận thức về bình đẳng giới của các thế hệ đi trước trong gia đình như ông bà, cha mẹ… tác động rất lớn đến nhận thức của các thế hệ kế tiếp. Trong gia đình, con người học những bài học đầu tiên về tôn ti trật tự, về sự tuân thủ, sự phân biệt đối xử. Con trai học cách quyết đoán và thống trị, con gái học sự phục tùng. Gia đình chính là nơi tạo ra tôn ti trật tự. Sự nhận thức không đúng đắn về giới và bình đẳng giới sẽ tạo ra những tôn ti trật tự trong đó làm giảm vị thế của nữ giới, dẫn đến bất bình đẳng giới ngay trong gia đình. Trong gia đình truyền thống, ông bà, cha mẹ truyền dạy cho cháu con những nguyên mẫu về các quan niệm và hành vi mong đợi được cho là thích hợp đối với mỗi giới và các kỳ vọng của xã hội đối với nam giới và nữ giới. Chẳng hạn, quan niệm chung về đặc điểm tính cách của nữ giới là dịu dàng, nam giới là mạnh mẽ, quyết đoán. Do vậy, phụ nữ được quan niệm là gắn liền với vai trò của người mẹ, người vợ, người nội trợ, là người phụ thuộc không quan tâm đến việc họ có thu nhập cao hay thấp; nam giới trở thành trụ cột về kinh tế, là tấm gương đạo đức, là chỗ dựa về tinh thần của phụ nữ và trẻ em, là người chủ gia đình, đại diện cho gia đình trong các quan hệ xã hội và cộng đồng. Những đặc tính trên của nữ giới hay nam giới thực chất là do xã hội gán cho hoặc mong đợi các cá nhân nam và nữ thực hiện. Quan niệm trên chính là những định kiến giới đã tồn tại từ thế hệ này đến thế hệ khác. Những định kiến giới đó đã dẫn đến tình trạng bất bình đẳng giới tồn tại phổ biến trong xã hội. Khi những định kiến giới tồn tại ở những người trực tiếp thường xuyên nuôi dạy trẻ như cha mẹ, ông bà… thì những quan niệm đó sẽ được thể hiện cụ thể thông qua các hành vi chăm sóc, giáo dục trẻ như: Trẻ em trai hay gái nên làm hoặc không nên làm gì, định hướng hoặc cho phép trẻ em trai và trẻ em gái được chơi các trò chơi theo giới, phân công lao động theo giới trong gia đình, đầu tư cho trẻ em trai và trẻ em gái khác nhau… Từ đó cho thấy, trẻ em có được đặc tính về giới mà đặc tính này sẽ xác định một loạt các hoạt động được xã hội chấp nhận cho nam và nữ cũng như mối quan hệ giữa chúng là từ gia đình. Do vậy, nhận thức của các thế hệ đi trước trong gia đình về giới và bình đẳng giới không đúng đắn sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến nhận thức và hành vi của các thế hệ sau. Điều này sẽ làm chậm mục tiêu bình đẳng giới. Ngược lại, khi các thế hệ đi trước nhận thức đúng đắn về bình đẳng giới, xóa bỏ định kiến giới thì họ sẽ truyền dạy cho các thế hệ kế tiếp những nhận thức đúng đắn đó. Đồng thời, nhận thức đúng đắn về bình đẳng giới của các thế hệ đi trước sẽ quyết định hành vi của họ trong việc chăm sóc, giáo dục, đầu tư… cho thế hệ tương lai. Sự quan tâm, chăm sóc, tình yêu thương của cha mẹ, ông bà dành cho trẻ em trai và trẻ em gái là như nhau. Con trai, con gái đều được tôn trọng như nhau. Sự đầu tư của cha mẹ, ông bà trong việc phát triển đối với trẻ con trai, con gái phải trên cơ sở năng lực, sở thích và cơ hội của mỗi người con mà không dựa trên giới tính. Sự phân công lao động trong gia đình phải trên cơ sở khả năng của mỗi người con mà không phụ thuộc vào giới tính… Hành động cụ thể trên sẽ tác động tích cực đến nhận thức, hành vi, cơ hội của thế hệ kế tiếp. Điều đó góp phần rút ngắn khoảng cách giới, tiến tới bình đẳng giới.

Vai trò tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng giới của gia đình không chỉ thể hiện trong việc truyền dạy của ông bà, cha mẹ và các thành viên khác của gia đình mà còn thể hiện trong việc làm gương của cha mẹ, ông bà và các thành viên khác trong gia đình. Cách đối xử của cha mẹ, ông bà với nhau phải thể hiện sự bình đẳng giữa nam giới và nữ giới, bởi hành vi của cha mẹ, ông bà sẽ là nguyên mẫu cho con cháu. Khi trong gia đình cha mẹ, ông bà tôn trọng nhau, chia sẻ công việc gia đình, cùng nhau bàn bạc và giải quyết các vấn đề… sẽ là tấm gương sáng cho con cháu học tập. Ngược lại, các hành vi thể hiện sự phân biệt đối xử hoặc bạo lực gia đình trên cơ sở giới, hình phạt cho các hành vi không đúng đắn, các mẫu người đàn ông và phụ nữ trong gia đình… sẽ tác động tiêu cực đến hành vi và nhận thức về bình đẳng giới đối với thế hệ trẻ.

Như vậy, để có được bình đẳng giới, trước hết trong gia đình cha mẹ, ông bà cần phải nâng cao nhận thức về bình đẳng giới vì chính họ là tác nhân quan trọng nhất trong trong việc tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng giới cho thế hệ trẻ. Khi các thành viên gia đình nhận thức đúng đắn về bình đẳng giới thì trẻ em trai và trẻ em gái ngay từ khi chào đời đã được cha mẹ, những người lớn tuổi đối xử bình đẳng. Khi lớn lên, được chứng kiến quyền bình đẳng giữa cha mẹ, ông bà; được hưởng quyền và thực hiện trách nhiệm bình đẳng với nhau. Gia đình mà trong đó nam giới và nữ giới được bình đẳng với nhau sẽ tiếp tục là môi trường tuyên truyền, giáo dục hiệu quả nhất về bình đẳng giới.

2. Vai trò của gia đình trong thực hiện bình đẳng giới

2.1. Gia đình là thể chế xã hội đầu tiên có thể xóa bỏ phân công lao động theo giới

Phân công lao động theo giới là việc phân công các công việc, các trách nhiệm khác nhau giữa nam và nữ. Sự phân công này là do xã hội gán cho mỗi giới và được truyền tải từ thế hệ này sang thế hệ khác nên được mọi thành viên của từng cộng đồng nắm vững.

Với tư cách là một thiết chế của xã hội, gia đình là một xã hội thu nhỏ, gia đình phản ánh đầy đủ các vấn đề của xã hội, trong đó nổi bật nhất là vấn đề bất bình đẳng giới. Gia đình – pháo đài kiên cố nhất của sự bất bình đẳng nam nữ. Mọi sự bất bình đẳng giữa nam và nữ đều bắt nguồn từ gia đình. Sự bất bình đẳng giới được bắt nguồn từ gia đình, được bao bọc bởi các quan hệ gia đình, tôn ti trật tự, nề nếp gia phong… nên bất bình đẳng giới diễn ra êm ái, dễ dàng và ít gặp sự phản kháng mãnh liệt từ phụ nữ. Địa vị của phụ nữ tác động tới sự phát triển nhận thức, sức khỏe, dinh dưỡng và giáo dục của con cái họ. Nếu địa vị của người phụ nữ thấp kém thì không chỉ ảnh hưởng xấu đến nhận thức, sức khỏe, dinh dưỡng và giáo dục của con cái họ mà còn ảnh hưởng xấu đến viễn cảnh tăng trưởng kinh tế của đất nước. Thiên chức của phụ nữ là mang thai, sinh con và nuôi con bằng sữa mẹ. Tuy nhiên, do nhận thức về vai trò giới và giới tính còn hạn chế nên nhiều người cho rằng công việc nội trợ cũng là thiên chức của phụ nữ. Vì vậy, phụ nữ luôn phải gánh vác công việc trong gia đình như: Chăm sóc con nhỏ, người già, người đau ốm; giặt giũ, đi chợ, nấu ăn; dọn dẹp nhà cửa… Chính những công việc này đã chiếm rất nhiều thời gian, sức lực của phụ nữ. Do đó, cơ hội tham gia vào thị trường lao động của phụ nữ rất thấp. Điều này dẫn đến thực tế là phụ nữ không trực tiếp lao động tạo thu nhập cho gia đình. Hệ quả là địa vị thấp kém và không có tiếng nói ngay trong gia đình của mình. Những phụ nữ được tham gia vào thị trường lao động thì tình hình cũng ít được thay đổi. Họ luôn phải đối mặt với áp lực công việc ngoài xã hội và công việc gia đình. Việc kết hợp hài hòa giữa chăm sóc gia đình, nuôi dạy con với nâng cao địa vị xã hội – nghề nghiệp là khó khăn lớn mà phụ nữ ngày nay phải đối mặt.

Gia đình là thể chế xã hội đầu tiên có thể làm thay đổi tập quán phân công lao động theo giới. Khi trong gia đình nam giới sẵn sàng chia sẻ việc nhà, thì phụ nữ có cơ hội tham gia vào thị trường lao động, phát huy khả năng và sở thích của mình, trực tiếp tạo thu nhập. Từ đó, phụ nữ có khả năng tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực, có tiếng nói trong gia đình. Điều đó, mang lại cho phụ nữ sự tự tin và địa vị của họ trong gia đình được nâng cao.

Như vậy, xóa bỏ tập quán phân công lao động theo giới là tiền đề quan trọng để giải phóng phụ nữ, phát huy khả năng của phụ nữ cho sự phát triển kinh tế gia đình, nâng cao địa vị của phụ nữ. Gia đình có vai trò quyết định trong việc xóa bỏ tập quán phân công lao động theo giới, góp phần xóa bỏ phân công lao động theo giới, tạo điều kiện thực hiện bình đẳng giới một cách hiệu quả.

2.2. Gia đình có thể quyết định đầu tư các nguồn lực trên cơ sở bình đẳng giữa nam và nữ

Con người đưa ra hầu hết những quyết định cơ bản của cuộc sống trong phạm vi gia đình, trong đó có việc đầu tư cho tương lai. Nguồn lực được phân bổ như thế nào giữa con trai và con gái, giữa vợ và chồng, mỗi người tùy thuộc vào giới tính của mình được trao quyền đến đâu, kỳ vọng của cha mẹ đối với con trai, con gái, của vợ, chồng đối với nhau có khác nhau hay không… Tất cả những điều này sẽ tạo ra và khoét sâu hay sẽ giảm bớt sự phân biệt giới. Định kiến giới đã dẫn đến người vợ và trẻ em gái ít có cơ hội được đầu tư cho sự phát triển con người hơn. Đa số các gia đình cho rằng, đầu tư cho người vợ và trẻ em gái thu được ít lợi suất cho gia đình hơn là đầu tư cho người chồng và trẻ em trai. Do vậy, tình trạng thất học, không được chăm sóc sức khỏe ở trẻ em gái cao hơn so với trẻ em trai. Trong quan hệ vợ chồng cũng tương tự, người vợ ít được đầu tư cho giáo dục và chăm sóc sức khỏe hơn so với người chồng. Gia đình là nơi đầu tiên xóa bỏ định kiến giới, làm thay đổi các quyết định đầu tư bất bình đẳng giữa nam và nữ. Việc đầu tư các nguồn lực của gia đình bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa con trai và con gái sẽ tạo cơ hội cho nam giới và nữ giới cùng được học tập nâng cao trình độ (văn hóa, nghề nghiệp), tiếp cận thông tin và khoa học kỹ thuật, chăm sóc sức khỏe. Từ đó, tạo điều kiện cho nữ giới có đủ khả năng về tri thức, sức khỏe tham gia thị trường lao động, kể cả thị trường lao động đòi hỏi trình độ cao.

Đồng thời, kết quả nghiên cứu xã hội học cho thấy, người vợ có học vấn cao và hiểu biết xã hội rộng sẽ tác động tốt đến việc nuôi dạy con. Học vấn của người mẹ sẽ làm cải thiện chế độ dinh dưỡng của con cái, thông qua chất lượng chăm sóc mà người mẹ dành cho con. Nghiên cứu các nước đang phát triển cho thấy, mối quan hệ ngược chiều mạnh giữa số năm đi học bình quân của người mẹ với tỷ lệ tử vong của trẻ. Điều tra về nhân khẩu và sức khỏe mới nhất tại hơn 40 nước đang phát triển cho thấy tử vong của trẻ dưới 5 tuổi thấp hơn tại các gia đình mà người mẹ có đi học tiểu học so với gia đình mà người mẹ không đi học, và còn thấp hơn nữa ở các gia đình mà người mẹ học đến trung học. Phụ nữ có học vấn cao hơn dường như sử dụng các dịch vụ chăm sóc con cái chính quy và đưa con đi tiêm chủng đầy đủ(1). Các phương pháp giáo dục tiên tiến trên thế giới đều cho thấy trình độ của người mẹ quyết định đến sự thành công của con trong học vấn và sự nghiệp. Những người mẹ “thông minh” sẽ dạy con với những phương pháp thông minh nhất và kết quả là con của họ cũng thành những người “thông minh”. Bên cạnh đó, vai trò cá nhân của người mẹ trong những năm đầu đời của đứa trẻ là con đường chính để bất bình đẳng giới có thể làm ảnh hưởng tới các thế hệ sau. Dinh dưỡng và sức khỏe của người mẹ kém có thể có những tác hại lớn cho việc mang thai và khả năng nuôi dưỡng con của người mẹ. Sự thất học và phụ thuộc vào người khác của người mẹ sẽ lấy đi sự hiểu biết và sự tự tin, làm suy giảm khả năng nuôi dưỡng và bảo vệ con của người mẹ. Đối với đứa trẻ sống trong đói nghèo ít có khả năng tiếp cận tới sự chăm sóc và phòng bệnh chính quy, thì người mẹ trở thành người bảo vệ đầu tiên và duy nhất. Như vậy, sức khỏe, học vấn, khả năng quyết định của người mẹ, nhận thức của người mẹ về giới… có vai trò quan trọng đối với việc sinh con (số con, khoảng cách giữa các lần sinh), cách nuôi dạy con, nhận thức của các thành viên gia đình về giới và bình đẳng giới… Do vậy, phân bổ nguồn lực trên cơ sở bình đẳng giới góp phần đảm bảo bình đẳng giới trong gia đình. Khi hiểu biết, học vấn, sức khỏe của phụ nữ được nâng cao sẽ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho các thành viên gia đình, đặc biệt là con cái.

Như vậy, gia đình phân bổ các nguồn lực đầu tư cho nam giới và nữ giới như nhau chính là biện pháp đảm bảo công bằng giới. Công bằng giới sẽ tiến tới bình đẳng giới. Tuy nhiên, quyết định đầu tư của các gia đình bình đẳng giữa nam và nữ lại được đặt trong khuôn khổ cộng đồng, phản ánh tác động của những động cơ khuyến khích mà thể chế và chính sách đã xác lập. Nền kinh tế quyết định rất nhiều cơ hội mà con người có thể nâng cao mức sống của mình, do đó chính sách và sự phát triển kinh tế có tác động mạnh mẽ đến bình đẳng giới. Trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn, thì cha mẹ sẽ phải cân nhắc xem đầu tư cho con trai hay cho con gái đem lại hiệu quả kinh tế hơn; con trai hay con gái có cơ hội tham gia vào quá trình lao động trình độ cao để tăng thu nhập hơn… Do vậy, gia đình có thể đưa ra các quyết định đầu tư nguồn lực bình đẳng giữa nam và nữ cần phải có nhận thức đúng đắn, có tầm nhìn chiến lược và vì lợi ích chiến lược của cá nhân, gia đình và xã hội.

