Trong điều kiện kinh tế thị trường hội nhập ngày càng sâu rộng như hiện nay, rủi ro trong giao kết và thực hiện các giao dịch dân sự ngày càng nhiều. Do đó, để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ đã giao kết, các bên thường thỏa thuận thêm về biện pháp bảo đảm. Biện pháp này, bên cạnh tạo lòng tin đối cho các bên khi thực hiện giao dịch còn có thể là hậu quả pháp lý bất lợi mà bên có nghĩa vụ phải thực hiện khi thực hiện không đúng theo thỏa thuận đã ký kết. Pháp luật dân sự Việt Nam hiện nay có ghi nhận 9 biện pháp bảo đảm trong Bộ luật Dân sự 2015 mới có hiệu lực từ ngày 1/01/2017, trong đó, biện pháp bảo lãnh là một trong số các biện pháp được ghi nhận. Phần trình bày dưới đây tập trung chủ yếu vào vấn đề, đó là: “ Biện pháp bảo lãnh – phân tích quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng”.
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ DÂN SỰ VÀ BẢO LÃNH
1. Khái quát về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
a) Khái niệm
Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là các biện pháp dự phòng để bảo đảm lợi ích của bên có quyền trong giao dịch dân sự, có thể bằng cách cho bên có quyền xử lý tài sản được đem ra bảo đảm, theo thỏa thuận hoặc theo quy định pháp luật.
b) Đặc điểm
Trước hết, các biện pháp bảo đảm được hình thành chủ yếu trên cơ sở theo sự thỏa thuận của các bên chủ thể. Đối với một số biện pháp ví dụ như cầm giữ được hình thành trên cơ sở pháp luật quy định.
Đối tượng của biện pháp bảo đảm chủ yếu là lợi ích vật chất. Khi giao kết giao dịch bảo đảm, bản chất của giao dịch này là hợp đồng phụ, được xác lập nhằm đảm bảo thực hiện cho hợp đồng chính. Do đó, hiệu lực của giao dịch này phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng chính.
Về phạm vi bảo đảm các biện pháp bảo đảm do các bên thỏa thuận, có thể là một phần hoăc toàn bộ nghĩa vụ. Nghĩa vụ được bảo đảm có thể là nghĩa vụ hiện tại hoặc nghĩa vụ trong tương lai.
c) Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
Theo quy định của BLDS 2015, biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bao gồm: Cầm cố tài sản; Thế chấp tài sản; Đặt cọc; Ký cược; Ký quỹ; Bảo lưu quyền sở hữu; Bảo lãnh; Tín chấp; Cầm giữ tài sản.[1]
2. Lý luận chung về bảo lãnh
a) Khái niệm, đặc điểm
Bảo lãnh là một biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự thường được áp dụng trong trường hợp bên có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ chính không có tài sản bảo đảm, hoặc chưa đủ độ tin cây đối với bên có quyền.
Theo đó, bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.[2]
Cũng cầm cố, thế chấp, kí cược,.. bảo lãnh có những đặc điểm chung của các biện pháp bảo đảm, ngoài ra, bảo lãnh còn có những đặc điểm riêng, đó là:
Một là, Bảo lãnh là biện pháp bảo đảm mang tính chất đối nhân. Bên cạnh tín chấp, trong các biện pháp bảo đảm còn có bảo lãnh là biện pháp mang tính đối nhân. Tuy nhiên, tín chấp mang đặc tính đặc biệt bởi nó mang tính chất tương trợ xã hội đối với những trường hợp có điều kiện kinh tế khó khăn và đối với bên đảm bảo là tổ chức chính trị – xã hội. Bên cạnh đó, bảo đảm cũng không mang tính chất đối nhân thông thường, mà nó có quan hệ với các biện pháp bảo đảm khác mang tính đối vật. Điều này thể hiện ở chỗ bên bảo lãnh có thể sử dụng tài sản của mình để cầm cố, thế chấp, đặt cọc hay kí quỹ cho bên nhận bảo lãnh để đảm bảo thực hiện cho nghĩa vụ bảo lãnh của mình[3].
