Bán tài sản đấu giá thi hành án – Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn

29/07/2014

Bán đấu giá là giai đoạn cuối cùng và quan trọng trong quá trình xử lý tài sản của người phải thi hành án để bảo đảm việc thi hành án. Khi một tài sản cưỡng chế, kê biên được đưa ra bán công khai trong thời hạn nhất định, quá thời hạn thông báo mà không có người đăng ký mua hoặc có một hoặc nhiều người đăng ký đấu giá, nhưng cuối cùng không ai đồng ý mua, thì tài sản đó được xem là bán đấu giá không thành. Việc tổ chức bán đấu giá có nội dung khá rộng, bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến cách xử lý tài sản kê biên, đấu giá không thành.

1. Quy định pháp luật về xử lý việc bán đấu giá không thành

Điều 34 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 quy định về bán đấu giá tài sản đã kê biên: “… Tài sản không bán được thì được định giá lại để tiếp tục bán đấu giá.

Đối với tài sản không bán được, chấp hành viên yêu cầu người được thi hành án nhận; nếu người được thi hành án không nhận thì chấp hành viên trả tài sản cho người phải thi hành án và quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế khác…”1

Đây là quy định nền tảng về vấn đề xử lý tài sản kê biên bán đấu giá không thành một cách chung nhất với hai nội dung đặt ra cần giải quyết là, tài sản bán không được thì được định giá lại để tiếp tục bán đấu giá và sự kiện bán đấu giá không thành xuất hiện quyền được nhận và nghĩa vụ phải nhận tài sản kê biên bán đấu giá để cấn trừ nợ của người được thi hành án.

Hậu quả của việc không nhận tài sản đấu giá trừ nợ của người được thi hành án làm phát sinh quyền được nhận lại tài sản bị kê biên, bán đấu giá của người phải thi hành án. Sự lựa chọn giải pháp kê biên tài sản khác là quyền của cơ quan thi hành án.

Điểm 8 Điều 17 Nghị định số 69/1993/NĐ-CP ngày 18/10/1993 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 đã khẳng định lại lần nữa nội dung quy định của pháp lệnh, cụ thể: “Đối với tài sản không bán được, chấp hành viên yêu cầu người được thi hành án nhận; nếu người đó không nhận, thì chấp hành viên trả tài sản cho người phải thi hành án và quyết định áp dụng biện pháp trừ vào thu nhập hoặc trừ vào tài sản khác của người phải thi hành án đang do người khác giữ, hoặc kê biên tài sản khác nếu có”2

Với quy định xử lý tài sản kê biên không bán được như trên đã phát sinh một số vấn đề như: Số lần được giảm giá tài sản là bao nhiêu thì hợp lý, mỗi lần giảm bao nhiêu phần trăm là vừa phải, người được thi hành án có bị ép phải nhận tài sản kê biên để trừ nợ không sau khi tài sản kê biên được giảm giá hai lần, việc người được thi hành án không nhận tài sản bán đấu giá trừ nợ, thì tài sản được trả lại cho người phải thi hành án có vội vã quá không, xử sự như vậy có hợp lý không. Chúng tôi cho rằng, quy định như vậy là quá sơ khai, còn nợ quá nhiều nghi vấn chưa giải quyết thấu đáo.

Đến Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, quan điểm xử lý tài sản kê biên không bán được vẫn giống như Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993; có chăng, quy định cụ thể hơn về mức giá tối đa được phép giảm…3

Điều104 Luật Thi hành án năm 2008 quy định: “Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày bán đấu giá không thành, mà đương sự không yêu cầu định giá lại, thì chấp hành viên ra quyết định giảm giá tài sản để tiếp tục bán đấu giá. Mỗi lần giảm giá không quá mười phần trăm giá đã định.

Trường hợp giá tài sản đã giảmthấp hơn chi phí cưỡng chế mà người được thi hành án không nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án, thì tài sản được trả lại cho người phải thi hành án”.

Ngoài ra, các nghị định như Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/07/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2008; Nghị định số 125/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/07/2009 cũng quy định về xử lý việc bán đấu giá không thành. Bên cạnh đó, ngày 23/01/2014, Bộ Tư pháp lại có Công văn số 224 tiếp tục hướng dẫn cụ thể một số vướng mắc về nghiệp vụ thi hành án.

Như vậy, đến thời điểm này, nếu chỉ tính riêng các văn bản luật chuyên ngành quy định về xử lý tài sản bán đấu giá không thành thì đã có 01 văn bản luật, 02 pháp lệnh (chỉ tính từ Pháp lệnh Thi hành án năm 1993), 03 nghị định, 02 công văn hướng dẫn.

Qua nội dung các văn bản quy định, hướng dẫn nội dung xử lý việc bán đấu giá tài sản kê biên không thành, chúng tôi quan tâm mấy nội dung như sau:

Một là, tất cả các văn bản luật đều thống nhất tài sản kê biên có giá trị được bán công khai (bán đấu giá), trường hợp bán không được thì giảm giá bán tiếp.

Hai là, những văn bản luật trước khi có Luật Thi hành án dân sự năm 2008, thì có những quy định thể hiện tâm lý xử lý tài sản kê biên không bán được của nhà làm luật một cách quá vội vàng (giảm giá hai lần giao cho người được thi hành án nhận để trừ nợ, không nhận, trả đơn yêu cầu thi hành án), thể hiện sự nóng vội trong việc sớm chấm dứt vụ án một cách miễn cưỡng, mà không xem xét, căn cứ vào các nguyên nhân khách quan, chủ quan trong việc chưa bán được tài sản kê biên (Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 không quy định số lần giảm giá; Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 quy định sau hai lần giảm giá thì giao tài sản trừ nợ). Sự vội vàng này theo tác giả là một tâm lý tiêu cực, là một bất cập.

Bà là, những quy định tính từ Luật Thi hành án dân sự năm 2008 về sau, thì quy định việc xử lý tài sản kê biên không bán được lại phải được giảm giá bán đến cùng và chỉ dừng lại khi giá trị tài sản được giảm bằng với chi phí đã bỏ ra trong quá trình cưỡng chế, kê biên, bán đấu giá. Đây cũng là một quy định bất cập khác mà Luật Thi hành án dân sự năm 2008 vấp phải.

Quan điểm phải giảm giá tài sản cưỡng chế, kê biên đến cùng quy định trong Luật Thi hành án dân sự năm 2008 cũng là quan điểm tiêu cực không kém gì quan điểm vội vàng buộc người được thi hành án nhận tài sản xử lý chưa được để trừ nợ của các Pháp lệnh trước Luật.

Những bất cập có thể được mô tả như sau:

– Chưa xem xét thấu đáo nguyên nhân bán đấu giá không thành. Thông thường một tài sản được định giá đúng quy trình, trong quá trình tổ chức bán đấu giá mà phải giảm đến một nửa hoặc hơn một nửa… nhưng vẫn bán không được, thì quy luật về giá trị của tài sản không còn bảo đảm. Hay nói cách khác, trong trường hợp này, giá trị của tài sản không phải là nguyên nhân dẫn đến việc không bán được tài sản, việc tài sản không bán được là do nhiều nguyên nhân khác nhau.

– Quan điểm “buộc” chấp hành viên phải truy đuổi đến cùng một tài sản như vậy là hoàn toàn sai lầm, không thể xử lý đến cùng một tài sản để cuối cùng chỉ nhằm thu hồi về số tiền bằng với chi phí đã bỏ ra. Xét về mặt kinh tế thì việc làm như vậy là phi kinh tế, xét về mặt nhân đạo của nhà nước thì không bảo đảm, xét về mặt thực tiễn thì đã bỏ qua những tài sản khác (trong quá trình thi hành án thì chấp hành viên có quyền xử lý bất kỳ tài sản nào nếu việc xử lý thuận lợi nhất), xét về mặt tâm lý thì chấp hành viên bị sa lầy hồ sơ thi hành án.

– Sau khi ban hành Nghị định số 125/2013/NĐ-CP bổ sung Nghị định số 58/2009/NĐ-CP, sự việc vẫn có chỗ vướng mắc nên phải ban hành tiếp một số công văn hướng dẫn thêm. Tuy vậy, việc này vẫn còn có chỗ vướng mắc.

Ví dụ: Ông A phải nộp trả nợ cho ông B 400 triệu đồng, cơ quan thi hành án tổ chức kê biên nhà của ông A, tổ chức bán đấu giá bảo đảm thi hành án. Quá trình đấu giá đã giảm giá 4 lần nhưng không có người đăng ký mua; người phải thi hành án yêu cầu thẩm định lại giá, khi có giá mới, cơ quan thi hành án tiếp tục tổ chức bán đấu giá theo giá mới, người được thi hành án yêu cầu được nhận tài sản để trừ nợ. Trong trường hợp này, có các quan điểm như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, người được thi hành án yêu cầu nhận tài sản là đúng, cơ quan thi hành án phải làm thủ tục cho họ nhận tài sản để trừ nợ vì căn cứ Nghị định số 125/2013/NĐ-CP, trường hợp này đã giảm giá đến bốn lần theo quy định của pháp luật, thủ tục thi hành án là một quá trình, việc định giá lại không làm mất hiệu lực của những lần giảm giá trước đó.

Quan điểm thứ hai thì cho rằng, trong trường hợp này, không thể cho người được thi hành án nhận tài sản trừ nợ theo quy định tại Nghị định số 125/2013/NĐ-CP, vì dù rằng, xét quá trình tổ chức bán đấu giá thì đã hơn ba lần giảm giá, nhưng trong quá trình bán đấu giá, người phải thi hành án yêu cầu thẩm định lại giá, tài sản có sự thay đổi về giá trị, do đó, quy định sau ba lần giảm giá nếu không bán được tài sản thì yêu cầu người được thi hành án nhận tài sản trừ nợ được hiểu là ba lần giảm giá liên tục ở một giá trị nhất định đã được thông báo. Hay nói cách khác, những lần giảm giá trước khi tổ chức xác định lại giá trị tài sản kê biên bán đấu giá không thành không tính vào số lần giảm giá chung làm căn cứ cho người được thi hành án nhận tài sản kê biên trừ nợ.

Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ nhất và cho rằng, Nghị định số 125/2013/NĐ-CP quy định sau ba lần giảm giá nhưng không có người đăng ký mua tài sản kê biên, bán đấu giá thì người được thi hành án có quyền yêu cầu được nhận tài sản đấu giá để cấn trừ nợ. Việc giảm giá đến ba lần tính trên tổng số lần giảm giá trong quá trình bán đấu giá không phân biệt các lần giảm giá trước, sau khi giá trị tài sản kê biên có sự thay đổi.

2. Nhận xét

Trong cuộc sống, một tài sản được chào bán nhiều lần, nhưng không bán được, cách xử lý như thế nào là vấn đề quan tâm đối với người bán tài sản đó. Ví như, người nông dân mang mớ rau ra chợ bán, đến trưa, đến chiều không có người mua, thì việc xử lý như thế nào đối với mớ rau đó, cần được cân nhắc, có thể để lại ngày hôm sau mang ra chợ bán tiếp, có thể để lại nhà sử dụng, cũng có thể phải bỏ đi…, tuyệt nhiên không thể mang ra chợ bán đến ngày thứ ba, thứ tư, vì chi phí cho việc bán nó chắc chắn lớn hơn giá trị bản thân mớ rau đó rất nhiều. Cũng vậy, khi doanh nhân chào hàng một bất động sản, việc xử lý như thế nào đối với bất động sản đó khi nhiều lần không bán được là vấn đề cần suy nghĩ. Có thể, doanh nhân không bán nữa, mà dùng tài sản đó vào việc khác, có thể giảm giá nhiều lần để tiếp tục bán, thậm chí có khi không còn quan tâm đến việc mua bán bất động sản đó nữa, tuyệt nhiên không có doanh nhân nào đem tài sản bán chỉ để thu hồi chi phí đã bỏ ra bán chúng.

Theo các quy định của pháp luật thì:

Đối với quy định pháp luật trước khi có Luật Thi hành án dân sự năm 2008 ra đời, thì việc xử lý tài sản đấu giá không bán được quá “nghiêm khắc”. Theo đó, sau hai lần giảm giá mà tài sản kê biên không bán được, giao cho người được thi hành án nhận để trừ nợ, trường hợp người được thi hành án không nhận, thì trả lại đơn yêu cầu thi hành án và xem xét kê biên tài sản khác để bảo đảm thi hành án. Chỉ hai lần giảm giá không có người mua, đã phát sinh nghĩa vụ nhận tài sản của người được thi hành án, không nhận thì trả đơn là quá nghiêm khắc.

Đối với quy định pháp luật từ khi có Luật Thi hành án ra dân sự năm 2008 ra đời, thì việc xử sự đối với tài sản kê biên không bán được lại có chiều hướng đi ngược lại với quan điểm của quy định pháp luật trước đó, cụ thể là “bán không được thì giảm giá đến cùng”. Đây cũng là quan điểm quá nghiêm khắc.

Sự nghiêm khắc của quy định pháp luật dẫn đến hệ lụy: Biểu hiện tính vội vàng xử lý tài sản kê biên của quy định pháp luật kéo theo nhiều hệ lụy bất lợi khác cho các bên đương sự; Biểu hiện tính thụ động, tiêu cực trong việc xử lý tài sản kê biên không bán được; Các quy định của pháp luật chưa dự liệu được tình huống:

– Khi đang xử lý một tài sản (có thể bán được hoặc chưa bán được), chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế để “giữ chân” tài sản khác của người phải thi hành án không? Thực tiễn cho thấy, khi chấp hành viên “cố” xử lý một tài sản mà chưa biết có thể xử lý hiệu quả đến đâu, thì người phải thi hành án cũng có thể nhanh chân tẩu tán những tài sản khác, nếu không có biện pháp ngăn chặn hoặc kê biên xử lý, thì việc chứng minh, xác minh đối với các loại tài sản bị tẩu tán, việc xử lý hết sức khó khăn, phức tạp

– Tài sản giảm giá đến bằng chi phí cưỡng chế, nhưng vẫn không bán được và người được thi hành án cũng không nhận để trừ nợ, thì được trả lại cho người phải thi hành án, sau đó có thể kê biên, bán đấu giá trở lại chính tài sản đó không, thời gian bao lâu thì được kê biên trở lại.

3. Kiến nghị

Từ quy định, nhận định và phân tích về nội dung xử lý tài sản kê biên, bán đấu giá không thành như trên, chúng tôi kiến nghị mấy vấn đề như sau:

Thứ nhất, chúng tôi đồng tình với cách giải quyết về xử lý tài sản kê biên không bán được theo Nghị định 125/2013/NĐ-CP, cụ thể là, sau ba lần giảm giá mà không có người mua, thì giao tài sản cho người được thi hành án theo giá đã giảm, để cấn trừ nợ là vừa phải, hợp lý, hợp tình. Trường hợp người được thi hành án không đồng ý nhận tài sản theo giá đã giảm để cấn trừ nợ, thì cần quy định chi tiết:

– Cơ quan thi hành án tiếp tục giảm giá thêm hai lần nữa, nếu tài sản vẫn không bán được, thì tiếp tục yêu cầu người được thi hành án nhận để trừ nợ, trường hợp người được thi hành án vẫn không đồng ý nhận, mà người phải thi hành án cũng không còn tài sản nào khác, thì cơ quan thi hành án quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án lại cho người được thi hành án, quyết định trả lại tài sản cho người phải thi hành án, sau khi đã thu hồi chi phí cưỡng chế thi hành án.

– Trường hợp người phải thi hành án có tài sản khác có giá trị bảo đảm việc thi hành án, thì chấp hành viên tiếp tục kê biên tài sản đó để thi hành án; tài sản đã kê biên được trả lại cho người phải thi hành án khi đã thu hồi các khoản chi phí cưỡng chế.

Thứ hai, trong quá trình kê biên, xử lý một tài sản, chấp hành viên có quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm liên quan đến tài sản và nhân thân người phải thi hành án, để duy trì điều kiện thi hành án, bảo đảm cho việc thi hành bản án.

Bùi Thái Bình

Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Tân, Bình Thuận

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Kinh nghiệm thẩm định văn bản quy phạm pháp luật cấp tỉnh từ Sở Tư pháp Thành phố Cần Thơ

16/06/2014

Việc thẩm định văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan tư pháp gồm Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, phòng Tư pháp thực hiện. Trong đó Sở Tư pháp thẩm định các văn bản quy phạm pháp luật của cấp tỉnh bao gồm thẩm định dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân, dự thảo quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Khi thực hiện cơ chế thẩm định văn bản quy phạm pháp luật, Sở Tư pháp được xem như là “người gác cổng về mặt pháp lý”, giúp hoàn thiện dự thảo nghị quyết, quyết định, chỉ thị trước khi cơ quan có thẩm quyền thông qua hoặc ký ban hành.

Sở Tư pháp xem xét, đánh giá về nội dung và hình thức, kỹ thuật soạn thảo đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục do luật định. Đây là khâu bắt buộc trong quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, được vận hành bắt đầu khi Sở Tư pháp nhận đủ hồ sơ theo quy định từ cơ quan soạn thảo dự thảo nghị quyết, quyết định, chỉ thị cho đến khi Sở Tư pháp hoàn thành và ban hành Báo cáo thẩm định. Việc thẩm định này căn cứ vào các nội dung sau: (1) Sự cần thiết ban hành nghị quyết, quyết định, chỉ thị; (2) đối tượng, phạm vi điều chỉnh của dự thảo; (3) tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo nghị quyết, quyết định, chỉ thị với hệ thống pháp luật; (4) ngôn ngữ, kỹ thuật trình bày văn bản. Ngoài ra, Sở Tư pháp có thể đưa ra ý kiến về tính khả thi của dự thảo nghị quyết, quyết định, chỉ thị[1].

1. Những khó khăn, vướng mắc trong việc thẩm định văn bản quy phạm pháp luật của Sở Tư pháp

Hiện nay, thông qua thực tiễn công tác thẩm định văn bản quy phạm pháp luật của Sở Tư pháp thành phố Cần Thơ, bên cạnh những điểm thuận lợi, công tác thẩm định đang gặp phải một số khó khăn, vướng mắc như sau:

Một là chưa quy định cụ thể phương pháp thẩm định từng nội dung trong phạm vi thẩm định mà chỉ dừng lại ở việc hướng dẫn nghiệp vụ. Hiện nay, một số bộ ngành trung ương đã ban hành quy định về xây dựng, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật của ngành nhưng hầu như chỉ quy định về trình tự, thủ tục mà chưa quy định về phương pháp thẩm định, do quan điểm cho rằng nội dung này thuộc hướng dẫn về nghiệp vụ. Tuy nhiên, nếu không được pháp lý hóa thì việc thẩm định văn bản quy phạm pháp luật có chất lượng hay không lại phụ thuộc vào kinh nghiệm, trình độ chuyên môn, năng lực và ý chí chủ quan của cán bộ, công chức thực hiện công tác thẩm định.

Ngoài ra, nếu dự thảo căn cứ vào các văn bản của cấp trên thì việc thẩm định sự cần thiết ban hành nghị quyết, quyết định, chỉ thị dễ dàng, thuận lợi do đã có quy định điều khoản rõ ràng trong văn bản của bộ ngành Trung ương…Tuy nhiên, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh còn ban hành các văn bản để thực hiện chức năng quản lý nhà nước cũng như quyết định những chủ trương, biện pháp để phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương. Đây là trường hợp khó thẩm định vì có những vấn đề phát sinh ở địa phương cần giải quyết kịp thời nhưng văn bản cấp trên chưa quy định nên chưa có cơ sở pháp lý vững chắc để ban hành văn bản. Hầu hết các dự thảo văn bản này rất khó được thông qua. Thực tế, cơ quan soạn thảo và Ủy ban nhân dân phải tổ chức nhiều cuộc họp bàn bạc, thảo luận, mất nhiều thời gian, công sức.

Hai là văn bản trung ương phân cấp quá nhiều thẩm quyền cho Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Thực tế, Hội đồng nhân dân chỉ được quyền quyết định và thông qua các nghị quyết tại hai kỳ họp trong năm. Hơn nữa, thời gian của mỗi kỳ họp rất hạn chế (khoảng 03 ngày) với khối lượng công việc rất lớn nên trước mỗi kỳ họp Hội đồng nhân dân, dự thảo nghị quyết gửi Sở Tư pháp thẩm định cùng một thời gian trong khi biên chế Phòng xây dựng văn bản của Sở Tư pháp không nhiều. Do áp lực về tiến độ nên dễ dẫn đến việc thẩm định không đảm bảo chất lượng.

Ngoài ra, đối với trường hợp dự thảo nghị quyết ban hành để quy định một vấn đề cụ thể mà văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên giao cho Hội đồng nhân dân. (Ví dụ tại một điều khoản cụ thể trong nghị định hoặc thông tư quy định “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định…” hoặc là “Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định….”), xét về mặt câu chữ thì văn bản Trung ương quy định như trên rất thuận lợi cho địa phương thực hiện. Tuy nhiên, trong một văn bản của Trung ương quy định nội dung này do Hội đồng nhân dân quyết định, nội dung khác thì do Ủy ban nhân dân quyết định thì cơ quan thẩm định gặp phải khó khăn.

Để thuận lợi trong việc áp dụng, thi hành các quy định pháp luật; đồng thời để không căn cứ quá nhiều văn bản khi thực hiện cùng một vấn đề, cơ quan soạn thảo thường đề nghị ban hành trong cùng một nghị quyết quy định tất cả vấn đề liên quan (dù thuộc thẩm quyền quyết định của Ủy ban nhân dân). Trong khi đó, với lý do được nêu ra là văn bản quy phạm pháp luật không được quy định lại các nội dung đã được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật khác[2], Sở Tư pháp thẩm định và chỉ thống nhất những nội dung văn bản cấp trên giao thẩm quyền cho Hội đồng nhân dân, còn những nội dung thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân thì quy định trong quyết định của Ủy ban nhân dân. Như vậy, dẫn đến tình trạng khi áp dụng một vấn đề, địa phương sẽ sử dụng nhiều văn bản: một là văn bản của Hội đồng nhân dân và hai là văn bản của Ủy ban nhân dân. Điều này tạo ra sự khó khăn khi thực hiện, áp dụng.

Ba là vấn đề nhận diện văn bản quy phạm pháp luật (thường xảy ra đối với văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của Ủy ban nhân dân). Hiện nay, cơ quan soạn thảo còn lúng túng trong việc xác định giữa văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hành chính (do văn bản dự thảo vấn đề này phát sinh đột xuất không được đăng ký trong chương trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật hằng năm). Sau khi hoàn thành việc soạn thảo văn bản, một số cơ quan lập hồ sơ và gửi Sở Tư pháp thẩm định, trong khi một số khác thì không thực hiện mà trình trực tiếp Ủy ban nhân dân ban hành. Trường hợp nội dung văn bản không chứa quy phạm pháp luật nhưng cơ quan soạn thảo vẫn thực hiện đúng thủ tục và gửi hồ sơ thẩm định đến Sở Tư pháp sẽ làm mất nhiều thời gian, lãng phí nhân lực, tài chính. Trường hợp cơ quan soạn thảo không gửi Sở Tư pháp thẩm định nhưng nội dung văn bản có chứa quy phạm pháp luật thì văn bản này sẽ sai quy định vì không được phép ban hành dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật.

Bốn là, vấn đề lấy ý kiến về tính khả thi. Theo quy định thì không bắt buộc Sở Tư pháp đưa ra ý kiến về tính khả thi của dự thảo nghị quyết, quyết định, chỉ thị và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 không quy định cụ thể vấn đề này. Tuy nhiên, việc xem xét tính khả thi cũng có ý nghĩa quan trọng vì ban hành nghị quyết, quyết định, chỉ thị là để triển khai thực hiện trên thực tế thì phải xem xét, đánh giá văn bản có phù hợp với yêu cầu xã hội, trình độ phát triển của địa phương, có đủ các điều kiện về nhân lực, vật lực thì mới ban hành văn bản. Trường hợp Sở Tư pháp cho ý kiến thì cũng khó thực hiện do không quy định các điều kiện, cơ chế đi kèm nên nếu có thì ý kiến về tính khả thi cũng chỉ là chủ quan, cảm tính.

Năm là, vấn đề xác định trách nhiệm của các bên có liên quan. Sau khi thẩm định, Sở Tư pháp gửi báo cáo thẩm định đến cơ quan soạn thảo. Cơ quan soạn thảo có trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu ý kiến thẩm định để chỉnh lý dự thảo[3]. Ở đây sẽ xảy ra hai trường hợp: Thứ nhất là cơ quan soạn thảo thống nhất và chỉnh lý theo đúng nội dung thẩm định của Sở Tư pháp; thứ hai là cơ quan soạn thảo không thống nhất với thẩm định của Sở Tư pháp. Một bên là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực chuyên ngành. Một bên là cơ quan chuyên “gác cổng về mặt pháp lý”. Nếu ban hành theo đề nghị của cơ quan soạn thảo thì chưa hợp pháp. Nếu ban hành theo thẩm định của Sở Tư pháp thì chưa hợp lý, khó triển khai, thực hiện. Thực tế, do nhu cầu phải quản lý, phải điều chỉnh quan hệ xã hội mới phát sinh, phải đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực đó nên hầu hết ưu tiên ban hành văn bản theo đề nghị của cơ quan soạn thảo. Đây cũng là nguyên nhân thứ hai làm cho văn bản thẩm định của Sở Tư pháp chưa được thực hiện đầy đủ. Mặt khác, việc thực thi các quy định về xem xét trách nhiệm của Sở Tư pháp sau khi thẩm định văn bản cũng chưa được thực hiện triệt để. Trong nhiều trường hợp, nhất là đối với quyết định của Ủy ban nhân dân, sau khi phát hiện văn bản sai quy định pháp luật thì hầu như không đặt ra vấn để trách nhiệm của Sở Tư pháp.

2. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện nâng cao hiệu quả của công tác thẩm định văn bản quy phạm pháp luật của Sở Tư pháp

Để khắc phục các bất cập trên, xin đề xuất một số giải pháp như sau:

Thứ nhất, ban hành văn bản quy định về phương pháp thẩm định từng nội dung trong phạm vi thẩm định, mẫu hóa báo cáo thẩm định đảm bảo Sở Tư pháp có ý kiến, kết luận thẩm định đầy đủ, cụ thể, chi tiết, sát với đặc điểm của mỗi dự thảo nghị quyết, quyết định, tránh việc thẩm định theo lối mòn, hình thức.

Song song với việc ban hành quy định về phương pháp thẩm định thì cần ban hành văn bản quy định về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thay thế Thông tư liên tịch số 55/2005/TTLT-BNV-VPCP ngày 06/5/2005 của Bộ Nội vụ và Văn phòng Chính phủ hướng dẫn về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản, quy định nội dung theo hướng như Bộ Tư pháp đã quy định[4]. Khi hợp nhất Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 thì cần thiết phải ban hành phải các quy định thống nhất về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ hai, cần có quy định “mở” khi áp dụng nguyên tắc: Không quy định lại các nội dung đã được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật khác. Trong đó, cần quy định trường hợp nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định của Ủy ban nhân dân được quy định lại, trường hợp nào không được quy định lại; nội dung nào của văn bản quy phạm pháp luật khác được nêu lại trong nghị quyết, quyết định. Đối với những nội dung gắn liền với đặc điểm của địa phương thì cho phép được quy định lại những nội dung mang tính nguyên tắc với điều kiện là các quy định này có mối liên quan mật thiết với các quy định trong dự thảo văn bản để đảm bảo tính logíc, hệ thống của một văn bản. Quy định này sẽ giúp cho việc thẩm định cũng như việc soạn thảo thuận tiện, không gây tranh cãi giữa cơ quan tư pháp và cơ quan soạn thảo.

Thứ ba, bổ sung việc thẩm định tính khả thi của dự thảo là khâu bắt buộc trong cơ chế thẩm định văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Để Sở Tư pháp thẩm định được tính khả thi thì cần quy định các điều kiện đảm bảo thực hiện như quy định cơ quan soạn thảo phải đánh giá thực tế, đánh giá trình độ phát triển của xã hội trên địa bàn; nhân lực thực hiện, kinh phí, cơ sở vật chất…

Thứ tư, cần xác định rõ hơn giá trị pháp lý của báo cáo thẩm định và trách nhiệm của cơ quan thẩm định. Tiếp tục làm rõ và quy định chính thức về giá trị pháp lý của báo cáo thẩm định. Giá trị pháp lý của văn bản thẩm định đã được đề cập từ năm 2003 tại Quyết định số 909/QĐ-TTg ngày 14/8/2003 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật nhưng đến nay chưa thực hiện triệt để.

Báo cáo thẩm định là kết quả của quá trình nghiên cứu, xem xét, đánh giá dựa trên các quy định pháp luật, thể hiện qua ý kiến của Sở Tư pháp: có thể là đề nghị cơ quan soạn thảo chỉnh sửa, có thể là đưa ra kiến nghị để Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét hoặc có thể là kiến nghị bãi bỏ, hủy bỏ, đình chỉ việc thi hành một văn bản khác. Điều đó chứng minh báo cáo thẩm định có giá trị pháp lý bắt buộc thực hiện. Vì vậy, cần thiết phải được xác định và quy định chính thức để tăng trách nhiệm của cơ quan soạn thảo cũng như của Sở Tư pháp và các cơ quan có liên quan.

Đồng thời, cần quy định trách nhiệm pháp lý trong công tác soạn thảo, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật nếu văn bản đó sau khi ban hành bị phát hiện trái pháp luật. Mục đích của quy định này là để nâng cao trách nhiệm của công chức, của các cơ quan từ khâu soạn thảo, thẩm định đến ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tránh tình trạng “làm cho xong việc”. Hơn nữa, việc quy định trách nhiệm pháp lý đối với công tác thẩm định văn bản quy phạm pháp luật của Sở Tư pháp sẽ góp phần làm tăng giá trị pháp lý của báo cáo thẩm định. Mặt khác, điều này còn góp phần hạn chế việc một số cán bộ, công chức “bắt tay” với các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của văn bản để ban hành quy định nhằm đem lại lợi ích cho một ngành hoặc một nhóm người nhất định tại địa phương.

Thứ năm, không nên quy định hình thức chỉ thị là văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Đối với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ ban hành quyết định, còn hình thức chỉ thị được giao thẩm quyền cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Tiêu chí để xác định thẩm quyền của Ủy ban nhân dân hay của Chủ tịch Ủy ban nhân dân chưa rõ ràng, nhất là khi ban hành chỉ thị. Vì nội dung chỉ thị là để chỉ đạo, điều hành, đôn đốc, phối hợp hoạt động của các cơ quan, đơn vị trực thuộc nên mang tính chất công việc của cá nhân hơn là công việc của tập thể. Mặt khác, khi xây dựng sửa đổi, hợp nhất Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật nên cân nhắc đến việc có duy trì hay không hình thức văn bản quy phạm pháp luật cấp huyện, cấp xã. Thực tế cho thấy, trong đa số các trường hợp, các văn bản quy phạm pháp luật ở cấp huyện, xã chỉ lặp lại những quy định, hướng dẫn đã có trong nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật cấp tỉnh.

Thứ sáu, xác định rõ hơn khái niệm, đặc trưng, dấu hiệu của văn bản quy phạm pháp luật để cán bộ, công chức làm công tác soạn thảo nhận diện văn bản quy phạm pháp luật được dễ dàng, góp phần thuận lợi trong thẩm định văn bản quy phạm pháp luật. Việc quy định rõ đặc điểm để nhận biết văn bản quy phạm pháp luật có ý nghĩa thiết thực đối với các địa phương. Trong tương lai, ngoài việc hoàn thiện các quy định về ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cần nghiên cứu để pháp lý hóa và phân biệt hóa từng loại văn bản sau đây: văn bản chủ đạo[5]; văn bản áp dụng pháp luật trong quản lý nhà nước và văn bản hành chính thông thường.

Cần quy định tiêu chuẩn của cán bộ, công chức làm công tác thẩm định văn bản quy phạm pháp luật đảm bảo đạt hai điều kiện cần và đủ. Điều kiện cần là trình độ pháp luật và điều kiện đủ là kinh nghiệm, trình độ chuyên ngành khác. Mặt khác, cần bố trí, tổ chức hợp lý công việc, nhân sự của Phòng Xây dựng văn bản của Sở Tư pháp vì công việc thẩm định văn bản của Ủy ban nhân dân được thực hiện theo Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp hằng năm; áp lực thẩm định dự thảo nghị quyết chỉ tập trung vào hai đợt kỳ họp Hội đồng nhân dân nên có tình trạng vừa thừa, vừa thiếu.

Bộ Tư pháp đang xây dựng dự án Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng hợp nhất Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004. Thiết nghĩ, dự thảo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật này cần quan tâm xem xét cụ thể hóa và hoàn thiện cơ chế thẩm định văn bản quy phạm pháp luật của Sở Tư pháp nhằm góp phần giúp công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đạt chất lượng cao và thiết thực hơn đối với hoạt động quản lý, điều hành tại địa phương./.

TS. Phan Trung Hiền

& Nguyễn Thị Xuân Diện[6]



[1]Xemkhoản 3 Điều 24 và khoản 3 Điều 38 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004.

[2] Xem điểm b khoản 3 Điều 3 Nghị định số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật.

[3] Xem khoản 4 Điều 24 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004.

[4] Xem Thông tư số 25/2011/TT-BTP ngày 27/12/2011 của Bộ Tư pháp về thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và văn bản quy phạm pháp luật liên tịch.

[5] PGS.TS. Nguyễn Cửu Việt: Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2008, tr.313.

[6] TS. Phan Trung Hiền (Phó Trưởng Khoa Luật, Trường Đại học Cần Thơ); Nguyễn Thị Xuân Diện (Phó phòng Phòng Nội chính-Pháp chế, Văn phòng Ủy ban nhân dân TP.Cần Thơ).

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Kinh nghiệm cho Việt Nam xem xét từ vụ Philippines kiện Trung Quốc đối với tranh chấp ở Biển Đông

04/07/2014

1. Tình hình Biển Đông

Vào ngày 02/ 05/ 2014, Trung Quốc đã đưa dàn khoan HD 981 cùng với sự hộ tống, trong đó có cả tàu chiến và máy bay quân sự bảo vệ vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Các tàu hộ tống bảo vệ giàn khoan của Trung Quốc đã rất hung hăng bắn vòi nước có cường độ mạnh và đâm húc thẳng vào các tàu công vụ, tàu dân sự của Việt Nam, gây hư hại nhiều tàu và làm nhiều người bị thương. Hành động này đã vi phạm đặc biệt nghiêm trọng đến quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo luật pháp quốc tế, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982[1] (viết tắt là UNCLOS), đi ngược lại Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông DOC[2] và những thỏa thuận cấp cao giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Những hành động này của Trung Quốc này đã làm leo thang căng thẳng, đe dọa đến hòa bình, an ninh quốc tế, ảnh hưởng đến an ninh, an toàn và tự do hàng hải của các quốc gia trong khu vực, đồng thời thể hiện rõ nét chính sách của Trung Quốc trong việc chống lại các quốc gia khác có tranh chấp chủ quyền các đảo, quần đảo và các vùng biển trong biển Đông với Trung Quốc. Nhận định về vấn đề này, trong cuộc trả lời phỏng vấn báo Financial Times, Tổng thống Philippines, ông Benigno Aquino nói rằng, Trung Quốc đang chơi “một cuộc chơi nguy hiểm của chính sách “bên miệng hố chiến tranh” và “ngoại giao họng súng” có thể vượt khỏi tầm kiểm soát[3].

Trước tình hình trên, chính phủ Việt Nam nhất quán theo đuổi chính sách giải quyết tranh chấp trên Biển Đông bằng việc sử dụng các biện pháp hòa bình. Trong bài trả lời phỏng vấn gần đây của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với hãng tin AP và Reuters về Biển Đông bày tỏ quan điểm rằng Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình vì chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng và Việt Nam đang cân nhắc các phương án để bảo vệ mình, kể cả phương án đấu tranh pháp lý, theo luật pháp quốc tế[4]. Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ ngày 29/5/2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nêu rõ chủ trương nhất quán với ba nhóm biện pháp đấu tranh:

Thứ nhất, sử dụng các lực lượng thực thi pháp luật trên thực địa để bảo vệ và khẳng định chủ quyền biển đảo của Việt Nam;

Thứ hai, đấu tranh bằng con đường chính trị, ngoại giao, kiên quyết yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan Hải Dương 981 ra khỏi vùng biển Việt Nam.

Thứ ba, đấu tranh bằng dư luận, thông tin trung thực cho nhân dân và cộng đồng quốc tế hiểu rõ hành vi xâm phạm lãnh thổ của Trung Quốc cũng như các biện pháp đấu tranh hòa bình của Việt Nam; kêu gọi cộng đồng quốc tế lên án mạnh mẽ hành vi vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế của Trung Quốc[5].

Ngoại giao pháp lý là biện pháp thích hợp cho Việt Nam để đấu tranh với Trung Quốc tại thời điểm này để bảo vệ chủ quyền biển đảo, trước hành vi xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam trong vụ dàn khoan HD 981. Đồng thời, Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và pháp lý để chứng minh việc chiếm hữu thực sự và khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ thế kỷ XVII. Tuy vậy, Việt Nam cần nghiên cứu kỹ lưỡng việc lựa chọn cơ quan tài phán thích hợp để khởi kiện cũng như nội dung khởi kiện Trung Quốc để đảm bảo một thắng lợi pháp lý, bảo vệ chính đáng quyền lợi của Việt Nam theo quy định của luật pháp quốc tế và Công ước Luật Biển năm 1982, là cơ sở quan trọng để giải quyết tranh chấp trên Biển Đông giữa Trung Quốc và các bên tranh chấp khác. Việc nghiên cứu các án lệ quốc tế có liên quan và đặc biệt vụ Philippines kiện Trung Quốc trong tranh chấp Biển Đông sẽ là bài học kinh nghiệm khi Việt Nam đang xem xét sử dụng các cơ quan tài phán quốc tế để giải quyết tranh chấp ở Biển Đông.

2. Vụ Philippines kiện Trung Quốc ra Tòa án Trọng tài UNCLOS

Để giải quyết tranh chấp trên Biển Đông, nỗ lực nổi bật gần đây giữa các bên tranh chấp là việc Philippines kiện Trung Quốc ra Tòa án Trọng tài được thành lập và hoạt động dựa trên các quy định trong Phụ lục VII của UNCLOS vào ngày 22/01/2013. Mặc dù Trung Quốc từ chối tham gia vụ kiện và gửi thông báo tới Philippines và Tòa án Trọng tài thường trực, nơi thụ lý quá trình đăng ký thủ tục vụ kiện[6]. Tuy nhiên, quá trình pháp lý vẫn tiếp tục, một Ủy ban Trọng tài đã được chỉ định và triệu tập, ngày 30/3/2014 Philippines hoàn tất các đệ trình cuối cùng tới tòa liên quan cả đến thẩm quyền tòa án và nội dung thực chất của tranh chấp.

Trong Tuyên bố khởi kiện của Philipines lên Tòa án Trọng tài UNCLOS gồm có ba vấn đề chính: (1) Liên quan đến những hành vi xâm lấn của Trung Quốc vi phạm quyền chủ quyền (quyền hàng hải, khai thác tài nguyên..) trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Philippines; (2) Việc chiếm giữ các bãi san hô nhỏ, không đủ điều kiện trở thành đảo để yêu sách vùng nước xung quanh xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế của Philippines; (3) Tuyên bố “đường chín đoạn” của Trung Quốc không có giá trị pháp lý quốc tế và việc Trung Quốc tiến hành xây dựng các công trình nhân tạo trên các bãi chìm, mỏm đá, bãi cạn nửa nổi nửa chìm xâm phạm khu vực thềm lục địa của Philippines.

Việc Trung Quốc không tham gia vụ kiện thể hiện chính sách giải quyết tranh chấp Biển Đông với các bên theo con đường song phương và loại trừ việc tham gia của bất kỳ một bên thứ ba nào khác. Điều này cũng thể hiện thái độ của Trung Quốc là né tránh việc sử dụng luật pháp quốc tế, Công ước Luật Biểnnăm 1982 và việc yếu thế về cơ sở pháp lý trong các yêu sách chủ quyền phi lý của Trung Quốc trên Biển Đông.

Theo nhận xét của Giáo sư Carl Thayer[7], dù Trung Quốc không tham gia vụ kiện, thì tòa trọng tài thụ lý vụ kiện và nếu phán quyết của tòa có lợi cho Philippines, thì điều này sẽ có tác động lên cơ sở pháp lý về tuyên bố “đường chín đoạn” gây tranh cãi của Trung Quốc trên Biển Đông.

Thực tiễn giải quyết tranh chấp của Philippines sẽ là kinh nghiệm quý báu cho các quốc gia khác trong tranh chấp với Trung Quốc. Theo Điều 11 Phụ lục VII của UNCLOS, phán quyết của trọng tài chỉ có giá trị ràng buộc đối với các bên liên quan, tuy nhiên phán quyết của một cơ quan tài phán quốc tế được xem là án lệ, một nguồn bổ trợ trong luật pháp quốc tế. Việc Philippines khởi kiện Trung Quốc đánh dấu lần đầu tiên tranh chấp trên biển Đông được đưa ra trước một cơ quan tài phán quốc tế. Vì vậy, Việt Nam có thể học hỏi từ vụ khởi kiện này để bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán hợp pháp của mình đối với các vùng biển, các đảo, quần đảo và khẳng định với dư luận quốc tế về những hành vi phi pháp và phi lý của Trung Quốc, xem thường luật pháp quốc tế trên Biển Đông.