2.3. Gia đình không có bạo lực – tiền đề quan trọng tiến tới bình đẳng giới

“Gần như tất cả hành động bạo lực ngoài chiến tranh có thể được coi liên quan tới giới”(2). Vai trò giới và những kỳ vọng về giới tạo ra sự tương tác và hành vi dẫn đến bạo lực. Sự kỳ vọng vào vai trò trụ cột của đàn ông trong việc đảm bảo cuộc sống của các thành viên gia đình và là người quyết định các vấn đề trong gia đình đã gây áp lực lớn cho người đàn ông. Khi nền kinh tế chuyển đổi hoặc có sự thay đổi trực tiếp trong công việc dẫn đến không còn khả năng kiếm tiền thì nhiều người cảm thấy bất lực, rơi vào tình trạng nghiện rượu, hành hạ vợ con, ly hôn… Đồng thời, quan niệm về vai trò là người “nối dõi” của nam giới ở các nước phương Đông đã dẫn đến tình trạng “trọng nam, khinh nữ” tồn tại dai dẳng. Điều đó dẫn đến hệ quả là lựa chọn giới tính thai nhi; phân biệt đối xử giữa con trai, con gái; hành hạ, ngược đãi con gái; con gái không được đi học… Trong bối cảnh mà nạn bạo lực gia đình diễn ra trên toàn cầu mà nạn nhân chủ yếu là phụ nữ thì có thể thấy gia đình là nơi tập trung chủ yếu nhất của sự áp bức đối với phụ nữ. Do vậy, hướng tới gia đình không có bạo lực là một trong những mục tiêu của bình đẳng giới. Để đạt được mục tiêu đó, mỗi thành viên gia đình phải tôn trọng các quyền cá nhân của các thành viên khác đã được pháp luật công nhận. Mặt khác, mỗi thành viên gia đình phải được đối xử công bằng. Mọi hành vi phân biệt dựa trên cơ sở giới đều được xóa bỏ.

3. Kết luận

Vấn đề bình đẳng giới đã được Đảng, Nhà nước ta đánh giá là có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của đất nước. Do đó, bình đẳng giới trở thành trung tâm của phát triển, là một mục tiêu phát triển, là một yếu tố để nâng cao khả năng tăng trưởng của quốc gia, xóa đói giảm nghèo và quản lý nhà nước có hiệu quả. Thiên vị và bất bình đẳng giới gây tổn hại đến thế hệ tương lai và làm cho sự chênh lệch giữa nam và nữ trong gia đình và ngoài xã hội trở nên dai dẳng. Bất bình đẳng giới ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của cá nhân và của đất nước. Theo các kết quả nghiên cứu, ba yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến bình đẳng giới là: Các thể chế (gồm các chuẩn mực xã hội, luật pháp và thị trường); gia đình; nền kinh tế. Trong ba yếu tố đó thì yếu tố gia đình tác động trực tiếp và thường xuyên nhất. Vì vậy, gia đình là mục tiêu quan trọng nhất của cuộc cách mạng về giới. Con đường nhận thức và hành động vì sự bình đẳng giới phải bắt đầu từ gia đình và ngay trong gia đình. Bất bình đẳng giới là nguồn gốc cơ bản về lịch sử, xã hội của những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu trong quan hệ vợ chồng. Những nhu cầu, lợi ích cá nhân không được đáp ứng trong hôn nhân dần trở thành xung đột và kéo theo hậu quả tiêu cực về mặt xã hội và gia đình. Do vậy, thực hiện bình đẳng giới trong gia đình là giải phóng phụ nữ – giải phóng một nửa của xã hội và góp phần xây dựng thể chế gia đình bền vững. Bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong gia đình nói riêng không phải chỉ vì phụ nữ, cũng không phải chỉ là vấn đề của phụ nữ mà còn là vì nam giới, là vấn đề của cả nam giới. Để có sự bình đẳng giới một cách thiết thực, đòi hỏi phải có sự tham gia của cả nam giới và nữ giới.

Tài liệu tham khảo:

(1). Đưa vấn đề giới vào phát triển. NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội – 2001, tr. 83, 84

(2). Đưa vấn đề giới vào phát triển. NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội – 2001, tr. 81

(3) Luật Bình đẳng giới năm 2007

(4) Ngân hàng Thế giới – Liên Hợp Quốc tại Việt Nam “Chuẩn bị cho tương lai: Các chiến lược ưu tiên nhằm thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt Nam”. Hà Nội, 2005

TS. Ngô Thị Hường

Đại học Luật Hà Nội

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Mối liên hệ giữa chính sách pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật

03/07/2013

Trong tình hình hiện nay, để tất cả cán bộ và nhân dân có ý thức chấp hành pháp luật cao, thì chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước ta phải được xây dựng và phát triển đúng với vị trí và vai trò của nó. Trước hết là cần phải xây dựng một nhận thức, quan niệm đúng đắn, đầy đủ về chính sách pháp luật, để từ đó có cơ sở lý luận chuyển hoá thành pháp luật, thành nguyên tắc ứng xử và ý thức pháp luật trong đời sống của cán bộ và nhân dân. Trong bài viết này, chúng tôi mong muốn làm rõ thêm dưới góc độ khoa học và thực tiễn các yếu tố cấu thành chính sách pháp luật, vị trí của chính sách pháp luật và ảnh hưởng của nó đến quá trình hình thành ý thức chấp hành pháp luật.

1. Chính sách pháp luật

Trong những năm qua, công tác xây dựng, phổ biến, giáo dục pháp luật đã được Đảng, Nhà nước quan tâm chỉ đạo, coi đó là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong việc tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật. Với sự nỗ lực và cố gắng của các cấp, các ngành, công tác xây dựng pháp luật đã có những chuyển biến tích cực, góp phần xây dựng ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của cán bộ và nhân dân. Đảng và Nhà nước ta cũng xây dựng các chương trình trọng điểm quốc gia về phổ biến, giáo dục pháp luật. Ngày 9/12/2003, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 32-TW/CT về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Trên cơ sở các Nghị quyết của Đảng, các chính sách pháp luật đã từng bước được thể chế hoá trong các văn bản pháp luật của Nhà nước, hệ thống pháp luật đã được bổ sung và ngày càng hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế.

Bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, Đảng và Nhà nước ta đã lấy con người là trung tâm, vừa là điểm xuất phát, vừa là mục tiêu của pháp luật. Xuất phát từ quan điểm đó, việc nghiên cứu về hoạt động áp dụng pháp luật, các thủ tục pháp lý, cơ chế bảo vệ quyền con người như là điều kiện để xây dựng lối sống theo pháp luật. Đây là những đảm bảo về thực tiễn và trực tiếp nhất cho việc nâng cao ý thức pháp luật, xây dựng lối sống theo pháp luật. Bên cạnh đó, xây dựng chính sách pháp luật còn phải bắt đầu từ sự nghiêm chỉnh tôn trọng pháp luật, không vì những lợi ích trước mắt, những sự tiện lợi và hợp lý hàng ngày mà làm giảm uy tín của pháp luật, gây sự bất chấp kỉ cương và phép nước.

Sự coi thường pháp luật còn có nguồn gốc từ tình trạng các vi phạm pháp luật và phạm tội không bị trừng trị kịp thời. Nguyên tắc không để sót kẻ phạm tội và xử lý nhanh chóng công minh đối với kẻ phạm tội có ý nghĩa không chỉ đối với hiệu quả hoạt động của cơ quan tư pháp và đối với việc đảm bảo lợi ích của xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, mà còn có ý nghĩa lớn đối với việc giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật. Nhiều trường hợp vi phạm pháp luật, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, vẫn không bị xử lý bằng pháp luật một cách công khai, mà theo lối xử lý nội bộ, đã là mất đi lòng tin của người dân vào pháp luật.

Pháp luật của ta đang trong thời kỳ chuyển đổi, vẫn còn những quy định chưa phù hợp với thực tiễn, những quy định pháp luật của chúng ta chưa chặt chẽ, chưa thật đồng bộ và đầy đủ. Nhưng nguyên nhân cơ bản nhất lại là con người, là chính những người thực thi công vụ. Vẫn có nhiều cá nhân coi thường và vi phạm pháp luật không được xử lý nghiêm và kịp thời.

Đối với quá trình xây dựng chính sách pháp luật cần chú ý đến tính chất khách quan của pháp luật. Nếu nhu cầu điều chỉnh pháp luật được phát hiện kịp thời và chính xác thì các quy định pháp luật được ban hành có ý nghĩa lớn, phát huy được hiệu lực và hiệu quả của nó. Ngược lại, khi có sự chậm trễ hoặc không chính xác thì kết quả có tác dụng ngược lại.

Một văn bản được cơ quan nhà nước ban hành, nhất là luật của Quốc hội và các pháp lệnh thường được đăng trên các báo trung ương và địa phương hoặc báo ngành. Nhưng không phải văn bản nào cũng được đăng trên báo và sự theo dõi của các cán bộ, nhân dân cũng ở những mức độkhác nhau. Việc phổ biến chính sách pháp luật đến được tầng lớp cán bộ và nhân dân là rất cần thiết.

Để chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước đi đến được với các cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước, cũng như đi đến được với đại đa số bộ phận người dân thì việc phổ biến nó là một việc vô cùng quan trọng. Thực tiễn ở nước ta, việc phổ biến các chính sách pháp luật thường thông qua các hình thức sau đây:

Qua đào tạo pháp luật: Đây là phương thức phổ biến kiến thức pháp luật đầy đủ, có hệ thống nhất trong tất cả các hình thức tìm hiểu pháp luật của nhân dân. ở hình thức này, kiến thức pháp luật được truyền đạt từ các nguyên tắc pháp luật, những quy định chung của ngành luật, các chế định và quy định cụ thể của luật. Các chương trình đào tạo pháp luật bao giờ cũng bao gồm các loại vấn đề cơ bản như thế. Các chương trình đó chỉ khác nhau ở mức độ kết hợp, theo mục đích đào tạo và trình độ đào tạo, chẳng hạn ở các trường đại học luật (hoặc khoa luật) thông thường kiến thức chung kết hợp với kiến thức cụ thể tương đối đồng đều. ở những năm cuối khoá mới bắt đầu việc đi sâu hơn vào các chuyên ngành, chẳng hạn, đào tạo chuyên gia luật hành chính, luật kinh tế, về tư pháp, công pháp quốc tế v.v… Đây là một hình thức rất quan trọng. Nhu cầu về pháp luật càng cao, thì đội ngũ luật gia chuyên nghiệp được đào tạo đầy đủ về pháp luật lại càng phải đông hơn. Đội ngũ đó càng đông thì kiến thức chung về pháp luật càng cao, vì không chỉ có họ được trang bị, mà còn có khả năng trang bị, phổ biến kiến thức pháp luật đầy đủ và chính xác cho người khác.

Qua phương tiện thông tin đại chúng: Hình thức này được áp dụng cho dân cư ở thành phố, cán bộ cơ quan nhà nước, tổ chức Đảng và đoàn thể quần chúng ở Trung ương, ở thành phố, thị xã lớn. ở nông thôn, nhất là miền núi, báo chí và các phương tiện thông tin khác rất hạn chế. Điều đó cho thấy, nếu chỉ trông chờ hoặc thoả mãn với việc công bố nội dung văn bản pháp luật qua các phương tiện thông tin đại chúng, thì không thể nói là mọi người đã có thể hiểu biết pháp luật. Sự thiếu sót và hẫng hụt ấy thường được bù đắp qua các kênh khác như truyền đạt của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, những việc làm đó là nhất thời, không phổ biến và do đó không thể coi là cái bù đắp được. Vả lại, sự truyền đạt bao giờ cũng thiếu chính xác ở mức độ khác nhau.

Qua học tập chính trị và quản lý: Ngày nay, với chủ trương tăng cường hiểu biết pháp luật cho cán bộ, nhân dân, nhiều đợt sinh hoạt chính trị đã có một số nội dung và kiến thức pháp luật theo tính chất của việc học tập chính trị. Chẳng hạn, trong các đợt nghiên cứu các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước, như Nghị quyết Đại hội Đảng, cương lĩnh và chiến lược, nghị quyết của Hội nghị Trung ương, bên cạnh các giải pháp kinh tế – xã hội, chính trị – tư tưởng, bao giờ cũng có nội dung có tính pháp luật.

Các chương trình đào tạo cán bộ quản lý của ta cũng đang dần dần dựa vào kiến thức pháp luật nhằm trang bị cho cán bộ quản lý về đường lối chung, trong đó bao gồm kiến thức pháp luật, đặc điểm của kiến thức đó là ở dạng nguyên tắc chung, nhu cầu chung hoặc nguyên lý phổ thông, kiến thức phổ thông. Các chương trình này chỉ ra nhu cầu phải tìm hiểu sâu về pháp luật còn bản thân các chương trình đó không cho lời giải đáp và không cung cấp nội dung pháp luật. Còn đối với các chương trình đào tạo cán bộ quản lý, kiến thức pháp luật thường phụ thuộc vào cường độ đào tạo, hướng (ngành) đào tạo, tính chất đào tạo.

Qua việc thảo luận, góp ý các dự án luật: Cơ chế xây dựng pháp luật bao gồm trong đó khâu trưng cầu ý kiến và thảo luận dự án luật. Qua quá trình đó, người dân có thể có điều kiện tiếp cận trực tiếp với quy định và nội dung của các điều luật sắp ban hành. Việc trưng cầu và tổ chức thảo luận dự án luật thường được tổ chức rộng hẹp tuỳ tính chất của văn bản. Ví dụ, dự thảo các văn bản pháp luật lớn như các Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Bộ luật Hình sự… thường được được tổ chức trong phạm vi cả nước và cho cán bộ và có thể có sự tham gia của nhân dân thông qua các tổ chức đoàn thể của mình. Đối với văn bản liên quan chủ yếu đến một số ngành hoặc một ngành thường chỉ được tổ chức nghiên cứu và thảo luận trong vị các ngành ấy là chính.

2. Ý thức pháp luật

Chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước có mối quan hệ mật thiết đối với ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. ý thức pháp luật là thước đo để đánh giá nhận thức của con người đối với các vấn đề ý thức của con người đối với các vấn đề ý thức lập pháp, là năng lực trong việc giải thích pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật. ý thức pháp luật có mối quan hệ mật thiết với chính sách pháp luật và giáo dục pháp luật. ý thức pháp luật là sản phẩm của quá trình phát triển xã hội chịu ảnh hưởng sâu sắc của các hệ tư tưởng và quan niệm xã hội, cũng như chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của chính sách pháp luật. Do đó, việc tìm hiểu các đặc điểm về mặt xã hội, về mặt nhận thức quá trình hình thành ý thức pháp luật là một việc khá quan trọng. Từ đó, xác định những mối liên hệ cần chú ý trong quá trình chuyển đổi nhận thức từ chính sách pháp luật của Nhà nước tới việc hình thành ý thức pháp luật.

Ý thức pháp luật, đó là trình độ hiểu biết của các tầng lớp nhân dân về pháp luật, trong đó có cả cán bộ nhân viên nhà nước, tổ chức Đảng, các đoàn thể nhân dân, đặc biệt là của cán bộ, công chức các cơ quan có chức năng trực tiếp thi hành, áp dụng và bảo vệ pháp luật. ý thức pháp luật còn là tháiđộ đối với pháp luật, ý thức tôn trọng hay coi thường pháp luật, đó là thái độ với những hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm.

