Thông tin pháp luật mới nhất tại thuvienluat.vn. Để được tư vấn, hướng dẫn trực tiếp, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900.0191.
Án lệ số 04/2016/AL
Được
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016
và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án lệ:
Quyết
định giám đốc thẩm số 04/2010/QĐ-HĐTP ngày 03-3-2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất” tại thành phố Hà Nội giữa nguyên đơn là bà Kiều Thị Tý, ông Chu Văn Tiến
với bị đơn là ông Lê Văn Ngự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Lê
Thị Quý, bà Trần Thị Phấn, anh Lê Văn Tám, chị Lê Thị Tưởng, anh Lê Đức Lợi,
chị Lê Thị Đường, anh Lê Mạnh Hải, chị Lê Thị Nhâm.
Khái quát nội dung của án lệ:
Trường
hợp nhà đất là tài sản chung của vợ chồng mà chỉ có một người đứng tên ký hợp
đồng chuyển nhượng nhà đất đó cho người khác, người còn lại không ký tên trong
hợp đồng; nếu có đủ căn cứ xác định bên chuyển nhượng đã nhận đủ số tiền theo
thỏa thuận, người không ký tên trong hợp đồng biết và cùng sử dụng tiền chuyển
nhượng nhà đất; bên nhận chuyển nhượng nhà đất đã nhận và quản lý, sử dụng nhà
đất đó công khai; người không ký tên trong hợp đồng biết mà không có ý kiến
phản đối gì thì phải xác định là người đó đồng ý với việc chuyển nhượng nhà
đất.
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
–
Khoản 2 Điều 176 của Bộ luật Dân sự năm 1995;
–
Điều 15 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986.
Từ khóa của án lệ:
“Tranh
chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”; “Định đoạt tài sản chung của vợ
chồng”; “Xác lập quyền sở hữu theo thỏa thuận”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại
đơn khởi kiện đề ngày 05-11-2007 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là
bà Kiều Thị Tý trình bày:
Năm
1996, vợ chồng bà có mua 02 căn nhà cấp 4 trên diện tích đất thổ cư khoảng
160m2 của gia đình ông Lê Văn Ngự tại xã Xuân La, huyện Từ Liêm, thành phố Hà
Nội (nay là Tổ 11, Cụm 2, phường Xuân La, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội). Việc
mua bán hai bên có lập hợp đồng, có ghi rõ những tài sản, nhà trên đất và các
mặt tiếp giáp của thửa đất. Do vợ chồng bà chưa có hộ khẩu thường trú tại Hà
Nội, nên chính quyền địa phương không xác nhận việc mua bán giữa gia đình bà và
gia đình ông Ngự. Giá mua là 110 cây vàng, bà đã trả đủ cho vợ chồng ông Ngự và
gia đình ông Ngự đã giao nhà, đất cho bà quản lý, sử dụng.
Sau
khi mua bán nhà đất, gia đình ông Ngự xây nhà mới có mượn vợ chồng bà ngôi nhà
(phía trong) để sử dụng và chứa nguyên vật liệu, còn diện tích nhà giáp mặt
đường Xuân La bà đã cho cháu họ của bà ở nhờ để đi học. Khi gia đình ông Ngự
làm nhà xong đã trả lại nhà, đất cho bà. Bà đã phá dỡ nhà cũ, tôn nền và xây
nhà mới như hiện nay để các cháu ở nhờ; năm 2001, bà cho thuê làm xưởng mộc,
sau đó bà không cho thuê nữa, đóng cửa không sử dụng.
Năm
2006 (sau khi bà nhập khẩu về Hà Nội), khi bà làm thủ tục xin cấp giấy tờ về
quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở thì vợ chồng ông Ngự đã gây khó khăn,
vì cho rằng bà còn thiếu hơn 03 cây vàng và vợ chồng ông chỉ bán nhà, đất phía
trong, còn nhà, đất giáp mặt đường Xuân La vẫn là nhà, đất của gia đình ông.