3. Bài học về lựa chọn thủ tục tài phán theo UNCLOS

Nguyên tắc căn bản của luật pháp quốc tế được quy định tại Điều 33 Hiến chương Liên Hợp Quốc và UNCLOS là bắt buộc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hoà bình[8]. UNCLOS cho phép các bên lựa chọn (Điều 279, Điều 280) phương pháp hòa bình, do đó, việc ai đó đe doạ sử dụng hay sử dụng vũ lực có hại đến tài sản và thân thể người thuộc quốc gia khác trong tranh chấp biển là vi phạm Hiến chương Liên Hợp Quốc và UNCLOS. Cụ thể, UNCLOS đã đưa ra một số nguyên tắc cơ bản cho việc giải quyết tranh chấp:

Một là, các quốc gia có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình, phù hợp với Điều 2.3 của Hiến chương Liên Hợp Quốc và nhằm mục đích đó, tìm giải pháp bằng những biện pháp được ghi nhận trong khoản 1 Điều 33 của Hiến chương (Điều 279).

Hai là, các quốc gia trong vụ tranh chấp, trước hết tiến hành thương lượng ngoại giao để giải quyết những tranh chấp (Điều 283).

Ba là, các quốc gia trong vụ tranh chấp có quyền tự do chọn phương thức giải quyết tranh chấp theo Điều 280. Theo đó, quốc gia có quyền tự do lựa chọn bất cứ phương thức giải quyết nào, chọn vào bất cứ thời điểm nào (trước, trong hoặc sau) khi tranh chấp xảy ra, miễn sao phương thức đó là phương thức hòa bình[9].

Bốn là, các quốc gia có nghĩa vụ phải giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia đó với nhau bằng các biện pháp phi tài phán do sự thảo thuận của các bên, kết quả thỏa thuận không mang tính ràng buộc pháp lý. Nếu các phương thức đó không mang lại hiệu quả thì một trong các bên có thể đưa tranh chấp ra giải quyết bằng các cơ quan tài phán theo quy định của Phần XV, Mục 2 (từ Điều 286 đến Điều 296) UNCLOS, với phán quyết mang tính ràng buộc pháp lý.

Vì thế có thể thấy, trong vụ dàn khoan HD 981, Việt Nam đã có những bước đi hết sức đúng đắn phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế, nỗ lực kiềm chế xung đột, và tiến hành trao đổi song phương với Trung Quốc bằng các cuộc điện đàm cấp cao, trao đổi công hàm ngoại giao. Đồng thời, thông qua các kênh ngoại giao đa phương, như các diễn đàn cấp khu vực, các lãnh đạo Việt Nam đã bày tỏ quan điểm và chủ trương của Việt Nam trong nỗ lực giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán.

Khi áp dụng thủ tục giải quyết tranh chấp bằng các cơ quan tài phán theo khoản 1 Điều 287 Phần XV của UNCLOS, thì các bên có quyền tuyên bố trước sẽ chọn cơ quan nào, hay theo cách hai bên thỏa thuận lựa chọn. Theo đó, một quốc gia được quyền tự do lựa chọn hình thức tuyên bố bằng văn bản, một hay nhiều cơ chế để giải quyết các tranh chấp có liên quan đến việc giải thích hay áp dụng UNCLOS, bao gồm:

– Tòa án quốc tế về Luật biển (ITLOS) được thành lập theo đúng Phụ lục VII của UNCLOS;

– Toà án quốc tế (ICJ);

– Tòa trọng tài được thành lập theo đúng Phụ lục VII của UNCLOS;

– Tòa trọng tài đặc biệt được thành lập theo đúng Phụ lục VIII của UNCLOS.

Trường hợp nếu không chọn trước hay không thỏa thuận được, thì phải dùng đến trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII như một lựa chọn tài phán bắt buộc (khoản 5 Điều 287 và Phụ lục VII). Vì vậy, có thể coi thủ tục trọng tài đã được trù định ở Phụ lục VII của UNCLOS là một cơ quan tài phán đã được “mặc định” cho các bên nếu như các bên không có thỏa thuận lựa chọn thiết chế tài phán khác để giải quyết tranh chấp.

UNCLOS cho phép các nước thành viên áp dụng ngoại lệ đối với giải quyết tranh chấp bằng biện pháp tài phán. Theo Điều 298 của UNCLOS, thì nếu một nước tuyên bố bằng văn bản trước khi ký Công ước là sẽ sử dụng biệt lệ không chấp nhận quyền tài phán bắt buộc của cơ quan tài phán đề cập trong Công ước nếu tranh chấp giữa các bên liên quan đến biên giới biển, vịnh lịch sử, danh nghĩa lịch sử hay các hoạt động quân sự hay thi hành quyền cảnh sát về nghiên cứu biển và nghề cá, hay các tranh chấp đã nhờ Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc thụ lý. Trong trường hợp này, quốc gia đã tuyên bố, theo yêu cầu của một trong các bên, chấp nhận đưa vụ tranh chấp đó ra hòa giải theo thủ tục tại Phụ lục V của UNCLOS. Sau đó hai bên phải thương lượng với nhau dựa trên cơ sở báo cáo hòa giải, nếu việc thương lượng không đạt kết quả, thì các bên theo sự thỏa thuận, cuối cùng các bên phải đưa vấn đề ra giải quyết theo thủ tục bắt buộc của các cơ quan tài phán bắt buộc ở Điều 287, nếu các bên không có thỏa thuận nào khác.

Khi ký Công ước Luật Biển năm 1982, Trung Quốc tuyên bố bảo lưu đối với khoản 1a, 1b, 1c của Điều 298, không áp dụng các thủ tục tài phán đối với các tranh chấp liên quan đến phân định biển, tranh chấp vịnh lịch sử hay danh nghĩa lịch sử, các hoạt động quân sự hay thi hành quyền cảnh sát về nghiên cứu biển và nghề cá, hay các tranh chấp Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đang thụ lý[10]. Nhưng xét cho cùng, Trung Quốc có thể cũng không thoát khỏi nhiệm vụ pháp lý giải quyết tranh chấp trên bằng cơ chế trọng tài theo Phụ lục VII, khi các biện pháp thương lượng hòa giải không đi đến kết quả và các bên không có thỏa thuận nào khác.

Đối với thiết chế tài phán Tòa án quốc tế về Luật Biển (ITLOS) được thành lập theo đúng Phụ lục VII của UNCLOS hay Toà án Quốc tế (ICJ), việc thành lập đòi hỏi việc đồng ý của các bên chấp nhận thẩm quyền xét xử của Tòa đối với tranh chấp. Trong khi đó, thủ tục trọng tài đã được trù định ở Phụ lục VII của UNCLOS là một thiết chế tài phán mang tính bắt buộc khi các bên không đạt được thỏa thuận.

Trong vụ khởi kiện Trung Quốc, Philippines đã khôn khéo sử dụng biện pháp Tòa án Trọng tài theo Phụ lục VII, vì đây là một thủ tục tài phán mang tính bắt buộc khi các bên không đạt được thỏa thuận. Ngay cả khi Trung Quốc tuyên bố không tham gia vụ kiện, điều này cũng không làm trì hoãn vụ kiện, Tòa án Trọng tài vẫn được thành lập và các thủ tục xét xử vẫn được tiếp tục. Việc Trung Quốc không tham gia vụ kiện sẽ là một bất lợi trong việc bảo đảm lợi ích của Trung Quốc trên cơ sở luật pháp quốc tế trước Tòa.

Về tính chất pháp lý của bản án trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII, dựa trên Điều 11 Phụ lục VII của UNCLOS quy định bản án của Tòa án Trọng tài nói trên có tính chất tối hậu và không được quyền kháng cáo (trừ việc yêu cầu giải thích). Bản án của Tòa Trọng tài có giá trị ràng buộc các bên trong tranh chấp.

Việt Nam có thể tham khảo Philippines để áp dụng khởi kiện ra Tòa án Trọng tài theo Phụ lục VII của UNCLOS. Dẫu Trung Quốc từ chối tham gia vụ kiện, thì thủ tục tố tụng vẫn được tiến hành và bản án của Tòa án Trọng tài sẽ là cơ sở pháp lý để Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tiến hành giải quyết tranh chấp trên thực địa.

4. Bài học về lựa chọn nội dung khởi kiện theo UNCLOS

Có hai loại lợi ích hay quyền lợi quốc gia của Việt Nam tại Biển Đông[11] là (i) chủ quyền đất đai trên nhiều đảo và đá tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và (ii) lợi ích hay quyền đối với những vùng nước và đáy biển dưới mặt nước tại Biển Đông chiếu theo UNCLOS, gồm có quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và trong vùng thềm lục địa.

Riêng về tranh chấp về chủ quyền trên lãnh thổ ngoài biển, như tranh chấp chủ quyền một hòn đảo, thì không nằm trong phạm vi giải quyết tranh chấp của Công ước Luật Biển năm 1982, vì Công ước không quy định về chủ quyền lãnh thổ, nên nước nào có đủ bằng chứng lịch sử và hiện tại về việc xác lập chủ quyền trên các hải đảo, các bên phải đưa ra Toà án Công lý quốc tế (ICJ). Vì vậy, trong tranh chấp về chủ quyền các đảo, quần đảo tại Biển Đông, chỉ có thiết chế tài phán ICJ mới có thể xét xử vấn đề này. Trong trường hợp này, việc chấp nhận thẩm quyền của ICJ đòi hỏi thiện chí của các bên tranh chấp.

Trong trường hợp tranh chấp về chủ quyền đảo, quần đảo giữa Việt Nam và Trung Quốc trên Biển Đông, với khả năng lớn là Trung Quốc không chấp nhận thẩm quyền xét xử của ICJ, Việt Nam có thể xin ý kiến tư vấn của Tòa án cho vấn đề này. Theo Điều 65 Chương IV Quy chế ICJ, thì “Toà có thể cho ý kiến tư vấn về bất cứ vấn đề pháp lý nào của bất cứ ai có quyền xin, theo Hiến chương Liên Hợp Quốc”. Vì vậy, trong tranh chấp chủ quyền về đảo giữa Việt Nam và Trung Quốc, Việt Nam có thể xin ý kiến tư vấn của toà ICJ, thay vì đưa ra tài phán. Việc xin ý kiến cũng tạo ra ảnh hưởng chính trị và pháp lý nhằm đưa tới giải pháp cho hai bên tranh chấp, mặc dù giá trị ý kiến tư vấn không mang tính ràng buộc pháp lý.

Ngoài ra, vấn đề mấu chốt gắn kết tranh chấp chủ quyền và tranh chấp biển ở Biển Đông chính là Điều 121.3 về chế độ pháp lý‎ của đảo. Trong vụ dàn khoan HD 981, đối với hiện trạng quần đảo Hoàng Sa đang bị Trung Quốc chiếm giữ toàn bộ, Trung Quốc cho rằng địa điểm lắp đặt giàn khoan nằm trong vùng nước của quần đảo Tây Sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam) đã thể hiện ý định của Trung Quốc trong việc tuyên bố các quy chế vùng biển của quần đảo Tây Sa như lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa. Điều này liên quan đến việc giải thích hay áp dụng UNCLOS (liệu các đảo nằm trong quần đảo Hoàng Sa rất nhỏ hiện nay có xứng đáng gọi là đảo hay là đá (theo quy định, đá không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, trong khi đảo thì có quy chế đầy đủ), hoặc giới hạn vùng đặc quyền kinh tế, mà đảo có thể có so với dải đất liền lớn rộng của các nước khác bao bọc biển. Vì liên hệ đến giải thích và áp dụng UNCLOS, nên việc này cũng có thể đưa ra khởi kiện tại Toà án Luật Biển hoặc ICJ theo khuôn khổ UNCLOS, hoặc xin ý kiến tư vấn ICJ về vấn đề này.

Trong vụ kiện, Philippines đã né tránh đề cập khởi kiện các vấn đề liên quan đến phán xét chủ quyền, các danh nghĩa lịch sử mà chỉ yêu cầu Tòa án Trọng tài việc giải thích và áp dụng UNCLOS, xem xét việc Trung Quốc xâm phạm việc xác lập và thực hiện các quyền chủ quyền, quyền tài phán của Philippines trên các vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa theo UNCLOS, đồng thời yêu cầu việc xem xét Trung Quốc tuyên bố “đường chín đoạn” là trái với quy định của UNCLOS. Đối với Việt Nam, nếu sử dụng quyền khởi kiện theo thủ tục trọng tài tại Phụ lục VII như Philippines, Việt Nam tương tựsẽ chỉ giải quyết các vấn đề liên quan đến việc giải thích và áp dụng UNCLOS liên quan đến việc xác lập và thực hiện các quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam trên các vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa. Thủ tục Tòa án Trọng tài đề cập trên sẽ không giải quyết được vấn đề chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.

Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi xin đưa ra một số nội dung mà Việt Nam có thể xem xét để yêu cầu các cơ quan tài phán nêu ý kiến tư vấn hoặc phán quyết là:

Thứ nhất, quy chế pháp lýđối với các đảo, các bên tranh chấp có thể đề nghị đưa ra ý kiến tư vấn của ICJ về quy chế pháp lý các đảo trong quần đảo Hoàng Sa, theo đó các đảo này không đủ tiêu chí để có tạo nên vùng nước quần đảo, hoặc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng. Đây là cơ sở để khẳng định vị trí mà giàn khoan HD 981 đang khai thác không nằm trong “vùng nước quần đảo” hay vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của đảo. Việc xin ý kiến tư vấn này có thể do Việt Nam và cùng huy động các bên tranh chấp khác cùng kiến nghị lên Tòa ICJ.

Ngoài ra, các bên có thể thưa kiện nội dung này lên Tòa án quốc tế về luật biển ITLOS. Một yêu cầu xuất phát từ Philippines hoặc Việt Nam, được sự ủng hộ của Malaysia/hoặc Brunei/hoặc tất cả các nước có tranh chấp cho ITLOS, yêu cầu Tòa giải thích Điều 121.3 và khả năng áp dụng ở Biển Đông. Liệu lúc đó Trung Quốc sẽ đứng ngoài cuộc hay sẽ phải tham gia quá trình trên cơ sở Điều 31 Quy chế của ITLOS? Bởi vì, trong một vụ tranh chấp, khi một quốc gia thành viên cho rằng một quyền lợi có tính chất pháp lý của mình bị đụng chạm, thì có thể gửi lên cho Toà án một đơn thỉnh cầu để yêu cầu xin tham gia. Nếu Toà án chấp nhận đơn thỉnh cầu, thì quyết định liên quan đến vụ tranh chấp có tính chất bắt buộc đối với quốc gia xin tham gia trong phạm vi mà quyết định này có quan hệ đến các điểm là nội dung của việc tham gia.

Thứ hai, đối với vụ dàn khoan HD 981, Việt Nam có thể thưa kiện Trung Quốc ra Tòa án Trọng tài theo Phụ lục VII của UNCLOS để ra phán quyết liên quan đến các vấn đề sau:

– Tuyên bố việc Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 cùng tàu hộ tống vào khai thác trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam đã vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam theo Điều 56 và Điều 77 của UNCLOS.

– Tuyên bố việc Trung Quốc dùng các tàu của mình ngăn cản các tàu chấp pháp của Việt Nam thực hiện quyền kiểm tra, khám xét giàn khoan HD 981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là hành vi vi phạm quyền tài phán của Việt Nam theo Điều 56 của UNCLOS.

– Tuyên bố việc Trung Quốc thiết lập vùng an toàn 3 hải lý và cấm các loại tàu bè đi vào vùng biển có bán kính 3 hải lý xung quanh giàn khoan HD981, và va đâm các tàu chấp pháp Việt Nam, dùng vòi rồng tấn công… là vi phạm quyền tự do hàng hải, đe dọa an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trong khu vực của Việt Nam và các nước trên thế giới, trái với Điều 60 của UNCLOS, theo đó vùng an toàn tối đa cho một thiết bị và công trình trên biển chỉ là 500m và Điều 58 – quyền dành cho tất cả các quốc gia, tất cả các tàu thuyền, phương tiện bay.

– Tuyên bố việc Trung Quốc thiết lập vùng nước quần đảo hoặc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa cho các đảo ở quần đảo Hoàng Sa không phù hợp với các điều 47, 48, 49 và 121 của UNCLOS.

5. Một số khó khăn Việt Nam có thể đối mặt khi tiến hành khởi kiện

Việc đưa tranh chấp ra một cơ quan tài phán để giải quyết trong thực tiễn quan hệ giữa các quốc gia không là điều mới mẻ, trong khu vực cũng có thể chứng kiến những vụ tranh chấp được giải quyết bởi Tòa án quốc tế như tranh chấp về chủ quyền đối với các đảo Pulau Batu Puteh, Middle Rocks và South Ledge giữa Malaysia và Singapore năm 2003, vụ Đền Preah Vihear giữa Thái Lan và Campuchia với phán quyết mới nhất vào năm 2013… Đây là một xu hướng văn minh thể hiện thiện chí của các bên trong việc giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ tuân thủ luật pháp quốc tế, giữ gìn hòa bình, an ninh trong khu vực, không sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp.

Tuy nhiên, Trung Quốc là một nước lớn trong khu vực, có mối quan hệ trên nhiều lĩnh vực như văn hóa, kinh tế, thương mại, đầu tư. Chính vì vậy, mà hầu hết các quốc gia khác đều có phần e dè khi có những hành động làm “phật lòng” Trung Quốc. Trong vụ kiện Trung Quốc đối với tranh chấp ở Biển Đông, Philippines đã chịu những đòn trừng phạt về kinh tế của Trung Quốc. Có thể dự đoán, khi Việt Nam tiến hành khởi kiện, Trung Quốc sẽ tiến hành các biện pháp trả đũa trong lĩnh vực kinh tế, hoặc gia tăng quân sự leo thang căng thẳng ở Biển Đông.

Với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, không tham gia liên minh quân sự với bất kì nước nào, Chính phủ Việt Nam chắc chắn phải có một sự chuẩn bị, tính toán, cân nhắc rất kỹ lưỡng và thấu đáo, để tránh những tổn thất kinh tế và các lĩnh vực khác ở mức độ thấp nhất, tranh thủ sự hậu thuẫn và ủng hộ mạnh mẽ của công luận quốc tế, và của các cường quốc trên thế giới.

Trong vụ kiện Trung Quốc của Philippines, để Tòa án Trọng tài đi đến phán quyết cuối cùng, thời gian theo đuổi vụ kiện có thể sẽ diễn ra khoảng từ 3- 4 năm. Khi có phán quyết cuối cùng, giả sử có lợi cho Philippines, Trung Quốc có thể sẽ phớt lờ ý kiến trọng tài dựa trên cơ sở từ chối tham gia vụ kiện, cho rằng tòa án không có thẩm quyền xét xử, đồng thời Trung Quốc kiên quyết theo chủ trương không sử dụng bên thứ ba xử lý các vấn đề liên quan đến tranh chấp trên Biển Đông. Vậy nên, Việt Nam cũng cần phải chuẩn bị tài chính, xây dựng đội ngũ chuyên gia am hiểu luật pháp quốc tế, luật sư giỏi để tham gia vụ kiện này. Trong một chừng mực nhất định, phán quyết cuối cùng của Tòa sẽ có giá trị quan trọng về mặt quy tắc và tinh thần trong cộng đồng quốc tế và cung cấp cơ sở pháp lý cho các bên liên quan trong tranh chấp. Đồng thời, nó sẽ có tác động chính trị quan trọng tới cơ chế giải quyết tranh chấp của Luật Biển, đối với bản thân Luật Biển và cả việc thực thi phán quyết của Tòa án, mối quan hệ giữa các bên tranh chấp trong vấn đề Biển Đông.

Việc đấu tranh bằng con đường ngoại giao pháp lý là nỗ lực bền bỉ mà các nước nhỏ như Việt Nam cần theo đuổi trong giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, hay tranh chấp trên các vùng biển. Đứng trước pháp luật, công lý, các quốc gia dù lớn hay nhỏ cũng đều có vị thế bình đẳng lẫn nhau. Cũng không thể loại trừ khả năng, cuộc đấu tranh ngày càng công khai, sử dụng công luận và công cụ pháp lý hiệu quả sẽ mở ra khả năng sử dụng các cơ quan tài phán quốc tế để giải quyết tranh chấp hoặc chí ít hạn chế các hành động gây hấn, các tuyên bố yêu sách vô lý không tuân thủ Công ước Luật Biển năm 1982. Vì vậy, Việt Nam cần vận dụng linh hoạt tất cả các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp, đặc biệt tận dụng thế mạnh pháp lý và công luận để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng tại Biển Đông.

ThS. Bạch Thị Nhã Nam

Đại học Kinh tế – Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh



[1] Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển có tên tiếng Anh “United Nations Convention on the Law of the Sea” UNCLOS, thông qua ngày 10/12/1982, 1833 U.N.T.S 397 (Có hiệu lực từ 16/11/1984).

[2] Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông còn gọi là Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Nam Trung Hoa (tiếng Anh: Declaration on Conduct of the Parties in the South China Sea), viết tắt là DOC, là một văn kiện được các nước ASEANTrung Quốc ký kết ngày 4/11/2002 tại Phnom Penh, Campuchia nhân dịp Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 8.

[3] David Pilling and Roel Landingin in Manila,Philippines president warns on Chinese expansion, Tạp chí Thời báo Kinh tế – Financial Times, ngày 26/05/2014, tại địa chỉ http://www.ft.com/cms/s/0/7942be6a-e3ca-11e3-a73a-00144feabdc0.html#axzz330HKf200, truy cập ngày 28/05/2014.

[4]Thủ tướng trả lời phỏng vấn của AP và Reuters về Biển Đông, Báo Bảo vệ Pháp luật, ngày 22/05/2014, http://baobaovephapluat.vn/kiem-sat/diem-nong/201405/thu-tuong-tra-loi-phong-van-cua-ap-va-reuters-ve-bien-dong-2330497/, truy cập ngày 28/05/2014.

[5]Theo Tuổi trẻ Online, Không vì hữu nghị mà không nói sự thật, 30/05/2014, truy cập tại http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/610115/khong-vi-huu-nghi-ma-khong-noi-su-that.html, truy cập 30/05/2014.

[6]Pia Lee-Brago, China reiterates rejection of UN arbitration on sea row, ngày 30/08/2013, http://www.philstar.com/headlines/2013/08/30/1151141/china-reiterates-rejection-un-arbitration-sea-row/, truy cập vào ngày 28/05/2014.

[7] Giảng viên bộ môn Chính trị học tại Đại học New South Wales thuộc Học viện Quốc phòng Ôxtrâylia ở Canbơrơ, dựa theo bài phỏng vấn giáo sư đăng trên http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/philip-ask-un-01302013134625.html, truy cập vào ngày 12/04/2014.

[8] Các phương pháp hòa bình giải quyết tranh chấp bao gồm các phương pháp phi tài phán với kết quả mang tính khuyến nghị đối với các bên gồm: Đàm phán, trung gian, hòa giải; các phương pháp tài phán mang tính pháp lý ràng buộc như trọng tài, tòa án.

[9] Xem: Điều 282, Điều 284, Điều 287 của UNCLOS.

[10] Tuyên bố của Trung Quốc ngày 25/08/2006: “The Government of the People’s Republic of China does not accept any of the Convention any of the procedures provided for in Section 2 of Part XV of the Convention with respect to all the categories of disputes referred to in paragraph 1 (a) (b) and (c) of Article 298 of the Convention.”

[11]Theo Luật sư Tạ Văn Tài, nguyên giảng viên và hiện là nghiên cứu viên Trường Luật thuộc Đạihọc Harvard (Hoa Kỳ), Kiện Trung Quốc ở tòa nào? – Phần 2, ngày 28/05/2014, http://www.thesaigontimes.vn/115436/Kien-Trung-Quoc-o-toa-nao?—Phan-2.html, truy cập ngày 30/05/2014.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Công tác cung cấp thông tin lý lịch tư pháp của Tòa án – Thực trạng và những kiến nghị

22/05/2014

Để triển khai thực hiện Luật Lý lịch tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao luôn phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành có liên quan xây dựng các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật. Việc ban hành Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 10/5/2012 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Bộ Quốc phòng hướng dẫn trình tự, thủ tục tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp đã tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong công tác phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong việc cung cấp, xác minh, rà soát thông tin lý lịch tư pháp, cũng như đối với quy trình, thủ tục tra cứu, xác minh, trao đổi và cung cấp thông tin lý lịch tư pháp.

Nhằm tăng cường trách nhiệm của các Tòa án, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành nhiều văn bản để chỉ đạo các Tòa án thực hiện triệt để và thường xuyên việc cung cấp kịp thời, đầy đủ các thông tin về lý lịch tư pháp cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu tư pháp; phối hợp kịp thời và có hiệu quả với các cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trong việc rà soát, cung cấp, tra cứu, xác minh, trao đổi thông tin lý lịch tư pháp. Qua việc triển khai, nhận thức của cán bộ, công chức của các Tòa án về ý nghĩa xã hội, tầm quan trọng của Luật Lý lịch tư pháp và trách nhiệm của Tòa án đối với công tác lý lịch tư pháp đã được nâng lên rõ rệt.

Những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện công tác cung cấp thông tin lý lịch tư pháp của Tòa án; một số vấn đề còn vướng mắc, bất cập và những kiến nghị, đề xuất đã được tác giả Đào Thị Minh Thủy trình bày rõ trong bài viết: “Công tác cung cấp thông tin lý lịch tư pháp của Tòa án – Thực trạng và những kiến nghị” đăng tải trên số chuyên đề tháng 4/2014 của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật. Kính mời Quý bạn đọc quan tâm tìm đọc.

Vinh Nguyễn

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Đối tượng xử phạt và các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công chứng

26/08/2014

Thực tiễn công tác thanh tra chuyên ngành và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công chứng cho thấy, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính còn nhiều băn khoăn, vướng mắc trong nhận thức với đối tượng xử phạt của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công chứng.

Theo quy định tại Điều 2 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, thì đối tượng bị xử phạt hành chính trong lĩnh vực công chứng bao gồm: Tổ chức công chứng, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính trong lĩnh vực công chứng. Tổ chức thuộc đối tượng bị xử phạt trong lĩnh vực công chứng của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP bao gồm các tổ chức công chứng (phòng công chứng, văn phòng công chứng), các tổ chức có hành vi vi phạm. Đồng thời, Nghị định cũng quy định cơ quan nhà nước có hành vi vi phạm mà hành vi đó không thuộc nhiệm vụ quản lý nhà nước được giao và các tổ chức khác không phải là cơ quan nhà nước vi phạm hành chính cũng là đối tượng bị xử phạt của Nghị định và được quy định chi tiết tại khoản 1 Điều 1 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013…

Qua bài viết Đối tượng xử phạt và các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công chứng”đăng tải trênTạp chí phát hành hàng tháng số tháng 7 (268) năm 2014 của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tác giả Hoàng Quốc Hùng đã nêu rõ các đối tượng xử phạt của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực công chứng và các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này. Trân trọng kính mời quý bạn đọc quan tâm đón đọc!

Thủy Tiên

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bất cập về quy định thời hiệu đối với quyền yêu cầu thi hành án của người phải thi hành án

29/07/2014

Để đảm bảo quyền bình đẳng của người phải thi hành án với người được thi hành án, bảo đảm cho việc thi hành án được thực hiện đúng pháp luật và có hiệu quả, pháp luật thi hành án dân sự đã quy định cho người phải thi hành án có một số quyền và nghĩa vụ thi hành án giống như quyền và nghĩa vụ của người được thi hành án, điển hình như quyền được gửi đơn hoặc trực tiếp yêu cầu cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án (Điều 7 Luật Thi hành án dân sự năm 2008). Thực tiễn cho thấy, quy định về quyền yêu cầu thi hành án của người phải thi hành án là một trong những quy định thể hiện tính đúng đắn, khoa học của pháp luật thi hành án dân sự. Tuy vậy, quyền yêu cầu thi hành án của người phải thi hành án lại bị giới hạn bởi thời hiệu yêu cầu thi hành án. Theo quan điểm của tác giả, đây cũng là một trong những điểm hạn chế, bất cập của pháp luật thi hành án dân sự hiện hành.

Bằng việc đưa ra quy định về thời hiệu yêu cầu thi hành án, Nhà nước ta đã giới hạn quyền yêu cầu thi hành án của đương sự trong thời hạn nhất định. Thời hiệu yêu cầu thi hành án chỉ đặt ra đối với phần bản án, quyết định thi hành theo đơn yêu cầu của đương sự. Khoản 1 Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 quy định khá cụ thể, chi tiết về thời hiệu yêu cầu thi hành án đối với quyền yêu cầu thi hành án của người phải thi hành án nói riêng và của đương sự nói chung:

“- Trong trường hợp 05 năm, kể từ ngày Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án.

– Trong trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong Bản án, quyết định thì thời hạn 05 năm tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn.

– Đối với Bản án, quyết định thi hành án theo định kỳ thì thời hạn 05 năm được áp dụng cho từng thời kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn”.

Nghiên cứu quy định này, ta có thể hiểu rằng trong trường hợp nếu người phải thi hành các khoản không thuộc các khoản cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định chủ động (Điều 36 Luật Thi hành án dân sự) thì khi hết thời hạn đó mà người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án thì người được thi hành án không còn quyền yêu cầu thi hành phần bản án, quyết định chưa yêu cầu thi hành án nữa, còn người phải thi hành án có quyền chứng minh thời hiệu đã hết.

Vấn đề thực tế phát sinh khi người được thi hành án vì nhiều lý do khác nhau đã không làm đơn yêu cầu thi hành án ngay sau khi có bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật; trong khi đó, người phải thi hành án đã có điều kiện thi hành hơn thế, họ mong muốn nhanh chóng thực hiện xong nghĩa vụ của mình, nên đã làm đơn yêu cầu thi hành án. Hơn nữa việc thi hành án xong được pháp luật quy định là một trong những tình tiết xét giảm án phạt tù hay được xác nhận và đảm bảo thủ tục xuất nhập cảnh, nên người phải thi hành án rất muốn thi hành ngay… Vậy cơ quan thi hành ándân sự có thẩm quyền sẽ nhận đơn hay từ chối nhận đơn?

Vì quy định của pháp luật thi hành án dân sự về thời hiệu yêu cầu thi hành án của người phải thi hành án chưa chặt chẽ, chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết cách giải quyết về những vấn đề phát sinh trong thực tế, nên trong quá trình tác nghiệp tại các cơ quan thi hành án dân sự cho thấy nhiều cách hiểu khác nhau, nên việc áp dụng pháp luật giữa các cơ quan chức năng chưa thống nhất cao.

Ví dụ: Bản án số 57/HSST ngày 21/9/2005 của Tòa án nhân dân huyện A tuyên Vũ Văn Xoa hình phạt chung thân, buộc Xoa bồi thường cho gia đình nạn nhân do bà Lê Thị Tuyển đại diện, số tiền là 19.630.000đ. Bản án số 46/HSPT ngày 22/11/2005 của Tòa án nhân dân tỉnh N giữ nguyên hình phạt tù chung thân đối với bị cáo, các quyết định của Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật. Ngày 8/5/2013, bà Nguyễn Thị Quế là mẹ đẻ của người phải thi hành án được ủy quyền đến cơ quan thi hành án dân sự nộp đơn yêu cầu thi hành án khoản bồi thường 19.630.000đ theo Bản án.

Xét theo quy định của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu yêu cầu thi hành án đã hết từ lâu và theo quy định của pháp luật dân sự thì người yêu cầu thi hành án là bà Quế được sự ủy quyền hợp lệ.

Xét về động cơ bà Quế nộp đơn yêu cầu thi hành án thi hành án để Xoa được hưởng thêm tình tiết giảm án theo quy định của pháp luật.

Đối với người được thi hành án, bà Lê Thị Tuyển trình bày: Vì người phải thi hành án đã bị tuyên phạt tù chung thân, bản thân người phải thi hành án không có tài sản, là lý do gia đình bà chưa làm đơn đề nghị, mặt khác do trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế, nên bà không biết đến quy định về thời hiệu yêu cầu thi hành án, dẫn đến việc để quá thời hiệu yêu cầu.

Về vấn đề này, tại địa phương có hai quan điểm xử lý như sau:

Thứ nhất, vận dụng Điều 30 Luật Thi hành án dân sự và Điều 2 Nghị định số 58/2009/NĐ- CP để giải thích cho đương sự hiểu rằng đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án, nên không nhận đơn yêu cầu thi hành án nữa.

Thứ hai, với chủ trương của Nhà nước ta luôn khuyến khích và tôn trọng các đương sự tự nguyện thi hành án, trong trường hợp này là sự tự nguyện của gia đình người phải thi hành án và có sự ủy quyền của người phải thi hành án. Vì vậy, mặc dù thời hiệu yêu cầu thi hành án đã hết từ lâu, nhưng cũng nên ghi nhận sự tự nguyện này, để chấp nhận đơn yêu cầu thi hành án. Nếu người phải thi hành án là Vũ Văn Xoa có tích cực cải tạo thật tốt, được nhiều lần giảm án, thì thời hạn chấp hành hình phạt tù ít nhất là 20 năm, sau đó mới được ra ngoài xã hội để lao động sản xuất. Bởi thế, không nên xác định thời hiệu yêu cầu thi hành án đối với trường hợp này.

Theo quan điểm của người viết, nên áp dụng và thống nhất giải quyết theo quan điểm thứ hai, vì cách giải quyết này không chỉ làm lợi cho người được thi hành án, người phải thi hành án, mà còn làm cho bản án được thi hành một cách triệt để.

Chính vì thế, để thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước ta, việc quy định quyền yêu cầu thi hành án của người phải thi hành án là cần thiết, hợp lý nhưng không nhất thiết phải quy định thời hiệu yêu cầu thi hành án dân sự của người phải thi hành án. Bởi trong một số trường hợp, như trường hợp đã phân tích ở trên, quy định đó sẽ làm hạn chế quyền yêu cầu thi hành án của người phải thi hành án. Do vậy, các nhà làm luật nên điều chỉnh quy định về vấn đề này, đồng thời soạn thảo những văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết, giúp cho việc giải quyết của các cơ quan thi hành án dân sự được thống nhất, việc tổ chức thi hành án của chấp hành viên được thuận lợi, dễ dàng, tạo diều kiện cho người dân hoàn thành phần nghĩa vụ thi hành án dân sự nói chung, trong bản án hình sự nói riêng.,.

Lê Thị Ngời

Chi cục thi hành án dân sự huyện An Dương, Hải Phòng

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số vấn đề liên quan đến người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng hình sự

29/07/2014

Khoảng 17 giờ 05 phút ngày 12/3/2013 trên tỉnh lộ 790 thuộc tổ 7 xã Y, huyện G, tỉnh N, Trần Tuấn A, điều khiển xe ô tô, không có giấy phép lái xe, đã vượt sai quy định, nên va chạm với xe đạp đi cùng chiều do cháu Nguyễn Thị V (SN 1999) điều khiển, phía sau có chở cháu Trần Thị Mỹ Th (SN 2000), cả hai đang trên đường đi học về. Hậu quả vụ tai nạn, làm cháu Th bị thương tật theo kết luận giám định là 20%, cháu V bị tử vong vào ngày 13/3/2013 do chấn thương sọ não nặng. Viện kiểm sát nhân dân huyện G truy tố Trần Tuấn A về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo điểm a, khoản 2, Điều 202 Bộ luật Hình sự (BLHS).

Trước đó, ngày 24/4/2013 ông Nguyễn Văn Đ và bà Cao Thị H (là cha, mẹ ruột của cháu V) đã làm giấy ủy quyền và có xác nhận của Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) xã B về việc đồng ý ủy quyền cho bà Đỗ Lệ Quyên, được đại diện cho ông Đ và bà H tham gia tố tụng trong vụ án này. Nội dung của giấy ủy quyền có ghi rõ:

“Bà Đỗ Lệ Quyên được toàn quyền đại diện chúng tôi tại cơ quan cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh N và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác để tham gia giải quyết phần hình sự và dân sự trong vụ việc nêu trên. Bà Quyên được toàn quyền quyết định các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của chúng tôi trong vụ việc nêu trên. Ý kiến của bà Quyên trong phạm vi nêu trên cũng là ý kiến của chúng tôi. Chúng tôi cam đoan không khiếu nại về sau.

Thời hạn ủy quyền: Từ ngày lập giấy ủy quyền này cho đến khi vụ việc có kết quả giải quyết cuối cùng”.

Tiếp đến, ngày 30/7/2013, ông Nguyễn Văn Đ nhờ Luật sư Đinh Thế Th thuộc Đoàn Luật sư tỉnh N, tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách người bảo vệ quyền lợi của đương sự và được Tòa án nhân dân (TAND) huyện G, nơi đang thụ lý vụ án chấp nhận. Ngày 15/8/2013 TAND huyện G đưa vụ án ra xét xử, nhưng tại phiên Tòa sơ thẩm cả bà Quyên và ông luật sư Th đều vắng mặt. Sau khi xét xử sơ thẩm, do không đồng ý với quyết định của bản án về phần hình sự (mức án tuyên phạt đối với bị cáo là nhẹ), phần dân sự có liên quan (khoản bồi thường thiệt hại về bù đắp tổn thất về tinh thần chưa thỏa đáng) và cho rằng việc xét xử của Tòa án là thiếu khách quan, nên ngày 20/8/2013 ông Nguyễn Văn Đ có đơn kháng cáo gửi đến TAND huyện G với nội dung kháng cáo toàn bộ bản án mà TAND huyện G đã xét xử, qua xem xét Tòa án cấp sơ thẩm làm thủ tục tiếp nhận đơn kháng cáo của ông Đ theo quy định tại Điều 236 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Xoay quanh việc Tòa án cấp sơ thẩm làm thủ tục tiếp nhận đơn kháng cáo toàn bộ bản án do ông Nguyễn Văn Đ – Đại diện hợp pháp của người bị hại Nguyễn Thị V đứng đơn gửi đến TAND huyện G, là có đúng với quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành không? Xoay quanh các khía cạnh pháp lý này, hiện có các quan điểm trái chiều nhau, cụ thể như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Việc Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành làm thủ tục tiếp nhận đơn kháng cáo do ông Đ đứng đơn là đúng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự và việc ghi nhận nội dung đơn ông Đ kháng cáo toàn bộ bản án trong thông báo kháng cáo của TAND huyện G là phù hợp, không có gì trái pháp luật tố tụng.

Quan điểm thứ hai:Căn cứ vào phạm vi ủy quyền và thời hạn ủy quyền thể hiện trong giấy ủy quyền mà vợ chồng ông Nguyễn Văn Đ. và bà Cao Thị H. xác lập vào ngày 24/4/2013 có sự chứng kiến của Chủ tịch UBND xã B vẫn còn hiệu lực, thì chủ thể duy nhất có quyền kháng cáo lên TAND tỉnh H để xét xử theo trình tự phúc thẩm, chỉ có thể là bà Đỗ Lệ Quyên; phạm vi kháng cáo chỉ có thể là phần hình sự và dân sự có liên quan đến quyền và lợi ích cháu Nguyễn Thị V chứ không thể là kháng cáo toàn bộ bản án, như TAND huyện G đã chấp nhận. Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng, vì phạm vi ủy quyền thể hiện trong văn bản ủy quyền có viết rõ: Bà Đỗ Lệ Quyên được toàn quyền đại diện cho vợ chồng ông Đ và bà H. tham gia tố tụng trong vụ án, tại Cơ quan cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh N và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác để tham gia giải quyến phần hình sự và dân sự trong vụ việc nêu trên. Bà Quyên được toàn quyền quyết định các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của chúng tôi trong vụ việc nêu trên. Nên ông Đ không được tự mình thực hiện quyền kháng cáo khi chưa có sự đồng ý của bà Quyên, bởi lẽ ông Đ và bà Hđã giao quyền này cho bà Quyên một cách tự nguyện, đúng pháp luật và công khai trước sự chứng kiến của lãnh đạo UBND xã và giấy ủy quyền đó vẫn còn nguyên giá trị (về đối tượng, phạm vi, nội dung, thời gian). Do vậy, nếu ông Đ muốn thay đổi sự ủy quyền thì cũng phải làm một thủ tục chấm dứt sự ủy quyền, tương tự như lúc làm giấy ủy quyền mới là phù hợp. Hơn nữa bản án của TAND huyện G xét xử vụ án này, có những nội dung không liên quan gì đến quyền và lợi ích hợp pháp của phía gia đình cháu V (ví dụ, các khoản bồi thường thiệt hại cho cháu Th, …) nên việc TAND huyện G ra thông báo kháng cáo theo hướng ghi nhận kháng cáo toàn bộ bản án như trình bày của ông Đ là tùy tiện và vi phạm tố tụng.

