Cập nhật Án lệ 05/2016/AL về đóng góp quản lý di sản thừa kế mới nhất

Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.

Án lệ số 05/2016/AL

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua
ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06
tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm số 39/2014/DS-GĐT ngày
09-10-2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp
di sản thừa kế” tại Thành phố Hồ Chí Minh giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị
Thưởng, bà Nguyễn Thị Xuân với bị đơn là ông Nguyễn Chí Trải (Cesar Trai Nguyen), chị Nguyễn Thị Thuý Phượng, bà
Nguyễn Thị Bích Đào; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Nguyễn Thị Xê,
Nguyễn Chí Đạt (Danforth Chi Nguyen), Nguyễn Thuần Lý, Nguyễn Thị Trinh, Nguyễn
Chí Đức, Nguyễn Thị Thuý Loan, Phạm Thị Liên, Phạm Thị Vui, Trần Đức Thuận,
Trần Thành Khang.

Khái quát nội dung của án lệ:

Trong
vụ án tranh chấp di sản thừa kế, có đương sự thuộc diện được hưởng một phần di
sản thừa kế và có công sức đóng góp vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế
nhưng không đồng ý việc chia thừa kế (vì cho rằng đã hết thời hiệu khởi kiện về
thừa kế), không có yêu cầu cụ thể về việc xem xét công sức đóng góp của họ vào
việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế; nếu Tòa án quyết định việc chia thừa kế
cho các thừa kế thì phải xem xét về công sức đóng góp của họ vì yêu cầu không
chia thừa kế đối với di sản thừa kế lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

Khoản
1 Điều 5 và Điều 218 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004;

Từ khóa của án lệ:

“Yêu
cầu khởi kiện”; “Yêu cầu phản tố”; “Công sức đóng góp vào việc quản lý, tôn tạo
di sản thừa kế”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại
đơn khởi kiện ngày 18-7-2008 và trong quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn Thị
Thưởng, bà Nguyễn Thị Xuân trình bày: Cha mẹ các bà là cụ Nguyễn Văn Hưng (chết
năm 1978), cụ Lê Thị Ngự (chết năm 1992) có 06 người con là bà Nguyễn Thị Xê,
ông Nguyễn Chí Trải, bà Nguyễn Thị Xuân, bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị
Trinh và ông Nguyễn Chí Trai. Ông Trai có vợ là bà Ông Thị Mạnh và có 05 người
con là anh Nguyễn Thuần Lý, anh Nguyễn Thuần Huy, chị Nguyễn Thị Quới Đường,
anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1966) và anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1968). Tại
Quyết định số 413/2008 ngày 31-3-2008, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã
tuyên bố ông Trai, bà Mạnh, anh Thuần Huy, chị Quới Đường, anh Nguyễn Chí Đạt
(sinh năm 1968) là đã chết.

Căn
nhà số 263 đường Trần Bình Trọng, Phường 4, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh do cụ
Hưng, cụ Ngự nhận chuyển nhượng đất của ông Đào Thành Phụng năm 1953, đến năm
1966 thì hai cụ xây dựng nhà ở như hiện nay. Nhà đất chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất, chỉ mới kê khai năm 1999. Cụ Hưng,
cụ Ngự chết đều không để lại di chúc, căn nhà hiện nay do chị Nguyễn Thị Thuý
Phượng là con ông Nguyễn Chí Trải đang quản lý. Quá trình quản lý, chị Phượng
cho bà Nguyễn Thị Bích Đào thuê một phần căn nhà để làm lò bánh mì. Khi chị
Phượng ở đây có sửa chữa nhà nhưng không đáng kể. Vợ chồng ông Trải không có
đóng góp gì vào việc xây dựng và sửa chữa vì ông Trải đi cải tạo, còn bà Tư vợ
ông Trải không có nghề nghiệp, con còn bé không có thu nhập để có tiền đóng
góp. Nếu chị Phượng có chứng cứ chứng minh chi phí sửa chữa và yêu cầu thì các
bà sẽ trả.

Các
nguyên đơn yêu cầu chia thừa kế căn nhà này theo quy định của pháp luật và xin
được nhận nhà, hoàn lại bằng tiền cho các thừa kế khác. Chị Phượng không thuộc
diện thừa kế nên phải trả lại nhà, không đồng ý hỗ trợ chị Phượng đi nơi khác.

