Ưu tiên thanh toán trong thi hành án dân sự – Chỉ được thực hiện khi đủ điều kiện

22/01/2015

Hệ thống các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự hiện nay đang dần được hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho chấp hành viên và cơ quan thi hành án dân sự thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Theo pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan thi hành án dân sự, mà trực tiếp chấp hành viên là người có trách nhiệm đảm bảo hiệu lực trên thực tế của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Tính hiệu quả trong việc này phụ thuộc trước hết vào tính khách quan, công bằng trong phán quyết của bản án, quyết định đó. Ngoài ra, tính minh bạch, rõ ràng trong các quy định của pháp luật cũng là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng. Xin nêu và phân tích một vụ việc cụ thể để thấy rõ tầm quan trọng cũng như vướng mắc mà chấp hành viên và cơ quan thi hành án dân sự gặp phải như sau:

Trong quá trình giải quyết vụ kiện dân sự đòi lại tài sản giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Tú và bị đơn là ông Nho Văn Lập. Theo đơn đề nghị của ông Tú, ngày 13/01/2014, Tòa án nhân dân huyện K đã ban hành Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài khoản của ông Lập với số tiền phong tỏa là 320.000.000 đồng. Việc thực hiện Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được cơ quan thi hành án dân sự huyện K thụ lý và thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

Ngày 14/3/2014, Tòa án nhân dân huyện K ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa nguyên đơn là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện K và ông Nho Văn Lập (Quyết định số 01/2014/KDTM). Theo đó, ông Nho Văn Lập có trách nhiệm trả tiền nợ đã vay của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện K số tiền là 400.000.000 đồng. Đồng thời, ông Nho Văn Lập phải chịu 10.000.000 đồng tiền án phí.

Trên cơ sở Quyết định trên, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện K đã làm đơn yêu cầu thi hành án, Chi cục Thi hành án dân sự huyện K đã thụ lý và phân công chấp hành viên tổ chức thi hành.

Ngày 02/4/2014, Tòa án nhân dân huyện K đưa ra xét xử vụ kiện đòi tài sản giữa ông Tú và ông Lập và ban hành Bản án số 02/2014/DSST. Trong phần Quyết định nêu rõ:

“1. Buộc ông Nho Văn Lập phải trả cho ông Nguyễn Văn Tú số tiền đã vay là 320.000.000 đồng.

2. Giữ nguyên biện pháp phong tỏa tài khoản đối với ông Nho Văn Lập để đảm bảo thi hành án.

3. Ông Nho Văn Lập phải chịu 16.000.000 đồng tiền án phí”.

Sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật, ông Nguyễn Văn Tú làm đơn yêu cầu thi hành án, Chi cục Thi hành án dân sự huyện K đã thụ lý và đưa ra tổ chức thi hành theo đúng quy định của pháp luật.

Hết thời hạn tự nguyện thi hành án theo các quyết định thi hành án, ông Nho Văn Lập không tự nguyện thi hành. Chi cục Thi hành án dân sự huyện K tiến hành xử lý số tiền 320.000.000 đồng của ông Nho Văn Lập bị phong tỏa. Đến đây, có hai quan điểm, khác nhau liên quan đến việc thanh toán các nghĩa vụ của ông Nho Văn Lập. Cụ thể như sau:

Quan điểm thứ nhất, cơ quan thi hành án dân sự huyện K phải xử lý toàn bộ số tiền 320.000.000 đồng để thanh toán nghĩa vụ trả nợ của ông Nho Văn Lập đối với ông Nguyễn Văn Tú.

Quan điểm thứ hai, cơ quan thi hành án dân sự huyện K phải thực hiện thứ tự thanh toán tiền thi hành án theo đúng quy định tại Điều 47 Luật Thi hành án dân sự và văn bản hướng dẫn thi hành.

– Ý kiến theo quan điểm thứ nhất cho rằng, trong Bản án số 02/2014/DSST ngày 02/4/2014, Tòa án nhân dân huyện K đã ấn định số tiền phong tỏa 320.000.000 đồng được dùng để thanh toán cho nghĩa vụ trả nợ cho ông Nguyễn Văn Tú. Vì vậy, cơ quan thi hành án xử lý tiền để chi trả toàn bộ cho ông Tú là đúng chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thi hành án. Mặt khác, trước khi ban hành Bản án số 02/2014/DSST, Tòa án đã ban hành Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để ngăn chặn việc ông Lập cất giấu, tẩu tán tiền, gây khó khăn cho việc thi hành án sau này.

Tại Điều 102 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định các biện pháp khẩn cấp tạm thời gồm:

“Điều 102. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời

1. Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

2. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng.

3. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm.

4. Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động.

5. Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định sa thải người lao động.

6. Kê biên tài sản đang tranh chấp.

7. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.

8. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp.

9. Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hoá khác.

10. Phong toả tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong toả tài sản ở nơi gửi giữ.

11. Phong toả tài sản của người có nghĩa vụ.

12. Cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định.

13. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà pháp luật có quy định”.

Khoản 4 Điều 17 Bộ luật Tố tụng dân sự cũng quy định:

“4. Trong trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 10, khoản 11 Điều 102 của Bộ luật này thì chỉ được phong toả tài khoản, tài sản có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ phải thực hiện”.

Mặt khác, tại tiểu mục 7.2 Mục 7 Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định tại Chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của Bộ luật Tố tụng dân sự hướng dẫn:

“7.2. Trong trường hợp người yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời yêu cầu phong toả tài khoản, tài sản để bảo đảm nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ phải thực hiện theo đơn khởi kiện, thì Toà án chỉ được phong toả tài khoản, tài sản có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản đó trở xuống”.

Từ những quy định trên có thể nhận định rằng, ngay từ khi thụ lý vụ việc, ông Tú đã làm đơn đề nghị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài khoản và đã được Tòa án chấp nhận là cơ sở khẳng định việc phong tỏa số tiền 320.000.000 đồng là vừa đủ và chỉ để đảm bảo thanh toán nghĩa vụ trả nợ cho ông Nguyễn Văn Tú mà không quan tâm đến các nghĩa vụ khác như án phí, trả nợ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hay bất kỳ nghĩa vụ nào theo bản án, quyết định đã có hiệu lực khác.

– Ý kiến theo quan điểm thứ hai cho rằng, tại phần quyết định của Bản án số 02/2014/DSST chỉ nêu: “Giữ nguyên biện pháp phong tỏa tài khoản đối với ông Nho Văn Lập để đảm bảo thi hành án” mà không ấn định rõ là “để đảm bảo thi hành nghĩa vụ trả nợ cho ông Nguyễn Văn Tú”. Vì vậy, không thể xác định số tiền 320.000.000 đồng được dùng để thi hành nghĩa vụ đã ấn định trong bản án, mà phải hiểu rằng số tiền này được dùng để đảo bảo thi hành cho các nghĩa vụ dân sự của ông Nho Văn Lập theo các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Có như vậy mới đảm bảo tính công bằng giữa các chủ thể trước pháp luật.

Ý kiến theo quan điểm thứ hai còn chỉ ra rằng, Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán hướng dẫn như trên là để xác định trách nhiệm của người yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và tránh tình trạng lạm dụng, gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, chứ không có ý nghĩa biện pháp khẩn cấp tạm thời là để đảm bảo cho nghĩa vụ trong đơn khởi kiện.

Mặt khác, thứ tự thanh toán tiền thi hành án, Điều 47 Luật Thi hành án dân sự quy định:

“Điều 47. Thứ tự thanh toán tiền thi hành án

1. Số tiền thi hành án, sau khi trừ các chi phí thi hành án và khoản tiền quy định tại khoản 5 Điều 115 của Luật này, được thanh toán theo thứ tự sau đây:

a) Tiền cấp dưỡng; tiền lương, tiền công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động; tiền bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần;

b) Án phí;

c) Các khoản phải thi hành án khác theo bản án, quyết định.

2. Trường hợp có nhiều người được thi hành án thì việc thanh toán tiền thi hành án được thực hiện như sau:

a) Việc thanh toán được thực hiện theo thứ tự quy định tại khoản 1 Điều này. Trường hợp trong cùng một hàng ưu tiên có nhiều người được thi hành án thì việc thanh toán được thực hiện theo tỷ lệ số tiền mà họ được thi hành án;

b) Số tiền thi hành án thu theo quyết định cưỡng chế thi hành án nào thì thanh toán cho những người được thi hành án đã có đơn yêu cầu tính đến thời điểm có quyết định cưỡng chế đó. Số tiền còn lại được thanh toán cho những người được thi hành án theo các quyết định thi hành án khác tính đến thời điểm thanh toán.

Số tiền còn lại được trả cho người phải thi hành án.

3. Số tiền thu được từ việc bán tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bán tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành một nghĩa vụ cụ thể được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ được bảo đảm đó sau khi trừ các chi phí về thi hành án.

4. Thứ tự thanh toán tiền thi hành án về phá sản được thực hiện theo quy định của pháp luật về phá sản.

5. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày thu được tiền, Chấp hành viên phải thực hiện việc thanh toán tiền thi hành án quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này”.

Để phản bác lại quan điểm thứ nhất, nếu dựa vào quy định tại khoản 3 Điều 47 nêu trên, thì điều kiện để cơ quan thi hành án được thực hiện ưu tiên thanh toán cho một nghĩa vụ cụ thể đã được ấn định trong bản án bao gồm:

Thứ nhất, “nghĩa vụ cụ thể được ưu tiên thanh toán theo quy định tại khoản 3 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự phải được xác định cụ thể trong bản án, quyết định của Tòa án tuyên kê biên bảo đảm thi hành cho nghĩa vụ cụ thể đó”. (Quy định tại khoản 2 Điều 13 Nghị định số 125/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009).

Thứ hai, chỉ thực hiện trong trường hợp Tòa án tuyên kê biên tài sản để đảm bảo thi hành nghĩa vụ cụ thể.

Như vậy, có thể thấy rằng, trong trường hợp này, Tòa án nhân dân huyện K không tuyên việc tiếp tục phong tỏa số tiền 320.000.000 đồng để đảm bảo thi hành nghĩa vụ trả nợ cho ông Nguyễn Văn Tú là hoàn toàn đúng và không thể cho rằng việc tuyên như vậy là chưa rõ ràng. Vì về mặt lý luận, việc xử lý tiền, tài sản bảo đảm thuộc thẩm quyền của cơ quan thi hành án dân sự, vấn đề phân phối, thanh toán tiền thi hành án phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 47 Luật Thi hành án dân sự.

Thanh toán tiền thi hành án theo quan điểm này một mặt có đầy đủ cơ sở pháp lý là Điều 47 Luật Thi hành án dân sự và Nghị định số 125/2013/NĐ-CP, mặt khác đảm bảo được tính công bằng cho các chủ thể, trong vụ việc này là Nhà nước, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn và ông Nguyễn Văn Tú.

Trên đây là phân tích từ một vụ việc cụ thể để thấy được tầm quan trọng, ý nghĩa của việc nhận thức đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật. Tránh tình trạng suy diễn theo ý chí chủ quan, gây ra những thiệt hại về mặt kinh tế cho cá nhân, tổ chức và là nguồn gốc phát sinh đơn thư khiếu nại, tố cáo, gây mất uy tín của cơ quan thi hành án đối với người dân và làm giảm hiệu quả, chất lượng của công tác thi hành án dân sự.

Mong nhận được ý kiến trao đổi của các đồng chí, đồng nghiệp!

Lương Thanh Tùng

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Giải pháp nâng cao hiệu quả cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai

10/11/2014

Quá trình quản lý và sử dụng đất đai không thể tránh khỏi phát sinh mâu thuẫn, bất đồng, xung đột về lợi ích, quyền và nghĩa vụ giữa người sử dụng đất với cơ quan công quyền, đó chính là những tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai(1). Tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai hiện nay đang có xu hướng gia tăng cả về số lượng và tính chất phức tạp; việc giải quyết loại tranh chấp này ở nhiều địa phương còn có những phản ứng bức xúc của người dân, gây mất an ninh trật tự xã hội, thậm chí có những nơi trở thành điểm nóng gây ra dư luận xấu, ảnh hưởng lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Vậy, đâu là nguyên nhân và giải pháp khắc phục tình trạng trên? Với mục đích góp phần làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra, trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi muốn được trao đổi, phân tích những vấn đề cơ bản về thể chế và cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai trong giai đoạn vừa qua, từ đó rút ra những bất cập, hạn chế, thiếu hụt và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai.

1. Quá trình phát triển và những bất cập, hạn chế, thiếu hụt của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai

Đã từ lâu ở nước ta, để giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai, Nhà nước xác lập con đường giải quyết hành chính, theo đó người sử dụng đất thực hiện quyền khiếu nại và được giải quyết theo thủ tục hành chính do pháp luật về đất đai và pháp luật về khiếu nại quy định. Từ khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1995 và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 ra đời và có hiệu lực thi hành, tranh chấp hành chính về đất đai là một trong 8 loại việc được Tòa án nhân dân giải quyết theo thủ tục tố tụng hành chính. Sự kiện này có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Đây là con đường tư pháp giải quyết tranh chấp hành chính với ưu thế riêng được thừa nhận chung, có ý nghĩa bổ sung cho khiếu nại theo con đường hành chính và hoàn toàn phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đồng thời, đó cũng là một phương thức hữu hiệu bảo đảm vận hành bộ máy hành chính nhà nước trong sạch và có được tính hợp pháp, hiệu quả. Kể từ đó tới nay, pháp luật giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai liên tục được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện. Quốc hội đã ban hành Luật Tố tụng hành chính năm 2010, Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Đất đai năm 2013; Chính phủ, Tòa án nhân tối cao, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tài nguyên và Môi trường, các bộ, ngành liên quan đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành. Về cơ bản, các văn bản pháp luật đã bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất và khả thi, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về đất đai. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, cả pháp luật nội dung và pháp luật hình thức điều chỉnh giải quyết tranh chấp hành chính về đất đai vẫn còn những bất cập, hạn chế, thiếu hụt. Ở đây, chúng tôi xin đưa ra và phân tích hai vấn đề bất cập, hạn chế, thiếu hụt về pháp luật như sau:

Một là, bất cập, hạn chế của pháp luật về đất đai: Có thể nói rằng, một trong những nguyên nhân cơ bản phát sinh tranh chấp hành chính về đất đai gay gắt trong giai đoạn vừa qua là do Luật Đất đai cũ có quá nhiều bất cập trong việc thu hồi, định giá, đền bù, hỗ trợ tái định cư… Đây cũng là những nội dung mà trong quá trình sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2013 đã có nhiều ý kiến của các chuyên gia và đại biểu Quốc hội thiết tha đề nghị có những thay đổi then chốt, nhưng nhìn chung vẫn chưa được khắc phục. Chẳng hạn như về thu hồi đất, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: Nhà nước chỉ thu hồi đất trong trường hợp thật cần thiết vì mục đích an ninh, quốc phòng, để phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Luật Đất đai năm 2013 đã cụ thể hóa một phạm vi quá rộng các trường hợp được phép thu hồi đất, chỉ có điểm khác là những trường hợp đó, tùy thuộc vào quy mô, sẽ cần có sự chấp thuận của Hội đồng nhân dân, bên cạnh cơ quan chính quyền có thẩm quyền thu hồi đất. Nếu việc hướng dẫn và tổ chức thực hiện không tốt, có thể lại dẫn đến tình trạng lạm quyền, thu hồi đất tràn lan, tiếp tục gây bức xúc trong nhân dân. Bên cạnh đó, Luật Đất đai năm 2013, không có nhiều đổi mới về cơ chế thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, mà chủ yếu là luật hóa một số quy định của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ. Quy định như vậy chưa thể giải quyết được những bất cập về thực tế mất sinh kế, mất việc làm của người bị thu hồi đất và những mâu thuẫn, bức xúc gay gắt đang diễn ra ở nhiều địa phương.

Hai là, thiếu căn cứ pháp lý trong việc ban hành các quyết định hành chính và thực hiện hành vi hành chính: Đối tượng của tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai là các quyết định hành chính và hành vi hành chính trong quản lý về đất đai, nhưng việc phân biệt giữa quyết định hành chính và hành vi hành chính trong các cơ quan có thẩm quyền đôi khi còn lúng túng. Thực tế, khó xác định hành vi hành chính mang tính nội bộ hay hành vi hành chính là đối tượng của tranh chấp hành chính. Đặc biệt, do chưa có luật nên việc ban hành các quyết định hành chính trong việc thu hồi, bồi thường giải phóng mặt bằng, chuyển mục đích sử dụng đất, còn có hiện tượng vi phạm như: Sai đối tượng, không tuân thủ trình tự, thủ tục, thiếu công khai, dân chủ, công bằng, không thẩm tra xem xét nhu cầu sử dụng của người được giao.

2. Tình hình tranh chấp, kết quả giải quyết và một số bất cập, hạn chế của cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính về đất đai trong giai đoạn hiện nay

Tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai có xu hướng gia tăng và đặc biệt ngày càng trở nên bức xúc từ sau khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành ngày 01/7/2014. Kết quả tiếp nhận và giải quyết các tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai đến giai đoạn vừa qua cụ thể như sau:

Một là, giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai bằng thủ tục hành chính: Theo thống kê, từ năm 2004 đến nay, tổng số vụ việc khiếu nại các cơ quan hành chính nhà nước đã tiếp nhận và giải quyết trong các năm từ 2004 đến 2012 là: 528.401/612.115 vụ việc, đạt 86%, trong đó, hàng năm, khiếu nại hành chính liên quan đến đất đai luôn chiếm khoảng 70%(2). Riêng tại Bộ Tài nguyên và Môi trường, từ năm 2004 đến năm 2011, đã tiếp nhận được 59.751 lượt đơn của 29.671 vụ việc, trong đó khiếu nại hành chính về đất đai là 17.7113. Về khiếu nại, tố cáo tồn đọng, bức xúc, kéo dài, tại thời điểm ngày 02/5/2012, các bộ, ngành, địa phương đã kiểm tra, rà soát còn 528 vụ, đến ngày 11/7/2014, còn 34 vụ việc đang được tập trung giải quyết dứt điểm4. Các số liệu này cho thấy, số tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai phát sinh và được các cơ quan hành chính nhà nước thụ lý, giải quyết hàng năm là rất lớn. Tỷ lệ số vụ việc được giải quyết so với số vụ việc tiếp nhận cũng tương đối cao và luôn ổn định trên 80%, có năm đạt xấp xỉ 90% là rất cao; số vụ việc tồn đọng, kéo dài trong lĩnh vực đất đai cũng được các cơ quan hành chính nhà nước quan tâm giải quyết với tỷ lệ đáng kể, có những vụ việc kéo dài tới 20 năm, đã được giải quyết dứt điểm. Tuy nhiên, phân tích 257.419/290.565 đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước từ năm 2008 đến năm 2012 cho kết quả: Tỷ lệ khiếu nại đúng và khiếu nại đúng một phần từ năm 2008 đến 2011 chiếm gần 50%, tỷ lệ này trong năm 2012 có giảm xuống còn 43,05%5 nhưng vẫn cho thấy các quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân như vậy là rất lớn và đáng báo động.

Hai là,giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai bằng thủ tục tư pháp: Từ năm 2004 đến năm 2011, Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý sơ thẩm 3.994 vụ án hành chính liên quan đến đất đai, giải quyết 2.857 vụ, đạt 71,5% (trong khi đó chỉ riêng năm 2013, Tòa án nhân dân các cấp thụ lý sơ thẩm 69.894 vụ án hình sự, xét xử sơ thẩm được 68.751 vụ; thụ lý sơ thẩm 285.794 vụ án dân sự, xét xử được 259.636 vụ6). Trong tổng số 2.857 vụ án hành chính sơ thẩm liên quan đến đất đai, Tòa án nhân dân các cấp đã đình chỉ giải quyết 1.130 vụ, chiếm 39,6% các vụ giải quyết; đưa ra xét xử 1.727 vụ, chiếm 60,4% các vụ giải quyết, với kết quả xét xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện 1.389 vụ, chiếm 80,5% các vụ đưa ra xét xử; chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện 149 vụ chiếm 8,6% các vụ đưa ra xét xử; chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện 189 vụ, chiếm 10,9% các vụ đưa ra xét xử7. Những con số này cho thấy, số lượng các vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai được thụ lý và giải quyết rất ít so với số lượng các vụ án hình sự và vụ việc dân sự, đồng thời, cũng rất ít so với số lượng vụ việc khiếu nại về đất đai đã được các cơ quan hành chính nhà nước thụ lý, giải quyết. Đồng thời, từ số liệu cụ thể các vụ án hành chính liên quan đến đất đai được Tòa án nhân dân các cấp thụ lý, xét xử từ năm 2004 đến năm 2011 cũng cho thấy, mặc dù số lượng vụ án có chiều hướng tăng lên hàng năm (cho dù chỉ tăng rất ít), nhưng tỷ lệ giữa số lượng vụ án được giải quyết với số lượng vụ án đã thụ lý thì lại có xu hướng giảm dần8. Thực tế giai đoạn vừa qua, thông thường người dân chỉ khởi kiện ra Tòa án yêu cầu giải quyết tranh chấp hành chính về đất đai sau khi đã qua hai cấp giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nước và đã có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, tỷ lệ gần 20% số vụ án hành chính về đất đai được Tòa án nhân dân các cấp chấp nhận một phần (8,6%) và chấp nhận toàn bộ (10,9%) lại cho thấy, nếu việc giải quyết của Tòa án đúng pháp luật và nếu tất cả các vụ việc này đều đã qua hai cấp giải quyết khiếu nại, thì có nghĩa rằng gần 20% quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai là trái pháp luật, nhưng không được phát hiện qua việc giải quyết bằng thủ tục hành chính ở các cơ quan hành chính nhà nước.

Như vậy, từ thực trạng giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai trên đây có thể thấy, sự tồn tại song song hai phương thức giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai gần 20 năm qua đã mang lại hiệu quả nhất định, góp phần bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể sử dụng đất và bảo đảm pháp chế trong hoạt động của các cơ quan nhà nước hữu quan. Mặc dù đã có những tác động tích cực, nhưng cả hai cơ chế hành chính và tư pháp trong giải quyết tranh chấp hành chính như hiện nay cho thấy những tồn tại, hạn chế trong việc hướng tới bảo vệ công lý cho người dân. Thực tế, phần lớn các vụ việc tranh chấp hành chính về đất đai không được giải quyết dứt điểm tại cơ sở, mức độ hài lòng của người dân rất thấp. Đáng chú ý là trong một báo cáo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, thì có tới trên 90% số người được hỏi có ý kiến không hài lòng về cơ chế khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với việc thu hồi đất, giải quyết bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất9. Sở dĩ có những hạn chế trên, theo chúng tôi các phương thức giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai còn nhiều bất cập, hạn chế cả về mô hình tổ chức, trình tự thủ tục thực hiện và yếu tố con người, cụ thể như sau:

Về mô hình tổ chức: Mô hình tổ chức bộ máy giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai ở cơ chế giải quyết bằng con đường hành chính nhà nước và bằng con đường tư pháp vẫn còn nhiều bất cập. Trong khi trách nhiệm của người đứng đầu (là người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại) tại các cơ quan hành chính nhà nước còn chưa cao, bộ máy tham mưu giải quyết của hệ thống cơ quan này cũng còn chưa chặt chẽ, thiếu chuyên nghiệp, thì bộ máy của Tòa án nhân dân cũng có bất cập do được tổ chức theo cấp hành chính, nên trong hoạt động còn khó bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử vì bị ảnh hưởng bởi cấp ủy và chính quyền địa phương.

Về trình tự, thủ tục giải quyết: Cả thủ tục giải quyết bằng con đường hành chính và con đường tư pháp cũng vẫn còn bộc lộ những hạn chế, bất cập cần phải được tiếp tục khắc phục, hoàn thiện, cụ thể như: Thủ tục giải quyết bởi cơ quan hành chính nhà nước còn mang “tính khép kín”, thực tế phát sinh những trường hợp cần phải xem xét lại, kể cả khi đã có bản án có hiệu lực của Tòa án, nhưng lại không có quy định về những trường hợp này; thủ tục tư pháp khắc phục được hạn chế trên của thủ tục hành chính nhưng lại có nhược điểm là rườm rà, kéo dài thời gian, nhiều trường hợp gây bức xúc trong dư luận.

Về yếu tố con người: Nguồn nhân sự giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai còn nhiều hạn chế. Trong cả hệ thống cơ quan hành chính nhà nước và hệ thống cơ quan Tòa án, nguồn nhân sự giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai có nhiều hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Ở nhiều địa phương, trong bộ máy tham mưu giải quyết khiếu nại về đất đai còn thiếu những cán bộ, công chức vừa có chuyên môn về lĩnh vực đất đai, lại vừa có chuyên môn, kỹ năng về giải quyết khiếu nại hành chính. Đối với Ngành Tòa án, số lượng thẩm phán hành chính còn mỏng và số thẩm phán đáp ứng được các yêu cầu vừa có năng lực chuyên môn như những thẩm phán khác, lại phải vừa có trình độ chuyên sâu trong công tác quản lý nhà nước về đất đai còn ít hơn. Những hạn chế về nguồn nhân lực này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả điều chỉnh pháp luật giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai.

3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai

3.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đất đai và ban hành quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai, cụ thể:

Một là, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đất đai: Luật Đất đai năm 2013 mới vừa có hiệu lực thi hành, dó đó, cần hướng dẫn thực hiện một cách cụ thể, tránh áp dụng tùy tiện vấn đề thu hồi đất theo hướng khẳng định rõ và rất hạn chế các trường hợp được coi là “thật sự cần thiết” mới được thu hồi, theo đúng tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Đồng thời, cần làm rõ hơn vai trò của Hội đồng nhân dân như là tiếng nói của cử tri trong việc kiểm soát những quyết định thu hồi đất của Ủy ban nhân dân cùng cấp. Về xác định giá đất, cần quy định thành phần bắt buộc trong hội đồng thẩm định giá đất, không chỉ có Ủy ban nhân dân, đại diện ban, ngành liên quan, tổ chức cung cấp dịch vụ định giá đất độc lập, mà còn cần tới nhiều thành viên là các chuyên gia cao cấp về định giá đất như các chuyên gia định giá từ các cơ sở đào tạo, viện nghiên cứu, khu vực doanh nghiệp định giá, hiệp hội định giá. Với thành phần như vậy mới đảm bảo việc định giá đất có cơ sở khách quan. Về lâu dài, cũng cần tính đến việc sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai để luật hóa nội dung nói trên cho thực sự phù hợp với những yêu cầu chung và với tình hình thực tế.

Hailà, ban hành Luật Ban hành quyết định hành chính và hướng dẫn xác định rõ các hành vi hành chính trong lĩnh vực đất đai: Để có cơ sở pháp lý đầy đủ, vững chắc cho việc ban hành các quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai và cũng để kiểm soát chặt chẽ việc ban hành quyết định hành chính, cần phải có Luật Ban hành quyết định hành chính. Hiện nay, Dự án Luật này đã được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ XIII (năm 2011- 2016) của Quốc hội. Luật Ban hành quyết định hành chính được ban hành không chỉ thuận lợi cho phía chủ thể quản lý, mà còn tạo thuận lợi cho người dân, vừa bảo đảm tính dân chủ, minh bạch, vừa bảo đảm tính quyền uy, quyền lực phục tùng, được xem là bản chất của các quan hệ hành chính. Theo đó, Luật phải làm rõ những gì được coi là quyết định hành chính cũng như thẩm quyền, căn cứ ban hành, các nguyên tắc về tính hợp pháp của nội dung và hình thức của quyết định hành chính. Đồng thời, với việc ban hành Luật Ban hành quyết định hành chính, Chính phủ và Tòa án nhân dân tối cao cần phải hướng dẫn xác định rõ các hành vi hành chính là đối tượng của tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai theo những yêu cầu và tính chất đặc thù của hoạt động quản lý này, làm cơ sở cho người dân đưa ra các yêu cầu và chính quyền giải quyết các tranh chấp với người dân.

3.2. Đổi mới cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai

Một là, đổi mới về mô hình tổ chức bộ máy giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai: Cần tăng cường trách nhiệm giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nước bằng các biện pháp: Xác định rõ chế độ trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước là người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại; tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát trách nhiệm của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại; chấn chỉnh những tồn tại, yếu kém, xử lý nghiêm những người vi phạm, thiếu trách nhiệm trong công tác giải quyết khiếu nại. Đồng thời, bảo đảm, tăng cường tính độc lập, khách quan của Tòa án trong việc xét xử các vụ án hành chính, các cấp Tòa án cần được bố trí theo khu vực, vùng, không theo cấp hành chính lãnh thổ nhằm bảo đảm tính độc lập khi xét xử các vụ án hành chính của Tòa án.

Hai là, hoàn thiện về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai: Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm các quy định về tổ chức đối thoại; luật sư tham gia quá trình giải quyết khiếu nại; công khai, minh bạch các tài liệu, chứng cứ của các bên; tăng cường việc “tranh tụng” để phá vỡ tính “khép kín” trong quá trình giải quyết khiếu nại. Đồng thời, quy định thẩm quyền, căn cứ, thủ tục xem xét lại khiếu nại trong một số trường hợp cụ thể khi phát hiện việc giải quyết khiếu nại có vi phạm pháp luật; các vụ việc khiếu nại phức tạp, kéo dài… Song song với giải pháp đối với trình tự, thủ tục bằng con đường hành chính, cũng cần phải đơn giản, rút gọn một số thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hành chính trong trường hợp vụ việc đơn giản, rõ ràng, có căn cứ để phán quyết và bảo đảm, tăng cường hiệu lực xử vụ án hành chính của Tòa án, thông qua việc nghiên cứu có cơ chế hữu hiệu thi hành bản án hành chính.

Ba là, nâng cao chất lượng nguồn nhân sự giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai: Đối với các cơ quan hành chính nhà nước, cần xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tham mưu giải quyết khiếu nại theo hướng chuyên nghiệp, am hiểu lý luận và thực tiễn, giỏi về áp dụng pháp luật đất đai và các pháp luật có liên quan, có kỹ năng thành thạo khi giải quyết khiếu nại, phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước và thẩm quyền, trách nhiệm giải quyết khiếu nại của thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước ở các cấp trong quản lý về đất đai. Đối với Ngành Tòa án, phải từng bước đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ thẩm phán tại cơ sở đào tạo, bồi dưỡng trong nước hoặc nước ngoài, nâng cao trình độ, kiến thức chuyên môn và bổ túc kinh nghiệm xét xử. Đồng thời, cần thường xuyên tổ chức các hội nghị, hội thảo tổng kết, rút kinh nghiệm, đặc biệt là những khóa bồi dưỡng riêng về công tác xét xử án hành chính, nhất là trong lĩnh vực đất đai.

Có thể nói, giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai trong giai đoạn vừa qua đã có những kết quả tích cực, nhưng vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật và đổi mới cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai, đòi hỏi phải có nhiều giải pháp đồng bộ, kịp thời và đặt trong mối quan hệ phụ thuộc, tác động lẫn nhau như: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đổi mới tư duy nhận thức, tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, bảo đảm cơ sở vật chất cho công tác giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai và các giải pháp hỗ trợ khác. Tuy nhiên, bài viết này chỉ đưa ra một vài giải pháp trao đổi cùng bạn đọc với hy vọng nâng cao hiệu quả cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính về đất đai trong giai đoạn hiện nay, hướng tới mục tiêu đảm bảo công lý hành chính, quyền bình đẳng của người dân với cơ quan công quyền, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Tài liệu tham khảo:

1. Nguyễn Thắng Lợi, Một số giải pháp đổi mới mô hình giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 10/2013, 2008, tr. 9.

2. Theo Báo cáo số 1670/BC-TTCP ngày 05/7/2012 và Báo cáo tổng kết công tác năm 2012 của Thanh tra Chính phủ, số vụ việc tiếp nhận và giải quyết của các năm cụ thể là: Năm 2004: 58.435/70.176 vụ, đạt 83,2%; năm 2005: 42.040/51.817 vụ, đạt 81,1%; năm 2006: 54.504/65.372 vụ, đạt 83,3%; năm 2007: 69.471/79.258 vụ, đạt 87,6%; năm 2008: 65.971/75.364 vụ, đạt 87,5%; năm 2009: 66.079/73.713 vụ, đạt 89,6%; năm 2010: 63.180/72.032 vụ, đạt 87,7%; năm 2011: 62.189/69.456 vụ, đạt 89,5%; năm 2012: 46.532/54.927 vụ, đạt 84,7%.

3. Báo cáo số 100/BC-BTNMT ngày 12/6/2012 của Bộ Tài nguyên và Môi trường.

4. Báo cáo sơ kết công tác 6 tháng đầu năm, triển khai công tác nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2014 của Ngành Thanh tra.

5. Báo cáo tổng kết công tác năm 2012 và phương hướng nhiệm vụ năm 2013 của Ngành Thanh tra.

6. Báo cáo tổng kết năm 2013 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2014 của Ngành Tòa án nhân dân.

7. Báo cáo số 18/BC-TA ngày 18/7/2012 của Tòa án nhân dân tối cao.

8. Số vụ án hành chính liên quan đến đất đai được Tòa án nhân dân các cấp thụ lý và xét xử từ năm 2004 đến năm 2011: Năm 2004 là 314/369 vụ, đạt 85%; năm 2005 là 349/410 vụ, đạt 85,1; năm 2006 là 258/300 vụ; năm 2007 là 288/361 vụ, đạt 79,7%; năm 2008 là 347/449 vụ, đạt 77,2%; năm 2009 là 382/539 vụ, đạt 70,8%; năm 2010 là 373/667 vụ, đạt 58,6% và năm 2011 là 486/899 vụ, đạt 58,7%.

9. Xem Khiếu nại đất đai giao cơ quan tài phán hành chính, tại http://plo.vn/do-thi/khieu-nai-dat-dai-giao-co-quan-tai-phan-hanh-chinh-128089.html.

Nguyễn Thắng Lợi

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bàn về một số quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012

10/03/2015

Ngày 20/6/2012, Luật Xử lý vi phạm hành chính đã được Quốc hội khoá XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua. Sau hai năm thực hiện cho thấy, Luật này đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn xử lý vi phạm hành chính ở nước ta. Tuy nhiên, quá trình thực hiện một số quy định cụ thể của Luật cũng bộc lộ những hạn chế, vướng mắc nhất định. Việc sửa đổi, bổ sung hoặc hướng dẫn cụ thể đối với những quy định này sẽ góp phần hoàn thiện Luật, cũng như tạo hành lang pháp lý đầy đủ và vững chắc để hoạt động xử phạt hành chính ở nước ta được thực hiện thống nhất, đồng bộ, chất lượng và hiệu quả, bảo đảm được tính nghiêm minh của pháp luật và công bằng trong xã hội, đáp ứng được đầy đủ những yêu cầu của thực tiễn đang đặt ra trong giai đoạn hiện nay.

Để bổ sung thêm vốn kiến thức về vướng mắc thường gặp trong thực tiễn thực hiện Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, kính mời độc giả tìm đọc bài viết “Bàn về một số quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012”của tác giả Nguyễn Tuấn An, đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 64 trang tháng 2/2015. Theo đó, tác giả đã có những bình luận, phân tích sâu sắc và đưa ra đề xuất nhằm khắc phục, giải quyết khó khăn, bất cập trong thực tiễn thi hành một số quy định như: Về việc xin gia hạn để xác minh, thu thập chứng cứ; về nguyên tắc một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính; về việc xử lý tang vật, phương tiện bị tạm giữ theo thủ tục hành chính; về việc thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp người bị xử phạt không có khả năng thi hành.

Uyên Nhi

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quy trình thương lượng tập thể trong quan hệ lao động ở Việt Nam hiện nay

16/01/2015

Thương lượng tập thể là một trong những hình thức biểu hiện của quan hệ lao động, là công cụ để xác định điều kiện lao động và sử dụng lao động tại doanh nghiệp, tạo điều kiện cho quan hệ lao động phát triển hài hòa, lành mạnh, bền vững, làm cân bằng lợi ích của hai bên; đồng thời góp phần phòng ngừa, hạn chế và giải quyết các tranh chấp lao động phát sinh trong quan hệ lao động. Với tư cách là một bộ phận của hệ thống pháp luật về quan hệ lao động, pháp luật về thương lượng tập thể quy định về nguyên tắc, quy trình mà các bên trong quan hệ lao động sẽ đàm phán, thảo luận với nhau để xác lập các quyền, nghĩa vụ và lợi ích cụ thể của mình theo chiều hướng cao hơn mức tối thiểu được quy định bởi pháp luật về tiêu chuẩn lao động. Do vậy, các quy định của pháp luật về quy trình thương lượng tập thể luôn là nội dung có vai trò hết sức quan trọng của pháp luật về thương lượng tập thể. Các quy định về quy trình thương lượng cần phải bảo đảm cho quá trình thương lượng được diễn ra một cách hiệu quả và thực chất trên thực tế. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung vào việc phân tích thực trạng các quy định của pháp luật và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quy trình thương lượng tập thể trong quan hệ lao động ở Việt Nam hiện nay.

1. Thực trạng các quy định của pháp luật về quy trình thương lượng tập thể trong quan hệ lao động ở Việt Nam hiện nay

Thương lượng tập thể là việc tập thể lao động thảo luận, đàm phán với người sử dụng lao động xoay quanh việc cải thiện điều kiện lao động và nguyên tắc xử lý quan hệ lao động. Việc đàm phán, thảo luận này được thực hiện theo một trình tự, thủ tục nhất định. Theo quy định của pháp luật hiện hành, quy trình thượng lượng tập thể trong quan hệ lao động ở Việt Nam được tiến hành qua các bước sau:

Bước 1: Đề xuất yêu cầu và nội dung cần thương lượng

Trong quá trình thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ lao động, nếu tập thể lao động thấy cần phải ký kết thỏa ước lao động tập thể để nhằm đảm bảo hơn quyền lợi của mình hoặc người sử dụng lao động thấy cần phải ký kết thoả ước để hạn chế các tranh chấp lao động và đình công thì một trong hai bên đưa ra lời đề nghị việc ký kết thoả ước lao động tập thể. Theo quy định của pháp luật lao động Việt Nam: “Mỗi bên đều có quyền đề xuất yêu cầu thương lượng tập thể, bên nhận được yêu cầu không được từ chối việc thương lượng. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu thương lượng, các bên thỏa thuận thời gian bắt đầu phiên họp thương lượng”[1]. Như vậy, theo quy định của pháp luật, khi một bên đưa ra yêu cầu, bắt buộc phía bên kia phải chấp nhận yêu cầu và ngồi vào đàm phán thương lượng, còn việc thương lượng có thành hay không hoàn toàn phụ thuộc vào các bên. Quy định này nhằm mục đích buộc bên nhận được yêu cầu phải có thiện chí với bên đưa ra yêu cầu. Pháp luật cũng đã quy định người sử dụng lao động phải có tinh thần hợp tác với Công đoàn cơ sở trong việc bàn bạc những vấn đề về quan hệ lao động, quyền lợi người lao động mà trong đó bao hàm cả thỏa ước lao động tập thể. Cụ thể, theo quy định của pháp luật, người sử dụng lao động có quyền cử đại diện để thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể trong doanh nghiệp hoặc thỏa ước lao động tập thể ngành; có trách nhiệm cộng tác với Công đoàn bàn bạc các vấn đề về quan hệ lao động, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người lao động. Bên cạnh đó, pháp luật cũng yêu cầu người sử dụng lao động phải chịu trách nhiệm vật chất cụ thể cho việc thương lượng, xây dựng thoả ước để đảm bảo cho tinh thần cộng tác trong thương lượng, cụ thể:

– Mọi chi phí cho việc thương lượng, ký kết, sửa đổi, bổ sung, gửi và công bố thoả ước lao động tập thể do người sử dụng lao động chi trả.

– Các đại diện tập thể lao động là người lao động do doanh nghiệp trả lương, thì vẫn được trả lương trong thời gian tham gia thương lượng, ký kết thoả ước tập thể.

Quyền đề nghị thương lượng tập thể và trách nhiệm chấp nhận thương lượng đối với hai bên là bình đẳng ngang nhau, nhưng thực tế cho thấy, việc đề xuất thường là sự chủ động từ phía Công đoàn. Qua kết quả khảo sát một số doanh nghiệp đã ký kết thỏa ước lao động tập thể cho thấy, việc chấp thuận thương lượng và thương lượng trên tinh thần hợp tác nói chung là tốt. Thực tế cho thấy, có hai loại doanh nghiệp rất tôn trọng và tuân thủ quy định này, đó là:

– Các doanh nghiệp thuộc sở hữu của Nhà nước (doanh nghiệp nhà nước);

– Những doanh nghiệp phát triển tốt, sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao.

Cùng điều kiện như nhau thì các doanh nghiệp nhà nước thực hiện tốt hơn vì chúng thuộc sở hữu nhà nước, nên về cơ bản lợi ích giữa chủ sử dụng lao động và người lao động là thống nhất, không có sự đối kháng về lợi ích giữa người sử dụng lao động và người lao động.