Quan điểm thứ ba: Đồng tình với quan điểm thứ hai nhưng có đặt thêm điều kiện để được coi là “hợp lệ” khi bà Đỗ Lệ Quyên thực hiện quyền kháng cáo, đó là vợ chồng ông Đ phải làm giấy ủy quyền cho bà Quyên đứng đơn kháng cáo. Để bảo vệ cho quan điểm này, họ lý giải:

Một là, thực tế nội dung ủy quyền mà vợ chồng ông Đ xác lập có sự chứng kiến của Chủ tịch UBND xã B, không có nội dung nào thể hiện bà Quyên được thay mặt vợ chồng ông Đ kháng cáo bản án, nên để bà Quyên thay vợ chồng ông Đ thực hiện quyền này, dứt khoát phải có giấy ủy quyền, mà theo đó vợ chồng ông Đ đồng ý ủy quyền cho bà Quyên đứng đơn kháng cáo, đương nhiên giấy ủy quyền này phải có công chứng, chứng thực;

Hai là,Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành không có điều luật cụ thể nào quy định về người đại diện theo ủy quyền, nên trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự, Tòa án thường vận dụng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự có liên quan để linh hoạt giải quyết, nhằm bảo đảm tối đa quyền lợi của đương sự khi tham gia tố tụng trong từng vụ án hình sự cụ thể[1]. Và Bộ luật này cũng có quy định: “Người đại diện theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự theo nội dung văn bản uỷ quyền”[2].

Từ quy định trên, để bảo đảm tính thống nhất trong nhận thức và áp dụng nội dung quy định về ủy quyền, ngày 04/8/2006 Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có ban hành Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP,hướng dẫn thi hành một số quy định tại phần thứ ba “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm” của Bộ luật Tố tụng dân sự, theo đó: “Việc uỷ quyền tại các tiểu mục 1.4, 1.5 và 1.6 mục 1 phần I của Nghị quyết này phải được làm thành văn bản có công chứng, chứng thực hợp pháp, trừ trường hợp văn bản uỷ quyền đó được lập tại Toà án có sự chứng kiến của Thẩm phán hoặc cán bộ Toà án được Chánh án Toà án phân công. Trong văn bản uỷ quyền phải có nội dung đương sự ủy quyền cho người đại diện theo uỷ quyền kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm[3].

Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ nhất, vì:

Thứ nhất,theo quy định tại Điều 231 Bộ luật Tố tụng hình sự thì những người có quyền kháng cáo, bao gồm: Bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm; người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất; nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ; người bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định của Toà án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ; người được Toà án tuyên bố là không có tội có quyền kháng cáo phần lý do bản án sơ thẩm đã tuyên là họ không có tội.

Nếu chỉ căn cứ vào quy định trên, chủ thể có quyền kháng cáo trong vụ án này, bao gồm: Đại diện hợp pháp của người bị hại Nguyễn Thị V là ông Nguyễn Văn Đ; bà Đỗ Lệ Quyên – Người được vợ chồng ông Đ và bà H ủy quyền tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là người đại diện theo ủy quyền; Luật sư Đinh Thế Th – Người bảo vệ quyền lợi cho đương sự theo đề nghị của phía gia đình ông Đ. Nhưng đối chiếu với hướng dẫn tại Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/12/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm”của Bộ luật Tố tụng hình sự, có hướng dẫn áp dụng Điều 231 Bộ luật Tố tụng hình sự, quy định: Chủ thể có quyền kháng cáo và giới hạn của việc kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm được xác định như sau: “Người bị hại, người đại diện hợp pháp (đại diện theo pháp luật) của người bị hại trong trường hợp người bị hại chết hoặc trong trường hợp người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo hoặc theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo. Trong trường hợp người bị hại chỉ kháng cáo phần bản án hoặc quyết định sơ thẩm có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại, thì họ có thể uỷ quyền cho người khác. Người được uỷ quyền có các quyền và nghĩa vụ như người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự”[4].

Từ quy định này có thể khẳng định rằng: Bà Đỗ Lệ Quyên không thể đứng đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm của TAND huyện G xét xử vụ án này, theo hướng có lợi hoặc làm xấu hơn tình trạng của bị cáo, mà bà Quyên chỉ có thể đứng đơn kháng cáo trong trường hợp khi cháu Nguyễn Thị V còn sống và chỉ được kháng cáo trong giới hạn phần bản án hoặc quyết định sơ thẩm có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại. Nghĩa là, bà Quyên không được kháng cáo toàn bộ bản án, và khi đó bà Quyên (người được ủy quyền) có các quyền và nghĩa vụ như người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự.

Do vậy, theo chúng tôi, quyền kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm của TAND huyện G xét xử đối với bị cáo Trần Tuấn A về “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 202 BLHS, chỉ có thể là ông Nguyễn Văn Đ (Đại diện hợp pháp của người bị hại Nguyễn Thị V đã chết), mà không thể là một ai khác.

Thứ hai, dù trên thực tế vợ chồng ông Đ đã ủy quyền cho bà Quyên thay mình tham gia tố tụng tại các cơ quan tiến hành tố tụng của huyện G và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác để tham gia giải quyết phần hình sự và dân sự trong vụ án nêu trên;… điều đó không có nghĩa là vợ chồng ông Đ đã mất đi quyền năng pháp lý có tính xuyên suốt trong các giai đoạn tố tụng mà pháp luật tố tụng hình sự dành cho họ. Thực tiễn xét xử, tại phiên tòa thường gặp nhiều tình huống mà bên ủy quyền đưa ra ý kiến trái ngược với phạm vi ủy quyền mà bên nhận ủy quyền đã thực hiện, với những trường hợp như vậy vẫn được Hội đồng xét xử (HĐXX) chấp nhận, chẳng hạn: Giả sử theo thỏa thuận ban đầu giữa vợ chồng ông Đ với bà Quyên, mà theo đó, sau khi tranh luận với Kiểm sát viên, bà Quyên đề nghị HĐXX tuyên phạt đối với bị cáo A, thấp nhất là 04 năm tù giam, đồng thời đề nghị buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại cho cháu V, số tiền tương ứng 100 triệu đồng. Như tại phiên tòa, ông Đ vẫn có quyền đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng án treo và mức bồi thường thiệt hại ít hơn hoặc nhiều hơn số tiền mà trước đó ông Đ và bà Quyên đã thống nhất, mà không cần phải hỏi ý kiến của bà Quyên. Ngay cả trường hợp, theo nội dung ủy quyền bà Quyên sẽ là người tham gia tranh luận với các bên tại phiên tòa, nhưng có thể vì lý do nào đó tại phiên tòa, ông Đ thay bà Quyên làm việc này, mà cũng không cần phải có sự đồng ý của bà Quyên, ông Đ mới được làm.

Thứ ba, về thời hạn thực hiện công việc được ủy quyền, theo như Giấy ủy quyền được các bên xác lập ngày 24/4/2013 thể hiện toàn bộ nội dung ủy quyền có hiệu lực từ ngày lập giấy ủy quyền cho đến khi vụ án có kết quả giải quyết cuối cùng. Điều này có nghĩa là người nhận ủy quyền không chỉ thực hiện công việc được ủy quyền ở cấp sơ thẩm, phúc thẩm mà ngay cả khi bản án, quyết định có thể được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và cả khâu thi hành án sau này (nếu có). Giả sử theo thỏa thuận thì bà Quyên sẽ là người đứng đơn kháng cáo bản án sơ thẩm, nếu như những đề nghị của phía họ không được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận đầy đủ, nhưng thực tế do bà Quyên và cả luật sự Th không có mặt để tham gia tố tụng tại phiên Tòa hình sự sơ thẩm vào ngày 15/8/2013, thì việc ông Đ tự mình nộp đơn kháng cáo để bảo vệ quyền lợi ích của con mình là điều cũng dễ hiểu, vì suy cho cùng việc quyết định có kháng cáo hay không là hoàn toàn tùy thuộc vào ý chí của vợ chồng ông Đ, nghĩa là không chịu bất kỳ sự ràng buộc nào. Do vậy, không thể cho rằng vì vợ chồng ông Đ đã đồng ý bằng văn bản ủy quyền cho bà Đỗ Lê Quyên thay mình tham gia tố tụng trong vụ án cho đến khi có kết quả cuối cùng thì đồng nghĩa với việc quyền kháng cáo của họ bị triệt tiêu.

Lê Văn Sua

Tòa án quân sự khu vực 1 – Quân khu 9



[1]Điều 73, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2012).

[2]Khoản 2, Điều 74, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2012).

[3]Tiểu mục 1.8, mục 1, phần I,Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP ngày 04/8/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định phần thứ ba “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm” của Bộ luật Tố tụng dân sự .

[4]Tiểu mục 1.3, mục 1, phần 1 Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/12/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm”của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Một số vấn đề xác nhận tình trạng hôn nhân theo quy định hiện hành

23/07/2014

Xác nhận và cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân là một thủ tục hành chính vô cùng quan trọng trong công tác quản lý hộ tịch nói chung cũng như hoạt động công chứng nói riêng. Trong hoạt động công chứng, xác nhận tình trạng hôn nhân của cá nhân (bao gồm cả tình trạng hôn nhân của người yêu cầu công chứng và những người khác có liên quan như người để lại di sản thừa kế…) luôn đóng một vai trò thiết yếu trong việc kiểm tra thẩm quyền giao kết hợp đồng, giao dịch công chứng của cá nhân cũng như một số vấn đề khác có liên quan.

Hiện nay, các quy định của pháp luật xoay quanh vấn đề xác nhận và cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân còn chồng chéo, mâu thuẫn… Việc hướng dẫn tại các văn bản luật chưa được rõ ràng, thống nhất, nên dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau, gây ra rất nhiều khó khăn không chỉ cho công dân khi đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận và cấp giấy xác nhận tình trạng hôn mà, mà ngay cả UBND cấp xã, phường, thị trấn cũng rất lúng túng khi giải quyết các yêu cầu xin cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.

Có rất nhiều câu hỏi được đặt ra xung quanh vấn đề này như: Ai được quyền yêu cầu cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân? Người đã qua nhiều nơi cư trú khác nhau thì xin xác nhận tình trạng hôn nhân ở đâu? xác nhận như thế nào? Người chết có được cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân hay không? Hay người đã đăng ký kết hôn có được cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân hay không?

Đây cũng chính là những vướng mắc, bất cập, cần phải được các cơ quan xây dựng pháp luật, các nhà làm luật, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện, thống nhất, rõ ràng các quy định của pháp luật xung quanh vấn đề xác nhận và cấp giấy xác nhận tình trạng hồn nhân.

Để hiểu rõ hơn những nội dung của bài viết: “Một số vấn đề xác nhận tình trạng hôn nhân theo quy định hiện hành” của tác giả Bùi Ngọc Tú, độc giả có thể xem bài viết được đăng trên Tạp chí phát hành hàng tháng số tháng 6 [267]năm 2014 của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.

Hải Việt

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

29/08/2014

Tỉnh Đắk Lắk nằm ở trung tâm Tây Nguyên, phía Bắc giáp tỉnh Gia Lai, phía Nam giáp tỉnh Lâm Đồng và tỉnh Đắk Nông, phía Đông giáp tỉnh Phú Yên và tỉnh Khánh Hòa, phía Tây giáp Vương quốc Campuchia với đường biên giới dài 70km. Sau khi tách lập tỉnh Đắk Nông (2004), tỉnh Đắk Lắk hiện nay có diện tích tự nhiên 13.125 km2, dân số 1.733.624 người; có 15 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 01 thành phố, 01 thị xã và 13 huyện, với 184 đơn vị hành chính cấp xã. Trên địa bàn tỉnh hiện có hơn 44 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó có khoảng 30% là đồng bào dân tộc thiểu số (dân tộc Êđê 13,6%; dân tộc Nùng 3,9%, dân tộc Mnông 3,51%, dân tộc Tày 3,03%, dân tộc Thái 1,04%, dân tộc Dao 0,86%…).

Với diện tích tự nhiên tương đối rộng lớn, đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống rải rác trên địa bàn và thường tập trung ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới (là những vùng mà điều kiện đi lại hết sức khó khăn, ít có điều kiện giao tiếp với bên ngoài và hoạt động kinh tế còn tương đối khép kín, tự cung, tự cấp), trình độ dân trí còn rất thấp, nhiều người chưa biết chữ…, nên công tác quản lý Nhà nước ở cơ sở gặp không ít khó khăn. Bên cạnh đó, tình hình an ninh, chính trị tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp, các thế lực thù địch trong và ngoài nước thường lợi dụng những lĩnh vực có nhiều vấn đề bất ổn và nhạy cảm như tranh chấp đất đai, di cư tự do, dân tộc, tôn giáo… để kích động mâu thuẫn, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc. Chính vì vậy, việc tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) của Nhà nước trong các tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh càng trở nên quan trọng và cần được chính quyền các cấp quan tâm đúng mức.

1. Những kết quả nổi bật

Trong 10 năm trở lại đây, công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh đã không ngừng được đẩy mạnh, dần đi vào nề nếp, ngày càng phong phú về hình thức, thiết thực về nội dung, hướng mạnh về cơ sở, phục vụ cơ sở và đạt được những kết quả quan trọng, như:

Thứ nhất, về tổ chức, Hội đồng phối hợp PBGDPL các cấp không ngừng được củng cố, kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động (Hội đồng phối hợp của tỉnh được thành lập vào năm 1998 trên cơ sở Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg ngày 07/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ). Qua nhiều lần kiện toàn, hiện số lượng thành viên của Hội đồng có 25 người, là lãnh đạo chủ chốt các sở, ngành, tổ chức, đơn vị của tỉnh, do đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh làm Chủ tịch Hội đồng và đồng chí Giám đốc Sở Tư pháp làm Phó Chủ tịch thường trực. Ở cấp huyện, đã có 15/15 đơn vị thành lập Hội đồng phối hợp với tổng số 273 thành viên. Ngoài ra, Công an tỉnh, Bộ Chỉ huy Quân sự và Bộ đội biên phòng tỉnh cũng đã thành lập Hội đồng phối hợp của ngành.Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ làm công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh cũng đã từng bước được tăng cường. Đến nay, toàn tỉnh có 76 báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh, 371 báo cáo viên pháp luật cấp huyện, 3.039 tuyên truyền viên cấp xã và 54 cán bộ pháp chế của các sở, ban, ngành. Công tác bồi dưỡng và nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ làm công tác PBGDPL được quan tâm, chú trọng.

Thứ hai, các nội dung tuyên truyền, phổ biến được định hướng rõ, bám sát các chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị, ngành và địa phương, gắn với thực tiễn thi hành pháp luật; hình thức PBGDPL cũng không ngừng được đổi mới, vận dụng sáng tạo cho phù hợp với đặc điểm cụ thể về đối tượng, địa bàn, đạt hiệu quả thiết thực, cụ thể:

Mỗi năm, ở tỉnh tổ chức gần 200 hội nghị tập huấn, phổ biến văn bản pháp luật cho hơn 13.000 lượt cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; ở cấp huyện, mỗi năm tổ chức hơn 600 hội nghị, lớp tập huấn cho hơn 124.000 lượt cán bộ chủ chốt cấp huyện, cấp xã, báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật, hòa giải viên cơ sở, trưởng thôn, buôn, tổ dân phố…

Hàng năm, tỉnh tổ chức ít nhất 01 hội thi hoặc cuộc thi tìm hiểu pháp luật. Bên cạnh đó, nhiều cơ quan, tổ chức cũng đã chủ động hoặc phối hợp với các đơn vị khác tổ chức các cuộc thi, hội thi tìm hiểu pháp luật thuộc lĩnh vực phụ trách.Ở cấp huyện, ngoài việc tích cực hưởng ứng các hội thi, cuộc thi do Ủy ban nhân dân tỉnh tổ chức, các địa phương còn chủ động tổ chức tốt các cuộc thi, hội thi tìm hiểu pháp luật trong các lĩnh vực phòng, chống ma túy, mại dâm, an toàn giao thông, bảo vệ và phát triển rừng… trên địa bàn.

Bên cạnh đó, tỉnh đã phát hành hơn 12,5 triệu tờ gấp tuyên truyền pháp luật, hơn 76.000 đề cương giới thiệu văn bản pháp luật mới, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ. Các cơ quan, đơn vị, địa phương (cấp huyện, xã) cũng phát hành hàng triệu tờ gấp, tài liệu tuyên truyền pháp luật khác. Hiện nay, toàn tỉnh có 706 tủ sách pháp luật với hơn 46.700 đầu sách (trong đó có 501 tủ sách của các sở, ban, ngành, tổ chức, đoàn thể ở tỉnh, ở cấp huyện; hơn 200 tủ sách pháp luật tại các xã, phường, thị trấn và thôn, buôn, tổ dân phố).

Ngoài ra, tỉnh còn thực hiện PBGDPL thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là hệ thống loa truyền thanh ở cơ sở, qua các hoạt động trợ giúp pháp lý, xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước ở thôn, buôn, tổ dân phố; hòa giải ở cơ sở… cũng đã được các cấp, các ngành chú trọng, triển khai và đạt hiệu quả cao.

Bản tin Tư pháp Đắk Lắk được duy trì phát hành hàng tháng với 3.500 cuốn; Trang tin điện tử của Sở Tư pháp – Thường trực Hội đồng phối hợp của tỉnh thường xuyên đăng tải thông tin về các văn bản pháp luật mới, các hoạt động PBGDPL, hướng dẫn nghiệp vụ; xây dựng chuyên mục “Giải đáp pháp luật” trên Báo Đắk Lắk, Chuyên mục “Pháp luật và đời sống” trên Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh. Thường trực Hội đồng phối hợp cấp huyện thường xuyên phối hợp với Đài Truyền thanh – Truyền hình đẩy mạnh công tác tuyên truyền các văn bản pháp luật mới, liên quan mật thiết đến đời sống của người dân ở cơ sở; chỉ đạo cấp xã tăng cường tuyên truyền trên hệ thống loa truyền thanh cơ sở (phát thanh 2 lần/ngày, thời lượng 10-15 phút /lần)…

Thứ ba, quan niệm về trách nhiệm thực hiện công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh đã có sự thay đổi theo hướng tích cực. Từ quan niệm ban đầu là công tác PBGDPL là của riêng Ngành Tư pháp, do Sở Tư pháp chịu trách nhiệm triển khai, đến nay, trên cơ sở quan điểm, tư tưởng chỉ đạo tại Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 9/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL và Thông báo kết luận số 74-TB/TW ngày 11/5/2007 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW, nhiều ngành, cơ quan, đơn vị, địa phương đã thực sự quan tâm đến việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, đơn vị, chủ động phối hợp và thực hiện có hiệu quả công tác PBGDPL cho nhân dân, đã thực sự nhận thức được công tác này là trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị, địa phương, là trách nhiệm của mỗi cán bộ, công chức, viên chức và của cả hệ thống chính trị của chính quyền các cấp.

2. Một số khó khăn, vướng mắc

Bên cạnh những kết quả đạt được trên đây, thực tế cũng cho thấy, hoạt động PBGDPL trên địa bàn tỉnh cũng còn không ít hạn chế cần có biện pháp khắc phục, như:

Thứ nhất, sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức liên quan còn thiếu tính đồng bộ và chưa thật sự chặt chẽ; các thành viên Hội đồng phối hợp đều hoạt động kiêm nhiệm, đa số là lãnh đạo của các sở, ban, ngành, địa phương trên địa bàn tỉnh, nên việc dành thời gian đầu tư cho hoạt động này chưa nhiều, chưa phát huy được hết vai trò, trách nhiệm của mỗi thành viên trong thực hiện nhiệm vụ chung của Hội đồng phối hợp, có nơi hầu như chỉ do cơ quan thường trực Hội đồng chủ động triển khai thực hiện, nhất là ở cấp huyện; ở một số địa phương, đơn vị, cấp uỷ, chính quyền chưa thật sự quan tâm và đầu tư đúng mức cho công tác này.

Thứ hai, với đặc thù địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, đường xá đi lại khó khăn, dân cư thưa thớt, lại có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sống rải rác trên một địa bàn rộng, trình độ dân trí còn thấp, đặc biệt một số nơi đồng bào còn chưa biết đọc, biết viết tiếng phổ thông. Bên cạnh đó, kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện đi lại, trang thiết bị và nguồn lực phục vụ cho công tác PBGDPL ở địa phương, nhất là cơ sở còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực hiện nhiệm vụ; đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật hầu hết đều kiêm nhiệm, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ còn hạn chế và chưa đồng đều, chế độ đãi ngộ lại quá thấp, nên chưa thực sự tâm huyết trong thực hiện nhiệm vụ, chưa thực sự phát huy hết vai trò, trách nhiệm trong việc làm đầu mối để chuyển tải pháp luật đến với người dân…

Thứ ba, hoạt động PBGDPL có lúc vẫn còn mang tính hình thức, nặng về phong trào; việc phổ biến hiện nay mới chỉ tập trung vào các luật và pháp lệnh, chưa thực sự chú trọng vào các văn bản hướng dẫn thi hành; có hình thức PBGDPL hay nhưng chưa được triển khai nhiều trên thực tế như tổ chức các phiên toà xét xử lưu động kết hợp với PBGDPL cho nhân dân; các hình thức PBGDPL hiện đại chưa được sử dụng triệt để, đặc biệt là việc ứng dụng một cách có hiệu quả công nghệ thông tin vào hoạt động PBGDPL; hình thức tuyên truyền tuy đa dạng, nhưng quá trình tổ chức triển khai chưa đồng bộ, chưa được thường xuyên và rộng khắp, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

Trước yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra ngày càng cao đối với công tác PBGDPL, việc nâng cao hiệu quả công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh là hết sức cần thiết và cấp bách. Để đạt được điều đó, thiết nghĩ, trước mắt và lâu dài cần giải quyết những vấn đề sau đây:

Một là, các ngành, các cấp cần quán triệt sâu sắc về chủ trương, chương trình, kế hoạch về công tác PBGDPL, nhất là Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 và Chỉ thị số 32-CT/TW, Thông báo kết luận số 74-TB/TW, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Ngành Tư pháp phát huy vai trò nòng cốt, tham mưu kịp thời cho cấp uỷ, Hội đồng phối hợp PBGDPL triển khai có hiệu quả Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, chương trình, kế hoạch PBGDPL của tỉnh; các luật mới ban hành phải được triển khai kịp thời; thường xuyên rà soát, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác PBGDPL, báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật các cấp và hoà giải viên ở cơ sở. Các ngành, các cấp khi triển khai các hoạt động PBGDPL cần phải xây dựng và tổ chức thực hiện theo kế hoạch, chương trình cụ thể trong từng giai đoạn, có biện pháp thực hiện phù hợp với từng nhóm đối tượng, địa bàn và điều kiện thực tế của cơ quan, đơn vị, địa phương.

Hai là, sớm kiện toàn Hội đồng phối hợp, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật các cấp theo quy định của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành, theo đó, các cơ quan, đơn vị cử đại diện tham gia Hội đồng phối hợp cần cân nhắc lựa chọn thành viên cho phù hợp, đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ cơ quan và nhiệm vụ Hội đồng giao; ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng phối hợp, quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, đồng thời quy định thống nhất về thành phần hội đồng các cấp, trách nhiệm từng thành viên để phát huy tính chủ động, vai trò, trách nhiệm của từng thành viên góp phần cho công tác này được triển khai nhịp nhàng, liên tục và hiệu quả, tạo ra môi trường thuận lợi để các thành viên thực hiện tốt nhiệm vụ được phân công; đối với từng thành viên Hội đồng phối hợp, khi thực hiện nhiệm vụ được giao cần sử dụng và phát huy vai trò tham mưu, giúp việc của tổ chức pháp chế và các tổ chức có liên quan tại cơ quan, đơn vị; cần trao đổi, thống nhất chương trình, kế hoạch PBGDPL, đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ thường xuyên giữa các thành viên, giữa các cơ quan có liên quan trong công tác này.

Ba là,cần tiếp tục đa dạng hóa và đổi mới cách thức thực hiện, đảm bảo các hình thức, nội dung được triển khai thực hiện trên cơ sở bám sát định hướng chỉ đạo về công tác PBGDPL của cấp trên, đồng thời phù hợp với điều kiện thực tế và đặc thù của từng đơn vị, địa phương, cộng đồng dân cư, tạo điều kiện cho cán bộ, công chức, người dân, nhất là người dân miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và một số đối tượng đặc thù thuận lợi trong việc tiếp cận, tìm hiểu pháp luật, đặc biệt:

Chú trọng Tuyên truyền miệng qua các hoạt động văn hoá, lễ hội, tuyên truyền lưu động; phổ biến qua các phương tiện thông tin đại chúng, trong đó, chú trọng phổ biến qua mạng lưới truyền thanh cơ sở phát bằng nhiều thứ tiếng (tiếng phổ thông và tiếng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn) vào thời gian thích hợp để đồng bào dễ dàng nghe và tiếp thu được; biên dịch và chuyển thể nội dung những nguyên tắc chung, cơ bản của pháp luật (thường có tính ổn định cao), những quy định của pháp luật liên quan đến đời sống hàng ngày sang tiếng tiếng đồng bào dân tộc thiểu số và dưới dạng lời nói vần tương tự như hình thức thể hiện và lưu truyền các luật tục để truyền bá rộng rãi trong đồng bào, thông qua gia đình, qua các thế hệ, dần dần hình thành ý thức pháp luật. Trong công tác PBGDPL cũng cần đề cao vai trò, uy tín của các già làng, trưởng thôn, cán bộ hoà giải vì những người này có thuận lợi là biết ngôn ngữ, lại am hiểu phong tục tập quán, đặc điểm đời sống của đồng bào nên việc tuyên truyền của họ sẽ có hiệu quả hơn.

Tiếp tục duy trì và tiến tới cải tiến hình thức, nội dung của việc xây dựng, phát hành Bản tin tư pháp hành tháng, các loại tài liệu tuyên truyền pháp luật khác; phối hợp xây dựng các Chuyên mục “Giải đáp pháp luật”, “Pháp luật và đời sống” trên báo, đài của địa phương.

Tiếp tục củng cố và phát triển các hệ thống thông tin pháp luật phù hợp tại các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp; nâng cao khả năng hợp tác giữa các cơ quan, tổ chức làm công tác thông tin pháp luật tạo thành mạng lưới thông tin pháp luật thống nhất từ tỉnh đến cơ sở thực hiện việc tổ chức, quản lý và cung cấp thông tin pháp luật; hình thành các cơ quan đầu mối làm nhiệm vụ cung cấp thông tin pháp luật phục vụ nhu cầu tìm hiểu pháp luật của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh.

Kết hợp PBGDPL với trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật và hoà giải ở cơ sở. Giữa PBGDPL, trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật và hoà giải ở cơ sở có mối quan hệ mật thiết trong việc xây dựng ý thức pháp luật, tăng cường sự hiểu biết pháp luật, khuyến khích thói quen ứng xử xã hội bằng pháp luật trong nhân dân. Để nâng cao hiệu quả, phát huy thế mạnh của các hình thức này, cần đưa yêu cầu thực hiện PBGDPL vào Quy chế hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý và các tổ hòa giải ở cơ sở; hình thành trách nhiệm tự giác thực hiện PBGDPL cho đối tượng, cho khách hàng khi trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật; nâng cao chất lượng, hiệu quả và mở rộng đối tượng, phạm vi hoạt động trợ giúp pháp lý lưu động để đảm bảo mọi người dân đều có khả năng được hưởng dịch vụ này khi cần thiết.

Bốn là, cần tiếp tục tuyên truyền, PBGDPL theo hướng làm thay đổi cách nghĩ, cách nhìn của nhân dân đối với pháp luật.

Để làm tốt công tác tuyên truyền, PBGDPL cần có sự tìm hiểu về thái độ của người dân đối với pháp luật, họ hiểu pháp luật như thế nào? Pháp luật có vai trò gì trong cuộc sống của họ?… Có thể nói, phần lớn người dân thường cho rằng, “pháp luật” là những mệnh lệnh mà người ta cần phải tuân thủ, là hình phạt, là trừng trị…, người khác thì cho rằng, pháp luật chỉ là để giải quyết các tranh chấp. Người dân thường chỉ quan tâm tới pháp luật khi bản thân họ phải rơi vào tình thế sự việc miễn cưỡng, lợi ích bị xâm hại… dính líu tới pháp luật (kiện cáo, tranh chấp, bị phạt, bị cưỡng chế…). Bởi vậy, khi tuyên truyền, PBGDPL cần giải thích, phân tích cho người dân hiểu được rằng, pháp luật không chỉ bao gồm các quy định cưỡng chế, thực thi pháp luật, biện pháp giải quyết tranh chấp. Pháp luật còn bao gồm các quy định bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, khuyến khích sự giao dịch lành mạnh giữa các thành viên trong xã hội vì sự phát triển và bảo đảm trật tự ổn định. Pháp luật là một môi trường thuận lợi tạo điều kiện cho con người giao dịch với nhau trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, đảm bảo cho các thành viên trong xã hội phụ thuộc và gắn bó với nhau một cách hợp lý.

Năm là, các ngành, các cấp cần quan tâm bố trí hợp lý kinh phí, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực cho công tác PBGDPL theo quy định của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ, đãi ngộ lực lượng làm công tác PBGDPL. Đồng thời, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, khai thác có hiệu quả các văn bản pháp luật cập nhật, lưu trữ trên mạng tin học của Chính phủ, mạng Internet; xây dựng và đưa vào sử dụng rộng rãi các cơ sở dữ liệu pháp luật điện tử… để đáp ứng yêu cầu công tác PBGDPL trong giai đoạn hiện nay.

Ngoài ra, cần quan tâm đến những vấn đề có tính chiến lược, lâu dài, như: Nâng cao chất lượng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật về trình độ chuyên môn, kỹ năng tuyên truyền; tiếp tục đổi mới hình thức tuyên truyền đa dạng với nhiều hình thức phân loại theo các đối tượng khác nhau; chú trọng tuyên truyền tại cơ sở; tích cực đẩy mạnh xã hội hoá công tác PBGDPL; làm thay đổi tư duy nhận thức của cán bộ, công chức và các tầng lớp nhân dân về công tác PBGDPL.

ThS. Bùi Hồng Quý

Phó Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Vai trò của trợ giúp viên pháp lý trong hoạt động tố tụng

23/07/2014

Luật Trợ giúp pháp lý (TGPL) ra đời đã thể hiện sự nhất quán chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc giúp đỡ pháp luật, hỗ trợ về mặt pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho nhân dân đặc biệt là người nghèo và đối tượng chính sách, đánh dấu bước chuyển về cả lượng và chất, đưa công tác TGPL lên một tầm cao mới phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước. Chức danh người thực hiện TGPL đã được quy định chính thức trong Luật với tên gọi là Trợ giúp viên pháp lý (TGVPL).

Với tính chất là một trong những hoạt động bổ trợ tư pháp, hoạt động TGPL đã góp phần nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật trong nhân dân, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, đồng thời tạo cơ chế hữu hiệu thực thi nguyên tắc bình đẳng giữa các công dân trước pháp luật không phân biệt vị thế xã hội. Mọi người đều sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.

Trong hoạt động TGPL, TGVPL đóng vai trò là người tuyên truyền phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, và pháp luật của Nhà nước, bảo đảm cho người được TGPL đều được phổ biến, giáo dục pháp luật và được tư vấn pháp luật miễn phí, tạo điều kiện để công lý và công bằng xã hội được thực thi.

Trong hoạt động tố tụng, vai trò của TGVPL góp phần xác định sự thật khách quan của vụ việc được nhanh chóng, chính xác, tránh làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết công việc được công bằng và tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật.

Để hiểu thêm về vai trò của TGVPL trong hoạt động tố tụng, những thuận lợi, khó khăn và một số định hướng nhằm nâng cao vai trò, hiệu quả hoạt động của đội ngũ TGVPL trong hoạt động tố tụng, độc giả có thể tham khảo bài viết: “Vai trò của Trợ giúp viên pháp lý trong hoạt động tố tụng củatác giảNguyễn Thị Minh và Trịnh Thị Thanh đăng trên Số chuyên đề tháng 6/2014 về “Trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng” của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.

Việt Tiến

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bàn về hậu quả pháp lý việc đình chỉ thi hành án theo thỏa thuận của đương sự

14/10/2014

Một thực tế hiện nay là một số cơ quan thi hành án dân sự gặp phải những vụ việc tương đối vướng mắc liên quan đến việc cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định đình chỉ thi hành án đối với phần thỏa thuận không yêu cầu thi hành án (biên bản ghi nhận sự thỏa thuận do Chấp hành viên lập theo mẫu quy định) nhưng sau đó người phải thi hành án không thực hiện việc thỏa thuận như đã cam kết, người được thi hành án nộp đơn yêu cầu thi hành án trở lại, tuy nhiên pháp luật chưa có quy định rõ ràng về việc chấp nhận hay không chấp nhận đơn yêu cầu để ra quyết định thi hành án…

Xung quanh vấn đề này có nhiều quan điểm khác nhau, cụ thể:

Quan điểm thứ nhất cho rằng,đình chỉ thi hành án là việc cơ quan thi hành án ngừng hẳn việc thi hành bản án, quyết định dân sự khi có những căn cứ theo quy định của pháp luật. Đặc điểm của đình chỉ thi hành án là việc chấm dứt thi hành đối với các bản án, quyết định dân sự. Việc thi hành án sau khi bị đình chỉ sẽ không được đưa ra thi hành nữa, các bên đương sự cũng chấm dứt mọi quyền và nghĩa vụ của họ đã tuyên trong bản án, kể cả nghĩa vụ đối với Nhà nước, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác, do vậy cơ quan thi hành án dân sự không thụ lý ra quyết định thi hành án mà hướng dẫn đương sự yêu cầu Văn phòng Thừa phát lại tổ chức thi hành án… Khoản 1 Điều 35 của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại TP. Hồ Chí Minh quy định: “Cùng một nội dung yêu cầu, cùng một thời điểm, người yêu cầu chỉ có quyền làm đơn yêu cầu một Văn phòng Thừa phát lại hoặc cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án”. Chưa có văn bản nào quy định về việc Văn phòng Thừa phát lại không được thụ lý các vụ việc thi hành án mà cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định đình chỉ thi hành án.

Quan điểm thứ hai cho rằng, mặc dù Luật Thi hành án dân sự không nói rõ về trường hợp đã yêu cầu đình chỉ nhưng sau đó yêu cầu thi hành án lại, tuy nhiên, khi có quyết định đình chỉ thi hành án có nghĩa là đã làm chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên, mọi vấn đề liên quan coi như đã kết thúc nên Cơ quan thi hành án dân sự không có cơ sở thụ lý ra quyết định thi hành án lại, vì vậy đương sự có quyền khởi kiện tại Tòa án để đảm bảo quyền lợi chính đáng với lý do ở giai đoạn thi hành án hai bên đã thực hiện một giao dịch mới có điều kiện khác (ví dụ giao tài sản như nhà, đất… trừ nợ, nếu không giao phải trả thêm tiền lãi…), giao dịch mới này không trái pháp luật, đạo đức và đã phát sinh tranh chấp. Tuy nhiên, vấn đề này có ý kiến cho rằng không thể kiện lại được vì một tranh chấp không thể giải quyết hai lần.

Cả 02 quan điểm trên đều có chung một điểm là Cơ quan thi hành án đã ra quyết định đình chỉ thi hành án theo điểm c khoản 1 Điều 50 của Luật Thi hành án dân sự, không thụ lý đơn yêu cầu thi hành án trở lại.

Quan điểm nói trên phù hợp quy định tại Thông tư số 09/TT-BTP ngày 30/5/2011 của Bộ Tư pháp quy định biểu mẫu thi hành án (mẫu số D38-THA ấn định: “việc tự nguyện rút đơn yêu cầu thi hành án, thì không được quyền yêu cầu thi hành án trở lại.”, Cơ quan THADS ra Quyết định đình chỉ thi hành án, các bên đương sự cũng chấm dứt mọi quyền và nghĩa vụ của họ đã tuyên trong bản án, không được yêu cầu thi hành án trở lại.

Cách vận dụng như trên chưa được đồng tình, bởi lẽ: Hiện nay một số văn bản pháp luật có quy định liên quan đến trách nhiệm dân sự như sau:

Tại Điều 6 của Luật Thi hành án dân sự quy định:“1. Đương sự có quyền thoả thuận về việc thi hành án, nếu thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Kết quả thi hành án theo thoả thuận được công nhận. Theo yêu cầu của đương sự, Chấp hành viên có trách nhiệm chứng kiến việc thoả thuận về thi hành án. 2. Trường hợp đương sự không thực hiện đúng thoả thuận thì có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung bản án, quyết định”.

Tại Điều 34 của Luật Thi hành án dân sự đã quy định về Từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án gồm những điểm như sau: “1. Cơ quan thi hành án dân sự từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án trong các trường hợp sau đây: a) Người yêu cầu thi hành án không có quyền yêu cầu thi hành án hoặc nội dung đơn yêu cầu thi hành án không liên quan đến nội dung của bản án, quyết định; b) Cơ quan thi hành án dân sự được yêu cầu không có thẩm quyền thi hành án; c) Hết thời hiệu yêu cầu thi hành án.2. Cơ quan thi hành án dân sự từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án phải thông báo bằng văn bản cho người nộp đơn yêu cầu thi hành án”.

Không quy định từ chối nhận đơn yêu cầu đối với trường hợp thỏa thuận đình chỉ theo điểm c khoản 1 Điều 50 của Luật Thi hành án dân sự, nhưng sau đó yêu cầu thi hành án trở lại.

Tại Điều 3 của Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự: … đương sự có quyền yêu cầu Chấp hành viên chứng kiến việc thỏa thuận. Chấp hành viên được giao giải quyết việc thi hành án có trách nhiệm chứng kiến và ký tên vào văn bản thỏa thuận. Trường hợp thỏa thuận vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì Chấp hành viên có quyền từ chối nhưng phải lập biên bản và nêu rõ lý do…Trường hợp đương sự không tự nguyện thực hiện theo đúng nội dung đã thỏa thuận thì cơ quan thi hành án dân sự căn cứ nội dung bản án, quyết định; đơn yêu cầu thi hành án và kết quả đã thi hành theo thỏa thuận để ra quyết định thi hành án…”

Mặt khác, Tại Điều 4 của Bộ luật Dân sự đã quy định: “Quyền tự do cam kết, thoả thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Trong quan hệ dân sự, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào. Cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng”.

Bộ luật Tố tụng dân sự cũng có những quy định rất chặt chẽ để bảo vệ cam kết, thoả thuận hợp pháp của đương sự có tính hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng, Ví dụ:

Điều 192. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, Khoản 1. Sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường hợp sau đây: điểm c)Người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Toà án chấp nhận hoặc người khởi kiện không có quyền khởi kiện;

Điều 193. Hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, Khoản 1. Khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết lại vụ án dân sự đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ các trường hợp quy định tại các điểm c…khoản 1 Điều 192 của Bộ luật này…

Như vậy, người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Toà án chấp nhận ra quyết định đình chỉ thì sau đó vẫn được khởi kiện lại.

Để giải quyết vấn đề vướng mắc nói trên, và phù hợp với các quy định của Bộ Luật Tố tụng dân sự, Bộ Luật dân sự, các văn bản pháp luật khác…và ràng buộc ý thức chấp hành pháp luật về thực hiện cam kết, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, chúng tôi có một số đề xuất, kiến nghị như sau:

Một là, sửa lại biểu mẫu D38-THA – Biên bản V/v Người được thi hành án tự nguyện rút đơn yêu cầu thi hành án, (bỏ đoạn ràng buộc đương sự “khi tự nguyện rút đơn yêu cầu thi hành án, thì không được quyền yêu cầu thi hành án trở lại.”), vì sự tự nguyện này là “Quyền tự do cam kết, thoả thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội”).

Hai là, trong mẫu C 04-THA – Quyết định đình chỉ thi hành án, nên cơ cấu thêm 01 điều quy định người được thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án trở lại nếu người phải thi hành án không thực hiện đúng cam kết (tương tự nhưcơ cấu tạiĐiều 3.mẫu C 05-THA Quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án quy định: “Người được thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án kể từ ngày phát hiện người phải thi hành án có điều kiện thi hành”.

Mặt khác, Cơ quan thi hành án vẫn được nhận đơn yêu cầu thi hành án trở lại để ra quyết định thi hành án, vì theo Điều 34 của Luật Thi hành án dân sự không quy định từ chối nhận đơn yêu cầu đối với trường hợp thỏa thuận đình chỉ theo điểm c khoản 1 Điều 50 của Luật Thi hành án dân sự, nhưng sau đó yêu cầu thi hành án trở lại.

Nguyễn Đức Thịnh

Chi cục THADS huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Tồn tại, vướng mắc trong Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung

29/08/2014

Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 18/6/2009 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010. Luật quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án. Không thể phủ nhận các quy định ngày càng hoàn thiện so với các văn bản pháp luật quy định trước, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ra đời góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước ta trong thời kỳ mới, thể hiện rõ trách nhiệm của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại; các quy định tương đối rõ ràng, cụ thể và đầy đủ, tạo sự ổn định xã hội, thúc đẩy phát triển của Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. Tuy nhiên, sau gần 5 năm đi vào cuộc sống, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã bộc lộ những tồn tại, vướng mắc cần phải xem xét sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Dưới đây là những vấn đề hết sức cơ bản được tác giả nêu và phân tích một cách ngắn gọn nhất.