Bị
đơn là chị Nguyễn Thị Thuý Phượng trình bày: Chị thống nhất về quan hệ gia
đình. Cha chị là ông Nguyễn Chí Trải, mẹ chị là bà Nguyễn Thị Tư có 03 người
con gồm chị, anh Nguyễn Chí Đức, chị Nguyễn Thị Thuý Loan (anh Đức, chị Loan
hiện sống ở Canada). Căn nhà số 263 đường Trần Bình Trọng là của ông bà nội chị
mua từ năm 1953, khi đó là nhà ngói, vách ván. Năm 1955, cha chị kết hôn với mẹ
chị và cha mẹ chị ở tại căn nhà này. Năm 1978 cha chị xuất cảnh sang Mỹ, mẹ chị
chết năm 1980. Chị sống tại căn nhà này từ nhỏ đến nay, đã sửa chữa nhà nhiều
lần như làm cửa nhôm, xây tường phần gác lửng, lát gạch men sân thượng, xây
tường phía sau nhà. Chị có phần thừa kế của cha chị vì năm 2006 cha chị đã lập
tờ cho đứt chị tài sản thừa kế ở Việt Nam nên chị được phần thừa kế mà cha chị
được hưởng của cụ Hưng, cụ Ngự. Chị không đồng ý yêu cầu của các nguyên đơn, vì
thời hiệu chia thừa kế đã hết, hiện tại chị và 02 con của chị đang sống tại căn
nhà này. Chị có cho bà Nguyễn Thị Bích Đào thuê một phần nhà làm lò bánh mì,
chị và bà Đào sẽ tự giải quyết với nhau về việc thuê nhà.

Bị
đơn là ông Nguyễn Chí Trải trình bày: Tại văn bản ngày 14-10-2009, ông Trải có
đơn đề nghị có nội dung ngày 25-4-2006 ông có giấy cho đứt tài sản thừa kế của
ông cho chị Phượng được hưởng phần tài sản thừa kế mà ông được hưởng của cha mẹ
tại Việt Nam, nay ông xin huỷ bỏ văn bản trên và bằng văn bản này ông xin uỷ
quyền cho bà Thưởng, bà Xuân thay mặt ông tại Tòa án, khi Tòa xét xử xong phần
tài sản thừa kế của ông xin được trao hết cho con trai ông là anh Nguyễn Chí
Đức hiện cư trú tại Canada.

Sau
khi xét xử sơ thẩm, ngày 22-4-2010, ông Trải có Đơn tường trình nội dung ông
không đồng ý chia thừa kế nhà 263 Trần Bình Trọng mà giao cho chị Phượng tiếp
tục trông nom để ở, ông và vợ ông đã có công sức đóng góp tiền của vào căn nhà
này. Nhưng đến ngày 14-7-2010, ông Trải lại có văn bản có nội dung ông cho con
trai là anh Nguyễn Chí Đức phần tài sản ông được nhận thừa kế của cha mẹ. Ngày
11-3-2011, ông Trải có Tờ tường trìnhnội dung ông đồng ý với quyết
định của Bản án sơ thẩm, ông không kháng cáo.

Người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:


Bà Nguyễn Thị Trinh (là con cụ Hưng, cụ Ngự) trình bày: Bà thống nhất như trình
bày của các nguyên đơn về quan hệ gia đình và nguồn gốc tài sản. Năm 1966 nhà
bị hư dột, cha mẹ bà có sửa lại nhà có sự đóng góp của các con trong đó có bà
nhưng bà không yêu cầu phần bà đã đóng góp. Việc chị Phượng cho rằng cha mẹ chị
và chị có đóng góp trong việc sửa chữa nhà là không đúng. Bà đề nghị kỷ phần
thừa kế của bà giao cho bà Xuân, bà Thưởng quản lý; đề nghị bà Đào, chị Phượng
trả lại nhà.


Anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1966), anh Nguyễn Thuần Lý trình bày: Cha mẹ các
anh là ông Nguyễn Chí Trai, bà Ông Thị Mạnh cùng 03 người em của các anh đều đã
chết trên biển khi vượt biên vào năm 1982. Các anh đồng ý với ý kiến của nguyên
đơn về việc chia thừa kế, xin được hưởng thừa kế tài sản của cụ Hưng, cụ Ngự và
giao cho bà Thưởng, bà Xuân quản lý.

– Bà
Nguyễn Thị Xê (là con của cụ Hưng, cụ Ngự) thống nhất với trình bày của các
nguyên đơn về quan hệ gia đình và yêu cầu của các nguyên đơn, kỷ phần thừa kế bà được hưởng cho 02 con của bà là
Phạm Thị Vui và Phạm Thị Liên.