Bước 2: Chuẩn bị thương lượng

Trước khi bắt đầu phiên họp thương lượng tập thể ít nhất 10 ngày, người sử dụng lao động phải cung cấp thông tin về tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh, khi tập thể lao động yêu cầu trừ những bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ của người sử dụng lao động. Đại diện thương lượng của bên tập thể lao động lấy ý kiến của người lao động về đề xuất của người lao động với người sử dụng lao động và các đề xuất của người sử dụng lao động với tập thể lao động (lấy ý kiến trực tiếp của tập thể lao động hoặc gián tiếp thông qua hội nghị đại biểu). Chậm nhất 05 ngày làm việc trước khi bắt đầu phiên họp thương lượng tập thể, bên đề xuất yêu cầu thương lượng tập thể phải thông báo bằng văn bản cho bên kia biết về những nội dung dự kiến tiến hành thương lượng tập thể[2].

Bước 3: Tiến hành thương lượng

Bên nhận được yêu cầu phải chấp nhận việc thương lượng và chủ động gặp bên đề xuất yêu cầu để thỏa thuận về thời gian, địa điểm và số lượng đại diện tham gia thương lượng. Trong quá trình thương lượng, hai bên phải thông báo cho nhau những thông tin liên quan đến thỏa ước lao động tập thể, phải có biên bản để ghi rõ những điều khoản hai bên đã thỏa thuận và những điều khoản chưa thỏa thuận được. Thời gian bắt đầu thương lượng chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu thương lượng tập thể[3]. Người sử dụng lao động chịu trách nhiệm tổ chức để hai bên tiến hành thương lượng. Kết quả thương lượng là căn cứ để xây dựng thỏa ước lao động tập thể.

Điều căn bản nhất trong quá trình thương lượng này chính là việc hai bên phải có thiện chí với nhau. Những yêu cầu mà hai bên đưa ra trong quá trình thương lượng cần phải gắn với điều kiện hoàn cảnh thực tế của doanh nghiệp. Có như vậy, việc thương lượng mới đạt được kết quả tốt.

Quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động là quan hệ chủ – thợ và là mối quan hệ kép, hai bên vừa quan hệ trên cơ sở hợp tác, tự nguyện để tìm kiếm lợi nhuận tăng lên, đồng thời lại vừa luôn mặc cả, thương lượng để giành được phần nhiều hơn từ lợi nhuận kiếm được của doanh nghiệp, người sử dụng lao động muốn thu được lợi nhuận cao nhất và người lao động muốn hưởng nhiều quyền lợi nhất như lương, thưởng nhiều, bảo hiểm cao, điều kiện lao động tốt… Trong mối quan hệ này, cả người sử dụng lao động và người lao động đều hiểu rằng, bất kể việc phân chia lợi nhuận như thế nào, nếu hoạt động sán xuất, kinh doanh của doanh nghiệp bị đình trệ, ví dụ như đình công, lãn công, giãn công… thì lợi nhuận kiếm được của doanh nghiệp sẽ giảm đi. Nếu ngừng hẳn thì không ai được gì, người sử dụng lao động thua lỗ hoặc thậm chí phá sản, còn người lao động thì mất việc hay thất nghiệp. Vì thế, mối quan hệ kép chủ – thợ sẽ quyết định tỷ lệ phân phối từ lợi nhuận kiếm được của doanh nghiệp như thế nào? Trong mối quan hệ này bên nào có lợi thế hơn, bên đó sẽ giành được lợi ích nhiều hơn và thường người sử dụng lao động chiếm được ưu thế này. Tuy nhiên, không phải chỉ người sử dụng lao động mới có quyền quyết định, bởi người lao động khi biết đoàn kết, và đại diện người lao động hiểu biết được tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, có kỹ năng thương lượng, biết kiên nhẫn và đặc biệt là biết sử dụng vũ khí răn đe là đình công, lãn công để đưa ra những yêu cầu phù hợp thì sẽ thành công. Như vậy, đòi hỏi cần phải xây dựng được một Ban Chấp hành Công đoàn đủ tầm để người sử dụng lao động thấy sức mạnh của người lao động khi thống nhất dưới tổ chức công đoàn, cũng như có năng lực kiểm chứng lợi nhuận mà người sử dụng lao động thu được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tế vừa qua cho thấy, Công đoàn cơ sở đại diện hợp pháp của người lao động không chỉ rất thiếu và yếu, mà còn thiếu động lực để lãnh đạo công nhân, trong khi đó, những người đại diện tự phát của người lao động lại không có địa vị pháp lý để đại diện cho người lao động tham gia thương lượng tập thể. Đây có lẽ cũng là một trong những lý do khiến thỏa ước lao động tập thể được ký kết trong các doanh nghiệp chưa nhiều, đặc biệt là ở doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Trong thực tiễn, việc thương lượng rất ít xảy ra theo hình thức tổ chức cuộc họp bên bàn với đại diện của hai bên tham dự. Thông thường, bên có sáng kiến đề xuất gửi cho bên kia những nội dung cần thương lượng bằng văn bản, tiếp đến bên nhận sẽ nghiên cứu xem xét rồi đáp lại bằng văn bản, bao gồm:

– Đưa thêm những nội dung yêu cầu của phía mình;

– Trả lời mức độ đáp ứng hoặc không đáp ứng những nội dung của bên đã đề xuất trước. Qua một số lần trao đổi bằng văn bản nếu hai bên có thể dung hòa được quyền lợi sẽ ngồi lại cùng nhau thống nhất những nội dung cụ thể cho một thỏa ước để tiến hành ký kết ký kết. Do không có khung thời gian cho việc thương lượng, cho nên trong một số trường hợp cá biệt, các nội dung đề xuất để thương lượng không đi đến đến sự thống nhất thì việc thương lượng có thể tiếp diễn đến hàng năm khi một phía vẫn muốn theo đuổi xây dựng được một thỏa ước.

Khi bế tắc trong thương lượng, nếu hai bên thấy khó có thể đi đến ký kết một thỏa ước và không bên nào tiếp tục theo đuổi việc đề xuất thương lượng nữa thì hai bên thường chấp nhận mối quan hệ lao động sẽ theo quy định của pháp luật. Trong một số trường hợp khi bế tắc trong thương lượng, nhưng một hoặc cả hai bên vẫn muốn có được một thỏa ước, thì mỗi bên thường có những cách ứng xử hoặc thực hiện phương án riêng cho mình, bao gồm:

– Đối với chủ sử dụng lao động, thường vận động hứa hẹn với từng nhóm lao động riêng để cô lập các thành viên trong Ban Chấp hành Công đoàn hoặc tìm nguyên cớ điều chuyển hoặc hạ vị trí công tác một cách “hợp lý”.

– Còn đối với Công đoàn lại áp dụng biện pháp vận động những tổ, nhóm lao động liên quan trực tiếp đến nội dung thương lượng đòi quyền lợi đang bị bế tắc nhất, để tự họ đứng ra tổ chức đình công; làm đơn khiếu nại đề nghị Công đoàn cấp trên vàquan quản lý lao động địa phương xuống can thiệp. Tuy nhiên, những bế tắc và những giải pháp áp dụng đó thường chỉ xảy ra ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc tư nhân hơn là doanh nghiệp nhà nước.

Bước 4:Phổ biến và lấy ý kiến biểu quyết của tập thể lao động về các nội dung đã thỏa thuận

Theo quy định của pháp luật hiện hành, trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày kết thúc phiên họp thương lượng, đại diện thương lương của bên tập thể lao động phải phổ biến rộng rãi, công khai biên bản phiên họp thương lượng tập thể cho tập thể lao động biết và lấy ý kiến biểu quyết của tập thể lao động về các nội dung đã thỏa thuận. Việc lấy ý kiến của tập thể người lao động do Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở hoặc Ban Chấp hành Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở nơi chưa thành lập Công đoàn cơ sở tiến hành bằng cách lấy chữ ký hoặc biểu quyết. Kết quả lấy ý kiến phải lập thành biên bản và phải có chữ ký của đại diện Ban Chấp hành Công đoàn. Trong quá trình lấy ý kiến về các nội dung đã đạt được trong quá trình thương lượng, hai bên có thể tham khảo ý kiến của cơ quan lao động, Liên đoàn Lao động ngành và địa phương.

Nhìn chung, Bộ luật Lao động năm 2012 đã bảo đảm tốt hơn sự tham gia của người lao động trong quá trình chuẩn bị thương lượng và trong quá trình thông qua thỏa ước. Tuy nhiên, Bộ luật Lao động năm 2012 lại chưa có những quy định về sự tham gia của người lao động trong chính quá trình thương lượng. Trách nhiệm của người sử dụng lao động không được cản trở, gây khó khăn trong quá trình công đoàn làm việc với công nhân trong suốt quá trình thương lượng tập thể cũng chưa được quy định cụ thể nên cũng có thể sẽ ảnh hưởng để việc bảo đảm sự tham gia thực chất của người lao động trong quá trình thương lượng tập thể trên thực tế. Những sửa đổi, bổ sung của Bộ luật Lao động năm 2012 cũng đã gắn kết tốt hơn quá trình thương lượng tập thể với việc giải quyết tranh chấp lao động, song có thể thấy, việc giải quyết tranh chấp lao động được quy định tại Bộ luật Lao động năm 2012 vẫn là cơ chế giải quyết tranh chấp lao động bị động theo yêu cầu của các bên tranh chấp. Đây có lẽ là những điểm hạn chế của pháp luật về quy trình thương lượng tập thể cần được tiếp tục hoàn thiện trong tương lai.

2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quy trình thương lượng tập thể trong quan hệ lao động ở Việt Nam

Bộ luật Lao động năm 2012 đã có những thay đổi quan trọng bằng việc bổ sung một điều về quy trình thương lượng tập thể, bao gồm các bước cơ bản: (i) Chuẩn bị thương lượng; (ii) Tiến hành thương lượng; (iii) Thông qua kết quả thương lượng; (iv) Việc giải quyết bế tắc trong quá trình thương lượng. Những sửa đổi, bổ sung của Bộ luật Lao động năm 2012 đã bảo đảm tốt hơn sự tham gia của người lao động trong quá trình thông qua những nội dung đã đạt được trong phiên họp thương lượng và đã gắn kết tốt hơn quá trình thương lượng tập thể với việc giải quyết tranh chấp lao động, đình công. Tuy nhiên, các quy định về quy trình thương lượng tập thể của Bộ luật Lao động năm 2012 vẫn còn một số hạn chế. Các quy định hiện hành cho chúng ta cảm giác thương lượng tập thể là một quá trình đơn giản với một hoặc vài phiên họp đàm phán giữa hai bên. Tuy nhiên trên thực tế, thương lượng tập thể một cách thực chất là một quá trình tương tác khó khăn, phức tạp. Nó có thể diễn ra nhiều vòng đàm phán, nhiều khi rất khó khăn, thậm chí gặp bế tắc. Để khắc phục tình trạng trên, có hai điều kiện quan trọng mà Bộ luật Lao động năm 2012 chưa giải quyết được và cần tiếp tục hoàn thiện là:

Thứ nhất,cần có quy định tạo điều kiện cho Công đoàn bảo đảm sự tham gia của người lao động trong suốt quá trình thương lượng tập thể, từ giai đoạn hình thành nội dung thương lượng, trong quá trình thương lượng, cũng như thông qua thỏa ước. Đi kèm với các quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động không được cản trở, gây khó khăn trong quá trình Công đoàn làm việc với công nhân trong suốt quá trình thương lượng tập thể. Bảo đảm sự tham gia của người lao động trong suốt qua trình thương lượng tập thể này có hai ý nghĩa vô cùng quan trọng, có tính quyết định đối với sự thành công của thương lượng tập thể thực chất. Một là, nó bảo đảm tính làm chủ của người lao động đối với toàn bộ quá trình thương lượng tập thể cũng như thỏa ước lao động tập thể. Quá trình thương lượng tập thể với thỏa ước lao động tập thể là quá trình và sản phẩm chính người lao động chứ không phải quá trình và sản phẩm giữa Công đoàn với người sử dụng lao động. Hai là, việc bảo đảm sự tham gia của người lao động trong suốt quá trình thương lượng tập thể là cách tốt nhất để Công đoàn và người lao động có thể huy động và biểu dương sức mạnh tập thể – một yếu tố quyết định đến vị thế bình đẳng tương đối trong đàm phán giữa hai bên, từ đó, dẫn đến thành công trong thương lượng tập thể mà không nhất thiết phải dùng đến quyền đinh công.

Thứ hai, thương lượng tập thể – với tư cách một quy trình tương tác khó khăn, rất dễ gặp bế tắc, nên pháp luật cần có các quy định về sự can thiệp của bên trung gian thứ ba,thường là dưới hình thức trung gian hòa hoặc trọng tài để hỗ trợ cho hoạt động thương lượng thành công. Bộ luật Lao động năm 2012 đã có quy định gắn kết tốt hơn quá trình thương lượng tập thể với quy trình giải quyết tranh chấp lao động, tuy nhiên, đó vẫn là những quy định về quy trình giải quyết tranh chấp lao động bị động. Cụ thể là, việc hòa giải tranh chấp lao động chỉ được thực hiện khi có yêu cầu của một hoặc hai bên tranh chấp. Khác với hòa giải đối với các tranh chấp dân sự, kinh tế, trong quan hệ lao động, hòa giải đối với những trường hợp này cần được thực hiện một cách chủ động theo đề nghị của bên cung cấp dịch vụ hòa giải, trọng tài và được các bên tranh chấp đồng ý chứ không nhất thiết phải có đề nghị hòa giải, trọng tài của các bên tranh chấp trước. Thực tiễn và kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy, hình thức hòa giải chủ động đã góp phần hỗ trợ cho hoat động thương lượng tập thể đạt hiệu quả cao. Do vậy, chúng ta cần phải nghiên cứu một cách nghiêm túc, kỹ càng thực tiễn và kinh nghiệm của các nước về vấn đề này để vận dụng vào điều kiện thực tế của Việt Nam cho phù hợp và hiệu quả./.

Th.S Nguyễn Huy Khoa

Đại học Công đoàn



[1] Khoản 1, Điều 68, Bộ luật Lao động năm 2012.

[2] Khoản 1, Điều 71, Bộ luật Lao động năm 2012.

[3] Khoản 2, Điều 68, Bộ luật Lao đông năm 2012.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất trong lĩnh vực dân sự

09/03/2015

Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất là những tài sản vô giá, là đối tượng mà các nền pháp luật luôn hướng đến để bảo vệ, điều chỉnh các giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo những cách thức nhất định để các giao dịch này diễn ra trong một hành lang pháp lý an toàn, tạo sự thông thoáng trong các giao dịch dân sự cũng như bảo vệ được các chủ thể liên quan khi có các tranh chấp phát sinh.

Qua nghiên cứu các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất xảy ra trên địa bàn tỉnh Tiền Giang trong 03 năm từ 2011 đến 2013, tác giả nhận thấy các tranh chấp này diễn ra ngày càng phức tạp và chiếm số lượng lớn trong các tranh chấp mà Tòa án đã thụ lý. Hầu hết các tranh chấp xảy ra thường liên quan đến nguồn gốc hình thành tài sản, các mâu thuẫn lâu dài trong nội bộ gia đình, những người xung quanh, các tranh chấp này diễn ra lâu dài, công tác xác minh, thu thập nguồn gốc tài sản gặp nhiều khó khăn, chính sách giải quyết tranh chấp đất đai cũng có nhiều thay đổi qua các thời kỳ.

Trong quá trình thực hiện, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn nghiệp vụ kịp thời để các cơ quan tư pháp vận dụng giải quyết tranh chấp kịp thời, đầy đủ và đúng quy định của pháp luật. Từ đó, Tòa án đã thực hiện tốt các quy định của pháp luật trong công tác thụ lý, giải quyết các tranh chấp dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Viện kiểm sát đã thực hiện tốt chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án, kiểm sát viên nghiên cứu chặt chẽ nội dung vụ án, đề xuất quan điểm giải quyết vụ án, chú trọng phát hiện các vi phạm của Tòa án làm căn cứ để kiến nghị, kháng nghị, khắc phục vi phạm theo quy định của pháp luật. Các vi phạm sau khi ban hành kiến nghị đều được Tòa án và các cơ quan hữu quan ban hành văn bản chỉ đạo yêu cầu khắc phục vi phạm và gửi đến Viện kiểm sát đúng theo quy định.

Công tác phối kết hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát từng bước được hoàn thiện, các quy định về chuyển hồ sơ để Viện kiểm sát tham gia phiên tòa được thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn liên quan. Từ đó, việc tham gia phiên tòa và thực hiện chức năng của ngành ngày càng tốt hơn.

Bên cạnh kết quả đạt được thì các cơ quan tư pháp vẫn còn một số khó khăn nhất định, đó là: các tranh chấp về nhà đất rất phức tạp và đa dạng, mỗi vụ án đều có những đặc điểm riêng, việc áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết là tương đối khó khăn. Trong khi đó những văn bản hướng dẫn giải quyết các tranh chấp liên quan đến nhà, đất hiện tại chưa đi sâu hướng dẫn giải quyết đối với từng loại tranh chấp cụ thể.

Các tranh chấp về quyền sử hữu nhà, quyền sử dụng đất thường diễn biến trong thời gian dài, trong nội bộ gia đình, có tính chất ngày càng phức tạp, các thủ tục hòa giải ban đầu thường không đạt hiệu quả,….nên các đương sự khởi kiện đến Tòa án yêu cầu giải quyết ngày càng nhiều trong khi đó, số lượng thẩm phán còn ít nên việc thụ lý, giải quyết thường kéo dài, vi phạm thời hạn giải quyết.

Các tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà gắn liền với quyền sử dụng đất thường khi giao kết hợp đồng các bên không tiến hành xác định hiện trạng; khi hợp đồng có công chứng, chứng thực, giá trị chuyển nhượng có nhiều thay đổi thì một bên có ý kéo dài việc thực hiện hoặc không thực hiện hợp đồng dẫn đến khiếu kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu để không thực hiện tiếp hợp đồng.

Những hạn chế, tồn tại nêu trên xuất phát từ các nguyên nhân sau:

– Về pháp luật: Bộ luật Dân sự và các văn bản liên quan còn khá nhiều mâu thuẫn khi hướng dẫn các tranh chấp về nhà ở, quyền sử dụng đất như quy định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng; về thời hiệu khởi kiện tranh chấp thừa kế và tranh chấp tài sản chung; các quy định về quyền sử dụng đất hộ gia đình;… Các văn bản hướng dẫn giải quyết tranh chấp liên quan đến nhà, đất rất nhiều và không ổn định thường xuyên được sửa đổi, bổ sung. Bên cạnh đó có một số quy định của pháp luật về nhà ở, đất đai, thừa kế…có sự mâu thuẫn với nhau và còn quy định rất chung chung nên khi áp dụng trên thực tiễn rất khó khăn. Chính vì vậy, khi giải quyết cùng một vụ án lại có nhiều quan điểm khác nhau, gây khó khăn cho công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự liên quan đến nhà và đất.

– Công tác quản lý đất đai cũng còn nhiều bất cập, hồ sơ địa chính chưa được quan tâm đúng mức, chưa đầy đủ, không đủ cơ sở cho việc quản lý đất đai. Công tác quy hoạch sử dụng đất, việc chỉnh lý biến động đất đai không được theo dõi, cập nhật thường xuyên dẫn đến việc tham mưu, cung cấp thông tin không đầy đủ, thiếu chính xác trong việc giải quyết các tranh chấp về đất đai.

– Công tác quản lý thiếu chặt chẽ, còn nhiều sai sót của cơ quan nhà nước như đo đạc không chính xác diện tích, nhầm lẫn diện tích, số thửa, … đây là các sai sót dẫn đến các khiếu kiện, tranh chấp kéo dài, ảnh hưởng đến công tác giải quyết tranh chấp của Tòa án.

– Do tác động của quá trình đô thị hóa và vận hành nền kinh tế thị trường, đất đai ngày càng có giá trị, có trường hợp các bên sau khi chuyển nhượng đã xảy ra tranh chấp khởi kiện ra Tòa án yêu cầu chấm dứt hợp đồng chuyển nhượng.

– Cán bộ, kiểm sát viên của đơn vị phải kiêm nhiệm công tác khác nên chưa kịp thời nghiên cứu, phát hiện vi phạm của Tòa án để kiến nghị chấn chỉnh, khắc phục vi phạm. Bên cạnh đó, cán bộ làm công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự chưa có nhiều kinh nghiệm nên ảnh hưởng đến hiệu quả công việc.

Khi giải quyết các tranh chấp liên quan đến nhà, đất, cán bộ tư pháp cần tập trung nghiên cứu, phát hiện các vi phạm tố tụng liên quan đến quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất thông qua các nội dung sau:

– Đối với các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng khi giao kết hợp đồng các bên không tiến hành thẩm tra trên thực tế, nên khi ký hợp đồng thì trên đất có các tài sản gắn liền với đất; đối với các yêu cầu đòi lại tài sản, buộc tháo dỡ, di dời các tài sản trên đất trả lại tài sản nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án chưa tiến hành thẩm tra thực địa nên đây là nguyên nhân dẫn đến án bị hủy giải quyết lại theo thủ tục chung, ảnh hưởng đến quyến lợi của các đương sự.

– Đối với các chứng cứ do đương sự cung cấp, Tòa án cần tiến hành thẩm tra nguồn gốc, độ tin cậy của chứng cứ để phục vụ công tác giải quyết vụ án.

– Khi giải quyết tranh chấp, Tòa án không đưa những người liên quan vào giải quyết vụ án, đây là những vi phạm tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án.

– Khi Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ thông qua các biện pháp thẩm định tại chỗ, đo đạc, định giá nhưng không xác định kích thước, tứ cận, sơ đồ bản vẽ là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

– Đối với các tranh chấp liên quan đến nhà, đất thì khi giải quyết tranh chấp Tòa án phải yêu cầu cơ quan chuyên môn cung cấp các tài liệu liên quan đến nguồn gốc hình thành tài sản, hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng, quyền sở hữu làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án được khách quan, đúng quy định của pháp luật.

– Tại phiên tòa, kiểm sát viên cần tập trung vào việc đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp gì, với ai từ đó hình dung ra tổng thể các mối quan hệ trong vụ án, thành phần tham gia tố tụng, tư cách tham gia tố tụng. Nắm kỹ nội dung diễn biến phiên tòa, khi tham gia hỏi cần làm rõ được từng nội dung đương sự yêu cầu và chứng cứ chứng minh cho yêu cầu đó.

– Chú trọng công tác nghiên cứu pháp luật, thường xuyên cập nhập văn bản mới hướng dẫn giải quyết tranh chấp về nhà, đất để vận dụng trong công tác kiểm sát các bản án, quyết định của Tòa án để kịp thời phát hiện vi phạm ban hành kiến nghị, kháng nghị nhằm khắc phục các vi phạm đã xảy ra.

Để hoàn thiện công tác giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, cần phải hoàn thiện pháp luật và cơ chế giải quyết tranh chấp theo các nội dung sau:

Thứ nhất, về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng: Cần có sự hướng dẫn thống nhất về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất và hợp đồng mua bán nhà ở. Bởi vì theo quy định của Bộ luật Dân sự thì hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất phải theo đúng nội dung, hình thức quy định còn phải được đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai[1]. Còn về phía hợp đồng mua bán nhà ở chỉ quy định hợp đồng mua bán nhà có hiệu lực khi được công chứng, chứng thực[2]. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng trên đất có tài sản là nhà ở khi hợp đồng chuyển nhượng đã được công chứng, chứng thực[3] thì các bên vẫn có quyền khởi kiện tranh chấp dân sự do đây là 02 loại tài sản khác nhau, thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng cũng khác nhau.

Để có sự thống nhất giữa quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Nhà ở và phù hợp với thực tế, cần thống nhất quy định thời điểm có hiệu lực khi các hợp đồng liên quan đến quyền sử dụng đất và tải sản gắn liền với đất đã được công chứng, chứng thực tạo sự thông thoáng trong các giao dịch dân sự, tránh sự tùy tiện của cơ quan quản lý đất đai, nhà ở (đăng ký chỉ là biện pháp mang tính hành chính).

Thứ hai, đối với các tranh chấp về thừa kế và tranh chấp tài sản chung: Bộ luật Dân sự quy định thời hiệu khởi kiện tranh chấp thừa kế là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế[4] và tại tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình có quy định không áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Như vậy, khi đương sự khởi kiện vụ tranh chấp tài sản chung thì phải xuất trình các chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện theo Điều 5, 6, 7 BLTTDS nhưng khi khởi kiện tài sản chung các đương sự không xuất trình được sự thống nhất về tài sản chung chưa chia, khi thụ lý, giải quyết thì dẫn đến bác yêu cầu khởi kiện nhưng việc giải quyết tranh chấp kéo dài dẫn đến lượng án tồn đọng và ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các đương sự. Vì vậy, cần quy định Tòa án thụ lý và giải quyết vụ án khi các đương sự phải xuất trình được các chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện đúng theo quy định của pháp luật.

Bên cạnh đó, nếu người có tài sản đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng lại bị kê biên, đảm bảo thi hành án. Khi đó, các đồng thừa kế không tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia, Toà án căn cứ Nghị Quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 để thụ lý chia tài sản chung, việc giải quyết các thủ tục tiếp theo sẽ gây thiệt hại cho người được thi hành đối với bản án có hiệu lực pháp luật.

Thứ ba, đối với các tranh chấp liên quan đến nhà, quyền sử dụng đất có liên quan đến áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời[5]: Các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định rất chặt chẽ trình tự, thủ tục áp dụng và thi hành trên thực tế, đây có thể được xem như phán quyết của Tòa án trước khi xét xử. Vì vậy, cần có chế tài nghiêm khắc đối với các trường hợp không chấp hành hoặc chấp hành không đúng.

Có một số trường hợp đương sự bị xâm phạm như xây dựng lấn chiếm,…đã áp dụng mọi biện pháp hợp pháp được pháp luật quy định để bảo vệ quyền lợi của mình như yêu cầu Tòa án đình chỉ xây dựng trong khi chờ xét xử vụ tranh chấp và Tòa án đã áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là cấm hoặc buộc thực hiện một hành vi nhất định[6] nhưng đương sự lại tiếp tục vi phạm, xây dựng lấn chiếm, khi giải quyết tranh chấp thì Tòa án các cấp thường tuyên buộc hoàn trả giá trị. Như vậy, pháp luật không bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của bên bị xâm phạm mà lại bảo vệ chính đương sự có hành vi xâm phạm trái pháp luật.

Vì vậy, pháp luật cần quy định biện pháp chế tài cụ thể, kiên quyết xử lý, thi hành nghiêm để góp phần bảo vệ quyền của người bị xâm hại, khi biện pháp khẩn cấp được thực thi cũng có nghĩa rằng việc vi phạm đó phải chấm dứt trên thực tế và nếu tiếp tục vi phạm sẽ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi.

Thứ tư, về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đối với bất động sản: Cần quy định các tranh chấp liên quan đến nguồn gốc bất động sản đều do Tòa án giải quyết thì mới bảo vệ được quyền lợi của các bên. Vì hiện nay, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là một trong những căn cứ xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp nhưng cũng là căn cứ để Tòa án có quyền hủy giấy chứng nhận khi cấp không đúng đối tượng, hủy chính căn cứ để thụ lý vụ kiện ban đầu. Mặt khác, Ủy ban nhân dân là cơ quan quản lý hành chính nhưng lại thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp liên quan đến đất đai là hoàn toàn trái với nguyên tắc hoạt động của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước. Do đó, cần quy định các tranh chấp liên quan đến bất động sản do Tòa án giải quyết mới phù hợp.

Thứ năm, đối với tranh chấp quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất của thành viên hộ gia đình cần quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong hộ gia đình, có những tài sản có nguồn gốc chung vợ chồng nhưng khi đăng ký kê khai, cơ quan chuyên môn cấp giấy lại cấp cho hộ gia đình, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án.

Thứ sáu, liên ngành trung ương cần có sự phối hợp, tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về đất đai nhằm nâng cao trình độ dân trí trong nhân dân, hạn chế các khiếu kiện có thể xảy ra. Các cơ quan có thẩm quyền cần phải có những khảo sát, nghiên cứu thực tiễn và từng bước đổi mới, kịp thời giải thích, hướng dẫn và tổng kết rút kinh nghiệm áp dụng pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật thống nhất trong hoạt động giải quyết án tranh chấp về nhà, đất.

Thứ bảy, đối với các tranh chấp phát sinh, thẩm phán cần chủ động áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định để tiến hành xác minh, thu thập, thẩm định đối với các tài sản tranh chấp, yêu cầu cơ quan chuyên môn cung cấp thông tin làm cơ sở để giải quyết tranh chấp đúng quy định của pháp luật. Tăng cường áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm xảy ra, ảnh hưởng đến việc giải quyết các tranh chấp sau này.

Thứ tám, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Tòa án và các cơ quan chuyên môn trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến nhà, quyền sử dụng đất. Theo đó, cơ quan chuyên môn phải cung cấp đầy đủ, kịp thời và chính xác các thông tin liên quan đến nhà, đất, làm căn cứ để Tòa án ban hành bản án đúng quy định của pháp luật. Để đạt được yêu cầu này, các cơ quan chuyên môn phải tăng cường công tác quản lý đất đai, điều chỉnh biến động kịp thời, có biện pháp đo vẽ hiện trạng đất tranh chấp đúng quy định, hạn chế thấp nhất các sai số có thể xảy ra.

Tăng cường công tác thông tin, công khai, minh bạch các thông tin về đất đai, công tác quy hoạch để người dân biết các chủ trương, chính sách liên quan đến quyền sử dụng đất, nhà ở nhằm tránh các khiếu kiện bức xúc, kéo dài việc giải quyết ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự.

Võ Hải Phương

Phòng 5 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang



[1]Điều 692 Bộ luật dân sự.

[2] Điều 450 Bộ luật dân sự.

[3]Khoản 5 Điều 93 Luật nhà ở.

[4] Điều 645 Bộ luật dân sự.

[5] Điều 102 Bộ luật tố tụng dân sự.

[6] Điều 115 Bộ luật tố tụng dân sự.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Trợ giúp pháp lý – Những vấn đề đặt ra

06/07/2015

Trợ giúp pháp lý là một chính sách xã hội, đã được triển khai ở nhiều quốc gia với các mô hình khác nhau theo hoàn cảnh và điều kiện của mỗi nước. Ở nước ta, nhu cầu được trợ giúp pháp lý là rất lớn, do đó, từ năm 1997 (theo Quyết định số 734/1997/TTg ngày 6/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách) hệ thống cơ quan trợ giúp pháp lý của Nhà nước đã được hình thành ở Trung ương (Cục trợ giúp pháp lý, Bộ Tư Pháp) và ở địa phương (Trung tâm trợ giúp pháp lý thuộc Sở Tư Pháp) nhằm đáp ứng yêu cầu được tư vấn, giúp đỡ về pháp luật miễn phí cho các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn, các đối tượng chính sách và những người yếu thế. Đây là một chính sách xã hội rất nhân văn, thể hiện sự phấn đấu vì công bằng xã hội, sự đền ơn đáp nghĩa đối với những người có công với cách mạng. Đặc biệt đối với nước ta, việc nâng cao ý thức pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người dân, nhất là những người có hoàn cảnh khó khăn luôn là vấn đề hết sức cấp thiết. Trợ giúp pháp lý làm chỗ dựa cho người dân, để họ tiếp cận và tin vào công lý, vào Nhà nước, góp phần giữ vững trật tự an toàn xã hội.

Sau 9 năm triển khai công tác trợ giúp pháp lý, năm 2006, chúng ta có một hành lang pháp lý để đưa công tác này đi vào kỷ cương nền nếp và hướng tới “xóa đói giảm nghèo” về pháp luật, Luật Trợ giúp pháp lý được Quốc hội thông qua, trong đó quy định rõ những đối tượng nào được trợ giúp pháp lý, đối tượng nào được thực hiện việc trợ giúp pháp lý và việc trợ giúp pháp lý như thế nào… Tại thời điểm Luật Trợ giúp pháp lý được ban hành, cả nước chỉ có khoảng 2.800 luật sư, chủ yếu tập trung ở các tỉnh, thành phố lớn, trong khi nhu cầu được trợ giúp pháp lý miễn phí là rất lớn; do vậy việc nhanh chóng hình thành mạng lưới các trung tâm trợ giúp pháp lý và phát triển đội ngũ trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên pháp lý ở tất cả các tỉnh, thành là hết sức cấp thiết, đặc biệt là các địa phương khó khăn, vùng sâu, vùng xa, nơi mà đội ngũ luật sưhầu như còn chưa có.

1. Một số kết quả thực hiệnLuật Trợ giúp pháp lý

Ngay sau khi ra đời Luật Trợ giúp pháp lý đã có tác động tích cực trong đời sống xã hội, bởi hệ thống các văn bản pháp luật hướng dẫn luật đã được ban hành kịp thời, đúng tiến độ, vì vậy, Luật đã nhanh chóng tiếp cận thực tiễn. Bên cạnh đó, đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên pháp lý đã phát triển rộng và thường xuyên được bồi dưỡng kiến thức pháp luật cũng như kỹ năng trợ giúp pháp lý, nên đã phát huy vai trò tích cực của mình trong việc hỗ trợ kịp thời về pháp luật cho các đối tượng được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý.

Sau 8 năm thi hành Luật Trợ giúp pháp lý, hệ thống trợ giúp pháp lý của Nhà nước đã phát triển mạnh mẽ, với đội ngũ công chức, viên chức, người lao động tại các trung tâm và chi nhánh trợ giúp pháp lý là 1.314 người, trong đó có 572 trợ giúp viên pháp lý (490 người đã qua đào tạo miễn phí nghề luật sư). Ngoài ra, đội ngũ cộng tác viên trợ giúp pháp lý cũng phát triển nhanh chóng, toàn quốc có trên 10.700 cộng tác viên trợ giúp pháp lý (trong đó có 1.136 cộng tác viên là luật sư và 174 tư vấn viên pháp luật đăng ký trợ giúp pháp lý).

Có thể nói, từ trước năm 2010, có rất nhiều tổ chức quốc tế đã tài trợ cho công tác trợ giúp pháp lý, do vậy việc triển khai trợ giúp pháp lý có phần thuận lợi. Việc tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý và phổ biến pháp luật được tổ chức rất nhiều đợt (từ năm 2006 đến năm 2014 đã bồi dưỡng nguồn bổ nhiệm trợ giúp viên pháp lý cho trên 1000 cán bộ), mỗi năm Bộ Tư pháp cũng tổ chức từ 05 – 07 khóa tập huấn nghiệp vụ trên toàn quốc hoặc theo khu vực, nhằm nâng cao kỹ năng cho đội ngũ thực hiện trợ giúp pháp lý. Rất nhiều tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ được in ấn và phát hành rộng rãi. Các địa phương cũng tổ chức hàng nghìn đợt tập huấn nghiệp vụ (mỗi năm mỗi tỉnh cũng tổ chức 04 – 05 đợt tập huấn). Rất nhiều đối tượng đã được bồi dưỡng kỹ năng trợ giúp pháp lý đặc biệt là mạng lưới cơ sở.

Ngoài hệ thống trợ giúp pháp lý của Nhà nước (bao gồm các trợ giúp viên pháp lý và cộng tác viên, tư vấn viên pháp luật đăng ký trợ giúp pháp lý), các tổ chức hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật thuộc các tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp cũng được vận động, khuyến khích đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý.

Như vậy, nhiều nguồn lực xã hội đã được huy động tham gia trợ giúp pháp lý, chính vì vậy mà công tác trợ giúp pháp lý đã đạt được kết quả thật ấn tượng. Sau 08 năm thực hiện Luật Trợ giúp pháp lý, đến hết tháng 12/2014, cả nước thực hiện được khoảng 940.183 vụ việc, trong đó gồm 52.985 vụ việc tham gia tố tụng (13.120 vụ việc đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý; 39.865 vụ việc bào chữa); 879.133 vụ việc tư vấn pháp luật (tại trung tâm trợ giúp pháp lý và chi nhánh hoặc trợ giúp pháp lý lưu động). Trong đó có 80.320 vụ việc hình sự, 202.146 vụ việc dân sự, 103.776 vụ việc hôn nhân và gia đình, 72.526 vụ việc hành chính, 228.090 vụ việc về đất đai, 20.656 vụ việc về lao động, 129.719 vụ việc ưu đãi và 102.922 vụ việc trong các lĩnh vực pháp luật khác. Tổng số lượt người được trợ giúp pháp lý sau 08 năm là gần 10.000 đối tượng.

Trong lực lượng thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí, đội ngũ trợ giúp viên pháp lý đã từng bước đáp ứng yêu cầu công việc, tham gia ngày càng nhiều các vụ việc tranh tụng để đại diện, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích cho người được trợ giúp pháp lý. Năm 2014, 572 trợ giúp viên pháp lý đã thực hiện trên 74.258 vụ việc/124.171 vụ việc trên toàn quốc, trong đó có3.690 vụ việc tham gia tố tụng (mỗi trợ giúp viên pháp lý tham gia tố tụng khoảng 06 vụ /năm).

Nhìn lại kết quả thực hiện công tác trợ giúp pháp lý thời gian qua, có thể khẳng định: Chủ trương chính sách đúng đắn của Nhà nước ta về công tác này, chúng ta đã làm được rất nhiều việc có ý nghĩa. Tuy nhiên, cũng phải khách quan đánh giá những bất cập ngay từ chiến lược, khi mà tình hình thực tiễn đã có nhữngthay đổi so với 08 năm trước, nếu chúng ta không có sự điều chỉnh kịp thời thì sẽ khó có thể là chỗ dựa tin cậy cho các đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý.

2. Một số vấn đề đặt ra đối với công tác trợ giúp pháp lý

Sau 08 năm triển khai luật trợ giúp pháp lý, có rất nhiều vấn đề đặt ra đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu tổng kết kịp thời bổ sung, sửa đổi Luật Trợ giúp pháp lý. Đó là vấn đề đảm bảo sự công bằng, đảm bảo chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí và đảm bảo hoạt động của đội ngũ thực hiện trợ giúp pháp lý để sử dụng có hiệu quả nguồn ngân sách và nguồn tài trợ.

Công tác trợ giúp pháp lý đang thực sự đứng trước những thách thức lớn. Có thể nói lực lượng thực hiện trợ giúp pháp lý đến nay là khá hùng hậu. Tuy nhiên, lực lượng này chưa được sử dụng một cách hiệu quả, đặc biệt là đội ngũ luật sư. Hoạt động trợ giúp pháp lý chủ yếu mới chỉ thiên về phổ biến, giáo dục pháp luật, mà chưa đi sâu vào từng vụ việc cụ thể, chưa đáp ứng yêu cầu của các đối tượng được trợ giúp pháp lý trong tố tụng. Đội ngũ luật sư còn chưatham gia trợ giúp pháp lý nhiều, trong khi đội ngũ này đã lớn mạnh gấp 3,5 lần so với thời kỳ đầu hình thành hệ thống trợ giúp pháp lý. Vấn đề luật sư công như một số nước cũng là một vấn đề đặt ra khi sửa Luật Trợ giúp pháp lý, để làm sao giải quyết được bài toán dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí kịp thời và đảm bảo chất lượng trợ giúp pháp lý.

Xã hội hóa công tác trợ giúp pháp lý cũng là một vấn đề lớn đòi hỏi phải có bước đi rất cụ thể, phải năng động, phù hợp với từng vùng, miền, địa phương. Có lẽ việc xã hội hóa trợ giúp pháp lý ở nước ta sẽ rất khác với các nước trên thế giới, do mức độ nhận thức pháp luật của người dân, cũng như hoàn cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa của nước ta. Chúng ta cần lựa chọn mô hình thực hiện trợ giúp pháp lý sao cho phù hợp, nhằm đảm bảo sự độc lập, năng động, kịp thời khi tiến hành trợ giúp pháp lý.

Ngoài ra còn rất nhiều vấn đề được đặt ra sau 08 năm thi hành Luật Trợ giúp pháp lý, đó là vấn đề mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý đến đâu? Hình thức trợ giúp pháp lý nào phù hợp và hiệu quả; vấn đề tổ chức lại hệ thống các trung tâm trợ giúp pháp lý của Nhà nước; vấn đề đánh giá chất lượng trợ giúp pháp lý, nhất là trong các vụ việc cụ thể; cơ chế giám sát và quản lý hoạt động trợ giúp pháp lý; vấn đề sử dụng hiệu quả nguồn ngânsách và tiếp nhận tài trợ cho hoạt động trợ giúp pháp lý…, nhưng có lẽ vấn đề đầu tiên và khó khăn nhất vẫn là làm sao để có sự thống nhất về nhận thức, thông suốt về tư tưởng, thì mới có sự quyết tâm cao, tạo nên chuyển biến thật sự cho công tác trợ giúp pháp lý.

Sửa đổi Luật Trợ giúp pháp lý và thực hiện Đề án Đổi mới công tác trợ giúp pháp lý giai đoạn 2015 – 2025, định hướng đến năm 2030 của Chính phủ, chắc chắn tới đây, công tác trợ giúp pháp lý sẽ thực sự chuyển mình. Nhà nước phải khẳng định được vai trò của mình trong thực hiện “xóa đói pháp luật” cho các đối tượng khó khăn, yếu thế, đồng thời phải tổ chức lại bộ máy quản lý công tác trợ giúp pháp lý cho gọn nhẹ và hiệu quả, đặc biệt phải huy động được sự tham gia của toàn xã hội, của đội ngũ luật sư, của các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức kinh tế…

Duy Kiên

(Số liệu trong bài viết được trích dẫn từ Tài liệu tổng kết 08 năm thi hành Luật trợ giúp pháp lý của Cục Trợ giúp pháp lý ngày 16/6/2015)

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Giải pháp nhằm hạn chế vi phạm pháp luật trong đấu giá quyền sử dụng đất

23/01/2015

Đấu giá quyền sử dụng đất là hình thức Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất được ghi nhận trong pháp luật đất đai hiện hành. Từ khi được pháp luật chính thức thừa nhận đến nay, hình thức đấu giá quyền sử dụng đất đã chứng tỏ vai trò quan trọng của mình đối với quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước nói chung và của các địa phương nói riêng bởi những lợi ích mà nó đã mang lại, góp phần tạo lập sự ổn định, minh bạch trong hoạt động giao đất, cho thuê đất; là cơ sở để Nhà nước xác định được giá trị thực của đất; giúp cho Nhà nước huy động được tối đa nguồn thu cho ngân sách, tạo vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế – xã hội. Đồng thời, đây cũng là kênh huy động vốn hữu hiệu đối với người có quyền sử dụng đất, là cách thức để Nhà nước khơi dậy khả năng đang tiềm ẩn của đất đai.