1. Một số tồn tại, vướng mắc cơ bản trong Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

Một là, về phạm vi điều chỉnh

Tại Điều 1 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định về phạm vi điều chỉnh trong đó ghi rõ đối tượng được bồi thường là cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án. Như vậy, có thể thấy việc quy định này của luật được ghi rõ đối tượng là cá nhân, tổ chức bị thiệt hại. Tuy nhiên lại không quy định rõ đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài thì được điều chỉnh ra sao và việc bồi thường thực hiện như thế nào. Điều này đòi hỏi luật cần có sự quy định cụ thể, rõ ràng hơn. Hơn nữa, trên thực tế cuộc sống còn có nhiều trường hợp khác mà Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước chưa đề cập tới trong đối tượng là cá nhân, tổ chức bị thiệt hại;

Về Phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước bao gồm: Lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng (tố tụng hình sự, dân sự, hành chính) và thi hành án (thi hành án hình sự, dân sự). Mặc dù, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã quy định rõ phạm vi thuộc trách nhiệm bồi thường của Nhà nước nhưng thực tiễn còn nhiều trường hợp khác đặt ra không được bồi thường mặc dù cũng bị thiệt hại như: Việc giữa cơ quan Nhà nước ký hợp đồng với cá nhân, tổ chức mà gây thiệt hại; những trường hợp các công trình xây dựng hoặc biến cố khác của cơ quan Nhà nước mà gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức (các công trình đang xây dựng do sập bê tông vào người đi đường, chết đuối do rơi vào hố đang thi công …). Có thể thấy đây là một vài trường hợp trong rất nhiều trường hợp ngoài phạm vi quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được ghi nhận trong Luật. Luật pháp luôn phản ánh và điều chỉnh các quan hệ xã hội và là công cụ quản lý của Nhà nước, do vậy sẽ lạc hậu hơn so với sự phát triển của xã hội, điều này đòi hỏi cần chỉnh sửa để ngày một hoàn thiện hơn trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phục vụ sự quản lý phát triển của Nhà nước.

Hai là, về căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường

Đây là vấn đề cực kỳ quan trọng và có thể coi là yếu tố mấu chốt trong việc yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại. Song để có được căn cứ yêu cầu bồi thường là cả vấn đề hết sức khó khăn và phức tạp đối với người bị thiệt hại.

Điều 6 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định việc xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án phải có các căn cứ sau:

+ Có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật và thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường quy định tại các Điều 13, 28, 38 và 39 của Luật này;

+ Có thiệt hại thực tế do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra đối với người bị thiệt hại.

Việc xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự phải có các căn cứ sau:

+ Có bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người bị thiệt hại thuộc các trường hợp được bồi thường quy định tại Điều 26 của Luật này;

+ Có thiệt hại thực tế do người tiến hành tố tụng hình sự gây ra đối với người bị thiệt hại.

Như vậy, căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước bắt buộc phải có hai điều kiện là có văn bản của cơ quan Nhà nước trong đó xác định rõ hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật hoặc bản án, quyết định trong tố tụng hình sự xác định người bị thiệt hại được bồi thường và điều kiện thứ hai là phải có thiệt hại thực tế xẩy ra. Đây là một quy định rất khó khăn trong thực tế thi hành Luật, đặc biệt đối với người bị thiệt hại, bởi trong mối quan hệ bồi thường này là quan hệ bất bình đẳng giữa một bên là Nhà nước và một bên là cá nhân, tổ chức bị thiệt hại. Để có văn bản xác định hành vi sai trái của người thi hành công vụ là cả một vấn đề, thậm chí các cơ quan còn né tránh không ra văn bản hoặc có ban hành văn bản thì mang tính chất nội dung chung chung mà không ghi nhận sự sai trái đó. Điều 9 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định rằng người bị thiệt hại có nghĩa vụ chứng minh về thiệt hại thực tế đã xảy ra. Việc chứng minh có thiệt hại thực tế xảy ra cũng là một vấn đề khó khăn, bởi người bị thiệt hại là cá nhân, tổ chức nhưng không có công cụ gì trong tay mà chứng minh là có thiệt hại thực tế xảy ra. Để thuận lợi cho yêu cầu của người bị thiệt hại, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cần nghiên cứu và hoàn thiện quy định này, tạo điều kiện thuận lợi trong thủ tục yêu cầu bồi thường.

Ba là, về thủ tục giải quyết bồi thường

Điều 19, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước mặc dù đã có những quy định cụ thể, giản tiện trong thủ tục giải quyết bồi thường nhằm đạt hiệu quả và nhanh gọn như cử người đại diện có thẩm quyền của cơ quan có trách nhiệm bồi thường trực tiếp thương lượng, giải quyết. Việc giải quyết bồi thường tại cơ quan có trách nhiệm bồi thường là thủ tục bắt buộc. Sau khi thụ lý đơn và xác minh yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường tổ chức thương lượng và việc thương lượng phải được lập thành biên bản, kết quả thương lượng là cơ sở để quyết định việc bồi thường. Ngoài mặt tích cực ra, thì yêu cầu bắt buộc này tồn tại một số hạn chế như: Kéo dài thời gian giải quyết; người bị thiệt hại nhiều khi đã mất lòng tin đối với cơ quan có trách nhiệm bồi thường, nhưng lại không có sự lựa chọn nào khác mà phải chờ thủ tục thương lượng xong mới được khởi kiện ra Tòa án; hạn chế quyền yêu cầu thuận lợi của người bị thiệt hại trong việc giải quyết yêu cầu bồi thường.

Thực tế trong hoạt động tố tụng, sau khi có Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, thì dường như hoạt động này có phần được chặt chẽ hơn trong khâu thủ tục giải quyết, song cũng hạn chế nhiều đối với những người tiến hành tố tụng khi thực thi và áp dụng pháp luật. Trong tố tụng hình sự thì người được miễn trách nhiệm hình sự không được bồi thường thiệt hại (Điều 27 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước) nhưng việc miễn trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 25 Bộ luật Hình sự cũng có nhiều nội dung chưa đồng thuận và để tránh phải bồi thường, thì đây có thể là kẽ hở để các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng.

Tương tự trong tố tụng dân sự và hành chính nếu người tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có hành vi trái pháp luật gây ra, thì Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Điều này đồng nghĩa với việc nhiều vụ án hành chính, dân sự không được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ gây hậu quả khó lường và phức tạp khi giải quyết vụ án về sau bởi người tiến hành tố tụng muốn sự an toàn mà không sử dụng kịp thời biện pháp ngăn chặn.

2. Một số đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

Thứ nhất, về phạm vi, đối tượng được bồi thường

Cần rà soát, nghiên cứu và bổ sung đối tượng, phạm vi được bồi thường. Như đặt vấn đề tại mục 1, thì cứ những cá nhân, tổ chức bị thiệt hại trong phạm vi quy định của Luật mới được bồi thường, vậy đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài thì sao? Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, cần có quy định rõ hơn, đồng thời hoàn thiện trong việc hợp tác quốc tế đối với hoạt động trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Ngoài phạm vi trong ba lĩnh vực là quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án thì cần mở rộng hơn, đặc biệt là những trường hợp thực tiễn xảy ra nhiều hoặc trường hợp cơ quan Nhà nước ký hợp đồng mà gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân hoặc ban hành văn bản pháp luật sai trái gây thiệt hại…

Thứ hai, căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường

Cũng như nêu ở Mục 1, căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường cần phải có đủ hai điều kiện là văn bản của cơ quan có thẩm quyền xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ và chứng minh có thiệt hại thực tế xảy ra. Việc yêu cầu ra văn bản của cơ quan Nhà nước đã khó, trong đó có nội dung thừa nhận sai trái lại càng khó khăn hơn, bên cạnh đó rất nhiều cơ quan trốn tránh trách nhiệm không ra văn bản hoặc loanh quanh, văn bản không đúng quy định nên không thể yêu cầu bồi thường. Việc chứng minh thiệt hại thực tế xảy ra cũng là một vấn đề rất khó, người yêu cầu bồi thường thiệt hại không có công cụ, phương tiện thậm chí không có điều kiện thì việc chứng minh là cự ký khó, thậm chí là không thể như vấn đề ô nhiễm môi trường là một ví dụ. Vấn đề này có thể khắc phục, sửa đổi, bổ sung bằng cách có thể dùng các văn bản hoặc tài liệu, chứng cứ khác để so sánh, chứng minh việc sai trái của người thi hành công vụ trong cơ quan có thẩm quyền gây thiệt hại mà không nhất thiết phải chờ văn bản nhận sai của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đó.

Bên cạnh đó trên thực tế trong lĩnh vực tố tụng hình sự, hành chính và dân sự như phần đầu đã đề cập, các cơ quan tiến hành tố tụng có thể chọn một phương án rất an toàn để tránh việc bồi thường, lợi dụng sự chưa hoàn thiện của hệ thống luật pháp như miễn trách nhiệm hình sự hoặc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời… Lĩnh vực này cần quy định một cách cụ thể, rõ ràng, hạn chế việc né tránh hoăc áp dụng pháp luật một cách không phù hợp sẽ ảnh hưởng tới quyền lợi của người dân.

Thứ ba, thủ tục giải quyết trách nhiệm bồi thường

Từ đối tượng, phạm vi đến căn cứ xác định bồi thường là cả một vấn đề, thậm chí người yêu cầu bồi thường mất rất nhiều thời gian, công sức để tiếp cận với đầy đủ thủ tục để yêu cầu bồi thường nhưng lại không được chọn một phương pháp tối ưu nhanh, gọn, đỡ tốn kém để được giải quyết mà bắt buộc phải thương lượng với cơ quan có trách nhiệm bồi thường. Vốn đã là không bình đẳng trong quan hệ yêu cầu bồi thường lại có nhiều điểm bất lợi song cá nhân, tổ chức vẫn phải ngồi vào bàn thương lượng với cơ quan có trách nhiệm bồi thường. Điều này có thể nghiên cứu sửa đổi để cá nhân, tổ chức yêu cầu bồi thường có thể chọn phương án tốt hơn để yêu cầu bồi thường.

Ngoài ra vấn đề về trách nhiệm hoàn trả cũng cần có sự nghiên cứu và sửa đổi, bổ sung phù hợp, rõ hơn để người thi hành công vụ đủ tự tin, yên tâm khi làm việc đồng thời có trách nhiệm cao hơn trong thực thi công vụ./.

ThS. Luật sư Lê Đăng Tùng

VP luật sư Trường Giang, Đoàn luật sư TP. Hà Nội

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác hòa giải ở cơ sở

26/08/2014

Là một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở, phối hợp với các cơ quan tư pháp tham gia thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở.

Bên cạnh những kết quả đạt được, tại một số địa phương, cơ sở, vai trò của Mặt trận trong công tác hòa giải ở cơ sở vẫn còn hạn chế, chưa được phát huy. Mặt trận Tổ quốc và tổ chức các thành viên chưa thực sự là mối liên kết để vận động, hòa giải kịp thời, triệt để các mâu thuẫn trong cộng đồng dân cư, dẫn đến mâu thuẫn kéo dài, ảnh hưởng tình làng, nghĩa xóm hoặc có khiếu nại đến cơ quan thẩm quyền. Sự phối hợp giữa Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan tư pháp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở một số nơi chưa mang lại hiệu quả cao trong công tác hòa giải ở cơ sở.

Trong phạm vi bài viết “Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác hòa giải ở cơ sở”, tác giả Đỗ Thị Nhẫn cũng nêu lên một số đề xuất nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác hòa giải ở cơ sở góp phần dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay.

Để hiểu cụ thể hơn những nội dung chính mà tác giả đã đề cập, độc giả có thể nghiên cứu bài viết được đăng trên Số chuyên đề tháng 7/2014 về “Thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở” của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.

Vũ Hải Việt

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bàn về điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản

22/10/2014

Chế định hợp đồng tặng cho tài sản đã được Bộ luật Dân sự năm 1995 quy định từ Điều 461 đến Điều 466 và đến Bộ luật Dân sự năm 2005, hợp đồng tặng cho tài sản được quy định từ Điều 465 đến Điều 470 của Chương XVIII, Phần thứ ba. Hợp đồng tặng cho tài sản bao gồm: Hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện và hợp đồng tặng cho tài sản không có điều kiện.

Tham khảo những điều luật liên quan tới hợp đồng tặng cho tài sản trong tương quan so sánh với các loại hợp đồng cũng dẫn tới việc chuyển dịch về sở hữu, rõ ràng quy định về “điều kiện tặng cho” là một trong những điều khoản nhất thiết phải hiện diện trong nội dung hợp đồng và đây có lẽ cũng là một trong những điểm khác biệt lớn nhất giữa hợp đồng tặng cho tài sản với những loại hợp đồng khác có cùng hậu quả pháp lý.

Phải chăng “điều kiện” trong hợp đồng tặng cho tài sản hoàn toàn có thể được hiểu theo nghĩa bên được tặng cho phải “thực hiện công việc khác, hoặc không được thực hiện công việc nhất định” miễn là công việc này không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.

Từ kinh nghiệm thực tế của hoạt động nghề nghiệp, với tư cách là những công chứng viên, các tác giả đã thống kê và nhận thấy hợp đồng tặng cho tài sản chiếm một tỉ lệ không nhỏ trong tổng số các văn bản công chứng đã được thực hiện. Trong khuôn khổ của bài viết “Bàn về điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản” của tác giả Tuấn Đạo Thanh và Phạm Thu Hằng đã tập trung phân tích quy định về điều kiện tặng cho trong hợp đồng tặng cho tài sản.

Để hiểu rõ hơn những nội dung mà các tác giả đã bàn bạc, phân tích về điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản, bạn đọc có thể xem thêm bài viết được đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật định kỳ số tháng 9 (270) năm 2014.

Vũ Hải Việt

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thực hiện tốt công tác hòa giải ở cơ sở

25/08/2014

Hòa giải từ lâu vốn đã được xem là một truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam nhằm giữ gìn tình làng, nghĩa xóm, tình đoàn kết tương thân, tương ái trong cộng đồng, mang đậm tính nhân văn, hoạt động vì mọi người trên cơ sở đạo đức xã hội và nền tảng pháp luật, nếu thực hiện tốt công tác này sẽ giúp ổn định xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển.

Trong bối cảnh đời sống hiện nay, khi những mâu thuẫn, xích mích, tranh chấp về quyền lợi phát sinh một cách thường xuyên hơn, công tác hòa giải càng đóng vai trò quan trọng, giúp hạn chế một phần tình trạng tranh chấp, đơn thư khiếu kiện do thiếu hiểu biết.

Uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh Gia Lai đã chỉ đạo các Sở, ban, ngành, UBND cấp huyện và cấp xã tăng cường tổ chức, hoạt động hoà giải ở cơ sở. Qua đó hoạt động hòa giải trên địa bàn tỉnh trong những năm qua từng bước chuyển biến tích cực. Các tổ hoà giải được kiện toàn, chất lượng và số lượng hoà giải viên có trình độ chuyên môn trung cấp, đại học ngày càng nhiều, số vụ việc hoà giải thành năm sau cao hơn năm trước, hạn chế được rất nhiều vụ việc tranh chấp khiếu kiện.

Đến nay, toàn tỉnh Gia Lai có 2.159 thôn, làng, tổ dân phố với 2.146 tổ hòa giải và 11.207 hòa giải viên. Các thành viên tổ hoà giải là trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố, cán bộ Mặt trận, già làng. Hòa giải viên tham gia vào tổ hoà giải là những người có phẩm chất đạo đức, uy tín, đại diện cho nhân dân, có tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình, tự nguyện tham gia làm công tác hòa giải. Chất lượng đội ngũ hòa giải viên ngày càng được nâng cao, góp phần giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp nhỏ trong nhân dân, góp phần ổn định trật tự, an ninh xã hội trên địa bàn.

Trong những năm qua, Sở Tư pháp tỉnh Gia Lai đã thực hiện tốt công tác tham mưu giúp UBND tỉnh theo dõi, quản lý về tổ chức và hoạt động của tổ hoà giải ở cơ sở. Tham mưu cho Tỉnh uỷ, UBND tỉnh ban hành nhiều văn bản đôn đốc, chỉ đạo UBND các cấp tạo điều kiện để các hoà giải viên hoạt động hiệu quả; tổ chức sơ kết, tổng kết đánh giá tình hình hoạt động của các tổ hoà giải, kịp thời biểu dương khen thưởng những hoà giải viên có thành tích xuất sắc trong hoạt động hoà giải. Bên cạnh đó, Sở Tư pháp cũng đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn Phòng Tư pháp huyện, thành phố và UBND cấp xã theo dõi, chỉ đạo hoạt động của các tổ hoà giải và hoà giải viên. Đặc biệt, ngay sau khi Luật Hòa giải ở cơ sở (sau đây gọi là Luật) được ban hành, Sở Tư pháp đã tham mưu UBND tỉnh ban hành văn bản chỉ đạo triển khai Luật trên địa bàn tỉnh, có văn bản đề nghị UBND cấp huyện xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Luật ở địa phương, đồng thời chỉ đạo UBND cấp xã thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của Luật. Bên cạnh đó, Sở Tư pháp đã biên soạn các đề cương, tài liệu, chỉ đạo tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho tổ trưởng tổ hoà giải, nội dung tập huấn gồm các lĩnh vực: Luật Hòa giải ở cơ sở, các quy định của pháp luật trong lĩnh vực dân sự, đất đai, hôn nhân – gia đình, khiếu nại – tố cáo, kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải ở cơ sở,… Thường xuyên cử cán bộ, công chức tiến hành kiểm tra công tác tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở nhằm kịp thời hướng dẫn, chỉ đạo những khó khăn vướng mắc phát sinh ở cơ sở.

Năm 2013, các tổ hoà giải đã thụ lý 1.485 vụ việc, trong đó hòa giải thành 1.134 vụ việc, hòa giải không thành 209 vụ việc và đang hòa giải 142 vụ việc. Số lượng vụ việc hoà giải qua các năm giảm. Số vụ việc tiếp nhận hòa giải giảm cho thấy công tác hòa giải đã góp phần giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp nhỏ trong cộng đồng dân cư, hạn chế khiếu kiện vượt cấp góp phần đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương.

Được sự quan tâm chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, sự phối hợp tích cực của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh nên hoạt động hoà giải ở cơ sở đã được củng cố về tổ chức và hoạt động, trình tự thủ tục bầu tổ trưởng và thành viên tổ hòa giải được thực hiện theo quy định của Luật. Việc thanh toán thù lao cho hòa giải viên đã được Ủy ban nhân dân cấp xã quan tâm. Do đó, hoạt động hòa giải ở cơ sở đã góp phần giữ gìn khối đoàn kết trong nội bộ nhân dân, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương, các tổ hoà giải thông qua việc hoà giải đã góp phần tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật của Nhà nước, chủ trương của Đảng đến nhân dân sâu rộng và toàn diện.

Bên cạnh đó, công tác hòa giải ở cơ sở vẫn còn gặp một số khó khăn, vướng mắc như:

Thứ nhất, một số địa phương chưa nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công tác hòa giải đối với đời sống xã hội nên thiếu sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất cho công tác hòa giải, chưa thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở (chưa thực hiện tốt chế độ thống kê, kiểm tra, báo cáo, theo dõi tình hình biến động về tổ chức cũng như chất lượng hòa giải cơ sở; công tác sơ kết, tổng kết, tập huấn nghiệp vụ, bồi dưỡng kiến thức pháp luật có liên quan cho hòa giải viên chưa được thực hiện thường xuyên; việc khen thưởng, chi thù lao cho hoà giải viên chưa thực hiện kịp thời; một số cán bộ tư pháp – hộ tịch chưa làm tốt vai trò tham mưu trong quản lý công tác hòa giải ở cơ sở…).

Thứ hai, hoạt động hoà giải còn mang tính hình thức chưa chú trọng chiều sâu, chưa thể hiện đầy đủ và đúng nghĩa của công tác hoà giải cơ sở.

Thứ ba, việc huy động nguồn lực cho công tác hòa giải ở cơ sở chưa được tiến hành một cách đồng bộ và thống nhất. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về hòa giải phải kiêm nhiệm nhiều việc; các hoà giải viên chưa được quan tâm trang bị kiến thức pháp lý và kỹ năng nghiệp vụ cần thiết để thực hiện nhiệm vụ; một số tổ hoà giải ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn vận dụng những tập tục lạc hậu trái quy định của pháp luật để hoà giải làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của công dân. Mạng lưới hòa giải chưa đồng đều; tổ hòa giải ở một số nơi hoạt động chưa hiệu quả; tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ hòa giải chưa đáp ứng yêu cầu thực tế; một bộ phận hòa giải còn hạn chế về kiến thức pháp luật và kỹ năng hòa giải…

Nhằm tiếp tục phát huy hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở trong thời gian tới, cần thực hiện một số công tác sau:

Một là, cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến sâu rộng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về công tác hòa giải ở cơ sở nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vị tí, vai trò và tầm quan trọng cua công tác này đối với đời sống xã hội.

Hai là, các cấp, các ngành cần xác định công tác hòa giải ở cơ sở là một trong những nhiệm vụ trọng tâm góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội nhằm tăng cường trách nhiệm, tranh thủ sự chỉ đạo, lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở.

Ba là, thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ hòa giải cho hòa giải viên.

Bốn là, cung cấp các tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ, tài liệu pháp luật cho đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở.

Năm là, tổ chức các hội thi tìm hiểu pháp luật, hội thi hoà giải viên giỏi, tuyên truyền viên pháp luật giỏi với những nội dung phong phú, đa dạng và sinh động.

Sáu là, tổ chức các hội nghị sơ kết, tổng kết, tọa đàm trao đổi kinh nghiệm về hoạt động hòa giải ở cơ sở và công tác phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hòa giải.

Bảy là, bảo đảm kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở và phổ biến, giáo dục pháp luật. Ngày 27/01/2014, liên Bộ Tài chính và Tư pháp đã ban hành Thông tư liên tịch số 14/2014/TTLT-BTC-BTP quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở, thay thế Thông tư liên tịch số 73/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 14/5/2010 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí đảm bảo cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, đối với các quy định về nội dung chi, mức chi phục vụ công tác hòa giải ở cơ sở tiếp tục thực hiện theo quy định tại Thông tư liên tịch số 73/2010/TTLT-BTC-BTP cho đến khi có văn bản thay thế. Vì vậy, đối với địa bàn tỉnh Gia Lai, các mức chi cho công tác hòa giải ở cơ sở sẽ vẫn tiếp tục thực hiện theo quy định tại Quyết định số 17/2010/QĐ-UBND ngày 02/8/2010 về việc ban hành quy định về mức chi thực hiện nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Gia Lai, theo đó mức thù lao hòa giải là 150.000 đồng/vụ việc/tổ (căn cứ vào xác nhận của UBND cấp xã về số vụ việc nhận hòa giải của tổ hòa giải ở cơ sở)

Thanh Hiếu

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Ngành Thi hành án dân sự Bắc Kạn 17 năm xây dựng và trưởng thành

24/09/2014

Trải qua hơn 17 năm xây dựng và trưởng thành (kể từ khi tái thành lập tỉnh năm 1997), Ngành Thi hành án dân sự của tỉnh gặp không ít khó khăn, thử thách. Được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự cùng với sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ, công chức, người lao động trong toàn Ngành đã khắc phục mọi khó khăn vươn lên để hoàn thành nhiệm vụ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân.

Khó khăn đầu tiên, lớn nhất là tổ chức bộ máy cán bộ của Ngành những ngày đầu thành lập từ tỉnh cho đến cơ sở Phòng Thi hành án thuộc Sở Tư pháp, 06 Đội Thi hành án thuộc Phòng Tư pháp các huyện, thị xã với 30 biên chế (cấp tỉnh có 06 biên chế, cấp huyện có 24 biên chế), trong đó có 11 chấp hành viên (cấp tỉnh chỉ có 01 chấp hành viên, cấp huyện có 10 chấp hành viên), đa số cán bộ chưa qua đào tạo chuyên môn và lý luận chính trị.

Trước thực trạng đó, kiện toàn tổ chức được xác định là điều kiện tiên quyết để thực hiện tốt công việc chuyên môn, do đó lãnh đạo đơn vị đã tích cực tìm nguồn cán bộ để tham mưu cho cấp trên tuyển chọn đội ngũ cán bộ có đủ khả năng đáp ứng nhiệm vụ được giao, cử nhiều cán bộ đi học chuyên môn nghiệp vụ, trình độ văn hoá, lý luận chính trị… Vì vậy, trong khoảng thời gian từ đầu năm 1997 đến nay, với sự quan tâm của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân, Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sư, cùng với việc thay đổi hoàn thiện thể chế chính sách pháp luật của Nhà nước, Ngành Thi hành án dân sự tỉnh đã có được một bộ máy quản lý thống nhất từ trung ương đến địa phương. Cục Thi hành án trực thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự, cấp huyện có các Chi cục trực thuộc Cục Thi hành án dân sự, công tác tổ chức bộ máy cán bộ đã từng bước hoàn thiện và nâng cao về số lượng, chất lượng. Tính đến tháng 7/2014, tổng số biên chế trong Ngành là 89 người.

Cùng với việc kiện toàn bộ máy tổ chức cán bộ, công tác xây dựng cơ sở vật chất của Ngành cũng luôn được quan tâm nên đã có bước chuyển biến rõ rệt. Tại thời điểm chuyển giao năm 1997, cơ sở vật chất các cơ quan thi hành án dân sự địa phương hầu như không có tài sản, trụ sở làm việc của cơ quan thi hành án dân sự tỉnh nằm trong khuôn viên trụ sở của Ủy ban nhân dân thị xã Bắc Kạn, trụ sở thi hành án dân sự cấp huyện hầu hết đều nằm trong khuôn viên trụ sở của Ủy ban nhân dân huyện hoặc phải thuê nhà dân; kinh phí hàng năm cho hoạt động của Phòng Thi hành án và các Đội Thi hành án dân sự cấp huyện chưa đáp ứng yêu cầu phục vụ công tác. Để vượt qua khó khăn, thử thách trong điều kiện mới thành lập tỉnh, đơn vị đã chủ độngkhắc phục mọi khó khăn, đồng thời tích cực tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh, Bộ Tư pháp từng bước xây dựng cơ sở vật chất đáp ứng với nhiệm vụ của từng thời kỳ.

Năm 2003, được Bộ Tư pháp cấp kinh phí cho đầu tư xây dựng trụ sở làm việc cho Phòng Thi hành án tỉnh và 07 Đội Thi hành án huyện là: Thị xã, Bạch Thông, Ba Bể, Chợ Đồn, Chợ Mới, Na Rì, Ngân Sơn. Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bạch Thông, Na Rì được Bộ Tư pháp cấp vốn, địa phương cấp đất xây dựng trụ sở mới và đã đi vào sử dụng, trụ sở của Cục đang được thi công. Ngoài ra, một số Chi cục Thi hành án dân sự hàng năm được Tổng cục Thi hành án dân sự cấp kinh phí bảo hành, bảo trì trụ sở làm việc và mua sắm trang thiết bị làm việc, toàn tỉnh hiện nay đã có 04 xe ô tô và mỗi đơn vị đều được trang bị xe máy đủ để phục vụ công tác. Về cơ bản thì cơ sở vật chất như vậy đã đáp ứng được nhu cầu nhiệm vụ của Ngành ở địa phương.

Song song với việc kiện toàn bộ máy tổ chức cán bộ và xây dựng cơ sở vật chất trang thiết bị, kinh phí cần thiết là việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, đây là nhiệm vụ cơ bản và quan trọng nhất của Ngành. Trong điều kiện là tỉnh miền núi, giao thông đi lại khó khăn, kinh tế chậm phát triển, trình độ am hiểu pháp luật của nhân dân thấp, ý thức chấp hành pháp luật của người dân còn nhiều hạn chế, nên công tác thi hành án dân sự cũng gặp phải không ít khó khăn, bất cập. Tồn tại lượng án không có điều kiện thi hành do người phải thi hành án không có tiền, tài sản để thi hành án hoặc không xác định được nơi cư trú; đặc biệt đối với trường hợp người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù, không có tài sản, hoặc người phải thi hành án có tài sản nhưng giá trị nhỏ không đáng kể để thi hành án; người phải thi hành án chỉ có tài sản đã kê biên, phát mãi nhưng không bán được. Ngoài ra, còn tồn lại một số lượng án phí, án phạt trong các bản án hình sự về các tội ma tuý, đánh bạc, án kinh tế, tín dụng ngân hàng với số tiền phải thi hành án lớn, trong khi người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù hoặc sau khi ra tù bỏ đi khỏi địa phương, không rõ địa chỉ… Việc cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người được thi hành án chưa chính xác nên cơ quan thi hành án dân sự phải tiến hành xác minh lại làm ảnh hưởng đến kết quả thi hành án.

Trong khi đó, lượng án phải thi hành ngày càng nhiều mà nhân lực chưa đáp ứng được so với yêu cầu, điều này đòi hỏi phải có sự nỗ lực phấn đấu cao của toàn thể cán bộ, công chức và người lao động trong Ngành, phát huy truyền thống đoàn kết, yêu ngành, yêu nghề, do đó thi hành án dân sự tỉnh Bắc Kạn đã vượt qua nhiều thử thách và đạt được những kết quả đáng khích lệ như: Tổng số án đã thi hành xong là 22.985 việc, với tổng số tiền thu được là: 32.254.567.000 đồng, hàng năm luôn đạt chỉ tiêu của Bộ Tư pháp và Tổng cục Thi hành án dân sự giao.

Với những thành tích đã đạt được trong những năm qua, tập thể và cá nhân cơ quan thi hành án dân sự trong tỉnh đã được Chính phủ, Bộ Trưởng Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân tỉnh tặng nhiều bằng khen, danh hiệu Tập thể Lao động xuất sắc, Chiến sĩ thi đua ngành…

Những kết quả mà Ngành Thi hành án dân sự tỉnh Bắc kạn thu được trong những năm qua so với “sức vóc” ban đầu khi mới tái thành lập tỉnh thì đây thực sự là những thành quả đáng phấn khởi và tự hào. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn không ít những tồn tại, hạn chế: Số tiền có điều kiện thu trên tổng số tiền phải thi hành tuy đã tăng qua từng giai đoạn nhưng còn thấp; số lượng vụ việc thi hành án và giá trị phải thi hành chuyển kỳ sau vẫn còn nhiều; trong đó, tồn việc chuyển năm 2014 là 640 việc với số tiền 7.473.185.000 đồng; tỷ lệ giảm án chuyển năm sau (cả việc và tiền) của một số đơn vị còn chưa đạt so với chỉ tiêu được giao. Việc rà soát, đôn đốc, xác minh, phân loại án thực hiện chưa triệt để, một số vụ việc tổ chức thi hành án còn chậm, thiếu kiên quyết… Nguồn nhân sự để bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp, quản lý còn thiếu, chưa đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ chưa đồng đều, vẫn còn có cán bộ năng lực hạn chế dẫn đến công tác tham mưu, đề xuất chưa hiệu quả, chưa đáp ứng ngang tầm với nhiệm vụ được giao.

Đứng trước thực trạng trên, Ngành Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Kạn đề ra những nhiệm vụ và giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế sau đây:

Một là: Bám sát vào các nhiệm vụ trọng tâm của Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự và của tỉnh, phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ, chỉ tiêu công tác của Ngành. Trong đó, phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ mà Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự giao và đúng quy định của pháp luật.

Hai là: Tập trung chỉ đạo và tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm giải quyết án đạt kết quả cao nhất, đặc biệt là giải quyết các vụ việc tồn đọng. Đề cao tinh thần chủ động của chấp hành viên, cán bộ trong thực hiện nhiệm vụ.

Ba là: Củng cố và phát huy vai trò của các Ban chỉ đạo thi hành án dân sự các cấp, để các Ban chỉ đạo hoạt động có hiệu quả nhằm đẩy mạnh công tác thi hành án dân sự ở địa phương. Phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp, các tổ chức đoàn thể, chính trị – xã hội ở địa phương để phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn của ngành và phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương.

Bốn là: Thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án ngay từ cơ sở. Hạn chế việc khiếu kiện kéo dài, vượt cấp; đề xuất các giải pháp với Ban chỉ đạo thi hành án tỉnh, huyện giải quyết dứt điểm một số vụ việc thi hành án phức tạp tồn đọng kéo dài do có vướng mắc trong tổ chức thi hành án.

Năm là: Đẩy mạnh phong trào thi đua trong các đơn vị thi hành án dân sự trong tỉnh để phong trào thi đua phát triển về chiều sâu. Phát động, duy trì phong trào gắn liền với việc kiểm tra thường xuyên. Xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh, cơ quan văn hóa.

Sáu là: Tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, Bộ tư pháp, Tổng Thi hành án dân sự đối với các cơ quan thi hành án dân sự thuộc tỉnh; phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của ngành và phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Bảy là: Tiến hành xây dựng quy hoạch đội ngũ công chức cơ quan thi hành án dân sự và giáo dục chính trị, tư tưởng, nghiệp vụ cho công chức; thực hiện đầy đủ chế độ, chính sách cho cán bộ, công chức, người lao động; tăng cường kỷ luật, kỷ cương xây dựng ngành trong sạch vững mạnh.

Nông Văn Chiến

Phó Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Kạn

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thực tiễn áp dụng biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án dân sự tại thành phố Huế

24/09/2014

Qua nghiên cứu thực tiễn áp dụng biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án dân sự tại thành phố Huế, chúng tôi thấy rằng, trong khoảng thời gian từ khi Luật Thi hành án dân sự có hiệu lực thi hành cho tới nay, các chấp hành viên rất hạn chế áp dụng các biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án dân sự. Vì rất nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng chủ yếu là do các quy định của pháp luật về biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án dân sự còn nhiều bất cập, quy định chưa chặt chẽ nên rất khó áp dụng. Do đó, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị, giải pháp góp phần hoàn thiện một số quy định pháp luật về biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án dân sự và một số kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự tại địa bàn thành phố Huế.

1. Những kết quả đạt được

Thành phố Huế là trung tâm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và cũng là nơi tập trung số lượng dân cư đông nhất của Tỉnh Thừa Thiên Huế. Vì vậy, tình trạng tranh chấp dân sự trên địa bàn ngày càng gia tăng. Ngoài dạng tranh chấp phổ biến là tranh chấp về hợp đồng dân sự thì các tranh chấp đất đai, chia thừa kế, chia tài sản khi ly hôn cũng chiếm một tỷ lệ lớn. Do đó, số lượng bản án, quyết định cần phải được thi hành ngày càng nhiều.

Trong những năm qua, lãnh đạo, cán bộ, công chức Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Huế đã nỗ lực phấn đấu để nâng cao kết quả, hiệu quả của công tác thi hành án dân sự, nhờ đó nên đã đạt được một số kết quả nhất định. Nhìn chung tỷ lệ bản án, quyết định được thi hành xong chiếm một tỷ lệ khá cao. Việc tổ chức thực hiện biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án đã thực hiện theo đúng quy định của pháp luật nên rất ít xảy ra tình trạng đương sự khiếu nại. Để đạt được kết quả này, các chấp hành viên đã tiến hành hướng dẫn, thuyết phục các bên tự nguyện thi hành án. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp đương sự không tự nguyện thi hành nên chấp hành viên phải ra quyết định cưỡng chế, nhưng số lượng áp dụng biện pháp cưỡng chế là rất thấp. Năm 2011, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Huế ra 11 quyết định cưỡng chế; năm 2012 có 21 quyết định cưỡng chế; năm 2013 có 26 quyết định cưỡng chế và năm 2014 thì tính đến đầu tháng 7 đã có 20 quyết định cưỡng chế[1].

Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì hiện nay số lượng tồn đọng án hàng năm do chưa có điều kiện thi hành hoặc có điều kiện nhưng chưa được thi hành tại thành phố Huế vẫn còn tồn tại. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng tồn đọng án là do người phải thi hành án có hành vi tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án nên khi áp dụng biện pháp cưỡng chế không đạt hiệu quả, ảnh hưởng đến kết quả thi hành án.

2. Những vướng mắc trong quá trình áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án dân sự

2.1. Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, công tác quản lý chỉ đạo việc thi hành nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Huế chưa khoa học và chưa có giải pháp cụ thể trong chỉ đạo hoạt động thi hành án dân sự.

Thứ hai, biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án được áp dụng linh hoạt tại nhiều thời điểm khác nhau trong quá trình thi hành án. Vì vậy, việc áp dụng các biện pháp này như thế nào để có hiệu quả phụ thuộc nhiều vào trình độ chuyên môn, khả năng đánh giá, nhận thức tình huống của chấp hành viên. Tuy nhiên, một số chấp hành viên chưa thực sự tích cực, tâm huyết, thiếu chủ động trong việc triển khai nhiệm vụ quyền hạn của mình; chấp hành viên chưa nắm được đầy đủ các quy định của pháp luật về nguyên tắc, trình tự thủ tục, thời hạn ra các quyết định thi hành bản án, quyết định của Tòa án.

2.1. Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, tình trạng chây ỳ, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án

Nếu hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành thì chấp hành viên sẽ áp dụng biện pháp cưỡng chế. Do đó, người thi hành án thường tìm mọi cách để trì hoãn, trốn tránh việc thi hành án như bỏ đi khỏi nơi cư trú hoặc chấp hành xong hình phạt tù không trở về địa phương, làm cho quá trình thi hành án gặp nhiều khó khăn. Một số khác thì người phải thi hành án không có điều kiện thi hành án nhưng chưa đủ điều kiện được miễn giảm hoặc đủ điều kiện về thời gian nhưng người phải thi hành án lại không có điều kiện nộp được 1/20 nghĩa vụ thi hành án được xét miễn giảm.

Thứ hai, thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành liên quan đến việc thực hiện biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án dân sự

Để thực hiện biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án dân sự cần có sự phối hợp của nhiều cơ quan, ban, ngành khác nhau. Tuy nhiên, công tác phối hợp giữa các ban, ngành hữu quan trong công tác thi hành án dân sự vẫn còn hạn chế, thậm chí có trường hợp các cơ quan từ chối sự phối hợp đó.

Trường hợp cưỡng chế khấu trừ số tiền 94.011.200 đồng trong tài khoản tại ngân hàng của Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Quản lý đất Bình Trị Thiên theo Quyết định cưỡng chế số 02 ngày 23/11/2013 của Chi cục Thi hành án thành phố Huế là một ví dụ điển hình. Theo quy định của pháp luật thì trước khi ra quyết định cưỡng chế, chấp hành viên phải tiến hành phong tỏa tài khoản của người bị thi hành án. Để áp dụng biện pháp này, chấp hành viên phải thu thập các thông tin như: Chủ tài khoản, số dư trong tài khoản. Nhưng ngân hàng từ chối cung cấp số tài khoản và thông tin liên quan đến khách hàng. Các ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng thường viện dẫn các quy định về bảo mật thông tin khách hàng để từ chối cung cấp thông tin về tài khoản, số dư tài khoản của người phải thi hành án theo yêu cầu của người được thi hành án[2]. Có trường hợp các ngân hàng, tổ chức tín dụng vẫn cung cấp thông tin về số tài khoản, số dư tài khoản của người thi hành án nhưng trước đó lại liên hệ báo cho chủ tài khoản biết với mục đích giữ uy tín cho khách hàng.

Bên cạnh đó, pháp luật cũng chưa quy định cụ thể trách nhiệm nếu các cơ quan hữu quan có thẩm quyền nhưng không chịu phối hợp trong công tác thi hành án. Vì vậy, tìm được sự phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả giữa các cơ quan, ban, ngành hữu quan là rất khó, làm ảnh hưởng đến kết quả thi hành án.

2.3. Những bất cập từ các quy định của pháp luật về biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án dân sự

2.3.1. Những bất cập từ các quy định của pháp luật về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự

Theo quy định tại Điều 66 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 thì chấp hành viên có thể tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể để người yêu cầu hoặc chấp hành viên lựa chọn các biện pháp bảo đảm cho phù hợp.

Đối với biện pháp bảo đảm là phong tỏa tài khoản được thực hiện trong trường hợp cần ngăn chặn việc tẩu tán tiền trong tài khoản của người thi hành án. Tuy nhiên, khi áp dụng biện pháp này không phải lúc nào cũng đảm bảo tính thống nhất, vì quy định này được hiểu với nhiều quan điểm khác nhau: “Quan điểm thứ nhất cho rằng phong tỏa tài khoản là phong tỏa toàn bộ tài khoản (cả chiều vào và chiều ra). Quan điểm thứ hai cho rằng khi phong tỏa tài khoản chấp hành viên chỉ phong tỏa chiều ra”[3]. Chính vì thế, mỗi địa phương có một cách áp dụng khác nhau. Tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Huế thì thông thường, chấp hành viên tùy vào từng trường hợp cụ thể để áp dụng. Nếu số tiền trong tài khoản của người phải thi hành án không đủ để khấu trừ thì chấp hành viên chỉ phong tỏa chiều ra, còn số tiền trong tài khoản đủ để thực hiện khấu trừ thì phong tỏa cả hai chiều.

Như vậy, luật không quy định rõ ràng nên chấp hành viên tùy nghi áp dụng mà khi áp dụng thì thường chỉ quan tâm tới quyền lợi của người được thi hành án và nhiệm vụ phải hoàn thành của một chấp hành viên, chứ chưa quan tâm tới quyền lợi của người phải thi hành án. Vì vậy, chúng tôi thiết nghĩ, đối với biện pháp phong tỏa tài khoản, luật nên quy định chỉ phong tỏa chiều ra của tài khoản. Như thế, vừa đảm bảo để thi hành án vừa đảm bảo quyền lợi cho người phải thi hành án.