Hoàn thiện pháp luật và hoàn thiện thực tiễn áp dụng pháp luật chính là việc hướng chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước trở thành ý thức pháp luật của công dân nói chung và của cán bộ, công chức nhà nước nói riêng, hai mặt này có mối liên quan khăng khít với nhau và phải luôn luôn được chú ý như nhau. Thông thường, người dân hiểu về pháp luật, xây dựng thái độ của mình đối với pháp luật ít khi trực tiếp qua chính văn bản pháp luật mà thông qua sự nhìn nhận, đánh giá về hoạt động của các cơ quan áp dụng pháp luật. Từ pháp luật đến với người dân là cả một quá trình rất phức tạp, từ chính sách đến thực tiễn thi hành. Quá trình đó phụ thuộc vào các yếu tố như: ý thức pháp luật và trình độ văn hóa chung của cán bộ, công chức của cơ quan pháp luật, khả năng của họ trong việc hiểu và vận dụng các quy định của luật (thực tiễn xét xử cho thấy đa số sai sót trong xét xử là do áp dụng sai điều luật), các khả năng về vật chất, kỹ thuật, phương tiện. ở mức độ cá nhân con người, ý thức pháp luật thể hiện tập trung thông qua các hành vi có ý nghĩa pháp lý.

Trên cơ sở hiểu rõ cơ cấu, nội dung ý thức pháp luật của các tầng lớp, thành phần dân cư và trên cơ sở đánh giá đúng các đặc điểm của việc hình thành lối sống theo pháp luật, cần đưa ra các biện pháp về lập pháp, về hành pháp và tư pháp, về giáo dục pháp luật, tuyên truyền, phổ biến pháp luật như là những đảm bảo trực tiếp cho quá trình xây dựng lối sống theo pháp luật. Xây dựng ý thức pháp luật, hình thành lối sống theo pháp luật chỉ có được định hướng đúng và với nội dung phù hợp khi xã hội, Nhà nước và mỗi công dân hiểu hết và hiểu đúng đắn tính chất của pháp luật, các mối liên hệ của pháp luật với những chuẩn giá trị và các công cụ điều chỉnh khác của xã hội. Điều này cho phép khắc phục tư tưởng coi thường pháp luật, đồng thời cũng cho phép khắc phục tình trạng làm giảm hiệu lực và hiệu quả của chính sách pháp luật, làm giảm giá trị và uy tín của pháp luật trong đời sống xã hội.

Ý thức pháp luật chịu ảnh hưởng ở những mức độ khác nhau của các yếu tố xã hội và các yếu tố nhận thức khác. Để hiểu được ý thức pháp luật và để có được cơ sở cho việc hình thành ý thức pháp luật cao và lối sống theo pháp luật, điều quan trọng là phải làm rõ những ảnh hưởng đó theo không gian, thời gian. Trong số những vấn đề cần nghiên cứu, sự chú ý lớn nhất được dành cho ảnh hưởng của các hệ tư tưởng, của văn hóa, đạo đức và tập quán truyền thống, của điều kiện phát triển đất nước và các cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội.

Trong quá trình áp dụng pháp luật, phải triệt để thực hiện nguyên tắc về tính tối thượng của pháp luật. ở đây, cần thấy hết ý nghĩa của việc giám sát sự tuân thủ Hiến pháp và pháp luật trong hoạt động xây dựng pháp luật, trong hoạt động áp dụng pháp luật. Từ góc độ của yêu cầu nâng cao ý thức pháp luật, nguyên tắc pháp chế có một ý nghĩa rất lớn. Pháp luật phải trở thành chế độ pháp quyền, được thể hiện thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân.

Hiện nay vẫn còn tình trạng kéo dài cơ chế xin cho, ban ơn, làm chậm một quá trình hình thành và phát triển cơ chế bình đẳng. Một phần nào đó làm giảm uy tín về chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước, có nguy cơ dẫn đến mất lòng tin vào những giá trị công bằng và khả năng điều chỉnh của pháp luật. Điều đó có tác dụng tiêu cực là làm giảm chất lượng của văn bản pháp luật được ban hành. Luật của ta trong nhiều trường hợp chưa tuân theo những quy luật nội tại của nó, làm cho nó thiếu tính hệ thống, thiếu chặt chẽ. Dần dần, trong thực tiễn pháp luật của ta đã hình thành một thiên hướng không coi luật của Quốc hội có hiệu lực thi hành trực tiếp, mà còn phải được bổ sung bằng các văn bản dưới luật nhằm hướng dẫn, cụ thể hóa luật.

Thực tiễn ở nước ta hiện nay, sau khi một văn bản luật ra đời, liền sau đó có một loạt văn bản dưới luật hướng dẫn thực hiện theo từng mảng vấn đề, các văn bản hướng dẫn đó về hình thức và tên gọi không có gì sai trái với luật, nhưng về nội dung thì trong một số trường hợp đã làm giảm tác dụng của luật, hoặc làm sai lệch một số nội dung cơ bản của nó. Các văn bản dưới luật chỉ tập trung vào giải thích những điều khó hiểu, chưa rõ hoặc những điều mâu thuẫn của văn bản luật, mà không được làm sai lệch nội dung chính của nó. Trong quá trình thi hành, vô hình chung, việc áp dụng pháp luật trong một số trường hợp đã vô hiệu hoá một số quy định của luật.

Tình trạng để cho luật phải chờ nghị định, nghị định chờ thông tư, đã làm phát sinh ở cơ quan quản lý và cán bộ các cơ quan đó ý thức chờ đợi, thiếu chủ động và đôi khi coi thường luật. Sau khi ban hành xong luật, các cơ quan, các cá nhân có trách nhiệm thường ít quan tâm đến việc thi hành luật, kiểm tra, giám sát quá trình đó, tạo điều kiện cho pháp luật đi vào cuộc sống và xem xét hiệu quả thực tế của nó. Nếu đề cao vai trò của pháp luật, tuyên truyền về những giá trị và khả năng của nó mà không đi liền với kiểm tra việc thực hiện pháp luật, không quan tâm đến hiệu quả thực tế, mặt mạnh, mặt yếu của nó từ khi được ban hành cho đến khi luật đó đi vào cuộc sống thì chỉ có thể dẫn đến chỗ làm mất giá trị của pháp luật.

Khác với quá trình xây dựng pháp luật chủ yếu do các cơ quan tập trung cao trí tuệ và khả năng của xã hội, quá trình áp dụng pháp luật do sự đa dạng của chủ thể áp dụng và điều kiện áp dụng pháp luật mà tác động của các yếu tố chủ quan là rất lớn và phức tạp. Các yếu tố đó rất nhiều, từ sự hiểu biết không đến nơi đến chốn về đặc tính và khả năng của pháp luật, cho đến các thói quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, v.v… áp dụng pháp luật phụ thuộc phần lớn vào thủ tục áp dụng. Nếu có nhiều luật, thậm chí là những luật tốt, mà không đủ các thủ tục tiện lợi và đầy đủ để áp dụng luật, thì pháp luật cũng chỉ dừng lại trên giấy, trên các trang công báo, trên các phương tiện thông tin đại chúng. Vì vậy, phải thấy hết vai trò của việc nhanh chóng kiện toàn các thủ tục pháp lý trên tất cả các lĩnh vực áp dụng pháp luật.

Mọi hiểu biết pháp luật đều thông qua lăng kính của bản thân từng con người. Như vậy, sự hiểu biết pháp luật và thái độ đối với pháp luật, suy cho cùng là do bản thân con người quyết định. Nhưng con người không phải là khái niệm chủ quan, trừu tượng, chung chung. Con người là tổng hoà các quan hệ xã hội. Lĩnh hội pháp luật như thế nào trước hết phụ thuộc vào điều kiện tiếp xúc với pháp luật và khả năng ghi nhận, hiểu biết về pháp luật, sau đó là ý thức tâm lí – xã hội, các yếu tố lợi ích, động cơ, các giá trị xã hội, v.v… sẽ chi phối thái độ đối với pháp luật.

Để nhân dân nắm được chính sách, nắm được pháp luật không phải là con đường tuyên truyền, phổ biến chung chung. Đó phải là sự vận động của tri thức thông qua hoạt động thực tiễn của con người, khi đó kiến thức pháp luật mới thực sự là kiến thức pháp luật trong hành động. Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi con đường cơ bản, phương pháp cơ bản của việc giác ngộ lợi ích, giác ngộ về chính trị, trong đó có giá trị luật pháp, là con đường lôi cuốn nhân dân đông đảo tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Tạo ra điều kiện tham gia thực tế của công dân vào các quan hệ pháp luật, trở thành chủ thể thực tế của pháp luật vừa là thước đo, vừa là điều kiện để nâng cao dân trí, trong đó có tri thức về pháp luật của nhân dân, khắc phục sự tha hoá về xã hội, tính thụ động và sự dè dặt đối với các quy định của pháp luật.

Sự cảm nhận và hiểu biết trên thực tế về chính sách pháp luật còn được hình thành trong những hoạt động khác mà người dân tham gia. Đó là những hoạt động bình thường về xã hội, về sản xuất, học tập, v.v… Trong quá trình tham gia các hoạt động bình thường đó, người dân đóng những vai trò và có những vị trí rất khác nhau, nhưng có rất nhiều hoàn cảnh pháp lý đòi hỏi họ phải có quan điểm xử sự, thái độ và cách giải quyết. Và qua đó, người dân tiếp xúc với pháp luật một cách tự nhiên. Do vậy, tính tích cực của người dân chỉ có thể hình thành và phát triển trên cơ sở hoạt động xã hội tích cực. Và đào tạo ra những điều kiện cho sự sống động của xã hội, trong kinh tế, trong sinh hoạt, trong đời sống chính trị và tinh thần, chính là tạo điều kiện để nhân dân am hiểu về pháp luật và ngược lại, chỉ có thể có tri thức văn hoá và sự ứng xử theo pháp luật mới có thể tạo ra hoạt động bình thường của xã hội.

Sự hiểu biết về chính sách pháp luật của cán bộ, nhân dân là yếu tố đầu tiên để hình thành ý thức pháp luật. Pháp luật phải qua nhiều hình thức khác nhau mới đến được với người dân và trở thành sự hiểu biết về pháp luật, tri thức pháp luật. Tri thức pháp luật tồn tại ở những dạng khác nhau. Có thể đó là các nguyên tắc chung, có thể đó là kiến thức cụ thể về điều luật cụ thể. Mỗi đối tượng có nhu cầu hiểu biết và khả năng hiểu biết khác nhau. Có người chỉ có nhu cầu có kiến thức chung, không có ý định đi sâu và không có nhu cầu hiểu cụ thể, có người ngược lại rất cần biết kiến thức cụ thể, các quy tắc chung không cần lắm cho họ. Đối tượng nào có nhu cầu như thế nào, đó là điều rất quan trọng để các cơ quan và tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật có hiệu quả, sử dụng có hiệu quả kiến thức pháp luật vào việc giải quyết các nhiệm vụ cụ thể của mình.

Xây dựng lối sống theo pháp luật không thể dựa trên cơ sở hiểu biết về tình hình vi phạm pháp luật ở các lĩnh vực quan trọng nhất của đời sống xã hội, không thể thiếu những thông số về nguyên nhân, điều kiện của các vi phạm, về toàn bộ cơ chế tâm lý của hành vi vi phạm pháp luật trong các điều kiện khách quan và tâm lý – sinh lý con người Việt Nam. Cần làm rõ những mối liên hệ, sự tác động qua lại giữa các loại vi phạm. Trên cơ sở đó, rút ra kết luận cho phép tổ chức việc đấu tranh phòng ngừa và chống các vi phạm pháp luật một cách đồng bộ. Ngăn ngừa và đẩy lùi các vi phạm và tội phạm là điều kiện để xây dựng nếp sống có trật tự, kỷ cương, tuân thủ pháp luật.

Khi nói đến xây dựng ý thức pháp luật, chính là đấu tranh phòng và chống hành vi thiếu tôn trọng pháp luật, vi phạm pháp luật, hạn chế và đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội. Không ngừng mở rộng, khuyến khích và tăng cường hành vi, hoạt động tuân theo pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành và tôn trọng pháp luật.

Tóm lại, chính sách pháp luật đúng đắn của Nhà nước là tiền đề và định hướng của việc giáo dục lối sống theo pháp luật và làm giàu tư duy pháp lý của cán bộ, nhân dân, giúp cho ý thức pháp luật của con người trong xã hội được nâng cao. Bênh cạnh đó, nó còn góp phần thiết thực vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

TS. Nguyễn Huy Hoà

Học viện Chính trị – Hành chính Khu vực III tại Đà Nẵng

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Kết quả thực hiện Đề án thực hiện liên thông các thủ tục hành chính: Đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi tại Nghệ An – Vướng mắc và giải pháp

23/02/2016

1. Những kết quả đạt được

Triển khai thực hiện Quyết định 1299/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định 2015/QĐ-BTP trên địa bàn tỉnh Nghệ An, UBND tỉnh Nghệ An đã có Công văn số 5791/UBND-TH ngày 13/08/2014 về việc triển khai thực hiện Quyết định số 1299/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ trong đó giao cho Sở Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Sở: Y tế, Nội vụ, Tài chính, Công an tỉnh, Bảo hiểm xã hội tỉnh và các cơ quan có liên quan tổ chức triển khai các nội dung theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

Thực hiện nhiệm vụ được giao, Sở Tư pháp đã tích cực chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành có liên quan, UBND các huyện, thành, thị tham mưu cho UBND tỉnh ban hành Quyết định số 7042/QĐ-UBND ngày 15/12/2014 về việc ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 1299/QĐ-TTg ngày 04/8/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thực hiện liên thông các thủ tục hành chính: Đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi trên địa bàn tỉnh Nghệ An.

Xác định đây là mô hình triển khai “3 trong 1” khi giải quyết đăng ký khai sinh – đăng ký thường trú – cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em; đảm bảo tiêu chí: Nhanh, gọn, hiệu quả, tiết kiệm, đem tới sự hài lòng cho người dân – những người được hưởng lợi ích trực tiếp từ mô hình này. Nếu như trước đây người dân phải đến 03 cơ quan khác nhau để giải quyết từng thủ tục (Ủy ban nhân dân đăng ký khai sinh, Công an đăng ký thường trú, cơ quan Bảo hiểm xã hội cấp thẻ bảo hiểm y tế). Do đó tạo ra sự lãng phí về thời gian, tốn kém về kinh phí cho cả người dân và cơ quan nhà nước vì mỗi cơ quan phải làm một bộ hồ sơ, khai đi khai lại nhiều thông tin cá nhân trùng lặp. Khi thực hiện liên thông 3 thủ tục, người dân chỉ cần đến một nơi (bộ phận một cửa của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn) nộp hồ sơ và nhận 3 kết quả (3 loại giấy tờ cá nhân đầu tiên của mỗi trẻ em: Giấy khai sinh, sổ hộ khẩu có ghi tên trẻ và thẻ bảo hiểm y tế) cùng tại nơi này. Chính từ việc triển khai mô hình liên thông này đã tạo ra sự gắn kết giữa các cơ quan có liên quan khi giải quyết thủ tục hành chính theo yêu cầu của người dân thay vì trước đây các thủ tục này được thực hiện riêng lẻ, khép kín trong từng ngành. Vì vậy, để Đề án sớm đi vào cuộc sống có hiệu quả, trong quá trình triển khai thực hiện, Sở Tư pháp đã có công văn đôn đốc, hướng dẫn UBND các huyện, thành, thị căn cứ vào Kế hoạch của UBND tỉnh để xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện tại địa phương mình. Ngày 21/5/2015, Sở Tư pháp đã tổ chức Hội nghị tập huấn hướng dẫn thực hiện các nội dung của Đề án cho đại diện Lãnh đạo UBND, Công an, Bảo hiểm xã hội, Y tế, Tư pháp các huyện, thành phố, thị xã.

Được sự quan tâm, chỉ đạo của UBND tỉnh và sự đồng thuận trong công tác phối hợp giữa các ngành có liên quan đến việc thực hiện các thủ tục hành chính như: Tư pháp, Công an, bảo hiểm y tế và UBND cấp huyện, cấp xã trong việc triển khai thực hiện Đề án. Đến nay, UBND các huyện, thành, thị đã xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Đề án ở địa phương mình. Đội ngũ cán bộ làm công tác đăng ký khai sinh, đăng ký hộ khẩu thường trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế ở cấp xã đã được kiện toàn vế số lượng, thường xuyên được tập huấn, đào tạo nâng cao trình độ, nghiệp vụ nên việc giải quyết các thủ tục hành chính đảm bảo đúng các quy định của pháp luật.