Hai là, Bên bảo đảm trong bảo lãnh là người thứ ba, bảo đảm cho bên có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ chính. Trong các biện pháp bảo đảm khác, bên có nghĩa vụ thường là bên đảm bảo để thực hiện nghĩa vụ của mình. Bảo lãnh được hình thành khi bên có nghĩa vụ không đủ điều kiện để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của mình. Trong quan hệ bảo lãnh, bên bảo lãnh luôn là người thứ ba, dùng tài sản của mình hoặc cam kết dùng tài sản của mình để thực hiện thay nghĩa vụ cho bên có nghĩa vụ trước bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) nếu nghĩa vụ đó không có khả năng thực hiện hoặc bị vi phạm.
Ba là, Trong bảo lãnh, có thể nhiều người bảo lãnh cho người có nghĩa vụ chính, những người bảo lãnh này phải liên đới thực hiện việc bảo lãnh trừ trường hợp giữa họ có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác[4].
b) Chủ thể trong quan hệ bảo lãnh
Thông qua việc xác lập và thực hiện quan hệ bảo lãnh, có thể xác định chủ thể trong quan hệ bảo lãnh bao gồm: bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Người được bảo lãnh có thể biết hoặc không biết đến việc cam kết bảo lãnh của hai bên, và quan hệ bảo lãnh không bị ảnh hưởng nếu bên được bảo lãnh đồng ý hay không đồng ý.
Bên bảo lãnh là bên cam kết trước bên có quyền trong quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ nếu đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ, mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ.
Bên nhận bảo lãnh là bên có quyền trong quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm bằng biện pháp bảo lãnh[5].
II. PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ BẢO LÃNH
1. Phạm vi bảo lãnh
Phạm vi bảo lãnh là giới hạn về nghĩa vụ ràng buộc giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh trên cơ sở ca kết và sự chấp thuận cam kết của các bên trong hợp đồng bảo lãnh.
Điều 336 BLDS 2015 quy định về phạm vi bảo lãnh như sau:
“1. Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh.
2.Nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại, lãi trên số tiền chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
3.Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
4.Trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì phạm vi bảo lãnh không bao gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại.”
Pháp luật dân sự luôn đề cao sự thỏa thuận của các bên trong quan hệ dân sự. Do vậy, đối với quan hệ bảo lãnh, các bên cũng được tự do thỏa thuận, bên bảo lãnh có thể cam kết với bên nhận bảo lãnh việc thực hiện một phần hay toàn bộ nghĩa vụ của bên được bảo lãnh trên cơ sở nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm: tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại, lãi trên số tiền chậm trả. Trong quan hệ dân sự, từ một nghĩa vụ luôn có thể làm phát sinh nhiều nghĩa vụ khác, do đó, bên cạnh các nghĩa vụ bảo lãnh được cam kết nêu trên, các bên có thể thỏa thuận cam kết thêm về các nghĩa vụ khác có thể phát sinh như: lãi trong hạn, lãi quá hạn,… Đây là sự dự liểu của pháp luật về phạm vi bảo lãnh. Theo đó, có thể hiểu là nếu các bên trong quan hệ bảo lãnh không có thỏa thuận nào khác thì nghĩa vụ bảo lãnh sẽ bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại, lãi trên số tiền chậm trả .
Nhằm đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh và nâng cao tinh thần trách nhiệm của bên bảo lãnh trong việc nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ của mình khi phát sinh, BLDS 2015 đã dự liệu và quy định cho các bên được thỏa thuận áp dụng riêng một biện pháp bảo đảm bằng tài sản trong quan hệ bảo lãnh để ràng buộc, dự phòng cho nghĩa vụ bảo lãnh mà các bên đã kí. Điều này xuất phát từ việc về nguyên tắc, bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm mang tính đối nhân, việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh hay quyền của bên nhận bảo lãnh có được bảo đảm hay không phụ thuộc hoàn toàn vào bên bảo lãnh. Do đó, đây là một quy định mới rất phù hợp của BLDS 2015 so với BLDS 2005.
