Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.
Án lệ số 23/2018/AL về hiệu lực của hợp đồng
bảo hiểm nhân thọ khi bên mua bảo hiểm không đóng phí bảo hiểm do lỗi của doanh
nghiệp bảo hiểm
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao thông quangày 17 tháng 10
năm 2018 và được công bố theo Quyết định số 269/QĐ-CA ngày 06 tháng 11 năm 2018
của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án lệ:
Bản án dân sự phúc thẩm số
538/2009/DS-PT ngày 31-3-2009 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về vụ
án “Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm” giữa nguyên đơn là bà Phạm Thị T với bị đơn
là Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ P; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là
bà Vũ Thị Minh N.
Vị trí nội dung của án lệ:
Đoạn 4, 7, 8 phần “Nhận định
của Tòa án”.
Khái quát nội dung án lệ:
– Tình huống án lệ:
Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm
nhân thọ thể hiện người mua bảo hiểm lựa chọn hình thức thu phí bảo hiểm là tại
địa chỉ nhà của bên mua bảo hiểm. Đến thời hạn đóng phí bảo hiểm và trong thời
gian gia hạn đóng phí, nhân viên doanh nghiệp bảo hiểm không đến thu phí của
người mua bảo hiểm.
– Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, phải xác
định người mua bảo hiểm không có lỗi trong việc chưa đóng phí. Hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ không bị mất hiệu lực vì lý do bên mua bảo hiểm không đóng phí bảo hiểm
trong thời hạn theo thỏa thuận.
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
Điều 23 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 được sửa đổi, bổ
sung năm 2010.
Từ khóa của án lệ:
“Hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ”; “Hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ”; “Thời hạn đóng phí”; “Gia hạn
đóng phí”.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn bà Phạm Thị T
trình bày: Chồng của bà là Trần Hữu L có đăng ký mua bảo hiểm của Công ty trách
nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P. Chồng của bà bị tai nạn chết. Theo hợp đồng
bà là người thụ hưởng. Nay bà yêu cầu bị đơn trả số tiền bảo hiểm là 300 triệu
đồng và tiền lãi theo mức lãi suất cơ bản tính từ tháng 8-2005 đến nay là 126
triệu đồng, tổng cộng là 426 triệu đồng.
Bị đơn Công ty trách nhiệm
hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P có đại diện theo ủy quyền ông Nguyễn Quốc T trình bày:
Ông L phải nộp phí bảo hiểm lần II vào ngày 24-6-2005, sau đó được gia hạn thêm
hai tháng nhưng vẫn không nộp tiền. Ông L chết ngày 27-8-2005 là thời điểm hợp
đồng bảo hiểm đã mất hiệu lực 03 ngày. Vì thế bị đơn không chấp nhận trả tiền
theo yêu cầu của nguyên đơn.
Người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan bà Vũ Thị Minh N trình bày: Bà là đại lý của bị đơn, đã bán bảo hiểm
cho ông L. Bà thỏa thuận với ông L là đến kỳ thu phí bảo hiểm, bà sẽ trực tiếp
thu phí tại nhà ông L. Nhưng đến kỳ hạn cuối thu tiền bà phải đi học chính trị ở
tỉnh nên không thu phí được. Việc không nộp tiền được là do khách quan, nên bà
yêu cầu bị đơn phải trả tiền bảo hiểm cho nguyên đơn.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm
số 38/2008/DS-ST ngày 21-8-2008 của Toà án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí
Minh đã quyết định:
1. Không chấp nhận yêu cầu
của bà Phạm Thị T đòi Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P trả tiền
bảo hiểm và tiền lãi do chậm thanh toán là 426.000.000 đồng.
2. Về án phí: Bà Phạm Thị
T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 7.890.000 đồng, nhưng được khấu trừ số tiền
tạm ứng án phí đã nộp là 6.000.000 đồng theo biên lai thu tiền số 2185 ngày
09-6-2006 của Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Bà T còn phải nộp
1.890.000 đồng.
Án sơ thẩm còn tuyên quyền
kháng cáo của các đương sự.
Ngày 01-9-2008 bà Phạm Thị
T kháng cáo.