Hoạt động đấu giá quyền sử dụng đất luôn gắn liền với lợi ích, nên những khó khăn, bất cập và cả tiêu cực cũng từ đó mà phát sinh. Nhà nước thường xuyên chỉ đạo việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, để đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất cho phù hợp. Tuy nhiên, thực tiễn đấu giá quyền sử dụng đất ở các địa phương luôn phát sinh nhiều tình huống cần giải quyết. Một bộ phận người dân đã lợi dụng những kẽ hở của pháp luật cũng như sự bất cập, thiếu chặt chẽ trong công tác quản lý của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền để cồ mồi, thông đồng, dìm giá, gây thiệt hại cho Nhà nước, tập thể và cá nhân. Đây là vấn đề cần được khắc phục nhằm góp phần bảo đảm cho hoạt động đấu giá quyền sử dụng đất được diễn ra một cách công khai, minh bạch và công bằng, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia đấu giá.

Trong bài viết đăng trên Số định kỳ 64 trang tháng 1/2015 của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tác giả Trần Tiến Hải đề cập đến một số bất cập, hạn chế trong hoạt động đấu giá quyền sử dụng đất ở địa phương và đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế tình trạng cò mồi, thông đồng, dìm giá trong đấu giá quyền sử dụng đất. Kính mời độc giả đón đọc!

Huyền Trang

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Lào Cai với công tác chỉ đạo giải quyết các việc thi hành án dân sự trọng điểm phức tạp, kéo dài

24/07/2015

Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chỉ tiêu, nhiệm vụ thi hành án dân sự, trên cơ sở Kế hoạch trọng tâm công tác thi hành án dân sự năm 2015 của Tổng cục Thi hành án dân sự, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lào Cai đã chỉ đạo các phòng chuyên môn, các Chi cục Thi hành án dân sự các huyện, thành phố xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện các chỉ tiêu đảm bảo thi hành án xong đạt trên 94% về việc và trên 85% về tiền trên tổng số việc, tiền có điều kiện thi hành, giảm ít nhất 5% số việc chuyển sang năm sau.

Việc triển khai thực hiện nhiệm vụ thi hành án dân sự hoàn thành chỉ tiêu, được giao năm 2015 là rất khó khăn, đặc biệt là đối với các việc thi hành án dân sựphức tạp, tồn đọng, kéo dài. Để giải quyết dứt điểm được những vụ việc này, cần phải xác định được tiêu chí nhận diện để thống kê phân loại. Ngày 01/12/2014, Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự đã ký Quyết định số 813/QĐ-TCTHADS ban hành quy định tạm thời về tiêu chí xác định việc thi hành án dân sự trọng điểm. Quy định này là cơ sở pháp lý cho cơ quan thi hành án dân sự căn cứ tiêu chí để xác định việc thi hành án dân sự như thế nào là trọng điểm phức tạp, kéo dài.

1. Tiêu chí nhận diện việc thi hành án dân sự trọng điểm

Theo Quyết định số 813/QĐ-TCTHADS ngày 01/12/2014 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự quy định việc thi hành án dân sự được xác định là trọng điểm khi đáp ứng được một trong các tiêu chí sau:

(i) Liên quan đến việc thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước (chính sách dân tộc, tôn giáo; xóa đói giảm nghèo; giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu…).

(ii) Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo Bộ Tư pháp, lãnh đạo địa phương quan tâm, chỉ đạo, yêu cầu phải tập trung giải quyết dứt điểm.

(iii) Có quan điểm khác nhau giữa các cơ quan có trách nhiệm ở trung ương hoặc địa phương do quy định của pháp luật chưa cụ thể, rõ ràng hoặc quy định của pháp luật còn chồng chéo, cần sự thống nhất để có biện pháp giải quyết dứt điểm.

(iv) Chưa nhận được sự đồng tình của cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương, hoặc báo chí và các phương tiện truyền thông có uy tín đăng tải, phản ánh sự bức xúc trong dư luận xã hội về việc tổ chức thi hành án.

(v) Có hoặc dự kiến sẽ có sự chống đối quyết liệt của đương sự, việc tổ chức thi hành án đã hoặc có khả năng gây ra những hậu quả nghiêm trọng (đương sự tự sát, quá khích, chống đối quyết liệt dẫn đến hậu quả làm chết, bị thương nhiều người hoặc gây tổn thất nghiêm trọng đến tài sản, người tham gia cưỡng chế…) làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị, kinh tế, trật tự an toàn xã hội tại địa phương.

(vi) Có giá trị tài sản phải thi hành lớn và có tầm quan trọng nhất định, phục vụ yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của trung ương hoặc địa phương.

(vii) Có vi phạm pháp luật về nghiệp vụ trong quá trình tổ chức thi hành án, đã được cơ quan có thẩm quyền kết luận hoặc khởi tố hình sự đối với thủ trưởng cơ quan thi hành án, chấp hành viên, cán bộ thi hành án.

(viii) Cần giải quyết các quyền lợi của tập thể người lao động trong trường hợp cần tổ chức cưỡng chế đối với người phải thi hành án là các doanh nghiệp, có ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.

(ix) Bản án, quyết định của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh tuyên không rõ, khó thi hành.

(x) Có khiếu nại, tố cáo bức xúc kéo dài, thuộc một trong các trường hợp sau:

+ Đã có quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận tố cáo nhưng chưa được các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện, hoặc thực hiện chưa đúng, chưa đầy đủ hoặc có khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện;

+ Người khiếu nại, tố cáo có điều kiện, hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, được vận dụng chính sách xã hội, tạo điều kiện hỗ trợ nhằm bảo đảm cho công dân ổn định cuộc sống, chấm dứt khiếu nại, nhưng chưa hỗ trợ được do có khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.

+ Đã có quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận tố cáo có hiệu lực thi hành nhưng có căn cứ cho rằng việc giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa đúng với quy định của pháp luật.

+ Đã có quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận tố cáo có hiệu lực thi hành và đã được xem xét, giải quyết tiếp, nhưng đương sự tiếp tục khiếu nại.

+ Khiếu nại, tố cáo đã quá thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật nhưng người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa ban hành quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận tố cáo do quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo gặp khó khăn, vướng mắc.

+ Công dân trực tiếp đến các địa điểm tiếp công dân để khiếu nại, tố cáo gay gắt, thường xuyên; vụ việc có đông người khiếu nại, có dấu hiệu gây mất trật tự, an ninh cần tập trung chỉ đạo giải quyết dứt điểm.

2. Công tác chỉ đạo giải quyết các việc thi hành án dân sự trọng điểm phức tạp, kéo dài tại Lào Cai

Để thực hiện công tác chỉ đạo giải quyết các việc thi hành án dân sự trọng điểm phức tạp, kéo dài, Cục Thi hành án dân sự tỉnh đã tiến hành rà soát, lập danh sách, xây dựng kế hoạch chỉ đạo, giải quyết dứt điểm các vụ việc thi hành án dân sự thuộc diện án trọng điểm phức tạp, kéo dài trong phạm vi toàn tỉnh. Theo báo cáo kết quả rà soát, toàn tỉnh có 07 việc thi hành trọng điểm, trong đó, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố là 02 việc, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Văn Bàn là 02 việc, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bảo Thắng là 02 việc, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Khương là 01 việc. Qua rà soát, phân loại theo tiêu chí xác định việc thi hành án dân sự trọng điểm cho thấy có việc do vướng mắc của các quy định của pháp luật về Thi hành án dân sự nên chưa thể thi hành dứt điểm; có việc có sự chống đối quyết liệt của đương sự, việc tổ chức thi hành án có khả năng gây ra những hậu quả nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị, kinh tế, trật tự an toàn xã hội tại địa phương; có việc có khiếu nại, tố cáo kéo dài…

3. Giải pháp chỉ đạo quyết liệt các việc thi hành án dân sự trọng điểm phức tạp, kéo dài

Để giải quyết dứt điểm các việc thi hành án dân sự trọng điểm phức tạp, kéo dài, hạn chế đến mức thấp nhất phát sinh các vụ việc thuộc loại này trong năm 2015 và các năm tiếp theo, lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh đã xây dựng kế hoạch chỉ đạo, giải quyết các việc thi hành án dân sự trọng điểm phức tạp, kéo dài. Nội dung kế hoạch giao trách nhiệm của Cục và trách nhiệm của các Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện, thành phố, cụ thể như sau:

Một là, triển khai rà soát, lập danh sách các việc thi hành án dân sự trọng điểm phức tạp, kéo dài.

Hai là, xây dựng kế hoạch của đơn vị, phân công lãnh đạo Cục, lãnh đạo các phòng chuyên môn thuộc Cục và lãnh đạo Chi cục Thi hành án dân sự, chấp hành viên chịu trách nhiệm đối với từng vụ việc cụ thể. Đối với những vụ việc đã có đủ điều kiện giải quyết thì phải xây dựng Kế hoạch chi tiết để chỉ đạo giải quyết dứt điểm trong năm 2015.

Ba là, Cục trưởng phân công lãnh đạo Cục, lãnh đạo các phòng chuyên môn và lãnh đạo các Chi cục chịu trách nhiệm chủ động triển khai thực hiện kế hoạch; kịp thời báo cáo Ban chỉ đạo Thi hành án dân sự tỉnh hoặc huyện xin ý kiến chỉ đạo; phối hợp với các cơ quan, ban, ngành tại địa phương tập trung giải quyết dứt điểm những vụ việc thuộc địa bàn; kịp thời báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ; định kỳ báo cáo kết quả về Tổng cục.

Bốn là, báo cáo tiến độ giải quyết các việc thi hành án dân sự trọng điểm phức tạp, kéo dài.

Tạ Thị Lan Anh

Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lào Cai

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quan điểm khác nhau về một vụ cưỡng chế trong thi hành án dân sự

24/07/2015

Thực tiễn thi hành án dân sự cũng có nhiều vụ việc rất khó thi hành do nguyên nhân từ sự nhận thức điều luật khác nhau của các chủ thể và cách vận dụng điều luật vào thực tiễn thi hành án cũng khác nhau, dẫn đến nhiều vụ việc có những quan điểm không đồng nhất và chấp hành viên không biết lựa chọn làm theo phương án nào cho phù hợp và đúng quy định pháp luật. Xin đơn cử một vụ việc:

Đó là vụ tranh chấp hợp đồng vay mượn tài sản giữa nguyên đơn là vợ chồng ông Diệp Tư H với bà Huỳnh Thị A và Đặng Thị B theo Bản án số 06/2013/DS-ST ngày 25/01/2013 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh P. Sau khi thụ lý đơn yêu cầu thi hành án, ngày 30/02/2014 cơ quan thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh P ra các quyết định thi hành án buộc vợ chồng ông Diệp Tư H phải trả cho bà Huỳnh Thị A số tiền 280 triệu đồng, trả cho bà Đặng Thị B số tiền 105 triệu đồng và tiền lãi chậm thi hành án. Ngoài ra, còn phải nộp 20 triệu đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Trong quá trình thi hành án, cơ quan thi hành án đã tiến hành xác minh về điều kiện thi hành án, thì được biết vợ chồng ông H chỉ có duy nhất ngôi nhà cấp 3 diện tích khoản 200m2 tọa lạc tại trung tâm thành phố T, tỉnh P, ngôi nhà gắn liền quyền sử dụng đất có giá trị theo giá thị trường khoảng 2 tỷ đồng. Tài sản này trước đó đã thế chấp ở ngân hàng để vay một khoản tiền (tính đến ngày 01/03/2014 gốc và lãi khoảng 1,8 tỷ đồng). Tại thời điểm xác minh thi hành án, cơ quan đăng ký, quản lý đất đai thành phố T và vợ chồng ông Diệp Tư H cho biết là đã thế chấp ngôi nhà cấp 3 gắn liền quyền sử dụng đất cho Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh P với số dư nợ gốc và lãi khoảng 1,8 tỷ đồng. Do không có khả năng trả nợ, nên vợ chồng ông Diệp Tư H đã chuyển nhượng ngôi nhà cấp 3 cho vợ chồng ông Nguyễn Hữu Đ và vợ chồng ông Nguyễn Hữu Đ đã trực tiếp nộp tiền trả cho ngân hàng, lấy giấy tờ sở hữu ra, để ký hợp đồng mua bán. Sau đó, chấp hành viên tiếp tục xác minh và được biết: Ngày 28/11/2012 vợ chồng ông Diệp Tư H đã ký hợp đồng chuyển nhượng ngôi nhà cấp 3 cho vợ chồng ông Nguyễn Hữu Đ tại Văn phòng công chứng tỉnh P. Đến ngày 06/12/2012, Tòa án nhân dân thành phố T có công văn số 290/CV-TA, nội dung: Đề nghị tạm dừng việc làm thủ tục mua bán chuyển nhượng đối với ngôi nhà cấp 3 đó. Căn cứ công văn của Toà án, nên Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố T có văn bản tạm dừng việc làm thủ tục sang tên trước bạ cho vợ chồng ông Nguyễn Hữu Đ nhận chuyển nhượng tài sản từ vợ chồng ông Diệp Tư H. Ngoài tài sản này ra, vợ chồng ông Diệp Tư H không còn tài sản nào khác để thi hành án.

Trong thời gian cơ quan thi hành án dân sự thành phố T tiến hành xác minh và giải quyết vụ việc với các bên đương sự, thì ngày 15/7/2013 Tòa án nhân dân thành phố T lại có công văn số 192/CV-TA về việc “đề nghị Ủy ban nhân dân, Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố T cho phép vợ chồng ông Diệp Tư H chuyển nhượng ngôi nhà cấp 3 đó theo quy định của pháp luật nhằm tạo điều kiện thi hành các Bản án của Tòa án nhân dân thành phố T”. Công văn này phủ định lại và nhằm giải tỏa nội dung Công văn số 290/CV-TA ngày 06/12/2012 của Tòa án nhân dân thành phố T để các bên được quyền mua bán, chuyển nhượng với nhau. Cho nên, cơ quan thi hành án rất khó xử lý vụ việc.

Như vậy, việc ký hợp đồng chuyển nhượng ngôi nhà cấp 3 gắn liền quyền sử dụng đất đó (ngày 28/11/2012) đã hình thành trước thời điểm Bản án xét xử sơ thẩm (ngày 25/01/2013) và bên mua tài sản đó vẫn chưa đăng ký được hồ sơ sang tên trước bạ ở cơ quan có thẩm quyền. Do việc chậm thi hành án, nên đương sự có đơn khiếu nại và yêu cầu cơ quan thi hành án tiến hành kê biên, xử lý tài sản là ngôi nhà cấp 3 của vợ chồng ông Diệp Tư H, để đảm bảo thi hành án. Lúc này lại hình thành nhiều ý kiến khác nhau. Để góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành án dân sự, tác giả bài viết xin nêu ra một số quan điểm trao đổi như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Căn cứ các Điều 168, Điều 688 và Điều 692 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 46 Luật Đất đai năm 2003 và khoản 4 Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/11/2004 của Chính phủ, thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất lập ngày 17/12/2012 nêu trên chưa xác lập quyền sử dụng cho người nhận chuyển nhượng. Do đó, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở vẫn còn là tài sản của vợ chồng ông Diệp Tư H. Do đó, áp dụng theo quy định tại Điều 95 và Điều 75 Luật Thi hành án dân sự để tiến hành kê biên, xử lý tài sản theo quy định pháp luật. Bởi lẽ, tại Điều 75 xử lý tài sản khi cưỡng chế có tranh chấp có quy định: “Trường hợp cưỡng chế đối với tài sản của người phải thi hành án mà có tranh chấp với người khác thì chấp hành viên tiến hành cưỡng chế và yêu cầu đương sự, người có tranh chấp khởi kiện tại Toà án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Chấp hành viên xử lý tài sản kê biên theo quyết định của Toà án, cơ quan có thẩm quyền. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày chấp hành viên yêu cầu mà đương sự, người có tranh chấp không khởi kiện tại Toà án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì tài sản được xử lý để thi hành án theo quy định của Luật này”. Cho nên, quan điểm thứ nhất đồng tình với ý kiến tiến hành kê biên, xử lý tài sản theo quy định và hướng dẫn đương sự khởi kiện tại Toà án theo Điều 75 Luật Thi hành án dân sự là phù hợp pháp luật và bảo vệ được quyền và lợi ích cho bên được thi hành án.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Chấp hành viên không thể áp dụng theo quy định tại Điều 95 và Điều 75 để tiến hành kê biên, xử lý tài sản có tranh chấp của vợ chồng ông Diệp Tư H được. Bởi vì, tài sản đó vợ chồng ông Diệp Tư H đã chuyển nhượng cho vợ chồng ông Nguyễn Hữu Đ và hợp đồng chuyển nhượng được ký hợp pháp tại Văn phòng công chứng tỉnh P, phù hợp với quy định của Luật Nhà ở năm 2005, cụ thể: “… quyền sở hữu nhà ở được chuyển cho bên mua, bên nhận tặng cho, bên thuê mua, bên nhận đổi nhà ở kể từ thời điểm hợp đồng được công chứng đối với giao dịch về nhà ở giữa cá nhân với cá nhân…” [1]. Việc mua bán giữa hai bên đương sự không có dấu hiệu tẩu tán tài sản. Mặt khác, trước khi chuyển nhượng, tài sản đó đang thế chấp tại ngân hàng và được bên mua tài sản nộp tiền trực tiếp, lấy giấy tờ sở hữu ra để ký hợp đồng chuyển nhượng, lúc này tài sản vẫn chưa phát sinhtranh chấp, việc mua bán hợp pháp được cơ quan có thẩm quyền chứng thực theo quy định pháp luật. Thời điểm ký hợp đồng công chứng vào ngày 28/11/2012, còn bản án xét xử vào ngày 25/01/2013, cho nên, chấp hành viên không thể áp dụng biện pháp kê biên ngôi nhà gắn liền quyền sử dụng đất của vợ chồng ông Diệp Tư H được. Bởi lẽ, tài sản đó đã chuyển nhượng bằng hợp đồng công chứng trước khi có Bản án số 02/2013/DS-ST ngày 25/01/2013 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh P và không thuộc phạm vi điều chỉnh của quy định tại khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Như vậy, vụ việc này sẽ xử lý tiếp là tiến hành xác minh, nếu vợ chồng ông Diệp Tư H không còn tài sản nào khác, thì áp dụng theo quy định tại Điều 51 để ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án, bên được thi hành án được quyền cung cấp và chứng minh điều kiện thi hành án và quyền yêu cầu thi hành án trở lại.

Quan điểm thứ ba cho rằng: Tài sản đó đã ký hợp đồng chuyển nhượng, tuy chưa sang tên trước bạ và việc mua bán giữa các bên đương sự hợp pháp, ngay thẳng không có dấu hiệu tẩu tán tài sản, người mua tài sản cũng đã nộp tiền trực tiếp tại ngân hàng. Tại thời điểm mua bán chưa có bản án sơ thẩm ra đời, có nghĩa là chưa phát sinh tranh chấp dân sự giữa vợ chồng ông Diệp Tư H với vợ chồng ông Nguyễn Hữu Đ, nên không có cơ sở để cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp đảm bảo để ngăn chặn được. Mặc khác, theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao, thì rõ ràng ngôi nhà cấp 3 của vợ chồng ông Diệp Tư H đã ký hợp đồng chuyển nhượng trước thời điểm xét xử sơ thẩm, nên tài sản đó không thể kê biên, xử lý được. Còn đối chiếu theo quy định tại Điều 93 Luật Nhà ở năm 2005, thì tài sản được xác định sở hữu chủ tài sản cho người khác từ thời điểm có hợp đồng công chứng đã ký. Còn việc chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai (Điều 692 Bộ luật Dân sự năm 2005). Như vậy, giữa hai điều luật về nhà ở và luật đất đai có độ vênh với nhau, nên không xác định được áp dụng theo điều luật nào cho phù hợp. Nếu trường hợp chấp hành viên tiến hành kê biên theo quan điểm thứ nhất, thì lại không phù hợp với Điều 93 Luật Nhà ở năm 2005, người mua tài sản được quyền khiếu nại và khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình. Như vậy, khi tranh chấp xảy ra, thì Toà án vẫn áp dụng theo quy định của Bộ luật Dân sự để xét xử, tất nhiên là người mua tài sản sẽ thắng kiện và sẽ huỷ quyết định kê biên của chấp hành viên (nếu đã kê biên theo quan điểm thứ nhất).

Tác giả bài viết cũng đồng tình theo quan điểm thứ hai. Để góp phần tìm ra giải pháp xử lý vừa hợp tình hợp lý và đúng quy định pháp luật, tác giả mong muốn nhận được nhiều ý kiến trao đổi của quý đồng nghiệp, nhằm góp phần tháo gỡ những khó khăn vướng mắc và trao đổi kinh nghiệm trong hoạt động thi hành án dân sự.

Lê Lanh

Tài liệu tham khảo:

[1]. Khoản 5 Điều 93 Luật Nhà ở năm 2005.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình triển khai thi hành Luật Công chứng năm 2014

25/06/2015

Luật Công chứng năm 2014 (sau đây gọi tắt là Luật) được Quốc hội khoá XIII thông qua tại kỳ họp thứ 7, đã chính thức có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015. Việc thông qua Luật này thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc tiếp tục khẳng định, nâng cao vai trò, vị trí của hoạt động công chứng, chức năng xã hội của công chứng viên trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế, thực hiện nghĩa vụ với Liên minh Công chứng Quốc tế mà Việt Nam đã gia nhập.Việc triển khai thi hành Luật kịp thời, đồng bộ, đúng quy định là yếu tố quyết định nhằm đưa các quy định của Luật đi vào cuộc sống.

Bên cạnh các công việc thường xuyên, các cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền vàliên quan khi triển khai thi hành Luật, cần nhận diện và xác định rõ những nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm, lâu dài để có giải pháp đáp ứng được yêu cầu triển khai thi hành một đạo luật lớn có tác động trực tiếp đến nhiều chủ thể chịu sự điều chỉnh của Luật, trong đó phải kể đến cá nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch, đội ngũ công chứng viên hành nghề, cơ quan có thẩm quyền quản lý về tổ chức và hoạt động công chứng…

1. Một số công việc đã thực hiện trong quá trình triển khai thi hành Luật Công chứng năm 2014

Sau khi Luật Công chứng năm 2014 được Quốc hội thông qua, chỉ trong thời gian ngắn, các cơ quan, tổ chức, đơn vị đã triển khai đồng thời nhiều nội dung công việc trong điều kiện có thể bao gồm: (1) Xây dựng Kế hoạch triển khai thi hành Luật; (2) Tuyên truyền, phổ biến Luật; (3) Rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến tổ chức và hoạt động công chứng để sửa đổi, bổ sung hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung; (4) Xây dựng các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật; (5) Thành lập tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên; (6) Xây dựng cơ sở dữ liệu công chứng và ban hành quy chế khai thác, sử dụng và (7) Thanh tra, kiểm tra thực hiện Luật. Một số kết quả đạt được như:

Ngày 01/10/2014, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 2250/QĐ-BTP về Kế hoạch triển khai thi hành Luật Công chứng số 53/2014/QH13 ngày 20/6/2014, xác định rõ nội dung công việc cần thực hiện, thời gian thực hiện và phân công trách nhiệm cụ thể cho các bộ, ngành có liên quan, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các cơ quan có liên quan nhằm đảm bảo triển khai thi hành Luật đồng bộ, thống nhất và hiệu quả trong phạm vi cả nước.

Ngày 15/3/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 29/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng năm 2014 (Nghị định số 29/2015/NĐ-CP).

Ngày 15/4/2015, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 04/2015/TT-BTP hướng dẫn tập sự hành nghề công chứng và hiện nay Dự thảo Thông tư quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng cũng đang được Bộ Tư pháp hoàn thiện để ban hành trong thời gian tới.

Ngày 21/4/2015, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 54/2015/TT-BTC quy định thu phí sát hạch bổ nhiệm công chứng viên; lệ phí cấp thẻ công chứng viên, cấp giấy đăng ký hoạt động. Thông tư liên tịch Bộ Tài chính – Bộ Tư pháp quy định về phí, lệ phí trong hoạt động công chứng cũng đang trong quá trình xem xét, ban hành.

Tính đến hết ngày 30/12/2014, trong phạm vi cả nước đã có 30 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành được Kế hoạch triển khai thi hành Luật Công chứng chiếm gần 1/2 số địa phương ban hành Kế hoạch theo đúng tiến độ yêu cầu. Kế hoạch triển khai của các địa phương đều bám sát Kế hoạch triển khai thi hành Luật Công chứng ban hành kèm theo Quyết định số 2250/QĐ-BTP ngày 01/10/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về cả nhiệm vụ và tiến độ thực hiện, tập trung vào những nhiệm vụ được giao cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Sở Tư pháp chủ trì thực hiện. Các nhiệm vụ quan trọng như: Xây dựng Quyết định quy định mức trần thù lao công chứng áp dụng đối với các tổ chức hành nghề công chứng tại địa phương và Quyết định quy định tiêu chí xét duyệt hồ sơ đề nghị thành lập Văn phòng công chứng, thành lập Hội công chứng được đa số địa phương xác định thời hạn thực hiện là năm 2015 hoặc triển khai thực hiện từ năm 2015.

Bên cạnh những nhiệm vụ, công việc được phân công theo Kế hoạch do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành, một số địa phương đã xác định được những nhiệm vụ, công việc phù hợp với tình hình tổ chức, hoạt động công chứng tại địa phương mình như: Xác định nhiệm vụ lập và công bố danh sách tổ chức hành nghề công chứng; đánh giá về tổ chức, chất lượng hoạt động công chứng ở địa phương (tỉnh Cà Mau); xác định thêmnhiệm vụ phát triển các tổ chức hành nghề công chứng ở địa phương theo định hướng xã hội hóa (tỉnh Quảng Bình); xác định nhiệm vụ nghiên cứu xây dựng mô hình liên thông trong hoạt động công chứng – thuế – đăng ký, tổ chức hội thảo, hội nghị hàng năm để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong hoạt động đăng ký, giao dịch bảo đảm (tỉnh Sơn La)…Song song với việc ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật Công chứng năm 2014, một số địa phương đã khẩn trương chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ được đặt ra trong Kế hoạch như: Tỉnh Kon Tum đã thực hiện rà soát văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh; TP. Hồ Chí Minh đã tổ chức các buổi tuyên truyền, tập huấn những quy định mới về công chứng; hướng dẫn các tổ chức hành nghề công chứng công tác chuẩn bị và thực hiện quy định mới của Luật về dịch thuật, chứng thực, chuyển đổi mô hình hoạt động, kịp thời báo cáo xin ý kiến vướng mắc liên quan đến công tác chuyển giao…

2. Một số nhiệm vụ trọng tâm cần triển khai trong năm 2015 và những năm tiếp theo

Bên cạnh việc hoàn thiện, ban hành các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Công chứng năm 2014, thì trong năm 2015 và các năm tiếp theo cũng là thời điểm quan trọng quyết định chất lượng triển khai thi hành Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành, tác động trực tiếp đến số lượng, chất lượng đội ngũ công chứng viên, quy mô và tính chuyên nghiệp của các tổ chức hành nghề công chứng cũng như hiệu quả hoạt động hành nghề công chứng. Do vậy, các cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan cần xác định một số nhiệm vụ trọng tâm cần được ưu tiên thực hiện, cụ thể:

Thứ nhất, việc ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật Công chứng năm 2014 là cơ sở để xác định rõ các nội dung hoạt động, cơ quan chịu trách nhiệm, thời gian thực hiện… nhằm bảo đảm Luật Công chứng năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành được triển khai hiệu quả và thống nhất trong phạm vi cả nước. Đối với các bộ, ngành, địa phương chưa ban hành được Kế hoạch triển khai, thì những tháng còn lại của năm 2015 phải khẩn trương ban hành và tổ chức thực hiện Kế hoạch này. Nội dung Kế hoạch cần căn cứ theo Quyết định số 2250/QĐ-BTP ngày 01/10/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư phápvà phù hợp với tình hình thực tiễn, quản lý của mình. Đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương còn chưa ban hành các văn bản hướng dẫn trên cơ sở các quy định của Luật như: Quy định mức trần thù lao công chứng; tiêu chí xét duyệt hồ sơ đề nghị thành lập; xây dựng cơ sở dữ liệu công chứng, phải ban hành sớm, tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai thi hành Luật tại địa phương. Riêng việc xây dựng cơ sở dữ liệu công chứng đây là công việc lớn, phức tạp, đòi hỏi phải có thời gian và sự phối hợp của các sở, ban, ngành… do vậy, các địa phương phải đưa ra lộ trình cụ thể để hoàn thành công việc này.

Về phía trung ương, ngoài việc ban hành Thông tư số 54/2015/TT-BTC ngày 21/4/2015 của Bộ Tài chính quy định thu phí sát hạch bổ nhiệm công chứng viên; lệ phí cấp thẻ công chứng viên, cấp giấy đăng ký hoạt động, còn một số văn bản khác liên quan trực tiếp đến quá trình triển khai thi hành Luật Công chứng năm 2014 cũng cần được các cơ quan, tổ chức, đơn vị quan tâm tiếp tục hoàn chỉnh để sớm ban hành như: Thông tư của Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng năm 2014; Thông tư liên tịch Bộ Tài chính – Bộ Tư pháp sửa đổi Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT-BTC-BTP ngày 19/01/2012 hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí công chứng; Quyết định quy định chương trình khung đào tạo, khóa bồi dưỡng nghề công chứng…

Tiếp tục phổ biến, tuyên truyền, tập huấn các quy định của Luật Công chứng năm 2014, Nghị định số 29/2015/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi hành bằng các hình thức phù hợp với điều kiện, tình hình thực tế của địa phương và từng đối tượng, địa bàn, đổi mới, đa dạng cách thức phổ biến, tuyên truyền, tập huấn để đạt hiệu quả cao như: Tập huấn, biên soạn, phát hành các tài liệu phổ biến, giới thiệu Luật; phối hợp với các cơ quan báo chí tổ chức thực hiện các chuyên mục, chương trình, tin, bài phổ biến Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành. Ưu tiên nhấn mạnh tuyên truyền, phổ biến, tập huấn những nội dung mới, phức tạp của Luật như: Thẩm quyền thực hiện các việc mới được giao cho công chứng viên; chuyển đổi Phòng công chứng; tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên… – nhiệm vụ này được thực hiện cả ở trung ương và địa phương.

Thứ hai, thành lập tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên

Luật Công chứng năm 2014, Nghị định số 29/2015/NĐ-CP đã quy định tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên là tổ chức tự quản được thành lập ở cấp trung ương và cấp tỉnh để đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các công chứng viên; ban hành quy tắc đạo đức hành nghề công chứng; giám sát việc tuân thủ quy định của pháp luật về công chứng, quy tắc đạo đức hành nghề công chứng; tham gia cùng cơ quan nhà nước trong việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, tập sự hành nghề công chứng; tham gia ý kiến với cơ quan có thẩm quyền trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm công chứng viên, thành lập, hợp nhất, sáp nhập, chuyển nhượng, chấm dứt hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng và thực hiện các nhiệm vụ khác liên quan đến hoạt động công chứng theo quy định của Chính phủ.

Trong năm 2015 và những năm tiếp theo việc đẩy mạnh thành lập Hội công chứng viên ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải được coi trọng1. Ngay trong năm 2015, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải quan tâm, chỉ đạo Sở Tư pháp phối hợp với Sở Nội vụ và các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc tạo điều kiện cho các công chứng viên ở địa phương mình thực hiện một số quy trình cần thiết theo quy định để thành lập Hội công chứng viên cấp tỉnh, phấn đấu trong năm 2015 sẽ có khoảng 1/2 số địa phương trong cả nước thành lập được Hội công chứng viên hoặc xây dựng được Đề án thành lập Hội công chứng viên. Đây cũng là một trong các tiêu chí chấm điểm xếp hạng các Sở Tư pháp năm 2015. Đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã có Hội công chứng viên cần chủ động trong việc củng cố, kiện toàn tổ chức của Hội, chuẩn bị đầy đủ các điều kiện để có thể thực hiện tốt những nhiệm vụ, quyền hạn được giao theo quy định của Luật,Nghị định số 29/2015/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn. Hội công chứng viên cần hướng dẫn, tạo điều kiện để cho các công chứng viên hành nghề tại địa phương chưa tham gia Hội nhanh chóng trở thành hội viên và thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của hội viên.Cùng với việc đẩy nhanh tiến độ thành lập Hội công chứng viên tại các địa phương, việc xây dựng Đề án thành lập Hiệp hội công chứng viên Việt Nam tiếp tục được Bộ Tư pháp chủ trì phối hợp với Bộ Nội vụ và các bộ, ngành có liên quan hoàn chỉnh để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt. Nội dung của Đề án một mặt phải phù hợp với các quy định của Luật Công chứng năm 2014, Nghị định số 29/2015/NĐ-CP, đồng thời cũng phải phù hợp với tình hình thực tiễn, có tính khả thi cao để Hiệp hội có thể được thành lập ngay sau khi Đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Thứ ba, cần tăng cường công tác quản lý nhà nước, thanh tra kiểm tra về tổ chức và hoạt động công chứng

Bên cạnh những nhiệm vụ cần được ưu tiên thực hiện trong giai đoạn 2014 – 2016, các nhiệm vụ quản lý thường xuyên khác cũng cần được các bộ, ngành, địa phương thực hiện nghiêm túc theo quy định của Luật, như: Công tác quản lý thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng; công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động công chứng theo thẩm quyền… Các địa phương cũng cần quan tâm chỉ đạo chuẩn bị các điều kiện về cơ sở vật chất, con người để thực hiện tốt nhiệm vụ mới theo quy định của Luật Công chứng năm 2014 như: Việc đăng ký hành nghề và cấp thẻ cho công chứng viên; việc công chứng bản dịch và chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thựcchữ ký trong giấy tờ, văn bản… Công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện Luật Công chứng năm 2014 không chỉ được thực hiện ở trong nước mà còn cả với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài.

Thứ tư, cần đánh giá hoạt động các Phòng công chứng tại địa phương để xây dựng Kế hoạch chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứngChuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng là quy định mới, chưa có tiền lệ trong quản lý hoạt động công chứng, có liên quan đến quyền lợi của công chứng viên, viên chức, người lao động và nhiều sở, ban, ngành trong phạm vi địa phương. Do vậy, trên cơ sở quy định của Luật và Nghị định số 29/2015/NĐ-CP, Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cần tiến hành đánh giá toàn diện về tổ chức và hoạt động của các Phòng công chứng trong phạm vi địa phương để có tham mưu, đề xuất Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định chuyển đổi được chính xác, khách quan, đúng quy định, phù hợp với nguyện vọng của công chứng viên, viên chức, người lao động, do vậy, cần phải thực hiện chặt chẽ từ khâu khảo sát, đánh giá mức độ phát triển, sự cần thiết chuyển đổi… các Phòng công chứng tại địa phương. Trên cơ sở đó, Sở Tư pháp chủ trì và phối hợp với các sở, ban, ngành có liên quan xây dựng Kế hoạch chuyển đổi, Đề án chuyển đổi Phòng công chứng đúng với tiêu chí, bảo đảm việc chuyển đổi đúng các nguyên tắc, yêu cầu, trình tự, điều kiện của địa phương

ThS. Đỗ Hoàng Yến

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Điều kiện bảo đảm cho công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính

27/05/2015

Một trong những yêu cầu đặt ra trong quá trình triển khai thực hiện Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành là phải bảo đảm các điều kiện cần thiết cho việc thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Để bảo đảm các điều kiện cần thiết này, cần thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 8, Điều 9 Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ về theo dõi tình hình thi hành pháp luật và Thông tư số 14/2014/TT-BTP ngày 15/5/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành Nghị định số 59/2012/NĐ-CP. Theo đó, việc xem xét, đánh giá tình hình bảo đảm các điều kiện cho thi hành pháp luật nói chung và pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói riêng được thực hiện theo các nội dung: (i) Tính kịp thời, đầy đủ, phù hợp và hiệu quả của hoạt động tập huấn, phổ biến pháp luật; (ii) Tính phù hợp của tổ chức bộ máy, mức độ đáp ứng về nguồn nhân lực cho thi hành pháp luật; (iii) Mức độ đáp ứng về kinh phí, cơ sở vật chất bảo đảm cho thi hành pháp luật.

Nghiên cứu các quy định pháp luật nói trên, ThS. Nguyễn Hoàng Việt đã có bài viết: “Điều kiện bảo đảm cho công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính”. Bài viết tập trung phân tích tình hình bảo đảm các điều kiện cho việc thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính kể từ ngày Luật Xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực thi hành cho đến nay, đánh giá những mặt đạt được, những mặt còn tồn tại hạn chế, chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế, trên cơ sở đó, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị cụ thể.

Để hiểu hơn những nội dung mà tác giả đã trao đổi, độc giả có thể xem bài viết đã được đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề 32 trang tháng 05/2015 về “Công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật”.

Hải Việt

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Tranh chấp trong kinh doanh và thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng trong kinh doanh theo pháp luật Việt Nam hiện nay

29/07/2015

1. Tổng quan về tranh chấp trong kinh doanh

Tranh chấp trong kinh doanh hay tranh chấp thương mại là thuật ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước trên thế giới. Khái niệm này mới được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở nước ta trong mấy năm gần đây cùng với sự nhường bước của khái niệm tranh chấp kinh tế – một khái niệm quen thuộc trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp đã ăn sâu trong tiềm thức và tư duy pháp lý của người Việt Nam.

Hệ thống pháp luật Việt Nam đã từng tồn tại những khái niệm khác nhau để biểu đạt lĩnh vực tranh chấp này. Mặc dù không xây dựng được một khái niệm chuẩn mực về tranh chấp kinh tế, nhưng Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 và Nghị định số 116/CP ngày 5/9/1994 của Chính phủ về trọng tài kinh tế cũng đã liệt kê các tranh chấp được coi là tranh chấp kinh tế, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án kinh tế và trọng tài kinh tế. Theo các văn bản pháp luật này, các tranh chấp kinh tế bao gồm[1]:

– Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh;

– Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty;

– Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu;

– Các tranh chấp kinh tế khác theo quy định của pháp luật.

Với hàm ý tiếp cận này, khái niệm “tranh chấp kinh tế” đã không lột tả hết được chân dung thực của nó. Thực chất, “tranh chấp kinh tế” là một khái niệm có nội hàm rộng, bao gồm tất cả các tranh chấp có nội dung kinh tế chứ không chỉ bao gồm các tranh chấp kinh tế nêu trên. Các tranh chấp trên mới chỉ là nhóm tranh chấp điển hình có nội dung kinh tế. Bởi vậy, việc sử dụng khái niệm “tranh chấp kinh tế” để gắn cho các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh hay thương mại đã tạo ra sự bất tương thích giữa nội hàm của khái niệm với hàm ý được tiếp cận.

Khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được đề cập trong Luật Thương mại năm 1997. Theo Luật Thương mại, tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại[2]. Ngoài ra, khái niệm “hoạt động thương mại” theo quy định của Luật Thương mại lại có nội hàm rất hẹp so với quan niệm phổ biến của các nước trên thế giới về thương mại[3]. Quan niệm về tranh chấp thương mại và hoạt động thương mại theo Luật Thương mại đã loại bỏ nhiều tranh chấp không được coi là tranh chấp thương mại, mặc dù xét về bản chất hoàn toàn có thể coi các tranh chấp đó là tranh chấp thương mại trong ngữ cảnh đương đại. Điều này đã tạo ra những xung đột pháp luật, giữa luật quốc gia với luật quốc tế, trong đó có cả những công ước quốc tế quan trọng mà Việt Nam đã là thành viên (Công ước New York năm 1958 của Liên Hợp Quốc về công nhận và thi hành các quyết định trọng tài nước ngoài), gây không ít những trở ngại, rắc rối trong thực tiễn áp dụng và chính sách hội nhập[4].

Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 không trực tiếp đưa ra định nghĩa về tranh chấp thương mại, song với sự hiện diện của khái niệm “hoạt động thương mại” theo nghĩa rộng đã tạo ra sự tương đồng trong quan niệm về “thương mại” và “tranh chấp thương mại” của pháp luật Việt Nam với chuẩn mực chung của pháp luật và thông lệ quốc tế. Theo Pháp lệnh Trọng tài thương mại, hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật[5].