Cuối năm 2006, ông Ngự đã tự ý phá cửa vào ở và xây một bức tường ngăn giữa
phần mái hiên của căn nhà cấp 4 giáp mặt đường Xuân La (hiện nay đang cho người
khác thuê làm cửa hàng cắt tóc). Bà đề nghị Tòa án buộc gia đình ông Ngự phải
thực hiện đúng như hợp đồng đã ký kết và buộc gia đình ông Ngự trả nhà đất
(phần diện tích mặt đường Xuân La).
Bị
đơn là ông Lê Văn Ngự trình bày:
Năm
1996, gia đình ông có nhượng bán một phần nhà, đất cho vợ chồng ông Tiến, bà
Tý. Hai bên thỏa thuận, gia đình ông bán cho vợ chồng ông Tiến, bà Tý phần nhà,
đất có vị trí giáp đường Xuân La, chiều ngang 07m, chiều dài hết khổ đất của
gia đình ông. Hai bên thống nhất trừ 21m2 mặt đường do Nhà nước đã cắm mốc chỉ
giới mở đường, nên chỉ bán nhà cấp 4 trên phần diện tích đất là 140m2.
Giá
mua nhà, đất là 6 chỉ vàng/m2 đối với 42m2 đất mặt đường là 25 cây 02 chỉ; 9
chỉ/m2 đối với 98m2 đất phía trong là 88,2 cây vàng. Tổng cộng là 113,4 cây
vàng, phía ông Tiến, bà Tý mới trả cho gia đình ông 110 cây vàng, còn nợ lại
3,4 cây vàng.
Gia
đình ông đã giao nhà, đất cho bà Tý nhưng còn 21m2 giáp mặt đường, trong chỉ
giới mở đường, gia đình ông vẫn quản lý, sử dụng. Hiện nay, Nhà nước đã thay
đổi quy hoạch, không mở đường về phía nhà, đất của gia đình ông, nên phần diện
tích này thuộc quyền quản lý, sử dụng của gia đình ông, diện tích nhà, đất của
ông Tiến, bà Tý mua không có lối đi vào.
Nay
bà Tý kiện đòi 21m2 mặt đường Xuân La, ông không chấp nhận. Nếu ông Tiến, bà Tý
muốn quản lý, sử dụng phần diện tích mặt đường và có lối đi vào nhà, đất bên
trong thì phải cắt trả cho gia đình ông 2m chiều ngang mặt đường và chiều dài
hết khổ đất, đồng thời phải thanh toán trả cho gia đình ông 160 triệu đồng nữa.
Người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bà
Trần Thị Phấn thống nhất với lời khai của ông Ngự.
Anh
Lê Đức Lợi, anh Lê Văn Tám, anh Lê Mạnh Hải, chị Lê Thị Đường, chị Lê Thị Tưởng
và chị Lê Thị Nhâm có lời khai thống nhất với lời khai của ông Ngự.
Tại
Bản án dân sự sơ thẩm số 27/2008/DS-ST ngày 25-4-2008, Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội đã quyết định:
Chấp
nhận yêu cầu khởi kiện đòi lại nhà đất 23,4m2 tại 39 đường Xuân La của vợ chồng
bà Kiều Thị Tý, ông Chu Văn Tiến đối với gia đình ông Lê Văn Ngự, bà Trần Thị
Phấn.
Buộc
gia đình ông Lê Văn Ngự, bà Trần Thị Phấn, bà Lê Thị Quý (người thuê nhà) và
các con ông Lê Văn Ngự phải trả lại toàn bộ diện tích nhà đất 23,4m2 tại số 39,
đường Xuân La, phường Xuân La, quận Tây Hồ cho gia đình bà Tý, ông Tiến (do bà
Tý đại diện).
Buộc
bà Tý phải thanh toán cho gia đình ông Ngự số tiền là 13.759.000 đồng giá trị
xây dựng, cải tạo tại diện tích 23,4m2; bà Tý được sở hữu vật liệu công sức ở
diện tích này.
Bà
Tý được chủ động mở lối ra vào diện tích nhà đất phía trong và được xây bịt lối
đi phía sau sang đất nhà ông Ngự, bà Phấn.
Ông
Ngự, bà Phấn cùng với bà Tý có trách nhiệm đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền
để hoàn tất thủ tục sang tên phần nhà đất đã nhượng bán. Nếu phía gia đình ông
Ngự gây khó khăn thì bà Tý được chủ động đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền kê
khai để làm thủ tục để sang tên, đăng ký quyền sở hữu nhà và sử dụng đất.