Đối với nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai, BLDS 2005 quy định: “Trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì phạm vi bảo lãnh không bao gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại”. Như vậy, có nghĩa là phạm vi bảo lãnh không bao gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt hoạt động, bởi vì các chủ hể này không còn năng lực chủ thể trong các quan hệ pháp luật nó chung và quan hệ bảo lãnh nói riêng.
2. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
Căn cứ vào Điều 335 BLDS 2015, nghĩa vụ bảo lãnh được thực hiện theo thời điểm sau:
– Thời điểm bên có nghĩa vụ trong nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ
Điều này được hiểu là đối với nghĩa vụ khi đến thời hạn thực hiện, bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ đó. Thời điểm này được coi là thời điểm bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nếu các bên trong quan hệ bảo lãnh không có thỏa thuận khác về thời điểm thực hiện nghĩa vụ của bên bảo lãnh.
– Thời điểm bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ
Đây là trường hợp mà các bên chủ thể trong bảo lãnh đã thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ. Khi đó, thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh được đây, theo quy định của pháp luật là thời điểm mà các bên trong quan hệ bảo lãnh thỏa thuận để thực hiện là thời điểm bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ[6].
Ngoài 2 trường hợp trên, theo quy định tại Điều 41 Nghị định 163/2006/NĐ-CP thì nghĩa vụ bảo lãnh được thực hiện tại thời điểm mà bên có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ chính phải thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
3. Thù lao
Điều 337 BLDS 2015 quy định như sau: “Bên bảo lãnh được hưởng thù lao nếu bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh có thỏa thuận”. Ở đây được hiểu là, khi thực hiện việc bảo lãnh cho nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ, bên bảo đảm có thể được hưởng thù lao. Nhưng việc hưởng thù lao chỉ đặt ra nếu bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh có thỏa thuận cụ thể với nhau. Lý giải cho điều này ở chỗ, bản chất của quan hệ bảo lãnh là bên bảo lãnh thay thế bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ của người này khi họ không có khả năng thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ với bên có quyền. Sau đó, bên bảo lãnh có nghĩa vụ hoàn lại cho bên bên bảo lãnh chi phí, tài sản bỏ ra dể thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, thông thường nghĩa vụ bảo lãnh phát sinh khi bên được bảo lãnh không thể thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến hạn. Lúc này, bên được bảo lãnh có thể suy đoán là khó có khả năng thực hiện việc nghĩa vụ hoàn lại cho bên bảo lãnh. Do đó, pháp luật quy định việc thù lao chỉ thực hiện khi bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh có thỏa thuận cụ thể.
4. Bảo lãnh trong trường hợp nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ
Thông thường, với một nghĩa vụ chỉ cần một người bảo lãnh để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ đó. Tuy nhiên, trong một số trường hợp như một người chỉ bảo lãnh cho một phần nghĩa vụ hay một người bảo lãnh toàn bộ nhưng không đủ khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi phát sinh. Do đó, pháp luật đã quy định về việc cho phép nhiều người cùng bảo lãnh cho một nghĩa vụ. cụ thể, tại Điều 338 BLDS 2015 như sau:
“Khi nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ thì phải liên đới thực hiện việc bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định bảo lãnh theo các phần độc lập; bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người bảo lãnh liên đới phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ.
Khi một người trong số những người bảo lãnh liên đới đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh thì có quyền yêu cầu những người bảo lãnh còn lại phải thực hiện phần nghĩa vụ của họ đối với mình.”
Theo như quy định trên, khi nhiều người cùng bảo lãnh cho một nghĩa vụ, nếu giữa họ không có thỏa thuận riêng với nhau về việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh riêng lẻ hoặc không thuộc trường hợp pháp luật quy định việc bảo lãnh theo các phần độc lập thì họ phải liên đới thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Khi đó, bên nhận bảo lãnh có thể yêu cầu bất cứ ai trong số họ thực hiện toàn bộ nghĩa vụ bảo lãnh trước. Vì trách nhiệm giữa những người bảo lãnh liên đới nhau thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, nên khi một người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đó, thì những người còn lại phại thực hiện phần nghĩa vụ bảo lãnh của mình với người đó. Và người đó cũng có quyền yêu cầu những người kia thực hiện phần nghĩa vụ của họ với mình.
5. Quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh
Pháp luật quy định về quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh tại Điều 339 BLDS 2015. Trước hết, về quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của bên nhận bảo lãnh:
“1. Trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ.”
Theo đó, nghĩa vụ bảo lãnh sẽ phát sinh khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình. Khi đó, nếu giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh không có thỏa thuận về việc thực hiện nghĩa vụ thay khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình, thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đó. Nếu giữa hai bên có thỏa thuận với nhau, thì bên nhận bảo lãnh chỉ được yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ nếu chứng minh được rằng, bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ đó nữa.
Tuy nhiên, việc yêu cầu chỉ được thực hiện khi nghĩa vụ phải thực hiện đã đến hạn. BLDS 2015 quy định:
“2. Bên nhận bảo lãnh không được yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh khi nghĩa vụ chưa đến hạn.”
Thời hạn thực hiện nghĩa vụ giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh do hai bên tự thỏa thuận hoặc theo pháp luật quy định. Mà như đã trình bày, thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo đảm khi bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ. Mà nghĩa vụ được coi là vi phạm khi đến hạn thực hiện mà bên có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ. Do vậy, khi đến chưa hạn thực hiện nghĩa vụ, bên nhận bảo lãnh không có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh.
Khi nghĩa vụ bảo lãnh phát sinh thì bên bảo lãnh có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh. Nhưng nếu giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh có phát sinh quan hệ nghĩa vụ khác với nhau thì căn cứ vào quy định tại Khoản 3 Điều 339 BLDS 2015: “3. Bên bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp bên nhận bảo lãnh có thể bù trừ nghĩa vụ với bên được bảo lãnh.”
Theo đó, bên nhận bảo lãnh phải là bên có nghĩa vụ còn bên bảo lãnh là bên có quyền trong quan hệ nghĩa vụ có thể bù trù. Bên cạnh đó, quan hệ nghĩa vụ đó phải thỏa mãn điều kiện đó là: cả hai nghĩa vụ cùng đến hạn; đối tượng của hai nghĩa vụ cùng loại; nghĩa vụ không có tranh chấp; và nghĩa vụ không thuộc trường hợp không được bù trừ. Lúc này, bên bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh. Tuy nhiên, việc bù trù này không được tính cho bên được bảo lãnh.
6. Quyền yêu cầu của bên bảo lãnh
Trong quan hệ bảo lãnh, bên bảo lãnh chỉ đứng ra cam kết thực hiện thay nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh trước bên nhận bảo lãnh. Điều này không có nghĩa, khi bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, thì bên được bảo lãnh được miễn thực hiện nghĩa vụ của mình. Ở đây, khi bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh, thì giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh sẽ phát sinh nghĩa vụ hoàn trả. Do đó, Điều 340 BLDS 2015 quy định:
“Bên bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh đã thực hiện, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Với nghĩa vụ hoàn trả phát sinh, thì bên bảo lãnh sẽ có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình và trong phạm vi mà bên bảo lãnh đã thực hiện thay cho bên được bảo lãnh trước bên nhận bảo lãnh. Tuy nhiên, nếu bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh có thỏa thuận riêng khác thì quyền được yêu cầu tùy thuộc vào thỏa thuận của các bên.
7. Miễn việc thực hiện nghĩa vụ dân sự
– Bên nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho bên bảo lãnh:
Khi bên nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho bên bảo lãnh, thì bên cạnh bên bảo lãnh được miễn việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trước bên nhận bảo lãnh, mà nghĩa vụ của bên được bảo lãnh trước bên nhận bảo lãnh cũng được miễn[7]. Việc được miễn này có thể được hiểu như sau: khi bên được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ thì nghĩa vụ được chuyển giao cho bên bảo lãnh thực hiện, lúc này bên được bảo lãnh hay bên có nghĩa vụ chấm dứt tư cách chủ thể vì vậy không phải thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, nếu các bên có thỏa thuận khác thì bên được bảo lãnh vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ.