Với quy định này, khái niệm thương mại theo pháp luật Việt Nam đã được mở rộng, phù hợp với khái niệm thương mại trong Luật mẫu của Liên Hợp Quốc về trọng tài (UNCITRAL Model Law), Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ và WTO. Vấn đề này vừa có ý nghĩa trong việc bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể hoạt động thương mại tham gia vào việc giải quyết tranh chấp, vừa mở rộng khả năng được công nhận và thi hành tại Việt Nam các phán quyết của trọng tài nước ngoài. Sự đột phá của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 trong việc đưa khái niệm “hoạt động thương mại” tiếp cận với chuẩn mực chung của thông lệ và pháp luật quốc tế đã mở màn cho việc xem xét tiếp theo của các văn bản pháp luật khi đề cập đến lĩnh vực thương mại (hay kinh doanh) – một lĩnh vực đầy sôi động và phức tạp trong thực tiễn.

Luật Thương mại năm 2005 đưa ra khái niệm khá đơn giản về hoạt động thương mại nhưng cũng khắc họa đủ nội hàm của khái niệm. Theo khoản 1 Điều 3 Luật này, hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Cũng theo khái niệm này, quan niệm về hoạt động thương mại cũng đã được mở rộng, bao gồm mọi hoạt động có mục đích sinh lợi. Hướng tiếp cận này của Luật Thương mại năm 2005 cho thấy, khái niệm về hoạt động thương mại đã được mở rộng tương đồng với khái niệm kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005 và nay là Luật Doanh nghiệp năm 2014.

Theo khoản 6 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014, kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) cũng đã liệt kê các tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Theo Điều 29, tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, gồm có:

Tranh chấp[6] phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận, bao gồm: (i) Mua bán hàng hóa; (ii) Cung ứng dịch vụ; (iii) Phân phối; (iv) Đại diện, đại lí; (v) Ký gửi; (vi) Thuê, cho thuê, thuê mua; (vii) Xây dựng; (viii) Tư vấn, kỹ thuật; (ix) Vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa; (x) Vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; (xi) Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; (xii) Đầu tư, tài chính, ngân hàng; (xiii) Bảo hiểm; (xiv) Thăm dò, khai thác.

– Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.

– Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.

– Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.

Luật Trọng tài thương mại năm 2010 cũng liệt kê các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài, bao gồm:

– Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.

– Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại.

– Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài[7].

Như vậy, mặc dù Bộ luật Tố tụng dân sự không sử dụng thuật ngữ “tranh chấp thương mại” hay “tranh chấp trong kinh doanh” mà sử dụng thuật ngữ “tranh chấp về kinh doanh, thương mại”, nhưng nội dung của các tranh chấp về kinh doanh, thương mại được liệt kê tại Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự thực chất là các tranh chấp thương mại theo hướng tiếp cận của Luật Thương mại năm 2005 và Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Tuy có sự khác nhau về cách thức biểu đạt và ngôn ngữ sử dụng, nhưng nhìn chung quan niệm về hoạt động kinh doanh hay hoạt động thương mại và tranh chấp trong kinh doanh hay tranh chấp thương mại được thể hiện qua các quy định trong các văn bản pháp luật của Việt Nam hiện hành cũng khá nhất quán.

Từ nội dung xem xét nêu trên, có thể hiểu: “Tranh chấp trong kinh doanh (hay tranh chấp thương mại) là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động kinh doanh hoặc có liên quan đến hoạt động kinh doanh”.

Tranh chấp trong kinh doanh phải hội đủ các yếu tố sau đây:

– Là những mâu thuẫn (bất đồng) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ cụ thể;

– Những mâu thuẫn (bất đồng) đó phải phát sinh từ hoạt động kinh doanh hoặc có liên quan đến hoạt động kinh doanh;

– Những mâu thuẫn (bất đồng) đó phát sinh chủ yếu giữa các thương nhân (cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh hay đăng ký doanh nghiệp).

Cần lưu ý rằng, các tranh chấp trong kinh doanh chủ yếu là những tranh chấp phát sinh giữa các thương nhân (cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh) với nhau. Ngoài thương nhân là chủ thể chủ yếu của tranh chấp trong kinh doanh, trong những trường hợp nhất định, các cá nhân, tổ chức khác (không phải là thương nhân) cũng có thể là chủ thể của tranh chấp trong kinh doanh, như: Tranh chấp giữa công ty và thành viên của công ty; giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty[8] hay tranh chấp về giao dịch giữa một bên không nhằm mục đích sinh lợi với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam trong trường hợp bên không nhằm mục đích sinh lợi đó chọn áp dụng Luật Thương mại[9]. Khoa học pháp lý gọi giao dịch này là giao dịch hỗn hợp. Quy tắc được pháp luật của Cộng hòa Pháp và nhiều quốc gia áp dụng để giải quyết loại tranh chấp này đó là căn cứ vào bị đơn là thương nhân hay không phải là thương nhân. Nếu bị đơn là thương nhân thì nguyên đơn (bên có hành vi dân sự) có thể chọn Tòa Thương mại hoặc Tòa Dân sự để giải quyết vụ tranh chấp. Trường hợp nguyên đơn chọn Tòa Thương mại thì các quy định khắt khe hơn của Luật Thương mại được áp dụng để giải quyết vụ tranh chấp. Ngược lại, bị đơn không phải là thương nhân thì nguyên đơn (bên có hành vi thương mại) chỉ có quyền kiện ra Tòa Dân sự và Luật Dân sự được áp dụng để giải quyết vụ tranh chấp mà các quy định của Luật Thương mại không thể áp dụng cho đối phương không phải là thương nhân[10].

Luật Thương mại năm 2005 của Việt Nam đã cho phép bên có hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi (bên có hành vi dân sự) chọn áp dụng Luật Thương mại để giải quyết loại tranh chấp này. Về bản chất, hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân không phải là hoạt độngthương mại nhưng bên không nhằm mục đích sinh lợi đã chọn áp dụng Luật Thương mại thì quan hệ này trở thành quan hệ pháp luật thương mại (quan hệ hợp đồng thương mại) và tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật này phải được xem là tranh chấp hợp đồng thương mại hay tranh chấp hợp đồng trong kinh doanh. Tuy nhiên, thẩm quyền giải quyết loại tranh chấp này vẫn còn bất cập theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành[11].

2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng trong kinh doanh theo pháp luật Việt Nam hiện hành

2.1. Quan niệm mới về hợp đồng trong kinh doanh và pháp luật về hợp đồng

Thứ nhất, trước ngày 01/01/2006 (ngày Bộ luật Dân sự năm 2005 có hiệu lực), ở Việt Nam phân định rõ hai loại hợp đồng, đó là hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế. Đây là hai loại hợp đồng tồn tại biệt lập và tương ứng là hai hệ thống pháp luật độc lập được hình thành để điều chỉnh hai loại hợp đồng khác biệt này, đó là pháp luật hợp đồng dân sự và pháp luật hợp đồng kinh tế. Biên giới rõ ràng và dứt khoát để phân định hai loại hợp đồng này và pháp luật hợp đồng, cùng với những hạn chế của hệ thống các quy định pháp luật hợp đồng dân sự và pháp luật hợp đồng kinh tế đã tạo ra một hệ quả bất cập trong việc điều chỉnh pháp luật đối với một số hợp đồng nảy sinh trong đời sống xã hội ở giai đoạn này. Thực tiễn pháp lý đã xuất hiện một loạt các hợp đồng mà xét về bản chất không chịu sự điều chỉnh của pháp luật hợp đồng kinh tế nhưng cũng không được điều chỉnh bởi pháp luật hợp đồng dân sự. Ví dụ: Hợp đồng giữa các doanh nghiệp tư nhân với nhau hay giữa doanh nghiệp tư nhân với hộ kinh doanh cá thể hoặc giữa các hộ kinh doanh cá thể với nhau. Đến khi Luật Doanh nghiệp năm 1999 có hiệu lực pháp luật lại xuất hiện thêm một số quan hệ hợp đồng, đó là quan hệ hợp đồng giữa công ty hợp danh với nhau hay giữa công ty hợp danh với doanh nghiệp tư nhân hoặc với hộ kinh doanh cá thể. Các quan hệ hợp đồng nêu trên được xác lập giữa các bên chủ thể đều không phải là pháp nhân, cho dù các bên đều nhằm mục đích kinh doanh, ký bằng văn bản vẫn không là hợp đồng kinh tế theo Điều 2 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989. Theo Điều 2 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, thì chủ thể của hợp đồng kinh tế phải là giữa pháp nhân với pháp nhân hoặc pháp nhân với các nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Như vậy, ít nhất một bên chủ thể của hợp đồng kinh tế phải là pháp nhân. Trong khi các hợp đồng nêu trên, các bên chủ thể đều không là pháp nhân nên không được coi là hợp đồng kinh tế. Tuy nhiên, các hợp đồng này cũng không được coi là hợp đồng dân sự vì các bên đều nhằm mục đích kinh doanh mà theo Điều 1 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991 thì hợp đồng dân sự phải có ít nhất một bên nhằm mục đích tiêu dùng, sinh hoạt. Đây chính là “vùng chết” của các quan hệ hợp đồng mà ở thời điểm đó pháp luật về hợp đồng kinh tế và pháp luật về hợp đồng dân sự đã không vươn đến để điều chỉnh được.

Từ ngày 01/01/2006, ở Việt Nam thuật ngữ “hợp đồng kinh tế” không được tiếp tục sử dụng mà thay thế bởi thuật ngữ “hợp đồng trong kinh doanh” hay “hợp đồng thương mại” (sau đây gọi chung là hợp đồng trong kinh doanh). Hợp đồng trong kinh doanh và hợp đồng dân sự không được coi là hai loại hợp đồng tồn tại biệt lập như quan niệm về hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự trước đây. Hợp đồng trong kinh doanh được coi là một dạng của hợp đồng dân sự trong lĩnh vực kinh doanh – là sự phát triển cao hơn của hợp đồng dân sự trong lĩnh vực kinh doanh[12]. Pháp luật hiện hành không định nghĩa về hợp đồng trong kinh doanh nói chung cũng như các hợp đồng cụ thể trong hoạt động kinh doanh. Về bản chất, hợp đồng trong kinh doanh là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự, được phát triển cao hơn trong các hoạt động kinh doanh. Căn cứ vào quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về khái niệm hợp đồng dân sự, có thể hiểu: “Hợp đồng trong kinh doanh là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt các quyền, nghĩa vụ trong hoạt động kinh doanh”.

Hợp đồng trong kinh doanh cũng hàm chứa đầy đủ các dấu hiệu cơ bản của hợp đồng nói chung, là sự thỏa thuận giữa các bên nhằm vào đối tượng có tính xác định, cụ thể và hợp pháp, xác lập quyền, nghĩa vụ pháp lý giữa các bên. Bên cạnh các dấu hiệu cơ bản của hợp đồng nói chung, để nhận diện hợp đồng trong kinh doanh cần xem xét đến những dấu hiệu riêng biệt sau đây:

– Chủ thể của hợp đồng trong kinh doanh chủ yếu là thương nhân: Thương nhân là chủ thể chủ yếu của hợp đồng trong kinh doanh. Chủ thể chủ yếu của hợp đồng trong kinh doanh có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài (đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế). Có những hợp đồng trong kinh doanh pháp luật bắt buộc cả hai bên phải là thương nhân, như: Hợp đồng đại diện thương nhân, hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại, hợp đồng đại lý thương mại, hợp đồng nhượng quyền thương mại… Có những hợp đồng trong kinh doanh pháp luật chỉ bắt buộc một bên là thương nhân[13], còn bên kia có thể là thương nhân hoặc không là thương nhân, như: Hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng môi giới thương mại, hợp đồng dịch vụ logistics, hợp đồng dịch vụ trong xây dựng…

– Mục đích của các bên hợp đồng trong kinh doanh chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận: Hợp đồng trong kinh doanh được giao kết chủ yếu nhằm mục đích sinh lợi. Thông thường, các bên của hợp đồng trong kinh doanh đều nhằm mục đích lợi nhuận. Tuy nhiên, nếu một bên nhằm mục đích sinh lợi, bên kia không nhằm mục tiêu sinh lợi nhưng hợp đồng đó vẫn có thể là hợp đồng trong kinh doanh khi bên không nhằm mục đích sinh lợi chọn áp dụng Luật Thương mại (2005)[14].

– Hình thức của hợp đồng trong kinh doanh chủ yếu được thiết lập dưới hình thức bằng văn bản: Hầu hết các hợp đồng trong kinh doanh bắt buộc phải thiết lập dưới hình thức văn bản. Các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu[15]. Ngoài ra, một số hợp đồng trong kinh doanh pháp luật cho phép các bên có thể thiết lập bằng lời nói hay hành vi, như: hợp đồng mua bán hàng hoá (ngoại trừ mua bán hàng hoá quốc tế), hợp đồng môi giới thương mại, hợp đồng dịch vụ logistics…

Thứ hai, với quan niệm mới về hợp đồng kinh doanh, kéo theo hệ thống pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh là một thể thống nhất, bao gồm các quy định chung của pháp luật về hợp đồng (còn gọi pháp luật hợp đồng dân sự) và các quy định của pháp luật về từng lĩnh vực của hoạt động kinh doanh (các quy định riêng về từng lĩnh vực hợp đồng trong kinh doanh). Các quy định chung của pháp luật về hợp đồng bao gồm các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 và các văn bản hướng dẫn Bộ luật Dân sự năm 2005 liên quan đến hợp đồng, như: Những quy định chung, chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, các quy định về tài sản, thời hạn, thời hiệu; giao dịch dân sự; đại diện và uỷ quyền; nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự; trách nhiệm dân sự; các hợp đồng dân sự thông dụng.

Các quy định riêng của pháp luật về từng lĩnh vực hợp đồng được quy định trong các văn bản pháp luật, như: Luật Thương mại; Luật Đầu tư; Luật Xây dựng; Luật Kinh doanh bảo hiểm; Luật Viễn thông; Luật Tần số vô tuyến điện; Luật Đất đai; Luật Kinh doanh bất động sản; Luật Nhà ở; các luật về vận chuyển như Luật Hàng không dân dụng, Bộ luật Hàng hải, Luật Đường sắt, Luật Giao thông đường bộ, Luật Giao thông thuỷ nội địa…

Khi áp dụng pháp luật điều chỉnh một quan hệ hợp đồng cụ thể, ngoài các nguyên tắc áp dụng pháp luật nói chung, cần lưu ý nguyên tắc áp dụng phối hợp luật chung và luật luật chuyên ngành, theo đó:

– Luật chuyên ngành có quy định thì áp dụng luật chuyên ngành;

– Luật chuyên ngành không quy định thì áp dụng quy định của luật chung;

– Luật chuyên ngành và luật chung cùng quy định về một vấn đề thì ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành.

2.2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng trong kinh doanh của Trọng tài thương mại

Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, tranh chấp được giải quyết tại Trọng tài thương mại khi hội đủ hai điều kiện sau:

Thứ nhất, tranh chấp phát sinh thuộc loại tranh chấp được giải quyết tại Trọng tài thương mại.

Theo Điều 2 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, tranh chấp được giải quyết tại Trọng tài thương mại, bao gồm:

– Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại[16];

– Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động th­ương mại;

– Tranh chấp khác mà pháp luật quy định đư­ợc giải quyết tại trọng tài.

Như vậy, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài thương mại, theo đó, các tranhh chấp hợp đồng trong kinh doanh được giải quyết tại Trọng tài thương mại không chỉ giới hạn giữa các cá nhân, tổ chức kinh doanh với nhau như Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003. Cách tiếp cận này của Luật Trọng tài thương mại đã tương thích với quy định của pháp luật nội dung về hợp đồng trong kinh doanh (hợp đồng thương mại)[17].

Thứ hai, tr­ước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thoả thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài không vô hiệu

– Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh.

– Hình thức thoả thuận trọng tài phải bằng văn bản. Các hình thức sau cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản:

+ Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật;

+ Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên;

+ Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên;

+ Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác;

+ Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận[18].

– Thoả thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thoả thuận trọng tài[19].

– Có thỏa thuận trọng tài, nếu một bên khởi kiện tại Tòa án thì Tòa án phải từ chối thụ lí, trừ thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được.

Trong các trường hợp sau đây, thỏa thuận trọng tài vô hiệu:

+ Tranh chấp không thuộc thẩm quyền của trọng tài;

+ Ngư­ời xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;

+ Ngư­ời xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự;

+ Hình thức của thỏa thuận trọng tài không phù hợp với quy định của pháp luật;

+ Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, c­ưỡng ép và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu;

+ Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật[20].

Ngoài ra, cần lưu ý điểm mới của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 về các trường hợp thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được, bao gồm[21]:

+ Trường hợp các bên đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một trung tâm trọng tài cụ thể nhưng trung tâm trọng tài này đã chấm dứt hoạt động mà không có tổ chức trọng tài kế thừa, thì các bên có thể thỏa thuận lựa chọn trung tâm trọng tài khác; nếu không thỏa thuận được, thì có quyền khởi kiện ra Tòa án để giải quyết.

+ Trường hợp các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn trọng tài viên trọng tài vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà trọng tài viên không thể tham gia giải quyết tranh chấp, thì các bên có thể thỏa thuận lựa chọn trọng tài viên khác để thay thế; nếu không thỏa thuận được, thì có quyền khởi kiện ra Tòa án để giải quyết.

+ Trường hợp các bên đã có thỏa thuận trọng tài nhưng không chỉ rõ hình thức trọng tài hoặc không thể xác định được tổ chức trọng tài cụ thể, thì khi có tranh chấp, các bên phải thỏa thuận lại về hình thức trọng tài hoặc tổ chức trọng tài cụ thể để giải quyết tranh chấp. Nếu không thỏa thuận được thì việc lựa chọn hình thức, tổ chức trọng tài để giải quyết tranh chấp được thực hiện theo yêu cầu của nguyên đơn.

Tuy nhiên, xem xét quy định tại Điều 43 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 cho thấy, các trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được theo Luật Trọng tài thương mại của Việt Nam hiện hành vừa thiếu, không bao quát hết các khả năng xảy ra trong thực tiễn, lại vừa không chuẩn mực về tên gọi, cụ thể:

Một là, đối với thỏa thuận chọn trung tâm trọng tài thì thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được chỉ thuộc trường hợp được quy đinh tại khoản 3 Điều 43 Luật Trọng tài thương mại, theo đó các bên đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một trung tâm trọng tài cụ thể nhưng trung tâm trọng tài này đã chấm dứt hoạt động mà không có tổ chức trọng tài kế thừa, thì các bên có thể thỏa thuận lựa chọn trung tâm trọng tài khác; nếu không thỏa thuận được, thì có quyền khởi kiện ra Tòa án để giải quyết. Thực tiễn, còn rất nhiều trường hợp phải được coi là thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được nhưng lại không được quy định tại Luật Trọng tài thương mại, như: Trung tâm trọng tài được các bên chọn tuy chưa chấm dứt hoạt động nhưng đang làm thủ tục giải thể nên không thụ lý vụ tranh chấp, hay trung tâm trọng tài được các bên lựa chọn đã thu hẹp phạm vi, lĩnh vực hoạt động và tranh chấp phát sinh không thuộc phạm vi, lĩnh vực giải quyết của trung tâm, hoặc tranh chấp phát sinh tuy vẫn thuộc phạm vi, lĩnh vực hoạt động của trung tâm trọng tài nhưng trung tâm từ chối thụ lý vụ tranh chấp đó…

Hai là, đối với thỏa thuận trọng tài vụ việc thì thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được cũng chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 43 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, theo đó các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn trọng tài viên trọng tài vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà trọng tài viên không thể tham gia giải quyết tranh chấp, thì các bên có thể thỏa thuận lựa chọn trọng tài viên khác để thay thế; nếu không thỏa thuận được, thì có quyền khởi kiện ra Tòa án để giải quyết. Theo quy định này, trọng tài viên không thể tham gia giải quyết tranh chấp vì “sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan” mới được coi là thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được. Quy định này của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 là chưa chuẩn mực, bởi lẽ “trọng tài thương mại” là cơ quan tài phán tư, có thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo yêu cầu của các bên. Tuy nhiên, pháp luật không thể buộc các trung tâm trọng tài hay trọng tài viên trọng tài vụ việc phải giải quyết tranh chấp khi các bên có yêu cầu. Bởi vậy, vì bất cứ lý do gì (chứ không phải chỉ vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan) mà trọng tài viên trọng tài vụ việc không tham gia giải quyết vụ tranh chấp đều phải được coi là thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được.

Ba là, đối với trường hợp quy định tại khoản 5 Điều 43 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, trước đây được coi là thoả thuận trọng tài vô hiệu theo Điều 10 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003. Điều 18 Luật Trọng tài thương mại không coi trường hợp này là thoả thuận trọng tài vô hiệu mà được coi là thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được như tên gọi của Điều 43 Luật Trọng tài thương mại. Tuy nhiên, theo cách tiếp cận tại khoản 5 Điều 43 Luật Trọng tài thương mại thì trường hợp này lại không thể coi là thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được vì nếu là thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được mà các bên không đạt thêm sự thỏa thuận nào khác thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp này phải thuộc về Tòa án[22]. Nội dung quy định tại khoản 5 Điều 43 Luật Trọng tài thương mại cho thấy, trường hợp này phải được coi là thoả thuận trọng tài bị khiếm khuyết, chứ không phải là thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được như tên gọi của điều luật. Khi các bên có thỏa thuận trọng tài bị khiếm khuyết, pháp luật cho phép các bên khắc phục sự “khiếm khuyết” này bằng việc thỏa thuận lại về hình thức trọng tài hoặc tổ chức trọng tài cụ thể để giải quyết tranh chấp. Nếu không thỏa thuận được thì việc lựa chọn hình thức, tổ chức trọng tài để giải quyết tranh chấp được thực hiện theo yêu cầu của nguyên đơn (nguyên đơn không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp này).

2.3. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng trong kinh doanh của Tòa án

Theo Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự, thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án, bao gồm:

– Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận, bao gồm: a) Mua bán hàng hoá;b) Cung ứng dịch vụ;c) Phân phối;d) Đại diện, đại lý;đ) Ký gửi;e) Thuê, cho thuê, thuê mua;g) Xây dựng;h) Tư vấn, kỹ thuật;i) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa;k) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển;l) Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác;m) Đầu tư, tài chính, ngân hàng;n) Bảo hiểm;o) Thăm dò, khai thác.

– Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.

– Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.

– Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.

Quy định này đã loại trừ thẩm quyền giải quyết của Tòa án về tranh chấp kinh doanh, thương mại theo Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự đối với tranh chấp hợp đồng giữa một bên không nhằm mục đích sinh lợi (bên không là thương nhân) trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam khi bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi chọn áp dụng Luật Thương mại năm 2005. Như đã phân tích ở phần trên, hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân không phải là hoạt động thương mại nhưng bên không nhằm mục đích sinh lợi đã chọn áp dụng Luật Thương mại thì quan hệ này trở thành quan hệ pháp luật thương mại (quan hệ hợp đồng thương mại) và tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật này phải được xem là tranh chấp hợp đồng thương mại hay tranh chấp hợp đồng trong kinh doanh.

Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, tranh chấp này vẫn có thể được giải quyết tại trọng tài thương mại theo Luật Trọng tài thương mại năm 2010 nếu các bên có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài không vô hiệu nhưng tranh chấp này lại không thuộc loại tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án theo Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự (khi một bên tranh chấp không có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật) và cũng không được xếp vào loại tranh chấp về dân sự theo Điều 25 Bộ luật Tố tụng dân sự[23]. Bởi vậy, theo Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành khó có thể xác định được thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh giữa một bên không nhằm mục đích sinh lợi với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam trong trường hợp bên không nhằm mục đích sinh lợi chọn áp dụng Luật Thương mại. Đây là sự bất cập của Bộ luật Tố tụng dân sự tạo ra sự bất tương thích với quy định tương ứng của pháp luật nội dung. Sự bất cập này của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành, đòi hỏi các nhà kinh doanh cần thận trọng trong các giao dịch với bên không nhằm mục đích sinh lợi thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam, bởi lẽ tranh chấp phát sinh giữa các bên (nếu có) chỉ có thể giải quyết bằng thương lượng hay hoà giải hoặc trọng tài mà khó có thể được giải quyết tại Toà án Việt Nam (nếu áp dụng pháp luật một cách chuẩn mực), khi bên không nhằm mục đích sinh lợi chọn áp dụng Luật Thương mại năm 2005. Bên không nhằm mục đích sinh lợi có sự am hiểu pháp luật nhưng thiếu thiện chí trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam có thể lạm dụng sự bất cập này của pháp luật hiện hành Việt Nam để qua mặt đối tác nếu có tranh chấp xảy ra (khi họ chọn áp dụng Luật Thương mại theo khoản 3 Điều 1) và các bên không có thỏa thuận trọng tài.

ThS. Hoàng Minh Chiến

Giám đốc Trung tâm PLCT và Bảo vệ QLNTD

Đại học Luật Hà Nội



[1] Điều 12 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994; Điều 1 Nghị định số 116/CP ngày 5/9/1994.

[2] Điều 238 Luật Thương mại năm 1997.

[3] Xem chương 1, Giáo trình Luật Thương mại, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công An nhân dân, Hà Nội, 2006.

[4] Xem PGS.TS Lê Hồng Hạnh, Khái niệm thương mại trong pháp luật Việt Nam và những bất cập dưới góc độ thực tiễn áp dụng và chính sách hội nhập, Tạp chí Luật học số 2/2000.

[5] Khoản 2 Điều 3 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003.

[7] Điều 2 Luật Trọng tài thương mại năm 2010.

[8] Khoản 3 Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự

[9]Khoản 3 Điều 1 Luật Thương mại năm 2005.

[10]Xem: Francis Lemeunier, Nguyên lý thực hành Luật thương mại, Luật kinh doanh, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993.

[11] Nội dung pháp lý này sẽ được bàn định tại mục 2.3 của bài viết.

[12] Theo Điều 388 Bộ luật Dân sự năm 2005, hợp đồng dân sự đã được hiểu theo nghĩa rộng.

[13] Theo Điều 1 Luật Thương mại năm 2005, một hợp đồng vẫn có thể được coi là hợp đồng thương mại khi cả hai bên chủ thể đều không là thương nhân. Việt Nam, hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối và những người bán hàng rong, quà vặt, buôn chuyến, kinh doanh lưu động, làm dịch vụ có thu nhập thấp không phải đăng ký kinh doanh. Không đăng ký kinh doanh nên những chủ thể này không được coi là thương nhân, nhưng hoạt động của họ vẫn thoả mãn các dấu hiệu để xác định là hoạt động thương mại (hoạt động kinh doanh) và họ vẫn được pháp luật thừa nhận là chủ thể kinh doanh. Vì vậy, hợp đồng giữa những chủ thể này (cả hai bên đều không là thương nhân) nhằm mục đích lợi nhuận vẫn chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại năm 2005 nên vẫn được coi là hợp đồng thương mại. Tuy nhiên, việc xác định những giao dịch này chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại năm 2005 thường không có ý nghĩa thực tiễn. Trong thực tiễn pháp lý, những quy định đơn giản về hợp đồng dân sự của Bộ luật Dân sự năm 2005 vẫn thường gần gũi với người dân và dường như mặc nhiên được các bên biết đến và sử dụng để điều chỉnh các giao dịch này.

[14] Khoản 3 Điều 1 Luật Thương mại năm 2005.

[15] Khoản 15 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005.

[16] Luật Trọng tại thương mại năm 2010 không giải thích hoạt động thương là gì song có thể hiểu hoạt động thương mại theo Luật Thương mại năm 2005 và tương đồng với hoạt động kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp năm 2014.

[17] Xem Điều 1 Luật Thương mạinăm 2005.

[18] Khoản 2 Điều 16 Luật Trọng tài thương mại năm 2010.

[19] Điều 19 Luật Trọng tài thương mại năm 2010.

[20] Điều 18 Luật trọng tài thương mại năm 2010.

[21]Điều 43 Luật Trọng tài thương mại năm 2010.

[22] Theo Điều 6 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, thì trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được.

[23] Bên không nhằm mục đích sinh lợi đã chọn áp dụng Luật Thương mại nên tranh chấp này là tranh chấp hợp đồng thương mại chứ không phải là tranh chấp về hợp đồng dân sự. Theo Điều 25 Bộ luật Tố tụng dân sự thì tranh chấp dân sự bao gồm nhiều loại tranh chấp, trong đó có tranh chấp hợp đồng nhưng phải là tranh chấp hợp đồng dân sự.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Nhìn lại một năm triển khai nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật và định hướng cơ bản năm 2015

29/05/2015

Thực hiện nhiệm vụ giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật (TDTHTHPL) được quy định tại Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ về theo dõi tình hình thi hành pháp luật, trong năm 2014, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương triển khai đồng bộ nhiều hoạt động để thực hiện nhiệm vụ này nhằm tiếp tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đưa công tác TDTHTHPL tiếp tục phát triển lên một bước mới và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong bối cảnh thực tiễn triển khai công tác TDTHTHPL có những thay đổi rất mới.

1. Bối cảnh triển khai thực hiện nhiệm vụ TDTHTHPL năm 2014

Mặc dù công tác TDTHTHPL được Chính phủ giao Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý trong phạm vi cả nước từ năm 2008 (tại Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp), nhưng phải đến năm 2012, Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 về theo dõi tình hình thi hành pháp luật mới được Chính phủ ban hành, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc triển khai nhiệm vụ TDTHTHPL. Trước năm 2014, Bộ Tư pháp đã nỗ lực cố gắng cùng các bộ, ngành địa phương tổ chức nhiều hoạt động thực tiễn về TDTHTHPL, đồng thời triển khai xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 59/2012/NĐ-CP nhằm tạo cơ sở pháp lý ổn định cho việc triển khai bền vững nhiệm vụ này. Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật thuộc Bộ Tư pháp là đơn vị được giao nhiệm vụ tham mưu giúp Bộ Tư pháp thực hiện công tác quản lý nhà nước về TDTHTHPL cho đến thời điểm ngày 15/5/2014. Tuy nhiên, trước yêu cầu chuyển hướng chiến lược trong xây dựng và thực thi pháp luật, trên cơ sở nghiên cứu, cân nhắc kỹ tình hình và yêu cầu của thực tiễn, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã đề xuất với Thủ tướng Chính phủ thành lập Cục Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật (Cục QLXLVPHC&TDTHPL) nhằm đổi mới cách thức tổ chức thực hiện nhiệm vụ theo hướng chuyên sâu, thực chất, gắn việc xây dựng và hoàn thiện thể chế chính sách, pháp luật với việc tổ chức thực hiện, thanh tra, kiểm tra và bảo đảm các điều kiện thi hành pháp luật. Nhiệm vụ theo dõi chung tình hình thi hành pháp luật cùng với tổ chức (Phòng Công tác thi hành pháp luật) và một số biên chế thực hiện công tác TDTHTHPL của Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật – đơn vị trước đây được giao tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện công tác này, được chuyển sang Cục QLXLVPHC&TDTHPL khi Cục được thành lập theo Quyết định số 717/QĐ-TTg ngày 15/5/2014 của Thủ tướng Chính phủ, trở thành một trong những phòng chủ chốt thuộc tổ chức, bộ máy của Cục – Phòng Theo dõi thi hành pháp luật(1).

Năm 2014 cũng là năm đầu tiên triển khai công tác TDTHTHPL theo lĩnh vực trọng tâm liên ngành. Vấn đề an toàn thực phẩm trong đó tập trung vào chuỗi sản phẩm rau, củ, quả và chè là lĩnh vực trọng tâm liên ngành mà Bộ Tư pháp đã thống nhất với các bộ, ngành hữu quan xây dựng kế hoạch và phối hợp triển khai trong năm 2014 đạt kết quả bước đầu rất tốt, tạo đà cho việc tiếp tục triển khai phương thức TDTHTHPL này sang lĩnh vực trọng tâm liên ngành khác trong năm 2015 là chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả.

2. Những kết quả đạt được

2.1. Hoàn thiện thể chế về công tác TDTHTHPL

Nhằm cụ thể hóa Nghị định số 59/2012/NĐ-CP, ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại Hội nghị toàn quốc triển khai công tác tư pháp năm 2014 và Chương trình hành động của Bộ Tư pháp triển khai thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương nghiên cứu, tiếp tục hoàn thiện thể chế về công tác TDTHTHPL, ví dụ như: Thông tư số 14/2014/TT-BTP ngày 15/5/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành Nghị định số 59/2012/NĐ-CP; Quy chế phối hợp giữa các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp trong công tác TDTHTHPL (kèm theo Quyết định số 1865/QĐ-BTP ngày 17/7/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp)… Đồng thời, thể chế về TDTHTHPL cũng đã được các bộ, ngành, địa phương quan tâm thực hiện thông qua việc ban hành theo thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật quy định về công tác TDTHTHPL tại bộ, ngành, địa phương mình, ví dụ như: Thông tư số 58/2013/TT-BGTVT ngày 31/12/2013 của Bộ Giao thông vận tải; Thông tư số 35/2013/TT-BYT ngày 26/12/2013 của Bộ Công Thương; Thông tư số 22/2014/TT-BYT ngày 30/6/2014 của Bộ Y tế; Quyết định số 26/2014/QĐ-UBND ngày 12/8/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên; Quyết định số 53/2014/QĐ-UBND ngày 25/12/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên…Các văn bản nêu trên được ban hành có ý nghĩa quan trọng, góp phần gắn kết công tác TDTHTHPL với công tác xây dựng pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật và kiểm soát thủ tục hành chính, đồng thời giải quyết những vướng mắc phát sinh trong thực tiễn, từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác TDTHTHPL của các bộ, ngành, địa phương.

2.2. Công tác phổ biến, tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ, kiểm tra thực hiện công tác TDTHTHPL

Công tác này đã được Bộ Tư pháp, các bộ, ngành, địa phương chú trọng triển khai thực hiện trong năm 2014(2). Theo đó, Bộ Tư pháp đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương về chuyên môn, nghiệp vụ TDTHTHPL, trong đó đặc biệt tập trung hướng dẫn việc xây dựng kế hoạch và xác định lĩnh vực trọng tâm, xây dựng báo cáo TDTHTHPL. Ngoài ra, trong năm 2014, Bộ Tư pháp đã tổ chức kiểm tra công tác TDTHTHPL tại Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương… Thông qua các hoạt động nêu trên, nhiều giải pháp quan trọng đã được các bộ, ngành, địa phương thống nhất thực hiện. Đồng thời, đội ngũ cán bộ từng bước được trang bị kỹ năng, nghiệp vụ trong lĩnh vực này, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả tham mưu, tổ chức triển khai nhiệm vụ TDTHTHPL, đáp ứng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ được giao.

2.3. Các điều kiện bảo đảm thực hiện công tác TDTHTHPL

– Về tổ chức bộ máy, biên chế:Tại Bộ Tư pháp, Cục QLXLVPHC&TDTHPL được thành lập theo Quyết định số 717/QĐ-TTg ngày 15/5/2014 của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 1266/QĐ-BTP ngày 03/6/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục QLXLVPHC&TDTHPL. Theo đó, một phần biên chế của Phòng Công tác thi hành pháp luật thuộc Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật đã được chuyển sang Cục. Cục QLXLVPHC&TDTHPL chính thức đi vào hoạt động từ ngày 11/7/2014. Tại các Sở Tư pháp, tổ chức bộ máy, biên chế làm công tác TDTHTHPL tiếp tục được kiện toàn. Đến thời điểm hiện nay, cả nước có 06 Sở Tư pháp đã thành lập Phòng Theo dõi thi hành pháp luật, 36 Sở Tư pháp thành lập Phòng kiêm chức năng TDTHTHPL, 21 Sở Tư pháp bố trí cán bộ làm công tác TDTHTHPL và giao nhiệm vụ này cho một phòng chuyên môn đảm nhận. Bên cạnh đó, các bộ, ngành đã thành lập, củng cố, kiện toàn tổ chức pháp chế theo Nghị định số 55/2011/NĐ-CP của Chính phủ. Vụ Pháp chế đã được thành lập ở tất cả các bộ, cơ quan ngang bộ, trong đó có 01 bộ thành lập Phòng Công tác thi hành pháp luật, 02 bộ thành lập phòng kiêm chức năng TDTHTHPL, các bộ, ngành còn lại đã bố trí cán bộ phụ trách công tác TDTHTHPL. Các địa phương đã thành lập trên 292 Phòng Pháp chế tại các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, trong đó có 10/63 địa phương đã thành lập từ 14 Phòng Pháp chế trở lên; 28/63 địa phương thành lập, kiện toàn được một số Phòng Pháp chế và đang tiếp tục thực hiện. Theo thống kê, đến nay có khoảng trên 2.408 người làm công tác pháp chế tại các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, trong đó khoảng 600 người chuyên trách, còn lại là kiêm nhiệm.

– Về kinh phí:

Kinh phí bảo đảm hoạt động TDTHTHPL bước đầu được các bộ, ngành, địa phương bố trí trong kinh phí thường xuyên theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, đã đáp ứng một phần yêu cầu triển khai thực hiện công tác này. Bên cạnh nguồn kinh phí do ngân sách nhà nước cấp, các bộ, ngành, địa phương cũng đã chủ động huy động nguồn kinh phí hỗ trợ của các tổ chức xã hội, tổ chức quốc tế hoặc lồng ghép vào các chương trình, dự án khác đảm bảo cho công tác này.

2.4. Tổ chức thực hiện kế hoạch TDTHTHPL

Trong năm 2014, việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch TDTHTHPL đã được Bộ Tư pháp và các bộ, ngành, địa phương thực hiện nghiêm túc. Ngoài việc theo dõi chung về tình hình thi hành pháp luật theo ngành, lĩnh vực và địa bàn, các bộ, ngành, địa phương đã lựa chọn lĩnh vực có nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành và tổ chức nhiều hoạt động để triển khai thực hiện TDTHTHPL(3). Sự kết hợp giữa theo dõi chung về tình hình thi hành pháp luật với theo dõi chuyên đề, theo dõi liên ngành là một trong những nét mới của công tác này trong năm 2014. Vì vậy, công tác TDTHTHPL đã được thực hiện trên cơ sở bám sát nhiệm vụ của ngành, địa phương, chủ động triển khai và mang lại những hiệu ứng tích cực(4)

3. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

3.1. Tồn tại, hạn chế

– Việc xây dựng, hoàn thiện thể chế về TDTHTHPL vẫn còn chậm, vì vậy đã dẫn đến lúng túng trong thực tiễn hoạt động của các bộ, ngành, địa phương, cụ thể: Nghị định số 59/2012/NĐ-CP có hiệu lực từ năm 2012, nhưng phải 02 năm sau thì Thông tư quy định chi tiết Nghị định này mới được ban hành5. Trong khi đó, cho đến thời điểm hiện nay, chỉ tiêu thống kê quốc gia và thống kê ngành về TDTHTHPL, cũng như Thông tư hướng dẫn nội dung thống kê, sử dụng biểu mẫu trong lĩnh vực TDTHTHPL vẫn chưa được ban hành.

– Tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực thực hiện nhiệm vụ TDTHTHPL chậm được kiện toàn, bổ sung và chưa được tổ chức thống nhất, đồng bộ tại các bộ, ngành, địa phương. Đội ngũ công chức được giao làm công tác này thường kiêm nhiệm, số lượng ít, trình độ chuyên môn chưa đồng đều, thiếu kinh nghiệm trong tổ chức công tác TDTHTHPL. Mặc dù đã được bố trí kinh phí hoạt động nhưng chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, đa số các bộ, ngành, địa phương còn gặp khó khăn về kinh phí phục vụ việc triển khai công tác TDTHTHPL, trong đó thậm chí có địa phương kinh phí chỉ đủ triển khai nhiệm vụ xây dựng báo cáo và tổ chức một số cuộc kiểm tra về công tác TDTHTHPL.

– Hoạt động tập huấn nghiệp vụ về TDTHTHPL chưa được thực hiện thường xuyên; nội dung và phương pháp tập huấn cần tiếp tục được nghiên cứu đổi mới, bám sát hơn với yêu cầu thực tiễn. Một trong những vấn đề cần quan tâm là cần khẩn trương tổ chức biên soạn Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ TDTHTHPL và bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ báo cáo viên có kinh nghiệm để phục vụ cho việc hướng dẫn, tập huấn đội ngũ làm công tác TDTHTHPL trên toàn quốc.

– Việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch TDTHTHPL của một số bộ, ngành, địa phương còn lúng túng; các hình thức TDTHTHPL còn đơn điệu, chủ yếu căn cứ trên báo cáo của các cơ quan nhà nước, trong khi việc tổ chức điều tra, khảo sát, thu thập và xử lý thông tin về tình hình thi hành pháp luật chưa thường xuyên, chậm được thực hiện; việc gửi báo cáo TDTHTHPL năm 2014 còn chậm, nhiều đơn vị chưa gửi báo cáo về Bộ Tư pháp để tổng hợp xây dựng báo cáo chung về tình hình thi hành pháp luật trong phạm vi cả nước, trình Thủ tướng Chính phủ; nhiều báo cáo còn sơ sài, chưa bảo đảm chất lượng.

– Quá trình thực hiện công tác TDTHTHPL còn thiếu sự tham gia, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan. Do vậy, kết quả chưa tạo được sự lan tỏa trong xã hội, chưa có những kết quả mang tính đột phá, phản ứng chính sách thông qua hoạt động TDTHTHPL vẫn còn chậm, việc xử lý kết quả TDTHTHPL chưa kịp thời, thiếu triệt để, nhất là những vụ việc gây bức xúc trong dư luận xã hội.