Ngoài
ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo của
các đương sự.
Ngày
08-5-2008, ông Lê Văn Ngự, bà Trần Thị Phấn có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất ký với vợ chồng bà Kiều Thị
Tý và ông Chu Văn Tiến với lý do việc ký hợp đồng, nhận tiền mua bán nhà, đất
chỉ do ông Ngự thực hiện, bà Phấn là vợ không biết.
Tại
Quyết định số 02/QĐ-VKSNDTC-VPT1 ngày 28-5-2008, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao kháng nghị đề nghị Hội đồng xét xử Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân
tối cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm buộc ông Ngự phải tháo dỡ phần xây dựng
trái phép trên diện tích nhà đất của bà Tý trả lại nguyên trạng ban đầu. Bà Tý
không phải bồi thường cho ông Ngự số tiền 13.759.000 đồng; đồng thời đề nghị
xem xét lại án phí dân sự sơ thẩm cho ông Ngự, bà Tý.
Tại
Bản án dân sự phúc thẩm số 162/2008/DS-PT ngày 04-9-2008, Tòa Phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại Hà Nội đã quyết định không chấp nhận kháng cáo của ông Lê
Văn Ngự và bà Trần Thị Phấn, chấp nhận Quyết định kháng nghị số
02/QĐ-VKSNDTC-VPT1 ngày 28-5-2008 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, sửa một
phần Bản án sơ thẩm như sau:
Chấp
nhận yêu cầu đòi lại nhà, đất có diện tích 23,4m2 tại số 39 đường Xuân La của
vợ chồng bà Kiều Thị Tý và ông Chu Văn Tiến đối với vợ chồng ông Lê Văn Ngự, bà
Trần Thị Phấn.
Buộc
ông Ngự, bà Phấn cùng các con của ông Ngự và bà Phấn gồm các anh: Lê Đức Lợi,
Lê Văn Tám, Lê Mạnh Hải và các chị: Lê Thị Đường, Lê Thị Tưởng, Lê Thị Nhâm và
bà Lê Thị Quý (người thuê nhà của ông Ngự) phải trả lại toàn bộ diện tích nhà,
đất là 23,4m2 tại số 39 đường Xuân La, phường Xuân La, quận Tây Hồ, thành phố
Hà Nội cho vợ chồng bà Kiều Thị Tý, ông Chu Văn Tiến (do bà Tý làm đại diện).
Về
giá trị xây dựng, cải tạo tại diện tích 23,4m2 là 13.759.000 đồng, vợ chồng ông
Lê Văn Ngự, bà Trần Thị Phấn phải tự chịu. Vợ chồng ông Ngự, bà Phấn phải phá
dỡ phần xây dựng, cải tạo tại diện tích trên để trả lại nguyên trạng cho vợ
chồng bà Tý, ông Tiến. Chi phí phá dỡ do vợ chồng ông Ngự, bà Phấn phải chịu.
Bà
Tý được quyền chủ động mở lối ra vào diện tích nhà, đất phía trong và được xây
bịt lối đi phía sau sang nhà, đất của vợ chồng ông Ngự, bà Phấn.
Ông
Ngự, bà Phấn cùng với bà Tý có trách nhiệm đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền
để hoàn tất thủ tục sang tên phần diện tích nhà, đất đã nhượng bán cho vợ chồng
bà Tý, ông Tiến. Nếu gia đình ông Ngự gây khó khăn thì bà Tý được chủ động đến
cơ quan nhà nước có thẩm quyền để kê khai, làm các thủ tục sang tên đăng ký
quyền sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà ở.
Ngoài
ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.
Sau
khi xét xử phúc thẩm tại các đơn khiếu nại đề ngày 21-10-2008 và ngày
22-10-2008 của ông Ngự, bà Phấn đều cho rằng nhà, đất tại số 39 đường Xuân La
là tài sản chung của gia đình ông, bà; ông Ngự đã tự ý đứng ra bán cho vợ chồng
bà Tý, ông Tiến mà không được sự đồng ý của bà Phấn là không đúng; đề nghị
tuyên bố hợp đồng này là vô hiệu.