Đối với thời hạn phong tỏa tài khoản, tại khoản 3 Điều 67 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định phong tỏa tài khoản, chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng chế quy định tại Điều 76 của Luật này”. Thực tế đã chứng minh rằng, quy định này không có tính khả thi vì nếu áp dụng quy định này thì mâu thuẫn với các quy định khác trong Luật Thi hành án dân sự và vi phạm nguyên tắc quyền định đoạt của đương sự trong thi hành án dân sự. Cụ thể: Không phải lúc nào trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày ra quyết định phong tỏa tài khoản, chấp hành viên cũng có thể ra quyết định cưỡng chế. Vì pháp luật cho phép đương sự có một thời gian nhất định để tự nguyện thi hành án hoặc cho phép đương sự thỏa thuận thi hành án. Như vậy, chấp hành viên không thể ra quyết định cưỡng chế nếu còn nằm trong thời hạn này. Biện pháp bảo đảm phong tỏa tài khoản được xem là biện pháp bảo đảm làm tiền đề hỗ trợ cho việc cưỡng chế thi hành án đạt hiệu quả cao. Vì vậy, không nên giới hạn thời gian ra quyết định cưỡng chế sau khi phong tỏa tài khoản người phải thi hành án.

Để tránh tình trạng đương sự tùy tiện yêu cầu phong tỏa tài khoản, pháp luật quy định trách nhiệm bồi thường do yêu cầu áp dụng không đúng biện pháp bảo đảm gây thiệt hại cho người bị áp dụng hoặc cho người thứ ba. Tuy nhiên, bên cạnh người được thi hành án được phép yêu cầu áp dụng thì chấp hành viên cũng có quyền tự mình áp dụng. Nhưng pháp luật mới chỉ đặt ra trách nhiệm bồi thường của người yêu cầu áp dụng chứ chưa đặt ra trách nhiệm bồi thường của chấp hành viên. Mặt khác, tuy có đặt ra trách nhiệm bồi thường của người yêu cầu áp dụng nhưng pháp luật cũng không quy định rõ hình thức và cách thức bồi thường. Vì vậy, nếu có thiệt hại thực tế xảy ra do yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm không đúng thì rất khó để xác định được giá trị bồi thường. Do đó, quy định về trách nhiệm bồi thường này dường như mang tính hình thức.

Bên cạnh đó, do sự quy định thiếu sự thống nhất của Luật Thi hành án và các văn bản hướng dẫn thi hành đã dẫn đến không có sự thống nhất về thủ tục áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự giữa các cơ quan thi hành án dân sự trong thời gian qua. Ví dụ, khi áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự, thì chấp hành viên phải ra quyết định tạm giữ tài sản hay chỉ cần lập biên bản tạm giữ. Nếu ra quyết định tạm giữ có đúng với luật định hay không. Trường hợp không ra quyết định thì cơ sở nào xác định định biên bản tạm giữ có giá trị về mặt pháp lý. Điều này đã dẫn đến tâm lý lo ngại của chấp hành viên khi áp dụng.

Cũng tương tự như biện pháp phong tỏa tài khoản, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự, chấp hành viên phải ra quyết định cưỡng chế hoặc trả lại tài sản, giấy tờ tạm giữ cho đương sự. Như vậy, trường hợp các bên đương sự đã thỏa thuận được phương thức và thời gian thi hành án thì chấp hành viên không thể ra quyết định cưỡng chế vì phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên đương sự. Đồng thời, cũng không có căn cứ để ra quyết định chấm dứt áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, trừ trường hợp người được thi hành án tự nguyện yêu cầu chấm dứt áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án và chịu trách nhiệm về yêu cầu đó. Vì vậy, nếu rơi vào trường hợp này chấp hành viên thường không biết giải quyết thế nào nên họ lựa chọn phương pháp là không áp dụng các biện pháp bảo đảm hoặc áp dụng nhưng hướng cho người có quyền làm đơn yêu cầu nhằm trốn tránh trách nhiệm nếu có thiệt hại xảy ra.

2.3.2. Những bất cập từ các quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự

Biện pháp cưỡng chế thi hành án được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện để thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành hoặc người phải thi hành án có dấu hiểu hủy hoại, tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.

Việc cưỡng chế thi thi hành án dân sự phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục được quy định trong Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và Thông tư liên tịch số 03/21012/TTLT-BTP-BCA ngày 30/3/2012 của Bộ Tư pháp và Bộ Công an ban hành quy định cụ thể việc phối hợp bảo vệ cưỡng chế trong thi hành án dân sự.Theo đó, để có thể tiến hành hoạt động cưỡng chế thi hành án thì chấp hành viên phải tiến hành nhiều thủ tục rất phức tạp và phải có mặt đầy đủ thành viên Hội đồng cưỡng chế. Vì vậy, trong một số trường hợp cần áp dụng khẩn cấp biện pháp cưỡng chế thì không đạt hiệu quả, lợi dụng cơ hội này người phải thi hành án tìm mọi cách để tẩu tán tài sản.

Mặt khác, đối với trường hợp cưỡng chế tài sản và xử lý tài sản nếu tài sản bán đấu giá không thành, theo quy định tại Điều 104 Luật Thi hành án dân sự thì trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày bán đấu giá không thành mà đương sự không yêu cầu định giá lại thì Chấp hành viên ra quyết định giảm giá tài sản để tiếp tục bán đấu giá. Mỗi lần giảm giá không quá 10% giá đã định. Nhưng pháp luật không quy định số lần giảm giá nên mỗi địa phương áp dụng một cách khác nhau. Có những trường hợp chấp hành viên hạ giá một lần nhưng không ai mua mà người thi hành án không nhận để trừ vào nghĩa vụ thi hành án nên chấp hành viên trả lại tài sản cho đương sự. Như vậy, chẳng những quyền lợi của người được thi hành án chưa được bảo đảm mà còn ảnh hưởng đến tính có hiệu lực bản án, quyết định của Tòa án.

3. Một số kiến nghị

3.1. Về mặt lập pháp

Thứ nhất, để áp dụng có hiệu quả biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, pháp luật nên mở rộng quyền của chấp hành viên theo hướng: Khi đã hết thời hạn áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo luật định mà chấp hành viên chưa đủ căn cứ để tiến hành các bước tiếp theo như áp dụng biện pháp cưỡng chế hay chấm dứt biện pháp bảo đảm thi hành án, thì chấp hành viên có thể ra một công văn duy trì hiệu lực quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án cho tới khi có căn cứ xử lý tài sản. Như vậy, chấp hành viên có thể linh động về thời hạn áp dụng để có những tác nghiệp phù hợp trong quá trình tổ chức thi hành án dân sự.

Thứ hai, mục đích của việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án là nhằm hỗ trợ thực hiện biện pháp cưỡng có hiệu quả. Vì vậy, khi áp dụng các biện pháp bảo đảm, pháp luật không nên giới hạn thời hạn phải ra quyết định cưỡng chế như hiện nay. Thiết nghĩ, đối với thời hạn xử lý khi chấp hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm nên quy định thành một Điều luật riêng cho tất cả các biện pháp. Nội dung Điều luật có thể quy định như sau: “Sau khi áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án và hết thời hạn tự nguyện hoặc thỏa thuận thi hành án tùy từng trường hợp chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định của Luật này hoặc sẽ ra quyết định hủy quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm”.

Thứ ba, để áp dụng thống nhất và đảm bảo nghĩa vụ, quyền lợi của người phải thi hành án, pháp luật nên quy định biện pháp bảo đảm phong tỏa tài khoản chỉ phong tỏa chiều ra của tài khoản. Bên cạnh đó để tránh trường hợp lạm dụng khi áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản pháp luật nên quy định trách nhiệm bồi thường của chấp hành viên. Đồng thời, phải có văn bản hướng dẫn cụ thể về hình thức bồi thường và mức bồi thường.

Thứ tư, nhằm rút ngắn thời gian và kinh phí phải chi cho việc lập Hội đồng cưỡng chế, trong một số trường hợp khẩn cấp, chấp hành viên có thể tiến hành cưỡng chế cho dù thiếu thành phần Hội đồng cưỡng chế nhằm xử lý kịp thời, phù hợp với tình hình lúc đó.

Thứ năm, đối với trường hợp xử lý tài sản, nếu bán đấu giá không thành pháp luật nên có văn bản hướng dẫn bắt buộc chấp hành viên phải giảm giá cho tới mức thấp hơn chi phí cưỡng chế mà không bán được và người phải thi hành án cũng không nhận tài sản đó thì mới trả lại cho người phải thi hành án.

2.2. Một số kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án dân sự tại thành phố Huế

Thành phố Huế là địa bàn có số lượng việc thi hành án khá lớn, số bản bản án, quyết định thi hành án hàng năm vẫn gia tăng. Nhưng đội ngũ Chấp hành viên rất ít, so với số lượng việc cần thi hành là quá tải. Do đó, để công tác thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Huế đạt hiệu quả cao thì cần bổ sung thêm đội ngũ công chức cho cơ quan thi hành án dân sự.

Tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, hướng dẫn xây dụng chương trình công tác, tổ chức rút kinh nghiệm. Việc rút kinh nghiệm cần được xây dựng dựa trên báo cáo, đánh giá của từng chấp hành viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình và phải được tổ chức hàng năm. Trong đó, các chấp hành viên cần chỉ rõ những khó khăn, bất cập tại sao không thể thi hành được để có hướng dẫn cụ thể cho mỗi trường hợp.

Thường xuyên tổ chức các buổi gặp gỡ trao đổi, rút kinh nghiệm về công tác phối hợp với các cơ quan, ban, ngành hữu quan đã tham gia vào quá trình hỗ trợ thi hành án dân sự trên địa bàn như công an, Ủy ban nhân dân các phường… để đảm bảo việc phối hợp nhịp nhàng, có hiệu quả.

ThS. Nguyễn Thị Thúy Hằng

Khoa Luật, Đại học Huế



[1] Báo cáo tổng hợp Chi cục Thihành án dân sự thành phố Huế năm 2011, 2012, 2013, đầu năm 2014.

[2] Điều 18 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2012, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[3] Việt Hòa, Phong tỏa tài khoản thi hành án không nên giới hạn về thời gian, http://baophapluat.vn/Utilities/PrintView.aspx?distributionid=83878, ngày 03/8/2014.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thực tiễn áp dụng chế định tài sản và quyền sở hữu trong Bộ luật Dân sự năm 2005

19/09/2014

Chế định tài sản và quyền sở hữu là một trong những chế định hết sức quan trọng trong pháp luật dân sự. Đối với bất kỳ một Bộ luật Dân sự nào thì chế định tài sản và quyền sở hữu cũng giữ vị trí trung tâm. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành và áp dụng các quy định pháp luật về chế định tài sản và quyền sở hữu trong giải quyết các vụ án dân sự còn nhiều vướng mắc, bất cập liên quan đến vấn đề như: Xác định tài sản (cụ thể là các Tòa án còn lúng túng trong việc xác định thế nào là “giấy tờ có giá”); xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản (vấn đề này phải áp dụng pháp luật trong nhiều văn bản khác nhau, dẫn đến chồng chéo, không đồng bộ và khó thực thi trong thực tiễn); xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu (điều kiện để xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu đối với người chiếm hữu có căn cứ pháp luật là chưa hợp lý); xác lập quyền sở hữu theo thừa kế (đối với phần di sản đã hết thời hiệu khởi kiện trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng chết trước, thì pháp luật chưa có quy định thuộc quyền sở hữu của ai); xác lập quyền sở hữu theo bản án, quyết định của Tòa án (vấn đề hết thời hạn thi hành án thì tài sản được xác lập cho ai là chủ sở hữu?); quyền đòi lại tài sản.

Từ thực tiễn giải quyết các tranh chấp về tài sản và quyền sở hữu tại Toà án nhân dân, tác giả Nguyễn Hải An phân tích những vướng mắc, bất cập và đưa ra một số kiến nghị nhằm xây dựng và hoàn thiện chế định này. Kính mời độc giả đón đọc bài viết “Thực tiễn áp dụng chế định tài sản và quyền sở hữu trong Bộ luật Dân sự năm 2005” trên Tạp chí phát hành hàng tháng số tháng 8 (269) năm 2014 của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.

Huyền Trang

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Về đổi mới tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý

18/12/2014

Hệ thống trợ giúp pháp lý (TGPL) ở nước ta trong thời gian qua đã có những bước phát triển mạnh mẽ, góp phần thiết thực bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho hàng triệu lượt người, góp phần tích cực vào quá trình tổ chức thực hiện pháp luật, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội. Bên cạnh những thành tựu đó, Đảng ta đã có nhiều chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ công, trong đó có dịch vụ pháp lý miễn phí. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, hoạt động của hệ thống TGPL trong toàn quốc đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, vì vậy, việc đổi mới về tổ chức và hoạt động TGPL đang là vấn đề hết sức cần thiết. Bài viết này tập trung phân tích một số hạn chế trong hoạt động TGPL ở Việt Nam trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tế, từ đó đề ra một số giải pháp nhằm đổi mới, đưa TGPL lên tầm cao mới.

1. Một số hạn chế của hoạt động trợ giúp pháp lý hiện nay

Thứ nhất, tổ chức bộ máy của hệ thống TGPL chưa phù hợp và hoạt động chưa hiệu quả so với yêu cầu thực tiễn: Do các trung tâm trợ giúp pháp lý được thành lập theo địa giới hành chính cấp tỉnh, các trợ giúp viên pháp lý chỉ được thực hiện vụ việc trong phạm vi đó nên chưa có sự điều phối, hỗ trợ về nguồn lực giữa các địa phương trong trường hợp có nhu cầu TGPL cao hoặc có nhiều vụ việc phức tạp phát sinh trên cùng một địa bàn. Bên cạnh đó, mặc dù đội ngũ trợ giúp viên pháp lý được đào tạo tương đối bài bản, song nhiều trợ giúp viên pháp lý còn trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm nên chưa thực sự tự tin khi thực hiện TGPL trong các vụ việc phức tạp cũng như trong tranh tụng tại phiên tòa.

Về việc thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động TGPL, do chưa có cơ chế hợp lý để thu hút nguồn lực tài chính cũng như thu hút các luật sư, luật gia tham gia vào hoạt động TGPL nên việc xã hội hóa diễn ra chậm: Số lượng luật sư tham gia làm cộng tác viên chiếm tỷ lệ nhỏ (12%) so với tổng số luật sư toàn quốc (1.055 luật sư/ 8.612 luật sư); số đã là cộng tác viên chủ yếu là luật sư mới hành nghề, chưa có nhiều kinh nghiệm và năng lực tham gia tố tụng còn hạn chế. Ở một số địa phương, đội ngũ cộng tác viên TGPL đông nhưng hoạt động chưa tích cực, nhiều cộng tác viên không thực hiện vụ việc, tham gia TGPL chưa thường xuyên, kém hiệu quả.

Thứ hai, mức độ tiếp cận của người dân thuộc diện được TGPL đối với dịch vụ pháp lý miễn phí của Nhà nước chưa được đầy đủ: Trong nhiều năm qua, các ngành, các cấp đã có nhiều nỗ lực để tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về TGPL đến với người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao, vùng kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn. Tuy nhiên, do hạn chế về khả năng nhận thức, ngôn ngữ, chữ viết nên không ít người chưa biết tới quyền TGPL của mình. Vì vậy, khi có vướng mắc pháp luật, có tranh chấp phát sinh, họ không chủ động liên hệ với các tổ chức TGPL để đề xuất và yêu cầu TGPL theo quy định.

Thứ ba, chất lượng dịch vụ pháp lý miễn phí chưa đáp ứng yêu cầu: Mặc dù, pháp luật về TGPL đã có quy định tương đối chặt chẽ về quy trình thực hiện một vụ việc TGPL kể từ khi tiếp nhận yêu cầu của người dân cho đến khi kết thúc vụ việc, hơn nữa, Bộ Tư pháp cũng đã ban hành Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng vụ việc TGPL để làm công cụ cho các cơ quản lý nhà nước, quản lý chuyên ngành về TGPL, các tổ chức TGPL quản lý chất lượng vụ việc cũng như giúp người dân giám sát việc thực hiện TGPL, tuy nhiên, chất lượng vụ việc TGPL hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Qua kiểm tra hàng năm của Cục Trợ giúp pháp lý – Bộ Tư pháp, ở nhiều nơi, vụ việc tư vấn pháp luật còn rất chung chung, chưa chỉ rõ được người dân vướng mắc ở cái gì, lợi ích gì bị xâm phạm, cũng như chưa đi sâu tìm giải pháp phù hợp để định hướng cho họ cách thức giải quyết. Tình trạng này xảy ra tương đối phổ biến ở các vụ việc tư vấn phát sinh trong các đợt TGPL lưu động về cơ sở, trong khi phương thức TGPL lưu động được sử dụng rộng rãi, được xác định là một trong những giải pháp quan trọng để giúp người dân tiếp cận với TGPL. Chất lượng một số vụ việc tham gia tố tụng cũng chưa đảm bảo, trong nhiều vụ việc hình sự, trợ giúp viên pháp lý chưa tiếp cận và tham gia từ giai đoạn điều tra; việc nghiên cứu hồ sơ vụ án còn sơ sài, qua loa, thiếu sự chủ động của trợ giúp viên pháp lý, luật sư – cộng tác viên trong việc thu thập thêm chứng cứ để các cơ quan tố tụng xem xét, giải quyết vụ án một cách toàn diện.

Ngoài ra, chất lượng vụ việc đại diện ngoài tố tụng cũng đang là vấn đề nổi cộm. Khi TGPL theo hình thức này, trợ giúp viên pháp lý, luật sư – cộng tác viên phải thay mặt người được TGPL (phần lớn là người khuyết tật) thực hiện tất cả các công việc và trực tiếp giải quyết vụ việc, do vậy, phải mất nhiều thời gian và chi phí cho vụ việc. Vì vậy, ở nhiều nơi, các tổ chức thực hiện TGPL thường e ngại khi sử dụng hình thức TGPL này nên phần lớn là chuyển sang thực hiện theo hình thức tư vấn để người được TGPL tự thực hiện. Do đó, không đáp ứng được nguyện vọng của người được TGPL.

Những hạn chế nêu trên xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, do áp dụng chung mô hình trong toàn quốc mà chưa tính đến đặc thù từng vùng, miền nên hiện nay ở một số nơi, tổ chức bộ máy của trung tâm TGPL (trung tâm) rất cồng kềnh, nhất là các thành phố lớn. Trong khi ở các địa bàn này, hoạt động của các văn phòng luật sư, công ty luật phát triển mạnh nhưng ít tham gia vào hoạt động TGPL, hơn nữa, nhu cầu TGPL chủ yếu phát sinh ở các tỉnh thuộc miền núi, nông thôn; tạo ra sự mất cân đối giữa nhu cầu TGPL trong nhân dân và năng lực đáp ứng của hệ thống TGPL. Bên cạnh đó, thiết chế câu lạc bộ TGPL – một hình thức sinh hoạt pháp luật cộng đồng thì được thành lập chủ yếu theo yêu cầu hành chính mà không xuất phát từ mong muốn của người dân nên họ cũng không thiết tha để tham gia sinh hoạt, dẫn đến đa phần các câu lạc bộ hoạt động hết sức chiếu lệ, hình thức.

Về mặt thể chế, chính sách, chức danh trợ giúp viên pháp lý còn rất mới mẻ trong nhận thức của người dân, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế về người thực hiện TGPL phải là luật sư, dẫn tới sự nhìn nhận khác nhau giữa trợ giúp viên pháp lý và luật sư, trong khi tính chất hoạt động của cả hai loại chức danh này giống nhau, đều là cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng. Mặt khác, do TGPL là miễn phí, nên ở một số nơi vẫn còn tình trạng chưa đề cao vai trò, trách nhiệm trong việc thực hiện hoạt động này và người được TGPL chưa được coi là khách hàng như đối với hoạt động hành nghề luật sư.

Thứ hai, công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về TGPL còn xơ cứng, thiếu những giải pháp phù hợp với khả năng nhận thức, tâm lý, văn hóa truyền thống của người được TGPL, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, người dân ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, vùng kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.

Ngoài ra, pháp luật về TGPL cũng đã quy định sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với trung tâm TGPL ở các địa phương trong việc giải thích quyền được TGPL đối người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, các đương sự khác trong vụ án và giới thiệu đến trung tâm để yêu cầu TGPL, tuy nhiên hiệu quả còn thấp, phần lớn các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng bước đầu chỉ quan tâm tới các đối tượng buộc phải chỉ định người bào chữa. Việc làm này vô hình trung, TGPL của Nhà nước đã làm thay cho luật sư, bởi lẽ, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, việc bào chữa ở các vụ án chỉ định là trách nhiệm của đoàn luật sư ở các tỉnh, thành phố.

Thứ ba, công tác quản lý chất lượng vụ việc TGPL tại các trung tâm TGPL chưa được quan tâm đúng mức, phần lớn khoán trắng vụ việc cho trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên TGPL từ thời điểm thụ lý đơn yêu cầu TGPL, phân công người thực hiện TGPL cho đến khi vụ việc hoàn thành. Việc đánh giá chất lượng vụ việc TGPL được quan niệm như đánh giá “việc đã rồi”. Vai trò đánh giá chất lượng vụ việc TGPL của Cục Trợ giúp pháp lý rất mờ nhạt do Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng vụ việc TGPL phân cấp nhiều việc đánh giá cho các trung tâm. Tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi” cộng với căn bệnh thành tích làm cho công tác quản lý, đánh giá chất lượng vụ việc TGPL ở nhiều địa phương trở nên hình thức.

Bên cạnh đó, vấn đề tài chính cho hoạt động TGPL cũng là một nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng vụ việc TGPL. Chỉ tính từ khi có Chiến lược phát triển trợ giúp pháp lý, trong hai năm 2012 và 2013, ngân sách các cấp cùng với các nguồn hỗ trợ khác đã cấp, hỗ trợ cho hệ thống TGPL trong toàn quốc là 245.642.870.000 đồng (chưa kể kinh phí đầu tư xây dựng trụ sở trung tâm, chi nhánh). Với tổng số vụ việc trong hai năm này đã thực hiện được là 231.830 vụ việc thì tính trung bình ngân sách phải chi xấp xỉ là 1.000.000 đồng cho một vụ việc TGPL. Đây là mức không nhỏ so với mặt bằng chung của thị trường. Song, do cơ cấu kinh phí không hợp lý vì phải tập trung chi trả lương, công tác phí v.v…, nên phần kinh phí chi bồi dưỡng vụ việc TGPL chiếm tỷ trọng không đáng kể, không động viên, khuyến khích được các trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên chú trọng nâng cao chất lượng vụ việc.

Chế độ, chính sách đối với trợ giúp viên pháp lý chưa được bảo đảm, ảnh hưởng đến tâm lý, nhiệt huyết của trợ giúp viên pháp lý, dẫn đến hiệu quả công việc chưa cao, chưa tạo được động lực khuyến khích trợ giúp viên pháp lý thực hiện các vụ việc phức tạp cũng như tham gia tố tụng. Với cơ chế hiện hành, số lượng vụ việc hàng năm do trợ giúp viên pháp lý thực hiện cao hay thấp không ảnh hưởng gì đến chế độ lương, thưởng hay thăng tiến của họ.

Ở địa phương, mức kinh phí cho trung tâm ở một số nơi vẫn khoán theo chỉ tiêu biên chế mặc dù trung tâm là đơn vị sự nghiệp công lập hoàn toàn không có thu, thực hiện nhiều nhiệm vụ TGPL đặc thù. Ngoài ra, nguồn kinh phí từ ngân sách trung ương hỗ trợ cho các tỉnh có huyện nghèo (theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo) cũng không bảo đảm để thực hiện mục tiêu của chính sách đề ra, thực tế mới chỉ đáp ứng được 50% so với hạn mức do Thủ tướng Chính phủ quy định, hơn nữa kinh phí thường cấp chậm, vào cuối năm nên hiệu quả của chính sách cũng như chất lượng các vụ việc TGPL được thực hiện trong quá trình triển khai các chính sách này cũng còn nhiều hạn chế.

2. Một số giải pháp nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý

Từ thực tiễn hoạt động TGPL và định hướng của Đảng, Nhà nước, có thể nêu lên một số điểm cần thiết phải đổi mới nhằm nâng cao hiệu quả TGPL trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài.

Thứ nhất, cần đổi mới nhận thức, tư duy về TGPL. Nhìn nhận dưới giác độ là một loại hình dịch vụ sự nghiệp công, đáp ứng nhu cầu cung cấp dịch vụ pháp lý phong phú, đa dạng trong nhân dân, để bảo đảm yêu cầu “tăng khả năng tiếp cận và bảo đảm mức tối thiểu về dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục,… trợ giúp pháp lý”(1) rất cần phải đa dạng hóa các chủ thể cung cấp dịch vụ, đa dạng hóa nguồn lực tài chính, bao gồm các tổ chức sự nghiệp do Nhà nước thành lập và các doanh nghiệp tư nhân tham gia, tạo sự cạnh tranh lành mạnh, bảo đảm chất lượng dịch vụ cho người thụ hưởng. Đồng thời, xác định giá dịch vụ pháp lý, trên cơ sở đó, tùy theo từng nhóm đối tượng trong xã hội để xác định những nhóm được miễn phí dịch vụ hoàn toàn, những nhóm được giảm phí và những nhóm thu toàn bộ phí, qua đó bảo đảm bình đẳng giữa các công dân trong việc thụ hưởng chính sách này. Bên cạnh đó, mở rộng việc TGPL tới tất cả các các lĩnh vực pháp luật liên quan đến quyền, lợi ích của công dân, đặc biệt là lĩnh vực kinh doanh, thương mại để tạo môi trường pháp lý an toàn, là chỗ dựa cho người dân khi tham gia vào thị trường, thúc đẩy kinh tế hộ gia đình phát triển, phòng ngừa rủi ro, tranh chấp và vi phạm pháp luật. Với quan niệm như vậy, Nhà nước chỉ là người tổ chức, quản lý các dịch vụ pháp lý; ban hành chính sách, pháp luật tạo định hướng, khuôn khổ pháp lý và kiểm soát chất lượng dịch vụ pháp lý; xác định các chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng để huy động các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia vào hoạt động TGPL. Từng bước thu gọn quy mô của các trung tâm TGPL, xây dựng lộ trình để chuyển mô hình các trung tâm thành các đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm một phần kinh phí hoạt động thường xuyên; thực hiện ủy quyền việc cung cấp dịch vụ công cho các tổ chức ngoài Nhà nước. Hình thức này vừa giảm phần đầu tư từ ngân sách, giảm biên chế sự nghiệp, huy động được vốn, kinh nghiệm quản lý của tư nhân, đồng thời Nhà nước vẫn can thiệp trực tiếp và thường xuyên để bảo vệ lợi ích công.

Ngoài ra, nên nhất thể hóa chức danh luật sư và chức danh trợ giúp viên pháp lý, thống nhất chỉ có duy nhất một chức danh luật sư trong thị trường dịch vụ pháp lý.

Thứ hai, tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về TGPL. Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 đã dành riêng một điều quy định về việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến việc phổ biến, tuyên truyền thông qua TGPL lưu động, tư vấn pháp luật. Hàng năm, các trung tâm TGPL tổ chức hàng ngàn đợt TGPL lưu động về cơ sở, đây là điều kiện thuận lợi để người dân được tiếp cận và nghe tuyên truyền, phổ biến những đạo luật liên quan trực tiếp đến quyền lợi của họ. Tuy nhiên, đối với các đối tượng có tính chất đặc thù thì cũng cần phải có giải pháp đặc thù, bảo đảm truyền tải chính sách, pháp luật đến với họ. Vì vậy, cùng với việc tăng cường các đợt TGPL lưu động về cơ sở thì các trung tâm cũng phải xây dựng nội dung và trực tiếp tuyên truyền pháp luật trong TGPL lưu động bằng cả hai thứ tiếng: Tiếng phổ thông và tiếng của từng dân tộc thiểu số.

Ngoài ra, hiện nay, cùng với việc hoàn thiện chính sách đối với người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, người tàn tật v.v… thì số liệu thống kê chi tiết về họ đã được rà soát, công bố định kỳ hàng năm. Vì vậy, các trung tâm TGPL cần phối hợp với các cơ quan chức năng thường xuyên cập nhật, nắm bắt thông tin về nhóm những người được TGPL, đồng thời in ấn, cấp phát các tờ rơi, tờ gấp bằng cả loại chữ phổ thông và chữ dân tộc thiểu số về TGPL gửi tới từng hộ gia đình thuộc diện TGPL thay vì in ấn và cấp phát đại trà như hiện nay. Giải pháp này sẽ thực sự có hiệu quả khi người dân có nhu cầu TGPL phát sinh thì có thể liên hệ ngay với trung tâm TGPL.

Thứ ba, hoàn thiện thể chế để kiểm soát chất lượng vụ việc TGPL. Hiện nay, việc kiểm soát chất lượng vụ việc mới chỉ tập trung ở đầu ra của vụ việc mà chưa chú trọng đến toàn bộ quá trình thực hiện TGPL nên các trung tâm TGPL rất khó có giải pháp khắc phục hậu quả những vụ việc kém chất lượng do không còn điều kiện để TGPL tiếp. Vì vậy, bên cạnh việc kiểm tra, thanh tra định kỳ của các cơ quan quản lý nhà nước về TGPL, cần xây dựng quy trình giám sát chất lượng vụ việc TGPL trong tất cả các khâu của quá trình thực hiện TGPL ngay từ khi thụ lý đơn yêu cầu cho đến khi kết thúc vụ việc. Xây dựng mô hình giám sát, đánh giá của các chủ thể quản lý (chủ yếu là Cục Trợ giúp pháp lý) gắn kết, có sự tham gia của bên thứ ba là các luật sư có uy tín, kinh nghiệm trong hoạt động TGPL. Từ kết quả kiểm tra, đánh giá chất lượng vụ việc TGPL, hàng năm, Cục Trợ giúp pháp lý phải công bố các trung tâm, các tổ chức tham gia TGPL đạt chuẩn về chất lượng dịch vụ, qua đó, một mặt tạo ra thương hiệu cho TGPL, mặt khác giúp cho người dân có cơ sở để lựa chọn tổ chức có uy tín để họ gửi niềm tin và đồng thời tạo căn cứ để các trung tâm đánh giá, xếp hạng trợ giúp viên pháp lý, thúc đẩy họ nâng cao tinh thần trách nhiệm.

Thứ tư, đổi mới cơ chế tài chính đối với các trung tâm. Hiện nay, các trung tâm được xác định là đơn vị sự nghiệp công lập, không có nguồn thu, kinh phí hoạt động thường xuyên theo chức năng, nhiệm vụ do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ, được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Với quan niệm “Nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong việc thực hiện, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý”(2) nên ngân sách địa phương chủ yếu tập trung chi cho con người (lương, phụ cấp v.v… của trợ giúp viên pháp lý, chuyên viên pháp lý). Mặt khác, xuất phát từ việc coi “xã hội hóa” hoạt động TGPL là việc huy động các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện TGPL, đóng góp, hỗ trợ tài chính cho hoạt động TGPL hoặc tham gia làm cộng tác viên, các tổ chức, cá nhân này phải sử dụng con người, tài chính của chính mình để tiến hành các hoạt động TGPL nên ngân sách nhà nước chỉ chi bồi dưỡng một phần khiêm tốn so với công sức, trí tuệ, thời gian mà họ đã bỏ ra để thực hiện TGPL (50.000 đồng – 100.000 đồng/1 vụ việc tư vấn phức tạp bằng văn bản; 0,2 tháng lương tối thiểu/1 ngày tham gia tố tụng). Vì lẽ đó mà kinh phí dành để chi bồi dưỡng vụ việc TGPL (có tính chất chi đặc thù) chiếm tỷ lệ không đáng kể so với lượng kinh phí ngân sách cấp cho các trung tâm. Để việc sử dụng tài chính làm công cụ đòn bảy nâng cao chất lượng vụ việc, thúc đẩy xã hội hóa TGPL, cần phải: “Nhà nước quy định giá hoặc khung giá sản phẩm, dịch vụ đối với các loại dịch vụ cơ bản, có vai trò thiết yếu đối với xã hội; từng bước tính đúng, tính đủ các chi phí hợp lý trong giá dịch vụ sự nghiệp, phù hợp với thị trường và khả năng của ngân sách nhà nước; thực hiện có lộ trình việc xóa bỏ bao cấp qua giá, phí dịch vụ nhằm tăng tính cạnh tranh và đảm bảo lợi ích của các đơn vị cung ứng dịch vụ sự nghiệp công”(3), trên cơ sở đó, mở rộng hoạt động dịch vụ của trung tâm; chuyển đổi cơ chế tài chính từ việc giao dự toán ngân sách cho các trung tâm như hiện nay sang phương thức đặt hàng, kể cả các chính sách TGPL theo mục tiêu mang tính đặc thù có thể đưa ra định giá và đấu thầu theo quy định.

Tài liệu tham khảo:

1. Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 02/01/2014 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2014.

2. Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006.

3. Kết luận số 37-TB/TW ngày 26/5/2011 của Bộ Chính trị.

ThS. Phạm Đại Quang

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thi hành phần dân sự trong các bản án, quyết định hình sự phục vụ công tác đặc xá và xét giảm án

19/09/2014

Một bản án hình sự, thông thường Tòa án tuyên, ngoài hình phạt tù do người bị kết án vi phạm pháp luật, còn kèm theo phần trách nhiệm dân sự. Tuy nhiên, việc thi hành án phần dân sự trong bản án, quyết định hình sự gặp không ít khó khăn trong việc tổ chức thi hành án, số lượng vụ việc tồn đọng kéo dài ngày càng gia tăng. Do đó, trong những năm qua, Ngành Thi hành án dân sự nói chung và các cơ quan thi hành án dân sự trong tỉnh Cà Mau nói riêng đã quan tâm, chú trọng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, động viên gia đình, thân nhân của người bị kết án tù nộp thay phần trách nhiệm dân sự mà người bị kết án tù phải thi hành án và cấp giấy xác nhận cho họ làm căn cứ và đây cũng là một trong những tiêu chuẩn để xem xét đặc xá, giảm án cho người bị kết án.

Vì vậy, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu đến độc giả bài viết “Thi hành phần dân sự trong các bản án, quyết định hình sự phục vụ công tác đặc xá và xét giảm án” của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Cà Mau, đăng tải trong số tháng 8 (269) năm 2014. Trong bài viết này, tác giả đã nêu lên những kết quả đạt được, bên cạnh đó phân tích một số thuận lợi, khó khăn và đưa ra một vài kiến nghị về thi hành phần dân sự trong bản án, quyết định hình sự phục vụ công tác đặc xá và xét giảm án ở tỉnh Cà Mau. Đồng thời, tác giả cũng nhấn mạnh, thi hành án phần dân sự trong bản án, quyết định hình sự đòi hỏi phải có sự phối hợp trách nhiệm hết sức chặt chẽ của cả hệ thống chính trị và đặc biệt là sự nhận thức, cộng đồng trách nhiệm, là thiện chí của gia đình, thân nhân của người phải thi hành án, họ có tự nguyện nộp thay nghĩa vụ thi hành án cho con, em của họ hay không. Có được như vậy, thì thi hành án phần dân sự trong bản án, quyết định hình sự mới mang lại hiệu quả cao.

Minh Minh

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Thực trạng hoạt động xuất bản – Những kiến nghị, đề xuất

03/12/2014

1. Thực trạng của hoạt động xuất bản

Thời gian qua đã có rất nhiều vụ việc gây xôn xao dư luận liên quan đến hoạt động xuất bản sách, báo,… như: Xuất bản những cuốn sách có nội dung xấu; mê tín dị đoan; xâm phạm quyền tác giả; nhận thức sai vê chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Trong hoạt động liên kết xuất bản, một số nhà xuất bản còn thiếu chặt chẽ, không quản lý tốt nội dung sách liên kết… dẫn đến sách lậu, sách kém chất lượng vẫn ra đời gây nhiều bức xúc cho người đọc và xã hội. Nhiều vụ việc liên quan đến hoạt động xuất bản đã bị Cục Xuất bản, In và Phát hành – Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) và các cơ quan quản lý nhà nước xử lý[1]. Gần đây nhất là việc Nhà xuất bản Lao động – Xã hội đã phát hành hai cuốn sách có trang bìa sử dụng hình ảnh minh họa không phù hợp với nội dung cuốn sách, dễ gây suy diễn, không có lợi cho bạn đọc đó là: Cuốn “Bộ luật Dân sự và văn bản hướng dẫn thi hành 2014” bìa sách in hình một người thật, hai tay cầm hai cán cân và đứng trên một quả cầu lửa, trên người chỉ mặc chiếc quần lót. Hình ảnh được cho là cắt ghép cẩu thả, lấy khuôn mặt của diễn viên Công Lý ghép vào thân hình người nào đó[2]và cuốn “Bộ luật Hình sự và văn bản hướng dẫn thi hành 2014”,bìa sách in hình hai đĩa cân, một bên để chiếc đồng hồ, một bên để một xấp tiền ngoại tệ[3].

Để xảy ra tình trạng và những vụ việc trên là do một số nguyên nhân sau:

Một là,việc quản lý hoạt động liên kết xuất bản được thực hiện một cách lỏng lẻo, chưa có quy định rõ ràng trách nhiệm của mỗi bên tham gia liên kết xuất bản. Điều này dẫn tới thực tế là một số nhà xuất bản đang bán giấy phép xuất bản mà không cần biết xuất bản phẩm có nội dung ra sao, có bản quyền hợp pháp hay không. Khi liên kết xuất bản trở nên phổ biến thì dù chặt chẽ đến đâu, nhà xuất bản cũng không thể giữ vai trò chủ đạo trong quá trình xuất bản – phát hành. Khi đối tác liên kết giữ vai trò “chủ chi”, họ sẽ mặc nhiên làm chủ quá trình xuất bản – phát hành, chứ không phải nơi cấp giấy phép và thu quản lý phí. Mà đã kinh doanh thì đối tác liên kết cần có lãi, vốn không bị đọng và thu hồi nhanh,… nên nhà xuất bản khó có thể yêu cầu đối tác phải ứng xử với sách và xuất bản phẩm như Điều 3 Luật Xuất bản năm 2012 đã quy định.

Hai là, các cơ sở in chưa được quản lý, kiểm soát chặt chẽ, dẫn đến việc in lậu sách tràn lan[4]. Theo thống kê chưa đầy đủ, cả nước hiện có hơn 1.500 cơ sở in công nghiệp lớn nhỏ, trong đó chỉ có khoảng trên 400 cơ sở in được cấp giấy phép hoạt động in xuất bản phẩm và chịu sự điều chỉnh của Luật Xuất bản hiện hành. Còn lại khoảng hơn 1.100 cơ sở in chỉ cần có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là được hoạt động in các sản phẩm in khác không phải là xuất bản phẩm. Các cơ sở này không chịu sự quản lý hoạt động chuyên ngành in. Đây hoàn toàn có thể là những đầu mối tiếp tay cho hoạt động in lậu sách đã trở thành vấn nạn trong thời gian qua mà các cơ quan quản lý nhà nước không nắm được và khó quản lý.

Ba là, thị trường sách của Việt Nam không chỉ bị tấn công bởi sách lậu được bày bán khắp các vỉa hè, các nhà sách, mà còn bị tấn công bởi các sách điện tử lậu. Hệ thống pháp luật hiện hành chưa quản lý được việc chia sẻ thông tin trên mạng đã dẫn tới việc xuất hiện tràn lan các xuất bản phẩm trên mạng (ebook) không có bản quyền,… Tình trạng sách lậu, vi phạm bản quyền chưa được ngăn chặn và đẩy lùi[5].

Bốn là, tính hiệu lực, chế tài của luật chưa phát huy được sức mạnh, hiệu quả, trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ quản lý chưa cao, chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đặt ra trong công tác quản lý nhà nước về xuất bản trước tình hình, nhiệm vụ mới; thiếu chủ động trong định hướng chiến lược; chạy theo vụ việc, lúng túng trong quy hoạch, sắp xếp; một số nhà xuất bản, cơ quan báo chí, chức năng, nhiệm vụ còn chồng chéo; một số cơ chế, chính sách chưa đáp ứng được đòi hỏi thực tiễn cuộc sống. Việc thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm chưa kịp thời, thiếu nghiêm minh, dẫn đến nhiều khuyết điểm, yếu kém còn kéo dài, chậm được khắc phục. Năng lực của biên tập viên các nhà xuất bản, của chuyên viên đọc kiểm tra xuất bản phẩm lưu chiểu, cộng tác viên đọc kiểm tra xuất bản phẩm lưu chiểu còn hạn chế, và thiếu chuyên gia am hiểu về mỗi lĩnh vực đời sống – xã hội, về mỗi tác giả, mỗi xu hướng tư tưởng, văn hóa – nghệ thuật,…

2. Một số quy định cấm của pháp luật trong hoạt động xuất bản và hình thức xử phạt khi vi phạm

2.1. Một số quy định cấm của pháp luật trong hoạt động xuất bản

* Theo quy định của Luật Xuất bản năm 2012 thì:Hoạt động xuất bản thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng nhằm phổ biến, giới thiệu tri thức thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội, giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của Nhân dân, nâng cao dân trí, xây dựng đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam, mở rộng giao lưu văn hóa với các nước, phát triển kinh tế – xã hội, đấu tranh chống mọi tư tưởng và hành vi làm tổn hại lợi ích quốc gia, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[6]. Vì vậy, các quan, tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, cá nhân nước ngoài cư trú tại Việt Nam có liên quan đến hoạt động xuất bản cần phải tuân thủ các quy định của pháp luật, không được vi phạm những nội dung và hành vi bị nghiêm cấm được quy định trong Luật Xuất bản năm 2012[7], cụ thể:

Một là, nghiêm cấm việc xuất bản, in, phát hành xuất bản phẩm có nội dung sau[8]:

– Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc;

– Tuyên truyền kích động chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước; kích động bạo lực; truyền bá tư tưởng phản động, lối sống dâm ô, đồi trụy, hành vi tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong mỹ tục;

– Tiết lộ bí mật nhà nước, bí mật đời tư của cá nhân và bí mật khác do pháp luật quy định;

– Xuyên tạc sự thật lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, danh nhân, anh hùng dân tộc; không thể hiện hoặc thể hiện không đúng chủ quyền quốc gia; vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức và danh dự, nhân phẩm của cá nhân.