Lời khai của chị Nguyễn Thị Thuý Loan, anh Nguyễn Chí Đức theo giấy uỷ quyền
lập ngày 21-5-2007 (đã được hợp pháp hoá lãnh sự) thì chị Loan, anh Đức ủy
quyền cho chị Phượng quyết định mọi sự việc liên quan đến những tranh chấp hay
phân chia tài sản và nhà đất bên Việt Nam (Giấy ủy quyền này do chị Phượng xuất trình theo đơn của chị Phượng đề ngày 25-3-2011,
sau khi xét xử sơ thẩm).

Chị Loan có đơn (kèm theo văn bản uỷ quyền) có nội dung
xin vắng mặt phiên toà ngày 13-8-2009. Về tài sản tranh chấp cha mẹ chị có tiền
đóng góp, còn các cô chú khác không đóng góp gì. Sau năm 1975, mọi người đi
hết, chỉ còn mình chị Phượng ở với ông bà, đề nghị Tòa cho chị Phượng ở lại nhà
đất tranh chấp.

Tại
Bản án dân sự sơ thẩm số 3363/2009/DSST ngày 18-11-2009, Tòa án nhân dân Thành
phố Hồ Chí Minh quyết định:


Xác định nhà đất tại 263 Trần Bình Trọng là di sản thừa kế của cụ Nguyễn Văn
Hưng, cụ Lê Thị Ngự; mỗi kỷ phần thừa kế được hưởng là 10.655.687.000: 6
=1.775.947.800 đồng.


Buộc mẹ con chị Phượng và bà Đào giao lại nhà đất tranh chấp cho bà Thưởng, bà
Xuân. Bà Thưởng, bà Xuân có trách nhiệm trả cho các thừa kế khác bằng tiền mà
họ được hưởng.


Ghi nhận việc ông Nguyễn Chí Trải cho con là anh Nguyễn Chí Đức được nhận kỷ
phần thừa kế của ông.

Ngày
30-11-2009, chị Nguyễn Thị Thuý Phượng có đơn kháng cáo có nội dung cho rằng cụ
Hưng, cụ Ngự chết đã quá 10 năm nên thời hiệu khởi kiện về thừa kế không còn.

Ngày
15-3-2011, chị Phượng có đơn kháng cáo bổ sung nội dung:


Cha chị là ông Trải không đồng ý chia và đồng ý cho chị quản lý căn nhà này.
Các đồng thừa kế không có văn bản xác nhận nhà tranh chấp là tài sản chung chưa
chia. Cha mẹ chị và các con trong đó có chị đã sống ổn định hơn 50 năm tại căn
nhà này, đã bảo quản, giữ gìn căn nhà nhưng nay lại buộc mẹ con chị phải ra
khỏi nhà là không thấu tình đạt lý.

Tại
Bản án dân sự phúc thẩm số 116/2011/DS-PT ngày 10-5-2011, Tòa Phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Giữ nguyên Bản án sơ
thẩm.

Ngày
16-6-2011, chị Nguyễn Thị Thuý Phượng có đơn đề nghị giám đốc thẩm Bản án dân
sự phúc thẩm nêu trên.

Tại
Quyết định số 158/2014/KN-DS ngày 06-5-2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
đã kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên
và Bản án dân sự sơ thẩm số 3363/2009/DSST ngày 18-11-2009 của Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Tại
phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí kháng
nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định:

Vợ
chồng cụ Nguyễn Văn Hưng (chết năm 1978), cụ Lê Thị Ngự (chết năm 1992) có 06
người con gồm bà Nguyễn Thị Xê, ông Nguyễn Chí Trải, bà Nguyễn Thị Xuân, bà
Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Trinh và ông Nguyễn Chí Trai. Vợ chồng ông
Nguyễn Chí Trai, bà Ông Thị Mạnh có 05 người con là anh Nguyễn Thuần Lý, anh
Nguyễn Thuần Huy, chị Nguyễn Thị Quới Đường, anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm
1966), anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1968). Ông Trai, bà Mạnh, anh Huy, chị
Đường, anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1968) bị tuyên bố chết ngày 31-3-2008 theo
Quyết định số 413/2008 ngày 31-3-2008 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh.

Cụ
Hưng, cụ Ngự chết đều không để lại di chúc. Các con của hai cụ và chị Phượng
(con ông Trải) đều thừa nhận căn nhà số 263 đường Trần Bình Trọng, Phường 4,
Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh do cụ Hưng, cụ Ngự nhận chuyển nhượng của ông Đào
Thành Phụng năm 1953 là tài sản của hai cụ tạo lập, hiện tại đang do chị Phượng
quản lý, sử dụng.