Tại
Quyết định số 63/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 14-5-2009, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao đã kháng nghị Bản án phúc thẩm nêu trên và đề nghị Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hủy Bản án dân sự
phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 27/2008/DS-ST ngày 25-4-2008
của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại. Với nhận định:
Năm
1996, vợ chồng ông Chu Văn Tiến và bà Kiều Thị Tý có mua 02 căn nhà cấp 4 trên
diện tích đất thổ cư giáp mặt đường Xuân La có chiều ngang 7m, chiều dài hết
khổ đất của gia đình ông Lê Văn Ngự tại xã Xuân La, huyện Từ Liêm (nay là
phường Xuân La, quận Tây Hồ). Hai bên có làm giấy viết tay mua bán chuyển
nhượng nhà đất, nhưng sau đó không thực hiện các thủ tục theo quy định của pháp
luật. Sau khi mua, bà Tý đã phá cả hai căn nhà trên để làm lại, tôn nền, xây
lại móng, tường lợp ngói như hiện nay. Cuối năm 2005, khi bà Tý đề nghị làm thủ
tục xin cấp giấy tờ về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở thì gia đình
ông Ngự tranh chấp cho rằng bà Tý còn nợ 3,4 cây vàng và chỉ bán diện tích nhà
đất phía trong, còn diện tích nhà đất giáp mặt đường Xuân La vẫn là nhà đất của
gia đình ông.
Cuối
năm 2006, hai bên có xảy ra xô sát tranh chấp diện tích nhà đất 21m2 phía mặt
đường Xuân La, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.
Ngày
29-10-2007, bà Kiều Thị Tý và ông Chu Văn Tiến khởi kiện
đòi
quyền sở hữu nhà đất thông qua hợp đồng mua bán nhà đất được xác lập ngày
26-4-1996 giữa vợ chồng ông Lê Văn Ngự, bà Trần Thị Phấn với vợ chồng bà Kiều
Thị Tý, ông Chu Văn Tiến. Hợp đồng mua bán nhà đất giữa
bà
Tý, ông Tiến với vợ chồng ông Ngự, bà Phấn chưa tuân thủ theo quy định của pháp
luật cả về hình thức và nội dung của hợp đồng; trong khi gia đình ông Ngự cho
rằng vợ chồng ông Tiến, bà Tý còn nợ 3,4 cây vàng và không bán diện tích nhà
đất giáp mặt đường Xuân La; cho nên vợ chồng ông Ngự, bà Phấn không đồng ý cho
vợ chồng ông Tiến, bà Tý làm thủ tục sang tên đăng ký quyền sở hữu nhà và quyền
sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Hiện nay toàn bộ diện tích nhà đất
theo hợp đồng mua bán chuyển nhượng trên vẫn đứng tên vợ chồng ông Ngự, bà
Phấn.
Tòa
án hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ
án này là “Tranh chấp quyền sở hữu nhà đất” và áp dụng các Điều 255 và Điều 256
của Bộ luật Dân sự để chấp nhận yêu cầu đòi lại nhà đất của vợ chồng bà Kiều
Thị Tý, ông Chu Văn Tiến đối với vợ chồng ông Lê Văn Ngự, bà Trần Thị Phấn là
không đúng, như vậy là đương nhiên công nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử
dụng đất ở đối với toàn bộ diện tích nhà đất chuyển nhượng trên cho vợ chồng bà
Tý, ông Tiến; trong khi hợp đồng chuyển nhượng nhà đất trên vẫn còn tranh chấp
chưa thể làm thủ tục sang tên, đăng ký quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất
ở cho vợ chồng bà Tý, ông Tiến được. Do vậy, cần phải hủy cả hai bản án dân sự
sơ thẩm, phúc thẩm nêu trên; giao về xét xử sơ thẩm lại để xác định đúng quan
hệ pháp luật tranh chấp, đảm bảo quyền lợi của các bên đương sự và lợi ích của
Nhà nước.