Hai là, nghiêm cấm thực hiện các hành vi sau đây[9]:

– Xuất bản mà không đăng ký, không có quyết định xuất bản hoặc không có giấy phép xuất bản;

– Thay đổi, làm sai lệch nội dung bản thảo đã được ký duyệt hoặc bản thảo tài liệu không kinh doanh có dấu của cơ quan cấp giấy phép xuất bản;

– In lậu, in giả, in nối bản trái phép xuất bản phẩm;

– Phát hành xuất bản phẩm không có nguồn gốc hợp pháp hoặc chưa nộp lưu chiểu;

– Xuất bản, in, phát hành xuất bản phẩm đã bị đình chỉ phát hành, thu hồi, tịch thu, cấm lưu hành, tiêu hủy hoặc nhập khẩu trái phép;

– Các hành vi bị cấm khác theo quy định của pháp luật.

* Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 thì:Muốn sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được sự đồng ý.

Điều 31 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc pháp luật có quy định khác. Nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.

* Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999[10], các hành vi bị cấm thực hiện là:

– Chiếm đoạt quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, báo chí, chương trình băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình;

– Mạo danh tác giả trên tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, báo chí, chương trình băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình;

– Sửa đổi bất hợp pháp nội dung của tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, báo chí, chương trình băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình;

– Công bố, phổ biến bất hợp pháp tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, báo chí, chương trình băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình.

2.2 Các hình thức xử phạt

* Theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì:

Hành vi vi phạm trong hoạt động xuất bản tại Việt Nam có thể bị xử phạt theo quy định tại điểm d, đ, e và i khoản 1, Điều 28 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành[11].

Ngoài ra, còn bị phạt tiền đối với cá nhân là 100.000.000 đồng, đối với tổ chức vi phạm là 200.000.000 đồng. Trong cùng một hành vi vi phạm, mức phạt tiền đối với tổ chức là gấp hai lần mức phạt đối với cá nhân[12].

* Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 thì: Ngoài việc bị xử phạt hành chính, thì còn bị xử lý hình sự theo các quy định tại Điều 131 – Tội xâm phạm quyền tác giả (Bộ luật Hình sự năm 1999)[13].

3. Kiến nghị, đề xuất

Có thể nói, hoạt động xuất bản được coi là một lĩnh vực vô cùng nhạy cảm bởi nó không chỉ ảnh hưởng đến một mà nhiều người đọc, thậm chí nhiều thế hệ, và nền văn hóa của một quốc gia. Một cuốn sách nhiều lỗi, nội dung lệch lạc, không được kiểm soát về mặt nội dung, hình thức khi đưa ra thị trường với hàng ngàn, thậm chí hàng vạn bản sẽ có tác động không nhỏ tới cả một cộng đồng người đọc.

Cùng với sự nở rộ của thị trường xuất bản, thì sự ra đời của hàng ngàn nhà in, vô số nhà xuất bản, các ấn phẩm ra lò dưới hình thức liên kết xuất bản cho người đọc nhiều cơ hội tiếp cận hơn với kho tri thức khổng lồ của nhân loại, với nhiều đầu sách phong phú thuộc nhiều thể loại. Tuy nhiên, cũng chính vì sự cởi mở đối với lĩnh vực xuất bản cùng những lỗ hổng trong hoạt động xuất bản đã làm cho hoạt động động xuất bản đi lệch quỹ đạo, những điểm yếu đòi hỏi phải lấp đầy để đưa hoạt động xuất bản trở lại đúng quỹ đạo của nó.

Luật Xuất bản năm 2012 đã được Quốc hội khóa XIII (kỳ họp thứ 4) thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/7/2013 (Luật). Sau hơn một năm kể từ ngày có hiệu lực thi hành, về cơ bản Luật đã đảm bảo được các mục tiêu cơ bản của hoạt động xuất bản, đồng thời khắc phục được “lỗ hổng” pháp lý trong lĩnh vực xuất bản – in – phát hành xuất bản phẩm, tạo sự chuyển biến tích cực trong hoạt động xuất bản – in – phát hành,…[14]. Tuy nhiên, để các chủ trương của Đảng và các quy định của Luật thực sự đi vào cuộc sống cần thực hiện một số nhiệm vụ và yêu cầu sau đây:

Thứ nhất, cần nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ quản lý trong công tác quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản, nghiệp vụ phòng, chống in lậu; đồng thời các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản cần phải mạnh tay kiểm soát chặt chẽ hoạt động xuất bản, in ấn của các nhà xuất bản, nhà in, việc thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm phải kịp thời, nghiêm minh, đúng luật.

Thứ hai, cần nâng cao trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp, năng lực, trình độ của người đứng đầu các nhà xuất bản, đội ngũ biên tập viên các nhà xuất bản, của chuyên viên đọc kiểm tra xuất bản phẩm lưu chiểu, cộng tác viên đọc kiểm tra xuất bản phẩm lưu chiểu; bổ sung đội ngũ chuyên gia am hiểu về mỗi lĩnh vực xã hội, về mỗi tác giả, mỗi xu hướng tư tưởng, văn hóa – nghệ thuật,… nhất định liên quan đến hoạt động xuất bản và xuất bản phẩm.

Thứ ba, việc liên kết xuất bản giữa nhà xuất bản của Nhà nước và tư nhân là một lựa chọn phù hợp với đặc thù phát triển của Việt Nam, tuy nhiên đối với hoạt động liên kết xuất bản cần dựa trên cơ sở quy định của Luật[15]; đồng thời Luật cũng cần quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của các nhà xuất bản tránh sự chồng chéo trong hoạt động xuất bản.

Thứ tư, cần rà soát, xây dựng, ban hành và sửa đổi những cơ chế, chính sách liên quan đến hoạt động xuất bản phù hợp với các quy định Luật Xuất bản năm 2012, tinh thần của Hiến pháp năm 2013[16]và yêu cầu của thực tiễn cuộc sống.

Việt Tiến




[1] Ví dụ như: Vụ cuốn “Từ điển tiếng Việt dành cho học sinh” của tác giả Vũ Chất gây sốc cho người đọc với nhiều ấn bản khác nhau được xuất bản bởi nhiều đơn vị như: Nhà xuất bản Thanh Niên (2000), Nhà xuất bản Trẻ (2001), Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin (2007) và mới đây nhất là Nhà xuất bản Hồng Đức (2013) phát hành với số lượng kỷ lục 15.000 cuốn, được in tại Công ty cổ phần in Á Phi theo giấy phép xuất bản số 260-2013/CXB/23/01-08/HĐ cũng đã bị thu hồi hàng loạt; vụ Nhà xuất bản Kim Đồng là đơn vị nắm bản quyền xuất bản tác phẩm “Búp sen xanh”, của nhà văn Sơn Tùng, từ 2010 đến 2020. Tuy nhiên, từ 2013 tới nay, có tới ba bản cuốn sách này bị in không tác quyền, vào năm 2013, quý I năm 2014 và quý II năm 2014. Các cuốn sách làm lậu này đều ghi là sách liên kết xuất bản giữa Nhà xuất bản Thời Đại và công ty cổ phần Sách Nhân Dân. Vụ việc thu hồi trên toàn quốc 08 cuốn “Từ điển tiếng Việt” của Nhà xuất bản Đồng Nai do in sai tên xuất bản phẩm trong quyết định xuất bản, in sai nội dung được duyệt, sách chưa có quyết định phát hành của nhà xuất bản…

[2]http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/sach-luat-gay-phan-cam-vi-in-hinh-dien-vien-cong-ly-len-bia-3108185.html

[3]http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/them-mot-cuon-sach-luat-sai-pham-nxb-bi-phat-124-trieu-dong-3109604.html

[4]Năm 2011, sau khi Công an Hà Nội và quản lý thị trường niêm phong, thu giữ gần 10.000 cuốn sách in lậu thành phẩm, bán thành phẩm, cùng rất nhiều sách giả, một lượng lớn trang bìa, ruột đã in xong của nhiều cuốn sách chưa rõ nguồn gốc,… tại cơ sở gia công sau in Huy Thi (Ngọc Hồi, Hà Nội) mà cơ sở này chỉ bị phạt 12 triệu đồng, rồi tiếp tục hoạt động là không có tính răn đe. Về luật pháp, Nhả xuất bản và đối tác liên kết không có quyền khám xét cơ sở in lậu, làm sách lậu, mà chỉ có thể phát hiện, và việc còn lại là của các cơ quan chức năng.

http://www.nhandan.com.vn/mobile/_mobile_chinhtri/_mobile_binhluanphephan/item/22027302.html

[5] Thống kê của Cục Hải quan TP.Hồ Chí Minh, tại Chi cục Hải quan chuyển phát nhanh trong năm 2012 đã phát hiện có 232 tờ bản đồ, 2.150 tờ rơi các loại có nội dung vi phạm chủ quyền biển đảo Việt Nam. Hầu hết những ấn phẩm này đều bị phát hiện tại sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất. Đáng chú ý, trong 9 tháng đầu năm 2013, Cục Hải quan TP Hồ Chí Minh đã phát hiện, bắt giữ 44 vụ việc vi phạm có tang vật vi phạm là các ấn phẩm sách báo vi phạm.

Cục Hải quan TP Đà Nẵng cho biết, chỉ trong thời gian ngắn đã thu giữnhiều ấn phẩm xuyên tạc chủ quyền biển đảo Việt Nam trên biển Đông. Cụ thể: ngày 12.5.2013, thu giữ 98 cuốn sách hướng dẫn du lịch Đà Nẵng của hành khách quốc tịch Trung Quốc, in bản đồ Việt Nam nhưng không có 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam; ngày 1.8.2013, thu giữ 16 cuốn sách với những nội dung và vi phạm như trên; phát hiện và thu giữ2 tấm bản đồ Trung Quốc loại lớn thể hiện “đường lưỡi bò” đứt khúc 9 đoạn.

Tại Chi cục Hải quan Tân Thanh (Lạng Sơn) vào tháng 8.2012 phối hợp với Công an tỉnh kiểm tra khách sạn Lệ Hoa (đường nhánh Bắc, xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng) phát hiện và tịch thu một số bản đồ phân giới quốc tế Việt Nam- Lào- Campuchia- Trung Quốc có nội dung sai sự thật….

http://www.baovanhoa.vn/sachmoi/58047.vho

[6] Điều 3 Luật Xuất bản năm 2012.

[7] Điều 10 Luật Xuất bản năm 2012.

[8] Khoản 1 Điều 10, Luật Xuất bản năm 2012.

[9] Khoản 2 Điều 10 Luật Xuất bản năm 2012.

[10] Điều 131 – Tội xâm phạm quyền tác giả, Bộ luật Hình sự năm 1999.

[11] Cụ thể là: d) Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện; đ) Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại; e) Buộc cải chính thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn; g) Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hoá, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm; h) Buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng; i) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính hoặc buộc nộp lại số tiền bằng trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật.

[12] Điều 4 Nghị định số 159/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, xuất bản.

[13] Điều 131, Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: “1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến hai năm đối với các hành vi sau đây[13]:

a) Chiếm đoạt quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, báo chí, chương trình băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình;

b) Mạo danh tác giả trên tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, báo chí, chương trình băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình;

c) Sửa đổi bất hợp pháp nội dung của tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, báo chí, chương trình băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình;

d) Công bố, phổ biến bất hợp pháp tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, báo chí, chương trình băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình.

Đối với các trường hợp: phạm tội có tổ chức; phạm tội nhiều lần; phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm[13].

Ngoài ra, Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm[13].

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.

[14] Năm 2014 cũng là năm đánh dấu 10 năm thực hiện Chi thị 42/CT-TƯ của Ban Bí thư về “Nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản”.

[15] Xem Điều 23, Luật Xuất bản năm 2012.

[16]Xem Điều 60 Hiến pháp năm 2013.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Triển khai Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về đánh giá chuẩn tiếp cận pháp luật

23/01/2015

Để có công cụ đánh giámột cách hệ thống, đồng bộ và toàn diện thực trạng tiếp cận pháp luật của người dân ngay tại địa bàn cơ sở, làm căn cứ để các cơ quan nhà nước đề ra các giải pháp quản lý phù hợp; kịp thời khắc phục những hạn chế, yếu kém cũng như khuyến khích, biểu dương, nhân rộng điển hình, tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật cho người dân, ngày 24/01/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg ban hành Quy định về chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở(sau đây gọi làQuyết định số 09/2013/ QĐ-TTg).

1. Tình hình triển khai thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về đánh giáchuẩn tiếp cận pháp luật

Triển khai thực hiện Quyết định này, Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 1932/QĐ-BTP ngày 25/7/2013 phê duyệt Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg; Công văn số 7730/BTP-PBGDPL ngày 18/11/2013 hướng dẫn Ủy ban nhân dân (UBND) các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương triển khai thực hiện Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg; tổ chức nghiên cứu, xây dựng các văn bản làm cơ sở cho việc triển khai thực hiện nhiệm vụ xây dựng địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, gồm: Dự thảo Thông tư quy định về Hội đồng đánh giátiếp cận pháp luật, trình tự, thủ tục đánh giá, công nhận, xếp hạng địa phương đạt chuẩn và biểu dương tiêu biểu về tiếp cận pháp luật; Đề án kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế làm công tác xây dựng địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật; đồng thời chỉ đạo, theo dõi, nắm bắt thông tin, kịp thời hướng dẫn, tháo gỡ những vướng mắc, bất cập về nghiệp vụ tiếp cận pháp luật.

Tại địa phương, đến hết ngày 30/6/2014, đã có 45/63 tỉnh, thành phố ban hành Kế hoạch, Đề án triển khai thực hiện Quyết định số 09/2013/ QĐ-TTg. Hầu hết các địa phương đã tổ chức quán triệt, truyền thông, phổ biến quy định về chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở đến đội ngũ cán bộ chủ chốt của các sở, ban, ngành, UBND quận, huyện, cơ quan, đơn vị có liên quan và nhân dân trên địa bàn; đồng thời đưa việc thực hiện nhiệm vụ này vào chương trình trọng tâm công tác tư pháp năm 2014. Một số tỉnh, thành phố đã thành lập Hội đồng đánh giátiếp cận pháp luật cấp tỉnh; chỉ đạo thành lập Hội đồng đánh giátiếp cận pháp luật cấp huyện, cấp xã; phân công, giao nhiệm vụ cho các công chức, phòng chuyên môn làm đầu mối tham mưu, theo dõi, rà soát, đánh giávề các chỉ tiêu, tiêu chí được giao theo dõi để đề xuất các giải pháp cải thiện nhằm bảo đảm đạt chuẩn tiếp cận pháp luật.

Tuy nhiên, việc đánh giáđịa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật theo Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg là một nhiệm vụ phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, thuộc phạm vi quản lý của nhiều bộ, ngành, được thực hiện ở cả 03 cấp hành chính ở địa phương. Trong quátrình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách hướng dẫn triển khai thực hiện Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg và qua theo dõi, tổng hợp phản ánh, kiến nghị của các địa phương cho thấy quy trình đánh giá, công nhận, biểu dương, khen thưởng địa phương đạt chuẩn và tiêu biểu về tiếp cận pháp luật có một số vướng mắc, bất cập [1]. Nếu triển khai việc đánh giá địa phương tiếp cận pháp luật thống nhất, đồng bộ trong phạm vi cả nước ngay từ năm 2014 – năm đầu tiên theo quy định, sẽ gặp nhiều khó khăn, dễ dẫn đến hình thức, tạo áp lực rất lớn cho chính quyền cơ sở, nhất là đội ngũ công chức tư pháp – hộ tịch cấp xã. Trên cơ sở tham mưu, đề xuất của Bộ Tư pháp tại Công văn số 4793/VPCP-PL ngày 27/6/2014, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo tạm dừng triển khai toàn quốc việc đánh giá, công nhận, biểu dương, khen thưởng đạt chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở và giao Bộ Tư pháp tổ chức triển khai làm thử việc đánh giá, công nhận, biểu dương, khen thưởng ở 03 cấp đạt chuẩn tiếp cận pháp luật trong 02 năm, từ năm 2014 đến năm 2015 tại các tỉnh: Quảng Bình, Thái Bình, Điện Biên, Cà Mau và TP. Hồ Chí Minh để có điều kiện tập trung chỉ đạo, hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg. Trên cơ sở kết quả làm thử, trong quý II/2016, Bộ Tư pháp có trách nhiệm tổng kết, đánh giá, báo cáo Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg cho phù hợp.

Đểkịp thời có các giải pháp tổng thể, hướng dẫn các địa phương triển khai thực hiện Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg và Công văn số 4793/VPCP-PL, ngày 18/9/2014, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký Quyết định số 2143/QĐ-BTP ban hành Kế hoạch thực hiện Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg và ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai làm thử việc đánh giáđịa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật trong 02 năm (2014 – 2015) [2]. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp đã ban hành Công văn số 3120/BTP-PBGDPL ngày 15/7/2014 hướng dẫn các bộ, cơ quan ngang bộ và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương triển khai thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về đánh giátiếp cận pháp luật; Công văn số 3175/BTP-PBGDPL ngày 18/7/2014 hướng dẫn thành lập Hội đồng đánh giátiếp cận pháp luật; quy trình đánh giá, công nhận địa phương đạt chuẩn và biểu dương tiêu biểu về tiếp cận pháp luật và các biểu mẫu về nghiệp vụ kèm theo gửi 05 tỉnh, thành phố được chọn làm thử. Để tập trung nguồn lực và phù hợp với tình hình triển khai việc làm thử, Bộ Tư pháp báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ cho phép rút việc xây dựng Dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ bổ sung tiêu chí tiếp cận pháp luật vào Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới ra khỏi chương trình, kế hoạch các văn bản phải trình Thủ tướng Chính phủ năm 2014 và giao Bộ Tư pháp tiếp tục nghiên cứu, đề xuất sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định sửa đổi, bổ sung Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg [3].

Để hỗ trợ, hướng dẫn 05 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được giao làm thử việc đánh giáchuẩn tiếp cận pháp luật, Bộ Tư pháp đã trực tiếp tập huấn nghiệp vụ tiếp cận pháp luật, đồng thời khảo sát, kiểm tra, nắm thông tin, tình hình kết hợp hướng dẫn, tháo gỡ những vướng mắc về chuyên môn, nghiệp vụ để các địa phương chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho kỳ đánh giá đầu tiên. Bộ Tư pháp phối hợp với một số bộ, ngành liên quan tiến hành các thủ tục thành lập Hội đồng đánh giátiếp cận pháp luật của Bộ Tư pháp để phục vụ cho việc đánh giá kết quả đạt chuẩn tiếp cận pháp luật năm 2014 đối với 05 tỉnh, thành phố được giao làm thử, sau khi các địa phương hoàn thành việc đánh giá (Hồ sơ của 05 tỉnh, thành phố được gửi về Bộ Tư pháp trước ngày 30/11/2014).

Qua theo dõi, nắm tình hình chung cho thấy, về cơ bản, các địa phương bày tỏ sự đồng tình cao với chủ trương tạm dừng đánh giátiếp cận pháp luật theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và tiếp tục tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao liên quan đến xây dựng địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật (trừ hoạt động đánh giá). Tính đến hết tháng 10/2014, tại các địa phương làm thử, UBND cấp tỉnh đã tiếp nhận Hồ sơ tiếp cận pháp luật của UBND cấp huyện (trong đó bao gồm cả Hồ sơ đề nghị công nhận cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật thuộc phạm vi quản lý của cấp huyện) và bắt đầu tiến hành thẩm tra theo quy định [4].

2. Một số giải pháp, nhiệm vụ cần tiếp tục triển khai thực hiện trong thời gian tới

Để Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg được tiếp tục triển khai thi hành có hiệu quả trên phạm vi cả nước, đưa công tác xây dựng địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật vào nề nếp, thúc đẩy và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cánhân trong triển khai các thiết chế tiếp cận pháp luật, đáp ứng nhu cầu nâng cao nhận thức pháp luật, thực hiện, bảo vệ và phát huy quyền và lợi ích hợp pháp của công dân ngay tại cơ sở, phát huy vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, chúng ta cần quan tâm một số giải pháp, nhiệm vụ chủ yếu sau:

– Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng địa phương đạt chuẩn cận pháp luật. Kinh nghiệm thực tiễn triển khai các nhiệm vụ cho thấy vai trò lãnh đạo của Đảng là rất quan trọng, ở đâu có sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, thì ở đó các nhiệm vụ được tổ chức thực hiện có hiệu quả.

– UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao trong Kế hoạch thực hiện Quyết định số 09/2013/QĐ- TTg và ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai làm thử việc đánh giáđịa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật trong 02 năm (2014 – 2015) ban hành kèm theo Quyết định số 2143/QĐ-BTP.

– Tiếp tục thông tin, phổ biến, quán triệt nội dung, quy định về chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở theo Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg đến cán bộ chủ chốt của các sở, ban, ngành, UBND quận, huyện, các cơ quan, đơn vị có liên quan nhằm thống nhất nhận thức và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị trong công tác chỉ đạo, quản lý, tổ chức thực hiện nhiệm vụ này tại địa phương.

– Quan tâm bố trí các nguồn lực để thực hiện nhiệm vụ xây dựng địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật; tạo điều kiện và phát huy vai trò đầu mối của cơ quan tư pháp các cấp trong tham mưu, giúp UBND cùng cấp chỉ đạo, quản lý, hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ này tại địa phương.

Ngoài các giải pháp, nhiệm vụ chung nêu trên, để triển khai thực hiện có hiệu quả chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về làm thử việc đánh giáđịa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, trong thời gian tới, Bộ Tư pháp và 05 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được giao làm thử quan tâm tổ chức thực hiện các hoạt động sau:

Đối với Bộ Tư pháp:

– Tiếp tục tập trung chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, theo dõi việc triển khai làm thử đánh giáđịa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật tại 05 tỉnh, thành phố được giao làm thử; tổ chức xem xét, đánh giáhồ sơ tiếp cận pháp luật của 05 tỉnh, thành phố theo quy trình quy định tại Quyết định số 09/2013/QĐ-TT để kiểm nghiệm trên thực tế tính phù hợp/không phù hợp của quy trình ở cấp trung ương; tổng hợp thông tin, đánh giá 01 năm làm thử để rút kinh nghiệm, chuẩn bị cho việc hướng dẫn thực hiện trong năm 2015.

– Tăng cường công tác kiểm tra nắm bắt tình hình về việc triển khai thực hiện làm thử, nhằm kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn, giải quyết khó khăn, vướng mắc cho các địa phương; đồng thời tiếp tục tổ chức các hoạt động nghiên cứu, đánh giávề tính hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ của các quy định và các chỉ tiêu, tiêu chí tiếp cận pháp luật với hệ thống pháp luật, sự phù hợp và tính khả thi của thẩm quyền, quy trình, thời hạn đánh giá; các nguồn lực bảo đảm triển khai thực hiện (nhân lực, kinh phí, cơ sở vật chất) và các nội dung liên quan khác.

– Chỉ đạo và phối hợp với các bộ, ngành, địa phương có liên quan đánh giá, tổng kết việc triển khai làm thử để báo cáo, trình Thủ tướng Chính phủ giải pháp cụ thể, cũng như những nội dung cần sửa đổi, bổ sung trong Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg, bảo đảm triển khai thực hiện nhiệm vụ xây dựng địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật một cách thực chất, thiết thực, không tạo thêm gánh nặng cho chính quyền cơ sở.

Đối với UBND 05 tỉnh, thành phố được giao làm thử, phải xác định việc triển khai làm thử đánh giáđịa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm, do đó, cần tập trung chỉ đạo, đề ra các giải pháp cụ thể để tiếp tục thực hiện tốt các nhiệm vụ thuộc trách nhiệm của địa phương đã được giao trong Kế hoạch ban hành kèm theo Quyết định số 2143/QĐ-BTP cũng như các nội dung, giải pháp mà Kế hoạch của địa phương đã xác định, trong đó, tập trung triển khai thực hiện một số công việc sau đây:

– Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ đánh giátiếp cận pháp luật cho cán bộ, công chức được giao trực tiếp thực hiện nhiệm vụ này và thành viên Hội đồng đánh giá tiếp cận pháp luật các cấp ở địa phương, trong đó chú trọng đội ngũ công chức cấp xã.

– Quan tâm theo dõi, kiểm tra nắm bắt tình hình, nhằm kịp thời chấn chỉnh, khắc phục những sai sót trong hoạt động đánh giá, xây dựng địa phương tiếp cận pháp luật, cũng như có giải pháp giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện làm thử.

– Chỉ đạo, làm tốt việc đánh giá, công nhận địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật năm 2014 đúng quy trình, thời hạn; tổng hợp thông tin, số liệu, những vướng mắc, bất, cập, khó khăn, báo cáo về Bộ Tư pháp; rút kinh nghiệm, chuẩn bị cho kỳ đánh giá đạt chuẩn và tiêu biểu năm 2015. Việc đánh giá cần được thực hiện nghiêm túc, đánh giá thực chất, không chạy theo thành tích, để phản ánh đúng thực trạng tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở trên địa bàn, qua đó, góp phần cùng với Bộ Tư pháp tổng kết, đánh giá, báo cáo Thủ tướng Chính phủ hướng sửa đổi, bổ sung Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg cho phù hợp.

Bùi Anh Thơ

Tài liệu tham khảo:

[1]. Một số vướng mắc, bất cập: Thời hạn đánh giá xã, phường, quận, huyện, tỉnh, thành phố đạt chuẩn và tiêu biểu về tiếp cận pháp luật chưa thực sự tương thích với năm công tác, năm ngân sách của các cấp chính quyền địa phương và kỳ báo cáo thống kê nhà nước và của Ngành Tư pháp; nhiều tiêu chí tiếp cận pháp luật có nội hàm rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều văn bản quy phạm pháp luật, cần có thời gian để rà soát các văn bản này để làm cơ sở cho việc đánh giá các tiêu chí; quy trình đánh giá, công nhận, biểu dương, khen thưởng địa phương đạt chuẩn và tiêu biểu về tiếp cận pháp luật phức tạp, nhiều chủ thể tham gia, trong khi thời gian thực hiện lại ngắn.

[2]. Thay thế Quyết định số 1932/QĐ-BTP ngày 25/7/2013 phê duyệt Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg.

[3]. Công văn số 5719/VPCP-PL ngày 29/7/2014 của Văn phòng Chính phủ.

[4]. Theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp, năm 2014, thời hạn thực hiện trình tự, thủ tục đánh giá ở cấp xã bắt đầu từ ngày 01/9/2014 và kết thúc trước ngày 30/9/2014; cấp huyện bắt đầu từ ngày 01/10/2014 và kết thúc trước ngày 20/10/2014; cấp tỉnh bắt đầu từ ngày 21/10/2014 và kết thúc trước ngày 20/11/2014.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Việc xử lý vật chứng, tài sản tạm giữ bị tuyên tịch thu, sung công quỹ Nhà nước

08/09/2014

Luật Thi hành án dân sự ra đời đã kịp thời giải quyết những vướng mắc phát sinh trong thực tiễn, đồng thời đưa ra các biện pháp xử lý mà Pháp lệnh Thi hành án dân sự trước đây chưa có hướng dẫn giải quyết, phần nào giảm đáng kể lượng án tồn đọng, đảm bảo quyền lợi cho công dân, cho Nhà nước, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, khi thực tiễn áp dụng pháp luật về thi hành án, các cơ quan liên quan còn lúng túng trong quá trình nhận và bảo quản vật chứng, tài sản từ các cơ quan thi hành án dân sự trong các vụ án hình sự, trong khi vật chứng, tài sản bị Toà án tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước với số lượng ngày càng nhiều. Qua thực tế tôi thấy Điều 124 của Luật Thi hành án Dân sự năm 2008 không những không thuận lợi cho cán bộ thi hành án dân sự, mà còn phát sinh vướng mắc trong quá trình chuyển giao vật chứng, tài sản.

Điều 124 về xử lý vật chứng, tài sản tạm giữ bị tuyên tịch thu, sung công quỷ nhà nước quy định: “Đối với vật chứng, tài sản tạm giữ mà bản án, quyết định tuyên tịch thu, sung quỹ Nhà nước thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ra quyết định thi hánh án cơ quan thi hành án thông báo bằng văn bản và tiến hành giao vật chứng, tài sản tạm giữ cho cơ quan tài chính cùng cấp. Đối với tài sản tịch thu sung công quỹ Nhà nước do cơ quan thi hành án cấp quân khu thi hành thì chuyển cho cơ quan tài chính cấp tĩnh nơi cơ quan thi hành án cấp quân khu có trụ sở.

Chi phí xử lý vật chứng, tài sản tạm giữ bị tuyên tịch thu, sung công quỹ nhà nước do cơ quan nơi nhận vật chứng, tài sản tạm giữ chi trả theo quy định của pháp luật”.

Theo nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự. Thì tại Điều 18 về xử lý vật chứng, tài sản tạm giữ tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước quy định:

“1. Cơ quan tài chính có trách nhiệm tiếp nhận để xử lý vật chứng, tài sản bị tuyên tịch thu, sung công quỹ nhà nước……

2. Cơ quan thi hành án dân sự thông báo và ấn định cho cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận vật chứng, tài sản thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo để tiếp nhận…

Việc chuyển vật chứng, tài sản tạm giữ bị tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước được thực hiện tại kho cơ quan thi hành án dân sự hoặc tại nơi đang giữ vật chứng, tài sản tạm giữ”.

Nghị định số 125/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 58 nêu trên cũng chưa giải quyết triệt để vướng mắc này. Theo quy định hiện nay, chỉ có cơ quan công an, cơ quan thi hành án dân sự được phép xây dựng kho vật chứng còn phòng tài chính cùng cấp không có kho để bảo quản vật chứng, tài sản. Cho nên việc cán bộ cơ quan tài chính sau khi nhận tài sản trong thời hạn theo quy định của pháp luật (cho dù tài sản là to hay nhỏ, giá trị tài sản thấp hay cao) khi đưa về cơ quan tài chính, do không có chỗ cất giữ phải thuê kho của cơ quan thi hành án hoặc thuê kho bảo quan ở một cơ quan khác, sẽ mất chi phí bảo quản, hoặc có thể sau khi hoá giá xong trừ chi phí bảo quản ở đơn vị cho thuê và chi phí vận chuyển vật chứng tài sản, thì không còn đồng nào để sung công quỹ Nhà nước, có khi cơ quan tài chính chi quá với số tiền hoá giá tài sản đó.

Xin đơn cử một ví dụ: Tải Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2013/HSST ngày 23/8/2013 của Tòa án nhân dân huyện CL, tỉnh HT, xét xử bị cáo Nguyễn Văn Thiệu phạm tội trộm cắp tài sản. Tang vật vụ án là một chiếc xe máy hãng Honda, và bị Tòa tuyên: Tịch thu hóa giá sung công quỹ Nhà nước. Sau khibản án có hiệu lực, ngày 01/10/2013, Chi cụ Thi hành án dân sự huyện CL ra Quyết định thi hành án số 30/QĐ-THADS. Ngày 10/10/2013 thông báo cho Phòng Tài chính huyện CL nhận tang vật trên để hóa giá. Ngày 30/10/2013 cán bộ Phòng Tài chính đến cơ quan thi hành án làm thủ tục nhận tài sản từ kho tang vật cơ quan thi hành án, nhưng do cơ quan tài chính kế hoạch không có kho vật chứng, vì vậy, cán bộ Phòng Tài chính đã thương lượng để gửi lại tang vật đó tại kho tang vật của cơ quan thi hành án dân sự huyện CL. Đến ngày 15/11/2013. cán bộ Phòng Tài chính xin nhận lại tài sản trên và tổ chức bán hóa giá, do chiếc xe máy bị cháy trụi chỉ còn lại gần như một đống sắt, nên chỉ bán hóa giá được 300.000 đồng (bán theo giá sắt vụn). Sau khi trừ chi phí vận chuyển vật chứng, chi phí cho hội đồng tham gia hóa giá tài sản, đã hết 300.000 đồng không còn tiền để chi trả cho việc bảo quản vật chứng (bảo quản trong thời gian từ 30/10/2013 đến 15/11/2013).

Hiện nay, tình hình tội phạm vẫn có chiều hướng tăng, tài sản tịch thu sung công ngày càng nhiều, đa dạng về chủ loại, có những tài sản rất cồng kềnh, mà kho bảo quản tại cơ quan tài chính không có. Theo chúng tôi, cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan hành chính – tư pháp, còn cơ quan tài chính là cơ quan hành chính nhà nước, nếu cơ quan tài chính nhận xong vật chứng mà chưa xử lý, thì bản án còn nằm trên giấy, chưa có giá trị thực tế; mặt khác vì lý do nào đó mà cơ quan tài chính cùng cấp để quá 10 ngày không đến nhận tài sản là vật chứng, thì hiện nay chưa có chế tài nào để xử lý. Đây cũng là một trong những lý do dẫn tới án tồn đọng.

Mặt khác còn có việc tuỳ tiện hoá giá tang vật giữa cơ quan tài chính và các cơ quan liên quan trong quá trình hoá giá. Vì theo pháp luật hiện hành thì khi hoá giá không có sự kiểm tra, giám sát của cơ quan Viện kểm sát cùng cấp để thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật. Để việc hoạt động trong các cơ quan tố tụng và thi hành án dân sự được trôi chảy, đúng pháp luật, tiết kiệm kinh phí xây kho cất giữ, bảo quản tang vật tại cơ quan tài chính, tránh được kinh phí thuê bảo quản vật chứng làm tiêu tốn phần nào đến ngân sách nhà nước, theo chúng tôi nên để chấp hành viên phụ trách vụ án làm Chủ tịch Hội đồng hoá giá tài sản, một đại diện Phòng Tài chính – Kế hạch làm Phó Chủ tịch Hội đồng, một đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp tham gia để thực hiện việc kiểm sát tuân theo pháp luật, Thủ kho vật chứng và một thẩm tra viên cơ quan thi hành án dân sự nếu có.

Trên đây là một thực tế diễn ra, gâybức xúc cho người làm công tác thi hành án dân sự, mà pháp luật thi hành án chưa giải quyết, chúng tôi rất mong bạn đọc quan tâm, trao đổi và cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn…

Trần Thế Hùng

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Nhận diện về lao động cưỡng bức trong pháp luật lao động Việt Nam hiện hành

06/01/2015

Từ những nỗ lực không mệt mỏi trong cuộc chiến đấu loại bỏ lao động cưỡng bức (LĐCB), ngày 28/6/1930, Hội nghị Lao động Quốc tế đã thông qua Công ước số 29 về lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc (Công ước số 29) và Việt Nam đã là thành viên của Công ước này, đồng thời đang trong lộ trình xem xét để gia nhập Công ước số 105 về xóa bỏ LĐCB. Điều đó đặt ra yêu cầu “nội luật hóa” một cách đầy đủ nội dung của các công ước như là nghĩa vụ bắt buộc của một quốc gia thành viên. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đến vấn đề bảo vệ quyền con người, đặc biệt là quyền cơ bản của người lao động tại nơi làm việc. Chính vì vậy, nguyên tắc hiến định đã được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013: “Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc” và “nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động” . Tuy nhiên cho đến nay, sự nhận diện về LĐCB trong pháp luật Việt Nam để đảm bảo thực hiện nguyên tắc hiến định này vẫn là vấn đề cần được tiếp tục quan tâm trong lĩnh vực lập pháp. Trên phương diện pháp lý, LĐCB được nhận diện từ nhiều góc độ khác nhau, bằng các quy phạm pháp luật trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau tùy vào tính chất công việc mà người lao động phải thực hiện như: Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Phòng chống ma túy, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Lao động… Trong khuôn khổ bài viết, nhận diện LĐCB chỉ được đề cập trong phạm vi của pháp luật lao động.

1. Một số khái niệm

Lao động cưỡng bức trước đó đã được đề cập trong hệ thống pháp luật lao động Việt Nam. Bộ luật Lao động năm 1994 mặc dù quy định quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động làm việc theo hợp đồng có thời hạn, hợp đồng theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới mười hai tháng trong trường hợp bị cưỡng bức lao động, tuy nhiên, lại không đề cập đến khái niệm LĐCB. Tại khoản 1 Điều 11 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 09/5/2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động có quy định: “… Bị ngược đãi, cưỡng bức lao động là trường hợp người lao động bị đánh đập, nhục mạ hoặc ép buộc làm những công việc không phù hợp với giới tính, ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người lao động”. Theo đó, hai cụm từ “ngược đãi” và “cưỡng bức lao động” được giải thích ở đây theo hướng đồng nghĩa và sự giải thích này được đặt trong phạm vi giao kết và thực hiện hợp đồng lao động hơn là một định nghĩa.

So với khái niệm LĐCB được nêu trong Công ước số 29 về LĐCB hoặc bắt buộc của ILO[1] thì cách hiểu về LĐCB như vậy có nội hàm hẹp hơn rất nhiều. Về phạm vi, khái niệm LĐCB mà Công ước số 29 đưa ra không bó hẹp dưới dạng các hành động cụ thể là “đánh đập, nhục mạ hoặc bị ép buộc”, mà nó thể hiện dưới dạng cả đe dọa và cả hành động liên quan tới bạo lực hay hạn chế thân thể hoặc tước đoạt quyền tự do và các đặc quyền khác của người lao động. Về đối tượng của đe dọa hay áp dụng các hình phạt nhằm ép buộc người lao động phải làm những công việc mà bản thân họ không tự nguyện theo Công ước số 29 không chỉ đối với người lao động mà có thể đối với cả thân nhân họ.

Về công việc sử dụng LĐCB theo khái niệm của Công ước số 29 không chỉ bó hẹp là những việc làm hợp pháp trong hợp đồng lao động mà có thể là công việc bất hợp pháp và có thể không liên quan đến quan hệ lao động.

Lần đầu tiên, khái niệm cưỡng bức lao động được quy định tại Bộ luật Lao động năm 2012, theo đó “cưỡng bức lao động là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác nhằm buộc người khác lao động trái ý muốn của họ”[2]. Khái niệm này được xây dựng trên cơ sở khái niệm LĐCB hoặc bắt buộc theo Công ước số 29, tuy nhiên, vẫn có những điểm khác biệt và bất cập:

+ Nội hàm khái niệm hẹp hơn khi nhấn mạnh chủ yếu yếu tố không tự nguyện ở đây là do việc dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, trong khi thực tế có rất nhiều những dạng ép buộc, cưỡng bức khác.

+ Các “thủ đoạn khác” đã không được giải thích một cách rõ ràng nên rất khó xác định.

+ Công ước số 29 dùng thuật ngữ “một người phải thực hiện một công việc hoặc dịch vụ” bao gồm được cả trường hợp công việc hay dịch vụ đó có thể là hợp pháp hoặc có thể là bất hợp pháp. LĐCB do đó không được định nghĩa bằng tính chất của công việc (có thể hợp pháp hoặc không hợp pháp theo luật quốc gia) mà bằng tính chất của mối quan hệ giữa người thực hiện công việc và người hưởng lợi từ công việc. Khái niệm trong Bộ luật Lao động năm 2012 sử dụng thuật ngữ “lao động” thì hoạt động lao động của con người chỉ bao hàm những hoạt động tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội và thường đó là những hoạt động không bị pháp luật cấm. Với thuật ngữ này dễ dẫn đến cách hiểu LĐCB chỉ xảy ra khi một người phải thực hiện những công việc hợp pháp trái với ý muốn của họ, còn những công việc bất hợp pháp một người phải thực hiện ngoài ý muốn của họ không nằm trong nội hàm khái niệm LĐCB.