– Bên nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện phân nghĩa vụ cho một người trong trường hợp nhiều người cùng bảo lãnh [8]: Đối với trường hợp này chỉ một người trong số nhiều người cùng bảo lãnh liên đới việc thực hiện phần nghĩa vụ bảo lãnh của mình thì những người khác vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của họ. Vì nghĩa vụ của những người bảo lãnh liên đới không phân chia theo phần độc lập, nên những người bảo lãnh còn lại phải thực hiện nghĩa vụ liên đới đối với toàn bộ nghĩa vụ.
– Bên bảo lãnh được miễn thực hiện phần nghĩa vụ bởi một trong số những người nhận bảo lãnh liên đới[9] : Khi bên bảo lãnh được một trong số những người nhận bảo lãnh liên đới miễn cho việc thực hiện nghĩa vụ với họ, thì quan hệ bảo lãnh chỉ chấm dứt giữa người bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh đã miễn cho họ. Do đó, nghĩa vụ giữa bên bảo lãnh với những người nhận bảo lãnh còn lại vẫn phát sinh và phải thực hiện.
8. Trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh
Căn cứ vào Điều 342 BLDS 2015, trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh được đặt ra như sau:
“1. Trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đó.
2.Trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm và bồi thường thiệt hại”.
Trước hết, như đã trình bày ở các phần trên, nghĩa vụ bảo lãnh phát sinh với bên bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ trước bên nhận bảo lãnh. Lúc này thì nghĩa vụ sẽ được chuyển sang cho bên bảo lãnh. Do đó, bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đó như đã cam kết.
Khi nghĩa vụ được chuyển giao cho bên bảo lãnh, lúc này, bên bảo lãnh giữ vai trò là bên có nghĩa vụ. Vì vậy, khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trước bên nhận bảo lãnh hay bên có quyền trong quan hệ dân sự mà bên bảo lãnh thực hiện không đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì bên có quyền có quyền yêu cầu thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm như trong hợp đồng đã giao kết và bồi thường thiệt hại đối với thiệt hại xảy ra nếu có.
9. Chấm dứt bảo lãnh
Căn cứ để chấm dứt quan hệ bảo lãnh quy định tại Điều 343 BLDS 2015 bao gồm:
“1. Nghĩa vụ được bảo lãnh chấm dứt.
2.Việc bảo lãnh được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác.
3.Bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
4.Theo thỏa thuận của các bên.”
Thứ nhất, Khi nghĩa vụ được bảo lãnh chấm dứt, thì đối tượng của bảo lãnh không còn nữa. Do đó, việc nghĩa vụ được bảo lãnh chấm dứt làm bảo lãnh chấm dứt cũng là điều đường nhiên vì thời hạn tồn tài bảo lãnh cũng là thời hạn tồn tại nghĩa vụ bảo đảm.
Thứ hai, việc bảo lãnh được hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác. Cả hai trường hợp đều làm bảo lãnh chấm dứt, nhưng mỗi trường hợp chấm dứt lại có sự khác biệt. Khi bảo lãnh bị hủy bỏ thì lúc này quan hệ nghĩa vụ giữa bên có nghĩa vụ và bên có quyền trở thành quan hệ nghĩa vụ không có biện pháp bảo đảm. Đối với việc thay thế bảo lãnh thì quan hệ nghĩa vụ vẫn được bảo đảm thực hiện những bằng một biện pháp bảo đảm khác theo thỏa thuận của các bên.
Thứ ba, bảo lãnh chấm dứt khi bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ. Ở đây có thể hiểu việc chấm dứt như sau: một là, bên bảo lãnh đã tự nguyện thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh; hai là, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cưởng chế bên bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh. Cả hai trường hợp trên thì nghĩa vụ bảo lãnh đã được thực hiện xong, do đó, việc bảo lãnh chấm dứt cũng là đương nhiên.
Cuối cùng, bảo lãnh chấm dứt do sự thỏa thuận của các bên: pháp luật dân sự luôn tôn trọng sự thỏa thuận của các bên. Do đó, khi xác lập bảo lãnh cũng dựa trên cơ sở thỏa thuận, tự nguyện của các bên. Cho nên, việc thỏa thuận chấm dứt bảo lãnh của các bên cũng được pháp luật thừa nhận ( trừ trường hợp pháp luật không cho phép thỏa thuận chấm dứt việc bảo lãnh).