2. Những khó khăn, hạn chế

Về thể chế: Hiện nay, Bộ Tư pháp đang khẩn trương phối hợp với Bộ Công an, Bộ Y tế xây dựng dự thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện liên thông các thủ tục hành chính: Đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi. Tuy nhiên việc chậm ban hành Thông tư liên tịch cũng là một khó khăn cho địa phương khi triển khai thực hiện Đề án.

Về các điều kiện thực hiện Đề án: Để đảm bảo thực hiện Đề án, tạo điều kiện cho người dân trong việc giải quyết các thủ tục theo tinh thần cải cách hành chính thì phải đảm bảo các điều kiện về cán bộ và cơ sở vật chất. Hiện nay, đa số các xã, phường, thị trấn đã thành lập được Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa, tuy nhiên cơ sở vật chất cũng như chất lượng hoạt động ở một số địa phương hiệu quả chưa cao. Mặt khác, để thực hiện liên thông các thủ tục hành chính cần phải bố trí 01 cán bộ trung gian làm đầu mối để chuyển các thủ tục tới các bộ phận xử lý thủ tục. Đây cũng là vấn đề khó khăn đặt ra nếu không được bổ sung biên chế cho văn phòng UBND cấp xã.

3. Một số giải pháp và kiến nghị, đề xuất

Để tiếp tục triển khai thực hiện tốt Đề án này tại Nghệ An, trong thời gian tớiSở Tư pháp sẽ có những giải pháp sau:

Thứ nhất: Tiếp tục đôn đốc, hướng dẫn việc thực hiện Đề án và tham mưu kế hoạch tổng kết đánh giá những kết quả đạt được sau 01 năm triển khai thực hiện Đề án theo chỉ đạo của UBND tỉnh.

Thứ hai: Với trách nhiệm là cơ quan chủ trì thực hiện Đề án, sắp tới Sở Tư pháp sẽ phối hợp với các ngành có liên quan xây dựng kế hoạch kiểm tra cụ thể ở một số địa phương để đánh giá kết quả bước đầu thực hiện Đề án cũng như tổng hợp những khó khăn, vướng mắc ở cơ cở kịp thời kiến nghị với các cấp, các ngành có liên quan và tìm giải pháp khắc phục.

Thứ ba: Sau khi Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện liên thông các thủ tục hành chính: Đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi giữa Bộ Tư pháp – Bộ Công an và Bộ Y tế được ban hành, Sở Tư pháp sẽ tham mưu phối hợp với cơ quan Công an và Bảo hiểm xã hội ký Kế hoạch liên ngành để thực hiện thống nhất quy chế phối hợp trong việc thực hiện liên thông các thủ tục hành chính theo Quyết định số 7042/QĐ-UBND ngày 15/12/2014 của UBND tỉnh.

Thứ tư: Đối với các ngành có liên quan trên cơ sở nhiệm vụ được UBND tỉnh giao, chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện liên thông các thủ tục hành chính trong phạm vi do ngành mình quản lý; chỉ đạo Công an cấp huyện, phòng Y tế, Bảo hiểm xã hội cấp huyện phối hợp với phòng Tư pháp trong việc tổ chức triển khai thực hiện liên thông các thủ tục hành chính

Đối với UBND cấp huyện: Chỉ đạo Phòng Tư pháp, Công an, Bảo hiểm xã hội, Y tế cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc triển khai thực hiện liên thông các thủ tục hành chính cho trẻ em dưới 6 tuổi trên địa bàn; kịp thời hướng dẫn, tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn của Ủy ban nhân dân cấp xã trong quá trình thực hiện. Quan tâm bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất cho Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện liên thông các thủ tục hành chính

Đối với UBND cấp xã: Tích cực triển khai thực hiện liên thông các thủ tục hành chính: Đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi tại địa phương và quan tâm bố trí người có đủ năng lực, trình độ thực hiện việc liên thông các thủ tục hành chính; Quan tâm đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất đảm bảo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

Thứ năm: Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Công an, Bộ Y tế ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện liên thông các thủ tục hành chính: Đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi, trên cơ sở Thông tư, Sở Tư pháp sẽ tham mưu Kế hoạch liên ngành để thực hiện thống nhất quy chế phối hợp trong việc thực hiện liên thông các thủ tục hành chính trên địa bàn tỉnh.

Nguyễn Quế Anh

Sở Tư pháp tỉnh Nghệ An

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quyền con người trong tố tụng dân sự Việt Nam

28/03/2013

1. Lý luận về quyền con người trong tố tụng dân sự

Tố tụng dân sự được hiểu là tổng thể các quy trình, thủ tục, công đoạn có mối quan hệ chặt chẽ, liên tiếp với nhau để thông qua đó các chủ thể tiến hành tố tụng áp dụng pháp luật, đưa ra các biện pháp cần thiết để giải quyết các tranh chấp dân sự một cách khách quan, công bằng, đúng pháp luật và đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ tố tụng dân sự.

Tố tụng dân sự và dân sự có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu như dân sự được hiểu là các vấn đề liên quan đến nhân thân và tài sản, thì tố tụng dân sự cũng xuất phát từ mối quan hệ nhân thân và tài sản song chỉ phát sinh khi có tranh chấp xảy ra và có nhu cầu giải quyết các tranh chấp đó. Các chủ thể tham gia trong mối quan hệ pháp luật dân sự và tố tụng dân sự đều giống nhau bởi luôn hướng đến các quyền dân sự, kinh tế mà chính đối tượng của quan hệ dân sự (tài sản và nhân thân) mang lại. Tuy nhiên, còn một bộ phận chủ thể khác, tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự lại không xuất phát từ các lợi ích đó, mà nhóm chủ thể này tiến hành các thủ tục tố tụng vì lợi ích của hai bên đương sự (nguyên đơn và bị đơn). Do đó, so với quan hệ dân sự thì mối quan hệ tố tụng dân sự mang tính chất đa dạng về chủ thể, đa dạng về quyền lợi và cứng nhắc về quy trình, thủ tục. Bởi lẽ, trong tố tụng dân sự, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể được đưa ra bàn bạc, xem xét và giải quyết công khai, theo pháp luật. Vì thế, nếu quy trình, thủ tục giải quyết tranh chấp mang tính tùy tiện, thiếu khách quan và công minh thì quyền con người trong tố tụng dân sự sẽ bị xâm hại. Theo đó, cách thức và cơ chế nhà nước thiết lập nên để giải quyết tranh chấp về dân sự cho công dân sẽ không trở thành công cụ để bảo vệ quyền con người. Hậu quả là bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa không được thể hiện qua các chức năng giải quyết tranh chấp dân sự.

Với mục đích đó, việc bảo đảm quyền con người trong tố tụng dân sự đòi hỏi phải được tiếp cận trong tổng thể quyền dân sự của con người, gắn với toàn bộ quá trình tố tụng dân sự: Từ giai đoạn khởi kiện, nộp án phí, thụ lý đến giai đoạn xét xử, ra quyết định xét xử, ra bản án và thi hành án dân sự. Chính vì gắn với quyền dân sự, nên các tranh chấp dân sự được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ là các tranh chấp vụ việc dân sự, mà còn là các tranh chấp trong quan hệ thương mại, hôn nhân gia đình, lao động v.v… Do đó, giải quyết tranh chấp dân sự trong tố tụng dân sự gồm cả giải quyết tranh chấp dân sự, thương mại, lao động và hôn nhân gia đình. Đây là cách tiếp cận từ quyền dân sự, kinh tế trong Công ước quốc tế về quyền con người. Tố tụng dân sự trong bài viết này cũng giới hạn việc giải quyết tranh chấp thông qua con đường Tòa án, tuy nhiên, có tính đến việc so sánh cơ chế bảo vệ quyền con người thông qua quá trình giải quyết tranh chấp thương mại thông qua con đường Trọng tài để tìm ra các ưu thế của cơ chế bảo vệ quyền con người trong tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay.

Về lý luận, quyền con người trong tố tụng dân sự xuất phát từ những quyền tự nhiên của con người, các quyền đó được thừa nhận với những giá trị mang tính phổ quát nhất.

Trước hết, cơ sở lý luận về quyền con người trong tố tụng dân sự xuất phát từ hệ thống pháp lý quốc tế

Quyền con người trong tố tụng dân sự được Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người và các Công ước quốc tế về quyền con người và một số Nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc ghi nhận. Đây là những nguyên tắc chung nhất để từ đó, con người có cơ sở tự bảo vệ và yêu cầu các nhà nước thành viên bảo vệ họ. Trong tố tụng dân sự, luật pháp quốc tế thừa nhận sự tham gia của ba nhóm người, tương ứng với ba nhóm quyền con người trong tố tụng dân sự: Nhóm quyền của các bên tranh chấp (quyền của nguyên đơn, bị đơn); nhóm quyền của người tiến hành tố tụng (điển hình là Tòa án).

Thứ hai, lý luận về quyền con người trong tố tụng dân sự xuất phát từ hệ thống pháp lý quốc gia

Hệ thống pháp luật quốc gia có vai trò tạo cơ sở pháp lý cho con người được hành động trong khuôn khổ pháp lý khi tham gia các quan hệ pháp luật. Đối với tố tụng dân sự, các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự luôn xác định Hiến pháp, Bộ luật Tố tụng dân sự là những nguồn cơ bản, hữu hiệu không chỉ điều chỉnh hành vi mà còn là những đảm bảo pháp lý về quyền con người trong lĩnh vực tố tụng dân sự. Hệ thống pháp luật tố tụng dân sự xác định các nội dung cơ bản như:

– Nguyên tắc cơ bản trong quy trình tố tụng dân sự.

– Các quyền cơ bản của đương sự.

– Thẩm quyền và điều kiện đảm bảo việc thực hiện các quyền của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng cũng như trách nhiệm của người tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo quyền của đương sự và những người có liên quan trong tố tụng dân sự.

– Các quyền cơ bản của người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, phiên dịch v.v…

2. Thực tiễn đảm bảo quyền con người trong tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay

a. Ưu điểm

Quyền con người trong tố tụng dân sự đã và đang được cụ thể hóa trong văn bản quy phạm pháp luật mà điển hình là Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam. Năm 2004, Bộ luật Tố tụng dân sự được ban hành và đến năm 2011, Bộ luật Tố tụng dân sự lại được tiến hành sửa đổi, bổ sung để làm hoàn thiện và sâu sắc hơn cơ chế bảo vệ quyền con người trong tố tụng dân sự. Cụ thể như sau:

Một là, thay đổi quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự

Để đảm bảo quyền và lợi ích của chủ thể có tài sản, Bộ luật Tố tụng dân sự đã khắc phục bất cập trong quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 về thời hiệu khởi kiện. Theo đó, Bộ luật Dân sự đã được sửa đổi về trường hợp pháp luật không có quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với những tranh chấp về quyền sở hữu tài sản; tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu; tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai. Các tranh chấp không thuộc các trường hợp nêu trên thì thời hiệu khỏi kiện vụ án dân sự là vẫn là 02 năm, kể từ ngày cá nhân, cơ quan, tổ chức biết được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm như quy định trước đây.

Hai là, thẩm quyền của Tòa án

Việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự lần này đã mở rộng thẩm quyền giải quyết của Tòa án trong các vụ án về dân sự như: Yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu; Yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản; phân chia tài sản chung để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án.

Đối với các tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được bổ sung 02 loại là: Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu và tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Việc bổ sung hai loại tranh chấp này đảm bảo cho quyền về tài sản của người được thi hành án trong các tranh chấp dân sự.

Ba là, các quyền mới của các đương sự trong vụ án dân sự

Ngoài các quyền và nghĩa vụ được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 đã bổ sung thêm một số quyền cho các đương sự. Nếu như quy định trước đây chỉ cho phép đương sự đề xuất với Toà án những vấn đề cần hỏi người khác; được đối chất với nhau hoặc với nhân chứng thì Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011 đã ghi nhận cho đương sự có quyền được trực tiếp đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề liên quan đến vụ án khi được phép của Tòa án hoặc có quyền đề xuất với Tòa án những vấn đề cần hỏi với người khác; được đối chất với nhau hoặc với người làm chứng. Bên cạnh đó, Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung lần này cũng đã quy định chi tiết về trình tự, thủ tục đề nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm; thêm thủ tục mới là “Thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao”…

Trong thực tiễn tiến hành tố tụng dân sự, các cá nhân tiến hành tố tụng đã có ý thức đảm bảo các quyền con người của đương sự (nguyên đơn, bị đơn), quyền của luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích cho nguyên đơn, bị đơn. Chính từ việc đảm bảo các quyền con người trong tố tụng và sự thận trọng trong nghề nghiệp của người tiến hành tố tụng đã làm cho các trường hợp xử sai trong tố tụng dân sự giảm đi đáng kể.

b. Những vấn đề còn tồn tại

Mặc dù hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã ngày càng hoàn thiện, song để đảm bảo các quyền con người trong tố tụng dân sự trong thực tế thì cả hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và trong thực thi pháp luật tố tụng dân sự vẫn còn có những tồn tại như sau:

Thứ nhất, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011 chưa có hệ thống nguyên tắc đảm bảo quyền con người trong tố tụng dân sự đầy đủ và hoàn thiện

Về nguyên tắc tranh tụng, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung sau 7 năm có hiệu lực nhằm ghi nhận các giá trị của quyền con người, song trên thực tiễn vẫn chưa ghi nhận các nguyên tắc cốt lõi mang tính chất tuyên ngôn nhằm đảm bảo quyền con người trong tố tụng dân sự. Đó là nguyên tắc tranh tụng. Trong tố tụng dân sự, chúng ta bàn đến nguyên tắc xét xử dân chủ, công bằng, vô tư, khách quan. Bản chất và phương pháp để đạt đến sự dân chủ, công bằng, vô tư và khách quan chính là qua con đường tranh tụng. Trên thực tế, chúng ta thừa nhận yếu tố của các hành vi mang tên gọi là tranh luận và có nhiều người dễ dãi thì cho rằng tranh luận trong tố tụng gọi là tranh tụng. Vấn đề nguyên tắc tranh tụng không đơn giản chỉ dừng lại ở ý niệm khái quát về ngôn ngữ như vậy. Tranh tụng là một nguyên tắc để từ đó xác định chứng cứ, đánh giá chứng cứ, ra bản án thông qua quá trình tranh tụng minh bạch. Thông qua việc áp dụng nguyên tắc tranh tụng, thẩm phán xét xử theo pháp luật và bằng pháp luật, các đương sự bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình trên cơ sở các chứng cứ được đánh giá khách quan, rõ ràng.

Về nguyên tắc độc lập của tòa án, muốn đảm bảo quyền con người trong tố tụng dân sự thì nguyên tắc độc lập của tòa án cần thiết phải được đặt ra. Song thực tế tố tụng dân sự ở Việt Nam, thì nguyên tắc độc lập xét xử chỉ tuân theo pháp luật vẫn đang tồn tại một cách lệ thuộc vào mối quan hệ giữa các cơ quan, chủ thể tiến hành tố tụng dân sự. Hơn thế nữa, yếu tố tố tụng thẩm vấn hiện nay đang tạo ra cơ chế cho phép thẩm phán phải tham gia vào nhiều công đoạn tế nhị của tố tụng dân sự. Do đó, các thẩm phán chưa thể đáp ứng yêu cầu cơ bản của nguyên tắc độc lập của tòa án như: “Độc lập trong quá trình thực hiện chức năng của mình” hoặc “không được tham gia bất cứ hoạt động nào có khả năng làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng xét xử họ”. Như vậy, thực tế nguyên tắc độc lập của tòa án chưa được công nhận là một nguyên tắc của tố tụng dân sự, nên vô hình chung tạo ra một nguyên nhân khách quan cho thẩm phán khi tiến hành tố tụng thiếu đi mất sự độc lập cần phải có.