Tại phiên toà phúc thẩm
Nguyên đơn không rút yêu
cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo.
Các đương sự không thỏa
thuận được với nhau về việc giải quyết việc kiện.
Bà T trình bày yêu cầu
kháng cáo là đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà buộc Công ty
trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P trả tiền bảo hiểm và tiền lãi do chậm
thanh toán là 426.000.000 đồng. Với lý do vì người của công ty không đến thu tiền
bảo hiểm chứ không phải bà không đóng. Luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
cho bà T đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu này của bà T.
Ông Nguyễn Quốc T đại diện
của Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P cùng luật sư bảo vệ quyền lợi
ích hợp pháp đề nghị hội đồng xét xử y án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Sau khi nghiên cứu
tài liệu có trong hồ sơ vụ án và thẩm tra các chứng cứ tại phiên tòa và căn cứ
vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[2] Về hình thức: Đơn
kháng cáo của bà Phạm Thị T làm trong hạn luật định, hợp lệ.
[3] Về nội dung:
[4] Căn cứ hồ sơ yêu cầu
bảo hiểm nhân thọ (bút lục 15-17) thể hiện địa chỉ để Công ty trách nhiệm hữu hạn
Bảo hiểm nhân thọ P thu phí là tại nhà số 231 ấp 3, xã B, huyện G, tỉnh Bến Tre
là nhà của ông L. Điều này cũng phù hợp với lời khai của bà N là đại lý bán bảo
hiểm và thu phí của Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P.
[5] Xét yêu cầu kháng cáo
của bà T cho rằng việc ông L không đóng phí bảo hiểm đúng hạn là do phía công
ty không cử người đến thu là có cơ sở như chứng cứ nêu trên.
[6] Căn cứ giấy xác nhận
của công an xã B cho thấy ông L chết vào ngày 27-8-2005 là do bất cẩn té đập đầu
chấn thương sọ não gây tử vong.
[7] Xét ông L đã ký hợp đồng
bảo hiểm thông qua hình thức hồ sơ yêu cầu bảo hiểm nhân thọ với mức bảo hiểm
là 300.000.000 đồng, việc ông L chưa đóng phí đợt 2 như đã phân tích ở trên là
không phải lỗi của ông L do đó yêu cầu kháng cáo của bà T buộc Công ty trách
nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P phải chi trả tiền bảo hiểm khi ông L tử vong
do tai nạn là có cơ sở để chấp nhận.
[8] Xét yêu cầu của đại
diện Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P cho rằng ông L không đóng
phí bảo hiểm đợt 2 hạn chót là ngày
24-8-2005 và ông L đã chết ngày 27-8-2005, như vậy hợp đồng bảo hiểm của
ông L đã hết hiệu lực là không có cơ sở. Bởi lẽ như đã phân tích ở trên, lý do
ông L không đóng phí bảo hiểm là do nhân viên công ty không đến thu phí. Điều
này cũng thể hiện rõ tại trang 5 quyển những thông tin khách hàng cần biết nêu
rõ việc thu phí tại nhà gồm có thu phí hàng quý, hàng 6 tháng, hàng năm, hoặc
cùng một địa chỉ có từ 2 hợp đồng trở lên, phù hợp với trường hợp của ông L đã
mua 03 hợp đồng của Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P là của ông
L, bà T, bà H. Do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của đại diện Công
ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P, cũng như lời đề nghị của luật sư bảo
vệ quyền lợi ích hợp pháp cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ
P.
[9] Xét yêu cầu của bà T
buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P phải trả tiền lãi chậm trả
từ 27-8-2005 đến ngày Tòa án xét xử là không có cơ sở. Vì tại giấy chứng nhận bảo
hiểm do Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P cấp cho ông L không thể
hiện điều khoản về lãi suất, vì vậy Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu này
của bà T.
[10] Do đó Hội đồng xét xử
chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bà T, sửa án sơ thẩm buộc Công ty
trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P phải trả tiền bảo hiểm theo hợp đồng tử
vong do tai nạn của ông L là 300.000.000 đồng mà người thụ hưởng là bà T.