Năm
2008, bà Xuân, bà Thưởng khởi kiện yêu cầu chia thừa kế di sản của cụ Hưng, cụ
Ngự để lại.

Các đương sự đều xác định ông Trải định cư tại Mỹ trước
ngày 01-7-1991. Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm
căn cứ Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27-7-2006 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội xác định thời hiệu khởi kiện thừa kế đối với di sản của cụ Hưng vẫn
còn là có cơ sở. Đối với di sản của cụ Ngự thì đã hết thời hiệu khởi kiện yêu
cầu chia thừa kế, nhưng ông Trải và các đồng thừa kế của hai cụ đều thừa nhận
di sản của cụ Ngự là tài sản chung của các thừa kế chưa chia và đều nhất trí
chia đều cho các thừa kế. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm căn cứ tiểu mục
a điểm 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10-8-2004 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc
giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình để chia phần di sản của cụ
Ngự cho các thừa kế là có căn cứ.

Cụ
Hưng chết năm 1978, theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 thì
ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng. Phần tài sản ông Trải được
hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư. Bà Tư chết năm
1980, các thừa kế của bà Tư gồm ông Trải và 03 người con của ông Trải, bà Tư
trong đó có chị Phượng. Như vậy, chị Phượng được hưởng một phần tài sản của mẹ
là bà Tư, nhưng ông Trải đã định đoạt toàn bộ kỷ phần thừa kế mà ông được hưởng
của cụ Hưng cho anh Đức là chưa đúng.

Chị
Phượng sinh năm 1953 và các đương sự xác định chị Phượng ở tại nhà của ông, bà
từ nhỏ đến nay. Từ năm 1982, chị Phượng đã là chủ hộ khẩu tại nhà đất này, cụ
Ngự còn sống nhưng ở nơi khác, bà Thưởng chuyển hộ khẩu về tại đây từ năm 1979
nhưng không ở đây, nên chị Phượng đã trực tiếp quản lý, sử dụng nhà đất tranh
chấp từ sau khi cụ Ngự chết đến nay. Các đương sự khác đều có nơi ở ổn định nơi
khác. Khi chia thừa kế và tài sản chung, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm không
xem xét tạo điều kiện cho chị Phượng có chỗ ở mà buộc chị Phượng phải giao lại
nhà cho các nguyên đơn trong đó có phần quyền
tài sản chị Phượng được hưởng thừa kế của mẹ là bà Tư là chưa phù hợp.

Tuy
chị Phượng không phải thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hưng, cụ Ngự,
nhưng là cháu nội của hai cụ và có nhiều công sức quản lý, đã chi tiền sửa chữa
nhà nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, chị Phượng không yêu cầu xem xét
công sức vì chị Phượng cho rằng vụ án đã hết thời hiệu chia thừa kế, không đồng
ý trả nhà đất cho các thừa kế. Như vậy, yêu cầu của chị Phượng đề nghị xác định
quyền lợi là lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm,
phúc thẩm chưa xem xét công sức cho chị Phượng là giải quyết chưa triệt để yêu
cầu của đương sự.


các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297, khoản 1, 2 Điều 299 Bộ luật Tố tụng
dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011;

QUYẾT ĐỊNH

Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 116/2011/DS-PT
ngày 10-5-2011 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh và hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 3363/2009/DSST ngày 18-11-2009 của
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án tranh chấp thừa kế tài sản giữa
nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Xuân với bị đơn là chị Nguyễn
Thị Thuý Phượng và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.

Giao
hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo
quy định của pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

Cụ Hưng chết năm 1978, theo quy định của Luật Hôn nhân và
gia đình năm 1959 thì ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng. Phần
tài sản ông Trải được hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải,
bà Tư. Bà Tư chết năm 1980, các thừa kế của bà Tư gồm ông Trải và 03 người con
của ông Trải, bà Tư trong đó có chị Phượng.

Tuy
chị Phượng không phải thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hưng, cụ Ngự,
nhưng là cháu nội của hai cụ và có nhiều công sức quản lý, đã chi tiền sửa chữa
nhà nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, chị Phượng không yêu cầu xem xét
công sức vì chị Phượng cho rằng vụ án đã hết thời hiệu chia thừa kế, không đồng
ý trả nhà đất cho các thừa kế. Như vậy, yêu cầu của chị Phượng đề nghị xác định
quyền lợi là lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm,
phúc thẩm chưa xem xét công sức cho chị Phượng là giải quyết chưa triệt để yêu
cầu của đương sự.”
.

Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com