Về sự tham gia của Viện kiểm sát trong quá trình tố tụng dân sự, thực tiễn cho thấy, muốn đảm bảo quyền con người trong tố tụng dân sự một cách có hiệu quả, thì việc xây dựng mối quan hệ bình đẳng giữa các bên tham gia tố tụng là một vấn đề đáng cân nhắc ở Việt Nam hiện nay. Về lý luận, muốn các bên đương sự bình đẳng với nhau và thụ hưởng quyền bình đẳng, thì cần phải đánh giá lại vị trí của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự. Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự đảm bảo được tính pháp chế thì có đảm bảo được tính tự nguyện và bình đẳng giữa các bên trong quan hệ tố tụng dân sự hay không? Rõ ràng là đang có sự mâu thuẫn trong nhận thức về vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự. Vậy về mặt thực tiễn, Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự ở phiên sơ thẩm (ở các vụ án nhất định), tiến hành kháng nghị là phù hợp, song về mặt lý luận và xuất phát từ các nguyên lý cơ bản của ngành luật tố tụng dân sự, thì sự tham gia của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự đang phá vỡ mối quan hệ bình đẳng giữa các đương sự và với tòa án. Tuy nhiên, cũng cần phải tính đến thực tế vai trò của Viện kiểm sát đối với sự minh bạch của nền tư pháp để có được kết luận cuối cùng về vị trí của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự.

Thứ hai, các quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự đang đứng trước thực tế khó áp dụng, không mang tính khả thi

Về quy định liên quan đến nghĩa vụ chứng minh, thu thập chứng cứ và đánh giá chứng cứ, Bộ luật Tố tụng dân sự được soạn thảo theo nguyên tắc chứng minh trong tố tụng dân sự. Chứng minh trong tố tụng dân sự vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của các bên đương sự. Căn cứ vào lợi ích của mình, các bên đương sự đưa ra trước tòa những chứng cứ có lợi cho họ và không có nghĩa vụ phải cung cấp chứng cứ chống lại họ. Đây là nguyên nhân làm cho các vụ án bị kéo dài thời gian giải quyết. Liên quan đến vấn đề này, có quan điểm cho rằng, phải kéo dài thời gian đến bao giờ có chứng cứ thì thôi, vì Bộ luật Tố tụng dân sự chưa quy định về thời gian thu thập và xuất trình chứng cứ; có quan điểm cho rằng, cần phải quy định một thời gian nhất định cho việc thu thập chứng cứ để cung cấp cho thẩm phán. Vì chưa có quy định cụ thể nên hiện nay, các vụ tranh chấp dân sự bị kéo dài thời gian do nghĩa vụ thu thập chứng cứ chưa được quy định cụ thể và trách nhiệm bắt buộc Tòa án phải mở phiên tòa cũng đang ở dạng tùy nghi, nên quyền lợi của các bên đương sự đang bị ảnh hưởng rất nhiều, thậm chí nghiêm trọng.

Về quy định liên quan đến quyền chứng minh, trong tố tụng dân sự, quyền chứng minh của đương sự có thể phái sinh cho người có bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, việc xác định tư cách của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hiện nay đang trao cho Tòa án. Do đó, quyền tự do lựa chọn người bảo vệ cho các bên đương sự đang đứng giữa mâu thuẫn là Tòa án cho phép thì được bảo vệ và tiêu chí cụ thể nào để tòa án không cho phép thì chưa được quy định và liệt kê một cách đầy đủ, dẫn đến sự tùy tiện của Tòa án trong việc cho phép hoặc không cho phép họ được đại diện hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. ý chí tự nguyện của đương sự trong tố tụng dân sự khi lựa chọn luật sư, người bảo vệ quyền lợi trong tố tụng dân sự chưa đảm bảo.

Về trình tự, thủ tục tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự hiện nay chưa thể hiện được là một quy trình tố tụng đảm bảo tối đa sự tuân thủ các nguyên tắc tố tụng dân sự và đảm bảo quyền con người. Bởi lẽ, chưa có sự phân biệt và cụ thể của nguyên tắc hai cấp xét xử, chưa có sự phân biệt giữa thủ tục của tố tụng dân sự với tố tụng hình sự ở diễn biến, trình tự và giai đoạn của mỗi phiên tòa. Giai đoạn chứng minh, tranh luận trong tố tụng dân sự chưa có gì khác với chứng minh, tranh luận trong tố tụng hình sự mặc dù bản chất, hình thức và nội dung, cách thức đòi hỏi tố tụng dân sự và tố tụng hình sự phải không giống nhau mới thể hiện được rõ nét quyền con người trong tố tụng dân sự và quyền con người trong tố tụng hình sự cần phải diễn ra như thế nào mới phù hợp.

Thẩm tra trong tố tụng dân sự và giám sát của nhân dân, giám sát của Quốc hội chưa thể hiện trong tố tụng dân sự, mặc dù đây là ba cơ chế đảm bảo quyền con người một cách rõ nét. Đặc biệt, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011 đã thừa nhận cơ chế xem lại bản án như “Thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao” càng đòi hỏi mối quan hệ giữa đương sự với các cơ quan có thẩm quyền trong tố tụng dân sự phải được quy định cụ thể.

Như vậy, vấn đề đặt ra cần phải có giải pháp cụ thể không chỉ để cho các cơ quan tiến hành tố tụng dễ dàng trong việc giải quyết đúng thẩm quyền, đúng thời hạn, đúng pháp luật mà vấn đề cần phải đảm bảo tối đa quyền con người trong tố tụng dân sự. Để sự đảm bảo vững chắc nhất, theo chúng tôi, cần có sự đổi mới về nhận thức bắt nguồn từ các giá trị mà pháp luật quốc tế mang lại. Cụ thể:

+ Đảm bảo quyền độc lập cho tư pháp. Thẩm phán phải được tuyển chọn, bổ nhiệm đúng chất lượng, trình độ và quy chuẩn đạo đức. Quá trình thanh lọc các thẩm phán không đủ tiêu chuẩn, trình độ và đạo đức cần phải tiến hành từ phía kiến nghị của người dân.

+ Đảm bảo tranh tụng được xem là một nguyên tắc trong tố tụng dân sự song có sự phân biệt cụ thể và rõ ràng giữa sự khác nhau của tranh tụng trong tố tụng hình sự với tranh tụng trong tố tụng dân sự từ thu thập chứng cứ, chứng minh lẫn phán quyết.

+ Đảm bảo địa vị bình đẳng của các chủ thể tham gia tố tụng dân sự, đặc biệt là cơ chế để luật sư, người bào chữa tham gia các quá trình tố tụng dân sự theo nhu cầu của nguyên đơn, bị đơn.

Tố tụng dân sự cần phải được hiểu là quá trình nhà nước, các cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền đứng ra giải quyết tranh chấp giúp hai bên đương sự theo thủ tục tư pháp dân chủ. Do đó, nguyên tắc dân chủ, công khai, khách quan phải là nguyên tắc được quán triệt trong việc xây dựng pháp luật tố tụng dân sự, đồng thời cũng là nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của Tòa án.

Cần phải có thống kê, tổng kết, xác định số lượng các án dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân gia đình để thành lập các tòa chuyên trách và đội ngũ thẩm phán phù hợp với chuyên môn hơn. Ví dụ như thành lập Tòa án hôn nhân gia đình, Tòa án bảo vệ người tiêu dùng, Tòa án đất đai v.v… Bởi mỗi loại tranh chấp cần phải có thủ tục tố tụng dân sự riêng và thời gian thụ lý, xét xử cũng phải tính đến tính đặc thù của từng vụ án

TS. Trương Thị Hồng Hà

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật

22/01/2013

Hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật là vấn đề đang được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau. Trong số này, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật xin giới thiệu bài viết của TS. Trần Thị Thu Phương và mong sẽ nhận được những ý kiến trao đổi về vấn đề này.

1. Khái niệm hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật

Hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật là kết quả của sự tác động của văn bản quy phạm pháp luật đến các quan hệ xã hội so với các yêu cầu, mục tiêu khi ban hành văn bản đó. Nếu như hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật thể hiện thuộc tính của các quy phạm pháp luật, thì hiệu quả của một văn bản quy phạm pháp luật lại là những gì mà văn bản đó có thể đem lại trong cuộc sống, là kết quả của sự tương tác giữa pháp luật và xã hội, bởi chức năng chính của pháp luật là điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật hướng cho các chủ thể sống và làm việc một cách hợp tác với nhau, để cùng nhau đạt được những gì họ muốn, vì lợi ích của tất cả thành viên trong xã hội.

Từ một vài năm trở lại đây, việc xem xét, đánh giá một văn bản quy phạm pháp luật không còn dừng lại ở việc đánh giá nó theo các tiêu chí nội tại nữa. Ý nghĩa của sự tồn tại một văn bản quy phạm pháp luật giờ đây còn được xem xét ở một góc độ khác, đó là tính hiệu quả, là kết quả của sự tác động của các quy phạm pháp luật đến các quan hệ xã hội được điều chỉnh, đến các đối tượng được áp dụng. Xu hướng trên xuất phát từ học thuyết về tính kinh tế của pháp luật được các học giả Hoa Kỳ phát triển trong những năm 70 của thế kỷ XX. Thuyết này đề cao vai trò của kinh tế học trong lĩnh vực pháp luật. Những lý thuyết về kinh tế áp dụng trong lĩnh vực pháp luật đã tạo nên xu hướng đánh giá hiệu quả của pháp luật dựa trên các chi phí giao dịch, từ đó hình thành nên lý thuyết về kinh tế học pháp luật. Theo học thuyết này, hiệu quả của quy phạm pháp luật, hay nói rộng ra là của một văn bản quy phạm pháp luật sẽ được đánh giá dưới góc độ các chi phí bỏ ra. Hiệu quả đó tỷ lệ nghịch với chi phí thực hiện. Quy chế càng nặng nề thì càng khó đem lại hiệu quả, bởi nó thường đi liền với hệ thống cơ quan thực thi cồng kềnh, quy trình ra quyết định chậm chạp, thủ tục hành chính phức tạp, tốn kém.

Ở trên thế giới, hiệu quả của một luật được đánh giá căn cứ vào mục tiêu mà các nhà làm luật đặt ra cho luật. Cụ thể, một luật có hiệu quả khi luật đó đạt được các mục tiêu đặt ra. Ở Việt Nam, một khái niệm tương đồng có thể được tìm thấy trong Từ điển Luật học, đó là “hiệu quả của pháp luật”. Theo Từ điển Luật học, hiệu quả của pháp luật được hiểu là kết quả cụ thể của sự tác động pháp luật đến các quan hệ xã hội so với mục tiêu, yêu cầu đặt ra khi ban hành pháp luật. Hiệu quả của pháp luật có thể được đánh giá theo từng cấp độ khác nhau: hiệu quả của quy phạm pháp luật, của chế định pháp luật, của ngành luật, của toàn bộ hệ thống pháp luật hoặc nếu phân chia theo hình thức, chúng ta xét đến hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật. Đây cũng là khái niệm mà chúng tôi muốn hướng đến trong phạm vi nghiên cứu này.

Hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật đề cập đến mối quan hệ giữa pháp luật và xã hội. Đây không đơn thuần là vấn đề pháp lý, mà bao trùm cả vấn đề xã hội có liên quan. Pháp luật thuộc phạm trù lý thuyết và xã hội thuộc phạm trù thực tiễn. Pháp luật được hình thành từ nhu cầu thực tiễn, nhưng không phải lúc nào cũng phản ánh đúng thực tiễn. Giữa lý thuyết và thực tiễn luôn tồn tại khoảng cách. Khoảng cách này sẽ ngày càng rộng nếu pháp luật không xuất phát từ nhu cầu của xã hội, không phản ánh đúng các giá trị của cuộc sống. Pháp luật cần phải được đánh giá trong mối quan hệ với hành vi, xử sự của các chủ thể, cũng như trong sự chuyển động và phát triển của xã hội. Sự hình thành, phát triển của pháp luật phải được đánh giá trong một xã hội nhất định, xã hội này quyết định sự tồn tại trong không gian cũng như về thời gian của pháp luật. Chính vì vậy, hiện nay ở các nước có các môn xã hội học pháp luật, kinh tế học pháp luật. Những môn này có mục đích là đề cao các yếu tố kinh tế, xã hội trong việc thực hiện pháp luật, đánh giá sự hình thành và phát triển của pháp luật trong sự phát triển của các hiện tượng xã hội, đặc biệt là của các quan hệ kinh tế, dân sự, chính trị. Do vậy, có thể nói, thực tế chính là thước đo kiểm nghiệm hiệu quả của pháp luật.

Hiệu quả của một văn bản quy phạm pháp luật thể hiện sự phản ánh của dư luận xã hội về văn bản đó. Thực tế, tác động của dư luận xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến ý thức pháp luật, đến tâm lý pháp luật của người dân, từ đó tác động đến hiệu quả của quy phạm pháp luật (1). Văn bản quy phạm pháp luật không hiệu quả sẽ tạo ra khoảng cách giữa pháp luật và người dân. Nếu khoảng cách này càng lớn, thì nguy cơ không tôn trọng pháp luật càng cao, bởi vì một phần họ mất lòng tin vào pháp luật, một phần khác là vì pháp luật không phù hợp với tâm lý pháp lý trực cảm của đa phần dân chúng (2). Như một tác giả đã viết: “Nếu muốn người dân cần đến pháp luật, tức là có nhu cầu đối với pháp luật thì trong tâm thức người dân, pháp luật phải là cách giải quyết được ưu tiên, phải đáp ứng những yêu cầu nhất định, tiếp đến phải làm sao để người dân biết đến pháp luật đó, ở đâu lúc nào, luật nào dùng cho mục đích gì và sẽ được sử dụng như thế nào trên thực tế tại Tòa án ở nước ta” (3).

Một văn bản quy phạm pháp luật không hiệu quả có thể biểu hiện ở những khía cạnh sau: thứ nhất, văn bản quy phạm pháp luật không thực hiện được mục tiêu mà các nhà làm luật đặt ra khi soạn thảo và ban hành. Ví dụ như mục tiêu của Luật Bảo vệ môi trường là nhằm giảm bớt ô nhiễm môi trường, khắc phục ô nhiễm, suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường. Tuy nhiên, Luật này có thể được xem là chưa hiệu quả khi hiện nay ở Việt Nam, tình trạng ô nhiễm môi trường diễn ra ngày càng nhiều, với mức độ ngày càng nghiêm trọng. Thứ hai, văn bản quy phạm pháp luật tạo ra những tác động không mong muốn đối với xã hội. Thực tế cho thấy, có những văn bản quy phạm pháp luật được ban hành không đạt được mục tiêu được các nhà làm luật đề ra, mà lại dẫn đến một kết quả không mong đợi khác. Ví dụ về quy định cấm họp chợ ở vỉa hè, lòng đường, cấm họp chợ cóc (Nghị định 34/NĐ-CP ngày 2/4/2010 của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ). Quy định này có thể được coi là không hiệu quả khi vẫn xuất hiện tình trạng bán hàng rong. Đấy là những kết quả không mong muốn. Hay trong thời gian gần đây, hiệu quả của pháp luật được quan tâm hơn lúc nào hết qua vụ việc một lái xe tải cố ý cán chết người. Sự việc xảy ra khi lái xe đâm bị thương một cô gái. Sau đó, lái xe đó đã quyết định cán chết cô gái đó. Bởi căn cứ vào quy định của pháp luật, cụ thể là của Bộ luật Dân sự, lái xe gây tai nạn sẽ phải chịu các chi phí bồi thường rất lớn cho nạn nhận bị thương. Do vậy, người lái xe đã cán chết người bị thương để có thể giảm thiểu chi phí đền bù cho gia đình nạn nhân (xem Điều 609, 610 Bộ luật Dân sự). Như vậy, có thể thấy rằng, chính các quy định của pháp luật đã khiến cho người lái xe thay đổi cách xử sự, từ một vụ vô ý gây thương tích dẫn đến cố ý giết người, bởi trách nhiệm dân sự do gây tai nạn chết người lại nhỏ hơn nhiều so với trách nhiệm dân sự do gây thương tích. Trong trường hợp này, hiệu quả của pháp luật dường như đã không được bảo đảm.