3.2. Nguyên nhân

Thứ nhất,một số vấn đề lý luận liên quan đến vị trí, tầm quan trọng và nội dung của công tác TDTHTHPL vẫn chưa được nhìn nhận, nghiên cứu nghiêm túc, thấu đáo, đầy đủ. Trong khi đó, tiêu chí đánh giá hiệu quả thực hiện đối với lĩnh vực này hiện vẫn chưa được cụ thể, rõ ràng trong các văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ hai,đặc dù công tác TDTHTHPL trong phạm vi cả nước đã được Chính phủ giao Bộ Tư pháp thực hiện kể từ khi ban hành Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp, nhưng cho đến nay, công tác TDTHTHPL vẫn chưa được luật hóa. Văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có hiệu lực pháp lý cao nhất trực tiếp điều chỉnh đối với công tác TDTHTHPL là Nghị định số 59/2012/NĐ-CP sau một thời gian thực hiện cũng đã bộc lộ một số vướng mắc, bất cập cần được tổ chức sơ kết đánh giá, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung.

Thứ ba, TDTHTHPL là lĩnh vực hoạt động còn mới mẻ và phức tạp, do vậy đòi hỏi phải có sự quan tâm, phối hợp chặt chẽ của nhiều bộ, ngành, địa phương, bên cạnh sự chủ động của Bộ Tư pháp, các Sở Tư pháp. Kết quả công tác TDTHTHPL chưa thực sự nổi bật, chưa phản ánh đúng những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành pháp luật, chưa có nhiều đề xuất lớn để nâng cao hiệu quả thi hành và hoàn thiện hệ thống pháp luật.Thực hiện quy định của Nghị định số 59/2012/NĐ-CP, Bộ Tư pháp đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình thi hành pháp luật trên phạm vi cả nước năm 2014 (Báo cáo số 64/BC-BTP ngày 18/3/2015), trong đó tập trung đánh giá về kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế và khó khăn, vướng mắc trong chỉ đạo triển khai thực hiện nhiệm vụ TDTHTHPL, tình hình triển khai thi hành văn bản quy phạm pháp luật và tình hình tuân thủ pháp luật trong tất cả các lĩnh vực trên phạm vi cả nước. Thủ tướng Chính phủ đã nhất trí với những đánh giá của Bộ Tư pháp về tình hình, phương hướng, giải pháp chủ yếu về công tác TDTHTHPL nêu trong Báo cáo và chỉ đạo thực hiện đối với các kiến nghị, đề xuất trong việc tiếp tục triển khai thực hiện nhiệm vụ này(6).

4. Định hướng công tác TDTHTHPL năm 2015 và các giải pháp chủ yếu

4.1. Định hướng công tác TDTHTHPL

– Nghiên cứu, đánh giá toàn diện các quy định của pháp luật về TDTHTHPL để từ đó tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, pháp luật trong hoạt động này, đặc biệt là đề xuất ban hành Luật về TDTHTHPL.

– Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác TDTHTHPL đối với lĩnh vực quản lý nhà nước của từng bộ, ngành, trong đó tập trung vào lĩnh vực phức tạp, có nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành, ảnh hưởng lớn đến sản xuất, kinh doanh và cuộc sống của người dân.

– Chủ động tiếp nhận, xử lý thông tin của các cơ quan, tổ chức, cá nhân phản ánh về những vụ việc cụ thể trong quá trình thực hiện pháp luật, để từ đó gắn công tác xây dựng pháp luật với công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính và TDTHTHPL, kịp thời đề xuất giải pháp, phản ứng chính sách một cách hiệu quả.

– Khẩn trương, chú trọng việc kiện toàn bộ máy làm công tác TDTHTHPL tại các bộ, ngành, địa phương trên cơ sở quy định của Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV(7) của Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ, coi đó là một trong những nhiệm vụ trọng tâm năm 2015; mở rộng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác TDTHTHPL của các bộ, ngành, địa phương; chú trọng thiết lập và phát huy vai trò của mạng lưới cộng tác viên trong lĩnh vực TDTHTHPL.

– Nghiên cứu các vấn đề lý luận về TDTHTHPL, làm cơ sở cho việc đề xuất các chính sách, giải pháp hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng của công tác TDTHPL.

4.2. Các giải pháp chủ yếu

Một là,chủ động xây dựng, ban hành và tổ chức triển khai quyết liệt Kế hoạch TDTHPL trên cơ sở bám sát nội dung Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ; xác định lĩnh vực trọng tâm liên ngành thuộc vấn đề “nóng” trong đời sống kinh tế – xã hội để xây dựng kế hoạch và chỉ đạo quyết liệt triển khai thực hiện8; theo dõi chặt chẽ kết quả xử lý kiến nghị của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm tạo hiệu ứng tích cực trong xã hội;

Hai là,nâng cao trách nhiệm và hiệu quả phối hợp giữa của các bộ, ngành, địa phương trong công tác TDTHTHPL; thường xuyên kiểm tra tình hình thực hiện công tác TDTHTHPL nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn;

Ba là, tổ chức sơ kết, đánh giá toàn diện kết quả thi hành pháp luật về công tác TDTHTHPL, trong đó trọng tâm là Nghị định số 59/2012/NĐ-CP, từ đó tiếp tục đề xuất giải pháp thiết thực, hiệu quả trong việc hoàn thiện thế chế, pháp luật trong lĩnh vực này;

Bốn là, bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ có năng lực, kinh nghiệm nhằm thực hiện đồng bộ, toàn diện các quy định của pháp luật, cũng như kế hoạch TDTHTHPL trong phạm vi cả nước;

Năm là, phát triển mạng lưới cộng tác viên trên cơ sở thu hút sự tham gia rộng rãi của các tổ chức, cá nhân trong xã hội; chủ động tiếp nhận và kịp thời xử lý thông tin phản ánh về tình hình thi hành pháp luật để kịp thời tham mưu, đề xuất chính sách phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.Với vai trò là thiết chế bảo đảm thực thi hiệu quả, toàn diện các quy định của pháp luật, công tác TDTHTHPL cần được xác định là nhiệm vụ quan trọng, đòi hỏi Bộ Tư pháp, các bộ, ngành, địa phương tiếp tục có những nỗ lực, quan tâm tổ chức triển khai thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp trong thời gian tới, nhất là trong bối cảnh Hiến pháp năm 2013 đặt ra những yêu cầu mới trong cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, tổ chức thi hành và TDTHTHPL.

Tài liệu tham khảo:

1.Trước thời điểm nhiệm vụ TDTHPL được chuyển sang Cục QLXLVPHC&TDTHPL theo Quyết định số 717/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, thì Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật là đơn vị thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng quản lý công tác xây dựng pháp luật, theo dõi tình hình thi hành pháp luật và công tác pháp chế. Tuy nhiên, do Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật thời gian qua đã được giao thêm nhiều nhiệm vụ mới có khối lượng lớn và tính chất phức tạp; bên cạnh đó, nhiều nhiệm vụ do Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật đang thực hiện cũng có sự mở rộng về nội dung, yêu cầu, đối tượng và phạm vi quản lý… đã tạo nên những áp lực và thách thức, khó khăn cho Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật trong thực hiện nhiệm vụ.

Theo Quyết định số 1266/QĐ-BTP của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ngày 03/6/2014 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục QLXLVPHC&TDTHPL trên cơ sở Quyết định số 717/QĐ-TTg ngày 15/5/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Cục QLXLVPHC&TDTHPL trực thuộc Bộ Tư pháp, thì các tổ chức trực thuộc Cục giúp Cục trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước bao gồm: Văn phòng Cục; Phòng Quản lý xử lý vi phạm hành chính; Phòng Theo dõi thi hành pháp luật; Phòng Cơ sở dữ liệu xử lý vi phạm hành chính. Đơn vị sự nghiệp thuộc Cục có Trung tâm thông tin pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật.

2. Kết quả cụ thể: Năm 2014, Bộ Tư pháp đã giới thiệu, phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng nội dung liên quan đến công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật, trong đó tập trung vào các quy định của Nghị định số 59/2012/NĐ-CP, Thông tư số 14/2014/TT-BTP; tổ chức 03 Hội nghị tập huấn nghiệp vụ về theo dõi tình hình thi hành pháp luật; tổ chức 01 Hội nghị quán triệt nội dung Quy chế phối hợp giữa các đơn vị thuộc Bộ trong công tác theo dõi thi hành pháp luật; hoàn thành và đưa vào khai thác Trang thông tin về tình hình thi hành pháp luật (được tích hợp trên Cổng Thông tin điện tử của Bộ Tư pháp), các bộ, ngành, địa phương cũng đã tổ chức được 20 lớp tập huấn nghiệp vụ công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong năm 2014.

3. Ví dụ, năm 2014 có 27 địa phương đã ban hành kế hoạch riêng để triển khai theo dõi tình hình thi hành pháp luật về an toàn thực phẩm theo chuỗi sản phẩm rau, củ, quả và chè. Sau khi ban hành Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật, các bộ, ngành, địa phương đã tổ chức gần 2.000 đoàn kiểm tra tình hình thi hành pháp luật, gần 900 đợt điều tra, khảo sát, hội thảo, tọa đàm về theo dõi tình hình thi hành pháp luật, xử lý trên 400 lượt thông tin về tình hình thi hành pháp luật.

4. Kết quả tổng hợp báo cáo TDTHPL năm 2014 cho thấy, các bộ, ngành và địa phương đã phát hiện 43 văn bản quy phạm pháp luật có nội dung không bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, 44 văn bản không bảo đảm tính khả thi.

5. Thông tư số 14/2014/TT-BTP ngày 15/5/2014 quy định chi tiết thi hành Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ về theo dõi tình hình thi hành pháp luật.

6. Công văn số 2475/VPCP-PL ngày 13/4/2015 của Văn phòng Chính phủ về việc thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ về Báo cáo công tác theo dõi thi hành pháp luật năm 2014.

7. Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV ngày 22/12/2014 của Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

8. Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký Quyết định số 227/QĐ-BTP ngày 30/01/2015 ban hành Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật về chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả gửi các bộ, ngành, địa phương trong toàn quốc để chỉ đạo tập trung triển khai thống nhất lĩnh vực liên ngành đang “nóng” hiện nay.

Đối với lĩnh vực trọng tâm của Bộ Tư pháp, ngày 17/3/2015, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thúy Hiền đã ký Quyết định số 485/QĐ-BTP ban hành Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong cáclĩnh vực trọng tâm của Bộ Tư pháp năm 2015. Khác với kế hoạch triển khai công tác TDTHPL của Bộ Tư pháp những năm trước, năm 2015, Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch riêng để tổ chức theo dõi tình hình thi hành trong các lĩnh vực trọng tâm là các văn bản quy phạm pháp luật đã có hiệu lực từ 03 năm trở lên, có nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành. Theo đó, các lĩnh vực trọng tâm theo dõi tình hình thi hành pháp luật năm 2015 của Bộ Tư pháp gồm có: (1) Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, (2) Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, (3) Trợ giúp pháp lý và (4) Nuôi con nuôi

Đặng Thanh Sơn

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Cơ chế kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật

24/05/2015

Xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, công khai, minh bạch, dân chủ, làm cơ sở bảo đảm cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong khuôn khổ pháp luật suy cho cùng là nhằm thực hiện chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu trên, nhiều nhiệm vụ quan trọng được đặt ra, trong đó nhiệm vụ kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật đóng vai trò quan trọng. Từ khi chuyển giao công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật sang các cơ quan Chính phủ (năm 2003) đến nay, công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật đã được các bộ, ngành và địa phương quan tâm chỉ đạotriển khai thực hiện tương đối toàn diện và đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém, vướng mắc, bất cập như: Công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu; chưa được tiến hành thường xuyên; thẩm quyền, trách nhiệm chưa thực sự rõ ràng, rành mạch và chưa theo một cơ chế hoàn thiện, thống nhất, ổn định… Do đó, Việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế kiểm tra nhằm phát hiện nhanh chóng, xử lý kịp thời các nội dung trái pháp luật trong các văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật và theo đó hoàn thiện các điều kiện bảo đảm cho hoạt động kiểm tra văn bản là công việc cần được quan tâm chú trọng.

Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, kính mời độc giả tìm đọc bài viết “Cơ chế kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật” của tác giả Nguyễn Văn Tuấn đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Số định kỳ 64 trang tháng 6 năm 2015.

Ngô Huyền

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Nâng cao hiệu quả bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự

27/07/2015

Bán đấu giá tài sản là một công đoạn trong quá trình thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm đảm bảo cho nghĩa vụ trả tiền trong thi hành án dân sự. Với ý nghĩa là một biện pháp cưỡng chế nhằm bảo đảm thi hành án dân sự, đảm bảo quyền lợi của các bên, bán đấu giá cũng góp phần hoàn thiện thủ tục thi hành án dân sự. Sau 25 năm triển khai hoạt động bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự ở Việt Nam, hoạt động này đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hoạt động bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự vẫn còn hạn chế.Từ đó dẫn đến tình trạng khách hàng có tâm lý ngại mua tài sản bán đấu giá trong thi hành án dân sự, nhiều tài sản được đem ra đấu giá nhiều lần nhưng không có ai mua, mặc dù giá trị của nó lớn hơn nhiều so với giá khởi điểm mà doanh nghiệp bán đấu giá đề xuất

Để phát huy những kết quả đã đạt được trong thời qua và nâng cao hiệu quả của bán đấu giá tài sản trong thời gian tới, cần thiết phải nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống các vấn đề về bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.

Nhận thức được tầm quan trọng này, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật đã biên tập, đăng tải bài viết “Nâng cao hiệu quả bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự” của tác giả Bùi Thị Thu Hiền, trên Số chuyên đề 32 trang tháng 7/2015 về Thi hành án dân sự. Trong bài viết này, tác giả đã nêu và phân tích cụ thể về khái niệm bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự, một số đặc điểm của bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự, nguyên nhân của những bất cập và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật…

Thành Trung

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Mối quan hệ giữa một số chủ thể tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm

15/06/2015

1. Mối quan hệ giữa Hội đồng xét xử và Kiểm sát viên

Mối quan hệ giữa Hội đồng xét xử (HĐXX) và Kiểm sát viên (KSV) hiện thân nó biểu hiện mối quan hệ giữa cơ quan xét xử và cơ quan kiểm sát trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành. HĐXX do Tòa án lập ra để xét xử vụ án hình sự, còn KSV là người đại diện cho Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử tại phiên tòa.

Cụ thể về mối quan hệ giữa HĐXX và KSV biểu hiện ở hai bình diện là mối quan hệ phối hợp và mối quan hệ chế ước, cụ thể:

1.1. Mối quan hệ phối hợp

Thứ nhất, quan hệ phối hợp giữa HĐXX và KSV xuất phát từ mục đích, ý nghĩa của hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng. Mà cội rễ sâu xa của nó là mối quan hệ hữu cơ giữa chức năng xét xử và chức năng buộc tội. Không thể xét xử nếu không có sự buộc tội, hay nói cách khác ở đâu có buộc tội thì ở đó phát sinh hoạt động xét xử và bào chữa:

Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân phải có trách nhiệm phối hợp với nhau để giải quyết vụ án hình sự đúng đắn, khách quan theo luật định. Các cơ quan tiến hành tố tụng không những có trách nhiệm phối hợp với nhau mà còn phải phối hợp với các cơ quan nhà nước khác bằng những nội dung cụ thể, thiết thực theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003[1] dựa nguyên tắc xác định sự thật vụ án và nguyên tắc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với các cơ quan, tổ chức nhà nước. Bên cạnh đó, quan hệ phối hợp còn xuất phát từ yêu cầu phải thực hiện đúng đắn thẩm quyền của cơ quan và người tiến hành tố tụng; nhu cầu hoàn thiện pháp luật.

Một số văn bản pháp luật thể hiện mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát, như: Thông tư liên tịch số 01 ngày 8/12/1988 của TANDTC, VKSNDTC; Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 15/10/1994 của Bộ nội vụ (nay là Bộ Công an)- VKSNDTC- TANDTC; Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT- BCA- VKSNDTC- TANDTC; Thông tư số 01/2008/TTLT- VKSNDTC- TANDTC-BQP- BCA… Ở cấp địa phương để giải quyết những vấn đề thực tiễn vướng mắc trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng coi trọng việc xây dựng kế hoạch liên ngành[2]. Ngoài ra, họp liên ngành tư pháp cũng là một hình thức phối hợp linh động nhằm thống nhất giải quyết những vấn đề phức tạp đặc biệt đối với những vụ án hình sự còn có nhận thức khác nhau, hoặc cần rút kinh nghiệm về thủ tục tố tụng cụ thể nào đó[3]. Những năm gần đây, thực hiện yêu cầu của cải cách tư pháp, hạn chế tình trạng án tại hồ sơ, việc họp liên ngành có chiều hướng giảm; ý thức về tính độc lập trong hoạt động tố tụng hình sự ngày càng được nâng cao rõ rệt.

Thứ hai, quan hệ trong hoạt động tố tụng giữa Toà án và Viện kiểm sát còn nhằm tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, kiến nghị hoặc yêu cầu các cơ quan hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và phòng ngừa tội phạm.

Quan hệ phối hợp giữa HĐXX và KSV xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ tranh tụng tại phiên tòa. Một ví dụ cụ thể đó là việc phối hợp trong áp dụng các thủ tục xét xử tại phiên tòa: KSV buộc tội bằng cách xét hỏi, đưa ra chứng cứ, hoặc là KSV cùng HĐXX phải xem xét các yêu cầu, kiến nghị của bị cáo và người tham gia tố tụng khác đưa ra, hoặc thực hiện tranh luận với người bào chữa phải có sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa; HĐXX công bố tài liệu, vật chứng theo yêu cầu của KSV; xem xét vật chứng và nơi xảy ra tội phạm do HĐXX cùng KSV tiến hành… Hoạt động buộc tội hỗ trợ đắc lực cho chức năng xét xử, và ngược lại hoạt động xét xử tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động buộc tội.

1.2. Mối quan hệ chế ước

Từ điển Bách khoa Việt Nam nêu rõ: “Chế ước là hạn chế, quy định trong những điều kiện nhất định”[4]. “Khái niệm chế ước có thể được hiểu như là sự tác động qua lại giữa các bên theo hướng khống chếlẫn nhau, kiềm chế sự vận động của nhau”[5]. Ở góc độ hoạt động tố tụng hình sự, có thể hiểu chế ước là sự tác động qua lại giữa các hành vi tố tụng có chủ ý tạo ra mục đích rõ rệt của các chủ thể nhằm kiểm soát lẫn nhau, cơ bản là nhằm tuân thủ pháp luật, tránh lạm quyền.

Cụ thể hơn về mối quan hệ chế ước tại phiên tranh tụng được biểu hiện: KSV thực hiện việc buộc tội, nhưng phán quyết lại thuộc về HĐXX về tội trạng và mức hình phạt… Ngược lại HĐXX phán quyết phải đảm bảo đúng yêu cầu, giới hạn của xét xử, dựa trên chứng cứ khách quan được thu thập, và được đưa ra tranh tụng công khai trước tòa. Cũng có thể thấy KSV ngoài nhiệm vụ thực hành quyền công tố tại tòa, còn có chức năng giám sát việc tuân thủ pháp luật của HĐXX tại phiên toà. Trong quá trình xét xử, KSV có quyền đề nghị HĐXX triệu tập thêm người làm chứng, thay đổi thành viên HĐXX, yêu cầu HĐXX thực hiện đúng, đầy đủ các thủ tục xét xử tại tòa (như yêu cầu trở lại việc xét hỏi nếu có căn cứ…). Quan hệ chế ước giữa HĐXX và KSV phải trên cơ sở chức năng tố tụng của mỗi cơ quan, tuy nhiên, phải phù hợp và hỗ trợ đắc lực cho nguyên tắc tranh tụng, như nhận định: “Ở giai đoạn xét xử, tuy toà án (hoặc HĐXX) là cơ quan giữ vai trò chỉ đạo việc xét xử, là cơ quan quyết định quá trình xét xử, nhưng Viện kiểm sát và Toà án lại hoàn toàn độc lập với nhau. Mỗi cơ quan tự chịu trách nhiệm về công việc của mình. Toà án không làm thay hay can thiệp vào công việc của Viện kiểm sát (Kiểm sát viên) và ngược lại, VKS cũng không can thiệp vào công việc xét xử của Toà án, mặc dù Viện kiểm sát có quyền và trách nhiệm kiểm sát hoạt động xét xử của Toà án”[6].

Phân tích và dẫn chứng ở trên cho thấy: Trong quan hệ phối hợp cơ bản là để giải quyết những vướng mắc, bất cập trong hoạt động tố tụng hình sự. Trong quan hệ chế ước cơ bản là nhằm tránh lạm quyền trong thực hiện quyền năng tố tụng đối với Toà án và Viện kiểm sát. Trong xu thế cải cách tư pháp hiện nay, thiết nghĩ cần tiếp tục coi trọng quan hệ giữa HĐXX và KSV nói riêng, Tòa án và Viện kiểm sát nói chung để nhằm tháo gỡ vướng mắc, đạt được mục đích tố tụng và tránh lạm quyền. Tuy nhiên, cần xây dựng mối quan hệ đó theo hướng phải bảo đảm tính độc lập, thực hiện đúng đắn chức năng cơ bản của tố tụng và tăng cường hoạt động tranh tụng tại phiên xét xử sơ thẩm. Đặc biệt là ở quan hệ phối hợp cần tránh việc bao biện, thiện vị lẫn nhau giữa HĐXX và KSV, cần nhận thức và hành động đúng đắn là phối hợp nhưng không được tùy tiện làm trái thủ tục tố tụng, thẩm quyền tố tụng của ai thì người đó làm, luật quy định đến đâu thì làm đến đó và phải chịu trách nhiệm cá nhân nếu để xảy ra vi phạm.

2. Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên và Hội đồng xét xử đối với người bào chữa

Tính chất của hoạt động tố tụng hình sự, có tính đa chủ thể, đòi hỏi phải có sự tham gia từ phía cơ quan quyền lực công và cơ quan chuyên môn ở từng công đoạn giải quyết vụ án hình sự. Đề cập ở góc độ hẹp, KSV là người đại diện cho Viện kiểm sát thực hiện chức năng buộc tội, còn HĐXX đại diện cho Tòa án thực hiện chức năng xét xử, là các chủ thể đại diện cho quyền lực công; còn người bào chữa hoạt động mang tính chất nghề nghiệp, không nhân danh quyền lực công. Mối quan hệ giữa các chủ thể đó trong tố tụng hình sự được biểu hiện:

2.1. Mối quan hệ giữa KSV và người bào chữa là quan hệ đối tụng

Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, pháp luật quy định cho người bào chữa các quyền năng tố tụng có tính độc lập so với KSV, đó là, họ có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, bao gồm cả KSV, vì người bào chữa cho rằng nếu để KSV tham gia phiên tòa vụ án sẽ không khách quan, gây bất lợi cho họ; người bào chữa đề nghị triệu tập thêm người làm chứng và đưa ra các yêu cầu, kiến nghị khác, ví dụ như đưa ra chứng cứ để HĐXX xem xét mà không phụ thuộc vào KSV có chấp nhận hay không.

Trong phần thủ tục xét hỏi, KSV và người bào chữa đều được tham gia xét hỏi liên quan đến việc buộc tội và bào chữa đối với bị cáo và người tham gia tố tụng khác; đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm những tình tiết cần làm sáng tỏ trong vụ án, trình bày nhận xét của mình về chứng cứ của vụ án được đưa ra xem xét tại phiên tòa… Ở phần tranh luận, nếu như KSV luận tội và bảo vệ quan điểm truy tố, thì người bào chữa được đưa ra lập luận, lí lẽ phản bác để bảo vệ lợi ích cho bị cáo, và KSV phải đối đáp lại lời bào chữa. Đó là những hoạt động mang tính chất hiển nhiên do luật định không phụ thuộc vào ý chí của Kiểm sát viên. Cuộc tranh luận tại phiên tòa giữa một bên buộc tội và một bên bào chữa theo đúng nghĩa là bình đẳng và HĐXX không được can thiệp, không được hạn chế về mặt thời gian. Nó có tính gay gắt, tranh đấu liên tục. Là lúc chức năng buộc tội và chức năng bào chữa bộc lộ rõ nhất. Do đó nó có tính đối tụng rất cao.

2.2. Mối quan hệ giữa Hội đồng xét xử và người bào chữa là quan hệ chấp hành sự điều hành

Xuất phát từ yếu tố độc lập trong hoạt động xét xử của thẩm phán và hội thẩm nhân dân, do đó mối quan hệ giữa HĐXX và người bào chữa là quan hệ chấp hành sự điều hành. Biểu hiện cụ thể, đó là hoạt động tố tụng hình sự của người bào chữa mang tính phục tùng HĐXX, họ không được từ chối tham gia tố tụng trong trường hợp luật định. Trong quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên xét xử hình sự, người bào chữa phải phục tùng sự điều khiển của chủ tọa phiên tọa. Các yêu cầu, kiến nghị, đề xuất của họ tại phiên tranh tụng có thể không được HĐXX chấp nhận, nhưng vẫn phải chấp hành. Ví dụ như người bào chữa dù có quyền xét hỏi, tranh luận nhưng nếu việc này xảy ra lan man, không liên quan đến vụ án thì bị chủ tọa phiên tòa ngắt lời; hoặc như họ yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, yêu cầu hoãn phiên tòa, trả hồ sơ điều tra bổ sung nhưng không được HĐXX chấp nhận. Lý do của sự phục tùng của người bào chữa đối với HĐXX đề cập trên là xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ tố tụng riêng của các bên, đòi hỏi phải bảo đảm những mệnh lệnh, quyền hạn mang tính chất cưỡng chế trong tố tụng hình sự không thể chỉ trông chờ vào sự tự giác của cá nhân hay tổ chức nào khác.

Trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay, mối quan hệ giữa KSV và HĐXX với người bào chữa trong tố tụng hình sự cần được xây dựng theo hướng mở rộng hoạt động của người bào chữa, nâng cao vị thế của họ tại phiên tòa, nhằm đảm bảo việc xét xử theo nguyên tắc tranh tụng; đồng thời cần tạo tạo ra các cơ sở pháp lý đồng bộ để ngăn ngừa người bào chữa sa đà vào việc “mua chuộc” người tiến hành tố tụng làm ảnh hưởng đến uy tín, cũng như sự tin tưởng của người dân.

ThS.Nguyễn Ngọc Kiện

Khoa Luật, Đại học Huế



[1] Xem các nội dung phối hợp cụ thể tại Điều 26, Điều 27 BLTTHS năm 2003.

[2] Ví dụ: Kế hoạch số 01/KHLN ngày 12/7/2010 của CA- VKSND- TAND tỉnh Bình Dương về việc phối hợp tổ chức đợt tổng kiểm kê người có án phạt tù còn ở ngoài xã hội và người đang chấp hành hình phạt ở cấp xã.

[3] Ví dụ: Thông báo số 149/2009/TBLN-CAT-VKS-TA ngày 5/6/2009 về kết quả cuộc họp liên ngành Công an, Kiểm sát và Toà án tỉnh Bình Dương về việc thống nhất hướng dẫn giải quyết những vấn đề vướng mắc trong hoạt động TTHS.

[4] Trung tâm biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội , tr. 150.

[5]Đỗ Ngọc Quang (1997), Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra với các cơ quan tham gia TTHS, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 99.

[6] VKSNDTC (2006), Sổ tay Kiểm sát viên hình sự (tập I), Nxb Văn hoá dân tộc, Hà nội , tr. 46.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bán đấu giá tài sản trên địa bàn tỉnh Ninh Bình

21/08/2015

Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản (Nghị định số 17/2010/NĐ-CP) đã tạo ra những chuyển biến mới và tích cực cho hoạt động bán đấu giá tài sản trong phạm vi cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Ninh Bình nói riêng. Sau hơn 05 năm triển khai thi hành Nghị định số 17/2010/NĐ-CP với những kết quả đã đạt được cho thấy, xã hội hóa hoạt động bán đấu giá tài sản là hướng đi đúng đắn, cần được đẩy mạnh và phát triển sâu rộng hơn nữa.

Thực hiện xã hội hóa hoạt động bán đấu giá tài sản theo Nghị định số 17/2010/NĐ-CP, các tổ chức bán đấu giá tài sản trên địa bàn tỉnh Ninh Bình đã có bước phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng. Tính đến giữa năm 2015, toàn tỉnh có 03 tổ chức bán đấu giá tải sản với 06 đấu giá viên đang hoạt động, được trang bị đầy đủ kiến thức chuyên môn và phương tiện làm việc phục vụ cho công tác đấu giá. Hoạt động của các tổ chức bán đấu giá tài sản dần đi vào nề nếp, hướng tới chuyên nghiệp hóa, phục vụ đắc lực cho nhu cầu bán đấu giá tài sản của Nhà nước, tài sản của các tổ chức, cá nhân, góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách và tạo sự ổn định trật tự, kỷ cương cho hoạt động bán đấu giá tài sản. Chỉ tính riêng 06 tháng đầu năm 2015, Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh Ninh Bình và các doanh nghiệp bán đấu giá trên địa bàn tỉnh đã ký 39 hợp đồng bán đấu giá tài sản, bán đấu giá thành 33 hợp đồng với tổng giá trị khởi điểm 137.488.294.000đ, tổng giá trị bán đấu giá thành 170.671.626.000đ, chênh lệch so với giá khởi điểm là 13.223.362.000đ. Đây là kết quả đáng phấn khởi cho thấy thị trường bán đấu giá tài sản đã có những tín hiệu khởi sắc.

Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh Ninh Bình là đơn vị sự nghiệp duy nhất trực thuộc Sở Tư pháp có chức năng bán đấu giá tài sản trên địa bàn tỉnh. Sau khi triển khai Nghị định số 17/2010/NĐ-CP, phát huy những kết quả và kinh nghiệm qua các năm trước đó, trên nguyên tắc làm việc công khai, linh hoạt và hiệu quả, Trung tâm luôn là đơn vị dẫn đầu về số lượng hợp đồng bán đấu giá (chiếm khoảng trên 50% số lượng hợp đồng bán đấu giá trên toàn tỉnh). Trong đó, có nhiều hợp đồng đấu giá ở những địa phương có điều kiện kinh tế khó khăn, vùng sâu, vùng xa với tổng giá trị tài sản lên đến hàng chục tỷ đồng.

Đồng thời, với sự ra đời của các doanh nghiệp bán đấu giá tài sản trên địa bàn tỉnh đã tạo ra môi trường kinh doanh dịch vụ rộng mở và có sức hút, tạo được sức cạnh tranh trên thị trường bán đấu giá tài sản. Từ đó đặt ra yêu cầu cho mỗi đơn vị bán đấu giá phải nâng cao trình độ chuyên môn, đầu tư đổi mới trang thiết bị và hướng tới sự chuyên nghiệp hóa trong hoạt động chuyên môn của mình… từng bước nâng cao chất lượng của dịch vụ bán đấu giá tài sản.

Công ty dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh Ninh Bình là một trong những đơn vị đầu tiên được thành lập theo Luật Doanh nghiệp sau khi có NĐ 17/2010/NĐ-CP. Công ty sở hữu thế mạnh của một doanh nghiệp trẻ năng động với đội ngũ nhân sự được đào tạo chính quy về chuyên môn và kỹ năng làm việc chuyên nghiệp, vì thế tạo được uy tín trên thị trường bán đấu giá tỉnh nhà. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2015, số tiền bán đấu giá thu được là 146.687.036.000đ, đặc biệt giá trị chênh lệch so với giá khởi điểm là 13.010.744.000đ, là thành công đáng được ghi nhận của đơn vị, góp phần tăng thu ngân sách cho các địa phương trong tỉnh.

Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, công tác bán đấu giá tài sản trên địa bàn tỉnh Ninh Bình còn gặp không ít khó khăn. Các tổ chức bán đấu giá tài sản phân bổ chưa đều, chủ yếu tập trung ở khu vực thành phố có điều kiện phát triển về kinh tế – xã hội. Công tác chỉ đạo của các huyện, thành phố đối với hoạt động bán đấu giá tài sản, đặc biệt là bán đấu giá quyền sử dụng đất chưa được thường xuyên, liên tục. Việc thực hiện quy định của Nghị định về tổ chức bán đấu giá tài sản ở một số địa phương còn chưa nghiêm; còn tình trạng vi phạm thẩm quyền, trình tự, thủ tục bán đấu giá. Công tác phối hợp kiểm tra, đôn đốc và xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động bán đấu giá tài sản của các ngành, các cấp chưa chặt chẽ. Xuất hiện tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức bán đấu giá tài sản. Các tổ chức bán đấu giá tài sản còn hạn chế về số lượng, năng lực và sức cạnh tranh thấp, cơ sở vật chất, trụ sở của một số doanh nghiệp còn nhiều bất cập; đội ngũ đấu giá viên còn thiếu về số lượng, hạn chế về chất lượng.

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do hệ thống pháp luật bán đấu giá tài sản chưa hoàn thiện, thiếu những quy định, hướng dẫn cụ thể, dẫn đến việc tổ chức bán đấu giá tài sản ở một số địa phương trên địa bàn tỉnh còn nhiều lúng túng, một số nội dung chưa rõ ràng như: Quy định xã hội hoá hoạt động bán đấu giá tài sản chưa chặt chẽ; phát triển tổ chức đấu giá chưa theo quy hoạch, điều kiện thành lập doanh nghiệp đấu giá còn quá dễ; thiếu những chế tài mạnh xử lý các hành vi vi phạm trong đấu giá tài sản… Bên cạnh đó, nhận thức của một số ngành, Ủy ban nhân dân các cấp về bán đấu giá tài sản chưa đầy đủ, chưa có sự quan tâm chỉ đạo sát sao; địa phương chưa chủ động được nguồn đào tạo đấu giá viên; việc ký kết hợp đồng bán đấu giá tài sản là mối quan hệ hợp đồng dân sự nên công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực này gặp không ít trở ngại; quy định của pháp luật về thanh tra, kiểm tra hoạt động bán đấu giá tài sản còn bất cập…

Để đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động bán đấu giá tài sản trên địa bàn tỉnh, trong thời gian tới Sở Tư pháp sẽ tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền pháp luật về bán đấu giá tài sản; phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm về bán đấu giá tài sản; tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng về hoạt động bán đấu giá tài sản. Cùng với đó, Sở Tư pháp cũng kiến nghị cần sớm ban hành Luật Bán đấu giá tài sản; tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng pháp luật về bán đấu giá tài sản và các nghiệp vụ khác về công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản; bổ sung biên chế đối với tổ chức bổ trợ tư pháp để thực hiện tốt hơn công tác quản lý nhà nước về bán đấu giá tài sản.

Đoàn Thị Ngọc Hải

Sở Tư pháp tỉnh Ninh Bình

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Từ những quy định pháp luật về mang thai hộ – Quan niệm thế nào về “huyết thống” và “mẹ”

18/09/2015

Mang thai hộ được hiểu là một người phụ nữ này mang thai cho một cặp vợ chồng khác trên cơ sở lấy trứng (noãn) của người vợ và tinh trùng của người chồng bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm phát triển thành phôi, phôi này được cấy trở lại dạ con của người phụ nữ mang thai hộ, sau khi sinh, người phụ nữ này phải trao lại con cho cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ. Về mặt sinh học, mang thai hộ không có sự di truyền giữa người phụ nữ mang thai và đứa trẻ, đứa trẻ sẽ mang gen của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ, là máu mủ, ruột thịt, là huyết thống của cặp vợ chồng nhờ mang thai.

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã ghi nhận và cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, Luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2015. Để hướng dẫn thi hành những điều liên quan đến vấn đề mang thai hộ, ngày 28/01/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, Nghị định này có hiệu lực từ ngày 15/3/2015. Có thể thấy, những vấn đề pháp lý liên quan đến mang thai hộ đi vào cuộc sống chưa lâu, bản thân những quy phạm pháp luật này cũng chưa bộc lộ hết những hiệu quả cũng như những hạn chế của nó. Ở phương diện lý luận, cần thiết phải hiểu và hiểu đúng điều mà những quy phạm pháp luật này chứa đựng, bởi lẽ, quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh hết sức phức tạp và nhạy cảm, nó liên quan đến các quyền và lợi ích hợp pháp, các quyền nhân thân của con người, đến các mối quan hệ xã hội của con người trong đời sống thực tiễn.

Bài viết này không tìm hiểu về những quy phạm pháp luật liên quan đến vấn đề mang thai hộ, điều kiện mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của người có liên quan hay xử lý tranh chấp, vi phạm về mang thai hộ. Vấn đề cần làm rõ ở đây là luận giải, phân tích, từ đó đi đến thống nhất trong cách nhận thức khái niệm thế nào là “mẹ”, là “huyết thống” từ chế định mang thai hộ. Bởi lẽ, những khái niệm này liên quan trực tiếp đến những quy phạm pháp luật, quan hệ xã hội, quyền nhân thân của con người.

Về mặt sinh học, để gọi là mẹ thì bản thân người đó phải là người trực tiếp sinh nở ra chính con (đàn con) của mình; về mặt xã hội, ngoài yếu tố sinh học thì nó còn bao gồm cả ý nghĩa không những là người trực tiếp sinh ra mà nó bao hàm công nuôi dưỡng, công dưỡng dục. Trong nhận thức của con, người mẹ trước tiên là đấng sinh thành, sau đó là dưỡng dục, chưa bao giờ và không có ở bất cứ đâu trên đất nước Việt Nam này lại có sự phủ nhận về việc người đẻ ra chính đứa con của mình lại không được quyền xưng là mẹ của đứa trẻ đó và càng không có chuyện đứa trẻ từ chối gọi người sinh ra mình là mẹ. Trong mối quan hệ mẹ – con này, việc sinh đẻ của người mẹ vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ, bổn phận, trách nhiệm không thể tách rời, không thể chuyển hóa sang cho người khác được. Đó là quyền tự nhiên của chính bản thân người phụ nữ khi sinh nở, cũng là quyền tự nhiên của đứa trẻ khi chào đời, chúng ta chỉ có thể thừa nhận và bảo vệ nó trong đời sống thực tiễn.

Điều 94 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xác định cha, mẹ trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo quy định: “Con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ, kể từ thời điểm con được sinh ra”. Với việc quy định như vậy, chúng ta đã đương nhiên phủ nhận hoàn toàn quyền tự nhiên vốn có của người phụ nữ (người mang thai sinh ra đứa trẻ), tước đi quyền làm mẹ của bản thân họ và cũng tước đi nghĩa vụ, bổn phận làm con đối với đấng sinh thành. Chúng ta không nghĩ đến quan hệ của đứa trẻ và người sinh ra nó trong trường hợp mang thai hộ, quan hệ đó là quan hệ gì, đứa trẻ sẽ gọi người sinh ra nó là gì, sau này khi lớn lên, đứa trẻ biết được ai là người sinh ra mình, liệu nó có quyền gọi đó là mẹ của mình hay không? Nếu đứa trẻ gọi người sinh ra nó là mẹ thì lại không đúng vì pháp luật không cho phép, không thừa nhận, nếu không gọi thì dư luận xã hội lên án cho nó là người bội bạc, nhẫn tâm, thiếu đạo đức. Nhất là chúng ta lại quy định “người mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng”[1]. Đứa trẻ sẽ lớn lên như thế nào trong mối quan hệ phức tạp đó? Trong khoa học pháp lý, chúng ta chỉ có khái niệm về mẹ đẻ, mẹ vợ và mẹ nuôi (ngoài ra còn có các từ để gọi mẹ như bu, bầu, bầm, mế… là cách gọi của địa phương, nhưng cũng chỉ là cách gọi khác đi của từ mẹ đẻ). Trong quá trình sửa đổi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, thảo luận về vấn đề mang thai hộ, có ý cho rằng, nên gọi người phụ nữ mang thai hộ là “mẹ mang thai hộ”. Có ý kiến đồng tình nhưng phần nhiều là phản đối, bởi lẽ, trong nhận thức của con người, thì không có khái niệm nào là mẹ mang thai hộ và càng không thể gọi người mang thai hộ là mẹ. Luận giải, phân tích về vấn đề này không phải bác bỏ hay không ủng hộ chế định mang thai hộ, mà là để thấy được sự phức tạp, khó khăn của vấn đề, để có cái nhìn chính xác hơn, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp phù hợp. Bởi lẽ, làm rõ và hiểu đúng nội hàm của khái niệm “mẹ” còn liên quan đến vấn đề huyết thống.

Huyết thống được hiểu là quan hệ máu mủ, ruột thịt với nhau[2]. Như vậy, huyết thống trước hết là quan hệ về di truyền sinh học, là quan hệ giữa cha, mẹ và con. Về mặt sinh học, con là kết quả của quá trình thụ tinh giữa tinh trùng của người cha và trứng (noãn) của người mẹ, phát triển thành phôi, phôi đó được chính bản thân người mẹ nuôi dưỡng bằng các chất dinh dưỡng được truyền trong máu thông qua dây rốn và quá trình nuôi dưỡng đó trải qua một thời gian nhất định (chín tháng mười ngày), phôi đó phát triển hoàn thiện thành con người. Người mẹ phải trải qua một quá trình sinh nở hết sức khó khăn, thậm chí là nguy hiểm tới tính mạng của mình để sinh ra được đứa con. Huyết thống còn được hiểu là quan hệ ruột thịt với nhau như quan hệ anh chị và em, ông bà và cháu, cô, dì, chú, bác, cậu với các cháu, không có một quy định nào nói là quan hệ đến đời thứ mấy thì không còn được gọi là huyết thống, những quan hệ ruột thịt như vậy còn được gọi là quan hệ họ hàng.