[11] Án phí dân sự sơ thẩm
bà T và Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P phải chịu theo quy định
tại khoản 2 Điều 7 Nghị định 70/CP. Cụ thể bà T phải chịu án phí trên số tiền
lãi không được chấp nhận là 6.040.000 đồng. Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm
nhân thọ P phải chịu án phí trên số tiền phải chi trả cho bà T là 12.000.000 đồng.
[12] Do sửa án sơ thẩm
nên bà T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều
132 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Bởi các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng khoản 2 Điều 275
Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tuyên xử:
– Chấp nhận một phần yêu
cầu kháng cáo của bà Phạm Thị T.
– Sửa Bản án sơ thẩm số
38/2008/DS-ST ngày 21-8-2008 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
1. Chấp nhận một phần yêu
cầu của bà Phạm Thị T.
* Buộc Công ty trách nhiệm
hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P trả tiền bảo hiểm là 300.000.000 đồng (Ba trăm triệu
đồng) cho bà Phạm Thị T ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
* Kể từ ngày có đơn xin
thi hành án của nguyên đơn, nếu phía bị đơn không thi hành các khoản nêu trên
thì phải chịu lãi theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định tương
ứng với thời gian chưa thi hành án.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Phạm Thị T phải chịu án phí là 6.040.000 đồng (Sáu triệu không trăm bốn mươi
ngàn đồng), nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 6.000.000 đồng (Sáu
triệu đồng) theo biên lai thu tiền số 002185 ngày 09-6-2006 của Thi hành án dân
sự Thành phố Hồ Chí Minh. Bà T còn phải nộp 40.000 đồng (Bốn mươi ngàn đồng).
Công ty trách nhiệm hữu hạn
Bảo hiểm nhân thọ P phải nộp án phí là 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng).
3. Án phí dân sự phúc thẩm
bà T không phải nộp, hoàn lại cho bà T 50.000 đồng (Năm mươi ngàn đồng) tiền tạm
ứng án phí theo biên lai thu số 004852 ngày 09-9-2008 của Thi hành án dân sự Quận
1, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bản án phúc thẩm có hiệu
lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
NỘI DUNG ÁN LỆ
“[4] Căn cứ hồ sơ yêu
cầu bảo hiểm nhân thọ (bút lục 15-17) thể hiện địa chỉ để Công ty trách nhiệm hữu
hạn Bảo hiểm nhân thọ P thu phí là tại nhà số 231 ấp 3, xã B, huyện G, tỉnh Bến
Tre là nhà của ông L. Điều này cũng phù hợp với lời khai của bà N là đại lý bán
bảo hiểm và thu phí của Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P.
[7] Xét
ông L đã ký hợp đồng bảo hiểm thông qua hình thức hồ sơ yêu cầu bảo hiểm nhân
thọ với mức bảo hiểm là 300.000.000 đồng, việc ông L chưa đóng phí đợt 2 như đã
phân tích ở trên là không phải lỗi của ông L do đó yêu cầu kháng cáo của bà T
buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P phải chi trả tiền bảo hiểm
khi ông L tử vong do tai nạn là có cơ sở để chấp nhận.
[8] Xét yêu cầu của đại diện Công ty trách nhiệm
hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P cho rằng ông L không đóng phí bảo hiểm đợt 2 hạn
chót là ngày24-8-2005 và ông L
đã chết ngày 27-8-2005, như vậy hợp đồng bảo hiểm của ông L đã hết hiệu lực là
không có cơ sở. Bởi lẽ như đã phân tích ở trên, lý do ông L không đóng phí bảo
hiểm là do nhân viên công ty không đến thu phí. Điều này cũng thể hiện rõ tại
trang 5 quyển những thông tin khách hàng cần biết nêu rõ việc thu phí tại nhà gồm
có thu phí hàng quý, hàng 6 tháng, hàng năm, hoặc cùng một địa chỉ có từ 2 hợp
đồng trở lên, phù hợp với trường hợp của ông L đã mua 03 hợp đồng của Công ty
trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P là của ông L, bà T, bà H. Do đó Hội đồng
xét xử không chấp nhận yêu cầu của đại diện Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm
nhân thọ P, cũng như lời đề nghị của luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho
Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P.”
Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!