Như vậy, hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật chính là tiêu chí cần thiết để đánh giá ý nghĩa của sự tồn tại hay giá trị của văn bản đó. Giá trị của một văn bản quy phạm pháp luật được đánh giá qua những tác động cụ thể của nó vào thực tiễn các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh và những tác động này được xem xét trong mối tương quan với các mục tiêu đặt ra cho văn bản. Đây là một xu hướng mới trong việc đánh giá và cải cách hệ thống pháp luật.

2. Các yếu tố tạo nên hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật

Để có thể đánh giá được hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật, trước tiên chúng ta cần phải xác định rõ các căn cứ để đánh giá.

Một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu quả khi đạt được những mục tiêu mà các nhà làm luật mong đợi, yêu cầu. Nhưng để có thể đạt được những mục tiêu này, văn bản quy phạm pháp luật đó phải có hiệu lực, có giá trị bắt buộc đối với các chủ thể thuộc đối tượng áp dụng của nó.

a. Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật

Để một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu quả, trước hết nó phải có hiệu lực. Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật là cơ sở nền tảng tạo nên hiệu quả của văn bản. Ngược lại, hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật phản ánh hiệu lực của văn bản đó. Một văn bản quy phạm pháp luật chỉ có hiệu quả khi nó được tuân thủ nghiêm túc.

Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được hiểu là tính bắt buộc thi hành của văn bản quy phạm pháp luật ở một giai đoạn nhất định, trong một không gian nhất định và đối với những chủ thể pháp luật nhất định (cá nhân, cơ quan, tổ chức). Như vậy, hiệu lực là thuộc tính của văn bản quy phạm pháp luật. Đã là văn bản quy phạm pháp luật thì phải có tính bắt buộc thi hành. Nếu không, văn bản quy phạm pháp luật đó sẽ không còn giá trị tồn tại. Tuy nhiên, trên thực tế, xảy ra tình trạng có những văn bản quy phạm pháp luật, nhưng lại không được các chủ thể tuân thủ. Tình trạng trên xảy ra do nhiều nguyên nhân. Theo chúng tôi, các nguyên nhân này có thể được chia thành hai nhóm sau:

Nhóm thứ nhất xuất phát từ chính các yếu tố nội tại của văn bản quy phạm pháp luật. Đó là các yếu tố liên quan đến chất lượng của các quy phạm pháp luật. Để văn bản quy phạm pháp luật phát huy được hiệu lực, các quy phạm pháp luật phải đáp ứng các yêu cầu về mặt hình thức cũng như nội dung. Tuy nhiên, cũng cần phải khẳng định rằng việc phân biệt giữa mặt nội dung và mặt hình thức chỉ là tương đối, mang giá trị học thuật. Về mặt hình thức, một quy phạm pháp luật dù được soạn thảo đúng quy trình, thủ tục, nhưng không bảo đảm kỹ thuật soạn thảo, (ví dụ không đảm bảo đúng cấu trúc của quy phạm pháp luật, hoặc không rõ ràng về mặt ngữ nghĩa), sẽ khó có thể đem lại hiệu lực mong muốn. Ngược lại, những quy phạm được soạn thảo tốt về mặt kỹ thuật nhưng không được cơ quan có thẩm quyền ban hành thì cũng sẽ không có hiệu lực. Do vậy, văn bản quy phạm pháp luật phải đáp ứng được tính hợp pháp.

Những yêu cầu về mặt nội dung cần phải được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ là những yêu cầu thuần túy về mặt câu từ, ngữ nghĩa, mà cần phải hiểu ở việc tiếp nhận văn bản này từ đối tượng mà nó hướng tới, cũng như tác động của nó đến xã hội. Văn bản quy phạm pháp luật đó cần phải đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước; phải hợp lòng dân, thể hiện ý chí, lợi ích chung của người dân. Đó là tính hợp lý của văn bản quy phạm pháp luật (4). Tính hợp lý của một văn bản quy phạm pháp luật thể hiện ở mức độ phù hợp với thực tiễn hoặc ở mức độ phát sinh các chi phí bất hợp lý cho các đối tượng áp dụng của văn bản đó. Nếu như tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật là điều kiện quyết định sự tồn tại của văn bản quy phạm pháp luật, thì tính hợp lý mang lại cho văn bản khả năng thực thi cao. Một văn bản quy phạm pháp luật có tính hợp lý sẽ giúp cho các chủ thể tuân thủ một cách nghiêm túc và tự nguyện, bởi nó không chỉ mang lại lợi ích cho chủ thể mà còn mang lại lợi ích chung cho cả xã hội. Tính hợp lý của văn bản quy phạm pháp luật tuy không phải là yếu tố quyết định việc tuân thủ pháp luật của các chủ thể, nhưng không phải vì thế mà mất đi ý nghĩa quan trọng của nó trong việc đảm bảo tính pháp chế của pháp luật. Trong một đất nước mà nền pháp chế ngày càng được đề cao, thì tính hợp lý của luật ngày càng được coi trọng (5).

Văn bản quy phạm pháp luật có tính hợp lý khi nó đáp ứng được các yêu cầu sau: Thứ nhất, nó phải xuất phát từ lợi ích thiết thực của xã hội, mà cụ thể là của người dân. Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành là nhằm để giải quyết các vấn đề mà xã hội đặt ra. Do đó, việc ban hành một văn bản quy phạm pháp luật cần phải phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, và lấy lợi ích của người dân, của xã hội, của nhà nước làm nền tảng. Một văn bản quy phạm pháp luật không hợp lý có thể do nhiều nguyên nhân. Một trong những nguyên nhân thường gặp là do kỹ thuật lập pháp còn yếu kém làm cho luật pháp không còn phù hợp với các quan hệ xã hội, với thực tiễn sinh động. Hậu quả là các quy phạm pháp luật đó khó có thể thực hiện trong cuộc sống. Thứ hai, văn bản quy phạm pháp luật phải phù hợp với đối tượng, phải điều chỉnh đúng đối tượng. Nếu văn bản đó luật đó không điều chỉnh đúng đối tượng, sẽ không làm cho đối tượng đó tuân thủ luật một cách tự nguyện. Điều đó gây ảnh hưởng đến hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật. Về mặt lý thuyết, một văn bản quy phạm pháp luật sẽ vẫn luôn tồn tại dù nó không được tuân thủ. Về mặt pháp lý, việc không tuân thủ một quy phạm không thể đưa đến việc hủy bỏ một quy phạm pháp luật. Các quy phạm pháp luật này sau một thời gian dài không được áp dụng trong thực tiễn, vẫn có thể được các chủ thể nhận biết. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, văn bản quy phạm pháp luật đó sẽ không phát huy hiệu lực. Một văn bản quy phạm không có hiệu lực trong một thời gian dài sẽ bị coi như không có giá trị (6). Chỉ khi đối tượng của nó chấp nhận và áp dụng nó trong thực tế, văn bản quy phạm pháp luật mới thực sự phát huy hiệu lực và có giá trị. Tính hợp lý chính là yếu tố tác động trực tiếp đến hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật. Một văn bản quy phạm pháp luật hợp lý sẽ được người dân tuân thủ nghiêm túc và có hiệu lực lâu dài. Có thể lấy ví dụ về Thông tư 33/2012/TT-BNNPTNT ngày 20/7/2012 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định điều kiện vệ sinh, đảm bảo an toàn thực phẩm đối với cơ sở kinh doanh thịt và phụ phẩm ăn được của động vật ở dạng tươi sống dùng làm thực phẩm. Thông tư này chưa kịp có hiệu lực đã bị thu hồi lại do không đạt được tính hợp lý. Theo quy định của Thông tư 33, thịt tươi sống chỉ được bày bán trong vòng 8 giờ đồng hồ kể từ khi giết mổ nếu được bảo quản ở nhiệt độ thường. Thông tư này bị chỉ trích vì thiếu thực tế, chưa sát với điều kiện thực tế, cũng như chưa chặt chẽ (không nêu rõ được đơn vị nào sẽ chịu trách nhiệm kiểm tra, chế tài xử phạt ra sao,…).

Ngoài ra, hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật sẽ được nâng cao nếu như có nội dung thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật khác trong hệ thống pháp luật. Thực tế cho thấy, có nhiều văn bản quy phạm pháp luật dù đảm bảo tính hợp pháp trong mối quan hệ dọc với Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao hơn nhưng lại có những quy định mâu thuẫn với các văn bản quy phạm pháp luật khác trong mối quan hệ ngang. Những mâu thuẫn thậm chí những quy định trái ngược nhau giữa các văn bản quy phạm pháp luật sẽ tạo nên những xung đột pháp luật gây cản trở cho việc thực thi văn bản luật. Những xung đột pháp luật này sẽ làm ảnh hưởng đến hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật. Do vậy, việc bảo đảm tính thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật sẽ giúp cho các văn bản này đạt được hiệu lực cao.

Nhóm nguyên nhân thứ hai xuất phát từ các yếu tố bên ngoài của văn bản quy phạm pháp luật: khả năng tổ chức thực thi của các cơ quan thi hành pháp luật, khả năng tiếp cận pháp luật của các chủ thể, tình trạng tuân thủ pháp luật của các chủ thể, khả năng được xã hội chấp nhận…. Có thể thấy rằng, nghiên cứu mặt bên ngoài của một văn bản quy phạm pháp luật là nghiên cứu ảnh hưởng của văn bản đó đến thái độ của các chủ thể. Một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực khi văn bản đó có giá trị bắt buộc thi hành đối với chủ thể. Sự tuân thủ các quy định của văn bản quy phạm pháp luật được coi là biểu hiện của một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực. Yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự tuân thủ pháp luật của các chủ thể là khả năng tiếp cận thông tin pháp luật của các chủ thể (7). Đó là khả năng nhận thức để có thể viện dẫn các quy phạm pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể. Đó còn là khả năng thực hiện các hành vi đúng pháp luật của các chủ thể. Một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực phải là một văn bản có thể tiếp cận được. Như vậy, khả năng tiếp cận pháp luật của các chủ thể sẽ là một trong những yếu tố quyết định hiệu lực của pháp luật, bởi nó quyết định thái độ của các chủ thể đối với văn bản quy phạm pháp luật, từ đó quyết định hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật.

Việc một văn bản quy phạm pháp luật không tiếp cận được có thể được phân tích dưới hai góc độ: Thứ nhất, văn bản đó khó hoặc ít có khả năng tiếp cận. Nói một cách khác, các chủ thể khó có thể thực hiện các quy định pháp luật bởi họ không hiểu, không thấy hợp lý hoặc cho rằng các quy định này đi ngược lại những quy tắc xử sự được thừa nhận rộng rãi trong xã hội; Thứ hai, có thể do những điều kiện khách quan bên ngoài cản trở khả năng tiếp cận của các chủ thể. hay nói một cách khác cản trở công dân thực hiện quyền tiếp cận pháp luật. Quyền tiếp cận pháp luật, hay nói rộng ra là quyền tiếp cận thông tin là một trong những quyền cơ bản của con người. Quyền này được hiểu theo hai khía cạnh: Thứ nhất, đó là quyền mà công dân được chủ động tiếp cận, thu thập thông tin; Thứ hai, đó là quyền được cung cấp thông tin từ các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Quyền này đi liền với trách nhiệm của cơ quan nhà nước phải cung cấp thông tin cho công dân (8).

Ngoài ra, nói đến yếu tố ảnh hưởng đến hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật không thể không kể đến những cơ quan thực thi pháp luật. Một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực hay không, không chỉ phụ thuộc vào chính văn bản quy phạm pháp luật đó mà còn phụ thuộc vào việc tổ chức thi hành, giám sát việc thực hiện của các cơ quan thực thi. Vì vậy, vai trò của các cơ quan thực thi pháp luật là rất quan trọng. văn bản quy phạm pháp luật sẽ có hiệu lực cao khi được các cơ quan thực thi thực hiện một cách nghiêm túc và triệt để. Việc xử lý vi phạm pháp luật được thực hiện theo ba bước: Phát hiện vi phạm; xem xét, đánh giá; đưa ra phương hướng xử lý. Mỗi bước trên đều có khả năng làm ảnh hưởng đến hiệu lực văn bản quy phạm pháp luật. Những hạn chế, trở ngại trong việc thực hiện pháp luật thường có nguồn gốc, hoặc ít nhất chịu tác động từ phía cơ quan thực thi pháp luật. Nếu như các cơ quan này không hành động, không triển khai việc áp dụng; không giám sát việc thi hành, tuân thủ pháp luật thì hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật sẽ không được bảo đảm. Bên cạnh đó, những quy định không rõ ràng, chồng chéo về thẩm quyền giữa các cơ quan thực thi cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện pháp luật. Ví dụ, liên quan đến việc kinh doanh thực phẩm trong Luật An toàn thực phẩm, có tới ba Bộ có trách nhiệm chính trong việc tổ chức thực hiện các quy định của Luật. Đó là Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công thương. Thực trạng việc quản lý các thực phẩm trên thị trường hiện nay cho thấy, việc quy định thẩm quyền cho nhiều cơ quan cùng lúc và không nêu rõ cơ chế phối hợp giữa các cơ quan này sẽ dẫn đến khó có thể đưa đến sự thống nhất giữa các quy định được ban hành, cũng như cơ chế thực thi chúng.

b. Mục tiêu của văn bản quy phạm pháp luật

Hiệu quả của một văn bản quy phạm pháp luật chỉ có thể được đánh giá khi so sánh với mục tiêu mà văn bản đó đề ra. Văn bản quy phạm pháp luật sẽ có hiệu quả khi thực hiện được các mục tiêu của mình. Mục tiêu là một loạt các hoạt động, kết quả cụ thể cần phải thực hiện được theo kế hoạch đã đặt ra trong nghiên cứu. Mục tiêu có thể đo lường hay định lượng được. Mục tiêu là nền tảng hoạt động của nghiên cứu, là cơ sở cho việc đánh giá kế hoạch nghiên cứu đã đưa ra.