III.THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO LÃNH
1.Một số vụ việc phát sinh trong thực tiễn
Bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm được áp dụng để đảm bảo cho các chủ thể tham gia vào quan hệ dân sự trên tất cả các lĩnh vực. Với sự thay đổi của pháp luật theo BLDS 2015, quy định của bảo lãnh càng hoàn thiện hơn, số lượng bảo lãnh ngày càng gia tăng, đặc biệt đối với hoạt động bảo lãnh đối với các hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên, cũng từ thực tiễn cho thấy, việc áp dụng biện pháp bảo lãnh vẫn còn những hạn chế cần hoàn thiện về pháp luật như sau:
Thứ nhất, Nội hàm của một số cụm từ trong quan hệ bảo lãnh chưa được giải thích cụ thể, rõ ràng trong các văn bản quy phạm pháp luật nên dẫn đến cách hiểu, áp dụng thiếu thống nhất, đồng bộ.
Vụ việc: Ngân hàng X có phát hành chứng thư bảo lãnh cho Ngân hàng Y nhằm đảm bảo cho nghĩa vụ tài chính của Công ty TT (sau đây gọi là công ty TT) tại Ngân hàng Y theo Hợp đồng số 221 ngày 22/1/2017 (sau đây gọi là hợp đồng số 221) giữa Công ty TT và Tổng công ty QĐ – Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh. Trong chứng thư có nêu Ngân hàng X “cam kết chi trả vô điều kiện” cho Ngân hàng Y ngay khi nhận được văn bản yêu cầu thanh toán nếu Công ty TT không thực hiện nghĩa vụ tài chính phát sinh tại Ngân hàng Y theo Hợp đồng đại lý số 221. Tuy nhiên, Ngân hàng X “nghi ngờ” Công ty TT không phát sinh nghĩa vụ trên thực tế đối với Ngân hàng Y. Trong trường hợp này, Ngân hàng X phải thực hiện nghĩa vụ tài chính ngay khi Ngân hàng Y – yêu cầu hay ngược lại Ngân hàng X có quyền yêu cầu Ngân hàng Y phải xuất trình được các chứng từ chứng minh nghĩa vụ của Công ty TT đã phát sinh và chỉ thực hiện nghĩa vụ tài chính sau khi Ngân hàng Y xuất trình các chứng từ này.
Ví dụ nêu trên cho thấy, một trong các nguyên nhân chính dẫn đến tranh chấp là do các bên trong quan hệ bảo lãnh đã có cách hiểu khác nhau về nội hàm của cụm từ “cam kết chi trả vô điều kiện” . Yêu cầu đặt ra là nếu thỏa thuận như vậy thì Ngân hàng X có được quyền yêu cầu Ngân hàng Y xuất trình các tài liệu chứng minh không? Việc yêu cầu xuất trình các tài liệu chứng minh trước khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh có vi phạm thỏa thuận không? Theo em, căn cứ quy định tại Điều 339 BLDS 2015 quy định cho bên nhận bảo lãnh tức Ngân hàng Y được quyền yêu cầu Ngân hàng X thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho Công ty TT. Như vậy, với việc được quyền yêu cầu như trên, thì Ngân hàng Y cũng phải chứng minh cho quyền yêu cầu của mình là hợp pháp. Do đó, việc yêu cầu xuất trình giấy tờ chứng minh của Ngân hàng X là hợp và xuất trình giấy tờ chứng minh trước cũng không được coi là vi phạm thỏa thuận.
Tuy nhiên, theo như vụ việc trên nếu không được quy định cụ thể, rõ ràng thì sẽ tiếp tục dẫn đến cách hiểu và áp dụng pháp luật thiếu thống nhất giữa các bên trong quan hệ bảo lãnh.
Thứ hai, Nhận diện chưa chính xác bản chất pháp lý của quan hệ bảo lãnh và quan hệ thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác (bên thế chấp và bên vay là 02 chủ thể độc lập) khi giải quyết tranh chấp.