Tại
phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định:
Căn
cứ vào đơn khởi kiện đề ngày 05-11-2007 và các lời khai của bà Tý, ông Tiến
trong quá trình giải quyết vụ án thì bà Tý, ông Tiến yêu cầu ông Ngự, bà Phấn
trả lại toàn bộ nhà, đất mà ông bà đã nhận chuyển nhượng của ông Ngự, bà Phấn
đang do vợ chồng ông Ngự chiếm giữ, đồng thời yêu cầu ông Ngự, bà Phấn dỡ bỏ
phần xây dựng trái phép trên diện tích đất trên. Như vậy, nguyên đơn có yêu cầu
đòi quyền sở hữu nhà, đất mà ông Ngự, bà Phấn đã sang nhượng theo hợp đồng
chuyển nhượng nhà, đất lập ngày 26-4-1996. Trong khi đó, ông Ngự, bà Phấn cho
rằng phần đất có tranh chấp vẫn là của ông bà, vì ông bà chưa chuyển nhượng cho
bà Tý, ông Tiến. Do đó, có cơ sở xác định các đương sự tranh chấp về quyền sở
hữu tài sản và tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất, nhưng Tòa án cấp sơ
thẩm và phúc thẩm chỉ xác định quan hệ pháp luật cần giải quyết là vụ án tranh
chấp quyền sở hữu nhà, đất là chưa đầy đủ. Tuy nhiên, trong thực tế Tòa án cấp
sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã xem xét giải quyết về hai quan hệ tranh chấp
này. Do vậy, Kháng nghị số 63/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 14-5-2009 của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm
xác định sai quan hệ pháp luật có tranh chấp và cần phải hủy cả hai bản án nêu
trên để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm là chưa chính xác và không cần thiết.
Về
hợp đồng mua bán nhà, đất ngày 26-4-1996: Việc chuyển nhượng nhà, đất diễn ra
từ năm 1996, sau khi mua nhà, đất, ông Tiến, bà Tý đã trả đủ tiền, nhận nhà
đất, tôn nền đất, sửa lại nhà và cho các cháu đến ở. Trong khi đó gia đình ông
Ngự, bà Phấn vẫn ở trên diện tích đất còn lại, liền kề với nhà ông Tiến, bà Tý.
Theo lời khai của các người con ông Ngự, bà Phấn thì sau khi bán nhà, đất cho
vợ chồng bà Tý, ông Ngự, bà Phấn đã phân chia vàng cho các người con. Mặt khác,
sau khi chuyển nhượng và giao nhà đất cho ông Tiến, bà Tý thì ngày 26-4-1996,
ông Ngự còn viết “giấy cam kết” có nội dung mượn lại phần nhà đất đã sang
nhượng để ở khi xây dựng lại nhà trên phần đất còn lại và trong thực tế vợ
chồng bà Phấn, ông Ngự đã sử dụng phần nhà đất của bà Tý, ông Tiến khi xây dựng
nhà. Như vậy, có cơ sở xác định bà Phấn biết có việc chuyển nhượng nhà, đất
giữa ông Ngự với vợ chồng ông Tiến và bà Tý, bà Phấn đã đồng ý, cùng thực hiện
nên việc bà Phấn khiếu nại cho rằng ông Ngự chuyển nhượng nhà đất cho vợ chồng
bà Tý bà không biết là không có căn cứ.
Trong
quá trình giải quyết vụ án, ông Ngự, bà Phấn còn cho rằng giá mua bán nhà, đất
là 113,4 cây vàng. Tuy nhiên, ông bà không đưa ra được tài liệu chứng cứ chứng
minh cho vấn đề này. Theo nội dung bản hợp đồng mua bán nhà, đất ngày 26-4-1996
thì số tiền hai bên thỏa thuận là 110 cây vàng và trong giấy thanh toán ngày
09-5-2000, ông Ngự ký xác nhận “tôi đã nhận đủ số tiền còn lại do bán nhà, đất
cho anh Tiến và chị Tý…”. Phần ghi chú có ghi thêm, tổng số vàng tôi đã nhận
trước và hiện nay là 110 cây. Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định giá mua bán
nhà đất là 110 cây vàng và vợ chồng ông Ngự, bà Phấn đã nhận đủ số tiền.