Văn bản quy phạm pháp luật được soạn thảo và ban hành ra luôn nhằm để thực hiện một hoặc những mục tiêu nhất định. Ví dụ, Luật Cạnh tranh của các quốc gia trên thế giới đều có những mục tiêu riêng của mình, nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của quốc gia đó. Luật Chống độc quyền của Mỹ có mục tiêu là bảo vệ tự do cạnh tranh. Mục tiêu của Luật Cạnh tranh Thụy Điển năm 1993 (Điều 1) là nhằm loại bỏ và vô hiệu hóa những trở ngại đối với một sự cạnh tranh hiệu quả trong sản xuất và thương mại hàng hóa, dịch vụ, và các sản phẩm khác. Mục tiêu của Luật Cạnh tranh Ấn Độ năm 2002 là ngăn chặn các hành vi gây thiệt hại đến cạnh tranh, xúc tiến và bảo trì cạnh tranh trên thị trường, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và bảo đảm tự do thực hiện thương mại cũng như tất cả các hoạt động có liên quan hoặc gắn liền với, của tất cả các chủ thể trên thị trường ở Ấn Độ (Điều 1). Các mục tiêu này chính là kim chỉ nam cho việc soạn thảo các quy phạm pháp luật trong luật. Các quy phạm pháp luật chính là sự cụ thể hóa các mục tiêu được đề ra. Các quy phạm pháp luật chính là công cụ để thực hiện mục tiêu đặt ra. Mục tiêu càng rõ ràng thì các quy phạm pháp luật càng đảm bảo được tính thống nhất, chặt chẽ về mặt nội dung. Từ đó văn bản quy phạm pháp luật càng dễ được thực hiện, đi vào cuộc sống. Việc nêu rõ mục tiêu lại càng cần thiết đối với các văn bản quy phạm pháp luật có hình thức là luật. Đây là loại văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, rất ít các văn bản luật hiện nay nêu rõ mục tiêu của mình. Ở một số văn bản luật, mục tiêu được ghi ở phần đầu, trước phần các quy định, ví dụ như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Lao động. Ở một số văn bản khác, mục tiêu của luật được ngầm hiểu trong phần về nhiệm vụ của luật, ví dụ như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự,… Còn đa số các văn bản luật khác, mục tiêu của luật không được nêu rõ, và thường được ngầm hiểu qua các quy định trong văn bản luật. Nếu mục tiêu của văn bản quy phạm pháp luật không được nêu rõ sẽ gây ra tình trạng văn bản quy phạm pháp luật bị phản ánh sai lệch trong quá trình thực hiện. Để có thể đánh giá xem văn bản quy phạm pháp luật có được thực hiện đúng với ý muốn của các nhà làm luật hay không, chúng ta lại phải làm công việc ngược lại là xác định mục tiêu của văn bản luật đó căn cứ vào việc xem xét tổng thể các quy phạm pháp luật được thể hiện trong đó. Tình trạng có thể xảy đến là việc hiểu và giải thích các quy định của luật sẽ trở nên khó khăn. Thậm chí, có thể xảy ra tình trạng mâu thuẫn giữa mục tiêu và các quy định trong luật, làm ảnh hưởng đến hiệu quả của luật. Thực tế hoạt động lập pháp ở Việt Nam cho thấy, rất nhiều văn bản luật không nêu rõ mục tiêu của mình gây nên tình trạng các văn bản này bị khúc xạ bởi những văn bản hướng dẫn thuộc quyền lập quy (9). Tình trạng này xảy ra khi các văn bản lập quy không phản ánh đúng tinh thần, nội dung của luật, hoặc trái luật. Cụ thể, đó là khi các văn bản pháp quy vượt quá hoặc thu hẹp phạm vi điều chỉnh của luật, pháp lệnh. Hậu quả là ý chí chung của nhân dân, lợi ích chung của xã hội không được đảm bảo.

Ý muốn của các nhà làm luật, mục tiêu mà văn bản quy phạm pháp luật phải thực hiện, không chỉ cần được nêu rõ, mà còn cần phải thống nhất. Một văn bản quy phạm pháp luật có thể được soạn thảo và ban hành nhằm thực hiện nhiều mục tiêu nhưng các mục tiêu này cần phải thống nhất với nhau. Thực tế cho thấy, một luật đa mục tiêu thường có thể dẫn đến tình trạng xung đột giữa các mục tiêu. Lấy ví dụ về pháp luật cạnh tranh. Pháp luật cạnh tranh là một ngành luật có mục đích cụ thể, được xây dựng để bảo vệ và phát triển nền kinh tế thị trường. Mỗi quốc gia sẽ xây dựng hệ thống pháp luật cạnh tranh phù hợp với những nhu cầu riêng của nước mình, tùy thuộc vào sự phát triển, hoàn cảnh kinh tế xã hội, nền văn hóa pháp lý và các ưu tiên của các quốc gia đó. Các quốc gia phát triển trên thế giới cho rằng, pháp luật cạnh tranh đa mục tiêu có thể dẫn tới xung đột giữa các mục tiêu. Việc dung hoà các mục tiêu có thể tác động tiêu cực đến nguyên tắc cạnh tranh và tính độc lập của cơ quan cạnh tranh. Do vậy, các nước này thường giảm mạnh việc sử dụng pháp luật cạnh tranh để đạt các mục tiêu chung về xã hội, trong khi điều này vẫn phổ biến ở các nước đang phát triển và chuyển đổi. Quay trở lại Luật Cạnh tranh của Việt Nam. Trong toàn bộ các quy định của Luật, không có quy định nào nêu lên mục tiêu cụ thể mà các nhà làm luật đặt ra cho Luật. Thông qua các quy định của Luật, có thể hiểu mục tiêu chính của Luật là tạo lập và duy trì cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể trên thị trường bằng việc kiểm soát các hành vi gây hạn chế cạnh tranh hoặc có thể gây hạn chế cạnh tranh, chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, thông qua các quy định của Luật Cạnh tranh, mà cụ thể là các điều khoản liên quan quyền miễn trừ đối với các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm, có thể thấy rằng, Luật Cạnh tranh còn hướng tới mục tiêu là mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế – xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, hoặc nhằm duy trì việc làm cho người lao động (Điều 19 của Luật Cạnh tranh). Như vậy, một Luật Cạnh tranh đa mục tiêu có thể dẫn đến sự mâu thuẫn giữa các mục tiêu này nếu không có sự sắp xếp thứ tự ưu tiên áp dụng giữa các mục tiêu được đặt ra.

3. Một số đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam hiện nay

Để văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam đạt được hiệu quả mong muốn, cần phải coi trọng thực hiện một số vấn đề sau:

Thứ nhất, cần phải chú ý đến là tính hợp pháp, tính thống nhất, tính hợp lý của các văn bản quy phạm pháp luật. Tính hợp pháp, hợp lý và thống nhất của các văn bản quy phạm pháp luật chỉ có thể được đảm bảo khi công tác xây dựng, soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật ngày càng được hoàn thiện. Việt Nam cần phải có một cơ quan lập pháp làm việc chuyên nghiệp hơn để có thể cho ra những văn bản luật có hiệu quả. Bên cạnh đó, hệ thống các văn bản lập quy cũng cần được nâng cao về mặt chất lượng. Để làm được việc này, bên cạnh việc chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực, bộ phận pháp chế của các Bộ, ngành cần phải chủ động phối hợp với nhau và có sự tham khảo ý kiến của đa số quần chúng nhân dân trước khi ban hành một văn bản dưới luật cụ thể.

Thứ hai, văn bản quy phạm pháp luật cần phải đảm bảo được khả năng tiếp cận của quần chúng nhân dân. Để đảm bảo cho công dân được chủ động tiếp cận thông tin, cơ quan nhà nước phải chủ động công bố công khai những trình tự thủ tục rõ ràng thuận tiện để người dân có thể dễ dàng tiếp cận được thông tin khi có nhu cầu. Ngoài ra, người dân có thể tiếp cận được thông tin ngay cả khi không có nhu cầu bằng việc cơ quan nhà nước chủ động công khai thông tin trên các trang thông tin điện tử của cơ quan hoặc thông qua các kênh phổ biến kiến thức khác để đông đảo quần chúng được biết mà không cần phải yêu cầu.

Thứ ba, liên quan đến các cơ quan thực thi pháp luật. Văn bản quy phạm pháp luật sẽ có hiệu lực cao khi được các cơ quan thực thi thực hiện một cách nghiêm túc và triệt để việc áp dụng luật. Các cơ quan này cần phải được trang bị không chỉ về cơ sở pháp lý, mà còn cả cơ sở vật chất cũng như nguồn nhân sự để đảm bảo việc thực hiện pháp luật ở mọi cấp độ. Các văn bản quy phạm pháp luật cần phải nêu rõ thẩm quyền của các cơ quan có liên quan cũng như nêu rõ các cơ quan đầu mối cùng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan đó. Cơ chế phối hợp này nên được thiết lập theo hướng sắp xếp về mặt cơ cấu, thủ tục sao cho công tác kiểm tra, giám sát, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh được thực hiện một cách thống nhất. Có thể áp dụng cơ chế theo dõi chung và theo dõi riêng giữa các cơ quan này. Theo đó, cơ quan đầu mối sẽ được phân thẩm quyền theo dõi chung việc thi hành các quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó. Các Bộ, ngành được Chính phủ phân công chủ trì soạn thảo văn bản pháp luật chuyên ngành có trách nhiệm theo dõi văn bản đó trong đời sống xã hội. Các cơ quan này có điều kiện và đủ kiến thức chuyên sâu về ngành, lĩnh vực quản lý của mình và hiểu rõ nội dung văn bản do mình soạn thảo, do đó dễ phát hiện được những khiếm khuyết của văn bản khi được triển khai thực hiện trong cuộc sống. Đó là cơ chế theo dõi riêng. Giữa cơ quan thực hiện nhiệm vụ theo dõi chung và cơ quan thực hiện nhiệm vụ theo dõi riêng cần phải có cơ chế phối hợp trong việc cung cấp thông tin. Cần quy định trách nhiệm của các bộ, ngành quản lý chuyên ngành về việc theo dõi thi hành các văn bản này, định kỳ thông báo cho các cơ quan đầu mối để tập hợp, phân tích và làm báo cáo tổng hợp về tình hình thi hành văn bản quy phạm pháp luật đó.

Thứ tư, văn bản quy phạm pháp luật cần phải nêu rõ mục tiêu và có sự thống nhất giữa các mục tiêu được nêu. Ý muốn của các nhà làm luật cần phải được thể hiện rõ qua các mục tiêu cụ thể. Đối với trường hợp một văn bản quy phạm pháp luật được ban hành nhằm thực hiện nhiều mục tiêu cùng một lúc thì các mục tiêu này cần phải được thống nhất với nhau về nội dung. Không thể đặt ra những mục tiêu mâu thuẫn nhau, gây ra tình trạng việc thực hiện mục tiêu này gây khó khăn, cản trở cho việc thực hiện mục tiêu kia. Chính vì vậy, khi soạn thảo luật, các nhà làm luật cần cân nhắc để thống nhất các mục tiêu của luật. Ngoài ra, các mục tiêu có thể được xác định theo thứ tự ưu tiên và tầm quan trọng gắn với từng mục tiêu cụ thể nhằm giảm thiểu sự không rõ ràng, có thể dẫn đến xung đột giữa các mục tiêu trong quá trình thực thi. Ví dụ, đối với Luật Cạnh tranh của Việt Nam, cần phải xác định rõ rằng mục tiêu mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế – xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, hoặc nhằm duy trì việc làm cho người lao động chỉ có thể được thực hiện khi mục tiêu chính của Luật Cạnh tranh vẫn được bảo đảm. Nói một cách khác, các tác động tiêu cực đến cạnh tranh, mà việc cho phép các hành vi nhằm thực hiện mục tiêu này gây ra, phải được khắc phục.

Kết luận

Khái niệm hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật được xem xét dưới một góc độ rộng hơn, toàn diện hơn. Văn bản quy phạm pháp luật được đánh giá theo các mục tiêu xã hội được đặt ra. Việc phân tích các yếu tố có tác động trực tiếp đến hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật sẽ làm cơ sở để chúng ta đi vào phân tích thực trạng và các nguyên nhân tác động đến hiệu quả của các văn bản quy phạm pháp luật, từ đó đi tìm các giải pháp tương ứng nhằm nâng cao hiệu quả của các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

(1) B. Deffain (dir.), L’analyse économique du droit dans les pays de droit civil, Éd. Cujas, 2000, B. Oppetit, « Droit et économie », APD, 1992, 37, p. 17-26,

(2) TS. Nguyễn Văn Tuyến, “Tính hiệu quả của Luật Chứng khoán – Sự tiếp cận từ góc độ kinh tế học pháp luật”, Luật học số 8/2006.

(3) Fédéric Rouvillois, “L’efficacité des normes. Réflections sur l’émergence d’un nouvel impératif juridique”, Working papers: Fondation pour l’innovation politique, 11/2006, 35 tr.

(4) Nguyễn Minh Đoan, “Vấn đề hiệu quả của pháp luật”, Nhà nước và Pháp luật số 3/2001, tr. 3

(5) Nguyễn Đức Lam,“Tính cạnh tranh của nền pháp luật”, trích dẫn từ http://chungta.com/ Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Luat-Phap/Tinh_canh_tranh_cua_nen_phap_luat/, 2005

(6) Ngọ Văn Nhân, “Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật”, Tạp chí Triết học, 2006.

(7) Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Báo cáo Đánh giá chất lượng hoạt động xây dựng và thi hành pháp luật của các Bộ có liên quan đến doanh nghiệp (LDEA)- Giai đoạn từ 2005 đến 2009, NXB Lao động 6/2010

(8) Th.S Bùi Ngọc Sơn, Nguyễn Thị Phượng, “Sự khúc xạ luật bởi quyền lập quy”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, Số 7/2006.

(9) PGS. TS. Hoàng Thị Kim Quế, “Chế độ pháp chế thống nhất, hợp lý và áp dụng chung”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, Số 9 (162) 2005, trang 11-12.

Xem thêm:

1. Ngọ Văn Nhân, “Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật”, Tạp chí Triết học, 8/2006.

2. Nguyễn Đức Lam, “Vì sao người dân thờ ơ với pháp luật”, Tạp chí Tia sáng, 7/2006.

3. Như trên.

4. Tính hợp lý này cũng có thể được gọi theo một thuật ngữ khác là tính phù hợp của văn bản quy phạm pháp luật. Xem thêm: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Báo cáo Đánh giá chất lượng hoạt động xây dựng và thi hành pháp luật của các Bộ có liên quan đến doanh nghiệp (LDEA)- Giai đoạn từ 2005 đến 2009, NXB Lao động 6/2010.

5. PGS. TS. Hoàng Thị Kim Quế, “Chế độ pháp chế thống nhất, hợp lý và áp dụng chung”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, Số 9 (162) 2005, trang 11-12. Pháp chế được thể hiện trên hai phương diện, hai nghĩa căn bản- nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, pháp chế là yêu cầu đối với tất cả các cá nhân tuân thủ triệt để pháp luật, đối lập với tình trạng vô pháp luật. Theo nghĩa hẹp, pháp chế là nguyên tắc hoạt động của bộ máy nhà nước, các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước phải tuân thủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động; đảm bảo thực hiện các quyền công dân. Cũng trên nghĩa rộng – nghĩa chính trị – xã hội pháp chế chính là chế độ của đời sống chính trị – xã hội, là môi trường chính trị – đạo đức, trong đó có sự hiện diện của tư tưởng nhân đạo, công bằng, tuân thủ pháp luật, bảo đảm quyền con người.

6. H. Kelsen, Théorie pure du droit, 2e éd., trad. C. Eisenmann, Dalloz, 1962, p. 15.

7. Xem: TS. Nguyễn Thị Thu Vân, “Cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin”, trên trang web:duthaoonline; Th.S Vũ Công Giao, “Cơ chế và việc hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam”, trên trang web: http://www.hids.hochiminhcity. gov.vn/Hoithao/VNHOC/TB7/giao.pdf.

8. Như trên.

9. Th.S Bùi Ngọc Sơn, Nguyễn Thị Phượng, “Sự khúc xạ luật bởi quyền lập quy”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, Số 7/2006.

TS. Trần Thị Thu Phương

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bình đẳng giới thông qua Công ước Cedaw 1979 và Luật Bình đẳng giới ở Việt Nam

23/01/2013

Xu thế phát triển của Luật Quốc tế về quyền con người ngày càng tăng cường và mở rộng phạm vi các quyền bình đẳng của phụ nữ. Một loạt các văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng như Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948, Công ước về các quyền dân sự, chính trị năm 1966… đều dựa trên cơ sở đề cao sự bình đẳng về nhân phẩm và các quyền cho phụ nữ. Trong bối cảnh này, Công ước CEDAW 1979 – Công ước của Liên Hợp Quốc về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ được xây dựng nhằm bảo vệ ở phạm vi rộng lớn các quyền của phụ nữ, trước hết là bảo đảm cho phụ nữ được sống an toàn, tự do, phát triển bền vững, với việc đặc biệt nhấn mạnh bảo đảm sự bình đẳng đối với phụ nữ trong hưởng thụ các quyền cơ bản của con người.Công ước CEDAW 1979 chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng.