Phải khẳng định rằng, quan hệ giữa đứa trẻ sinh ra và người mang thai hộ là quan hệ huyết thống. Từ quan niệm, cách nhìn nhận của xã hội, thì quan hệ đó không thể là quan hệ gì khác ngoài quan hệ mẹ – con. Tuy nhiên, quan hệ đó không được phản ánh trong khoa học pháp lý, dường như các nhà làm luật đã bỏ qua hoặc lờ đi mối quan hệ đó. Nếu đây không phải là quan hệ mẹ – con thì là quan hệ gì? Chắc chắn đó không phải là quan hệ xã hội thông thường. Việc xác định là quan hệ gì còn liên quan đến các quyền nhân thân, quyền dân sự, chính trị, các quan hệ xã hội mà đứa trẻ đó sẽ phải tham gia, ứng xử trong suốt cuộc đời của mình.

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định người mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng. Nếu như em gái hoặc chị gái mang thai hộ cho anh trai hoặc em trai mình thì hiện tượng này không phù hợp với quan niệm xã hội, trái với luân thường đạo lý, đi ngược lại với những quan niệm về chuẩn mực đạo đức, phong tục tập quán và bản thân nó có thể chứa đựng trong đó những yếu tố “loạn luân”. Bởi lẽ, không phải ở đâu hay người nào cũng nhận thức được đó chỉ là đẻ hộ, nhờ hay là mượn bụng của em gái (chị gái) để nuôi dưỡng bào thai đó trong một thời gian nhất định, nhất là đa phần người dân nông thôn chưa hiểu ý nghĩa của việc mang thai hộ cũng như phương pháp, kỹ thuật mang thai hộ. Họ chỉ nghĩ một cách đơn giản là những người trong họ hàng mà có con với nhau là loạn luân.

Từ phân tích trên, việc quy định đối tượng nào đủ điều kiện mang thai hộ là hết sức phức tạp, ảnh hưởng rất nhiều đến nhận thức của con người, đặc biệt là những quan niệm về “mẹ” và “huyết thống”. Không phải vì những yếu tố phức tạp đó mà chúng ta bỏ qua những ý nghĩa nhân văn, nhân đạo to lớn từ chế định mang thai hộ đem lại. Nếu vẫn quy định đối tượng mang thai hộ là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng thì cần thiết phải có sự tuyên truyền, phổ biến để mọi người hiểu đúng hơn, thậm chí là hiểu thêm về nội hàm của khái niệm “mẹ” và “huyết thống” trong điều kiện hiện nay. Tuy nhiên, những gì đã ăn sâu vào trong tiềm thức của con người, hiện hữu trong đời sống con người hàng ngàn năm nay thì không phải dễ mà thay đổi được trong tương lai gần. Nên chăng, chúng ta không quy định điều kiện “là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng” nữa, mà có thể là bạn bè hoặc một đối tượng nào đó do người nhờ mang thai hộ tìm kiếm và lựa chọn ở ngoài xã hội sẽ hợp lý hơn. Như vậy, chúng ta sẽ không có những băn khoăn về các mối quan hệ phát sinh từ chế định mang thai hộ, từ đó, chúng ta cũng sẽ có cách hiểu chính xác hơn như thế nào là “mẹ” và “huyết thống”.

Nguyễn Văn Lâm

Tài liệu tham khảo:

[1] Điểm a khoản 3 Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2] Đại Từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 1998, tr. 858.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015 – Cơ sở pháp lý bảo vệ tài nguyên, môi trường và phát triển bền vững biển, đảo Việt Nam

25/08/2015

1. Bối cảnh ra đời của Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015[1]

Việt Nam có chiều dài đường bờ biển trên 3.260 km, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa rộng gấp khoảng ba lần diện tích đất liền, chứa đựng nhiều hệ sinh thái quan trọng và nguồn tài nguyên, thiên nhiên phong phú, đa dạng. Mặc dù trong nhưng năm qua, việc quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên biển và hải đảo đã góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Tuy nhiên, do tài nguyên biển và hải đảo chủ yếu đang được quản lý theo ngành, lĩnh vực nên việc khai thác, sử dụng chưa dựa trên việc phân tích các chức năng của mỗi vùng biển một cách tổng thể; còn thiếu sự gắn kết, hài hòa lợi ích giữa các bên liên quan trong khai thác, sử dụng tài nguyên trên cùng một vùng biển. Mặt khác, các hoạt động trên biển có mối liên hệ, tác động nhất định đến nhau, cùng với tính chất liên thông của biển thì trong một số trường hợp, quản lý theo ngành, lĩnh vực với đặc điểm luôn tối đa hóa lợi ích của ngành, lĩnh vực mình mà không xem xét vấn đề khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên, môi trường biển và hải đảo một cách tổng thể đã làm hạn chế sự phát triển chung, làm suy thoái nhiều loại tài nguyên, nhất là tài nguyên tái tạo; tình trạng ô nhiễm môi trường biển và hải đảo có chiều hướng gia tăng; nhiều hệ sinh thái biển và hải đảo quan trọng đã bị tổn thương nghiêm trọng, dẫn tới sự nghèo nàn của nguồn lợi thủy sản.

Trước tình hình đó, ngày 06/3/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 25/2009/NĐ-CP về quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo. Tuy nhiên, qua hơn 6 năm thực hiện, hiệu quả thực hiện của Nghị định này còn hạn chế. Nghị định số 25/2009/NĐ-CP chưa thể chế hóa được đầy đủ nội hàm của công tác quản lý tổng hợp tài nguyên biển và hải đảo và do tính pháp lý thấp nên không thể định hướng, điều phối được các hoạt động quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên đã được các luật chuyên ngành quy định.

Để thể chế hóa các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 và Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, từng bước hoàn thiện pháp luật để quản lý hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo thì việc nhanh chóng xây dựng, ban hành các quy định về quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo với tầm pháp lý đủ mạnh để triển khai một cách có hiệu quả là yêu cầu bức thiết.

2. Một số nội dung cơ bản của Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015

Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015 gồm có 10 chương 81 điều với phạm vi điều chỉnh là quy định về quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và cá nhân trong quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo Việt Nam. Luật quy định về một số nội dung chính sau đây: (1) Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo quy định về: Nguyên tắc, căn cứ lập và kỳ chiến lược; nội dung của chiến lược; lập, thẩm định, phê duyệt và thực hiện chiến lược; (2) Điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; (3) Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ; chương trình quản lý tổng hợp tài nguyên vùng bờ; (4) Quản lý tài nguyên hải đảo quy định về: Yêu cầu quản lý tài nguyên hải đảo; lập, quản lý hồ sơ tài nguyên hải đảo; khai thác, sử dụng tài nguyên hải đảo; (5) Kiểm soát ô nhiễm, ứng phó sự cố tràn dầu, hóa chất độc và nhận chìm ở biển; (6) Quan trắc, giám sát tổng hợp và hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; (7) Hợp tác quốc tế về tài nguyên và môi trường biển và hải đảo; (9) Trách nhiệm quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo.

3. Vai trò, ý nghĩa của Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015 với việc bảo vệ tài nguyên, môi trường và phát triển bền vững biển, hải đảo Việt Nam

Theo phạm vi điều chỉnh, nội dung cơ bản của Luật tập trung quy định về các công cụ, cơ chế, chính sách điều phối, phối hợp liên ngành, liên vùng, nguyên tắc, nội dung phối hợp trong quản lý tổng hợp tài nguyên biển và hải đảo; quy định cụ thể về kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo, nhận chìm ở biển và quy định chi tiết về ứng phó sự cố tràn dầu, hóa chất độc trên biển. Trong đó có nhiều nguyên tắc, chế định quan trọng lần đầu tiên được ghi nhận, quy định trong pháp luật Việt Nam như nguyên tắc: Quản lý tổng hợp tài nguyên biển và hải đảo phải dựa trên tiếp cận hệ sinh thái, bảo đảm tài nguyên biển và hải đảo được khai thác, sử dụng phù hợp với chức năng của từng khu vực biển và trong giới hạn chịu tải của môi trường, hệ sinh thái biển, hải đảo; bảo đảm quyền tiếp cận của người dân với biển; các quy định về hành lang bảo vệ bờ biển, phân vùng khai thác, sử dụng tài nguyên vùng bờ, khai thác, sử dụng tài nguyên hải đảo, phân vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển và hải đảo, cấp Giấy phép nhận chìm ở biển…Với phạm vi điều chỉnh và những quy định mới được thể chế hóa thành luật đã tạo hành lang pháp lý cho việc bảo vệ tài nguyên, môi trường và phát triển bền vững biển, hải đảo Việt Nam. Điều này được thể hiện ở các khía cạnh cơ bản sau:

Thứ nhất, việc thông qua Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015 là một hoạt động lập pháp quan trọng nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan đến biển, đảo của nước ta. Cùng với Luật Biển Việt Nam năm 2012, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015 vận dụng hiểu quả, nhất quán những nguyên tắc quy định trong Công ước Luật Biển năm 1982 mà Việt Nam là thành viên nhằm bảo đảm cho việc sử dụng, quản lý, bảo vệ các vùng biển, đảo và phát triển kinh tế biển Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế và tăng cường hợp tác với các nước, vì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.

Thứ hai, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015 đã quy định rõ các hành vi bị nghiêm cấm tại Điều 8, cụ thể: (i) Khai thác, sử dụng tài nguyên biển và hải đảo trái quy định của pháp luật; (ii) Vi phạm quy hoạch, kế hoạch sử dụng biển, quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và công bố; (iii) Lợi dụng việc điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học, khai thác, sử dụng tài nguyên biển và hải đảo làm ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác; (iv) Thực hiện các hoạt động trong hành lang bảo vệ bờ biển quy định tại Điều 24 và trên quần đảo, đảo, bãi cạn lúc chìm lúc nổi, bãi ngầm phải bảo vệ, bảo tồn quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 41 của Luật này; (v) Hủy hoại, làm suy thoái môi trường, hệ sinh thái biển, hải đảo; (vi) Nhận chìm vật, chất ở vùng biển Việt Nam mà không có giấy phép, trái quy định của pháp luật; (vii) Cung cấp, khai thác, sử dụng thông tin, dữ liệu tài nguyên, môi trường biển và hải đảo không đúng quy định của pháp luật; (ix) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái quy định về quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo.

Đây là lần đầu tiên các hành vi bị nghiêm cấm thực hiện trên vùng biển và hải đảo Việt Nam được pháp điển hóa thành một điều luật trong một văn bản có giá trị pháp lý cao. Quy định này góp phần ngăn chặn các hành vi có nguy cơ gây thiệt hại đến môi trường biển và hải đảo; xâm phạm hệ sinh thái biển, hải đảo cũng như các hoạt động giữ vững an toàn, an ninh, chủ quyền quốc gia trên biển, hải đảo Việt Nam.

Thứ ba, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015 là cơ sở để kiểm soát ô nhiễm môi trường biển, hải đảo.

Vùng biển Việt Nam là vùng biển mới nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, là một trong những trục hàng hải có lưu lượng tàu bè qua lại rất lớn, trong đó 70% là tàu chở dầu. Vì vậy, nguy cơ ô nhiễm môi trường ở Việt Nam là rất cao. Thực tế đã xảy ra nhiều vụ tràn dầu, đặc biệt là ở khu vực biển miền Trung. Từ năm 1989 đến nay đã có hơn 100 vụ tràn dầu do tai nạn tàu, các vụ tai nạn đều đổ ra biển từ vài chục đến hàng trăm tấn dầu, chủ yếu là do quá trình vận chuyển dầu và va chạm tàu trên biển.

Sự cố tràn dầu gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hệ sinh thái. Đặc biệt là hệ sinh thái rừng ngập mặn, cỏ biển, vùng triều bãi cát, đầm phá và các rạn san hô. Ô nhiễm dầu làm giảm khả năng sức chống đỡ, tính linh hoạt và khả năng khôi phục của các hệ sinh thái. Hàm lượng dầu trong nước tăng cao, các màng dầu làm giảm khả năng trao đổi ô xy giữa không khí và nước, làm giảm ô xy trong nước, làm cán cân điều hóa ô xy trong hệ sinh thái bị đảo lộn. Ngoài ra, dầu tràn chứa độc tố làm tổn thương hệ sinh thái, có thể gây suy vong hệ sinh thái. Bởi dầu chứa nhiều thành phần khác nhau, làm biến đổi, phá hủy cấu trúc tế bào sinh vật, có khi gây chết cả quần thể. Dầu thấm vào cát, bùn ở ven biển có thể ảnh hưởng trong một thời gian rất dài. Đã có nhiều trường hợp các loài sinh vật chết hàng loạt do tác động của sự cố tràn dầu. Điều đáng báo động nữa là dầu lan trên biển và dạt vào bờ trong thời gian dài không được thu gom sẽ làm suy giảm lượng cá thể sinh vật, gây thiệt hại cho ngành khai thác và nuôi trồng thủy, hải sản. Dầu gây ô nhiễm môi trường nước làm cá chết hàng loạt do thiếu ôxy hòa tan. Dầu bám vào đất, kè đá, các bờ đảo làm mất mỹ quan, gây mùi khó chịu đẫn đến doanh thu của ngành du lịch cũng bị thiệt hại nặng nề. Nạn tràn dầu còn làm ảnh hưởng đến hoạt động của các cảng cá, cơ sở đóng mới và sửa chữa tàu biển. Do dầu trôi nổi làm hỏng máy móc, thiết bị khai thác tài nguyên và vận chuyển đường thủy[2].

Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015 đã dành riêng một mục ở Chương VI quy định về việc ứng phó sự cố tràn dầu, hóa chất độc hại trên biển. Theo đó, mục này quy định về: Nguyên tắc ứng phó, khắc phục sự cố; Phân cấp ứng phó sự cố; Xác định và thông báo khu vực hạn chế hoạt động; Tạm đình chỉ hoạt động đối với cơ sở gây sự cố; Trách nhiệm trong ứng phó sự cố tràn dầu, hóa chất độc hại trên biển. Với sự phân công rõ trách nhiệm của Ủy ban quốc gia tìm kiếm cứu nạn, Bộ Tài nguyên và môi trường, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, các bộ ngành có liên quan, Ủy ban nhân dân tỉnh và chủ cơ sở gây ra sự cố, việc ứng phó sự cố tràn dầu và các chất độc hại trong thời gian tới chắc chắn sẽ có nhiều chuyển biển theo hướng tích cực, góp phần khắc phục tối đa những thiệt hại do dầu tràn gây ra đối với các vùng biển Việt Nam.

Bên cạnh đó, để bảo vệ tài nguyên, môi trường biển, Luật cũng quy định về việc nhận chìm ở biển tại mục 3 Chương VI. Theo đó, hoạt động nhận chìm ở biển chỉ được tiến hành khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép và được quản lý, kiểm soát chặt chẽ. Vật chất được nhận chìm ở biển phải đảm bảo các yêu cầu: Không chứa chất phón xạ, chất độc vượt quy chuẩn kỹ thuật an toàn bức xạ, quy chuẩn kỹ thuật môi trường; Được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường, bảo đảm không tác động có hại đến sức khỏe con người, môi trường, hệ sinh thái, nguồn lợi hải sản; Không thể đổ thải, lưu giữ, xử lý trên đất liền hoặc việc đổ thải, lưu giữ, xử lý trên đất liền không hiệu quả về kinh tế – xã hội; Thuộc Danh mục vật, chất được nhận chìm ở biển. Với những quy định như vậy, các hoạt động nhận chìm ở biển trong thời gian tới sẽ được quản lý và kiểm soát chặt chẽ tranh những tổn thương cho hệ sinh thái biển, ảnh hưởng đến việc khai thác các tiềm năng của biển mang lại.

Thứ , Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015 quy định cụ thể về các công cụ, cơ chế, chính sách điều phối, phối hợp liên ngành, liên vùng, nguyên tắc, nội dung phối hợp trong quản lý tổng hợp tài nguyên biển và hải đảo.

Mặc dù Chính phủ đã ban hành Nghị định số 25/2009/NĐ-CP ngày 06/3/2009 về quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo nhưng chưa thể chế hóa được đầy đủ nội hàm của công tác quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo do tính pháp lý thấp, không thể định hướng, điều phối được các hoạt động quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên đã được các luật chuyên ngành quy định. Còn Luật Biển Việt Nam năm 2012 mới chỉ đề cập đến một số nội dung liên quan đến quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, nhiều nội dung quy định còn thiếu, chưa đầy đủ và đồng bộ. Đến Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015 thì tất cả những nội dung, vấn đề quan trọng của quản lý tổng hợp tài nguyên biển và hải đảo được quy định trong Luật là: Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo; quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ; chương trình quản lý tổng hợp tài nguyên vùng bờ; phân vùng khai thác, sử dụng tài nguyên vùng bờ; chương trình trọng điểm điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; phân vùng rủi ro ô nhiễm biển và hải đảo; quản lý tài nguyên hải đảo; hệ thống quan trắc, giám sát tổng hợp, thông tin, cơ sở dữ liệu về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo…

Thực thi phương thức quản lý tổng hợp, tài nguyên biển và hải đảo sẽ được quản lý thống nhất theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; bảo đảm tài nguyên biển và hải đảo được khai thác, sử dụng phù hợp với chức năng của từng khu vực biển và trong giới hạn chịu tải của môi trường, hệ sinh thái biển, hải đảo; bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp; bảo đảm quyền tiếp cận của người dân với biển, tạo điều kiện thuận lợi để cộng đồng dân cư, tổ chức, cá nhân có liên quan tham gia tích cực và hiệu quả trong quá trình quản lý.

Phương thức quản lý tổng hợp tài nguyên biển và hải đảo thể chế hóa trong Luật bảo đảm yêu cầu không làm thay quản lý ngành, lĩnh vực mà đóng vai trò điều phối, phối hợp các hoạt động quản lý ngành, lĩnh vực nhằm quản lý có hiệu quả hơn các hoạt động điều tra, thăm dò, khai thác, sử dụng các loại tài nguyên biển và hải đảo; bảo vệ tính toàn vẹn về chức năng và cấu trúc của hệ sinh thái, duy trì và cải thiện năng suất của hệ sinh thái, qua đó, bảo đảm tài nguyên biển và hải đảo được quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm, môi trường biển được bảo vệ; hài hòa được lợi ích của các bên liên quan trong khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo.

Thứ năm, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015 góp phần nâng cao hoạt động nghiên cứu khoa học biển và bảo vệ an ninh trên các vùng biển, hải đảo.

Hoạt động nghiên cứu khoa học biển được Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015 quy định tại Chương III (Điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo). Bên cạnh việc cấp phép cho các tổ chức Việt Nam tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học biển thì vấn đề hợp tác quốc tế trong công tác này cũng được chú trọng. Trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, hợp tác quốc tế trong nghiên cứu biển là rất cần thiết, trước tiên là giúp các nhà khoa học Việt Nam nhanh chóng tiếp cận được với các tiến bộ khoa học kỹ thuật của thế giới, học hỏi được kinh nghiệm và kỹ năng tổ chức các công việc nghiên cứu trên biển, thu nhận các tư liệu, thông tin quan trọng do các đối tác nước ngoài cung cấp thông qua hợp tác.Hơn nữa hợp tác quốc tế cũng đồng thời góp phần làm lành mạnh các mối quan hệ phức tạp và căng thẳng trên Biển Đông, giúp Việt Nam tỏ rõ thiện chí của mình trong quá trình hội nhập toàn cầu, góp phần hiện thực hóa các qui định, thỏa thuận và luật pháp quốc tế về biển. Đặc biệt, trước tình hình phức tạp ở biển Đông hiện nay, Việt Nam cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế, chủ động, sáng tạo trong tham gia các chương trình, dự án nghiên cứu về biển của thế giới và khu vực. Đồng thời, Việt Nam cần tạo ra được một trật tự pháp lý trên vùng biển quốc gia để lập lại kỷ cương trong hoạt động khai thác, sử dụng biển, đảo, đồng thời phải hỗ trợ khả năng hội nhập quốc tế phù hợp với tinh thần chung của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS)[3].

Cùng với đó để bảo vệ an ninh chủ quyền quốc gia, bảo vệ môi trường biển và hải đảo, Luật cũng quy định rõ những nghĩa vụ mà các tổ chức, cá nhân nước ngoài phải thực hiện khi tiến hành các hoạt động nghiên cứu khoa học trên các vùng biển Việt Nam: (i) Tôn trọng độc lập, chủ quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; chỉ được tiến hành các hoạt động nghiên cứu khoa học vì mục đích hòa bình; không được tiến hành hoạt động khác ngoài các hoạt động nghiên cứu khoa học theo nội dung đã được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp phép; (ii) Tuân thủ các quy định về an ninh, an toàn hàng hải; thiết lập khu vực an toàn hàng hải xung quanh thiết bị nghiên cứu; báo hiệu hàng hải; duy trì liên lạc và tuân thủ các quy định khác của pháp luật về hàng hải của Việt Nam; (iii) Không được làm ảnh hưởng đến hoạt động quốc phòng, an ninh của Việt Nam và các hoạt động điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học, thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên, môi trường biển và hải đảo đang được tiến hành hợp pháp trong vùng biển Việt Nam; không được mang vào vùng biển Việt Nam vũ khí, vật liệu nổ, hóa chất độc, các phương tiện, thiết bị khác có khả năng gây thiệt hại đối với người, tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường biển, trừ trường hợp vật liệu nổ, hóa chất độc được cơ quan có thẩm quyền cấp phép cho phép sử dụng để thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học; (iv) Tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường, phục hồi môi trường và bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật Việt Nam trong trường hợp hoạt động nghiên cứu khoa học gây ô nhiễm, suy thoái môi trường, hệ sinh thái biển, hải đảo; (v) Hoạt động nghiên cứu khoa học phải được thực hiện với phương thức và phương tiện thích hợp, phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan; (vi) Bảo đảm các điều kiện làm việc cần thiết bao gồm cả chi phí cho ít nhất 02 nhà khoa học được cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam cử tham gia nghiên cứu; (vii) Phải thông báo ngay cho Bộ Tài nguyên và Môi trường khi có bất cứ thay đổi nào trong quá trình nghiên cứu khoa học so với nội dung, thời hạn đã được cấp phép và chỉ được thực hiện sự thay đổi đó sau khi có sự đồng ý bằng văn bản của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường; (viii) Khi kết thúc hoạt động nghiên cứu khoa học, tổ chức, cá nhân nước ngoài phải báo cáo kết quả nghiên cứu sơ bộ cho Bộ Tài nguyên và Môi trường; trong thời hạn không quá 30 ngày, trừ trường hợp bất khả kháng hoặc có thỏa thuận khác, phải hoàn thành việc tháo dỡ và đưa ra khỏi vùng biển Việt Nam các phương tiện, thiết bị nghiên cứu khoa học; (ix) Trong thời hạn không quá 06 tháng kể từ khi kết thúc hoạt động nghiên cứu khoa học theo nội dung đã được cấp phép, tổ chức, cá nhân nước ngoài phải có báo cáo chính thức về kết quả nghiên cứu khoa học và cung cấp các tài liệu, mẫu vật gốc cho Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Trong thời gian tới, triển khai thi hành Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo vào cuộc sống sẽ giúp từng bước khắc phục các xung đột, mâu thuẫn trong quản lý theo ngành, lĩnh vực trong thời gian qua; giúp cho việc sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và các hệ sinh thái biển và hải đảo, bảo đảm phát triển bền vững biển và hải đảo; là hành lang pháp lý quan trọng tạo bước đột phá trong quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo, góp phần sớm đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, thực hiện thắng lợi Chiến lược biển Việt Nam năm 2020[4].

Quỳnh Vũ



[1]Giới thiệu Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, Tài liệu họp báo Công bố Luật ngày 17/7/2015.

[2]Những hậu quả ô nhiễm môi trường biển do tràn dầu, đăng tải trên trang web http://www.vietnamplus.vn/nhung-hau-qua-o-nhiem-moi-truong-bien-do-tran-dau/173158.vnp

[3]Nghiên cứu khoa học về biển – Tình yêu và trách nhiệm, đăng tải trên trang web http://www.vietnamplus.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-ve-bien-tinh-yeu-va-trach-nhiem/264188.vnp

[4]Giới thiệu Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, Tài liệu họp báo Công bố Luật ngày 17/7/2015.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Trao đổi về vấn đề xử lý vật chứng, tài sản trong thi hành án dân sự

07/10/2015

Hoạt động nghiệp vụ thi hành án dân sự là lĩnh vực tương đối rộng, liên quan đến hầu hết các ngành luật như: Luật dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, hôn nhân và gia đình, đất đai và nhiều ngành luật khác. Để thực hiện tốt công tác thi hành án dân sự, đòi hỏi chấp hành viên, công chức thi hành án dân sự, ngoài việc nắm chắc các quy định của Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn, còn phải có nhận thức sâu sắc đối với các ngành, lĩnh vực có liên quan; có kiến thức xã hội sâu rộng, kỹ năng và uy tín trong việc hòa giải, thuyết phục người được thi hành án, người phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án, có khả năng giao tiếp, ứng xử nhanh đối với các tình tiết phát sinh trong quá trình thực thi công vụ. Khó khăn, vướng mắc trong hoạt động thi hành án dân sự vẫn còn nhiều, một số vấn đề các chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự địa phương có thể tìm cách hạn chế hoặc khắc phục được, tuy nhiên những vướng mắc từ các quy định của pháp luật, muốn khắc phục thì phải đòi hỏi thời gian khá dài vì những vấn đề bất cập từ cơ chế, chính sách, không thể thực hiện ngắn hạn, mặt khác thẩm quyền thuộc về cơ quan ban hành, ngoài khả năng của chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự địa phương; có những vấn đề pháp luật còn quy định chung chung, chưa cụ thể, thậm chí có vấn đề pháp luật chưa quy định, do vậy ảnh hưởng trực tiếp đến tiến trình giải quyết án đối với các cơ quan thi hành án dân sự.

Dưới đây là một số vấn đề còn tranh cãi trong thực tiễn thi hành án dân sự.

1. Vấn đề xử lý vật chứng

Đối với việc xử lý vật chứng của vụ án sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, cơ quan thi hành án tiến hành xử lý hầu như không có vướng mắc, khó khăn. Song đối với việc xử lý vật chứng của vụ án khi mà bị can chết ở giai đoạn truy tố thì Quyết định đình chỉ vụ án của cơ quan Viện kiểm sát vẫn còn có những ý kiến khác nhau.

Quan điểm thứ nhất cho rằng:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về xử lý vật chứng thì: “Việc xử lý vật chứng do cơ quan điều tra quyết định, nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn điều tra; do Viện kiểm sát quyết định, nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn truy tố; do Toà án hoặc Hội đồng xét xử quyết định ở giai đoạn xét xử”.

Theo quy định tại Điều 1 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, cơ quan thi hành án dân sự chỉ “thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Toà án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài thương mại”.

Như vậy, nếu bị can chết trong giai đoạn truy tố, việc xử lý vật chứng thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát. Chức năng của cơ quan thi hành án dân sự là thực thi những phán quyết về mặt dân sự của các cơ quan tài phán. Việc chuyển giao quyết định xử lý vật chứng của Viện kiểm sát cho cơ quan thi hành án dân sự để xử lý là không đúng, cơ quan thi hành án dân sự không có căn cứ để ban hành Quyết định thi hành án đối với trường hợp này.

Quan điểm thứ 2 lại cho rằng:

Theo quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ban hành ngày 24/11/2014 thì chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân được quy định tại Điều 2, cụ thể như sau: “1. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; 2. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.

Viện kiểm sát không có chức năng, nhiệm vụ xử lý vật chứng của vụ án, chức năng này thuộc về cơ quan thi hành án dân sự, không phải ngẫu nhiên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vật chứng đã được chuyển sang cơ quan thi hành án dân sự để trông giữ, bảo quản. Mặt khác tại Điều 36 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định:

1. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành đối với phần bản án, quyết định sau đây:

a) Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí;

b) Trả lại tiền, tài sản cho đương sự;

c) Tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu huỷ vật chứng, tài sản;

d) Thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà nước;

đ) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Nếu theo quan điểm 2, phải chăng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 đang có sự xung đột pháp luật. Theo chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thi hành án dân sự thì ngoài việc thực thi phần dân sự trong các bản án, quyết định của cơ quan tài phán, còn phải thực thi các quyết định của cơ quan Viện kiểm sát, thậm chí của cơ quan Công an?

2.Vấn đề xác định vật cùng loại, hay vật đặc định

Xin nêu một trường hợp: Bản án dân sự xét xử việc tranh chấp tài sản giữa A và B. Quyết định của Bản án tuyên A phải trả cho B “một con bò 24 tháng tuổi, màu đen, trên đầu có hình trái tim màu trắng, trị giá 10 triệu đồng”. Bản án có hiệu lực thi hành, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự thụ lý và ra quyết định thi hành án. Trong quá trình thi hành án, chấp hành viên tiến hành xác minh tài sản để tổ chức giao tài sản cho người được thi hành án, tài sản để thi hành án hiện không còn, theo người phải thi hành án cung cấp thông tin thì con bò phải giao cho người được thi hành án đã chết.

Quan điểm của chấp hành viên trực tiếp giải quyết việc thi hành án xác định con bò phải giao cho người được thi hành án là vật đặc định. Theo quy định tại Điều 179 Bộ Luật Dân sự năm 2005 thì: “Vật đặc định là vật phân biệt được với các vật khác bằng những đặc điểm riêng về ký hiệu, hình dáng, màu sắc, chất liệu, đặc tính, vị trí. Khi thực hiện nghĩa vụ chuyển giao vật đặc định thì phải giao đúng vật đó”.

Áp dụng điểm d, khoản 1 Điều 51 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự trả đơn yêu cầu thi hành án với lý do vật đặc định không còn. Người được thi hành án không đồng ý với quyết định trả đơn của thủ trưởng cơ quan thi hành án và cho rằng, con bò trả cho người được thi hành án là vật cùng loại vì: “Vật cùng loại là những vật có cùng hình dáng, tính chất, tính năng sử dụng và xác định được bằng những đơn vị đo lường; Vật cùng loại có cùng chất lượng có thể thay thế cho nhau”.

Người phải thi hành án lập luận: Con bò là vật cùng loại vì có cùng hình dáng với những con bò khác, có thể thay thế được. Trong bản án cũng xác định con bò là 12 tháng tuổi, xác định về giá trị là 10 triệu đồng (đây chính là đơn vị đo lường). Do vậy, nếu con bò chết hoặc mất khi người phải thi hành án chưa tiến hành giao trả người được thi hành án, thì thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự trả đơn yêu cầu thi hành án là không có căn cứ pháp luật. Trong trường hợp này cơ quan thi hành án dân sự phải tiếp tục tổ chức thi hành án.

3. Vấn đề xử lý tài sản giao cho người được thi hành án do người thứ 3 đang quản lý, sử dụng

Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện X, xét xử việc yêu cầu ly hôn giữa anh A và chị B, trong đó có yêu cầu phân chia tài sản chung vợ, chồng.

Trước thời điểm kết hôn với anh A, chị B đã có ngôi nhà 2 tầng, xây dựng trên diện tích 50 m2 , tại thành phố Hà Nội. Năm 2000, anh A kết hôn với chị B; năm 2001, A và B cùng mua một ngôi nhà 3 tầng trên diện tích đất 100 m 2, tại phường N, thành phố Đ, trị giá 1.500.000.000 đồng, đứng tên chị B và một mảnh đất 100 m2 tại phường T, thành phố Đ trị giá 600 triệu đồng, đứng tên chủ sở hữu 2 vợ chồng. Theo chị B cung cấp thông tin trước Tòa, số tiền mua ngôi nhà tại phường N là do chị đã bán ngôi nhà 2 tầng, xây dựng trên diện tích 50 m2 tại thành phố Hà Nội, tài sản do chị tạo lập, có trước khi kết hôn với anh A. Tòa án đã tiến hành xác minh số tiền chị B bán nhà này (thông qua người mua nhà tại thành phố Hà Nội, số tiền chuyển vào tài khoản của người đã bán nhà cho chị B ở phường N là 1.200.000.000 đồng, khớp với thông tin chị B cung cấp trước Tòa, số tiền 300.000.000 đồng còn thiếu, chị B đã vay để trả đủ cho người bán nhà), nhà và đất hiện vẫn đứng tên chủ sở hữu là chị B. Anh A cho rằng tất cả số tài sản trên là tài sản chung vợ, chồng, ngoài ra, còn một số khoản nợ do 2 vợ chồng vay để kinh doanh, tổng giá trị 600 triệu đồng.

Tòa án cấp sơ thẩm quyết định: Nhà, đất tại phường N, thành phố Đ là tài sản riêng của chị B, giao chị B quản lý sử dụng; 100 m2 đất tại phường T, thành phố Đ trị giá 600 triệu đồng là tài sản chung vợ chồng, tài sản do công sức của 2 vợ chồng cùng tạo lập, mỗi người được hưởng ½ giá trị. Tuy nhiên A và B còn nợ 600 triệu mỗi người có trách nhiệm trả nợ 300 triệu đồng, hiện tại A không có khả năng trả nợ, các khoản nợ đều đến hạn trả, do vậy, chị B đề nghị Tòa rằng chị B có trách nhiệm trả hết các khoản nợ cả 2 người đã vay và được quyền quản lý 100 m2 tại phường T. Yêu cầu của chị B được Tòa chấp thuận và quyết định giao chị B quản lý sử dụng 100 m2 đất tại phường T, chị B có trách nhiệm trả nợ 600 triệu đồng do A và B đã vay kinh doanh trong thời kỳ hôn nhân.

Anh A không đồng ý với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, kháng cáo lên Tòa án tỉnh đề nghị xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Trong thời gian đó, chị B đã mang Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm đến đề nghị công chứng viên, công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng mảnh đất 100 m2 tại phường T cho ông C, cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng mảnh đất này mang tên ông C.

Bản án phúc thẩm của Tòa án tỉnh cho rằng: Ngôi nhà 3 tầng trên diện tích 100 m2 tại phường N, tỉnh Đ được xác lập quyền sở hữu trong thời kỳ hôn nhân giữa anh A, chị B năm 2001, mặc dù mang tên chị B nhưng là tài sản chung vợ, chồng; mảnh đất 100 m2 tại phường T, thành phố Đ, 2 vợ chồng A và B mua trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung. Do vậy, Tòa quyết định khối tài sản bao gồm: Ngôi nhà 3 tầng xây dựng trên diện tích đất 100 m2 tại phường N và 100 m2 tại phường T, tỉnh Đ là tài sản chung vợ, chồng, mỗi người được hưởng ½ giá trị tài sản; các khoản nợ tổng cộng là 600 triệu, mỗi người có trách nhiệm phải trả 300 triệu đồng. Tuy nhiên khi phân chia tài sản ngôi nhà 3 tầng xây dựng trên diện tích 100 m2 tại phường N, Tòa cũng tính đến công sức đóng góp của người vợ, song chưa tính toán chi tiết đến mức đóng góp cụ thể của từng người là bao nhiêu, để tính toán mức hưởng theo kỷ phần. Mặt khác, mức được hưởng của từng người là khác nhau, Tòa phải chia khối tài sản cho từng người, sau đó trừ đi số nợ từng người phải chịu, nhưng ở đây, Tòa quyết định trừ số nợ của 2 vợ chồng sau đó mới đem chia số còn lại cho từng người (theo lập luận của người phải thi hành án . Theo phán quyết của Bản án phúc thẩm, chị B được giao quản lý sử dụng ngôi nhà 3 tầng, xây dựng trên diện tích 100 m2 đất tại phường N và phải trả toàn bộ số nợ 600 triệu đồng, anh A được toàn quyền quản lý, sử dụng mảnh đất 100 m2, tại phường N, mặc dù mảnh đất đã được chuyển nhượng cho ông C trước thời điểm xét xử bản án phúc thẩm.

Chị B không đồng ý với phán quyết của Tòa án, tiếp tục khiếu kiện, anh A cũng khởi kiện ra Tòa án hành chính yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông C, mà Ủy ban nhân dân cấp huyện đã cấp. Tòa hành chính đã hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông C, song hợp đồng công chứng chuyển quyền sử dụng đất giữa chị B và ông C vẫn chưa được yêu cầu tuyên hủy.

Trong quá trình tổ chức thi hành án, chấp hành viên xác định 100 m2 đất giao cho anh A theo quyết định của bản án phúc thẩm, đã bị chị B bán cho ông C trước thời điểm xét xử phúc thẩm và đã được ông C xây dựng ngôi nhà 2 tầng trên diện tích 100 m2 đó, hiện giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông C đã bị Tòa hành chính cấp sơ thẩm tuyên hủy, nhưng hợp đồng công chứng vẫn đang có hiệu lực, do vậy, chấp hành viên không thể tổ chức cưỡng chế, tháo dỡ giao trả mặt bằng đất cho anh A. Các đương sự và người có quyền lợi liên quan liên tục khiếu kiện quyết định của Bản án và việc tổ chức thi hành án của chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự.

Vấn đề đặt ra trong quá trình xét xử có vi phạm tố tụng không, hay đây là tình tiết mới phát sinh; các cơ quan có thẩm quyền, các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án cấp trên xem xét lại bản án theo trình tự thủ tục tái thẩm hay giám đốc thẩm; việc xử lý tài sản để giao cho người được thi hành án do người thứ 3 đang nắm giữ, trong trường hợp này như thế nào?

Để nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả của công tác thi hành án dân sự, giảm bớt những khó khăn, áp lực đối với các chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự, rất mong được sự chia sẻ cùng bạn đọc.

Trần Ngọc Bản

Cục Thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quyền trẻ em trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

18/09/2015

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 19/6/2014 đã bao quát tương đối toàn diện và kịp thời điều chỉnh các quan hệ thuộc lĩnh vực hôn nhân và gia đình đang diễn ra trong thực tế đời sống xã hội, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Luật này có nhiều điểm mới so với những quy định trước đây về lĩnh vực hôn nhân và gia đình, đặc biệt là những quy định liên quan đến quyền trẻ em. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã dành nhiều điều khoản quy định trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em với tư cách là chủ thể đặc biệt trong quan hệ hôn nhân và gia đình.

Ngay trong các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình, Luật đã nhấn mạnh về mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình nhằm hướng tới xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững; bảo vệ tốt hơn các quyền con người, quyền công dân, đặc biệt là quyền của phụ nữ và trẻ em trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Luật quy định “xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đình…”[1].

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đặc biệt lưu ý bảo vệ quyền của trẻ em trong những vụ việc giải quyết hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật và trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con được giải quyết theo quy định về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con khi ly hôn, theo đó, Luật quy định cụ thể việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn được áp dụng theo quy định tại các Điều 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014[2].

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng đã ghi nhận quyền được bày tỏ ý kiến của trẻ em mong muốn được sống chung với cha hoặc mẹ trong trường hợp cha mẹ ly hôn hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con. Pháp luật trước đây quy định việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau ly hôn nếu vợ, chồng không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi, căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì xem xét nguyện vọng của con. Như vậy, việc bày tỏ ý chí của trẻ em không mang tính quyết định trong việc giao con cho ai nuôi khi cha, mẹ ly hôn hay thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi cha, mẹ ly hôn mà việc xem xét quyền lợi mọi mặt của con mới là yếu tố quyết định. Do vậy, Luật đã quy định cụ thể hơn quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đối với con trường hợp cha mẹ ly hôn phù hợp hơn với thực tế đời sống gia đình Việt Nam, đồng bộ với pháp luật có liên quan. Luật đã hạ độ tuổi trẻ em từ chín tuổi xuống còn bảy tuổi được bày tỏ ý chí của mình trong một số quan hệ hôn nhân và gia đình mà không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác, đồng thời quy định như vậy là bảo đảm sự hài hòa giữa Luật Hôn nhân và gia đình với Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ bảy tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”; “Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ bảy tuổi trở lên”[3].

Một trong những điểm mới, nổi bật của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là quy định về chế định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Luật đã quy định khá chặt chẽ về các điều kiện pháp lý để công nhận việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; quy định cụ thể nội dung thỏa thuận về mang thai hộ; về quyền, nghĩa vụ của bên mang thai hộ; quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ; về giải quyết tranh chấp liên quan đến việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; xử lý hành vi vi phạm về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và mang thai hộ; thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con; người có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ, con. Việc quy định chặt chẽ như vậy nhằm bảo đảm quyền được sống chung với cha mẹ của trẻ em; quyền được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng như các quyền và lợi ích khác của trẻ em được sinh ra nhờ biện pháp mang thai hộ. Đồng thời, việc quy định chặt chẽ về chế định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo còn nhằm ngăn chặn tình trạng trẻ em được sinh ra từ việc mang thai hộ sẽ bị bỏ rơi, bị mua bán và bị ảnh hưởng tới sức khỏe, tính mạng.

Ngoài ra, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng có một số điểm mới khác như đã bổ sung kịp thời quy định về việc xác định cha, mẹ cho con. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày, kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định[4]. Bên cạnh đó, Luật cũng có một số thay đổi, quy định chặt chẽ hơn khi sử dụng ngôn ngữ pháp lý trong kỹ thuật lập pháp, như quy định về nguyên tắc giao con cho mẹ trực tiếp nuôi, đổi từ “con dưới ba tuổi” thành “con dưới 36 tháng tuổi”,…

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 được ban hành đã thể hiện rất rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về “xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách” được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011 – 2020 được thông qua tại Đại hội lần thứ XI của Đảng và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Luật đã đáp ứng được tương đối toàn diện những yêu cầu khách quan của đời sống hôn nhân và gia đình, tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân.