Vụ việc: anh A vay của B 200 triệu, anh C thế chấp cho B quyền sử dụng đất của mình để đảm bào cho việc trả nợ của anh B. A không trả được nợ. B đòi xử lý tài sản của C nhưng C không đồng ý.( các hợp đồng được công chứng và đăng kí đầy đủ).
Với vụ việc trên, thì hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất vô hiệu vì:
Căn cứ vào Điều 117 BLDS 2015 quy định về thế chấp như sau:
“Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp).”
Do vậy, chủ sở hữu tài sản có thể dùng tài sản để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của chính mình (bên thế chấp đồng thời là bên có nghĩa vụ) hoặc để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của người khác (bên thế chấp và bên có nghĩa vụ là 02 chủ thể khác nhau).
Trong khi đó, theo quy định tại Điều 335 BLDS 2015 về bảo lãnh như sau:
“Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.”
Vì vậy, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người thứ ba bị tuyên vô hiệu là do có sự nhầm lẫn về hình thức hợp đồng, cụ thể là hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của C để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của A thực chất phải là quan hệ bảo lãnh. Do đó, các bên B và C phải ký kết hợp đồng bảo lãnh, chứ không phải hợp đồng thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cho A.
Việc các bên ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người thứ ba là không đúng với tính chất của giao dịch dân sự có biện pháp bảo đảm bằng hình thức bảo lãnh, không đúng với quy định của Bộ luật Dân sự 2015 về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự (Điều 117), hình thức giao dịch dân sự (Điều 119), và quy định về bảo lạnh tại Điều 335.
Bên cạnh đó, theo quy định của BLDS 2015, hiện nay đã có quy định về việc bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Do đó, với vụ việc trên, bên cạnh hợp đồng bảo lãnh, các bên có thể kí với nhau hợp đồng thế chấp nhưng là để đảm bảo cho nghĩa vụ bảo lãnh của C với B chứ không phải hợp đồng thế chấp để đảm bảo cho nghĩa vụ của A.
Tuy nhiên, trên thực tế việc nhận diện chưa chính xác bản chất pháp lý của quan hệ bảo lãnh và quan hệ thế chấp vẫn xảy ra rất phổ biến.
2. Một số kiến nghị đề xuất
Từ thực tiễn thi hành và trên cơ sở pháp luật hiện hành, để hoàn thiện hơn pháp luật về bảo lãnh, em xin đưa ra một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất, tiếp tục quy định về các vấn đề liên quan đến bên bảo lãnh, ví dụ như: Quy định về việc bên bảo lãnh phải viết rõ giá trị tiền cam kết bảo lãnh bằng số và bằng chữ; quy định về việc bên nhận bảo lãnh có nghĩa vụ phải thông tin đối với bên bảo lãnh (tư vấn hoặc cảnh báo) về giá trị của nghĩa vụ bảo lãnh, khả năng tài chính của bên được bảo lãnh; quy định cụ thể về một số từ ngữ thường sử dụng trong hợp đồng bảo lãnh (ví dụ: Chi trả vô điều kiện; không có khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh)…
Thứ hai, quy định cụ thể trường hợp bên nhận bảo lãnh phải yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản của mình trước; nếu bên được bảo lãnh không có tài sản thì bên nhận bảo lãnh mới có quyền yêu cầu bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Điều này là cần thiết nhằm “phòng ngừa” khả năng bên bảo lãnh chối bỏ trách nhiệm của mình, vì thực tế cho thấy trong nhiều trường hợp bên bảo lãnh xác định mình là người có nghĩa vụ thứ hai và “chỉ” thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi người có nghĩa vụ chính (bên được bảo lãnh) không có khả năng thực hiện.
Thứ ba, quy định việc bên bảo lãnh có quyền viện dẫn tất cả những vi phạm về hình thức và nội dung mà bên được bảo lãnh có thể viện dẫn để không phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh, vì đây là một yếu tố mấu chốt, thể hiện tính phụ thuộc của biện pháp bảo lãnh đối với nghĩa vụ được bảo lãnh. Bộ luật Dân sự chỉ đề cập đến tình huống pháp lý là người bảo lãnh được viện dẫn việc bù trừ nghĩa vụ, trong khi trên thực tế vẫn còn các trường hợp khác như: có sự nhầm lẫn hoặc nghĩa vụ thanh toán khoản nợ được bảo lãnh không có hiệu lực…
Thứ tư, quy định về điều kiện đối với bên bảo lãnh, vì khả năng bên bảo lãnh thực hiện đầy đủ, đúng cam kết bảo lãnh là vấn đề đặc biệt quan trọng khi áp dụng biện pháp bảo lãnh. Do vậy, không phải ngẫu nhiên mà pháp luật một số nước (ví dụ: Cộng hòa Pháp, Nhật Bản) quy định khả năng thanh toán nợ là một trong các điều kiện bắt buộc của bên bảo lãnh.