2. Ngoại lệ và những hình thức lao động cưỡng bức bị cấm

Các ngoại lệ và các hình thức LĐCB bị cấm trong pháp luật lao động Việt Nam chưa được quy định một cách hệ thống, rõ ràng, đầy đủ và đặc biệt không gắn với việc xác định nội hàm khái niệm chung về LĐCB được đề cập tại khoản 3 Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2012. Tuy nhiên, có thể thấy, rải rác trong các chế định và các văn bản quy định chi tiết thi hành Bộ luật này có chứa đựng các quy định liên quan đến việc xác định các hành vi thuộc ngoại lệ LĐCB được thực hiện và các hình thức LĐCB bị cấm trong quan hệ lao động. Cụ thể:

Các ngoại lệ LĐCB được phép tiến hành trong quan hệ lao động được đề cập tới như người sử dụng lao động có quyền yêu cầu người lao động làm thêm giờ vào bất kỳ ngày nào và người lao động không được từ chối trong các trường hợp thực hiện lệnh động viên, huy động bảo đảm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, an ninh theo quy định của pháp luật, thực hiện các công việc nhằm bảo vệ tính mạng con người, tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng ngừa và khắc phục hậu quả thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh và thảm họa; tham gia cấp cứu người lao động bị tai nạn lao động khi có yêu cầu của người sử dụng lao động; người lao động phải ngừng đình công, trở lại làm việc khi có quyết định hoãn hoặc ngừng đình công của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Về các hình thức LĐCB bị cấm, chúng tồn tại dưới dạng là những hành vi bị cấm một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, như cấm cản trở người lao động tự do lựa chọn việc làm, tự do chấm dứt việc làm theo quy định của pháp luật (chẳng hạn thông qua việc quy định các nguyên tắc giao kết hợp đồng, quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động, cấm giữ bản chính giấy tờ tùy thân, văn bằng, chứng chỉ của người lao động; cấm yêu cầu người lao động phải thực hiện biện pháp đảm bảo bằng tiền hoặc tài sản khác cho việc thực hiện hợp đồng lao động…); cấm ép buộc người lao động làm việc nhằm bóc lột vì lợi ích của người sử dụng (thông qua việc cấm bớt xén tiền lương, buộc người lao động phải lèm thêm giờ, làm việc trong tình trạng có nguy cơ xảy ra tai nạn lao động đe dọa đến sức khỏe, tính mạng của người lao động, giam giữ, đánh đập hoặc cưỡng bức…); cấm bắt buộc người lao động làm việc như một hình thức xử lý kỷ luật, như một biện pháp trừng phạt vì lý do đình công, như một biện pháp phân biệt đối xử; cấm LĐCB đối với trẻ em và đối với người lao động trong quan hệ cho thuê lại lao động)…

Về cơ bản, các ngoại lệ của LĐCB và các hình thức LĐCB bị cấm trong pháp luật lao động Việt Nam bảo đảm tính tương thích với pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, do chúng không được xây dựng gắn với khái niệm chung nên việc xác định những hành vi bị cấm hay những ngoại lệ được miễn trừ không có tính hệ thống, chưa thực sự đầy đủ, rõ ràng, đồng thời dẫn đến sự bất cập trong việc sử dụng mập mờ giữa các thuật ngữ “lao động cưỡng bức” và “lao động bắt buộc”, “cưỡng bức lao động” và “bắt buộc lao động”. Các quy định về điều kiện, đặc biệt là quyền lợi của người lao động khi bị áp dụng LĐCB trong các trường hợp được là hoàn toàn thiếu vắng. Các hành vi bị cấm gắn liền với việc điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội trong từng chế định của Bộ luật Lao động mà không nhằm mục đích xác định nội hàm khái niệm LĐCB, nên để nhận diện rõ ràng chúng về cả cơ sở pháp lý và thực tiễn là hết sức khó khăn và cần phải xem xét thêm những yếu tố khác nữa.

So với pháp luật của nhiều nước trên thế giới, điểm tiến bộ trong pháp luật Việt Nam dễ nhận thấy là cấm LĐCB đã được ghi nhận là một nguyên tắc hiến định. Điều đó thể hiện mức độ quan tâm và sự quyết tâm trong xóa bỏ các hình thức LĐCB bị cấm của Việt Nam. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện nguyên tắc hiến định này chưa được đầy đủ, bắt đầu từ việc nhận diện về LĐCB. So với pháp luật nhiều nước, pháp luật Việt Nam đã xây dựng khái niệm về LĐCB, song nội hàm khái niệm hẹp hơn và điều quan trọng nhất là không bao quát được đầy đủ bản chất của các hành vi CBLĐ khi mà thực tế ở Việt Nam các hành vi này có thể tồn tại ở dạng một người lao động phải thực hiện một công việc bất hợp pháp ngoài ý muốn của họ. Các ngoại lệ cũng như các hình thức LĐCB bị cấm cũng không được quy định một cách rõ ràng, gắn với khái niệm chung, vì vậy, việc nhận diện về LĐCB trong pháp luật Việt Nam chưa thực sự hiệu quả.

3. Một số kiến nghị

Trên cơ sở luật pháp quốc tế, tham khảo kinh nghiệm thực tiễn của các quốc gia thì việc nhận diện về LĐCB, bên cạnh một khái niệm chung cũng cần thiết quy định cụ thể các ngoại lệ và những hình thức LĐCB bị cấm gắn với việc xác định nội hàm khái niệm chung đó.

– Về khái niệm, cả hai Công ước quốc tế của ILO đã nhằm mục đích thiết lập một định nghĩa đủ rộng để bao quát tất cả các hoạt động lao động cưỡng bức hiện diện trong các vùng lãnh thổ khác nhau của thế giới, với các hình thức đặc thù khác nhau. Tuy nhiên, mỗi một quốc gia, vùng lãnh thổ lại có những hình thức lao động cưỡng bức khác nhau, xuất phát từ yếu tố lịch sử, truyền thống, kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau. Điều đó dẫn đến Công ước số 29 cho phép các quốc gia thực hiện sự điều chỉnh của luật pháp quốc gia, từ khái niệm cho đến các hình thức nhận diện phù hợp với thực trạng cưỡng bức lao động hiện có trên lãnh thổ của họ. Pháp luật quốc gia cần phân loại các hình thức LĐCB thực tế, có tính đến kinh tế, đặc điểm xã hội và văn hóa của bối cảnh dẫn đến hành vi này. Chỉ có điểm chung trong nghĩa vụ của các quốc gia là mục đích đảm bảo rằng thực tế LĐCB bị trừng phạt như một hành vi phạm tội, phù hợp với Điều 25 của Công ước số 29. Chính vì vậy, nếu luật pháp quốc gia sử dụng khái niệm LĐCB hoặc bắt buộc theo Công ước số 29 sẽ quá rộng và dẫn đến việc nhận diện về LĐCB hoặc bắt buộc khó khăn.

Pháp luật lao động Việt Nam có cần phân định giữa lao động cưỡng bức với lao động bắt buộc hay không? “Cưỡng bức” được hiểu là “dùng vũ lực hoặc thủ đoạn dồn người khác vào thế bắt buộc phải làm, dù không muốn cũng không được”[3] trong khi “bắt buộc” được hiểu là “buộc phải làm, phải chấp nhận”[4]. Như vậy, cưỡng bức và bắt buộc nếu xét về ý nghĩa ngôn từ có điểm chung là một người phải thực hiện công việc hoặc dịch dụ trong điều kiện họ không tự nguyện và mong muốn thực hiện nó. Tuy nhiên, cưỡng bức gắn với việc dùng vũ lực, đe dọa dung vũ lực hoặc các thủ đoạn một cách trực tiếp của con người dồn người khác vào thế phải làm, dù không muốn cũng không được. Nhưng bắt buộc thì thường áp lực là gián tiếp do ngoại cảnh, chẳng hạn một người bắt buộc phải thực hiện một công việc do điều kiện hoàn cảnh kinh tế – xã hội tại địa phương hay do khả năng và điều kiện của bản thân mà không thể có công việc khác hoặc không có sự lựa chọn nào khác tốt hơn dẫn đến họ phải thực hiện công việc. Và tại Văn kiện của Hội Quốc Liên, Điều B và C và tại Điều 5 của Công ước năm 1926 về chế độ nô lệcũng như được đề cập trong Công ước số 29 thì thuật ngữ “lao động cưỡng bức” thường gợi đến lao động bị cưỡng chế bởi các nhà chức trách hoặc tư nhântrong khi thuật ngữ “lao động bắt buộc” thường được dành riêng cho các dịch vụ có tính tập quán phục vụ mục đích công cộng địa phương nhiều hơn. Xét về thực tiễn ở Việt Nam, LĐCB không gắn với lao động gán nợ như ở Ấn Độ, không do Quân đội áp đặt như ở Myama, lao động công ích như một tập quán của cộng đồng, làng xã cũng đã được bãi bỏ. Hành vi cưỡng bức lao động ở đây chủ yếu là được thực hiện trực tiếp như trói buộc người lao động bằng các khoản nợ do người sử dụng lao động tạo ra lợi dụng hoàn cảnh đói nghèo hay sự thiếu hiểu biết của người lao động tương đồng với lao động bị cưỡng bức ở Pakistan hay ở Mỹ, hoặc là gắn với việc giam cầm, dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, hay đe dọa kỷ luật lao động, giữ lương, bản gốc văn bằng, chứng chỉ hoặc yêu cầu người lao động đặt cọc một khoản tiền hoặc các tài sản khác để đẩy người lao động vào hoàn cảnh không thể có cơ hội rời bỏ việc làm tương đồng với LĐCB phổ biến ở Nigeria. Và nếu trong quan hệ lao động, trường hợp một người buộc phải thực hiện một công việc do điều kiện hoàn cảnh kinh tế, xã hội tại địa phương hoặc do điều kiện bản thân của người lao động mà người lao động không thể có một sự lựa chọn nào khác thì không được coi là LĐCB.

Do vậy, trong điều kiện hoàn cảnh và thực tiễn của Việt Nam, thì việc dùng cụm từ “lao động cưỡng bức” mà không đi liền với “cụm từ lao động bắt buộc” là phù hợp. Tuy nhiên, cần thay cụm từ “lao động” trong khái niệm LĐCB được nêu tại khoản 10 Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2012 thành cụm từ “công việc”. Vẫn có thể giữ nguyên cụm từ “những thủ đoạn khác”, nhưng cụm từ này cần được làm rõ trong Nghị định quy định hướng dẫn thi hành bằng việc xác định cụ thể những hành vi được coi là biểu hiện của các hình thức LĐCB bị cấm.

– Về các ngoại lệ và hình thức lao động cưỡng bức bị cấm, bên cạnh việc xây dựng khái niệm LĐCB, đòi hỏi pháp luật lao động còn phải chỉ ra giới hạn của lao động cưỡng bức và các hình thức cưỡng bức lao động bị cấm. Bộ luật Lao động Việt Nam năm 2012 ngoài khái niệm về LĐCB ra cùng với một số quy định nhằm nội luật hóa Công ước số 29 và Công ước số 25, thì hầu như thiếu vắng quy định về các hình thức LĐCB bị cấm để nhận diện về hành vi này. Thực tế các hành vi bị cấm đối với người sử dụng lao động trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng lao động chính là các hình thức cưỡng bức hoặc bắt buộc lao động. Về lâu dài, cần có sự sửa đổi, bổ sung thêm các hình thức LĐCB hoặc bắt buộc khác có thể xảy ra trong quan hệ lao động tại Việt Nam.

LĐCB ở Việt Nam tuy không phổ biến như một số quốc gia có tính chất điển hình trên thế giới như Ấn Độ, Nepan, Pakistan, Nigeria, Mỹ, Brazil, Myamar… nhưng lại có xu hướng gia tăng và một số vụ việc xảy ra với hậu quả nghiêm trọng. Mặc dầu chưa có một điều tra tổng thể về LĐCB ở Việt Nam, tuy nhiên từ một số các vụ việc liên quan được phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng, có thể thấy, do chưa nhận diện đầy đủ về LĐCB, nên trong quan hệ lao động, các vụ việc về LĐCB rất ít khi được phát hiện, mà chủ yếu là những vụ việc nghiêm trọng trong hình sự và được xét xử dưới góc độ tội danh bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật[5]. Nguyên nhân cơ bản có thể là sự nhận diện của pháp luật nói chung, pháp luật lao động nói riêng đối với LĐCB, đặc biệt là những hành vi cụ thể được coi là thuộc các hình thức LĐCB bị cấm chưa được quy định rõ ràng. Để có đầy đủ cơ sở thực tiễn, bên cạnh cơ sở pháp lý quốc tế và các quy định của Hiến pháp, Việt Nam cần có một cuộc điều tra tổng thể về thực trạng LĐCB, đặc biệt là trong các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam để làm căn cứ xác định các hình thức cưỡng bức lao động đặc thù bị cấm trong thực tiễn quan hệ lao động ở Việt Nam, đồng thời, việc ban hành Nghị định quy định chi tiết thi hành Bộ luật Lao động năm 2012 về vấn đề này là có tính cấp thiết hiện nay./.

ThS. Phan Thị Thanh Huyền

Khoa Luật – Đại học Công đoàn



[1] Tại khoản 2, Điều 2, Công ước số 29 của ILO về LĐCB hoặc bắt buộc, LĐCB hay bắt buộc được hiểu là “tất cả các công việc hay dịch vụ mà một người bị ép buộc phải làm dưới sự đe doạ của một hình phạt nào đó mà người này không tự nguyện thực hiện”.

[2] Khoản 10, Điều 3, Bộ luật Lao động Việt Nam năm 2012.

[3] Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển học, NXB Đà Nẵng, 2009, trang 315.

[4] Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển học, NXB Đà Nẵng, 2009, trang 63.

[5] Điều 123 Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999, sửa đổi năm 2009.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Quản lý và thanh lý tài sản phá sản theo Luật Phá sản năm 2014 – Thực trạng và triển vọng thực thi

18/12/2014

Theo Luật Phá sản năm 2004, chủ thể được giao nhiệm vụ quản lý và thanh lý tài sản phá sản là Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Khoản 2 Điều 9 Luật Phá sản quy định về thành phần Tổ quản lý, thanh lý tài sản gồm có: (i) Một chấp hành viên của cơ quan thi hành án cùng cấp làm Tổ trưởng; (ii) Một cán bộ của Toà án; (iii) Một đại diện chủ nợ; (iv) Đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản; (v) Trường hợp cần thiết có đại diện công đoàn, đại diện người lao động, đại diện các cơ quan chuyên môn tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản,thì Thẩm phán xem xét, quyết định.

Nhiệm vụ của Tổ quản lý, thanh lý tài sản là giám sát, kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp từ khi có quyết định mở thủ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp cho đến khi có quyết định tuyên bố phá sản của Tòa án. Cụ thể là:

– Lập bảng kê toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp;

– Giám sát, kiểm tra việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp;

– Đề nghị Thẩm phán quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo toàn tài sản của doanh nghiệp trong trường hợp cần thiết;

– Lập danh sách chủ nợ và số nợ phải trả cho từng chủ nợ; những người mắc nợ và số nợ phải đòi của doanh nghiệp;

– Thu hồi và quản lý tài sản, tài liệu, sổ kế toán và con dấu của doanh nghiệp bị áp dụng thủ tục thanh lý;

– Thực hiện phương án phân chia tài sản theo quyết định của Thẩm phán;

– Phát hiện và đề nghị Thẩm phán ra quyết định thu hồi tài sản, giá trị tài sản hay phần chênh lệch giá trị tài sản của doanh nghiệp bị áp dụng thủ tục thanh lý đã bán hoặc chuyển giao bất hợp pháp;

– Thi hành quyết định của Thẩm phán về việc bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp bị áp dụng thủ tục thanh lý theo đúng quyết định pháp luật về bán đấu giá;

– Gửi các khoản tiền thu được từ những người mắc nọ và từ việc bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp vào tài khoản mở tại ngân hàng;

– Thi hành các quyết định khác của Thẩm phán trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản.

Sau gần 10 năm thực hiện Luật Phá sản năm 2004, thực tiễn quản lý, thanh lý tài sản phá sản của Tổ quản lý, thanh lý tài sản đã bộc lộ các bất cập sau:

Thứ nhất, về thành phần của Tổ quản lý và thanh lý tài sản

Số lượng thành viên tham gia các tổ chức này (ít nhất có 5 người trở lên) đại diện cho nhiều chủ thể khác nhau đã gây ra nhiều bất cập trong hoạt động. Tổ quản lý và thanh lý tài sản theo quy định của pháp luật còn có chức năng giám sát, kiểm tra việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp trong kinh doanh, thế nhưng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lại diễn ra thường xuyên liên tục, không theo giờ hành chính. Do đó, nếu mỗi hoạt động của doanh nghiệp phải chờ sự giám sát, quản lý xong mới được tiến hành là không phù hợp và đáp ứng được với thực tế kinh doanh.

Thứ hai, tài sản của doanh nghiệp là một khối thống nhất

Yêu cầu đặt ra là cần phải quản lý chúng một cách chặt chẽ và thực hiện những biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để phân chia tài sản đó thoả đáng. Trong Luật Phá sản năm 2004, chức năng quản lý tài sản thuộc về một tập thể với thành viên đến từ các cơ quan khác nhau. Cách thiết kế đó đã phát sinh nhiều hệ quả phức tạp, như sự không thống nhất giữa thành viên trong việc đánh giá, kết luận về tài sản cũng như các biện pháp liên quan đến tài sản của doanh nghiệp và do đó, kéo dài việc giải quyết mà gây không ít trở ngại cho sự quản lý. Đáng lưu ý là trong hệ thống làm việc theo tổ có thể gây ra sự chậm trễ trong quá trình tố tụng và kèm theo đó là hiệu quả thấp.

Thứ ba, hoạt động quản lý, thanh lý tài sản của của Tổ quản lý, thanh lý tài sản thiếu tính chuyên nghiệp

Thành viên Tổ quản lý, thanh lý tài sản là những người thực hiện nhiệm vụ kiêm nhiệm, công việc kiêm nhiệm này không phải là chuyên môn, nghiệp vụ chính của thành viên Tổ quản lý, thanh lý tài sản, do đó khi xử lý công việc cụ thể tại doanh nghiệp thường hay lúng túng, bị động. Trong quá trình soạn thảo Luật Phá sản năm 2014, có ý kiến cho rằng, cần sửa đổi, bổ sung theo hướng tách Tổ quản lý, thanh lý tài sản thành hai tổ (Tổ quản lý tài sản và Tổ thanh lý tài sản). Cũng có ý kiến khác cho rằng, cần xã hội hoá việc quản lý tài sản phá sản bằng việc có quy định cơ chế để Luật sư hay Quản tài viên thay cho Chấp hành viên làm Tổ quản lý, thanh lý tài sản; ngoài đại diện của chủ nợ và của doanh nghiệp…bị phá sản, các thành viên khác của Tổ quản lý, thanh lý tài sản do Luật sư lựa chọn, hoạt động dưới sự giám sát của Toà án (trực tiếp là Thẩm phán phụ trách). Ngoài ra, có ý kiến cho rằng, cần có một cơ quan chuyên trách để thực hiện việc quản lý, thanh lý tài sản có tính chuyên nghiệp hơn và việc giải quyết phá sản cũng được nhanh chóng thuận tiện hơn, vì Chấp hành viên là người không đủ điều kiện, cơ sở để xác định hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lại làm Tổ quản lý, thanh lý tài sản là không phù hợp.

Thứ tư, có sự mâu thuẫn giữa các văn bản hướng dẫn về việc thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản

Điều 9 của Luật Phá sản năm 2004 quy định đồng thời với việc ra quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm phán ra quyết định thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản để làm nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Theo quy định tại Mục 5.1 Chương I Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP đã không hướng dẫn cụ thể thời hạn cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm cử người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Còn tại Nghị định số 67/2006/NĐ-CP hướng dẫn khi quyết định mở thủ tục phá sản thì Thẩm phán chỉ gửi văn bản đề nghị cử người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản, do vậy, quyết định thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản sẽ phải ban hành sau. Hướng dẫn như vậy là mâu thuẫn với quy định của Luật Phá sản năm 2004.

Khắc phục những mâu thuẫn trên, nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài sản phá sản trong Luật Phá sản năm 2014 được trao chủ thể hoạt động chuyên nghiệp với hai loại hình hành nghề là quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản. Dĩ nhiên, điều kiện hành nghề của mỗi loại cũng được pháp luật quy định khác nhau.

Theo khoản 2 Điều 12 của Luật Phá sản năm 2014, điều kiện hành nghề của quản tài viên được quy định như sau:

a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;

b) Có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức trách nhiệm, liêm khiết, trung thực, khách quan;

c) Có chứng chỉ hành nghề Quản tài viên”.

Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định chi tiết những đối tượng sau đây không được phép hành nghề quản lý, thanh lý tài sản:

– Cán bộ, công chức, viên chức; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân;

– Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; người đã bị kết án nhưng chưa được xóa án tích; người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;

– Người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. (Điều 14, Luật Phá sản năm 2014)

Để được cấp chứng chỉ hành nghề quản tài viên, người xin cấp chứng chỉ phải là: (i) Luật sư; (ii) Kiểm toán viên; (iii) Người có trình độ cử nhân luật, kinh tế, kế toán, tài chính, ngân hàng và có kinh nghiệm 05 năm trở lên về lĩnh vực được đào tạo (khoản 1 Điều 12 của Luật Phá sản năm 2014). Quản lý Nhà nước đối với Quản tài viên và việc cấp chứng chỉ hành nghề quản tài viên sẽ được thực hiện theo các quy định của Chính phủ (khoản 3 Điều 12 của Luật Phá sản năm 2014).

Để bảo vệ lợi ích của công chúng, loại hình doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản theo Luật Phá sản năm 2014 chỉ là doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh. Đây là một trong số ít các đạo luật ở nước ta nhìn nhận chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh của công ty hợp danh là một trong những biện pháp ngăn ngừa rủi ro cho công chúng từ phía chủ doanh nghiệp.

Trên tinh thần đó, theo khoản 2 Điều 13 của Luật Phá sản năm 2014, điều kiện để doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản được quy định như sau:

a) Công ty hợp danh có tối thiểu hai thành viên hợp danh là Quản tài viên, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc của công ty hợp danh là Quản tài viên;

b) Doanh nghiệp tư nhân có chủ doanh nghiệp là Quản tài viên, đồng thời là Giám đốc”.

Quản lý Nhà nước đối với Quản tài viên và việc cấp chứng chỉ hành nghề quản tài viên, điều kiện hành nghề đối với doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản sẽ được thực hiện theo các quy định của Chính phủ (khoản 3 Điều 12; khoản 3 Điều 13 của Luật Phá sản năm 2014).

Luật Phá sản năm 2014 sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2015, vậy từ thời điểm Luật có hiệu lực, Quản tài viên và doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản hoạt động theo cơ chế nào vẫn còn là một dấu hỏi. Ở một số nước áp dụng cơ chế cấp phép, một số nước áp dụng cơ chế đăng ký. Rõ ràng ở cơ chế nào cũng có hiệu quả, vấn đề là với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam thì áp dụng cơ chế nào? Cơ chế cấp phép ở một số nước đã chứng tỏ được nhiều ưu thế, như có một đầu mối duy nhất quản lý quản tài viên và doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản; thuận lợi trong việc phối hợp quản lý quản tài viên và doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản; có xu hướng năng động và liên tục trong việc nâng cao chuẩn mực nghề nghiệp của quản tài viên và doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản. Tuy nhiên với cơ chế này phải mất một thời gian nhất định, thậm chí kéo dài vài năm, trong khi chỉ vài tháng nữa Luật Phá sản có hiệu lực mà chưa có văn bản quy định rõ ràng vấn đề này thì quy định của Luật sẽ thành “quy định treo” mà không thể thực hiện được. Ở một số nước như Nga, Ba Lan, Rumani, Tuynidi… đã có cơ chế quản lý đội ngũ cán bộ xử lý phá sản, tuy nhiên, sự tồn tại của cơ quan quản lý, cấp phép chuyên trách chỉ là ngoại lệ chứ không phải quy định bắt buộc[1].

Ở Việt Nam, vai trò của Tòa án trong Luật Phá sản được thể hiện rõ nét, chính điều này đã “ngầm ủng hộ” mô hình đăng ký quản tài viên và doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản. Bởi khi Thẩm phán là người ra quyết định trong vụ việc phá sản thì quản tài viên/doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản sẽ không còn toàn quyền hành động, vì thế yêu cầu cấp phép, quản lý đầy đủ với quản tài viên/doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản cũng sẽ giảm. Trong trường hợp Việt Nam lựa chọn cơ chế đăng ký quản tài viên/doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản thì việc đăng ký thì cần phải có các tiêu chuẩn cho việc đăng ký, quản tài viên/doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản ngoài việc có kiến thức chung về pháp luật, kinh doanh, tài chính, kế toán, cần thiết phải có kinh nghiệm, có kỹ năng chuyên môn để xác định doanh nghiệp có còn đủ khả năng tồn tại, tái cơ cấu và giám sát hoạt động của doanh nghiệp trong quá trình tái cơ cấu. Trong trường hợp lựa chọn cơ chế cấp phép sẽ gặp khó khăn trong giai đoạn đầu, vì cần phải có ngay một đội ngũ quản tài viên/doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản thực hiện nhiệm vụ sau khi Luật Phá sản có hiệu lực. Trong trường hợp này, cần có một số “đặc cách” hay gọi khác là thực hiện “miễn trừ”. Việc cấp phép được thực hiện dựa trên một số tiêu chí nhất định về trình độ, năng lực và kinh nghiệm, giống với cơ chế đăng ký. Sau thời gian này, sẽ tiến hành cơ chế cấp phép với những tiêu chí khắt khe hơn để tuyển chọn được những quản tài viên/doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản thực sự đủ năng lực. Một trong các tiêu chí khắt khe của cơ chế cấp phép đó là phải trải qua đào tạo và thi sát hạch. Tuy nhiên, nếu lựa chọn cơ chế cấp phép thì cần phải xác định cơ quan quản lý, có thể giao cho một số tổ chức tư nhân hoạt động theo mô hình tự điều tiết, hoặc giao cho một cơ quan nhà nước ở Trung ương như Bộ Tư pháp, Kiểm toán Nhà nước, Tòa án nhân dân hay Viện kiểm sát nhân dân. Đối với Việt Nam, một nước chưa nhiều kinh nghiệm về các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp tự quản, nên nếu giao cho các tổ chức này thì khó có thể thực hiện tốt vai trò cơ quan quản lý

Để thực hiện được nhiệm vụ quản lý, tài sản phá sản, quản tài viên/doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản được trao các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

1. Quản lý tài sản, giám sát hoạt động kinh doanh, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, gồm:

a) Xác minh, thu thập, quản lý tài liệu, chứng cứ liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã: Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã vẫn tiếp tục hoạt động kinh doanh, nhưng phải chịu sự giám sát của Thẩm phán và Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.Trường hợp xét thấy người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng điều hành, doanh nghiệp, hợp tác xã có dấu hiệu vi phạm khoản 1 Điều 48 của Luật Phá sản năm 2014 thì Thẩm phán ra quyết định thay đổi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã đó theo đề nghị của Hội nghị chủ nợ hoặc Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.

b) Lập bảng kê tài sản, danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ: Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán phải tiến hành kiểm kê tài sản và xác định giá trị tài sản đó; trong trường hợp cần thiết thì phải có văn bản đề nghị Thẩm phán gia hạn, nhưng không quá hai lần, mỗi lần không quá 30 ngày. Việc xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phải được thực hiện theo quy định của pháp luật.

Trường hợp đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã vắng mặt thì người được Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản chỉ định làm đại diện của doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện công việc kiểm kê và xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Bảng kiểm kê tài sản đã được xác định giá trị phải gửi ngay cho Tòa án nhân dân tiến hành thủ tục phá sản.

Trường hợp xét thấy việc kiểm kê, xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã quy định tại khoản 1 Điều này là không chính xác thì Tòa án nhân dân yêu cầu Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản tổ chức kiểm kê, xác định lại giá trị một phần hoặc toàn bộ tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Giá trị tài sản được xác định, định giá theo giá thị trường tại thời điểm kiểm kê.

Trường hợp đại diện doanh nghiệp, hợp tác xã và những người khác không hợp tác về việc kiểm kê tài sản hoặc cố tình làm sai lệch việc kiểm kê tài sản thì bị xử lý theo quy định của pháp luật.

c) Bảo quản tài sản; ngăn chặn việc bán, chuyển giao tài sản mà không được phép của Thẩm phán; ngăn chặn việc tẩu tán tài sản; tối đa hóa giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã khi bán, thanh lý tài sản: Các biện pháp bảo toàn tài sản được quy định trong Luật phá sản 2014 bao gồm: (i) Tuyên bố giao dịch vô hiệu (Điều 60); (ii) Tạm đình chỉ, đình chỉ thực hiện Hợp đồng đang có hiệu lực (Điều 61); (iii) Bù trừ nghĩa vụ (Điều 63); (iv) Gửi giấy đòi nợ (Điều 66); (v) Lập danh sách chủ nợ (Điều 67); (vi) Lập danh sách người mắc nợ (Điều 68);(vii) Đăng ký giao dịch bảo đảm của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán; (viii) Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 70)

d) Giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định của pháp luật: Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã phải báo cáo Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trước khi thực hiện các hoạt động: (i) Liên quan đến việc vay, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, mua bán, chuyển nhượng, cho thuê tài sản; bán, chuyển đổi cổ phần; chuyển quyền sở hữu tài sản; (ii) Chấm dứt thực hiện hợp đồng có hiệu lực; (iii) Thanh toán khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản; trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã.

Hình thức báo cáo gồm báo cáo trực tiếp, thư bảo đảm, thư thường, thư điện tử, fax, telex. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo của doanh nghiệp, hợp tác xã thì Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có trách nhiệm trả lời cho doanh nghiệp, hợp tác xã việc được thực hiện hoặc không được thực hiện các hoạt động quy định tại khoản 1 Điều này và phải chịu trách nhiệm về việc trả lời của mình. Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phải báo cáo Thẩm phán về nội dung trả lời của mình.

Các hoạt động quy định tại khoản 1 Điều này được thực hiện mà không có sự đồng ý của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thì bị đình chỉ thực hiện, khôi phục lại tình trạng ban đầu và giải quyết hậu quả theo quy định của pháp luật.

đ) Được thuê cá nhân, tổ chức thực hiện công việc theo quy định của pháp luật;

e) Đề xuất với Thẩm phán về việc bán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã để bảo đảm chi phí phá sản;

g) Bán tài sản theo quyết định của Thẩm phán để bảo đảm chi phí phá sản;

h) Tổ chức việc định giá, thanh lý tài sản theo quy định của Luật này; báo cáo cơ quan thi hành án dân sự, thông báo đến người tham gia thủ tục phá sản có liên quan về việc giao cho cá nhân, tổ chức thực hiện thanh lý tài sản;

i) Gửi các khoản tiền thu được vào tài khoản do Tòa án nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền mở tại ngân hàng.

2. Đại diện cho doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không có người đại diện theo pháp luật.

3. Báo cáo về tình trạng tài sản, công nợ và hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã, tham gia xây dựng kế hoạch phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán.

4. Đề nghị Thẩm phán tiến hành các công việc sau:

a) Thu thập tài liệu, chứng cứ;

b) Tuyên bố giao dịch vô hiệu và quyết định thu hồi tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị bán hoặc chuyển giao bất hợp pháp;

c) Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; áp dụng biện pháp xử phạt hành chính; chuyển hồ sơ sang cơ quan có thẩm quyền xử lý về hình sự theo quy định của pháp luật.

5. Được hưởng thù lao và thực hiện trách nhiệm bảo hiểm nghề nghiệp theo quy định của pháp luật.

6. Báo cáo việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo yêu cầu của Thẩm phán, cơ quan thi hành án dân sự; chịu trách nhiệm trước Thẩm phán, cơ quan thi hành án dân sự và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình” (Điều 16 Luật Phá sản năm 2014).

Có thể khẳng định rằng, các nhiệm vụ, quyền hạn của quản tài viên/ doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đã tiến gần đến với các chuẩn mực, thông lệ quốc tế về quản tài viên tư pháp trong phá sản. Tuy nhiên, khi so sánh với các chuẩn mực của OECD về nhiệm vụ, quyền hạn của quản tài viên như đã trình bày ở phần trên cũng đã bộc lộ một số vấn đề đáng chú ý sau:

Một là, nhiệm vụ, quyền hạn của quản tài viên theo khuyến nghị của OECD rộng hơn khi thực hiện nhiệm vụ bảo toàn tài sản. Cụ thể, quản tài viên được “thực hiện tất cả các bước cần thiết để bảo vệ và bảo quản tài sản của doanh nghiệp phá sản và hoạt động kinh doanh của con nợ, kể cả ngăn chặn việc bán tài sản trái phép và thực hiện quyền tránh các giao dịch trái phép trước khi phá sản (avoidance powers)”. Theo đó, quản tài viên phải được trao quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để ngăn chặn các giao dịch trái pháp luật hoặc chuyển giao tài sản trái phép.

Hai là,từ thực tiễn hoạt động của quản tài viên ở các quốc gia OECD cũng đã cho thấy cần phải quy định rõ ràng các biện pháp pháp lý để thực thi nhiệm vụ bảo quản tài sản; ngăn chặn việc bán, chuyển giao tài sản mà không được phép của Thẩm phán; ngăn chặn việc tẩu tán tài sản; tối đa hóa giá trị tài sản của doanh nghiệp khi bán, thanh lý tài sản như được thể hiện trong điểm c, khoản 1, Điều 16 Luật Phá sản năm 2014;

Ba là, so với khuyến nghị của OECD, quản tài viên/ doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản theo Luật Phá sản năm 2014 có vai trò khá hạn chế trong quá trình tái tổ chức hoạt động của doanh nghiệp. Theo đó, quản tài viên/doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản chưa được trao một quyền hạn quan trọng: “Tiếp tục vận hành và quản lý hoạt động kinh doanh trong trường hợp tái tổ chức và trong trường hợp thanh lý nếu doanh nghiệp được bán nhưng vẫn tồn tại mà không bị giải thể” và Trong trường hợp tái tổ chức, chuẩn bị và hỗ trợ chuẩn bị kế hoạch tái tổ chức hoặc báo cáo về lý do tại sao không thể thực hiện tái tổ chức (trong khi chức năng này do đại diện quản lý phá sản thực hiện)”;

Bốn là, quản tài viên/doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản theo Luật Phá sản năm 2014 chỉ thực hiện việc đại diện cho doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không có người đại diện theo pháp luật. Trong khi đó, theo khuyến nghị của OECD, ngay lập tức sau khi được chỉ định, quản tài viên có tư cách đại diện cho tài sản của doanh nghiệp phá sản.

Có thể khẳng định rằng, những nhà lập pháp về phá sản của Việt Nam đã quá “thận trọng”theo thói quen hoặc tồn tại “những nghi ngại” về khả năng vận hành của chế định quản tài viên/doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trong Luật Phá sản năm 2014. Tuy nhiên, chắc chắn rằng việc trao thẩm quyền không đầy đủ cho quản tài viên/doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản sẽ hạn chế hiệu quả hoạt động của loại hình chủ thể này ở Việt Nam trong thời gian tới./.

ThS. Trần Duy Tuấn

Sở Công Thương tỉnh Ninh Bình



[1] Nguyễn Thanh Bình (2014), Luật Phá sản với quy định về quản tài viên, http://www.moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=6052.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Đại diện thương lượng phía tập thể lao động trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay

06/01/2015

Việt Nam là một trong những thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) có tốc độ phát triển kinh tế tương đối nhanh. Quá trình hội nhập quốc tế đã nhanh chóng mang lại cho người lao động và tổ chức công đoàn Việt Nam những thuận lợi và thách thức to lớn trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình chuyển đổi nền kinh tế này ở Việt Nam đã tạo ra một môi trường hoàn toàn khác trong quan hệ việc làm ở cấp doanh nghiệp, cấp ngành và cấp quốc gia. Thực tiễn quan hệ lao động hiện nay đang có những biến đổi bởi sự tác động của nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng tăng, sự phát triển của khu vực kinh tế phi tư nhân… Trước những biến đổi đó, cả công đoàn cấp trên cơ sở và công đoàn cơ sở đều đứng trước những thách thức trong việc đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng cho người lao động. Công đoàn cấp trên cơ sở bị hạn chế trong việc hỗ trợ và hướng dẫn công đoàn cơ sở, trong khi đó công đoàn cơ sở thiếu năng lực đàm phán và thương lượng tập thể. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung vào việc phân tích thực trạng các quy định của pháp luật và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện thương lượng tập thể từ phía tập thể lao động trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.

1. Thực trạng các quy định của pháp luật về đại diện thương lượng tập thể từ phía người lao động trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay

Thương lượng là một phần của đời sống hàng ngày. Tại nơi làm việc, thương lượng là cơ sở cho việc tìm kiếm sự cân bằng giữa các lợi ích của người lao động với người sử dụng lao động và tiến tới các điều kiện và phạm vi việc làm chấp nhận được đối với hai bên trong quan hệ lao động. Theo quy định của pháp luật hiện hành, thương lượng tập thể được hiểu là việc tập thể lao động thảo luận, đàm phán với người sử dụng lao động nhằm để xây dựng quan hệ lao động hài hòa và tiến bộ; xác lập các điều kiện lao động mới làm căn cứ để tiến hành ký kết thỏa ước lao động tập thể; để giải quyết những vướng mắc, khó khăn trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động[1].

Vấn đề đại diện thương lượng tập thể trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay được quy định như sau: Về phía tập thể lao động có quyền thương lượng tập thể là ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc ban chấp hành công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở đối với doanh nghiệp chưa có công đoàn cơ sở; còn đại diện thương lượng tập thể bên phía doanh nghiệp là người sử dụng lao động hoặc người đại diện cho người sử dụng lao động[2].

Thông qua quy định của pháp luật về đại diện thương lượng tập thể tại doanh nghiệp như trên, có thể đưa ra một số nhận xét sau:

Thứ nhất, theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2012, thương lượng tập thể vẫn có thể được thực hiện tại doanh nghiệp chưa có tổ chức công đoàn và chủ thể thương lượng tập thể trong trường hợp này là ban chấp hành công đoàn cấp trên trực tiếp của công đoàn cơ sở.

Thứ hai, thực tiễn trong quan hệ lao động đã cho thấy rằng, đa số các trường hợp, công đoàn cơ cở chưa có vị thế hoặc năng lực, kỹ năng tốt để có thể thương lượng một cách bình đẳng, hiệu quả với người sử dụng lao động nên rất cần sự hỗ trợ, tham gia trực tiếp của công đoàn cấp trên hoặc của những chuyên gia bên ngoài là những người có hiểu biết, năng lực và kỹ năng thương lượng tập thể tốt. Tuy nhiên, chủ thể thương lượng tập thể tại cấp doanh nghiệp bên phía người lao động ở những doanh nghiệp đã có công đoàn được quy định là ban chấp hành công đoàn cơ sở. Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở được quy định là có thể tham dự phiên họp thương lượng tập thể nếu có yêu cầu của một trong hai bên[3]. Có thể thấy, vai trò của công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở trong thương lượng tập thể tại doanh nghiệp đã có công đoàn là chưa thật sự rõ ràng và cụ thể. Thương lượng tập thể là một quá trình chứ không phải chỉ đơn giản là những phiên họp thương lượng. Không rõ liệu công đoàn cấp trên có được trực tiếp tham gia cùng với công đoàn cơ sở hay thay mặt cho công đoàn cơ sở để tiến hành thương lượng tập thể với tư cách là một quá trình tương tác hay chỉ tham dự những phiên họp thương lượng như là những quan sát viên? Không rõ liệu công đoàn cơ sở có thể thuê hoặc ủy quyền cho những nhà đàm phán chuyên nghiệp tiến hành thương lượng tập thể hay không? Trên thực tế, đã có nhiều trường hợp, người sử dụng lao động từ chối sự tham gia trực tiếp của công đoàn cấp trên hoặc sự tham gia của những người không phải là đoàn viên hoặc người lao động được công đoàn cơ sở thuê hỗ trợ cho công đoàn cơ sở trong quá trình thương lượng tập thể[4]. Trong những trường hợp này, có thể nói, hệ thống pháp luật hiện hành về chủ thể có quyền thương lượng tập thể, đặc biệt là chủ thể đại diện bên phía người lao động, là không rõ ràng nếu không muốn nói là còn nhiều điểm chưa thật sự hợp lý, có nguy cơ ảnh hưởng không hề nhỏ tới hiệu quả thương lượng tập thể thực chất.