Theo Nghị quyết số 34/180 ngày 18/12/1979, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua CEDAW và ngày 03/9/1981, Công ước đã chính thức có hiệu lực. Tính đến nay, đã có 185 quốc gia trên thế giới phê chuẩn hoặc ký kết Công ước, chiếm hơn 90% thành viên Liên Hợp Quốc. Công ước chính thức có hiệu lực với Việt Nam ngày 19/3/1982. Sự ra đời của Công ước CEDAW xuất phát từ nhận thức quan trọng của cộng đồng quốc tế về quyền con người, đó là bình đẳng trở thành thước đo giá trị phẩm giá và quyền cơ bản của con người trong xã hội. Sự ra đời của Công ước CEDAW là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài của nhân loại tiến bộ vì một xã hội công bằng, dân chủ, nhân đạo và văn minh.

Ngoài ra, theo Nghị quyết A/54/4 ngày 6/10/1999, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua Nghị định thư không bắt buộc của Công ước CEDAW về Uỷ ban Xoá bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ để xem xét các kháng thư của cá nhân và nhóm cá nhân khiếu nại về việc quyền lợi của họ hoặc của người do họ đại diện bị quốc gia thành viên vi phạm. Nghị định thư này chính thức có hiệu lực từ ngày 22/12/2000. Đến tháng 9/2005, Nghị định thư đã có 72 quốc gia tham gia và Việt Nam chưa gia nhập Nghị định thư này.

Về tổng thể, Công ước CEDAW là một trong số những điều ước quốc tế quan trọng nhất thuộc hệ thống điều ước quốc tế đa phương được ký kết trong lĩnh vực nhân quyền. Nội dung cơ bản của Công ước CEDAW là hướng vào những cách thức, biện pháp nhằm loại trừ mọi sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong thụ hưởng các quyền con người cơ bản đã được xác định bởi các điều ước quốc tế về nhân quyền khác. Với tính chất này, thì thực chất Công ước CEDAW nhằm trao cho phụ nữ trên toàn thế giới những quyền con người đã được Luật Quốc tế và luật pháp của các quốc gia ghi nhận, nhưng phụ nữ chưa được hưởng hoặc chưa được hưởng một cách đầy đủ trên thực tế, bởi sự phân biệt đối xử với phụ nữ ở các quốc gia. Ngoài ra, khác với các điều ước quốc tế về quyền con người khác, trong đó vấn đề bình đẳng giới được quy định chung, Công ước CEDAW đã chỉ ra cụ thể những lĩnh vực hiện đang tồn tại sự phân biệt đối xử với phụ nữ một cách nặng nề, để từ đó xác định những biện pháp thích hợp, nhằm loại bỏ hoàn toàn tình trạng bất bình đẳng của phụ nữ trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Nói cách khác, đây là loại hình công ước quốc tế chuyên biệt về chống phân biệt đối xử với phụ nữ, hướng đến mục tiêu xác lập thực tế địa vị bình đẳng của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống.

Từ đó, Nhà nước Việt Nam đã làm rất nhiều việc để thực hiện trách nhiệm của một quốc gia thành viên Công ước CEDAW, đặc biệt là việc thiết lập sự bảo vệ bằng pháp luật các quyền của phụ nữ trên cơ sở không phân biệt đối xử và bình đẳng nam, nữ. Sự ban hành Luật Bình đẳng giới năm 2007 là một minh chứng về quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bình đẳng nam, nữ, xoá bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ, thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người nói chung, quyền bình đẳng của phụ nữ nói riêng. Luật Bình đẳng giới được xây dựng với quan điểm chỉ đạo: Nội luật hoá các quy định phù hợp trong các Công ước quốc tế về quyền con người, đặc biệt là Công ước CEDAW, khẳng định Việt Nam nghiêm túc thực hiện cam kết tại Điều 2a của Công ước CEDAW.

Về mặt pháp lý: Việc tham gia Công ước CEDAW và thực hiện Công ước CEDAW mang lại những ý nghĩa sau đây:

Thứ nhất, Công ước CEDAW tạo cơ sở pháp lý mang tính quốc tế về thực thi bình đẳng giới, xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ ở Việt Nam.

Thứ hai, Công ước CEDAW đặt ra yêu cầu và cơ hội để Việt Nam tiến hành rà soát các văn bản quy phạm pháp luật về quyền phụ nữ hiện hành, xây dựng các thiết chế pháp lý cần thiết, tương ứng về bình đẳng giới và chống phân biệt đối xử với phụ nữ theo nguyên tắc của Công ước CEDAW. Luật Bình đẳng giới được ban hành đã khẳng định quyết tâm của Việt Nam trong việc thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đã cam kết cùng cộng đồng quốc tế tham gia Công ước CEDAW.

Thứ ba, Công ước CEDAW là cơ sở pháp lý để Việt Nam tranh thủ sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế trong thực thi bình đẳng chống phân biệt đối xử với phụ nữ ở Việt Nam.

Về cơ chế thực hiện: Việc thực hiện nghĩa vụ thành viên của Công ước CEDAW giúp cho Nhà nước Việt Nam tạo lập cơ chế đồng bộ và thống nhất trong thực thi quyền bình đẳng giới, chống phân biệt đối xử với phụ nữ. Về nguyên tắc, thực hiện bình đẳng giới, chống phân biệt đối xử với phụ nữ là trách nhiệm chung của toàn bộ hệ thống chính trị nói chung, của các cơ quan nhà nước nói riêng. Trong đó, nòng cốt là Uỷ ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ. Uỷ ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ ở cấp trung ương và Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ ở địa phương, các ngành, các cấp đã được thành lập, trong đó có nhiệm vụ thực hiện Công ước CEDAW.

Về nhận thức: Công ước CEDAW đã giúp cho mọi người, đặc biệt là các cơ quan và các cá nhân có thẩm quyền thay đổi nhận thức và hành vi về bình đẳng giới. Trên cơ sở đó, giúp họ có cách hiểu đầy đủ, chính xác và toàn diện hơn về phân biệt đối xử với phụ nữ, những hình thức đa dạng của sự phân biệt đối xử đó, để có thái độ loại bỏ sự phân biệt đối xử.

Điều 2 của Công ước CEDAW quy định trách nhiệm của quốc gia thành viên trong việc đặt ra pháp luật và bảo đảm thực hiện pháp luật loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ. Trong các văn bản pháp luật của Việt Nam từ sau Hiến pháp năm 1946 đều nhất quán ở chính sách nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử đối với phụ nữ trong mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, sự hiện diện của chính sách pháp luật này mới chỉ đạt được một bước cơ bản, đó là coi mọi sự phân biệt đối xử với phụ nữ là trái nguyên tắc pháp luật (De jure); chưa chú trọng nhiều tới những hình thức phân biệt đối xử trên thực tế (De facto). Thống nhất với tinh thần Hiến pháp, Luật Bình đẳng giới được ban hành đã trở thành văn bản pháp lý nền tảng trong thực hiện bình đẳng giới trong lập pháp và thực thi pháp luật ở nước ta. Luật đã cụ thể hoá nguyên tắc cấm phân biệt đối xử trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình theo tinh thần của Điều 3 Công ước CEDAW về “các biện pháp bảo đảm sự phát triển và tiến bộ đầy đủ của phụ nữ”.

Điều 4. Công ước CEDAW quy định:

“1. Việc các nước tham gia Công ước thông qua những biện pháp đặc biệt tạm thời nhằm thúc đẩy nhanh sự bình đẳng trong thực tế giữa nam và nữ sẽ không bị coi là phân biệt đối xử theo định nghĩa đề ra tại Công ước này nhưng sẽ không vì thế mà đưa đến việc duy trì những tiêu chuẩn không bình đẳng hoặc khác nhau. Những biện pháp này sẽ chấm dứt khi các mục tiêu bình đẳng về cơ hội và đối xử đã đạt được.

2. Việc các nước tham gia Công ước thông qua những biện pháp đặc biệt, kể cả những biện pháp nêu trong Công ước này nhằm bảo về người mẹ sẽ không bị coi là phân biệt đối xử”.

Công ước xuất phát từ cách tiếp cận bình đẳng giới dựa trên nguyên tắc “bình đẳng nam, nữ có tính đến sự khác biệt giới”, theo mô hình bình đẳng giới thực chất. Với cách tiếp cận và mô hình nói trên, để tiến tới sự bình đẳng giới về thực chất, Luật Bình đẳng giới đã dành hẳn Chương III quy định về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới, nhằm tạo cơ hội phát triển cho cả nam và nữ, bao gồm: Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới, bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, lồng ghép vấn đề bình đẳng giới, thông tin, giáo dục, truyền thống về giới và bình đẳng giới, nguồn tài chính cho hoạt động bình đẳng giới. Khoản 6 Điều 5 Luật Bình đẳng giới quy định: “Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới là biện pháp nhằm bảo đảm bình đẳng giới thực chất, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành trong trường hợp có sự chênh lệch lớn giữa nam và nữ về vị trí, vai trò, điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ hưởng thành quả của sự phát triển mà việc áp dụng các quy định như nhau giữa nam và nữ không làm giảm được sự chênh lệch này. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được thực hiện trong một thời gian nhất định và chấm dứt khi mục đích bình đẳng giới đạt được”.

Quy định trên xuất phát từ mục tiêu bình đẳng giới là bình đẳng giới thực chất, vì vậy cần phải áp dụng một biện pháp nào đó để khắc phục những bất lợi có sự khác biệt về giới mang lại cho nam hoặc nữ, mà cụ thể trong bầu cử, ứng cử. Một biện pháp như vậy trong Luật Bình đẳng giới được gọi là biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới. Thực chất, đây là những quy định bất bình đẳng (còn có tên gọi khác là phân biệt đối xử tích cực), được áp dụng trong một thời gian nhất định nhằm đạt được bình đẳng thực chất.

Đây có thể coi là quy định thể hiện rõ nhất tinh thần “nội luật hoá” Điều 4 Công ước CEDAW. Cần chú ý, giữa biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới và các biện pháp đặc biệt tạm thời có điểm khác nhau là: Biện pháp đặc biệt tạm thời chỉ áp dụng cho nữ, còn biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới thì có thể áp dụng cho cả nam và nữ.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 19 Luật Bình đẳng giới, có 6 biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới.

Tại Chương II Luật Bình đẳng giới đã có một số biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được quy định. Cụ thể là khoản 5 Điều 11, khoản 2 Điều 12, khoản 3 Điều 13 và khoản 5 Điều 14. Nhưng tất cả các quy định này đều còn ở dạng nguyên tắc. Để có thể thực hiện được cần các cơ quan có thẩm quyền quy định cụ thể. Do đó, Luật Bình đẳng giới đã quy định tại khoản 2 Điều 19 là: “Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ có thẩm quyền quy định biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới. Đây cũng là cơ quan có trách nhiệm xem xét việc thực hiện biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới và quyết định chấm dứt thực hiện khi mục đích bình đẳng giới đã đạt được”.

Về vai trò giới và định kiến thiên vị về đàn ông và đàn bà trong xã hội (Điều 5 Công ước CEDAW): Công ước CEDAW xuất phát từ quan điểm cho rằng, cho dù phân biệt đối xử có thể bị cấm bằng pháp luật nhưng trên thực tế, sự phân biệt có thể xảy ra do văn hoá truyền thống, quan niệm về xã hội về vai trò của nam và nữ trong xã hội, gia đình, nghề nghiệp… Do đó, Công ước CEDAW yêu cầu các quốc gia thành viên cần có biện pháp can thiệp để loại bỏ dần phong tục, tập quán mang đậm màu sắc định kiến, thiên vị về giới như các tư tưởng trọng nam khinh nữ, thuyết tam tòng, các hủ tục lạc hậu như tảo hôn, ép hôn, kết hôn nối dây… Pháp luật Việt Nam và Luật Bình đẳng giới đã chú trọng chính sách xây dựng nếp sống mới, chống hủ tục, đề cao nam nữ bình đẳng… được thể hiện qua Điều 7 Luật Bình đẳng giới.

Điều đáng ghi nhận là lần đầu tiên, ở tư cách một đạo luật, vấn đề “tạo điều kiện để nam, nữ chia sẻ công việc gia đình” đã được quy định.

Từ Điều 7 đến Điều 16 Công ước CEDAW quy định nghĩa vụ của các quốc gia thành viên trong việc xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử, bảo đảm bình đẳng cho phụ nữ trong đời sống xã hội và chính trị (Phần II, các Điều 7 – 9); trong lĩnh vực giáo dục, lao động, sức khoẻ, kinh tế, xã hội và văn hoá (Phần III các Điều 10 – 14) và trong lĩnh vực dân sự pháp lý (Điều 15, Điều16). Nội luật hoá Công ước CEDAW, Luật Bình đẳng giới Việt Nam đã có những quy định cụ thể để loại trừ mọi hình thức phân biệt đối xử bằng những quy định cụ thể về bình đẳng giới trong các lĩnh vực cụ thể: Chính trị; kinh tế; lao động; giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ; văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao, y tế và lĩnh vực gia đình… Đặc biệt, Điều 14 Công ước CEDAW quy định riêng về phân biệt đối xử với phụ nữ nông thôn. Đây là quy định có tính đến địa vị và hoàn cảnh cụ thể, nhu cầu đặc biệt của phụ nữ nông thôn tiềm ẩn những kỳ thị và phân biệt đối xử, nhất là khi sự phân hoá giàu nghèo không tránh khỏi trong điều kiện phát triển tất yếu dẫn đến vị thế không cân xứng của các đối tượng yếu thế trong xã hội do phân bổ dân cư, cơ cấu lao động ở những vùng kém phát triển hơn, đó là nông thôn, miền núi, hải đảo. Điều 14 còn quan tâm đặc biệt tới phụ nữ nông thôn vì vai trò của họ chưa được đánh giá thoả đáng trong khu vực kinh tế không trên cơ sở tiền tệ (non-monetized sector) nói chung và trong kinh tế gia đình nói riêng. Pháp luật Việt Nam, trước khi Luật Bình đẳng giới ra đời không có những quy định ưu tiên tạm thời cho phụ nữ nông thôn. Do đặc thù về điều kiện tự nhiên và xã hội, nhìn chung phụ nữ nông thôn Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận và hưởng thụ quyền. Khắc phục nhược điểm này, Luật Bình đẳng giới đã có những quy định hỗ trợ, tạo điều kiện cho phụ nữ nông thôn, phụ nữ cư trú ở vùng sâu, vùng xa, là đồng bào dân tộc thiểu số, như: Khoản 2 Điều 12: “Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư theo quy định của pháp luật”; khoản 3 Điều 17: “Phụ nữ nghèo cư trú ở vùng sâu, vùng xa, là đồng bào dân tộc thiểu số… khi sinh con đúng chính sách dân số được hỗ trợ theo quy định của Chính phủ”.

Nhằm thực hiện có hiệu quả hơn các quy định của Công ước CEDAW và các quy định của Luật Bình đẳng giới về bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ thì cần có các giải pháp cụ thể, đặc biệt là đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã hội về tầm quan trọng của quyền bình đẳng của phụ nữ và các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền bình đẳng đó.

Trong thời gian qua, mặc dù công tác xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta đã chú trọng đến vấn đề lồng ghép quyền bình đẳng của phụ nữ để từng bước hiện thực hoá quy định của Luật Bình đẳng giới vào cuộc sống. Tuy nhiên, đây cũng là một vấn đề đòi hỏi phải được thực hiện thường xuyên và nghiêm túc của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong tất cả các quy trình soạn thảo văn bản pháp luật.


TS. Nguyễn Lan Nguyên

TS. Nguyễn Lan Nguyên

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com