Tuy
tại hợp đồng mua bán nhà đất nêu trên hai bên không thể hiện cụ thể diện tích
đất chuyển nhượng, nhưng hai bên thỏa thuận rõ ranh giới tứ cận “chiều ngang
mảnh đất là 07m kể từ mép tường phân cách với nhà ông Tay; phía Đông Bắc giáp
đường Xuân La – Xuân Đỉnh; Đông Nam giáp đất của ông Lê Văn Tay; Tây Nam giáp
đất của bà Lê Thị Soát, ông Vinh; Tây Bắc giáp phần đất còn lại của gia đình
ông Ngự. Chiều dài mảnh đất giáp đường Xuân La – Xuân Đỉnh đến hết khổ đất…”.
Ngoài
ra, các bên còn thỏa thuận, phần đất phía trước khi nào Nhà nước sử dụng làm
đường, thì ông Tiến được hưởng toàn bộ chế độ đền bù của Nhà nước. Như vậy,
thửa đất mà hai bên thỏa thuận chuyển nhượng là từ mép đường Xuân La – Xuân
Đỉnh vào hết khổ đất bao gồm cả diện tích đất có tranh chấp.
Do
vậy, Tòa án các cấp xác định, diện tích 23,4m2 giáp đường Xuân La – Xuân Đỉnh
nằm trong diện tích đất mà ông Ngự đã thỏa thuận chuyển nhượng cho vợ chồng bà
Tý, đồng thời xác định vợ chồng bà Tý đã thanh toán đủ 110 cây vàng theo hợp
đồng và đã nhận nhà đất, từ đó, buộc gia đình ông Ngự phải trả lại toàn bộ diện
tích nhà, đất 23,4m2 tại số 39 đường Xuân La, phường Xuân La, quận Tây Hồ,
thành phố Hà Nội cho vợ chồng bà Kiều Thị Tý và ông Chu Văn Tiến là có căn cứ.
Bởi
các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 1 Điều 297 Bộ luật Tố tụng dân
sự,
QUYẾT ĐỊNH
Không
chấp nhận Kháng nghị số 63/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 14-5-2009 của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao; giữ nguyên Bản án phúc thẩm số 162/2008/DS-PT ngày
04-9-2008 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội.
NỘI DUNG ÁN LỆ
“Về hợp đồng mua bán nhà, đất ngày 26-4-1996:
Việc chuyển nhượng nhà, đất diễn ra từ năm 1996, sau khi mua nhà, đất, ông
Tiến, bà Tý đã trả đủ tiền, nhận nhà đất, tôn nền đất, sửa lại nhà và cho các
cháu đến ở. Trong khi đó gia đình ông Ngự, bà Phấn vẫn ở trên diện tích đất còn
lại, liền kề với nhà ông Tiến, bà Tý. Theo lời khai của các người con ông Ngự,
bà Phấn thì sau khi bán nhà, đất cho vợ chồng bà Tý, ông Ngự, bà Phấn đã phân
chia vàng cho các người con. Mặt khác, sau khi chuyển nhượng và giao nhà đất
cho ông Tiến, bà Tý thì ngày 26-4-1996, ông Ngự còn viết “giấy cam kết” có nội
dung mượn lại phần nhà đất đã sang nhượng để ở khi xây dựng lại nhà trên phần
đất còn lại và trong thực tế vợ chồng bà Phấn, ông Ngự đã sử dụng phần nhà đất
của bà Tý, ông Tiến khi xây dựng nhà. Như vậy, có cơ sở xác định bà Phấn biết
có việc chuyển nhượng nhà, đất giữa ông Ngự với vợ chồng ông Tiến và bà Tý, bà
Phấn đã đồng ý, cùng thực hiện nên việc bà Phấn khiếu nại cho rằng ông Ngự
chuyển nhượng nhà đất cho vợ chồng bà Tý bà không biết là không có căn cứ.”
Xin cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết, nội dung của bài viết chỉ nhằm mục đích tham khảo do tính thay đổi của luật áp dụng tại từng thời điểm và những đặc thù trong từng sự kiện pháp lý. Để được tư vấn, hướng dẫn chính xác nhất với trường hợp của quý khách, mọi câu hỏi, thắc mắc xin được phản hồi về Hotline 1900.0191 hoặc địa chỉ hòm mail bên dưới!