Kinh nghiệm quốc tế về vấn đề này cho thấy, chỉ có một số ít nước như Trung Quốc, Campuchia quy định thương lượng tập thể có thể được thực hiện ở những nơi chưa có công đoàn. Trong trường hợp này, thương lượng tập thể được thực hiện giữa đại diện được bầu của người lao động với người sử dụng lao động. Hầu hết các nước đều quy định chỉ có công đoàn mới là tổ chức đại diện của người lao động có quyền thương lượng tập thể với người sử dụng lao động. Lý do của quy định này xuất phát từ lý thuyết căn bản rằng, quyền thương lượng tập thể là quyền phát sinh từ quyền tổ chức của người lao động. Trong quan hệ lao động, người lao động có quyền tổ chức, tập hợp nhau lại thành công đoàn để có sức mạnh tập thể và dùng sức mạnh tập thể đó thương lượng với người sử dụng lao động một cách bình đẳng nhằm xác lập các điều kiện lao động trong quan hệ lao động. Một lý do khác là công đoàn nhiều nước cho rằng, việc cho phép các đại diện của người lao động, nhưng không phải là công đoàn cũng có quyền thương lượng tập thể có nguy cơ làm suy yếu công đoàn vì khi đó người lao động không còn nhu cầu thành lập hoặc gia nhập công đoàn nữa nên đã đấu tranh để không thừa nhận tư cách thương lượng tập thể của các đại diện không phải là công đoàn. Chính vì vậy, hình thức thương lượng tập thể chủ yếu chỉ được thừa nhận ở những nơi đã có công đoàn là một thực tiễn phổ biến và có lý do để có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, quan điểm của các quốc gia trên thế giới hầu như thừa nhận cơ chế đa nguyên công đoàn. Bản chất quyền thương lượng tập thể của công đoàn là quyền phái sinh từ quyền thành lập, gia nhập công đoàn của người lao động. Khi người lao động chưa thành lập hoặc gia nhập công đoàn có nghĩa là họ chưa “trao quyền” cho công đoàn thay mặt họ để thương lượng tập thể với người sử dụng lao động. Và khi đó công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở không có tư cách để tiến hành thương lượng tập thể. Việc pháp luật quy định một tổ chức không do người lao động thành lập hoặc tham gia có quyền thay mặt và đại diện cho họ là không có cơ sở. Tư cách thương lượng tập thể của công đoàn trong trường hợp này là hợp pháp nhưng chưa hợp lý nên rất khó để có được thương lượng tập thể có hiệu quả và thực chất trên thực tế. Hệ thống tiêu chuẩn lao động quốc tế của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thừa nhận hệ thống đại diện kép của người lao động, bao gồm đại diện công đoàn và các đại diện được bầu của người lao động mà không phải là công đoàn đều có thể có quyền thương lượng tập thể[5]. Tuy nhiên, các Công ước của ILO cũng đồng thời quy định khi trong một cơ sở có cả những đại diện công đoàn và những đại diện được bầu không phải là công đoàn thì phải bảo đảm rằng sự có mặt của các đại diện được bầu không được dùng để làm suy yếu vị trí của công đoàn và hai hệ thống đại diện này phải được khuyến khích để hợp tác với nhau.

Về vai trò và sự tham gia của công đoàn cấp trên trong quá trình thương lượng tập thể cấp doanh nghiệp. Do hầu hết các nước trên thế giới đều tồn tại hệ thống đa công đoàn nên việc xác định công đoàn có tư cách tiến hành thương lượng tập thể tương đối đa dạng và phức tạp. Một số nước quy định công đoàn nào có số lượng đoàn viên chiếm đa số lực lượng lao động (thường là trên 50%) thì có thể thay mặt tập thể lao động tiến hành thương lượng tập thể áp dụng cho toàn bộ người lao động của doanh nghiệp (Nhật Bản, Hàn Quốc). Một số nước khác như Philipines và Indonesia lại quy định chỉ có công đoàn nào đại diện nhất tức là có số lượng đoàn viên lớn nhất, mới có quyền thương lượng tập thể. Có nước như Campuchia lại quy định tất cả các công đoàn đều có quyền thương lượng tập thể và kết quả thương lượng của từng công đoàn với người sử dụng lao động chỉ áp dụng đối với đoàn viên của công đoàn đó[6]. Mặc dù việc xác định công đoàn có quyền thương lượng tập thể khá phức tạp và đa dạng như trên, song có một điểm chung, thống nhất ở tất cả các quốc gia là công đoàn có quyền thương lượng tập thể là tổ chức công đoàn có đoàn viên là người lao động đang được sử dụng bởi người sử dụng lao động. Vấn đề đặt ra là, người lao động trong các doanh nghiệp ở Việt Nam là đoàn viên của công đoàn nào? Từ đó, xác định công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở, hay công đoàn nào có quyền tiến hành thương lượng tập thể ở Việt Nam là phù hợp.

Đã có một số nghiên cứu phân tích về vấn đề này và chỉ ra rằng, ở Việt Nam chỉ có một tổ chức công đoàn thống nhất là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và tổ chức này nằm ngoài doanh nghiệp. Các Liên đoàn lao động, công đoàn ngành hay công đoàn cơ sở chỉ là các cấp công đoàn chứ không phải các công đoàn độc lập. Các nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng, công đoàn cơ sở thực chất chỉ là một cấp công đoàn hay có thể gọi là một “chi nhánh” công đoàn, không có toàn quyền ra quyết định, giống như các đơn vị công đoàn tại doanh nghiệp của nhiều nước ở châu Âu. Đặc điểm cơ cấu tổ chức của công đoàn này sẽ quyết định mô hình quan hệ lao động ở Việt Nam, theo đó, quan hệ lao động tập thể ở Việt Nam – là quan hệ giữa người sử dụng lao động và tổ chức công đoàn có đoàn viên đang được người sử dụng lao động đó sử dụng là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và tổ chức công đoàn này nằm ngoài doanh nghiệp. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam có thể phân cấp, ủy quyền cho bất kỳ cấp công đoàn cụ thể nào trong bốn cấp cơ bản của mình đại diện cho đoàn viên của mình tại các doanh nghiệp để tham gia vào các quá trình quan hệ lao động với người sử dụng lao động, trong đó có quá trình thương lượng tập thể. Việc pháp luật chỉ quy định công đoàn cơ sở có quyền thương lượng tập thể vô hình chung đã chia cắt các cấp công đoàn trong một tổ chức công đoàn thống nhất như là những công đoàn độc lập. Người sử dụng lao động có nghĩa vụ phải công nhận vai trò này của công đoàn cấp trên cơ sở. Bất cứ hành vi nào của người sử dụng lao động từ chối hoặc gây khó khăn cho công đoàn cấp trên cơ sở đại diện cho đoàn viên của mình tham gia vào các quá trình quan hệ lao động tại doanh nghiệp đều bị coi là hành vi phân biệt đối xử chống công đoàn.

Về sự tham gia của các chuyên gia đàm phán độc lập trong thương lượng tập thể, kinh nghiệm các nước cho thấy có sự phân biệt khá rõ ràng giữa hai khái niệm: Chủ thể có quyền thương lượng tập thể và những người trực tiếp tham gia đàm phán. Trong nhiều trường hợp, chủ thể có quyền thương lượng, thường là công đoàn, đồng thời là những người trực tiếp thương lượng. Trong nhiều trường hợp khác, chủ thể có quyền thương lượng có thể kêu gọi sự hỗ trợ về năng lực và kỹ năng của những chuyên gia độc lập từ bên ngoài. Theo quy định pháp luật lao động cho phép bên người sử dụng lao động có thể ủy quyền cho người khác thay mặt giám đốc tiến hành thương lượng tập thể với bên đại diện tập thể lao động, song lại không có quy định về vấn đề này đối với bên người lao động, gây khó khăn cho việc xử lý những trường hợp người sử dụng lao động từ chối sự tham gia của các chuyên gia đàm phán độc lập do công đoàn bên đại diện cho tập thể lao động mời.

2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện thương lượng tập thể từ phía tập thể lao động trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay

Theo quy định của pháp luật hiện hành, đại diện thương lượng tập thể của bên tập thể lao động trong phạm vi doanh nghiệp là tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở. Khoản 4 Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định: “Tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở là Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc Ban chấp hành công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở”. Thương lượng tập thể có vai trò quan trọng trong việc xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ. Pháp luật lao động hiện hành về cơ bản đã tạo ra một hành lang pháp lý tương đối đầy đủ cho hoạt động thương lượng tập thể trong quan hệ lao động, tuy nhiên pháp luật về đại diện thương lượng tập thể hiện nay vẫn còn tồn tại một số vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thượng lượng tập thể trong quan hệ lao động có hiệu quả, cụ thể:

Thứ nhất, cần quy định cụ thể hơn về vai trò của công đoàn cấp trên trực tiếp trong thương lượng tập thể tại doanh nghiệp đã có công đoàn cơ sở theo hướng công đoàn cấp trên trực tiếp có quyền thương lượng trực tiếp và đầy đủ đối với thương lượng tập thể ở những doanh nghiệp đã có tổ chức công đoàn. Bởi vì, thương lượng tập thể là quá trình đàm phán, thảo luận giữa người sử dụng lao động với tổ chức công đoàn đại diện cho tập thể lao động mà người sử dụng đó đang sử dụng. Trong điều kiện ở Việt Nam chúng ta chỉ có một tổ chức công đoàn thống nhất, đoàn viên của công đoàn cơ sở cũng là đoàn viên của công đoàn cấp trên và công đoàn cấp trên trực tiếp cần phải được quy định có toàn quyền tham gia trực tiếp và đầy đủ vào quá trình thương lượng tập thể tại đơn vị sử dụng lao động có đoàn viên của họ. Việc pháp luật hiện hành quy định công đoàn cấp trên trực tiếp chỉ có quyền hỗ trợ công đoàn cơ sở hoặc trực tiếp tham dự phiên họp thương lượng tập thể nếu có đề nghị của một trong hai bên thương lượng tập thể là đã làm hạn chế vai trò của công đoàn cấp trên trong việc tiến hành thương lượng tập thể. Bởi thương lượng tập thể luôn là một quá trình rất khó khăn và phức tạp chứ không phải chỉ đơn thuần là những phiên họp thương lượng. Do vậy pháp luật cần phải quy định công đoàn cấp trên có quyền trực tiếp tham gia cùng với công đoàn cơ sở, hoặc thậm chí thay mặt cho công đoàn cơ sở để tiến hành hoạt động thương lượng tập thể với tư cách một quá trình tương tác, chứ không chỉ tham dự những phiên họp thương lượng tập thể.

Thứ hai, bên cạnh đề xuất hoàn thiện các quy định đối với việc tăng quyền cho công đoàn cấp trên trong việc trực tiếp tham gia quá trình thương lượng tập thể tại đơn vị sử dụng lao động đã có tổ chức công đoàn thì cần phải nghiên cứu lại quy định việc công đoàn cấp trên có quyền đại diện cho tập thể lao động tại các doanh nghiệp chưa có công đoàn cơ sở tham gia thương lượng tập thể có hợp lý không? Quyền thương lượng tập thể của công đoàn là quyền phái sinh từ quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn của người lao động. Do vậy, khi người lao động chưa thành lập hoặc gia nhập công đoàn có nghĩa là họ chưa trao quyền cho công đoàn thay mặt họ để tiến hành thương lượng tập thể với người sử dụng lao động hoặc người đại diện cho người sử dụng lao động. Việc pháp luật quy định một tổ chức không do người lao động thành lập hoặc tham gia có quyền thay mặt và đại diện cho họ là chưa có cơ sở. Tư cách tham gia thương lượng tập thể của công đoàn trong trường hợp này là đúng với quy định của pháp luật nhưng chưa hợp lý nên rất khó để có được thương lượng tập thể có hiệu quả và thực chất trên thực tế.

Thứ ba, pháp luật cũng cần bổ sung quy định để phân biệt chủ thể thương lượng tập thể với chủ thể đàm phán thỏa ước lao động tập thể. Theo đó, chủ thể có quyền thương lượng tập thể bên phía tập thể lao động là tổ chức công đoàn mà những người lao động đó là đoàn viên. Tuy nhiên, những người trực tiếp tham gia đàm phán thì có thể không nhất thiết phải là những người của tổ chức công đoàn này. Trong nhiều trường hợp, chủ thể có quyền thương lượng đồng thời là những người trực tiếp thương lượng. Trong nhiều trường hợp khác, chủ thể có quyền thương lượng có thể tìm kiếm sự hỗ trợ về năng lực và kỹ năng của những chuyên gia đàm phán độc lập từ bên ngoài. Do đó, pháp luật cần phải quy định cho phép các bên thương lượng có quyền trực tiếp hoặc ủy quyền cho người khác tham gia đàm phán, điều này sẽ là cơ sở cho sự mở đường tham gia của các nhà đàm phán chuyên nghiệp, độc lập vào quá trình thương lượng góp phần nâng cao tính hiệu quả và thực chất trên thực tế của thương lượng tập thể trong quan hệ lao động./.

ThS. Nguyễn Huy Khoa

Đại học Công đoàn



[1] Điều 66, Bộ luật Lao động năm 2012.

[2] Khoản 1, Điều 68 Bộ luật Lao động năm 2012

[3] Khoản 2, Điều 72 Bộ luật Lao động năm 2012

[4] Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam – Dự án Quan hệ lao động Việt Nam/ILO (2012), Báo cáo sơ kết thực hiện thí điểm đổi mới cách thức tập hợp đoàn viên và tăng cường mối liên kết giữa công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở với công đoàn cơ sở và người lao động tại doanh nghiệp, Hà Nội năm 2012.

[5] Công ước số 98 của ILO về quyền tổ chức và thương lượng tập thể, 1949.

[6] Điều 283, Luật Lao động Vương quốc Campuchia năm 1997.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự cần gắn với nâng cao trình độ, năng lực, đạo đức của cán bộ thi hành án

23/01/2015

Thi hành án dân sự là hoạt động đưa bản án, quyết định có hiệu lực thi hành ra thực hiện trong thực tế, nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước; quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đây là hoạt động có ý nghĩa rất lớn trong đời sống xã hội. Giáo sư James F Harrigan, chuyên gia tư vấn pháp lý cho cơ quan thi hành án San Francisco, California, Hoa Kỳ cho rằng: “Việc thi hành các bản án của quốc gia là yếu tố quan trọng nhất trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Tất cả các hệ thống pháp luật đều dựa vào các Tòa án để giải thích pháp luật bằng cách áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp liên quan đến cá nhân, tổ chức và nhà nước. Việc thực hiện các quyết định đã xem xét của Tòa án đạt được bằng nỗ lực pháp luật và sự tham gia của các bên tranh chấp chỉ được công nhận trong việc thi hành các bản án của Tòa án được đưa ra để giải quyết các tranh chấp. Việc thi hành đó, tiếp theo quá trình, là một phần không kém quan trọng. Nếu bản án không được thi hành, có nghĩa pháp luật mà bản án căn cứ vào không có ý nghĩa trên thực tế. Vì lý do đó, có một khái niệm riêng giữa hệ thống luật chung và luật dân sự khác là bản án phải được coi là chung thẩm, có giá trị ràng buộc, và có thể thi hành ngay sau khi ban hành, và việc thi hành án là quyền ưu tiên cao nhất của một hệ thống pháp luật”[1].

Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự được Nhà nước trao quyền để đưa các bản án, quyết định có hiệu lực thi hành của Tòa án; Trọng tài thương mại; Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra thực hiện trong thực tế, do vậy, việc nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự không thể không chú trọng đến việc nâng cao hiệu quả công tác của chấp hành viên. Trong những năm vừa qua, Đảng, Nhà nước, các cơ quan thi hành án dân sự đã có những quan tâm đáng kể để nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn cũng như bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp cho chấp hành viên, tuy nhiên, tình trạng nhiều cơ quan thi hành án còn thiếu cán bộ để đảm nhận nhiệm vụ, nhiều chấp hành viên chưa đủ trình độ chuyên môn để thực hiện tốt công việc, tình trạng một số chấp hành viên vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp vẫn còn xảy ra, điều này ảnh hưởng xấu đến hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự, tạo dư luận không tốt trong xã hội đối với cơ quan thi hành án dân sự. Bài viết này tác giả muốn bàn luận một số vấn đề về căn nguyên dẫn đến tình trạng đội ngũ chấp hành viên hiện nay vừa thiếu, một số vẫn còn yếu về chuyên môn, nghiệp vụ như trong các báo cáo của Bộ Tư pháp đề cập.

1. Đội ngũ chấp hành viên và kết quả thực hiện công việc[2]

1.1. Đội ngũ chấp hành viên

Năm 1995 toàn Ngành Thi hành án dân sự có 1.480 chấp hành viên, chấp hành viên trưởng, đến hết năm 2002, các cơ quan thi hành án dân sự trong toàn quốc có 1.920 chấp hành viên với 306 chấp hành viên cấp tỉnh, 1.614 chấp viên cấp huyện và 2.437 cán bộ nghiệp vụ. Năm 2008, cả nước có 2.801 chấp hành viên (gồm 387 chấp hành viên cấp tỉnh và 2.414 chấp hành viên cấp huyện), khoảng trên 90% có trình độ cử nhân Luật. Đến hết năm 2012, cả nước hiện có 3.699 chấp hành viên, trong đó có trên 600 trường hợp được bổ nhiệm thông qua thi tuyển theo quy định của Luật Thi hành án dân sự. Riêng năm 2012, Học viện Tư pháp đã mở lớp đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ chấp hành viên cho trên 300 học viên; Bộ Tư pháp cũng đã chỉ đạo thực hiện 14 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, quản lý nhà nước cho công chức thi hành án dân sự; triển khai tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chứng chỉ chấp hành viên cao cấp, trung cấp, sơ cấp đối với 1.380 trường hợp; bồi dưỡng, đào tạo nghiệp vụ thư ký thi hành án đối với 100 trường hợp; phối hợp đào tạo, bồi dưỡng chứng chỉ quản lý nhà nước chương trình chuyên viên đối với 200 trường hợp và chương trình cao cấp lý luận chính trị đối với 135 trường hợp. Gần như 100% chấp hành viên đều đã có bằng cử nhân luật. 100 % số cán bộ tham gia thi tuyển, bổ nhiệm chấp hành viên theo quy định mới của Luật Thi hành án dân sự đều phải có trình độ cử nhân luật và hầu hết đều phải qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ chấp hành viên (chỉ trừ những trường hợp do yêu cầu tổ chức được điều động đến làm thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự được miễn tiêu chuẩn bồi dưỡng nghiệp vụ chấp hành viên).

1.2. Tình hình vi phạm pháp luật

Trong bốn năm (2010 – 2013) các cơ quan có thẩm quyền đã xử lý kỷ luật 213 cán bộ thi hành án, trong đó, khiển trách 92 trường hợp; cảnh cáo 58 trường hợp; hạ bậc lương 06 trường hợp; giáng chức 03 trường hợp; cách chức 13 trường hợp; buộc thôi việc 16 trường hợp; hạ bậc lương 03 trường hợp; tạm đình chỉ công tác 24 trường hợp, do bị khởi tố hình sự. Năm 2014, có 98 trường hợp cán bộ vi phạm kỷ luật, trong đó có 10 trường hợp bị xử lý hình sự.

1.3. Kết quả thi hành án

Từ năm 1993 đến tháng 6/2014 có thể nhận thấy đội ngũ chấp hành viên ngày càng được nâng lên cả về số lượng lẫn chất lượng, phần nào đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ. Kết quả thi hành án dân sự ngày càng được nâng cao, năm sau cao hơn năm trước, điều này chứng tỏ phần nào về hiệu quả, năng lực công tác của chấp hành viên, tuy nhiên tình trạng việc thi hành án còn tồn đọng, chuyển sang năm sau vẫn còn cao. Tình trạng vi phạm pháp luật trong đội ngũ chấp hành viên vẫn còn xảy ra.

2. Nguyên nhân tồn tại

Những vấn đề còn tồn tại trong thi hành án dân sự xuất phát từ nhiều nguyên nhân, như do số việc yêu cầu thi hành án hàng năm tăng lên đáng kể, số lượng việc thi hành án năm trước chuyển sang năm sau, khủng hoảng kinh tế, ý thức chấp hành pháp luật chưa cao của người phải thi hành án… Tuy nhiên, một trong những nguyên nhân chủ yếu chính là khâu cán bộ, đặc biệt là từ bộ phận chấp hành viên.

Một là,trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của nhiều chấp hành viên chưa đáp ứng được đòi hỏi đặt ra trong thực tiễn

Một chấp hành viên, để thực hiện tốt công việc của mình, cần có rất nhiều yếu tố: (i) Nắm vững pháp luật chuyên ngành về thi hành án dân sự. Một thực trạng hiện nay ở Việt Nam, nguồn tuyển cán bộ ở các cơ quan thi hành án dân sự chủ yếu là các cử nhân luật hệ chính qui ở các cơ sở đào tạo luật trong nước, tuy nhiên, phần lớn các cơ sở đào tạo luật hiện nay lại không trang bị kiến thức về pháp luật thi hành án cho sinh viên[3]. Do vậy, ngay từ đầu vào tuyển dụng cán bộ thi hành án dân sự, phần lớn các cán bộ này chưa có kiến thức nền tảng về thi hành án dân sự. (ii) Thi hành một việc thi hành án dân sự, chấp hành viên ngoài nắm vững chuyên môn về Luật Thi hành án dân sự, cần thiết phải nắm vững kiến thức các ngành luật liên quan. Có thể nói, chấp hành viên cần phải có kiến thức của gần như tất cả các ngành luật hiện nay của Việt Nam. Do đó, việc đào tạo, bồi dưỡng cũng như ý thức tự tìm tòi, học hỏi là yêu cầu cần thiết phải được thực hiện thường xuyên; (iii) Ngoài kiến thức pháp luật, kiến thức về kinh tế, khoa học, xã hội cũng phải được trang bị cho các chấp hành viên, bởi lẽ, hoạt động thi hành án dân sự liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, để làm tốt công việc, chấp hành viên không thể thiếu những kiến thức nền tảng về những vấn đề này. Chẳng hạn, để kê biên xử lý vốn góp, kê biên, xử lý máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ, không thể thiếu kiến thức về thương mại, về kỹ thuật… (iv) Kỹ năng về giao tiếp, ứng xử cũng đóng vai trò quan trọng để chấp hành viên hoàn thành tốt công việc của mình hay không. Hoạt động nghề nghiệp của chấp hành viên cần sự phối hợp với nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức, thường liên quan đến nhiều thành phần khác nhau trong xã hội, vì vậy kỷ năng giao tiếp, ứng xử trong công việc rất quan trọng. Tóm lại, để trở thành một chấp hành viên giỏi, hoàn thành tốt, xuất sắc công việc của mình, tự bản thân mỗi chấp hành viên phải nỗ lực học tập, rèn luyện để trang bị kỷ năng cũng như kiến thức cho mình, đồng thời, cơ quan quản lý cũng cần phải chú trọng đến khâu đào tạo, bồi dưỡng cho chấp hành viên. Hiện nay, Học viện Tư pháp vẫn thường xuyên tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ thi hành án, tuy nhiên, vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn đối với công tác thi hành án dân sự.

Hai là, thi hành án dân sự là nghề vất vả, nguy hiểm, nhưng chế độ tuyển dụng, đãi ngộ chưa tương xứng, do đó, tình trạng thiếu chấp hành viên, chấp hành viên phải thi hành quá nhiều việc trong một năm vẫn xảy ra

Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả cũng như chất lượng công việc đối với các chấp hành viên[4]. Hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động đặc thù. Tính đặc thù thể hiện ở chổ: Đây là hoạt động để bảo vệ quyền lợi cho chủ thể này, nhưng lại dễ xâm phạm quyền lợi cho chủ thể khác, là hoạt động thường ảnh hưởng đến quyền lợi của nhiều chủ thể khác nhau, do đó, việc chống đối, tranh chấp, khiếu nại là không tránh khỏi, điều này phần nào tạo áp lực rất lớn đến chấp hành viên khi thực hiện công việc. Cho nên, cơ chế bảo vệ cũng như cơ chế miễn trừ trách nhiệm cho chấp hành viên trong một số trường hợp cần được đặt ra.

Ba là, ý thức chấp hành pháp luật ở một số chấp hành viên chưa cao

Tình trạng chấp hành viên cố tình vi phạm pháp luật, như chậm ra quyết định, ra quyết định trái pháp luật, sách nhiễu… vẫn còn. Điều này cũng góp phần không nhỏ làm giảm hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự.

3. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động đối với chấp hành viên

Thứ nhất, về công tác đào tạo cán bộ

– Các cơ sở đào tạo luật cần bổ sung môn học Luật Thi hành án dân sự vào trong chương trình đào tạo cử nhân luật của mình. Một thực tế là do áp lực của chương tình khung trong đào tạo, áp lực của việc giảm thời gian đào tạo cử nhân luật, do vậy, nhiều cơ sở đào tạo không xây dựng môn học này là môn học bắt buộc đối với sinh viên của toàn trường. Tuy nhiên, thi hành án là khâu quan trọng trong đời sống xã hội, không chỉ ở Việt Nam mà ở các nước trên thế giới. Việc đưa bản án, quyết định có hiệu lực thi hành ra thi hành có thể xem là “nghĩa vụ của mỗi quốc gia”. Để thi hành án có hiệu quả trên thực tế, không thể thiếu được yếu tố con người, đặc biệt là đội ngũ chấp hành viên, vì vậy, cần chú trọng đào tạo kiến thức về Luật Thi hành án cho sinh viên;

– Cần tăng cường, mở rộng hơn nữa đối tượng được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ cũng như chương trình đào tạo, bồi dưỡng ở Học viện Tư pháp. Đặc biệt cần xây dựng và dành nhiều thời gian cho môn học về kỷ năng giao tiếp, ứng xử trong hoạt động thi hành án;

– Cơ quan quản lý cần thường xuyên họp rút kinh nghiệm trong hoạt động thi hành án, chú trọng đến việc rèn luyện về mặt đạo đức cho cán bộ mình, kịp thời khen thưởng những cán bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, kịp thời xử lý những cán bộ vi phạm. Với những cán bộ có nhiều đơn, thư khiếu nại, cần chuyển sang bộ phận khác;

– Cần có cơ chế để tuyển dụng, giữ nhân tài cho các cơ quan thi hành án, đặc biệt là chú trọng đến chế độ đãi ngộ để thu hút người tài vào làm việc và đảm bảo cho họ yên tâm trong công tác để cống hiến trí lực, tài lực cho cơ quan.

Thứ hai, về nhiệm vụ, quyền hạn của chấp hành viên

– Cần tăng thẩm quyền cho chấp hành viên khi thực hiện công việc. Thực tế hiện nay một số qui định của pháp luật thi hành án dân sự chưa tạo được hành lang pháp lý để chấp hành viên thực hiện tốt công việc của mình. Chẳng hạn trường hợp phát hiện người phải thi hành án đang giữ tiền, tài sản trong người, nếu họ không tự nguyện giao nộp, chưa có cơ chế để chấp hành viên thu giữ số tiền này, hay nhiều trường hợp người phải thi hành án, cá nhân, tổ chức có liên quan không chấp hành quyết định của chấp hành viên, cơ chế để chấp hành viên xử lý cũng chưa thỏa đáng… Pháp luật một số nước trên thế giới như Cộng hòa Liên bang Đức, Thụy Điển quy định chấp hành viên có quyền khám người, khám xét nơi ở của đương sự; có quyền yêu cầu cảnh sát áp giải người phải thi hành án nếu không chấp hành lệnh của chấp hành viên. Với những quy định như vậy, hiệu quả thực hiện công việc của chấp hành viên đạt được rất cao. Đây là kinh nghiệm để chúng ta có thể quy định tăng thêm quyền hạn cho chấp hành viên.

– Hiệu quả công việc của chấp hành viên thường bị chi phối bởi cá nhân, cơ quan, tổ chức khác. Đặc biệt là liên quan đến việc xác minh tài sản, điều kiện thi hành án, phối hợp cưỡng chế, nắm bắt thông tin về tài sản để kê biên… Do đó trong công việc, nhiều trường hợp dễ dẫn đến sai sót do khách quan. Tác giả rất tán đồng với nhiều quan điểm cho rằng, trong xét xử, cơ chế xét xử theo hai cấp, do đó, nếu tòa sơ thẩm xét xử sai, còn phiên tòa phúc thẩm để khắc phục, sửa chữa, đồng thời còn có thể sửa chữa ở phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm, còn trong hoạt động thi hành án, rất khó để khắc phục, sửa chữa sai sót nếu có. Do vậy, để giảm áp lực trong công việc, tạo điều kiện cho chấp hành viên yên tâm trong công tác, cần có cơ chế miễn trừ trách nhiệm cho chấp hành viên đối với những lỗi vô ý, chẳng hạn như lỗi về khấu trừ sai, kê biên sai tài sản do cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp thông tin không chính xác,…

– Hoạt động thi hành án dân sự của chấp hành viên là công việc khó khăn, nguy hiểm, điều này không chỉ đối với chính các chấp hành viên mà còn có thể xảy ra với cả gia đình, người thân của họ. Do vậy, cần xây dựng cơ chế để bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự cho chấp hành viên, đặc biệt là chế độ bảo hiểm cho công việc, tính mạng, sức khỏe.

Tóm lại, để nâng cao hiệu quả trong hoạt động thi hành án dân sự, không thể không chú trọng nâng cao năng lực, trình độ cũng như phẩm chất đạo đức của cán bộ thi hành án, đồng thời phải có chế độ, chính sách để thu hút nhân tài, bên cạnh đó cũng cần có cơ chế để phát hiện, xử lý kịp thời các hành vi sai phạm của chấp hành viên, cán bộ thi hành án dân sự. Đây cần được xem là công tác trọng tâm đối với các cơ quan thi hành án dân sự./.

Lê Vĩnh Châu

Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh


[1] Báo cáo và các đề xuất của Star Việt Nam về dự thảo Bộ luật thi hành án của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Vụ Pháp luật Dân sự – Kinh tế, Bộ Tư pháp.

[2] Số liệu báo cáo tổng kết công tác thi hành án của Bộ Tư pháp.

[3] Chẳng hạn như ở trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm đào tạo Luật của phía nam, môn Luật Thi hành án dân sự chỉ là môn học bắt buộc đối với sinh viên chính qui của Khoa Luật Dân sự và sinh viên các chương trình đặc biệt.

[4]Một khảo sát tại trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh năm 2014, với gần 500 sinh viên chuẩn bị tốt nghiệp, chỉ có 7 sinh viên có ý định xin vào cơ quan thi hành án dân sự. Lý do không vào làm việc tại cơ quan thi hành án dân sự chủ yếu do thu nhập thấp, không phù hợp với bản thân và khó thăng tiến trong sự nghiệp.

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng

27/05/2015

Những năm gần đây, tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng có những diễn biến phức tạp. Thời gian qua, các cơ quan chức năng đã khởi tố nhiều vụ án lớn trong lĩnh vực ngân hàng như: Vụ án Huỳnh Thị Huyền Như và đồng phạm tham nhũng, lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra tại Phòng Giao dịch Điện Biên Phủ và Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam chi nhánh Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh; vụ án Nguyễn Đức Kiên (Bầu Kiên)…

Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm thời gian qua cho thấy, tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng đã xảy ra với hầu hết các loại hành vi cấu thành các tội được quy định tại Mục A Chương XXIBộ luật Hình sự Việt Nam như: Tội tham ô tài sản (Điều 278); tội nhận hối lộ (Điều 279); tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 280); tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 281); tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 282); tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 283); tội giả mạo trong công tác (Điều 284).

Trong công cuộc đấu tranh phòng chống với tội phạm nói chung và tội phạm ngân hàng nói riêng Bộ luật Hình sự có vai trò rất quan trọng, là công cụ pháp lý hữu hiệu. Do vậy, để đấu tranh phòng chống có hiệu quả với loại tội phạm này, Bộ luật Hình sự hiện hành cần tiếp tục được hoàn thiện theo hướng tăng nặng trách nhiệm hình sự, bổ sung hình phạt tịch thu tài sản. Đồng thời, các quy định về chứng cứ và chứng minh trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 cũng cần sửa đổi, bổ sung theo hướng thừa nhận những thông tin, tài liệu thu thập qua sử dụng công nghệ thông tin là nguồn chứng cứ.

Tác giả Phùng Thị Thu Hường có bài viết: “Đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng” đã được đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật với những nội dung chính sau: (1) Đặc trưng của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng; (2) Nguyên nhân cơ bản của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng; (3) Một số giải pháp nhằm đấu tranh phòng, chống hiệu quả tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng. Để biết thêm những nội dung mà tác giả đã trao đổi, mời độc giả đón đọc bài viết được đăng trên Số định kỳ 64 trang tháng 5/2015 của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.

Vũ Hải Việt

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Pháp luật về nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam trước yêu cầu hội nhập

22/01/2015

Nhìn chung, các văn bản quy phạm pháp luật về xuất nhập cảnh đã ban hành phù hợp với đường lối đối ngoại, đường lối phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, đáp ứng yêu cầu thu hút người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại Việt Nam để tham quan du lịch, đầu tư, kinh doanh, lao động, học tập, nghiên cứu khoa học… đồng thời đáp ứng được yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, quá trình thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực này đã cho thấy nhiều quy định còn bất cập, không thống nhất giữa các văn bản, gây khó khăn cho công tác quản lý của các cơ quan chức năng.

Chính vì vậy, ngày 16/6/2014, Quốc hội đã thông qua Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015. Nội dung của Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam đã kế thừa những quy định trước còn phù hợp, đồng thời bổ sung những quy định mới để giải quyết vướng mắc, bất cập. Những quy định mới phù hợp thông lệ quốc tế và tình hình thực tế ở trong nước sẽ góp phần nâng cao chất lượng quản lý nhà nước, nhanh chóng đi vào cuộc sống, góp phần thu hút người nước ngoài đến Việt Nam, phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội. Liên quan đến vấn đề này, tác giải Phạm Hoài Linh đã có bài viếtPháp luật về nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam trước yêu cầu hộinhập trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số định kỳ 64 trang tháng 12/2014. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

Trang Nhi

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com

Bất cập trong thực hiện tuyển dụng không qua thi tuyển đối với công chức, viên chức

09/03/2015

Tuyển dụng là một yêu cầu cấp thiết và bắt buộc trong công tác quản lý, sử dụng công chức, viên chức. Để có được một đội ngũ công chức, viên chức đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới thì vai trò của công tác tuyển dụng và các cơ quan liên quan trong công tác tuyển dụng là rất quan trọng. Thời gian qua, Chính phủ đã ban hành rất nhiều văn bản pháp quy hướng dẫn thi hành Luật Cán bộ, công chức năm 2008, và Luật Viên chức năm 2010 nhằm cụ thể hóa các quy định của Luật, trong đó, đáng quan tâm nhất là Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức và Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng các Nghị định này và các văn bản có liên quan đã nảy sinh một số vướng mắc, bất cập cần được các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn, sửa đổi cho phù hợp, đặc biệt là trong việc áp dụng thực hiện tuyển dụng không qua thi tuyển đối với công chức, viên chức.

Thứ nhất, việc áp dụng các Nghị định số 29/2012/NĐ-CP, Nghị định số 24/2010/NĐ-CP bị “vướng” bởi các quy định tại Nghị định số 158/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 của Chính phủ quy định danh mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức và Nghị định số 150/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 158/2007/NĐ-CP. Theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 14 Nghị định số 29/2012/NĐ-CP về xét tuyển đặc cách đối với viên chức thì “người có kinh nghiệm công tác trong ngành, lĩnh vực cần tuyển dụng từ 03 năm trở lên, đáp ứng được ngay yêu cầu vị trí việc làm cần tuyển dụng”. Tuy nhiên, theo quy định tại Nghị định số 158/2007/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung) thì “thời hạn chuyển đổi vị trí công tác là 03 năm (đủ 36 tháng) đối với cán bộ, công chức, viên chức chuyên môn, nghiệp vụ có liên quan đến việc quản lý ngân sách, tài sản của Nhà nước, trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân“.Như vậy, một viên chức đã làm một công việc đủ 03 năm (đối với các vị trí thuộc danh mục phải chuyển đổi vị trí công tác) không thể có cơ hội để được tham gia xét tuyển đặc cách theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 14 Nghị định số 29/2012/NĐ-CP vì đã phải chuyển đổi vị trí công tác khác và như thế sẽ không đảm bảo yêu cầu về “kinh nghiệm” trong ngành, lĩnh vực cần tuyển dụng.

Tương tự như vậy, tại điểm c, khoản 1 điều 19 Nghị định số 24/2010/NĐ-CP hướng dẫn về trường hợp đặc biệt trong tuyển dụng quy định: “người có trình độ đào tạo từ đại học trở lên, có kinh nghiệm công tác trong ngành, lĩnh vực cần tuyển dụng từ 05 năm trở lên, đáp ứng được ngay yêu cầu vị trí việc làm cần tuyển dụng” thì sẽ được cơ quan có thẩm quyền xem xét tiếp nhận không qua thi tuyển đối với công chức. Như trên đã phân tích, trong trường hợp một công chức phải đảm nhận nhiệm vụ thuộc danh mục vị trí phải chuyển đổi vị trí công tác theo định kỳ thì khi chưa đủ thời gian 05 năm đã phải thực hiện việc chuyển đổi sang vị trí công tác mới và như vậy sẽ không thể đảm bảo yêu cầu về thời gian kinh nghiệm trong lĩnh vực công tác để được xem xét tuyển dụng, tiếp nhận không qua thi tuyển (sau 03 năm đã phải chuyển đổi vị trí công tác và phải thực hiện nhiệm vụ tại vị trí công tác mới). Việc quy định tại các văn bản như trên còn bất hợp lý, hạn chế trong quá trình áp dụng đối với một số trường hợp cụ thể như làm công tác kế toán, thanh tra…, hạn chế quyền lợi thiết thực của các đối tượng được thụ hưởng.

Theo chúng tôi, các cơ quan có thẩm quyền cần sớm nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan theo hướng “mở” đối với các đối tượng phải thực hiện chuyển đổi vị trí công tác. Theo đó, nên quy định “cộng dồn” và “bảo lưu” thời gian mà trước đây công chức, viên chức đã thực hiện nhiệm vụ tại các vị trí trước khi thực hiện việc chuyển đổi vị trí công tác để làm cơ sở cho việc xem xét tuyển dụng không qua thi tuyển đối với các trường hợp này. Như vậy, sẽ đảm bảo quyền lợi và chế độ, sự công bằng trong việc xét tuyển dụng giữa các trường hợp có liên quan. Cùng với đó, các cơ quan có thẩm quyền cũng nên quy định việc xem xét tuyển dụng không qua thi tuyển đối với công chức, viên chức chỉ áp dụng đối với trường hợp vì lý do đặc biệt mà các ngành, địa phương chưa tổ chức thi tuyển trong thời gian từ 03 năm trở lên, như vậy mới hợp lý và tránh được những hạn chế không đáng có trong công tác tuyển dụng công chức, viên chức.

Thứ hai, việc áp dụng các Nghị định số 29/2012/NĐ-CP, Nghị định số 24/2010/NĐ-CP có thể sẽ tạo ra “cục bộ” trong công tác tuyển dụng công chức, viên chức. Như đã nêu ở trên, một công chức, viên chức để được xem xét tuyển dụng không qua thi tuyển sẽ phải đáp ứng yêu cầu “03 năm kinh nghiệm … tại một vị trí đối với viên chức” và “05 năm kinh nghiệm … tại một vị trí đối với công chức”. Cùng với đó, theo quy định và tinh thần của các Nghị định về tuyển dung, quản lý, sử dụng công chức, viên chức thì việc tuyển dụng phải căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế của cơ quan sử dụng, cơ quan sử dụng có trách nhiệm xác định, mô tả vị trí việc làm, báo cáo cơ quan quản lý phê duyệt để làm căn cứ tuyển dụng. Như vậy, việc đăng ký nhu cầu tuyển dụng công chức, viên chức theo định kỳ hàng năm là phụ thuộc vào “ý chí chủ quan” của cơ quan sử dụng công chức, viên chức. Vấn đề đặt ra ở đây là, nếu các cơ quan sử dụng công chức, viên chức không xây dựng kế hoạch tuyển dụng hàng năm trình cơ quan có thẩm quyền để tiến hành tuyển dụng (trong khi đó chỉ tiêu biên chế vẫn còn và đang thực hiện chế độ hợp đồng lao động đối với một số trường hợp) thì giải quyết như thế nào???

Theo quy định hiện hành thì việc này là “phụ thuộc” vào cơ quan sử dụng công chức, viên chức. Điều này phù hợp với quy định trong việc thực hiện quyền tự chủ về kinh phí, biên chế… trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao. Và cứ như thế, các cơ quan sử dụng công chức, viên chức “đợi” cho các trường hợp đang thực hiện chế độ hợp đồng lao động đủ thời gian 03 năm đối với viên chức, 05 năm đối với công chức để đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, tuyển dụng không qua thi tuyển đối với các trường hợp này. Đây là vấn đề đã và đang nảy sinh trên thực tế, làm ảnh hưởng đến việc cạnh tranh và cơ hội để được tuyển dụng đối với các trường hợp khác (đặc biệt là đối với các sinh viên mới ra trường, các trường hợp chưa đủ điều kiện về thời gian kinh nghiệm trong lĩnh vực công tác). Từ đó, cơ hội để được cống hiến, cơ hội tìm việc làm trong các cơ quan nhà nước đối với các trường hợp sinh viên mới tốt nghiệp là rất thấp và khó khăn. Thiết nghĩ, các cơ quan chức năng có thẩm quyền sớm quan tâm xem xét, hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Cần phải có chế tài, cơ chế phù hợp để hạn chế “cục bộ” trong công tác tuyển dụng công chức, viên chức. Bắt buộc các cơ quan sử dụng công chức, viên chức phải thực hiện việc đăng ký nhu cầu tuyển dụng (nếu còn chỉ tiêu biên chế), nếu không thực hiện sẽ tiến hành giảm chỉ tiêu biên chế do chưa có nhu cầu và để chuyển chỉ tiêu biên chế sang cho cơ quan, đơn vị khác. Có như vậy, mới hạn chế được những bất cập trong công tác tuyển dụng, tạo cơ sở cho việc công khai, minh bạch trong công tác tuyển dụng công chức, viên chức và tăng cơ hội được tuyển dụng cho các trường hợp sinh viên mới tốt nghiệp.

Nguyễn Xuân Viễn

Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum

Tham khảo thêm:

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com