Lã Văn Bằng

Tài liệu tham khảo:

[1] Xem khoản 3, khoản 4 Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2] Xem Điều 12 và Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Xem khoản 2 Điều 81 và khoản 3 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4]Xem Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số vấn đề về chủ thể tham gia đấu giá quyền sử dụng đất

07/10/2015

Đấu giá quyền sử dụng đất để Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất là một trình tự gồm nhiều giai đoạn với nhiều thủ tục khác nhau, nhiều quan hệ đan xen, nên việc xác định chủ thể tham gia quan hệ đấu giá quyền sử dụng đất cũng như xác định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể này là một vấn đề phức tạp. Chủ thể của quan hệ pháp luật đấu giá quyền sử dụng đất trước hết phải đáp ứng đầy đủ tư cách chủ thể pháp luật. Các chủ thể đó có thể là Nhà nước, tổ chức, cá nhân và các chủ thể khác; về tổng thể bao gồm: Bên có quyền sử dụng đất, bên tham gia đấu giá quyền sử dụng đất và bên tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất.

Hiện nay, pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất ở nước ta quy định bên tham gia đấu giá quyền sử dụng đất là tổ chức, cá nhân phải đáp ứng các điều kiện theo luật định:

Một là, bên tham gia đấu giá phải thuộc đối tượng được Nhà nước giao đất theo hình thức có thu tiền sử dụng đất hoặc Nhà nước cho thuê đất

Theo quy định tại Điều 55 Luật Đất đai năm 2013, Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất trong các trường hợp sau đây: (i) Hộ gia đình, cá nhân được giao đất ở; (ii) Tổ chức kinh tế được giao đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê; (iii) Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được giao đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê; (iv) Tổ chức kinh tế được giao đất thực hiện dự án đầu tư hạ tầng nghĩa trang, nghĩa địa để chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn với hạ tầng.

Quy định như trên về cơ bản là phù hợp với mục đích sử dụng các loại đất và phù hợp với cơ chế tài chính trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội theo quy định của pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, về vấn đề này cũng cần đặt ra một số điểm luận bàn sau đây:

Thứ nhất, nếu theo quy định tại Điều 55 Luật Đất đai năm 2013 thì một trong những đối tượng được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất thông qua đấu giá là các tổ chức kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế, ngoài các tổ chức kinh tế còn rất nhiều loại tổ chức khác như tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức sự nghiệp dân lập… Vậy những tổ chức đó có thuộc đối tượng tham gia đấu giá quyền sử dụng đất để được Nhà nước giao đất không? Vấn đề này hiện nay chưa được quy định cụ thể trong pháp luật đất đai, cũng như pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất hiện hành.

Thứ hai, chủ thể của các quan hệ pháp luật đất đai có thể là các tổ chức, cá nhân trong nước hoặc các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Tuy nhiên, khác với nhiều quan hệ pháp luật khác, đối với quan hệ pháp luật đất đai, pháp luật quốc gia của hầu hết các nước trên thế giới đều có những quy định hạn chế quyền tham gia của các tổ chức, cá nhân nước ngoài trong một số trường hợp nhất định nhằm bảo đảm an ninh, lợi ích quốc gia, dân tộc. Hiện nay, chúng ta đang tiếp tục thực thi chính sách mở cửa với nhiều ưu đãi cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài trong sử dụng đất. Mặc dù vậy, pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất còn thiếu những quy định cụ thể về vấn đề này. Bên cạnh đó, tại nhiều địa phương khi tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất, có quan điểm cho rằng, tổ chức, cá nhân nhà đầu tư nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài về nước làm ăn, sinh sống có thể tham gia đấu giá quyền sử dụng đất. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng, cần phải có những hạn chế đối với những đối tượng này, theo họ, người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam bị hạn chế quyền sử dụng đối với một số loại đất, vị trí đất so với các chủ thể là các tổ chức, cá nhân trong nước. Do có những quan điểm khác nhau như vậy nên hầu hết các tỉnh, thành phố khi tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất, trong các quy chế đấu giá quyền sử dụng đất đều còn hạn chế về vấn đề này.

Vì vậy, một câu hỏi được đặt ra là, các đối tượng này có được tham gia đấu giá quyền sử dụng đất để được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hay không? Trường hợp được tham gia đấu giá thì cần phải có các điều kiện gì và được tham gia đấu giá trong những trường hợp nào? Đây là một bài toán cần có câu trả lời hữu hiệu khi hoạt động đấu giá quyền sử dụng đất có liên quan tới sự điều chỉnh của pháp luật ở các lĩnh vực khác như đầu tư, chứng khoán… Không chỉ xây dựng các thiết chế pháp luật ở lĩnh vực đấu giá quyền sử dụng đất mà cần phải bảo đảm thực hiện minh bạch, hiệu quả, hạn chế sự xung đột pháp luật và phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội vùng miền và thông lệ quốc tế.

Hai là, các tổ chức, cá nhân phải có nhu cầu sử dụng đất và đáp ứng đủ các điều kiện về vốn, kỹ thuật và năng lực tài chính

Căn cứ để Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất được quy định tại Điều 52 Luật Đất đai năm 2013: (1) Kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; (2) Nhu cầu sử dụng đất thể hiện trong dự án đầu tư, đơn xin giao đất, thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất.

Theo quy định này thì nhu cầu sử dụng đất là một căn cứ quan trọng để Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất. Nhà nước chỉ giao đất hoặc cho thuê đất khi các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu sử dụng đất, có khả năng sử dụng đất đúng mục đích mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã phê duyệt và nhu cầu đó được thể hiện trong dự án đầu tư, trong đơn xin giao đất, cho thuê đất.

Do đó, sự điều chỉnh của pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất để Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất cũng cần phải đáp ứng yêu cầu này. Trong các quy định về điều kiện để được tham gia đấu giá cũng như hồ sơ xác định tư cách người tham gia đấu giá của các quy chế đấu giá hiện hành không quy định về vấn đề này mà chỉ quy định điều kiện về vốn và kỹ thuật (đối với tổ chức) hoặc khả năng tài chính (đối với hộ gia đình, cá nhân) khi tham gia đấu giá. Việc quy định điều kiện về vốn, kỹ thuật hoặc khả năng tài chính và nguồn tài chính để tham gia đấu giá là cần thiết, bởi đấu giá quyền sử dụng đất là hình thức tìm kiếm khả năng tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước và làm cơ sở để Nhà nước định giá đất sát với giá trị thực của đất đai được chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường. Hơn nữa, đại diện chủ sở hữu là Nhà nước không thể để các tổ chức thuộc quyền lấy tiền của mình để mua tài sản do chính mình bán ra. Tuy nhiên, nhu cầu sử dụng đất có phải là điều kiện bắt buộc khi tham gia đấu giá quyền sử dụng đất hay không là một vấn đề cần được quy định cụ thể được xuất phát từ những yêu cầu sau: (i) Nếu nhu cầu sử dụng đất không phải là điều kiện bắt buộc thì có thể dẫn đến tình trạng, sau khi phiên đấu giá kết thúc, người trúng đấu giá được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất, vì không có nhu cầu thực sự về sử dụng đất, nên họ tìm mọi cách để chuyển nhượng lại hoặc cho thuê lại quyền sử dụng đất cho người khác để hưởng địa tô chênh lệch hoặc đầu cơ đất đai; (ii) Hệ lụy là nhiều dự án đấu giá quyền sử dụng đất đã trở thành dự án treo kéo dài nhiều năm, đất đai không được đưa vào sử dụng, bỏ hoang hoá, gây lãng phí. Vì vậy, pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất cần thiết phải quy định các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân muốn tham gia đấu giá phải chứng minh được nhu cầu sử dụng đất thực tế của họ. Và nhu cầu sử dụng đất như là một trong những điều kiện có tính bắt buộc để xác định tư cách người tham gia đấu giá.

Ba là, người tham gia đấu giá không thuộc trường hợp bị pháp luật cấm tham gia đấu giá

Những người không được tham gia đấu giá quyền sử dụng đất được quy định tại Điều 30 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản. Trong đó, đáng lưu ý là bao gồm cả “người làm việc trong tổ chức bán đấu giá tài sản, nơi thực hiện bán đấu giá tài sản đó, cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị em ruột của người đó”. Những đối tượng này sẽ không được đấu giá quyền sử dụng đất mặc dù họ có nhu cầu thực sự. Trên thực tế, có nhiều địa phương chỉ có duy nhất một tổ chức đấu giá chuyên nghiệp hoặc tổ chức định giá tài sản, thì với quy định này sẽ hạn chế quyền sử dụng hợp pháp tài sản của họ; đồng thời, dẫn đến tình trạng những người thuộc trường hợp trên phải nhờ người khác tham gia đấu giá quyền sử dụng đất mà pháp luật không thể kiểm soát được.

Vì vậy, nên chăng pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất cần thiết phải quy định để các đối tượng trên khi có nhu cầu cũng được tham gia đấu giá, song phải bảo đảm không được lợi dụng để trục lợi nhu cầu cá nhân.

Tóm lại, quy định của pháp luật hiện nay về đấu giá quyền sử dụng đất đã bộc lộ một số bất cập như đã phân tích. Vì vậy, để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp đối với các chủ thể trong hoạt động đấu giá quyền sử dụng đất, thì cần tạo hành lang pháp lý cho các chủ thể khi tham gia hoạt động đấu giá quyền sử dụng đất bảo đảm minh bạch và bình đẳng trước pháp luật.

Nguyễn Minh Tâm

Phó Giám đốc Sở Tư pháp Quảng Bình

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

“Kiềng ba chân” – Một giải pháp hữu hiệu trong giải quyết tình trạng chậm thời gian cấp phiếu lý lịch tư pháp

28/08/2015

Qua hơn 05 năm thực hiện Luật Lý lịch tư pháp năm 2009, hoạt động cấp phiếu lý lịch tư pháp cho người dân trên toàn quốc đã từng bước ổn định và phát huy hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, hoạt động này vẫn còn một số tồn tại, hạn chế, nhất là việc chậm cấp phiếu lý lịch tư pháp vẫn còn diễn ra phổ biến. Tình trạng chậm thời hạn cấp phiếu lý lịch tư pháp nêu trên xuất phát từ một số nguyên nhân cơ bản như: Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và các Sở Tư pháp mới xây dựng nên còn chưa đầy đủ; một số quy định của pháp luật về lý lịch tư pháp đã bộc lộ sự bất cập, không phù hợp thực tiễn; việc ứng dụng công nghệ thông tin để cung cấp thông tin lý lịch tư pháp giữa các cơ quan chưa được thống nhất, đồng bộ; khó khăn về biên chế, cán bộ…

Để khắc phục tình trạng trên, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia phối hợp với các cơ quan có liên quan nghiên cứu, áp dụng các biện pháp có tính cấp bách để giải quyết kịp thời tình trạng chậm cấp phiếu tại các địa phương có tỷ lệ chậm cấp phiếu cao. Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia đã chủ động thử nghiệm giải pháp “kiềng ba chân” là giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác phối hợp tra cứu, xác minh giữa Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia với Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát – Bộ Công an (C53) và các Sở Tư pháp.

Để tìm hiểu rõ hơn về giải pháp “kiềng ba chân” trong hoạt động cấp phiếu lý lịch tư pháp, kính mời độc giả đón đọc bài viết “Kiềng ba chân” – Một giải pháp hữu hiệu trong giải quyết trình trạng chậm thời gian cấp phiếu lý lịch tư pháp của tác giả Lương Nhân Hòa, đăng trên Số chuyên đề 32 trang tháng 8/2015 của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật .

Huyền Bùi

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Tham gia hoạt động tố tụng của trợ giúp viên pháp lý

28/09/2015

Trợ giúp pháp lý là một hoạt động thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta, phù hợp với lòng dân, gắn bó truyền thống đạo lý của dân tộc và phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhiều nước trên thế giới. Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 ra đời đã tạo ra một hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động trợ giúp pháp lý nói chung và hoạt động tham gia tố tụng của trợ giúp viên pháp lý nói riêng. Theo đó, trợ giúp viên pháp lý được thực hiện trợ giúp pháp lý bằng hình thức tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đối tượng thuộc diện được trợ giúp pháp lý trong tất cả các vụ án hình sự, dân sự, hành chính. Tuy nhiên, việc thực hiện trợ giúp pháp lý bằng hình thức tham gia tố tụng của trợ giúp viên pháp lý hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập.

Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu đến độc giả bài viết “Tham gia hoạt động tố tụng của trợ giúp viên pháp lý” của tác giả Nguyễn Minh Chánh, được đăng tải trong số chuyên đề tháng 9/2015 về “Đổi mới công tác trợ giúp pháp lý”. Trong bài viết này, tác giả đã nêu lên thực trạng về hoạt động tham gia tố tụng của trợ giúp viên pháp lý trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, đồng thời phân tích những tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện trợ giúp pháp lý bằng hình thức tham gia tố tụng của trợ giúp viên pháp lý và qua đó, đưa ra giải pháp sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động tham gia tố tụng của trợ giúp viên pháp lý, góp phần đảm bảo cho hoạt động thực hiện trợ giúp pháp lý bằng hình thức tham gia tố tụng của trợ giúp viên pháp lý phát huy hiệu quả tốt hơn trong thời gian tới.

Minh Minh

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Người không quốc tịch – Thực trạng và giải pháp

28/09/2015

Quốc tịch thể hiện sự gắn bó chặt chẽ, sự quy thuộc về một Nhà nước của một cá nhân, là tiền đề pháp lý để một cá nhân có thể được hưởng các quyền và nghĩa vụ của một Nhà nước và ngược lại. Một cá nhân không có quốc tịch thì nhiều quyền cơ bản của họ không có cơ chế để bảo đảm. Quốc tịch xác định địa vị pháp lý của công dân không chỉ trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà còn ở ngoài phạm vi biên giới quốc gia, trong xã hội quốc tế, là cơ sở để Nhà nước thực hiện quyền bảo hộ ngoại giao đối với công dân của nước mình ở nước ngoài, đồng thời là cơ sở để các nước hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng chống tội phạm… Không quốc tịch là vấn đề phát sinh ngoài mong muốn của các quốc gia. Hậu quả của các hiện tượng xã hội quốc tế này có thể dẫn tới những căng thẳng, phức tạp giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế. Do vậy, cộng đồng quốc tế đã có những cố gắng để giải quyết vấn đề này. Rất khó để xác định một con số cụ thể về số lượng người không quốc tịch hiện nay trên thế giới. Theo ước tính của Liên Hợp Quốc, hiện nay có ít nhất 10 triệu người trên thế giới không có quốc tịch.

Ở Việt Nam, tình trạng người không quốc tịch, người không rõ quốc tịch nước nào đang cư trú trên lãnh thổ nước ta khá đông. Mặc dù Luật Quốc tịch năm 2008 đã tạo điều kiện cho người không quốc tịch nhập quốc tịch Việt Nam, nhưng nhiều người không quốc tịch vẫn không đủ điều kiện để nhập quốc tịch nước ta, cuộc sống của họ gặp nhiều khó khăn, nhiều quyền của họ chưa được bảo đảm thực hiện.

Để tìm hiểu thêm về người không quốc tịch, kính mời quý bạn đọc đón đọc bài viết “Người không quốc tịch – Thực trạng và giải pháp” của tác giả Nguyễn Thị Vinh đăng tải trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật định kỳ số tháng 9 (282) năm 2015.

Mộc Miên

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự hiện nay

15/10/2015

Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự năm 2014 đã khắc phục những điểm bất cập của Luật năm 2008 và sửa đổi, bổ sung một số quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự… Những sửa đổi, bổ sung này cũng đánh dấu sự phát triển và hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự (THADS) và cơ cấu tổ chức bộ máy của cơ quan THADS từ trung ương đến địa phương, về mối quan hệ với các cơ quan hữu quan nhằm tăng cường hiệu quả tổ chức và quản lý hoạt động THADS, góp phần quan trọng trong việc giữ vững an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, trong thực tiễn thi hành, vẫn tồn tại nhiều vướng mắc, bất cập phát sinh từ thực tiễn nhưng chưa được sửa đổi. Bên cạnh đó, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự năm 2014 chưa cụ thể hóa, nên cơ quan THADS và chấp hành viên gặp nhiều lúng túng, khó khăn trong công tác thi hành. Điều đó được thể hiện ở các vấn đề sau:

Thứ nhất, trong công tác xác minh điều kiện thi hành án

Luật Thi hành án dân sự quy định thời hạn xác minh trong thi hành án chủ động là 10 ngày, nhưng trong quá trình áp dụng quy định này có một số bất cập như sau:

(i) Theo Điều 45 Luật Thi hành án dân sự hiện hành, thời hạn tự nguyện thi hành án là 15 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được hoặc được thông báo hợp lệ. Chấp hành viên Chi cục THADS huyện Quan Sơn, Thanh Hóa quyết định thi hành án, nhưng nếu đương sự tự nguyện thi hành án, thì kết quả xác minh của chấp hành viên không có giá trị.

(ii) Trong trường hợp kết quả xác minh xác định người phải thi hành án không có điều kiện thi hành án, mà theo quy định tại khoản 3 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự: “Thời hạn ra quyết định hoãn thi hành án là 05 ngày làm việc, kể từ ngày có căn cứ hoãn thi hành án quy định tại khoản 1 điều này”. Như vậy, nếu ra quyết định hoãn thì không đúng quy định vì chưa hết thời gian tự nguyện thi hành án, nếu không ra quyết định hoãn thì không đúng khoản 3 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự.

Do vậy, việc đảm bảo thời hạn xác minh theo quy định hiện hành đang là vấn đề rất khó thực hiện trên thực tế.

Thứ hai, về việc thực hiện thông báo thi hành án

Đây là hoạt động của chấp hành viên, cán bộ và cơ quan THADS nhằm làm cho đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan biết được quyền và nghĩa vụ của mình phát sinh trong quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định. Là hoạt động diễn ra thường xuyên, vì vậy, việc thông báo trong THADS có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm đảm bảo tính khách quan, minh bạch trong hoạt động thi hành án và là cơ sở để áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án. Đây là hình thức thông báo cuối cùng, có tính chất rộng rãi nhất, nhưng hiện nay, phần lớn các chấp hành viên và cơ quan THADS dễ hiểu sai, thực hiện sai các hình thức thông báo.

Điều 43 Luật Thi hành án dân sự quy định về điều kiện áp dụng hình thức thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng: (a) Chỉ khi pháp luật có quy định; hoặc (b) khi đương sự có yêu cầu. Tuy nhiên thực tế hiện nay, một số chấp hành viên và cơ quan THADS vẫn thực hiện trong trường hợp người được thi hành án yêu cầu cơ quan thi hành án thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng về các quyết định, văn bản để người được thi hành án nắm được. Điều này là hoàn toàn trái với quy định của điều luật đã quy định ở trên và hoàn toàn có thể xảy ra khiếu nại của người phải thi hành án với lý do cơ quan thi hành án thông báo không đúng hình thức, gây ảnh hưởng đến uy tín của họ. Cũng cần lưu ý, khi thực hiện thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng theo yêu cầu của người được nhận thông báo, chấp hành viên cần lưu lại văn bản yêu cầu cũng như văn bản thể hiện kết quả thông báo để làm cơ sở. Sau khi đã xác định có đủ cơ sở để áp dụng thì khi đó thông báo mới được thực hiện trên phương tiện thông tin đại chúng và thủ tục thông báo sẽ được thực hiện theo khoản 2, 3 Điều 43 Luật Thi hành án dân sự.

Trong suốt quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định, việc thông báo về thi hành án diễn ra không chỉ duy nhất một lần mà có thể phải thực hiện thường xuyên, điều này ảnh hưởng lớn đến việc đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có nắm được quyền, nghĩa vụ của mình hay không để thực hiện. Điều đó cũng quyết định đến hiệu quả của hoạt động thi hành án, đây cũng là một yếu tố đánh giá chất lượng hoạt động THADS. Vì vậy, việc nhận thức, áp dụng đúng, đủ các quy định của pháp luật về thông báo thi hành án là rất quan trọng và cần thiết. Chấp hành viên và cơ quan thi hành án không thể chủ quan để gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

Thứ ba, về vấn đề miễn, giảm trong thi hành án dân sự

Điều 61 Luật Thi hành án dân sự quy định một trong những điều kiện để được miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước là người phải thi hành án phải thi hành được một phần nghĩa vụ. Quy định này rất khó thực hiện trong thực tiễn vì rất nhiều vụ việc đủ điều kiện về thời gian nhưng người phải thi hành án không có khả năng thi hành dù khoản tiền rất nhỏ, gia đình người phải thi hành án thuộc hộ nghèo ở địa phương hoặc người phải thi hành án là người nước ngoài, không rõ địa chỉ… Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng án tồn đọng kéo dài nhiều năm nhưng không có biện pháp giải quyết dứt điểm. Mặt khác, tại điểm a khoản 3 Điều 61 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Năm năm kể từ ngày ra quyết định thi hành án mà phần nghĩa vụ còn lại có giá trị từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng” thì được xét miễn giảm, nhưng trên thực tế, một số vụ việc đã đủ điều kiện về thời gian nhưng giá trị còn lại trên 5 triệu đồng đến dưới 10 triệu đồng khi đề nghị giảm không được Tòa án, Viện kiểm sát chấp nhận do Luật Thi hành án dân sự không quy định, thậm chí có những trường hợp đã đề nghị và được xét giảm đến dưới 10 triệu đồng phải dừng lại không được xét giảm tiếp mà phải đợi đủ thời gian 10 năm để xét miễn.

Từ những vấn đề nêu trên, để công tác THADS đạt được hiệu quả cao hơn, điều kiện thực hiện nghiệp vụ của chấp hành viên được thuận lợi hơn, chúng tôi đề xuất một số giải pháp cơ bản sau đây:

Một là, cần phải quy định rõ về người được thi hành án tự xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. Đây là quyền quan trọng của người được thi hành án, song thực tiễn cho thấy nhiều trường hợp chấp hành viên phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp luật khác, tiến hành tổ chức xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án còn gặp khó khăn thì người được thi hành án nhiều khi không thể tự xác minh được. Vì vậy, không nên quy định người được thi hành án phải chứng minh là áp dụng các biện pháp cần thiết mà không thể tự xác minh được điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì có thể đề nghị chấp hành viên xác minh. Mà nên quy định: “Chấp hành viên tổ chức xác minh khi có yêu cầu của người được thi hành án”.

Hai là, cần thiết phải sửa đổi quy định người phải thi hành án “đã thi hành được ít nhất bằng 1/20 khoản phải thi hành, nhưng giá trị không được thấp hơn mức án phí không có giá ngạch” là điều kiện bắt buộc để xét miễn, giảm. Thực tế cho thấy, sẽ là rất khó khăn trong công tác xét miễn, giảm đối với những trường hợp thi hành các khoản thu nộp ngân sách nhà nước trên 5.000.000 đồng mà người phải thi hành án hoàn toàn không có điều kiện để nộp, số vụ việc trên chiếm rất lớn tại các cơ quan thi hành án dân sự. Do vậy, cần sửa đổi, bổ sung về điều kiện, trình tự thủ tục, phối hợp liên ngành trong việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với người phải thi hành án tránh rườm rà, bất cập như hiện nay.

Ba là, hoàn thiện hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hànhLuật Thi hành án dân sự theo hướng đồng bộ, thống nhất với Luật, nhằm tạo cơ sở pháp lý thống nhất đồng thời đó cũng là điều kiện thuận lợi để các chấp hành viên tổ chức thi hành án đạt hiệu quả cao.

Bốn là, cụ thể hóa các quy định của Luật về sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan và chính quyền địa phương trong công tác THADS. Thực tế cho thấy, hiệu quả của công tác thi hành án phụ thuộc nhiều vào sự phối hợp của các cơ quan hữu quan và chính quyền cơ sở. Nhưng trong thực tiễn không phải lúc nào cũng nhận được sự phối hợp chặt chẽ trong hoạt động thi hành án như việc tống đạt các quyết định, văn bản, việc xác minh điều kiện thi hành án, cưỡng chế, định giá tài sản, việc xem xét trả lời những kiến nghị của cơ quan THADS.

Lê Hùng Cường

Chi cục THADS huyện Quan Sơn, Thanh Hóa

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số hạn chế của công tác thi hành án hình sự ở nước ta hiện nay

30/10/2015

Khi xem xét, đánh giá hiệu quả của việc thi hành án phạt tù, cách đánh giá thông dụng nhất là phân tích mức độ tái phạm, nếu số lượng người thụ án tái phạm nhiều chứng tỏ hiệu quả giáo dục trong khi thi hành án phạt tù thấp, hình phạt đã không đạt được mục đích phòng ngừa. Ở nước ta hiện nay, các số liệu thống kê cho thấy một thực trạng đáng lo ngại là tỷ lệ người phạm tội tái phạm chiếm từ 25% đến 30%, khoảng 8-12% số người chấp hành hình phạt xong đi đâu, làm gì, có tiếp tục phạm tội lại hay không, không ai quản lý và biết được.

Thống kê của Tòa án nhân dân Tối cao cho thấy rằng, hiện nay có gần 4.600 bị án tại ngoại ngoài xã hội, chưa bị bắt đi thụ hình vì nhiều lý do khác nhau.

Một thực tế là ở một số trường hợp do chưa có sự quan tâm đúng mức trong việc đôn đốc thi hành án của cơ quan thi hành án hình sự các cấp, chính quyền địa phương; của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong thi hành bản án, quyết định của Toà án, đã để người bị kết án có quyết định thi hành án chưa được áp giải thi hành án dẫn đến có trường hợp tiếp tục phạm tội hoặc trốn, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân.

Vai trò giám sát của Viện kiểm sát trong giai đoạn này còn hạn chế do hoạt động kiểm sát chưa hiệu quả và chưa được thực hiện thường xuyên trên thực tế. Qua việc giám sát của Viện kiểm sát giúp cơ quan thi hành án hình sự công an cấp huyện và chính quyền địa phương nâng cao trách nhiệm trong quản lý giáo dục người phạm tội.

Sự phối hợp giữa cơ quan xét xử, Viện kiểm sát và cơ quan thi hành án hình sự công an các cấp có lúc còn thiếu kịp thời dẫn đến tình trạng người bị kết án sau khi hết thời hạn tạm hoãn, tạm đình chỉ thi hành án đã tự giác vào trại chấp hành án nhưng Viện kiểm sát không nắm được và vẫn làm văn bản kiến nghị bắt.

Công tác thi hành án bị phân tán ở nhiều cơ quan khác nhau, cán bộ làm công tác quản lý về thi hành án hình sự tại cơ quan công an nhiều nhưng không chuyên sâu, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ quản lý đối tượng. Nhiều trường hợp các đối tượng không đủ điều kiện tạm hoãn thi hành án, Tòa án chuyển quyết định thi hành án cho cơ quan công an nhưng cơ quan công an chỉ xác minh đối tượng lưu hồ sơ và không cương quyết bắt dẫn đến tình trạng đối tượng không có quyết định tạm hoãn thi hành án nhưng vẫn được tại ngoại ngoài xã hội hoặc tiếp tục phạm tội. Đây là nguyên nhân làm cho công tác quản lý Nhà nước về thi hành án không tập trung, hiệu lực thi hành bản án, quyết định của Toà án chưa cao.

Đội ngũ cán bộ làm Thi hành án hình sự tại Toà án còn mỏng, chưa đáp ứng hết yêu cầu nhiệm vụ công tác này. Mặt khác, nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động thi hành án hình sự còn hạn chế ở một số nơi, tại các địa phương vẫn coi nó là hoạt động phụ và “bổ trợ” của các cơ quan tư pháp nên chưa được đầu tư đúng mức.

Quan nghiên cứu thực tiễn, những nguyên nhân chủ yếu làm giảm hiệu quả của hoạt động thi hành án hình sự bao gồm:

Ở giai đoạn thủ tục thi hành, tức là ở giai đoạn đưa bản án ra thi hành bị chậm trễ ở khâu thủ tục giấy tờ hành chính, thiếu sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ giữa cơ quan xét xử và cơ quan thi hành án. Đây là nguyên nhân chính để tình trạng hàng ngàn bị án có án phạt tù vẫn đang còn ở ngoài xã hội, tạo ra mối nghi ngờ của nhân dân về tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật, đồng thời tạo ra sự đe dọa mất an ninh và trật tự xã hội.

Công tác thi hành án bị phân tán ở nhiều cơ quan chức năng khác nhau, làm cho công tác quản lý nhà nước về thi hành án không tập trung; hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án tác dụng trong thực tế không cao, không kết hợp thi hành án phạt tù với các hình phạt bổ sung khác, do đó làm hạn chế đến hiệu quả của công tác thi hành án và tính nghiêm minh của hình phạt.

Theo quy định của Luật thi hành án hình sự hiện hành thì Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác thi hành án trong phạm vi cả nước. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng giúp Chính phủ quản lý công tác thi hành án phạt tù và tổ chức công tác thi hành án phạt tù. Tuy vậy, trong thực tế công tác thi hành án theo pháp luật hiện hành còn được giao cho nhiều cơ quan khác nữa cùng tham gia, thực hiện như Tòa án nhân dân, UBND các cấp, cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú, cơ quan y tế thi hành quyết định của Tòa án về bắt buộc chữa bệnh nhưng lại không có một cơ quan chuyên trách nào được giao nhiệm vụ theo dõi, quản lý việc thi hành đó…Vì vậy, mục đích của hình phạt và các biện pháp tư pháp khác không đạt được kết quả, tác dụng phòng ngừa vi phạm và tội phạm bị hạn chế.

Việc theo dõi và quản lý phạm nhân còn chồng chéo, kém hiệu quả, trên thực tế đã tồn tại tình trạng là sau khi ra quyết định thi hành án phạt tù, Tòa án hoàn toàn không thể biết rõ được phạm nhân được đưa đi cải tạo ở đâu, bởi vì trên cơ sở tiếp nhận bị án, cơ quan thi hành án của Bộ Công an lập danh sách bị án, ra quyết định đưa họ đi cải tạo tại các trại cải tạo do mình quản lý trên cả nước mà không giao danh sách người bị kết án được điều đi cải tạo ở các trại giam cho toà án đã xét xử. Thực tế, có trại giam sau khi tiếp nhận phạm nhân có lập danh sách chuyển toà án ra quyết định thi hành án nhưng về cơ bản là không đầy đủ và thiếu kịp thời, dẫn đến thiếu thông tin trong hồ sơ theo dõi thi hành án của Toà án.

Ở giai đoạn xét giảm án: Khi thực hiện thủ tục xét giảm án, tha tù (quy định tại Điều 58, Điều 59, Điều 76 của Bộ luật hình sự; Điều 268, 269 Bộ luật tố tụng hình sự và hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC, ngày 15/5/2013 của Bộ công an, Bộ Quốc phòng, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao “Hướng dẫn thi hành các quy định về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân”) thì về nguyên tắc giảm thời hạn chấp hành hình phạt là việc Toà án nhân dân cấp tỉnh nơi người bị kết án chấp hành hình phạt tù căn cứ vào hồ sơ đề nghị của trại trại giam, và quá trình phấn đấu cải tạo phạm nhân để xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù cho người bị kết án. Mâu thuẫn ở chỗ, việc thẩm định của cơ quan có thẩm quyền (theo Thông tư 02) là Cục quản lý trại giam, cơ quan thi hành án hình sự công an tỉnh (đối với trại giam công an tỉnh) thay bằng thẩm định điều kiện, tiêu chuẩn và danh sách phạm nhân mà các cơ quan này đã làm thay công việc của Toà án đó là “duyệt mức giảm”.

Mục đích nhân đạo của việc giảm thời hạn chấp hành án phạt tù của Nhà nước là rất rõ, thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước, qua đó tạo khí thế thi đua sôi nổi trong chấp hành hình phạt tù của phạm nhân. Nhưng, bằng thẩm quyền chuyên biệt của mình, Bộ Công an (cụ thể là Tổng cục VIII đã làm thay chức năng của cơ quan quản lý phạm nhân (là các trại giam) để ấn định và điều chỉnh mức giảm án đối với các phạm nhân theo ý chí chủ quan của mình, đặt thẩm quyền hành chính thay cho chức năng tố tụng để yêu cầu các trại giam lập danh sách và mức giảm do mình “duyệt” để đề nghị Toà án nơi trại giam đóng trên địa bàn “chuẩn y” mức án mà mình đã duyệt. Việc làm này đã gây ảnh hưởng xấu đến dư luận xã hội về “vai trò lớn và cánh tay rộng” của ngành Công an, thẩm quyền của Toà án bị thu hẹp và gần như bị tước quyền hiến định về vấn đề độc lập của Toà án, điều này ảnh hưởng đến tâm lý người chấp hành án, làm cho phạm nhân không còn muốn phấn đấu, thi đua chấp hành hình phạt tù để được giảm án bởi sự bất công bằng trong quá trình thẩm định, xét duyệt giảm án cũng như quá trình giảm án.

ThS. Bùi Thị Hằng

Giảng viên Khoa Lý luận chính trị – Luật

Trường Đại học Hồng Đức

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quyền tư pháp và cơ quan tư pháp ở Việt Nam

30/10/2015

Điều 102 khoản 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Vậy quyền tư pháp ở Việt Nam là gì, cơ quan thực hiện quyền tư pháp, ngoài Tòa án như Hiến pháp đã quy định, còn có cơ quan nào khác? Đây là những vấn đề cần được nghiên cứu làm rõ để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp trong những văn bản pháp luật liên quan và để thực thi trong cuộc sống. Bài viết đưa ra một quan điểm nghiên cứu về vấn đề này.

1. Khái niệm “Tư pháp” được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau, theo nghĩa rộng nhất, tư pháp là sự công bằng, công lý và các thiết chế nhằm duy trì,bảo đảm sự công bằng, bảo vệ nền công lý. Trong tiếng Anh, tư pháp là “Justice” nghĩa là công lý, là một trong ba nhánh quyền lực để tổ chức và duy trì trật tự xã hội, xuất phát từ lý thuyết về sự phân chia quyền lực, được khởi xướng bởi các nhà triết học xưa, nhưng chỉ đến thời kỳ La Mã cổ đại, mới thực sự hiện hữu trong đời sống xã hội. Theo John Locke (1632-1704), một nhà triết học người Anh, thì quyền lực của Nhà nước là quyền lực của nhân dân. Nhân dân nhường một phần quyền của mình cho Nhà nước qua khế ước, theo đó, để chống lại độc tài, phải thực hiện sự phân quyền thành 3 lĩnh vực: Lập pháp, hành pháp và liên hợp. Theo đó, quyền lập pháp là quyền lực cao nhất trong Nhà nước và phải thuộc về Nghị viện. Nghị viện họp định kỳ thông qua các đạo luật, nhưng không can thiệp vào việc thực hiện chúng. Quyền hành pháp phải thuộc về nhà vua. Nhà vua lãnh đạo việc thi hành pháp luật, bổ nhiệm các chức vụ, Chánh án và các quan chức khác. Hoạt động của Nhà vua phụ thuộc vào pháp luật và không có đặc quyền nhất định nào với Nghị viện nhằm không cho phép Vua thâu tóm toàn bộ quyền lực về tay mình và xâm phạm vào các quyền tự nhiên của công dân. Nhà vua thực hiện quyền liên hợp là giải quyết các vấn đề chiến tranh, hòa bình và đối ngoại.

Những luận điểm phân quyền của J.Locke đã được nhà khai sáng, nhà tư tưởng vĩ đại người Pháp Montesquieu, phát triển một cách toàn diện và độc lập thành học thuyết tam quyền phân lập. Tiếp thu và phát triển tư tưởng về thể chế chính trị tự do, chống chuyên chế, Montesquieu xây dựng học thuyết phân quyền với mục đích tạo dựng những thể chế chính trị bảo đảm tự do cho người dân. Theo đó, quyền hành pháp và quyền liên hợp trong luận điểm của J.Locke tiếp tục được phân chia rõ hơn nữa, tách hẳn quyền thi hành pháp luật ra khỏi quyền xét xử. Theo ông, tự do chính trị của công dân là quyền mà người ta có thể làm mọi cái mà pháp luật cho phép. Pháp luật là thước đo của tự do. Montesquieu cho rằng, thể chế chính trị tự do là thể chế mà trong đó, quyền lực tối cao được phân thành 3 quyền: Lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ông cho rằng: “Trong bất cứ quốc gia nào đều có ba thứ quyền: Quyền lập pháp, quyền thi hành những điều hợp với quốc tế công pháp và quyền thi hành những điều trong luật dân sự”. Sự tiến bộ trong tư tưởng phân quyền của Montesquieu so với tư tưởng của J.Locke là đã tách quyền lực xét xử – quyền tư pháp ra độc lập với các thứ quyền khác và các quyền lực đều cân bằng nhau, không quyền nào cao hơn quyền nào. Montesquieu chủ trương phân quyền để chống lại chế độ chuyên chế, thanh toán nạn lạm quyền, để chính quyền không thể gây hại cho người bị trị và bảo đảm quyền tự do cho nhân dân. Montesquieu đã viết: “Khi mà quyền lập pháp và hành pháp nhập lại trong tay một người hay một Viện Nguyên Lão, thì sẽ không có gì là tự do nữa, vì người ta sợ rằng chính ông ta hoặc viện ấy chỉ đặt ra những luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu như quyền tư pháp không tách rời quyền lập pháp và hành pháp. Nếu quyền tư pháp được nhập với quyền lập pháp, thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống, quyền tự do của công dân; quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì quan tòa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức của quan chức, hoặc của quý tộc, hoặc của dân chúng, nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết”.

Nội dung cơ bản của thuyết tam quyền phân lập là sự phân chia ba nhánh quyền lực, trong đó lập pháp là biểu hiện ý chí chung của quốc gia, thuộc về toàn thể nhân dân, được trao cho hội nghị đại biểu nhân dân là Quốc hội. Hành pháp là việc thực hiện luật pháp được thiết lập. Tư pháp là để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết xung đột giữa các cá nhân. Các thẩm phán được lựa chọn từ dân và khi xử án chỉ tuân theo pháp luật. Ba nhánh quyền lực (lập pháp, hành pháp, tư pháp), do ba cơ quan khác nhau nắm giữ để không một cá nhân hay tổ chức nào nắm trọn vẹn quyền lực nhà nước. Điển hình như ở Mỹ, Nghị viện nắm quyền lập pháp, Chính phủ, Tổng thống nắm quyền hành pháp, Tòa án nắm quyền tư pháp. Hoạt động của các cơ quan quyền lực công có sự chuyên môn hóa, mỗi cơ quan chỉ hoạt động nhằm thực hiện chức năng riêng của mình, không làm ảnh hưởng tới hoạt động của các cơ quan khác. Quyền lực giữa các cơ quan này cân bằng nhau, không có loại quyền lực nào vượt trội, lớn hơn quyền lực nào. Các cơ quan quyền lực giám sát, kiềm chế, đối trọng và chế ước lẫn nhau, để không một cơ quan nào có khả năng lạm quyền.

Từ nguồn gốc hình thành trong học thuyết tam quyền thì quyền tư pháp là quyền xét xử, được thực hiện thông qua cơ quan có chức năng xét xử là Tòa án. Đây là quyền áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan để xác định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, hậu quả pháp lý của các bên tham gia tranh chấp dựa trên những tình tiết khách quan của vụ việc. Thực hiện quyền tư pháp là việc pháp luật được áp dụng, được tôn trọng và được thực thi. Thực hiện quyền tư pháp là một trong những cách hữu hiệu để quyền lập pháp mang giá trị xã hội đích thực và được tôn trọng trong thực tế. Quyền tư pháp gắn với Tòa án và chỉ Tòa án là cơ quan duy nhất có chức năng thực hiện quyền tư pháp, vì vậy, Tòa án còn được gọi là cơ quan tư pháp và chỉ Tòa án mới là cơ quan tư pháp. Đó là quan niệm về quyền tư pháp và cơ quan tư pháp của nhiều quốc gia trên thế giới, từ thời điểm hình thành học thuyết ba quyền lực cho đến hiện nay.

2. Ở Việt Nam, quyền tư pháp được nhiều nhà nghiên cứu định nghĩa, đó là “quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động, hành chính…”[1] hoặc một định nghĩa khác “Tư pháp là một lĩnh vực quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua hoạt động phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi, các quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa các chủ thể pháp luật”[2]. Như vậy, quan niệm về quyền tư pháp của nhiều nhà nghiên cứu của Việt Nam và quan niệm về quyền tư pháp trong học thuyết của Montessquieu và đang hiện hữu ở nhiều quốc gia trên thế giới, về cơ bản, có nhiều điểm tương đồng, theo đó quyền tư pháp là quyền xét xử và dựa trên quan điểm này thì cơ quan tư pháp được xác định là Tòa án.

3. Trên thực tế, quyền tư pháp ở Việt Nam có nghĩa rộng hơn nhiều, xuất phát từ đặc điểm tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước. Ở Việt Nam, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân[3]. Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân (Điều 4 Hiến pháp năm 1959, Điều 6 Hiến pháp năm 1980, Điều 6 Hiến pháp năm 1992); trong đó Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất[4]. Suốtthời kỳ xây dựng và phát triển đất nước từ năm 1945, Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[5]. Như vậy, ở Việt Nam không có sự phân chia quyền lực, vì vậy quyền tư pháp và cơ quan tư pháp ở Việt Nam có nhiều điểm đặc thù so với nhiều quốc gia trên thế giới.

Chưa có một văn bản pháp luật của Việt Nam chính thức xác định khái niệm tư pháp có nội hàm gì, cơ quan tư pháp gồm những cơ quan nào, nhưng điều này đã được thể hiện qua chủ trương của Đảng nêu trong các Nghị quyết về cải cách tư pháp và thông qua cách thức tổ chức bộ máy nhà nước cùng với các hoạt động thực thi quyền lực nhà nước. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới (Nghị quyết số 08-NQ/TW) lần đầu tiên tiếp cận khái niệm tư pháp và cơ quan tư pháp dưới góc độ đường lối chính sách của Đảng về công tác tư pháp. Theo đó, nội dung của công tác tư pháp và cơ quan tư pháp có phạm vi rất rộng, từ điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án[6].

Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết 49-NQ/TW) tiếp tục chỉ ra hệ thống các cơ quan tư pháp mà trọng tâm là Tòa án nhân dân thực hiện quyền xét xử; Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; các cơ quan điều tra thực hiện nhiệm vụ điều tra trong tố tụng hình sự và các cơ quan thi hành án[7].

Ngoài những cơ quan tư pháp kể trên, Nghị quyết 08-NQ/TW đề cập đến hoạt động luật sư, cảnh sát tư pháp, tổ chức giám định, hoạt động công chứng, thống kê tư pháp với tư cách là các hoạt động bổ trợ tư pháp; Nghị quyết số 49-NQ/TW xác định nhiệm vụ hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp này[8] như một hoạt động quan trọng trong công tác tư pháp và hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp là một khâu quan trọng trong công tác cải cách tư pháp.

Như vậy, theo các nghị quyết của Bộ Chính trị, các cơ quan tư pháp của Việt Nam gồm cơ quan điều tra, cơ quan kiểm sát, cơ quan xét xử và cơ quan thi hành án. Theo đó công tác tư pháp hay hoạt động tư pháp gồm hoạt động điều tra, hoạt động truy tố, hoạt động xét xử và hoạt động thi hành án. Nếu ở nhiềunước, “Tư pháp” là xét xử và cơ quan tư pháp là Tòa án, thì ở Việt Nam, “Tư pháp” được hiểu theo nghĩa rộng, là sự trộn lẫn toàn bộ hoạt động bảo vệ pháp luật, trong đó hoạt động xét xử của Tòa án là trung tâm. Ngoài ra, còn có các hoạt động bổ trợ tư pháp như luật sư, công chứng, đấu giá, giám định tư pháp. Bên cạnh đó, ở Việt Nam, trong nhận thức của nhiều người dân và cơ quan có thẩm quyền, các cơ quan tư pháp còn bao gồm các cơ quan trong Ngành Tư pháp từ trung ương đến địa phương (Bộ Tư pháp, các Sở Tư pháp và các phòng tư pháp cấp huyện).

Sự khác biệt giữa nhận thức, quan niệm về tư pháp của Việt Nam và nhiều quốc gia trên thế giới, xuất phát từ sự khác nhau giữa cách thức tổ chức và quản lý xã hội. Nhiều nước trên thế giới tổ chức bộ máy quyền lực để quản lý xã hội theo học thuyết tam quyền phân lập, trong đó có sự phân chia quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp; các quyền này độc lập, cân bằng, có đối trọng và chế ước lẫn nhau nhằm tránh sự lạm quyền, sự độc quyền và độc tài; bảo đảm sự dân chủ, công bằng, bảo đảm quyền và lợi ích của người dân được thực thi theo quy định của hiến pháp và pháp luật. Việt Nam không theo học thuyết này mà tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, quyền lực nhà nước là thống nhất và tập trung trong tay nhân dân; nhân dân trao cho người đại diện là các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lực của mình, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực ấy là quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Vì không có sự phân chia quyền lực, nên từ góc độ này thì ở Việt Nam không có quyền tư pháp theo nghĩa mà nhiều nước trên thế giới hiện nay đang quan niệm.

4. Hiến pháp năm 2013 đánh dấu một giai đoạn mới trong nhận thức về quyền tư pháp ở Việt Nam. Điều 102 khoản 2 của Hiến pháp quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Bằng quy định này, lần đầu tiên trong Hiến pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam được khẳng định là Tòa án nhân dân, theo đó, quyền tư pháp được hiểu là quyền xét xử. So với thời kỳ trước Hiến pháp năm 2013 thì quyền tư pháp và cơ quan tư pháp đã được định hình và thu hẹp phạm vi, dẫn đến những đổi mới trong nhận thức về quyền tư pháp ở Việt Nam.

Trên thực tế đang có những cách hiểu khác nhau về quyền tư pháp theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Rất nhiều vấn đề cần được tiếp tục giải quyết như: Quyền tư pháp theo quy định của Hiến pháp năm 2013 có nội hàm thế nào? Quyền xét xử được giới hạn đến đâu và có mối liên hệ thế nào với quyền điều tra, quyền truy tố, quyền thi hành án? Những cơ quan được xác định là cơ quan tư pháp (theo chủ trương, đường lối của Đảng, thể hiện qua các nghị quyết của Bộ Chính trị) nay có còn là cơ quan tư pháp theo quy định của Hiến pháp năm 2013 hay không? Hiện đang có các ý kiến, quan điểm khác nhau, trong đó bao gồm cả cách hiểu điều luật quy định về những vấn đề này. Có ý kiến cho rằng, Hiến pháp năm 2013 quy định Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp nhưng điều đó không khẳng định chỉ có Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp hoặc quyền tư pháp ở Việt Nam có nghĩa rất rộng, không phải chỉ là quyền xét xử mà còn những quyền khác như quyền điều tra, quyền truy tố, quyền thi hành án như đã được nêu trong các nghị quyết của Đảng hoặc nếu chỉ có Tòa án nhân dân là cơ quan tư pháp thì những cơ quan được xác định là cơ quan tư pháp trong các nghị quyết của Đảng và trong nhận thức của cơ quan nhà nước, người dân, nay sẽ là những cơ quan gì, có vai trò thế nào trong bộ máy nhà nước… Những ý kiến, quan điểm này không chỉ trên diễn đàn của các nhà nghiên cứu mà còn nóng trên hội trường Quốc hội, chiếm nhiều thời gian khi các đại biểu thảo luận các luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp như Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi), Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi), Luật Tố tụng hành chính (sửa đổi)…

Những ý kiến, quan điểm này phản ánh quá trình phát triển trong tư duy lập pháp của Việt Nam và là sự phát triển bình thường của quá trình nhận thức. Với đặc điểm tổ chức các cơ quan nhà nước theo nguyên tắc tập trung thống nhất thì việc phân định một cách rõ ràng cơ quan tư pháp với các cơ quan khác liên quan đến hoạt động tư pháp, dù chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan đã được quy định trong Hiến pháp hoặc các văn bản pháp luật khác, cần thời gian để đạt được sự thống nhất trong nhận thức, trong hoạt động của các cơ quan liên quan đến tư pháp, phù hợp với tinh thần mới của Hiến pháp năm 2013, tiếp cận được với quan niệm về quyền tư pháp của nhiều quốc gia trên thế giới. Việc hiểu đúng về quyền tư pháp và cơ quan tư pháp trong bối cảnh Hiến pháp mới đã được ban hành không phải chỉ là những vấn đề lý luận mà có tác động trực tiếp tới định hướng cải cách tư pháp và việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày nay.

TS. Lê Thu Hà

Văn phòng Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương



[1]Viện khoa học pháp lý, Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa, 2006, tr.657

[2]Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền, Nxb. Tư pháp, 2004, tr.11

[3]Điều 1 Hiến pháp năm 1946 quy định: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.

Điều 4 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân”.

Điều 6 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”.

Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) quy định “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”.

Khoản 2 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định “Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.

[4]Điều 22 Hiến pháp năm 1946 quy định: Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”.

Điều 43 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”.

Điều 6 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Điều 83 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nươc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

[5] Điều 2 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2002; khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013.

[6]Quan điểm chỉ đạo được nêu trong Nghị quyết số 08-NQ/TW là Các cơ quan tư pháp phải dựa vào nhân dân để hoạt động, đồng thời phải là lực lượng nòng cốt, là chỗ dựa vững chắc của nhân dân trong đấu tranh phòng chống vi phạm, tội phạm và giải quyết tranh chấp. Xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh và từng bước hiện đại hóa, góp phần xây dựng, bảo vệ Đảng và Nhà nước”.

Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp, có nhiệm vụ nâng cao chất lượng hoạt động và đề cao trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ tư pháp, gồm :

– Nâng cao cao chất lượng công tác điều tra, đấu tranh, phòng chống tội phạm, thực hiện tốt công tác tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm và tăng cường phối hợp giữa cơ quan trách điều tra với các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra để kịp thời điều tra, xử lý tội phạm có hiệu quả. Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can trong một số loại tội.

– Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và duy trì trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ. Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác… Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam giữ, bảo đảm đúng pháp luật. Những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong bắt, giữ và chịu trách nhiệm về những oan sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình.

– Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan. Thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định.

– Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: Tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án; tranh luận dân chủ công khai tại phiên tòa…

– Trên cơ sở tổng kết, đánh giá về công tác thi hành án, cần sớm xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan thi hành án, bảo đảm các quyết định, bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh. Xây dựng đề án thay đổi việc tổ chức thi hành hình phạt tử hình và nghiên cứu hạn chế án tử hình trong bộ luật hình sự.

Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong hoạt động tố tụng trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, không hữu khuynh hoặc đùn đẩy trách nhiệm. Các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử cần thực hiện đúng thời hạn tố tụng như luật định.

[7] Một trong những nhiệm vụ cải cách tư pháp được nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW là xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp mà trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân.

[8] Một trong những nhiệm vụ cải cách tư pháp được nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW là hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp, cụ thể:

– Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức luật sư đối với thành viên của mình.

– Hoàn thiện chế định giám định tư pháp. Nhà nước cần đầu tư cho một số lĩnh vực giám định để đáp ứng yêu cầu thường xuyên của hoạt động tố tụng. Thực hiện xã hội hóa đối với các lĩnh vực có nhu cầu giám định không lớn, không thường xuyên. Quy định chặt chẽ, rõ ràng về trình tự, thủ tục, thời hạn trưng cầu và thực hiện giám định. Ban hành quy chuẩn giám định phù hợp với từng lĩnh vực. Xác định rõ cơ chế đánh giá kết luận giám định, bảo đảm đúng đắn, khách quan để làm căn cứ giải quyết vụ việc.

– Xây dựng lực lượng cảnh sát hỗ trợ tư pháp chính quy, đáp ứng kịp thời cho hoạt động xét xử, thi hành án…

– Hoàn thiện chế định công chứng. Xác định rõ phạm vi của công chứng và chứng thực, giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Xây dựng mô hình quản lý nhà nước về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích hợp; có bước đi phù hợp để từng bước xã hội hóa công việc này.

– Nghiên cứu chế định thừa phát lại (thừa hành viên); trước mắt, có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Các hình thức góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2013

05/11/2015

Theo quan điểm của pháp luật La Mã được thể hiện trong luật dân sự một số quốc gia Châu Âu thì quyền sở hữu tài sản bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Với những lợi ích đem lại từ việc sử dụng tài sản đã làm cho quyền sử dụng trở thành đối tượng của giao dịch, trong đó có góp vốn. Cũng như các tài sản khác, chủ sở hữu đất đai có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu thống nhất quản lý. Nhà nước không trực tiếp sử dụng đất mà chuyển giao cho các chủ thể khác thông qua giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ). Mặc dù, đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhưng việc thực thi một số quyền của chủ sở hữu lại thuộc về người sử dụng đất (NSDĐ). Với quy định của pháp luật hiện nay cho thấy, quyền của NSDĐ ở nước ta đã tiệm cận đến quyền sở hữu đất đai. QSDĐ không chỉ là quyền sử dụng đất đai, mà còn là quyền sở hữu một loại tài sản đặc biệt. Chính vì thế, NSDĐ có thể góp vốn trên phương diện quyền sử dụng đất đai và trên phương diện quyền sở hữu tài sản. Do đó, góp vốn bằng QSDĐ vừa có đặc trưng của hình thức góp vốn bằng quyền sử dụng tài sản, vừa có đặc trưng của hình thức góp vốn bằng quyền sở hữu tài sản. Với cách tiếp cận này, pháp luật Việt Nam ghi nhận hai hình thức góp vốn là góp vốn chuyển QSDĐ và góp vốn không chuyển QSDĐ.

Thứ nhất, hình thức góp vốn không chuyển quyền sử dụng đất

Trên phương diện này, QSDĐ là quyền khai thác và sử dụng đất đai. Do mục đích của các bên trong quan hệ này là khai thác và sử dụng đất đai, vì thế, bên góp vốn chỉ chuyển giao quyền sử dụng đất đai cho bên nhận góp vốn mà không chuyển giao các quyền khác của NSDĐ. Do chỉ chuyển giao quyền sử dụng đất đai, nên bên góp vốn vẫn có thể thực hiện các quyền khác của NSDĐ như thế chấp, để lại thừa kế, tặng cho QSDĐ.

Theo khoản 3, khoản 4 Điều 730 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì bên góp vốn “được nhận lại quyền sử dụng đất đã góp vốn theo thỏa thuận hoặc khi thời hạn góp vốn đã hết”; “hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu bên nhận góp vốn không thực hiện thanh toán phần lợi nhuận đúng thời hạn hoặc thanh toán đầy đủ”. Khoản 3 Điều 732 Bộ luật Dân sự 2005 quy định, bên nhận góp vốn có quyền “được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… trừ trường hợp góp vốn trong hợp đồng hợp tác kinh doanh”. Còn theo điểm a khoản 4 Điều 80 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều, khoản của Luật Đất đai: “Trường hợp hết thời hạn góp vốn hoặc do thỏa thuận của các bên về chấm dứt việc góp vốn thì bên góp vốn quyền sử dụng đất được tiếp tục sử dụng đất đó trong thời hạn còn lại”.

Như vậy, hình thức góp vốn này sẽ không chuyển QSDĐ từ bên góp vốn sang bên nhận góp vốn. Bên góp vốn sẽ nhận lại QSDĐ theo thỏa thuận hoặc khi hết thời hạn góp vốn. So với thuê đất, hình thức góp vốn bằng QSDĐ này có một số điểm giống nhau: (i) Góp vốn bằng QSDĐ và thuê đất đều không chuyển QSDĐ, nhưng có thay đổi chủ thể sử dụng đất, vì vậy, bên góp vốn, bên cho thuê phải đăng ký biến động đất đai. Do không chuyển QSDĐ, nên bên nhận góp vốn, bên thuê đất không được cấp giấy chứng nhận QSDĐ (trừ trường hợp thuê đất giữa Nhà nước với NSDĐ); (ii) Do không chuyển QSDĐ nên bên góp vốn, bên cho thuê vẫn có thể thực hiện các quyền khác của NSDĐ như tặng cho, để lại thừa kế, thế chấp; (iii) Góp vốn bằng QSDĐ và thuê đất đều có thời hạn, thời hạn góp vốn, thuê đất không được vượt quá thời hạn sử dụng đất.

Mặc dù, góp vốn bằng QSDĐ và thuê đất có điểm tương đồng, song hai hình thức này có nhiều điểm khác nhau. Với góp vốn, bên góp vốn dùng giá trị QSDĐ góp vốn và trở thành đồng sở hữu đối với bên nhận góp vốn. Thuê đất, bên cho thuê sử dụng tiền thuê vào mục đích khác mà không phải góp vốn. Do cùng mục đích kinh doanh, nên giữa bên góp vốn với bên nhận góp vốn có quan hệ chặt chẽ hơn so với giữa bên cho thuê và bên thuê đất. Bên góp vốn được hưởng lợi ích theo sự thỏa thuận giữa các bên và tỷ lệ tương ứng theo phần vốn góp mà không cố định như trong thuê đất.

Thứ hai, hình thứcgóp vốn có chuyển quyền sử dụng đất

Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu thống nhất quản lý. Ngoài diện tích đất do Nhà nước sử dụng vì mục đích công cộng, phần lớn đất đai do các chủ thể khác sử dụng. Nhà nước chuyển giao QSDĐ cho các chủ thể khác thông qua giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ. QSDĐ trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch là đối tượng của giao dịch trong đó có góp vốn. Trên phương diện này, góp vốn bằng QSDĐ giống với góp vốn bằng quyền sở hữu tài sản cho dù người góp vốn không có quyền sở hữu đất đai.

Mặc dù, Luật Đất đai năm 2013 không có quy định phân biệt hình thức góp vốn là quyền sử dụng đất đai và hình thức góp vốn là quyền sở hữu tài sản, nhưng căn cứ quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng góp vốn bằng QSDĐ được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Đất đai năm 2013 có thể thấy: Khoản 13 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: “Góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty”. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập. Về tài sản góp vốn có thể là đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất (khoản 1 Điều 35 Luật Doanh nghiệp năm 2014). Với từng loại hình doanh nghiệp, pháp luật quy định về trình tự, thủ tục góp vốn khác nhau. Đối với tài sản đăng ký hoặc giá trị QSDĐ, thì người góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản hoặc quyền sử dụng đất cho công ty tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền (điểm a khoản 1 Điều 36 Luật Doanh nghiệp năm 2014). Bên nhận góp vốn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong trường hợp bên nhận góp vốn là pháp nhân (khoản 3 Điều 732 Bộ luật Dân sự năm 2005). Theo khoản 10 Luật Đất đai năm 2013 thì: “Chuyển quyền sử dụng đất là việc chuyển giao quyền sử dụng đất từ người này sang người khác thông qua các hình thức chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất và góp vốn bằng QSDĐ”. Nhà nước cấp giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất cho người được chuyển đổi, nhận chuyển nhượng, được thừa kế… nhận góp vốn bằng QSDĐ (điểm c khoản 1 Điều 99 Luật Đất đai năm 2013). Tổ chức kinh tế, doanh nghiệp liên doanh nhận chuyển quyền sử dụng đất thông qua góp vốn bằng quyền sử dụng đất (điểm c khoản 1 Điều 169 Luật Đất đai năm 2013).

Với quy định trên cho thấy, hình thức góp vốn bằng QSDĐ trên phương diện quyền sở hữu tài sản là để thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn vào doanh nghiệp đã được thành lập. Đặc trưng của hình thức góp vốn này là có sự chuyển QSDĐ từ bên góp vốn sang bên nhận góp vốn. Khi góp vốn hoàn thành, tùy thuộc vào loại hình doanh nghiệp mà bên góp vốn trở thành thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; cổ đông của công ty cổ phần; xã viên của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Khi trở thành thành viên của công ty hoặc xã viên hợp tác xã, bên góp vốn có quyền tham gia hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

So với hình thức góp vốn không chuyển QSDĐ thì hình thức góp vốn này có một số điểm khác: (i) Bên góp vốn trở thành chủ sở hữu hoặc đồng sở hữu doanh nghiệp mới thành lập hoặc doanh nghiệp đang hoạt động, có quyền tham gia quyết định các vấn đề sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, vốn góp bằng QSDĐ sẽ tăng theo giá trị của doanh nghiệp; (ii) Bên nhận góp vốn trong trường hợp này là doanh nghiệp mới thành lập hoặc doanh nghiệp đang hoạt động sẽ được cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Bên nhận góp vốn có thể sử dụng QSDĐ thế chấp tại các tổ chức tín dụng để vay vốn nhằm phát triển sản xuất, kinh doanh. Cũng như tài sản khác, khi góp vốn, QSDĐ không chỉ được phát huy trên phương diện sử dụng, mà còn được phát huy trên phương diện vốn; (iii)Ba là, so với hình thức góp vốn không chuyển QSDĐ, thì hình thức góp vốn này mang tính bền vững hơn. Do QSDĐ được chuyển sang doanh nghiệp mới nên việc chuyển nhượng, rút vốn ra khỏi doanh nghiệp chịu sự kiểm soát của các thành viên trong doanh nghiệp và sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp, Luật Phá sản.

Hai hình thức góp vốn bằng QSDĐ có đặc thù riêng, nhưng pháp luật lại không có những quy định đặc thù áp dụng cho mỗi hình thức góp vốn nên thực tiễn áp dụng gặp rất nhiều vướng mắc, cụ thể như sau:

Một là, theo khoản 4 Điều 730 Bộ luật Dân sự năm 2005, thì bên góp vốn được quyền hủy bỏ hợp đồng góp vốn và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu bên nhận góp vốn không thực hiện việc thanh toán lợi nhuận đúng thời hạn hoặc thanh toán không đầy đủ. Quy định này không phù hợp với hợp đồng góp vốn. Bởi lẽ, với góp vốn có chuyển QSDĐ, thì QSDĐ là tài sản của bên nhận góp vốn khi được cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Nếu bên nhận góp vốn vi phạm nghĩa vụ thanh toán lợi nhuận thì sẽ được giải quyết bằng một vụ án kinh doanh, thương mại. Với góp vốn không chuyển QSDĐ thì căn cứ để hủy hợp đồng nêu trên cũng không phù hợp, bởi lẽ, khi góp vốn bằng QSDĐ bên nhận góp vốn phải đầu tư để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu chỉ vì nghĩa vụ chậm thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ mà hủy hợp đồng góp vốn bằng QSDĐ sẽ gây thiệt hại cho bên nhận góp vốn khi mà họ đã đầu tư tài sản trên đất và tài sản này không thể di dời.

Hai là, theo quy định tại khoản 3 Điều 730 Bộ luật Dân sự năm 2005, thì bên góp vốn được nhận lại QSDĐ theo thỏa thuận hoặc theo khi hết thời hạn góp vốn. Quy định này chỉ phù hợp với góp vốn không chuyển QSDĐ. Đối với góp vốn bằng QSDĐ để thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn vào doanh nghiệp đã được thành lập, thì QSDĐ trở thành tài sản của doanh nghiệp hình thành từ góp vốn. Theo nguyên lý chung của góp vốn bằng quyền sở hữu tài sản, thì bên góp vốn không được nhận lại tài sản đã góp vốn. Việc nhận lại vốn góp được thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp tương ứng với từng loại hình doanh nghiệp.

Ba là, theo khoản 2 Điều 730 Bộ luật Dân sự năm 2005, thì bên góp vốn được để lại thừa kế phần vốn góp bằng giá trị QSDĐ. Do không quy định cụ thể nên việc áp dụng quy định này đối với góp vốn không chuyển QSDĐ gặp nhiều vướng mắc. Trường hợp góp vốn không chuyển QSDĐ, di sản thừa kế của người góp vốn bao gồm phần đó là phần vốn đã góp và QSDĐ sau khi hết thời hạn góp vốn. Người góp vốn bằng QSDĐ có thể để lại thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Vì thế, di sản là phần vốn góp và QSDĐ có thể được chia cho hai chủ thể khác nhau. Ví dụ, năm 2012 ông A góp vốn bằng quyền sử dụng 1.000 m2 đất trong thời hạn 20 năm trị giá 1 tỷ đồng với ông B để thành lập Công ty TNHH X, vốn góp của ông A tương đương với 50% vốn điều lệ của Công ty X. Năm 2014, ông A chết, trước khi chết ông A lập di chúc để cho bà M được thừa kế phần vốn góp vào Công ty X. Do ông A góp vốn không chuyển QSDĐ nên QSDĐ sau khi hết hạn góp vốn sẽ được chia theo pháp luật. Trong khi các thừa kế theo pháp luật của ông A yêu cầu chia di sản thừa kế và chuyển nhượng QSDĐ trong khi bà M muốn kế thừa tư cách của ông A ở Công ty X. Vấn đề đặt ra, khi các thừa kế theo pháp luật của ông A không đồng ý để bà M tiếp tục góp vốn bằng QSDĐ tại tại Công ty X thì bà M có được tiếp tục góp vốn bằng QSDĐ hay không. Các thừa kế của ông A có bị hạn chế việc thực hiện QSDĐ đã góp vốn hay không.

Từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng, pháp luật cần có quy định cụ thể đối với hai hình thức góp vốn bằng QSDĐ. Góp vốn bằng QSDĐ trên phương diện là quyền sử dụng đất đai cần có quy định phù hợp với hình thức góp vốn bằng quyền sử dụng tài sản. Việc hủy hợp đồng chỉ được đặt ra với những trường hợp vi phạm nghiêm trọng không thể khắc phục được. Đối với hình thức góp vốn chuyển QSDĐ, do bên nhận góp vốn là NSDĐ mới có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của NSDĐ. Vì thế, không nên quy định bên góp vốn được nhận lại QSDĐ khi thời hạn góp vốn. Đối với trường hợp người góp vốn bằng QSDĐ để lại thừa kế mà phần vốn góp và QSDĐ được chia cho các chủ thể khác nhau cần quy định theo đó người thừa kế QSDĐ bị hạn chế việc thực hiện quyền của NSDĐ trong thời hạn góp vốn được xác định trong hợp đồng góp vốn bằng QSDĐ.

Sỹ Hồng Nam

Vụ Giám đốc kiểm tra II – Tòa án nhân dân tối cao

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quy định pháp luật về công tác tiếp công dân

04/11/2015

1. Khái niệm tiếp công dân, nơi tiếp công dân, trụ sở tiếp công dân, địa điểm tiếp công dân

Trước khi có Luật Tiếp công dân năm 2013, các văn bản pháp luật của nước ta chưa có văn bản nào quy định thế nào là “tiếp công dân” mà chỉ có các khái niệm về trụ sở tiếp công dân, địa điểm tiếp công dân, trách nhiệm của cán bộ tiếp công dân… được quy định tại Chương 5 (từ Điều 59 đến Điều 62) Luật Khiếu nại năm 2011; tại Chương 5 (từ Điều 21 đến Điều 31) Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Khiếu nại; Thông tư số 07/2011/TT-TTCP ngày 28/7/2011 của Thanh tra Chính phủ hướng dẫn quy trình tiếp công dân.

Tuy nhiên, khái niệm “tiếp công dân” có thể được “ngầm” hiểu là trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, của thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước, của cán bộ được phân công nhiệm vụ tiếp công dân tại trụ sở tiếp công dân; việc tiếp công dân phải được tiến hành tại nơi tiếp công dân (trụ sở tiếp công dân, địa điểm tiếp công dân hoặc nơi làm việc của cơ quan có trách nhiệm tiếp công dân và phải thông báo trực tiếp cho người được tiếp); trách nhiệm tiếp công dân có thể được hiểu là tiếp công dân để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân để giải thích, hướng dẫn công dân thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

* Khái niệm tiếp công dân

Luật Tiếp công dân năm 2013 (có hiệu lực thi hành từ ngày 07/01/2014) quy định về khái niệm tiếp công dân tại khoản 1 Điều 2 như sau: “Tiếp công dân là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân quy định tại Điều 4 của Luật này tiếp đón để lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân; giải thích, hướng dẫn cho công dân về việc thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định của pháp luật. Tiếp công dân bao gồm tiếp công dân thường xuyên, tiếp công dân định kỳ và tiếp công dân đột xuất”.

* Nơi tiếp công dân

Luật Khiếu nại năm 2011 không quy định khái niệm “nơi tiếp công dân” mà chỉ quy định về trụ sở tiếp công dân và địa điểm tiếp công dân tại Điều 59 và được quy định chi tiết tại các điều từ Điều 21 đến Điều 26 Nghị định số 75/2012/NĐ-CP. Theo đó, có thể “ngầm” hiểu nơi tiếp công dân bao gồm: Trụ sở tiếp công dân của Trung ương Đảng và Nhà nước, trụ sở tiếp công dân của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Văn phòng Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân cấp huyện, trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 2 Luật Tiếp công dân năm 2013 thì nơi tiếp công dân bao gồm trụ sở tiếp công dân, địa điểm tiếp công dân hoặc nơi làm việc khác do cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm tiếp công dân bố trí và phải được thông báo công khai hoặc thông báo trước cho người được tiếp.

* Trụ sở tiếp công dân:

Luật Khiếu nại năm 2011 và Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày quy định khá đầy đủ về nhiệm vụ của trụ sở tiếp công dân của Trung ương Đảng và Nhà nước và trụ sở tiếp công dân của địa phương; cụ thể như sau:

– Tiếp công dân, hướng dẫn, giải thích, vận động, thuyết phục công dân thực hiện đúng đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước;

– Tiếp nhận đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh;

– Phân loại, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh;

– Theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của cơ quan có thẩm quyền.

– Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phối hợp với Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Văn phòng Tỉnh ủy, Ủy ban Kiểm tra tỉnh ủy bố trí cán bộ làm nhiệm vụ thường trực tiếp công dân tại trụ sở. Trụ sở tiếp công dân ở cấp tỉnh được tổ chức thành các phòng nghiệp vụ. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cử một Phó Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân phụ trách trụ sở tiếp công dân.

Luật Tiếp công dân năm 2013 tại Điều 10 quy định, trụ sở tiếp công dân là nơi để công dân trực tiếp đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh với lãnh đạo Đảng, Nhà nước ở trung ương hoặc lãnh đạo Đảng, chính quyền ở địa phương; có đại diện của một số cơ quan, tổ chức tại trung ương hoặc địa phương tham gia tiếp công dân thường xuyên và là nơi để lãnh đạo Đảng, Nhà nước hoặc địa phương trực tiếp tiếp công dân trong những trường hợp cần thiết. Theo đó, trụ sở tiếp công dân bao gồm:

– Trụ sở tiếp công dân ở trung ương được đặt tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, là nơi tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh với các cơ quan trung ương của Đảng, Chủ tịch nước, các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ. Ban tiếp công dân trung ương thuộc Thanh tra Chính phủ, chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý các trụ sở tiếp công dân ở trung ương. Văn phòng Chính phủ, Ban dân nguyện thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội cử đại diện phối hợp cùng Ban tiếp công dân trung ương thực hiện việc tiếp công dân thường xuyên tại trụ sở tiếp công dân ở trung ương (Điều 11 Luật Tiếp công dân năm 2013).

– Trụ sở tiếp công dân cấp tỉnh được tổ chức ở mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, là nơi tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh với Tỉnh ủy, Thành ủy (sau đây gọi chung là Tỉnh ủy), Đoàn Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân. Ban tiếp công dân cấp tỉnh do Ủy ban nhân dân tỉnh thành lập, trực thuộc Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, do một Phó Chánh Văn phòng phụ trách, chịu trách nhiệm quản lý Trụ sở tiếp công dân cấp tỉnh (Điều 12 Luật Tiếp công dân năm 2013).

– Trụ sở tiếp công dân cấp huyện được thành lập ở mỗi huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, là nơi tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh với Huyện ủy, Quận ủy, Thị ủy, Thành ủy (sau đây gọi chung là Huyện ủy), Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp huyện. Ban tiếp công dân cấp huyện do Ủy ban nhân dân cấp huyện thành lập, trực thuộc Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp huyện, do một Phó Chánh Văn phòng phụ trách, chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý Trụ sở tiếp công dân cấp huyện (Điều 13 Luật Tiếp công dân năm 2013). Đây là điểm mới của Luật Tiếp công dân năm 2013 mà Luật Khiếu nại trước đây không quy định.

Nhiệm vụ, quyền hạn của Trưởng Ban tiếp công dân được quy định tại Điều 14 Luật Tiếp công dân năm 2013.

Hiện nay, Chính phủ vẫn đang trong giai đoạn dự thảo văn bản hướng dẫn quy định chi tiết nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của các Ban tiếp công dân; việc bố trí cơ sở vật chất của trụ sở tiếp công dân; quy chế phối hợp hoạt động tiếp công dân tại trụ sở tiếp công dân theo quy định tại khoản 5 Điều 10 và Điều 36 Luật Tiếp công dân năm 2013.

* Địa điểm tiếp công dân ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và ở xã, phường, thị trấn

Luật Tiếp công dân năm 2013 quy định địa điểm tiếp công dân ở xã, phường, thị trấn của cấp ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn được thực hiện tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và người trực tiếp phụ trách công tác tiếp công dân là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (Điều 15). Sau thời điểm Luật Tiếp công dân năm 2013 có hiệu lực pháp luật (ngày 01/7/2014) thì Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp huyện không tiếp công dân tại Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp huyện mà tiếp tại trụ sở tiếp công dân cấp huyện.

Ngoài ra, Luật Tiếp công dân năm 2013 còn quy định việc tiếp công dân của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán nhà nước, các cơ quan của Quốc Hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp (tại các điều 17, 20, 21, 22). Theo đó, các đơn vị có trách nhiệm tổ chức việc tiếp công dân và bố trí địa điểm tiếp công dân của cơ quan mình để tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân.

2. Mục đích của việc tiếp công dân, trách nhiệm của cán bộ tiếp công dân và các trường hợp từ chối tiếp công dân

* Mục đích của việc tiếp công dân

Việc tiếp công dân nhằm tiếp nhận khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của thủ trưởng cơ quan hành chính để xem xét, ra quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận việc giải quyết tố cáo, quyết định xử lý tố cáo và trả lời cho công dân biết theo đúng thời gian pháp luật quy định; đồng thời, hướng dẫn công dân thực hiện quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật, góp phần tuyên truyền pháp luật về khiếu nại cho công dân.

* Trách nhiệm của cán bộ tiếp công dân (Điều 8 Luật Tiếp công dân năm 2013)

Khi tiếp công dân, người tiếp công dân phải bảo đảm trang phục chỉnh tề, có đeo thẻ công chức, viên chức hoặc phù hiệu theo quy định;

– Yêu cầu người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh nêu rõ họ tên, địa chỉ hoặc xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy ủy quyền (nếu có); có đơn hoặc trình bày rõ ràng nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết cho việc tiếp nhận, thụ lý vụ việc;

– Có thái độ đúng mực, tôn trọng công dân, lắng nghe, tiếp nhận đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh hoặc ghi chép đầy đủ, chính xác nội dung mà người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh trình bày;

– Giải thích, hướng dẫn cho người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh chấp hành chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, kết luận, quyết định giải quyết đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan có thẩm quyền; hướng dẫn người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đến đúng cơ quan hoặc người có thẩm quyền giải quyết;

– Trực tiếp xử lý hoặc phân loại, chuyển đơn, trình người có thẩm quyền xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; thông báo kết quả xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh cho công dân;

– Yêu cầu người vi phạm nội quy nơi tiếp công dân chấm dứt hành vi vi phạm; trong trường hợp cần thiết, lập biên bản về việc vi phạm và yêu cầu cơ quan chức năng xử lý theo quy định của pháp luật.

* Các trường hợp từ chối tiếp công dân

Các trường hợp từ chối tiếp dân được quy định tại Điều 9 Luật Tiếp công dân năm 2013.

3. Quyền và nghĩa vụ của người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh tại nơi tiếp công dân (Điều 7 Luật Tiếp công dân năm 2013)

* Khi đến nơi tiếp công dân, người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh có các quyền sau:

– Trình bày về nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh;

Được hướng dẫn, giải thích về nội dung liên quan đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của mình;

– Khiếu nại, tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật của người tiếp công dân;

– Nhận thông báo về việc tiếp nhận, kết quả xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh;

– Trường hợp người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh không sử dụng thông thạo tiếng Việt thì có quyền sử dụng người phiên dịch;

– Các quyền khác theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.

* Khi đến nơi tiếp công dân, người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh có các nghĩa vụ sau đây:

– Nêu rõ họ tên, địa chỉ hoặc xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy ủy quyền (nếu có);

– Có thái độ đúng mực, tôn trọng đối với người tiếp công dân;

– Trình bày trung thực sự việc, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; ký hoặc điểm chỉ xác nhận những nội dung trình bày đã được người tiếp công dân ghi chép lại;

– Nghiêm chỉnh chấp hành nội quy tiếp công dân và hướng dẫn của người tiếp công dân;

– Trường hợp nhiều người cùng khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về một nội dung thì phải cử người đại diện để trình bày nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh;

– Chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung khiếu nại, tố cáo của mình.

4. Công tác tiếp công dân tại nơi tiếp công dân

4.1. Tiếp người khiếu nại và xử lý nội dung khiếu nại của người khiếu nại

4.1.1. Xác định nhân thân của người khiếu nại, tính hợp pháp của người đại diện theo pháp luật

Khi tiếp người khiếu nại, cán bộ tiếp công dân đề nghị người khiếu nại giới thiệu họ tên, địa chỉ và xuất trình giấy tờ tùy thân và giấy giới thiệu (nếu có) để xác định họ là người tự mình thực hiện việc khiếu nại hay là người đại diện khiếu nại.

Trường hợp công dân tự mình thực hiện việc khiếu nại và đủ điều kiện khiếu nại thì cán bộ tiếp công dân tiếp nhận khiếu nại và báo cáo Thủ trưởng cơ quan thụ lý để giải quyết.

Trường hợp công dân là người không có đủ điều kiện để khiếu nại theo quy định thì cán bộ tiếp công dân giải thích, hướng dẫn công dân làm các thủ tục cấn thiết để thực hiện việc khiếu nại theo đúng quy định.

Các điều kiện để tiếp nhận khiếu nại:

– Người khiếu nại là người phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;

– Người khiếu nại là người có quyền, lợi ích hợp pháp chịu tác động trực tiếp bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính mà mình khiếu nại; trường hợp khiếu nại thông qua người đại diện thì người đại đại diện phải là một trong số những người khiếu nại nêu trên và phải là người có năng lực pháp luật dân sự đầy đủ.

– Nội dung khiếu nại chưa có quyết định giải quyết khiếu nại lần hai và chưa được Tòa án thụ lý để giải quyết.

4.1.2. Xác định tính hợp pháp của người đại diện

* Trường hợp đại diện theo ủy quyền

Điều 12 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định, các trường hợp công dân có quyền ủy quyền cho người khác thực hiện việc khiếu nại. Theo đó, có các trường hợp sau:

– Trường hợp người khiếu nại đau ốm, già yếu, có nhược điểm về thể chất hoặc vì lý do khách quan khác mà không thể tự mình khiếu nại thì có thể ủy quyền cho cha, mẹ, vợ, chồng, anh, chị, em ruột, con đã thành niên hoặc người khác có năng lực hành vi dân sự đầy đủ để thực hiện việc khiếu nại. Theo quy định tại Điều 18 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì người đã thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên.

– Ngoài ra, người khiếu nại có thể ủy quyền cho luật sư khiếu nại để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình; trường hợp người khiếu nại là người được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật thì có thể ủy quyền cho trợ giúp viên pháp lý khiếu nại để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

* Trường hợp đại diện theo pháp luật

Điều 12 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định, trường hợp người khiếu nại là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự thì người đại diện theo pháp luật của họ thực hiện việc khiếu nại.

Trong trường hợp qua kiểm tra, cán bộ tiếp công dân phát hiện công dân không cung cấp được các văn bản liên quan đến việc ủy quyền thì không tiếp nhận hồ sơ vụ việc và giải thích rõ, hướng dẫn để công dân làm các thủ tục cần thiết để thực hiện việc khiếu nại theo đúng quy định pháp luật.

4.1.3. Xử lý nội dung khiếu nại, kiến nghị, phản ánh liên quan đến khiếu nại của công dân

Trường hợp công dân trực tiếp đến trình bày khiếu nại mà khiếu nại đó thuộc thẩm quyền giải quyết của thủ trưởng cơ quan thì cán bộ tiếp công dân hướng dẫn công dân viết thành đơn hoặc lập thành văn bản ghi lại nội dung khiếu nại công dân trình bày và yêu cầu người khiếu nại ký tên hoặc điểm chỉ vào văn bản đó; vào sổ theo dõi khiếu nại; báo cáo thủ trưởng cơ quan để giải quyết theo quy định của pháp luật; trường hợp vụ việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của thủ trưởng cơ quan thì hướng dẫn công dân khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

4.2. Tiếp người tố cáo và xử lý nội dung tố cáo của công dân

* Xác định nhân thân của người tố cáo

Khi tiếp người tố cáo, cán bộ tiếp công dân đề nghị người tố cáo giới thiệu họ tên, địa chỉ, xuất trình giấy tờ tùy thân của họ. Trường hợp người tố cáo không xuất trình được giấy tờ tùy thân thì cán bộ tiếp công dân từ chối không tiếp; trừ trường hợp việc tố cáo có tính khẩn cấp như tố cáo hành vi vi phạm pháp luật có khả năng gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại ngay lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Khi đó, cán bộ tiếp công dân phải báo cáo ngay thủ trưởng cơ quan áp dụng biện pháp theo thẩm quyền để ngăn chặn hoặc thông báo cho cơ quan chức năng để có biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời.

* Nghe, ghi chép nội dung tố cáo, tiếp nhận thông tin, tài liệu

Khi người tố cáo đến trình bày trực tiếp, cán bộ tiếp công dân lắng nghe, ghi chép đầy đủ nội dung tố cáo như: Họ tên, địa chỉ người tố cáo, họ tên, địa chỉ người bị tố cáo và những người khác có liên quan; thời gian, địa điểm diễn ra vụ việc; nội dung vụ việc, quá trình giải quyết của cơ quan có thẩm quyền (nếu có), nội dung tố cáo, nếu cần thiết thì ghi âm lời tố cáo. Bản ghi âm lời tố cáo phải cho người tố cáo đọc lại, nghe lại, nếu còn ý kiến thêm thì bổ sung sau đó và yêu cầu người tố cáo ký xác nhận.

– Trường hợp công dân trực tiếp đến trình bày tố cáo, kiến nghị, phản ánh thì cán bộ tiếp công dân ghi chép nội dung tố cáo, kiến nghị, phản ánh; vào sổ tiếp công dân; đối với tố cáo thì đề nghị người tố cáo ký tên hoặc điểm chỉ vào biên bản ghi nội dung tố cáo; đối với kiến nghị, phản ánh, xét thấy cần thiết hoặc công dân yêu cầu thì đề nghị họ ký tên.

– Nếu nội dung tố cáo, kiến nghị, phản ánh thuộc thẩm quyền giải quyết của thủ trưởng cơ quan thì báo cáo thủ trưởng cơ quan để giải quyết theo quy định của pháp luật; nếu nội dung tố cáo, kiến nghị, phản ánh không thuộc thẩm quyền giải quyết của thủ trưởng cơ quan thì hướng dẫn công dân đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền để giải quyết.

Nguyễn Đăng Khoa

Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com