Thứ năm, quy định cụ thể, rõ ràng về phạm vi trách nhiệm và cách thức xử lý trách nhiệm về tài sản đối với các bên trong trường hợp bảo lãnh (khoản 1 Điều 336 BLDS năm 2015) và trường hợp có thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (khoản 3 Điều 336 BLDS năm 2015). Hợp đồng bảo lãnh được các tổ chức tín dụng lựa chọn, áp dụng với nội dung thỏa thuận ngày càng phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố có thể dẫn đến tranh chấp trong quá trình thực hiện.[10]
Với sự ra đời của BLDS 2015 với những thay đổi, sửa đổi, bổ sung đã cho thấy những phù hợp, tiến bộ hơn về mặt tư duy cũng như nhận thức về pháp luật trong tất cả các vấn đề liên quan đến dân sự. Trong đó, bảo lãnh cũng là chế định đã có những hoàn thiện cơ bản và phù hợp hơn. Tuy nhiên, từ thực tiễn thi thành cho thấy, vẫn còn những khúc mắc trong các quy định gây nhầm lẫn, khó khăn áp dụng cho chủ thể giao kết. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện chế định bảo lãnh trên cơ sở quy định “nền” của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015 có ý nghĩa thực tiễn, góp phần phát huy vai trò, giá trị của biện pháp bảo lãnh trong giao lưu dân sự, kinh doanh, thương mại.
[1] Xem Điều 292 Bộ luật Dân sự 2015
[2]Xem Điều 335 Bộ Luật Dân sự 2015
[3] Xem Khoản 3 Điều 336 BLDS 2015
[4] Xem Điều 338 BLDS 2015
[5] Trang 158 Hoàn thiện chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
[6] Xem Khoản 2 Điều 335 BLDS 2015
[7] Xem Khoản 1 Điều 341 BLDS 2015
[8] Xem Khoản 2 Điều 341 BLDS 2015
[9]Xem Khoản 3 ĐIều 341 BLDS 2015
[10] Theo dõi thi hành các quy định về bảo lãnh, kiến nghị và đề xuất việc hoàn thiện pháp luật
Tham khảo thêm:
- Phân tích nguyên tắc tham vấn người khuyết tật và việc cụ thể hóa trong pháp luật người khuyết tật ở Việt Nam
- Xác định chế độ hưởng của người khuyết tật dưới 6 tuổi
- Phân tích các cơ sở khi quy định các điều kiện chi ngân sách nhà nước theo Luật ngân sách nhà nước 2015 , thực trạng áp dụng các điều kiện chi ngân sách nhà nước từ năm 2015 và ý kiến pháp lý của nhóm về tính khả thi theo luật ngân sách nhà nước 2015
- Phân tích và bình luận các quy định về các trường hợp miễn trừ trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại
- Phân tích Điều 25 của CISG – Bình luận về thực tiễn giải quyết các tranh chấp liên quan tới điều khoản này
- Bình luận những quy định của pháp luật Việt Nam (Bộ luật Dân sự 2005 và Bộ luật dân sự 2015) trong việc giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
- Phân tích, đánh giá những điểm mới của BLTTDS 2015 về Thẩm quyền của Tòa án
- Tìm hiểu việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia của Việt Nam trong giai đoạn cuối năm 2015 trở lại đây và đề xuất ý kiến pháp lý
- Các quy định trong bộ Luật Dân sự năm 2005 về bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân
- Chuyển nhượng dự án đầu tư có sử dụng đất của tổ chức kinh tế Việt Nam cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam